Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối
kết quả từ 9 tới 16 trên 18

Ðề tài: [TD] Angelic Và Tình Yêu - Serge Anne Golon

  1. #9
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default





    Chương 18



    Và giờ đây, xa lắm rồi tất cả những gì đã thuộc về quá khứ, tàu Gunxbôrô bỗng gom họ lại, và kéo lê họ, cả hai người, trong đêm đen mờ mịt. Và giờ đây ông không còn là Rescartor, tên tướng cướp được tôi rèn bởi muối mặn các đại dương, bởi những cuộc phiêu lưu quyết liệt, những trận đánh, những thủ đoạn, những thù hận của con người đang đấu tranh để chiếm đoạt quyền lực, bởi sắt, lửa, vàng, bạc. Còn Angielic đã trở thành người đàn bà hoàn toàn khác với người đàn bà đã từng làm ông đau khổ. Liệu ông có lại rơi vào cái bẫy ngày xưa của những nỗi khổ đau và tiếc hận mà ông đã nghĩ mình đã thoát khỏi rồi không?
    Ông đến gần chiếc hòm, mở ra, lần lượt cởi các lớp vỏ bọc bằng dạ và bằng lụa, lấy ra một cây đàn ghi ta. Cây đàn mua ở Crêmôn, vào cái thời ông còn hi vọng tìm lại được giọng hát, mãi cho đến bây giờ cũng như ông, vẫn thường câm lặng. Cũng có một đôi lúc ông cầm đàn, thử chơi để chiều lòng bè bạn ghé thăm. Nhưng nhạc đệm mà không có giọng ca điều đó làm ông thất vọng. Tuy thế ông vẫn còn giữ được sự điêu luyện ngày xưa. Ông chơi với một phong cách khá tự nhiên, tiếng đàn mê say mà nhẹ nhàng thanh thoát. Nhưng rồi đến một lúc nào đó, bị tiếng nhạc của chính mình cuốn đi, ông cảm thấy không khí bị căng đấy lồng ngực và đôi cánh thơ mộng của nó như nâng bổng mình lên.
    Đột nhiên, dường như bị thúc đẩy bởi một linh cảm, ông bước qua căn buồng, mở cánh cửa thông ra hành lang.
    Nàng đang đứng đó, với khuôn mặt trắng nổi rõ trong bóng đêm và tấm áo choàng đen uy nghi, nom như cái bóng của một người đàn bà nào khác.
    Sự oán giận làm ông quên hết cả lịch sự đối với đàn bà.
    - Bà làm gì ở đây? Bà phải tôn trọng phép tắc của tàu chứ? Đã có quy định là hành khách chỉ được ở trên boong vào một số giờ nào đấy mà thôi. Không có chuyện bà muốn đi đứng thế nào cũng được. Bà lấy quyền đâu ra thế?
    Kinh ngạc trước những lời quở mắng, Angielic cắn chặt môi. Vừa nãy khi đến gần căn phòng của chồng mình, nàng cảm thấy bối rối khi nghe tiếng đàn ghi ta. Nhưng có một mối bận tâm khác đã thúc đẩy nàng đi tới.
    Nàng cố nén mình lại và nói:
    - Thưa ông, có những lý do nghiêm chỉnh buộc tôi phải không tôn trọng phép tắc của tàu. Tôi đến tìm Apđula, người giúp việc của ông. Anh ta có ở chỗ ông không?
    - Apđula à! Tại sao thế?
    Ông quay lại đưa mắt sục tìm cái bóng của gã Mo thường vẫn ở đó nhưng không thấy.
    Nàng thấy ông ta tỏ rõ ngạc nhiên và đầy vẻ lo lắng.
    - Anh ta có ở đây không?
    - Không…Tại sao? Có chuyện gì xảy ra thế?
    - Có một cô gái vừa biến mất…và tôi sợ rằng cô ta …vì gã Mo ấy.




    Chương 19



    Xêvêrin và Rasen lần đến chỗ Angielic.
    - Cô Angielic, Bécti không có ở đấy nữa.
    Nàng không hiểu các cô bé này muốn đưa mình đi tới đâu. Rasen liền kể lại rằng lúc mọi người phải trở về chỗ giàn pháo trong khoang boong, Bécti đã ở lại ngoài boong.
    - Vì sao vậy?
    - Ồ! Nó đang hơi điên mà cô – Rasen nói – Nó nói rằng nó đã ngán cảnh chen chúc trong chuồng lắm rồi, nó muốn được ngồi một mình. Ở La Roossen nó có cả một căn buồng hoàn toàn riêng biệt – cô con gái lớn nhà Care nói them với vẻ rất thích thú, nói thế là cô hiểu…
    - Nhưng chị ấy đã ở ngoài đó hơn hai tiếng đồng hồ rồi mà không trở về - Xêvêrin nhấn mạnh với vẻ hãi hung. Có thể một con sóng đã cuốn chị ấy đi?
    Angielic đứng dậy đi tìm bà Mécxơlô đang cùng với hai người bên cạnh ngồi đan trong cái góc của họ. Bà này tỏ ra hết sức kinh ngạc. Bà vẫn nghĩ rằng Bécti ở chỗ đám bạn bè của nó. Ngay lúc ấy mọi người được báo động và rõ ràng là cô gái không có trong khoang boong.
    Ông Mécxơlô hùng hổ lao ra ngoài. Trong mấy ngày vừa qua, Bécti tỏ ra không được ý tứ cho lắm. Ông vẫn thường lấy những bài học xương máu của mình để dạy rằng: đã là con gái nhất thiết phải biết vâng lời cha mẹ, dù ở đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Chỉ một lát sau ông ta quay lại, đầy vẻ lo lắng. Không tìm thấy cô gái. Không nhìn thấy gì trên con tàu đáng nguyền rủa này, và đám thủy thủ thì vẫn đứng nhìn ông ta với vẻ ngây dại như từ trước đến nay, mỗi lần ông ta đến gần họ.
    - Bà Angielic, xin bà hãy giúp tôi. Bà biết tiếng những người ấy. Phải nhờ họ đi tìm. Bécti có thể bị sóng cuốn đi, hay bị ngã gãy chân tay ở một nơi nào đó.
    - Sóng cao lắm – luật sư Care nói – con bé có thể bị sóng cuốn đi như bé Ônôrin hôm nọ.
    - Lạy chúa tôi! – Bà Mécxơlô thì thào và quỳ thụp xuống.
    Mọi người đều bị kích động. Khuôn mặt họ trở nên nhợt nhạt và vàng ệch ra dưới ánh đèn. Đây là tuần lễ thứ hai của cuộc hành trình. Trong tình thế đầy khó khăn, khi mà sự chống đỡ tinh thần của họ đã suy giảm, bất cứ việc gì xảy ra với ai đó đều làm sự yên tĩnh của tất cả mọi người bị phá vỡ.
    Angielic chẳng thấy hào hứng gì với việc đi theo ông Mécxơlô lên boong. Bécti, tính khí thất thường như tất cả mọi cô gái cùng lứa tuổi, chắc đang bị cuốn vào làn sóng mơ mộng, ở một góc tối nào đó, không hề nghĩ gì đến việc mọi người đang cuống quít lên vì cô ta. Nỗi khát khao được gọi là cô đơn của cô ta, thực ra, cũng không có gì là khó hiểu. Ai mà chẳng đã từng trải qua. Tuy thế, Angielic vẫn cảm thấy mình có trách nhiệm. Nàng quay đầu lại nhờ Abighen trông nom Ônôrin trong khi mình vắng mặt.
    Nàng đuổi kịp Mécxơlô, Béc nơ, Manigô và trông thấy họ đang cãi nhau với lão gù. Lão này bắt họ phải quay trở vào chỗ ở. Chẳng giải thích gì cả, lão vừa hiệu vừa tóm lấy cánh tay đẩy họ vào.
    - Đừng có động đến tao, tên cướp kia – Manigô hét lên – khéo không tao cho mày ngủm luôn đấy.
    Lại một lần nữa anh chàng Canađa Nicôla Perốt đứng ra dàn hòa, chặn được cảnh đổ máu có thể xảy ra Angielic cũng được kéo vào cuộc. Nàng dịch lời họ cho gã gù xấu thói Ericxon nghe, nhưng gã vẫn cứ nhất mực ra lệnh. Khi đêm xuống, không một người, khách nào được ở trên boong. Gã nói thế và lắc đầu một cách bối rối khi được biết có một người khách mất tích.
    Thỉnh thoảng Mécxơlô lại đưa hai bàn tay bụm lại làm loa gọi: “Bécti, con ở đâu đấy”. Không một lời đáp lại, ngoài tiếng gió và tiếng động thường xuyên của con tàu đang đung đưa trên những ngọn sóng đen ngòm.
    Tiếng gọi của ông thợ làm giấy như nghẹn lại.
    Cuối cùng, Ericxon cho phép ông được ở lại. Những người khác, theo lời gã phải trở vào khoang boong và người ta sẽ dùng các vật cản để chặn họ lại trong đó, không nhân nhượng gì cả.
    Angielic vẫn đứng cạnh
    - Tôi sợ - anh ta nói nhỏ với nàng. Tôi thú thật với bà là tôi sợ biển ít hơn sợ người đấy. Biết đâu có một người trong đám thủy thủ phát hiện ra cô gái đứng một mình, đã chả tìm cách kéo cô ta đi?
    Anh chàng Canađa nói chuyện với tay thủy thủ trưởng bằng tiếng Anh. Gã lầu bầu, nhưng sau một lúc núng na núng nính trông đến buồn cười, gã vừa bỏ đi vừa nói với qua vai.
    - Gã nói rằng gã đi gọi các thủy thủ, kể cả những người đang ở trong lầu cột buồm và những người đã đi nghỉ. Trong lúc đó chúng ta đi sục sạo trên boong.
    Để làm được việc đó, anh ta phải kiếm cho họ mỗi người một chiếc đèn. Họ xem đến từng đống thừng chão nhỏ nhất. Nicôla Perốt thậm chí còn chui cả vào bên trong chiếc sà lúp và chiếc thuyền caích dự phòng,.
    Họ đi đến trước chỗ của đoàn thủy thủ, nơi gã gù đang gọi.
    - Tất cả mọi người đều có mặt tại chỗ - gã nói với họ - không thiếu một ai.
    Những người thủy thủ đang ăn bữa tối trong ánh sáng đèn dầu mờ nhạt vì khói tỏa ra từ các chiếc tẩu tự làm lấy. Tất cả bị bao trùm trong một thứ mùi gắt nồng của thuốc lá và rượu. Nhìn thấy những khuôn mặt dày dạn, với những đôi mắt tối tăm, long lên sòng sọc quay nhìn mình, ông Mécxơlô nhận ra rằng không chỉ có biển là nguy hiểm đối với Bécti “Bà có nghĩ rằng một người nào đó trong số những người kia có thể đã làm hại con gái tôi không? “Ông ta thì thào, mặt cũng trắng bệch ra không khác gì cái cổ áo.
    - Không thể được, vì họ đều có mặt.
    Nhưng đã trót nói ra rồi, ông thợ làm giấy đành phải để cho trí tưởng tượng của mình đi tiếp.
    - Có mặt thì cũng không chứng tỏ được gì cả. Sau khi làm xong tội ác, chúng có thể bóp cổ con bé và vứt xuống biển để phi tang…
    Trong lúc nói,mồ hôi vã ra ướt cả hai bên thái dương ông ta.
    - Tôi xin ông – nàng nói với ông ta một cách khẩn khoản – đừng có tự mình lấy búa đập vào đầu mình như thế. Ericxon đang đề nghị mọi người sục tìm khắp mọi ngõ ngách của con tàu.
    Đột nhiên như có một ánh chớp khiến nàng nghĩ ngay đến gã người Mo Apđula.
    Bị thúc đẩy bởi ý nghĩ là mình đoán đúng, Angielic lao vội lên tầng thượng.
    Gã người Mo không đứng chầu trước cửa buồng ông chủ như lâu nay gã vẫn làm thế. Angielic đứng im, nghe như tự đáy sâu của con người mình đang cất lên lời van vỉ: “Lạy Chúa tôi, làm sao cho điều đó đừng xảy ra. Nếu không sẽ vô cùng khủng khiếp đối với tất cả mọi người.”
    Sau cửa kính bật lên tiếng đàn ghi ta. Rồi Giôphrây đờ Perắc xuất hiện trước mặt nàng, cứng cỏi và tàn nhẫn.
    Quả là kỳ cục, khi nói với ông về Apđula, nàng ngỡ rằng mình sẽ được chứng kiến một cơn thịnh nộ đùng đùng.
    Nhưng ngược lại, ông tỏ ra đã lấy lại được sự bình tĩnh thường ngày. Chỉ trong khoảnh khắc ông trở lại là người chủ tàu chăm chút và cẩn trọng.
    Ông nhìn vào nơi Apđula vẫn thường đứng và đã bao nhiêu năm nay, gã đầy tớ người Mo không bao giờ đi khỏi nơi đó mà không có lệnh. Hai nét lông mày của ông cau lại với vẻ lo lằng và ông nói.
    - Tai hại thật, tôi sẽ phải để mắt đến thằng này mới được. Nào đi, nhanh lên.

    Ông quay trở lại buồng mình để lấy một cây đèn lớn.
    Sau khi đã tìm kiếm khắp trên boong, Giôphrây đờ Perắc tự mình mở chốt một cái cửa hầm. Ông chui vào để vịn cầu thang và bắt đầu đi xuống, chỉ dùng một bàn tay để vịn cầu thang, vì tay kia phải cầm đèn. Đầu óc quá căng thẳng, Angielic tụt xuống theo, không còn để ý gì đến cái cầu thang quá dốc. Tiếp đó là Nicôla Perốt rồi đến ông Mécxơlô.
    Họ tiếp tục đi xuống mãi. Chưa bao giờ Angielic nghĩ là con tàu lại có thể sâu đến thế này. Một thứ mùi mặn và ẩm làm nghẹt cả cổ họng.
    Cuối cùng họ dừng chân lại trước một lối đi hẹp. Giôphrây đờ Perắc đặt tay lên bóng đèn để che bớt ánh sáng. Ngay lúc đó, Angielic nhận ra ở phía xa, tận cuối hành lang, một quầng sáng khác, mờ đục và đỏ như có ai thắp một ngọn đèn phía sau tấm màn đỏ.
    - Có phải cậu ta ở đó không? - Nicôla Perốt thì thầm, Giôphrây đờ Perắc làm một dấu hiệu xác nhận. Ông Mécxơlô lúc đó đang bị kẹt trên bậc cuối cùng của cầu thang, bị che khuất bởi cái bóng lặng lẽ và hiền từ của gã Anhđiêng vừa đến đứng ngay phía sau ông chủ.
    Bá tước trao cây đèn cho anh chàng Canađa, ra hiệu bảo anh ta soi đường cho ông thợ làm giấy đi xuống.
    Rồi ông tiến sâu vào hàng lang bằng những bước chân của con chó sói. Ông bước nhanh nhưng không hề nghe một tiếng động khẽ. Trong cái im lặng chen lẫn với những tiếng động trần tụi, hầu như xa xăm của biển, tai Angielic còn nhận được những âm thanh khác lạ lùng và đơn điệu. Không, nàng không mơ khi bước đến gần hơn, tiếng rì rầm nghe rất rõ, tới mức có những âm vang dội đi dội lại trong hành lang hẹp, mờ tối và nhầy nhụa.
    Tiếng rì rầm ấy trở nên mạnh bạo như một lời cầu khẩn, lịm đi và kéo dài, biến thành một nỗi đau đớn êm dịu và đầy đe dọa, gợi Angielic nhớ lại những tiếng gầm gừ trong đêm tối của loại dã thú hứng tình hồi ở Rip.
    Nghĩ đến đó, tóc nàng dựng ngược cả lên và trong một cử chỉ vô thức nàng bíu tay vào cánh tay chồng.
    Perắc đặt tay lên tấm màn đỏ rách tả tơi và kéo nó ra.
    Cảnh tượng bày ra trước mặt họ nom thật hãi hùng. Nhưng cùng lúc đó, dường như có một vẻ đẹp khác thường khiến Giôphrây đờ Perắc đứng lặng đi trong khoảnh khắc, vì ngại ngùng chưa muốn can thiệp.
    Cái hũm nằm tận đáy tàu, vốn là kho lương thực, được chiếu sáng bởi thứ ánh sáng mờ xỉn của một chiếc đèn treo cũ kỹ, đó chính là hang ổ của gã Mo. Được chất đống ở đây bao nhiêu là báu vật, chiến lợi phẩm của của những năm dài vùng vẫy trên biển cả. Những chiếc rương bằng dạ chứa hàng ngàn các sản phẩm mỹ nghệ, những thảm, đệm bọc lụa, những bình cốc cỡ lớn bằng thủy tinh đủ các màu xanh, đỏ, đen, những chiếc đĩa sứ, những bức thảm thêu cổ xưa. Từ một chiếc túi da dê tràn ra trên sàn tàu nhiều đồ nữ trang bằng vàng và các viên đá quý. Những bó sợi gai một phần đã bị mủn vì ẩm ướt trên thành cùng với những chiếc ống điếu lấp lánh màu đồng. Một thứ mùi xạ hương nồng nặc đến mức dường như không chịu nổi hòa trộn với thứ mùi mát dịu của bạc hà và mùi muối mặn của biển thấm vào.
    Và giữa tất cả những thứ xa hoa bừa bộn ấy, Bécti nằm ngất xỉu.
    Mái tóc vàng của cô gái xõa tung trên thảm lẫn với các thứ đồ nữ trang rơi vãi. Đôi cánh tay buông xuôi như hai đoạn thân cây trắng thõng thượt. Gã Mo không cởi hết quần áo của cô ta, chỉ hai ống chân là trần truồng. Hai ống chân toát lên vẻ xanh xao, trắng muốt mịn màng và mảnh dẻ, như thể chỉ là hai ống chân của một con người trong mộng, một nữ thần trong trắng được tạo nên bởi bàn tay Thượng đế.
    Cúi mình trên tấm thân mỏng mảnh ấy, gã người Mo vừa tụng kinh vùa thở hổn hển.
    Thân mình gã, toàn thân trần truồng, trông chỉ còn là một pho tượng đồng tuyệt đẹp, đang không ngừng run rẩy và co giật. Giữa hai cánh tay rắn chắc mà gã dùng để chống đỡ cả thân mình lên, đung đưa một chiếc túi da nhỏ đeo ở cổ, trong đó đựng các thứ bùa phép của gã. Giống như hai cây cột đèn vô địch, đôi cánh tay chặt con mồi vồ được
    Nom gã trở nên khổng lồ kỳ quái, tất cả các bắp thịt đều gồng lên bởi sức mạnh nhục cảm có trong người. Suốt chiều dài tấm lưng và hai bên sườn đều đầm đìa mồ hôi, cứ mỗi lần gã cử động là các cơ bắp cuồn cuộn nổi lên như những con rắn vàng. Trên đôi môi hé mở của gã, tiếng niệm thần chú phát ra càng nhanh, càng dai dẳng và thắt giật như động kinh.
    - Apđula!
    Tiếng hát ma quái bị cắt đứt ngay lập tức.
    Giọng nói trầm vang của ông chủ đã kéo gã người điên ra khỏi trạng thái đê mê.
    - Apđula!
    Gã Mo run bắn như thân cây bị nhát rìu bập trúng. Và đột nhiên cùng với một tiếng gầm, gã đứng thẳng dậy, lùi về phía sau, đôi mắt sáng rực, miệng sùi bọt. Tay gã vồ lấy một thanh mã tấu treo trên vách.
    Angielic hét lên. Lưỡi mác bay vút qua đầu Perắc có hai ngón tay. Ông cúi nhanh xuống kịp. Lần thứ hai, lưỡi dao thần chết suýt chạm vào ông, nhưng ông vẫn tránh kịp và ôm chặt được ngang lưng gã điên khùng. Ông dùng tiếng Ả rập nói với gã, cố đưa gã trở về với lẽ phải. Nhưng gã chống lại ông. Cáu tiết vì bị tước mất niềm khoái lạc, gã khỏe lên một cách bất ngờ.
    Nicôla Perốt phải nhảy vào. Và đã có lúc trong căn buồng nhỏ hẹp diễn ra một cuộc vật lộn điên cuồng không phân thắng bại.
    Chỉ đến khi ngọn đèn bị va phải, nghiêng hẳn về một bên, dầu đổ xuống vai Apđalu và bắt lửa, gã mới rú lên một tiếng và gã trở lại với chính mình.
    Hết cơn mê đắm, gã rơi vào trạng thái của một con người bình thường, một kẻ tôi tớ có lỗi, gã đưa mắt nhìn quanh với vẻ hốt hoảng. Thân hình to lớn của gã run rẩy và rồi như chịu không nổi một sức ép từ bàn tay ông chủ, gã từ từ quỳ mọp xuống. Đột nhiên, gã cúi gập xuống, đến mức chạm trán vào sàn tàu, miệng thốt ra những tiếng thì thầm với vẻ buồn bã và cam chịu như trước kia.
    Angielic cúi xuốn với Bécti. Cô gái chỉ bị ngất đi vì quá sợ hãi, chứ không hề bị đánh đập. Có thể bị ngạt thở đôi chút vì gã Mo đã dùng bàn tay bịt miệng cô gái, không cho những tiếng kêu phát ra khi tên cướp hộ pháp này lôi con mồi xuống tận hầm tàu.
    Angielic vừa nâng cô gái dậy vừa lay nhẹ, đồng thời sửa sang lại đầu tóc, quần áo cho cô ta. Ông Mécxơlô sững sờ trước cảnh tượng vừa trông thấy.
    - Khủng khiếp quá! Nhục nhã quá! – Ông ta thét lên – Ôi, con tôi, trời ơi!
    Ông ta quỳ thụp xuống chân Bécti ôm chặt lấy con gái và gọi cô ta một cách tuyệt vọng. Sau đó ông ta đứng dậy, nhào tới gã Mo đã hoàn toàn suy sụp để đánh gã. Trông thấy thanh mã tấu, ông ta vồ lấy, may mà mọi người kịp nhìn thấy.
    Một lần nữa, sự cương quyết của Giôphrây đờ Perắc đã chặn được lưỡi dao tử thần. Cùng với Nicôla Perốt và gã Anhđiêng, ông phải vất vả lắm mới khống chế được người cha đang nổi điên lên.
    - Trời tru đất diệt cái ngày chúng ta đặt chân lên cái con tàu này – ông ta rít lên, cặp mắt nhìn nhớn nhác – Tôi sẽ giết cái thằng khốn khiếp kia bằng chính tay tôi, tôi thề như vậy.
    - Sau Chúa, tôi là người chủ duy nhất trên tàu – Rescartor trả lời gay gắt – chỉ tôi mới có quyền thi hành công lý.
    - Tôi sẽ giết cả ông – Mécxơlô nói, mặt ông ta tái đi. Bây giờ thì chúng tôi biết ông là ai rồi, một tên cướp, một kẻ đê tiện đầu cơ thịt người, không ngần ngại đem đàn bà, con gái chúng tôi làm phần thưởng cho quân lính của ông và rồi sẽ bán chúng tôi, các nhà đại thương gia La Roossen, như bán nô lệ, Nhưng chúng tôi sẽ chơi với ông…
    Trong không khí im lặng nặng nề, nghe rõ tiếng ông ta thở hổn hển. Giôphrây đờ Perắc vẫn đứng trước mặt Apđula ủ rũ và đang run lập cập. Một nụ cười kỳ quái làm méo mó nét mặt bình thường của ông và nom ông có cái gì đáng sợ.
    - Tôi hiểu xúc động của ông, ông Mécxơlô ạ - ông nói một cách bình tĩnh - tôi lấy làm tiếc về sự cố đó.
    - Chỉ đơn giản là sự cố thôi à! – ông thợ làm giấy nấc lên. Kẻ làm ô danh con gái tôi! Nỗi thống khổ mà một đứa trẻ bất hạnh phải…
    Ông ta so vai lại và úp mặt vào hai bàn tay, khóc nức nở.
    Ông Mécxơlô, tôi van ông – Angielic nói – Hãy nghe chúng tôi nói đã này. Nhờ trời chúng ta đã đến kịp. Rồi Bécti sẽ qua khỏi cơn sọ hãi. Và bài học vừa rồi xẽ giúp nó thận trọng hơn trong tương lai…
    Nhưng ông thợ làm giấy tỏ ra không nghe bất cứ điều gì. Và mọi người không ai dám bỏ ông ta, sợ rằng ông ta giận quá, ông ta có thể làm liều.
    Bécti đã tỉnh lại, tỏ ra khá bình tĩnh.
    - Bố! Bố! – Cô gào lên.
    Ông Mécxơlô liền đến đứng cạnh để con gái yên tâm.
    Việc Bécti trở lại khoang boong đã làm cho tất cả mọi người sôi sục và sợ hãi đến rụng rời.
    Được ông bố và gã Anhđiêng dìu đi, cô ta rên rỉ như sắp chết và chốc chốc lại rú lên những tiếng kêu cuồng loạn. Người ta đặt cô vào chỗ nằm tạm bợ bằng rơm, phủ chiếc áo khoác. Cô ta đẩy bà mẹ ra, nhưng chẳng hiểu sao lại bíu lấy Angielic. Nàng buộc phải ngồi xuống chiếc ghế con trong khi các câu hỏi, những lời than thở, những câu chuyện và những chi tiết khó tin nhất bay qua bay lại trên đầu.
    - Những linh cảm của ông đúng đấy, ông Manigô ạ - ông thợ làm giấy nói – Và đứa con tội nghiệp của tôi là nạn nhân đầu tiên…
    - Linh cảm! Ông Manigô lặp lại – ông muốn nói là xác thực, có phải không ông bạn khốn khổ của tôi. Việc Lơ Gan nghi ngờ là hoàn toàn đúng. Chúng ta đang là những người tù, được dành cho một số phận kinh khủng…
    Đám đàn bà con gái bật khóc. Bécti hét càng to mà vừa hét vừa chống trả một đối thủ vô hình.
    - Cháu định làm mọi người phát cuồng lên cả hay sao đấy! – Angielic nói to.
    Nàng túm lấy cổ áo ông thợ làm giấy và lắc mạnh, không còn biết kính trọng là gì nữa.
    - Đã bao nhiêu lần người ta phải lặp đi lặp lại với ông rằng đừng có làm cho sự việc đi tới chỗ trầm trọng. Con gái ông vẫn còn trinh như cái hồi nó mới sinh ra. Liệu có cần phải nói với ông rằng chuyện đó đang đến đâu khi chúng ta đến can thiệp, nếu như ông chẳng có khả năng làm yên lòng vợ ông, con gái ông không?
    Ông Mécxơlô chống trả lại bằng cách lùi lại. Có một cái gì làm Angielic nổi giận, đến mức một người đàn ông khó mà đương đầu. Luật sư Care liền tiếp sức cho ông ta.
    - Chính bà thừa nhận rằng bà can thiệp kịp thời – Ông ta cười khẩy, - còn người kia thì có thể nói ngược lại rằng nếu như bà can thiệp chậm hơn thì đứa bé bất hạnh…
    - “Đứa bé bất hạnh” đã làm đủ trò để thu hút sự rủi ro ấy…và nó biết rõ đấy – Angielic nói và đưa mắt nhìn nạn nhân lúc đó đã đột ngột dừng khóc.
    - Bà muốn nói xa xôi rằng con gái tôi khêu gợi sự thích thú đáng ghê tởm của tên mọi kia chứ gì? – Bà Mécxơlô hỏi, dường như có bao nhiêu móng vuốt đều giương hết ra.
    - Quả thật tôi muốn nói như vậy đấy. Tôi cũng đã có nhắc nhở Bécti về chuyện này. Các bạn nó đều biết.
    - Đúng đấy ạ - Rasen rụt rè nói.
    - A! Như vậy tức là bà dạy bài học luân lý cho con gái tôi cơ đấy.
    Angielic cảm thấy câu nói có ác ý, nhưng nàng không đáp lại.
    - Quả thật chỉ khi đã có kinh nghiệm của cuộc sống, người ta mới có thể thật sự phán xét thái độ sỗ sàng hay không sỗ sàng của một cô gái trẻ dại dột. Không thể vin vào chuyện vừa xảy ra để lên án cả đoàn thủy thủ, cũng như người thuyền trưởng của họ có y đồ đê tiện…
    Ông Manigô xộc đến và đứng sừng sững trước mặt nàng.
    - Bà bênh vực ai ở đây, hả bà Angielic? – Ông ta hỏi bằng thứ giọng lạnh tanh. Bọn cướp và lũ dâm đãng khủng khiếp? Hay là cái kẻ hầu như còn tồi tệ hơn là lão thuyền trưởng? Cái kẻ đáng ngờ mà bà đã giao nộp chúng tôi ấy, có phải không?
    Câu nói làm nàng choáng váng. Ông mất trí rồi chăng? Một số người đứng cạnh ông ta cũng ngước nhìn nàng với bộ mặt nghiêm khắc và cứng cỏi như vậy. Chút ánh sáng yếu ớt trong khoang boong tàu càng làm nổi rõ vẻ chòng chọc ở những cái nhìn của họ ẩn dưới các cặp lông mày cụp xuống, những cái nhìn căng thẳng, đầy quyền uy đang đòi phải trả nợ. Nàng đưa mắt tìm Gabrien Bécnơ và thấy ông ta đứng trong đám đông mặt cũng lạnh băng, đầy vẻ nghi ngờ.
    Do cảnh ăn không ngồi rồi mà cuộc hành trình bắt mọi người phải chịu đựng, rồi những điều qua tiếng lại kéo dài hết ngày này qua ngày khác, khiến họ đang tự tìm lấy kẻ thù. Có thể vì ở đây không có những người Thiên chúa giáo để cho họ nguyền rủa.
    - Tôi chẳng bênh vực ai cả. Tôi chỉ đặt lại các sự vật vào đúng chỗ của nó. Bécti sống thế nào, gặp tai họa thế nấy. Nó thiếu ý tứ, còn các ông thì có để mắt gì đến đâu. Ai giao nộp các ông, tôi ư?
    Nàng mất hết bình tĩnh.
    - Các ông đã quên là tại sao các ông trốn khỏi La Rôsen à? Tại sao các ông lại ở đây? Các ông không biết sao?...Các ông bị bỏ tù …tất!
    Và nàng nói một cách lộn xộn về tất cả những gì nàng moi được từ Bômiê và Đêgrê. Bọn cảnh sát biết hết về họ. Vị trí của từng người Tin lành đã được đánh dấu trong nhà tù và trên các tàu galê. Không một cái gì có thể cứu nổi họ.
    - Nếu các ông có bị bắt, bị bắn thì không phải là do những người đã giúp các ông gây ra đâu. Tôi không giao nộp các ông…Ít nhiều đã ở biển, các ông thừa biết, cho một lúc năm chục người lên tàu mà không chuẩn bị trước là như thế nào rồi. Người của họ phải ăn bánh quy và thịt ướp ngay từ hôm đầu tiên để dành thức ăn tươi cho con cái các ông.
    - Còn đàn bà chúng tôi thì họ dành để làm gì? – Viên luật sư cười khẩy.
    - Và cho chính ông ta – Manigô nói, vẻ khinh khỉnh – Bà Angielic ạ, bà đừng có làm ra vẻ ngây thơ nữa. Chẳng nhẽ ông ta giúp chúng ta như vậy mà lại không đòi hỏi một sự đền bù nào cả hay sao?
    - Chắc chắn là không. Về việc đó chính ông có thể bình luận với ông ấy.
    - Bàn luận với một tên cướp?
    - Ông nợ ông ta mạng sống, như vậy có nhiều quá không?
    - Gớm, bà cứ làm to chuyện!
    - Không to chuyện đâu. Điều đó ông biết rõ lắm mà, thư ông Manigô. Ông chẳng nằm mơ thấy con rắn quấn cổ ông đến ngạt thở mà đầu rắn lại là ngài Tômát, người chung vốn làm ăn với ông đó sao! Và bây giờ khi đã thoát khỏi đại họa, ông thậm chí không nghĩ đến việc ông phải biết ơn người đã cứu ông, nhà thương gia được kính trọng nhất và vì nể nhất ở La Rôsen. Vì sao thế? Chỉ vì người đó không ở về phía ông, vì người đó khác ông…
    Cảm thấy nghẹt thở, nàng quay ngoắt đi một cách kiêu kì.
    “Nếu họ biết có những sợi dây liên hệ gắn bó ta và chàng, họ sẽ không ngần ngại giết ta. Ta cũng có thể sẽ mất nốt chút lòng tin còn lại đối với họ…”
    Dẫu sao những lời nàng nói cũng làm cho hộ dao động. Ảnh hưởng của nàng vẫn còn, vẫn đang đấu tranh để chống lại sự ngờ vực. Một niềm hứng khởi mãnh liệt tràn ngập tâm hồn nàng, khi nàng nghĩ rằng mình đấu tranh là vì chàng, rằng mình đã bênh vực chàng. Nàng lập tức tự xếp mình vào phía chàng, cho dù chàng khinh ghét mình và nàng sẽ cố bóp nghẹt mọi âm mưu cố nổi lên chống lại chàng. Chỉ việc đó thôi cũng đủ làm nàng mạnh mẽ hẳn lên.
    - Quả thật là ý đồ của Đức ông Rescartor - Manigô lầu bầu sau một lúc im lặng có chủ đích – theo tôi là rất đáng ngờ. Lơ Gan đã nói dứt khoát như vậy, cả Briagiơ và Sarông…Ở lẫn đoàn thủy thủ, mấy người đó đã nghe lỏm được một số câu bóng gió rõ ràng là dành cho bọn chúng mình. Họ chẳng đưa chúng mình đến vùng đảo đâu. Họ không bao giờ có ý định đó.
    - Có thể họ đưa chúng mình sang Trung Quốc đấy – Ông thầy thuốc nói khủng khỉnh – Phải rồi, có một số người nào đó hình như còn tin rằng ông Rescartor tìm ra ở con đường phía Bắc để đi sang Trung Quốc bằng một eo biển mà các nhà hàng hải và các nhà thám hiểm châu Mỹ không tìm ra được…
    Họ lại nhìn nhau đầy vẻ lo lắng. Nỗi khổ ải của họ đến đây chưa phải là đã tận cùng. Trôi nổi giữa đại dương, họ chỉ có thể trông cậy vào mỗi sức lực của chính mình.
    - Phải trả thù cho con gái tôi. Nếu chúng ta để cho bọn chúng muốn làm gì thì làm và tội ác của tên Mo ấy không bị trừng phạt…
    Ông ta đột ngột im bặt trước một tín hiệu của Manigô. Họ rì rầm nói chuyện với nhau một hồi lâu. Angielic chỉ có thể đoán là tình thế đã đến lúc nghiêm trọng. Nàng cảm thấy mình có trách nhiệm.
    Nàng cúi nhìn xuống và thấy thương bọn trẻ, mặt bạc ra vì lo lắng. Để tránh cơn giận sôi sục của người lớn, một vài đứa cụm nhau lại, đứa lớn ôm chặt đứa bé nom như một ổ chim non. Nàng ngồi xuống cạnh lũ trẻ, ôm chặt Ônôrin trong áo khoác và để làm cho nó khuây khỏa, nàng nói với nó về những con cá nhà táng. Cánh thủy thủ cũng đã hứa sẽ chỉ cho nó loài cá ấy nếu có dịp.
    Trật tự đã dần trở lại. Bécti đã tỉnh táo. Ngoài nỗi sợ hãi ghê gớm mà cô ta cảm thấy khi bị gã Mo quặp chặt trong đôi cánh tay chắc khỏe của gã, cô ta không nhớ gì nữa, cũng không thấy đau đớn gì. Chỉ có nỗi ân hận đang dày vò cô ta.
    Mục sư Bôke lúc đó đứng tách riêng ra, cùng với Abighen bên cạnh.
    Sau khi cho con gái ngủ, Angielic bước về phía hai người.
    - Thưa cha – nàng nói khẽ, giọng đầy vẻ mệt mỏi – cha nghĩ thế nào về tất cả những chuyện đó? Tại sao những thử thách nghi kỵ và bất hòa lại có thể chồng chất thêm vào những thử thách mà chúng ta đang phải chịu. Xin cha cho biết ý kiến của cha về những điều đó.
    Ông già vẫn giữ vẻ nghiêm trang.
    - Chúng ta đang ở giữa một cơn lốc – ông già nói – tôi lắng nghe và tôi chỉ nghe thấy những tiếng nói bất bình rời rạc. Lời nói chỉ là sức nặng yếu ớt chọi với bức tường dục vọng đứng sừng sững. Sắp đến một ngày mà cái tốt và cái xấu phải đương đầu với nhau trong trái tim mỗi một con người. Với một số người nào đó, ngày ấy đã tới… Tôi chỉ có thể cầu nguyện trong khi chờ đợi kết thúc cuộc phân tranh giữa cái Thiện và cái Ác. Cuộc phân tranh đó chưa xảy ra hôm nay.
    Chỉ có mỗi ông mục sư già, đã gầy đi và táo bạo thêm bởi những nhọc nhằn của cuộc hành trình là không hề thay đổi.
    - Thưa mục sư, cha nói phải lắm.
    - Tôi đã vào tù ra tội nhiều rồi – Ông già nói và thở dài.
    Phải chi ông già là linh mục thuộc tôn giáo mình, để nàng có thể kể hết với ông sự thật, và xin ông những lời khuyên. Nhưng ngay cả sự hỗ trợ về tinh thần ấy ông lão cũng từ chối.
    Nàng quay lại với Abighen.
    - Abighen này, điều gì sắp xảy ra vậy? Nỗi thù hận đang nổi lên trong chúng ta, rồi sẽ đưa chúng ta đến đâu?
    - Thù hận thường là trái quả của khổ đau – cô gái thì thầm.
    Trong khi đó, đôi mắt nhẫn nhục của cô ta vẫn nhìn vào một người nào đó phía sau Angielic.
    Cái bóng đen to xù của Gabrien Bécnơ nổi lên trong quầng sáng mờ đục của ánh đèn. Angielic muốn tránh đi, nhưng ông ta theo nàng, và không còn cách nào khác nữa, nàng đành phải đi theo ông ta đến tận xó tối ở cuối khoang boong. Ở nơi cách biệt này hai người có thể nói với nhau một vài lời, điểu mà họ không thể nào làm nổi trong cảnh ồn ào, hỗn độn liên miên…
    - Không làm sao mà gặp được bà. Bà cứ tránh tôi. Ngày tháng càng trôi qua, tôi càng mất hết ý nghĩa đối với bà.
    Quả thế thật.
    Cứ mỗi ngày qua Angielic lại cảm thấy con người mình bị xâm chiếm bởi nhân cách, bởi sự có mặt của người mình yêu, yêu mãi mãi và bất chấp tất cả, vẫn gắn bó với mình. Trong nàng không còn chỗ cho một người đàn ông nào khác, có chăng chỉ là một chút tình cảm xót xa khi nàng hầu như không để ý, đã bỏ mặc Abighen chăm sóc ông Gabrien Bécnơ trong ngày đầu của cuộc hành trình, lúc vết thương của ông ta hãy còn đáng lo ngại.
    Ông nắm chặt lấy tay nàng. Trên khuôn mặt bị bóng tối che lấp của ông ta, ngời lên đôi mắt sáng lấp lánh. Cái nhìn rực lửa ít khi gặp này là điểm duy nhất để phân biệt ông ta với người đàn ông mà nàng đã có dịp gần gũi trong cuộc sống thanh bình ở La Rôsen. Từ nay, chỉ riêng cái nhìn ấy thôi cũng đủ làm nàng khó chịu mỗi khi thấy ông ta đến gần mình. Vả lại, thực lòng nàng không yêu ông ta.
    - Này bà Angielic, bà nghe tôi nói nhé – Ông ta hình như đã cân nhắc - bà cần phải lưạ chọn. Ai không đi với chúng tôi là chống lại chúng tôi. Vậy bà đi với ai?
    Nàng đập lại ngay lập tức:
    - Tôi đi với những người có lương tri chống lại những kẻ mất dạy.
    - Các từ ngữ phòng khách của bà không dùng được ở đây đâu. Chính bà cũng biết đấy. Về phần tôi, tôi không còn lòng dạ nào mà cười cợt. Hãy trả lời tôi đi, đừng đùa bỡn nữa.
    Ông ta bấu chặt vào cánh tay nàng, đến nỗi nàng phải rú lên. Rõ ràng là các vết thương của ông ta đã lành hẳn. Ông ta đã lấy lại được sức sống mạnh mẽ như xưa.
    - Tôi không đùa đâu, ông Bécnơ ạ. Các ông đang hốt hoảng và có thể bị đẩy tới những hành động đáng tiếc, nhưng tôi thì tôi không bị đánh lừa về những khó khăn đang chờ phía trước như người ta nói đâu. Tôi vẫn xây dựng niềm tin ở tương lai. Tôi không dại dột đến mức làm cả con cái chúng ta phát hoảng lên đâu.
    - Một ngày nào đấy, chúng ta sẽ nhận ra chúng ta bị đánh lừa, và lúc đó thì tha hồ mà hối hận vì sự ngây thơ dại dột của mình. Bà có biết là tên tướng cướp ấy dùng bao nhiêu mưu mẹo chinh phục bà không? Tôi ngờ lắm? Bà đã thỏa thuận với hắn những gì?
    Ông ta gần như mắng nàng, rồi chính nàng cũng đâm ra day dứt.
    “Quả thật ta đã biết gì về chàng? Nàng tự hỏi. Ngay cả với ta, chàng cũng vẫn là bí ẩn. Quá nhiều năm tháng đã trôi qua trong con người mà ta nghĩ là mình hiểu, con người mà cho đến lúc này ta vẫn còn tin. Thế còn những tiếng tăm của chàng ở Địa Trung Hải thì sao? Những điều đó không làm ta yên tâm được … Đức vua đã cho tàu galê đến để chống lại chàng. Liệu chàng có thực sự đã trở thành một con người không ngần ngại gây ra những hành động bạo tàn và tội ác không?”. Nàng đứng im.
    - Tại sao hắn từ chối không chịu gặp chúng tôi – Ông Bécnơ vẫn bám nhằng nhẵng – và tại sao hắn đáp lại những đòi hỏi của chúng tôi bằng một thái độ khinh bỉ? Bà tin ở hắn ư? Thế mà bà lại không thể đảm bảo về những hành động của hắn.
    - Ông ấy chấp nhận cho các ông lên tàu vào lúc tính mạng các ông bị đe dọa, thế là đủ lắm rồi.
    - Tôi thấy rõ là bà luôn bênh vực hắn – ông ta gầm lên, ngay cả lúc nếu như hắn bán chúng tôi như bán nô lệ. Hắn đã dùng bùa phép gì để làm bà thay đổi đi như vậy hả? Những mối liên hệ nào, quá khứ nào đã có thể biến bà thành một con người như thế. Hồi chúng ta còn ở La Rôsen… không có bất cứ một cái gì… có thể thâm nhập được vào sự toàn vẹn của con người bà.
    Cái tên La Rôsen gợi nhớ một cái gì êm dịu của những ngày tháng thanh bình trong gia đình ông Bécnơ, khi Angielic như một con sói cái bị thương dừng lại để băng bó. Đối với ông Bécnơ đó là những kỷ niệm đau buồn đến xé gan, xé ruột không thể nói thành lời.
    Ngày Angielic còn ở nhà Gabrien Bécnơ, ông ta không hề biết nàng mang theo trong bản thân mình, trong nụ cười rạng rỡ của mình, hết thảy những gì là kỳ thú của trái đất này.
    Trong thế giới đầy ngờ vực của ông ta – ông ta tự nhủ - ông ta đã không muốn thấy mình bị rơi vào cạm bẫy đàn bà. Nghi ngờ, thận trọng, đôi chút khinh thường, đó là chuẩn mực của ông ta. Bây giờ thì ông ta biết bởi vì có một tên cướp đang rắp tâm cướp đoạt của ông ta cái kho báu ấy, cái kho báu mà nếu đem đặt bên cạnh sự giàu có về của cải mà ông ta vừa bị mất thật thì chẳng đáng là bao. Mỗi ngày của cuộc hành trình địa ngục này trôi qua lại đục khoét thêm vào con người ông ta một vết thương không sao chịu nổi. Ông ta căm giận gã đàn ông bí ẩn và có khả năng quyến rũ lạ thường, hễ bước chân đi là bao nhiêu đàn bà con gái nghển cổ nhìn theo. “Lũ giống cái đều không có linh hồn – ông ta tự nhủ với vẻ tức tối – Kể cả những con cái tốt nhất…Kể cả con cái này”. Ông ta ôm ghì lấy Angielic, cho dù nàng tỏ thái độ dửng dưng. Sự điên cuồng làm sức lực ông ta tăng lên gấp bội, và nỗi thèm muốn làm ông ta choáng váng đến độ không nghe được những lời nàng vừa đang nói vừa cố sức đẩy ông ta ra. Cuối cùng chỉ mỗi một từ “tai tiếng” lọt được đến ông ta.
    - Vụ tai tiếng vừa rồi còn chưa đủ hay sao – Angielic van vỉ - Này ông Bécnơ, tôi xin ông, hãy bình tĩnh lại nào…Ồng phải cứng rắn lên. Ông phải chế ngự được bản thân mình. Hãy xứng đáng là một ông chủ, một người cha.
    Ông ta chỉ biết có mỗi một điều là nàng từ chối, không tiếp nhận đôi môi của ông ta, điều mà đáng ra nàng có thể đồng tình với ông ta trong bóng tối.
    - Tại sao bà giữ gìn ghê gớm thế? – Ông ta thì thầm – Chẳng phải chúng ta đã hứa hẹn thành vợ chồng rồi sao?
    - Không, không. Không thể được. Không bao giờ. Giờ đây tôi chỉ còn thuộc về ông ấy. Chỉ ông ấy…
    Ông ta buông thõng hai cánh tay như bị giáng một đòn chí tử.
    - Một ngày nào đó, tôi sẽ nói rõ với ông tất cả…- nàng nói tiếp như muốn làm tăng hiệu quả của câu nói vừa rồi – Ông sẽ hiểu rằng những mối dây liên hệ gắn chặt tôi và ông ấy…không ai có thể làm đứt được …
    - Một con đàn bà khốn kiếp!
    Hơi thở ông ta nóng rực. Cả hai đều thì thầm, không dám nói to.
    - Tại sao có thể làm tất cả những điều tồi tệ ấy? Những điều tồi tệ ấy?
    - Điều tồi tệ nào cơ? – nàng nói trong cơn nức nở - Tôi đã tìm cách cứu mạng sống của các ông khỏi cơn tai họa do những người đồng đạo của tôi gây ra.
    - Như thế lại còn tồi tệ hơn.
    Ông ta làm một cử chỉ nguyền rủa. Tự ông ta cũng không biết mình làm thế là muốn bày tỏ điều gì nữa. Angielic vẫn mở mắt chong chong. Xung quanh nàng, tiếng trò chuyện rì rầm đã tắt. Chỉ còn có ngọn đèn duy nhất treo dưới thanh rầm là hãy còn thức.
    “Cần phải nói rõ để ông Gabrien Bécnơ biết những mối dây liên hệ gắn bó ta và Giôphrây đờ Perắc. Ông ta là một con người thẳng thắn và có những niềm tin đáng kính. Trong khi nghĩ rằng ta là một kẻ giang hồ chinh phục, ông ta có thể sẽ làm những việc vô cùng tệ hại để kéo ta ra khỏi vòng tay của người kia”.
    Sở dĩ nàng chưa nói ngay lúc này là vì nàng sợ làm phật ý con người mà nàng nhất quyết coi như chồng mình. Chàng đã bảo nàng: “Đừng nói gì cả”.
    Nàng không dám làm trái lời dặn ấy, cho dù vì bất cứ một cái gì tên thế giới này đi nữa, những lời dặn được nói lên bằng một thứ giọng lạ lùng, làm nàng phải rùng mình.
    “Ôi! Chàng làm ta sợ hãi, nhưng đồng thời chàng vẫn cuốn hút ta”.
    Nàng nhắm mắt lại nằm sát vào thành tàu. Phía sau lớp thành chắn ấy là đại dương, với những tiếng rì rầm bất tận và thờ ơ.
    “Biển ơi…Biển mang chúng tôi đi, biển hãy lắng nghe lời cầu khẩn của chúng tôi… Xin biển hãy cho chúng tôi được gắn bó cùng nhau”.
    Ngoài nỗi mong ước đó, nàng không còn muốn bất cứ một điều gì trên thế gian này nữa. Phải chăng nàng vẫn còn tiếc nuối cái thời nữ bá tước đờ Perắc xinh đẹp, sang giàu. Chắc chắn là không. Điều nàng thích thú là ở đây, trên con tàu không tên, không mục đích. Bởi vì trong cơn ác mộng có chứa đựng biết bao điều kỳ lạ. Có một cái gì vừa khủng khiếp vừa rực rỡ đang cùng lúc tồn tại trong nàng, tranh chấp bản thân thể của nàng. Phía sau tấm lưới của những bấp bênh, đầy lo ngại, nàng vẫn nuôi hy vọng ở tình yêu. Một tình yêu hoàn toàn khác với những tình yêu nàng đã biết từ trước tới nay, một tình yêu xứng đáng với biết bao khó nhọc nàng đã bỏ ra để nuôi nấng giữ gìn trong ngần ấy năm tháng khổ đau.
    Trong giấc ngủ nàng mơ thấy tất cả những mối dây liên hệ có thực mà mắt nàng không thấy được khi còn thức.
    Bởi vì con tàu đang chở theo trong lòng nó cả tình yêu và thù hận. Angielic thấy mình băng qua những cầu thang khủng khiếp dựng đứng và không ngừng chao đảo trong bóng đêm. Một sức mạnh siêu phàm đã đẩy nàng về phía chàng. Nhưng một con sóng lớn vồ lấy nàng, ném nàng vào trong một cái miệng há hốc tối tăm. Nàng lại bắt đầu bám víu vào vô số những bậc thang, càng sợ hãi hơn vì bị ám ảnh bởi cái cảm giác là mình đã đánh mất một cái gì vô cùng quý giá và chỉ có cái ấy mới cứu thoát được mình.
    Thật cứ như bị đóng đinh câu rút. Bên ngoài là bão tố, dưới chân là bóng tối càng dày đặc hơn và trên đầu là đêm đen, trong khi các đợt sóng vẫn không ngừng vồ lấy nàng để tung lên, ném xuống. Và khó chịu hơn hết là cái ý nghĩ bức bối muốn tìm lại trong chính mình thứ bùa phép để giúp mình thoát khỏi giấc mơ.
    Đột nhiên nàng tìm thấy: đó là tình yêu. Tình yêu nhổ sạch mọi cỏ độc của kiêu căng và sợ hãi. Dưới tay nàng, các bậc thang bằng gỗ bỗng trở thành cánh vai rắn chắc và kiên nghị, để đưa nàng dựa vào đó tấm thân mệt lả của mình. Chẳng còn gì nữa để đỡ nàng, giữa khoảng không, ngoài đôi cánh tay ôm xiết làm nàng đau đớn. Nàng gắn vào chàng như sợi dây leo mảnh dẻ bám vào một thân cây vững chắc. Và nàng không còn chỉ sống cho riêng nàng nữa. Môi trên môi, nàng hớp lấy hớp để hơi thở của chàng. Không có cái hôn ấy, nàng sẽ chết. Thân xác nàng khát khao vô tận món quà tặng của tình yêu mà đôi môi không nhìn thấy đang phân phát. Mọi khả năng tự vệ đều rơi rụng hết. Nàng buông thả thân mình như một cọng rêu trôi nổi trong dòng nước giữa đêm đen vô tận, phó mặc sự đòi hỏi mãnh liệt của chiếc hôn do tình yêu đem đến. Không có gì tồn tại ngoài sự tiếp xúc của đôi môi nóng hổi mà nàng nhận thấy. Ồ, phải rồi, nàng đã nhận ra chính đôi môi ấy…
    Nàng vừa bừng tỉnh dậy, mồ hôi đầm đìa, nhịp thở hổn hển và vừa ngồi dậy trên ổ, nàng vừa đưa tay lên ngực để làm dịu trái tim đang đập rộn lên vì được chứng kiến qua giấc mơ một khoái cảm mạnh mẽ đến thế. Đã lâu lắm rồi, nàng chưa bao giờ gặp một giấc mơ như thế.
    Vẫn còn đang trong trạng thái mơ màng, nàng đưa mắt nhìn quanh và đột nhiên phát hoảng lên khi nhận ra cái bóng to xù của Gabrien Bécnơ đang quỳ gối bên cạnh mình.
    - Ông đã – nàng ấp úng – Có phải ông đã …Có phải ông…ôm lấy tôi không?
    Ông ta khẽ nhắc lại lời nàng với vẻ sửng sốt và lắc đầu.
    - Tôi nghe bà rên rỉ. Tôi không ngủ được, thế là tôi đến đây.
    Liệu bóng tối có che lấp nổi những run rẩy vô thức của nàng không? Nàng nói:
    - Tôi nằm mơ chứ có gì đâu.
    Nhưng ông ta lết tới gần hơn nữa.
    Vẫn hoàn toàn chưa thoát khỏi giấc mơ, nàng chỉ còn có thể để mình bị cuốn theo một tiếng gọi cũng xưa cũ như thế giới này.
    Hai cánh tay lại ôm ghì lấy Angielic, nhưng lần này không còn là cánh tay chàng. Nàng đã đủ tỉnh táo để biết được điều đó. Mặc dù bản thân mình vẫn đang là con mồi của cơn sốt dục vọng, trí óc nàng đã tìm lại được sự sáng suốt để từ chối ông ta. Nàng van vỉ:
    - Đừng làm thế ông.
    Nhưng toàn thân nàng như tê liệt. Nàng sực nhớ rằng ông Bécnơ khỏe kinh khủng. Chính nàng đã trông thấy ông ta quật đổ một gã đàn ông. Kêu lên! Nhưng cổ họng nàng tắc nghẹn, không một tiếng nói nào bật lên được. Vả lại, làm thế là hết sức nguy hiểm.
    Nàng cố giãy ra.
    “Mọi người trên tàu này đều đang hóa điên” nàng nghĩ một cách tuyệt vọng. Bóng tối bao trùm cả hai người, sự thận trọng trong từng cử chỉ che khuất mục tiêu cuối cùng của người đàn ông, nhưng nàng nhận thấy ông ta rõ ràng đang tiến tới bằng sự bền bỉ âm thầm.
    Nàng giật nảy, và trong khi ông ta đưa bàn tay sờ soạng tìm má mình, nàng quay đầu lại, cắn một phát thật mạnh. Thoạt đầu ông ta tìm cách bắt nàng phải nhả ra. Nhưng không được. Thế là ông ta rú lên: “Đồ chó hoang!”
    Máu ông ta chảy cả vào miệng Angielic. Khi nàng nhả ra, Gabrien Bécnơ cúi gập người xuống vì đau đớn.
    - Ông đi ngay đi – nàng nói khẽ - Ông đi ra khỏi chỗ này ngay…Ông dám làm thế à?
    Ông ta lùi lại.
    Ônôrin trở mình trên võng.
    Một đợt sóng đập vào thành tàu làm bật lên tiếng trầm đục. Angielic lấy lại được nhịp thở bình thường. Đêm đang trôi nhanh tới điểm tận cùng và ngày sắp đến. Làm sao mà tránh khỏi va chạm giữa những con người đã trở nên hung dữ vì cảm thấy tương lai bất định, trong cảnh tù túng của con tàu vẫn đang tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng nàng cảm thấy tâm hồn mình trở lại bình yên nhanh hơn là thân xác. Nàng vẫn còn bối rối, không thể nào quên được rằng một khi đã bị đánh thức, thân xác nàng sẽ trở thành con mồi của dục vọng.
    Nàng đang chờ đợi một người đàn ông. Nhưng không phải người đàn ông kia. Người đàn ông nàng đang yêu, đang bị phân cách và nàng đang đưa hai tay về phía chàng. “Hãy nhận lấy em đi…Hãy giải thoát em, anh mạnh mẽ biết bao nhiêu…Tại sao em lại có thể mất anh được? Nếu anh đẩy em ra, em sẽ chết ngay!”
    Nàng khẽ lẩm bẩm, hy vọng làm dịu đi ngọn lửa cuồng nhiệt vừa tìm lại được. Lẽ nào nàng lại có thể cứ lạnh lùng trước mặt chàng? Lẽ nào một người đàn bàn đang yêu lại xử sự như vậy? Chàng có thể nghĩ rằng nàng không yêu mình nữa. Nhưng trong giấc mơ nàng đã tìm được môi chàng.
    Những nụ hôn của Giôphrây! Làm sao nàng có thể quên được những nụ hôn đó được? Nàng nhớ lại cảm giác kinh ngạc của mình và tiếp đó là sự ngây ngất khi được nhận nụ hôn đầu tiên của chàng, vào cái thuở xa xưa ấy. Lâu lắm rồi, lúc hãy còn là một cô vợ trẻ, nàng thích thú biết bao sự cám dỗ dịu dàng của đôi môi, nàng tận hưởng cái mệt mỏi rã rời của một người tình đang cảm thấy không còn gì hơn nữa, ngoài niềm hạnh phúc không tên được người yêu mình ban thưởng.
    Về sau này, không một đôi môi đàn ông nào có thể biết được sự mãn nguyện đến thế ở nàng. Nàng cho rằng nụ hôn là một cái gì hết sức riêng tư, thầm kín, ngoài chàng, nàng không có quyền được phân phát cho bất cứ ai khác. Cùng lắm nàng đành phải chấp nhận, coi như sự mở đầu cần thiết của một cuộc phiêu lưu quá trớn mà thôi.
    Những nụ hôn như vậy, nàng chỉ để lướt qua như một thứ nghi lễ, làm vui lòng người được hôn bằng sự khéo léo và nồng nhiệt. Không có đôi môi nào của những người tình ấy đã để lại trong lòng nàng một kỷ niệm lý thú.
    Suốt cả đời mình, nàng giữ mãi cho mình mà hầu như không biết, phẩm chất có một không hai của những nụ hôn ngấu nghiến và kỳ lạ mà hai người đã cho nhau, những nụ hôn đầy lạc thú và mãi mãi no nê của cái thời xa xưa ở Tuludơ ấy.



    Chương 20



    Và chàng kia, khuôn mặt tối đen dưới chiếc mặt nạ, vì thế mà mọi người vẫn gọi chàng là con người thép, chàng hiện ra trong ánh sáng ban mai nhợt nhạt, phơ phất làn khói mỏng của những ngọn đèn vừa mới tắt.
    Sự xuất hiện đường đột của ông làm đám hành khách lo lắng. Họ đều vừa mới thức dậy sau một giấc ngủ chập chờn, nặng trình trịch. Họ thấy rét. Lũ trẻ ho và răng va vào nhau lập cập.
    Các thủy thủ đều mang sùng, đứng vây bọc xung quanh Rescartor.
    Ông đưa mắt nhìn lướt qua những người di tản, cái nhìn hình như sắc nhọn hơn được phóng ra từ các khe hở của chiếc mặt nạ.
    Tất cả mọi người! Tôi mời các vị tập hợp lại và lên hết cả trên boong.
    - Ông cần gì chúng tôi? – Ông Manigô vừa hỏi vừa cài cúc chiếc áo rơđanhgốt nhầu nhèo.
    - Các vị sẽ được biết ngay bây giờ. Tôi yêu cầu các vị đứng xếp hàng ở đằng kia.
    Ông bước lên khoang để nhìn mấy người đàn bà. Đến trước là bà Sara Manigô, ông trút bỏ bộ dạng cứng cỏi của mình và cúi chào rất lịch sự.
    - Thưa bà, tôi cũng bắt buộc phải mời bà vui lòng đi với chúng tôi, cả bà nữa, thưa bà – ông nói thêm và quay về phía bà vợ ông làm giấy.
    - Được thôi, tôi đi ngay ấy mà – bà Manigô vừa nói một cách quả quyết vừa trùm đầu bằng tấm khăn choàng đen. Nhưng tôi muốn được biết ông giành cho chúng tôi những điều gì đấy ạ.
    - Không có gì dễ chịu đâu, tôi khẳng định với bà như vậy. Tôi là nười đầu tiên bực mình về chuyện này, nhưng dầu sao cũng phải giới thiệu với các vị.
    Ông dừng lại trước bà cô Ana và Abighen, nhắc hai người đến xếp hàng bên cạnh toán đàn ông đang chờ đợi được đám thủy thủ có vũ khí vây quanh.
    Tiếp đó ông đi tới chỗ Angielic đang ngồi im thin thít vì lo sợ. Ông bày tỏ với nàng vẻ cung kính sâu sắc và một nụ cười riễu cợt.
    - Thưa bà, cả bà nữa, bà bắt buộc phải đi theo tôi.
    - Có điều gì xảy ra vậy?
    - Hãy đi theo tôi và tính hiếu kỳ của bà sẽ được thỏa mãn.
    Nàng quay đầu lại định bế Ônôrin nhưng ông ngăn lại.
    - Không, không cho trẻ con lên boong. Cảnh này không phải dành cho chúng.
    Ônôrin gào lên. Giữa lúc đó, Rescartor làm một cử chỉ bất ngờ. Ông thọc tay vào chiếc túi da đeo ở thắt lưng và lôi ra một viên ngọc lam cỡ lớn lấp lánh những tia sáng kỳ dị, trao cho con bé. Ônôrin đứng im, chịu khuất phục. Nó vồ lấy viên ngọc và không nhìn thấy gì xung quanh nữa.
    - Còn bà – ông vừa nói vừa quay về phía Angielic, - hãy đi đi và đừng có rằng giây phút cuối cùng của bà đã đến. Chỉ một lát nữa thôi bà sẽ quay trở lại với con gái bà.
    Trên boong trước, đoàn thủy thủ đã tập hợp đông đủ. Trong cái sặc sỡ của các bộ quần áo tự chọn theo ý thích của từng người, có thể phân biệt rõ người vùng Địa Trung Hải với những chiếc thắt lưng và khăn quàng chói chang, người Anglô – Xắcxông đội mũ trùm bằng len và nhiều người mặc những chiếc áo gilê bằng lông thú. Hai người da đen, một người Ả rập nổi bật bên cạnh những khuôn mặt cháy nắng có mái tóc nhạt màu của người Anh. Tuy thế người thủy thủ trưởng và những người có trách nhiệm chỉ huy các toán thủy thủ sáng nay đều mặc áo rơđanhgốt màu đỏ, gắn lon vàng, kiểu đồng phục hạ sĩ quan trên tàu.
    Thêm gã Anhđiêng với nước da màu đồng bên cạnh Nicôla Perốt râu xồm, đầy lông lá, thế là hoàn thành đầy đủ một bảng kê các sắc tộc của loài người không kém phần ý nghĩa.
    Angielic vẫn không nghĩ rằng họ có nhiều người đến thế. Thường ngày họ tản ra trên các trục cột buồm, các dây néo. Mọi người quen thấy họ là những cái bóng như những con khỉ nhanh nhẹn, hoạt bát, treo lơ lửng trên cánh rừng chằng chịt những cột gỗ và các lá buồm. Từ nơi ở của họ, những tiếng cười, tiếng gọi và tiếng hát bay qua đầu mọi người.
    Giờ đây, từ trên cao tụt xuống, họ có vẻ không được thoải mái trên lớp ván sàn lúc nào cũng chao lắc của boong tàu. Mất đi cái nhẹ nhàng đến kinh ngạc, và tài nhào lộn của “những người buồm”, họ trở nên lúng túng, vụng về. Tất cả các khuôn mặt của họ đều in đậm vẻ nghiêm trang hơn là vui nhộn. Và những đôi mắt dù vui, dù buồn đều có riêng một ngọn lửa của những cái nhìn vốn quen việc thăm dò chân trời, quen với sự dè chừng, trong khi đó, vòng cung lông mày quen với việc che chắn các tia sáng mặt trời đều nhô hẳn về phía trước.
    Gió ùa vào làm căng phồng chiếc áo khoác sẫm màu của Rescartor. Ông đứng tách ra, hơi dịch lên phía trước.
    Tiếng gió và bản hòa tấu vang lên từ các sợi dây là những âm thanh duy nhất ngự trị trên con tàu. Tất cả mọi người đều đứng im và những cặp mắt cụp xuống, sững sờ vì một ý nghĩ chung là không hiểu nổi điều gì sắp xảy ra. Ý nghĩ ấy không chỉ có ở những người Tin lành mà ở cả những người dân quê đứng túm tụm ở phía bên kia boong, sát với lan can.
    Rescartor nói:
    - Thưa ông Mécxơlô, tối qua ông đòi hỏi công lý đối với sự lăng nhục mà con gái ông là nạn nhân. Ông đã vừa ý. Công lý đã được thi hành.
    Sau cái hất hàm của ông, tất cả các đôi mắt đều ngước nhìn lên. Tiếng thì thầm khiếp sợ cùng lúc được bật lên.
    Trên cột buồm cao đến ba trục piê một thân người bị treo đang đung đưa nhẹ nhàng.
    Angielic vội đưa bàn tay lên che mặt. Theo tín hiệu của Rescartor, sợi dây giữ kẻ bị hành hình được cởi ra. Thi thể từ từ hạ xuống giữa boong tàu. Cặp môi sưng vều của gã người Mo Apđula mở hoác, phơi ra bộ răng trắng lóa. Cả đôi mắt khép không chặt cũng để lộ ra một màu trắng lạnh lẽo, chết chóc, anh ánh sắc xà cừ. Chân tay gân guốc của gã xoãi ra như người nằm ngủ, nhưng da thịt đã trở nên xám ngoét. Nhìn cái xác trần truồng của gã mọi người không khỏi rùng mình trong ngọn gió ban mai lạnh buốt.
    Angielic chợt thấy lại cái cảnh gã đàn ông trần truồng, cúi khom người trong hành vi khốn nạn của gã, và như còn nghe giọng nói khàn khàn khi gã quỳ thụp dưới chân ông chủ và thì thầm bằng tiếng Ả rập: “Tôi đặt bàn tay lên ngài, nhưng chính bàn tay ngài sẽ trừng phạt tôi. Cầu xin thánh Ala phù hộ”.
    Hai người da đen đi đến, hát rì rầm một khúc Thánh ca buồn thảm. Họ nâng cái xác lên, cởi bỏ sợi dây ô nhục và đưa đi về phía cột buồm trước.
    Rescartor vẫn đứng quay về phía những người Tin lành.
    - Bây giờ các vị cần phải biết một điều và chỉ một lần thôi là đủ. Tôi treo cổ gã đàn ông kia không phải vì gã xúc phạm đến tiết hạnh của con gái ông đâu, ông Mécxơlô ạ, mà vì gã không nghe lời tôi. Khi các vị lên tàu cùng với vợ, con các vị , tôi đã gia lệnh rõ ràng cho đoàn thủy thủ của tôi. Không một ai được phép đến gần đàn bà, con gái và không được tỏ ra thiếu tôn trọng đối với họ…nếu vi phạm sẽ phải đền tội bằng cái chết. Apđula đã vi phạm, và bây giờ anh ta đã phải đền tội.
    Ông tiến về phía họ, đến đứng sững ngay trước mặt ông Manigô và đưa mắt nhìn lần lượt từ ông Bécnơ, ông Mécxơlô đến ông mục sư Bôke. Căn cứ vào thái độ của các bạn đồng hành, có vẻ như mấy người đó là các thủ lĩnh của cái cộng đồng này. Chiếc áo choàng của Rescartor bị gió đẩy làm phanh ra, để lộ đôi bàn tay đi găng của ông bấu chặt lấy hai cái cán của hai khẩu súng ngắn giắt ở thắt lưng.
    - Tôi muốn nói thêm điều này – ông nói tiếp với thứ giọng nặng nề đầy vẻ đe dọa – để các vị biết mà giữ gìn. Thưa các vị, các vị là người La Rôsen, các vị biết rõ luật đi biển. Các vị không thể không biết rằng trên con tàu Gunxbôrô, tôi là người chủ duy nhất, sau chúa. Tất cả mọi người trên tàu; sĩ quan, thủy thủ, hành khách đều phải phục tùng tôi. Tôi treo cổ tên Mo, người đầy tớ trung thành của tôi vì gã không tuân theo các mệnh lệnh của tôi…Nếu một ngày nào đó, các vị không tuân lệnh như thế, hãy nhớ rằng tôi cũng có thể treo cổ các vị…








  2. #10
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default




    Chương 21



    Nàng nhìn chàng trân trối. Đôi mắt nàng như muốn nuốt tươi chàng. Vì chàng đứng đấy một mình.
    Một mình trong gió. Như nàng đã thấy chàng đứng một mình trên bờ biển hôm nào.
    Một mình, như tất cả những ai không chịu để mình giống người khác.
    Và chàng mang nỗi cô đơn của mình cũng nhẹ nhàng như chiếc áo choàng chàng khoác trên vai đang bay phần phật trong gió.
    Tất cả mọi gánh nặng của cuộc đời, chàng đều đỡ lấy nhẹ nhàng như thế trên đôi vai đàn ông của mình. Và dù giàu hay nghèo hèn, dù có quyền uy hay bị đầy biệt xứ, dù ốm yếu hay khỏe mạnh, chàng vẫn cứ thế mà dắt dẫn cuộc đời mình, không nao núng, chẳng kêu rên với bất cứ ai và nàng biết chàng vẫn cứ thế mà giữ nguyên sự cao quý của mình.
    Chàng mãi mãi là bậc đại công hầu.
    Nàng thèm muốn được chạy đến với khối sức lực vững bền ấy để tìm nơi nương tựa cho cái bản ngã yếu đuối của mình, đồng thời cũng cuốn hút chàng vào mình để cuối cùng chàng tìm được nơi yên nghỉ.
    Một tiếng còi vang làm cả đoàn thủy thủ tản ra. Trên tầng thượng, thuyền trưởng Giadông đang truyền các mệnh lệnh bằng chiếc loa đồng.
    Những người Tin lành lặng lẽ rời khỏi boong tàu. Angielic không đi theo họ. Trong một khoảnh khắc, trên boong tàu chỉ còn lại mình nàng và chàng và khoảng không gian vô tận xung quanh.
    Giôphrây đờ Perắc quay lại và nhìn thấy nàng.
    - Biến cố tầm thường thôi, nhưng buộc phải nêu một ví dụ để giữ vững kỷ cương chung – ông nói – Không có gì đáng phải xúc động, thưa bà. Bà đã có mặt ở Địa Trung Hải, đã lọt vào tay bọn cướp và bọn buôn nô lệ, hẳn bà đã biết.
    - Vâng, tôi biết.
    - Quyền lực có những gò bó.
    - Vâng, tôi cũng biết thế.
    Và nàng cảm thấy ngạc nhiên khi nhớ lại rằng mình đã từng là kẻ cầm quân, đã từng dẫn dắt bao nhiêu người xông vào cuộc chiến đấu.
    - Apđula cũng biết thế - nàng nói vẻ mơ màng. – Tôi hiểu điều anh ta nói với ông vào buổi tối hôm qua, lúc chúng ta bắt gặp anh ta.
    Đột nhiên, cái cảnh sỗ sàng ấy, cùng với bầu không khí dữ dội và khác thường cùng lúc hiện lên trước mắt khiến nàng bối rối đến mức hai má đỏ bừng.
    Nàng nhớ lại mình đã đột ngột nắm chặt lấy cánh tay chàng lúc đó đang đứng bên cạnh. Nàng thậm chí còn thấy dưới mu bàn tay cái cảm giác về một bắp thịt cuồn cuộn, rắn chắc như gỗ, sau lớp vải nhung.
    Chàng đứng đó! Đôi môi nàng vẫn hằng mơ ước, nay nổi rõ dưới chiếc mặt nạ cứng với biết bao nồng cháy và tràn đầy sức sống.
    Nàng không còn phải đuổi theo một cách vô vọng hình ảnh chập chờn của kỷ niệm.
    Niềm tin chắc chắn ở cái hiện thực mà bây lâu nay vẫn chỉ là mơ ước chiếu rọi xuống tâm hồn nàng niềm hạnh phúc lớn lao. Nàng đứng trước mặt chàng, không dám động đậy, không nhìn thấy bất cứ một cái gì khác không thuộc về chàng.
    Ở phía đằng kia của con tàu, người ta đang sửa soạn để chiều nay vứt xác kẻ vừa bị hành hình xuống biển.
    Tình yêu…cái chết. Tấm vải thời gian tiếp tục được đan dệt, với những sợi tơ của số phận chằng chéo vào nhau, có sợi tạo ra cuộc đời và có sợi tàn phá cuộc đời.
    - Tôi nghĩ rằng bà trở về chỗ của bà đi thì tốt hơn – cuối cùng Giôphrây đờ Perắc nói.
    Nàng cụp mắt xuống, tỏ ra rằng mình hiểu và mình biết nghe lời chàng một cách ngoan ngoãn.
    Chắc chắn, không phải tất cả mọi sự vật cản ngăn cách hai người đã sụp đổ hết. Song cái phần còn lại có quan trọng gì đâu. Một ngày nào đó tình yêu sẽ sống lại, với nàng và cả với chàng.
    Bà Manigô đột ngội quay về phía Bécti và văng vào mặt cô ta một câu sát sàn sạt.
    - Này con rận dơ dáy kia. Thế là mày mãn nguyện nhé. Trong lương tâm mày đã có cái chết của một người đàn ông.
    Thế là xảy ra một cuộc cãi vã ồn ào. Mặc dầu vẫn tỏ ra kính trọng bà vợ ông chủ tàu, bà Mécxơlô không thể không bênh con.
    - Bà luôn ghen tị với sắc đẹp của con gái tôi, trong khi các con gái bà…
    - Ối dào, cô Bécti nhà bà thì đẹp quá đi rồi, cô ta chả đã trật áo lót ra trước mặt một người da đen là gì. Qua đó mới thấy con gái bà chưa có kinh nghiệm gì cả, bà bạn láng giềng ạ!...
    Cuối cùng thì mọi người cũng kéo được họ ra, không phải vất vả.
    - Này đám đàn bà kia, có im lặng đi không! – Ông Manigô gầm lên- Không phải lúc để các mụ giật tóc nhau, mà phải giúp đỡ nhau ra khỏi cái tổ ong vò vẽ này.
    Quay về phía mấy người bạn, ông ta nói thêm:
    - Tôi nghĩ rằng sáng nay, khi lão ta bắt buộc phải giới thiệu cuộc hành hình, chính là lão ta đánh hơi được sự chuẩn bị của chúng ta. Cũng may mà chưa bị lộ.
    - Không phải là lão ta không nghi ngờ một cái gì đó- tay luật sư lầu bầu với vẻ lo lắng.
    Họ im bặt khi Angielic xuất hiện. Các cánh cửa đã đóng lại sau lưng nàng và người ta nghe rõ tiếng dây xích khóa nhốt mọi người kêu lanh canh.
    - Không còn bóng gió xa xôi gì nữa. Chúng ta đúng là những người tù! - ông Manigô còn nói tiếp một câu nữa.
    Gabrien Bécnơ lúc ấy không có mặt. Ông ta vừa được hai thủy thủ dẫn đi một cách thận trọng, nhưng hết sức chắc chắn, đến trước mặt Đức ông Rescartor.
    “Lạ lùng thật – ông nghĩ. Vừa rồi trong khi ta nói chuyện với nàng, nàng đã đánh cho ta một cái nhìn đích thực của tình yêu. Liệu ta có nhầm không?
    Khi người tín đồ Tin lành bước vào, ông vẫn còn đang suy nghĩ về phút giây chưa từng có ấy.
    - Mời ông ngồi, thưa ông – Giôphrây đờ Perắc nói và chỉ chiếc ghế ngay trước mặt ông ta.
    Gabrien Bécnơ ngồi xuống. Thái độ lịch sự của chủ nhân cũng chẳng nói với ông ta được chút gì rằng ông ta thắng, ông ta có lý.
    Sau một khoảng im lặng vừa đủ để hai đối thủ hỏi thăm nhau, cuộc đấu bắt đầu.
    - Ý định của ông kết hôn với bà Angielic đến đâu rồi? – Rescartor hỏi bằng một thứ giọng đùng đục, có pha lẫn chút nhạo báng.
    - Tôi thấy không cần thiết phải nói đến những chuyện ấy.
    - Tôi lại thấy là cần thiết. Tôi quan tâm đến người đàn bà ấy. Tôi thích nói về chuyện đó.
    - Bà ta cũng muốn kết hôn với ông sao? – Đến lượt ông Bécnơ cũng giễu cợt.
    - Chắc chắn là không.
    Tiếng cười của người đối thoại khá là khó hiểu đối với người tín đồ Tin lành và làm tăng gấp bội sự thù hận của ông ta. Tuy thế ông ta vẫn giữ được bình tĩnh.
    - Có lẽ ông muốn tôi hiểu cho nên mới gọi tôi đến đây, thưa ông phải chăng bà Angielic đã chịu khuất phục trước sự trơ trẽn của ông, và đang sửa soạn phá nát cuộc đời bà ấy, và tình bạn của bà ấy để làm vừa lòng ông? – Quả thật có phần nào như thế trong ý định của tôi. Và lần này, nếu thế thì ông trả lời sao?
    - Tôi nghĩ bà ấy có nhiều lý do để không rơi vào cạm bẫy của ông – Ông Bécnơ nói quả quyết – Bà ấy đến chỗ tôi để quên đi cuộc đời đau khổ trước kia. Bà ấy biết rất rõ cái giá của sự bình yên. Bà ấy không thể để mặc cho ngọn gió mang đi tất cả những gì đã gắn bó chúng tôi. Những năm tháng của tình bạn, của sự cảm thông, của tương thân tương ái…Tôi đã cứu sống con gái bà ấy.
    - À này, cả tôi cũng thế. Như vậy ở đây chúng ta là tình địch thuộc những hai người đàn bà mà đáng ra chỉ có một.
    - Con bé đáng giá lắm chứ - Ông Bécnơ làm một cử chỉ đe dọa như thể ông ta đang giơ ra một con ngáo ộp. Bà Angielic sẽ không đời nào chịu hy sinh nó.
    - Tôi biết. Nhưng ở đây tôi có cái để quyến rũ các tiểu thư trẻ tuổi.
    Ông ta mở nắp một cái tráp, lấy ra mấy thứ đồ nữ trang và đưa qua lại trên đầu các ngón tay như đùa nghịch.
    - Tôi hiểu rằng trẻ con rất nhạy cảm với ánh sáng lấp lánh của các loại đá quý.
    Gabrien Bécnơ xiết chặt nắm tay. Khi tự thấy mình đối mặt với một con người như thế, ông ta không thể thoát ra khỏi ý nghĩ mình đang dính dáng đến ma quỷ. Ông ta gán cho Rescartor trách nhiệm về những xấu xa mà ông thấy ở ngay trong chính mình, và những bực bội dai dẳng mà ông ta phải chịu đựng cũng là do ma quỷ gây nên. Kỷ niệm cay đắng về tấm thảm kịch ngắn ngủi xảy ra đêm hôm trước với Angielic, ám ảnh ông ta đến nỗi khi đến dự cuộc hành hình gã người Mo, ông ta chỉ còn là một con người máy.
    - Vết thương của ông ra làm sao rồi? – Giôphrây đờ Perắc hỏi ngọt xớt.
    - Tôi không còn đau đớn gì nữa – ông ta đáp gọn lỏn.
    - Thế còn vết thương kia? – Con quỷ vừa hỏi vừa chỉ mảnh giẻ đỏ lòm quấn quanh bàn tay nhà thương gia bị xé rách bởi những chiếc răng của người đàn bà trẻ.
    Ông Bécnơ ngượng chín người. Ông ta đứng lên, Giôphrây đờ Perắc cũng đứng lên theo.
    - Vết cắn của đàn bà – ông nói khẽ - độc cho trái tim hơn là cho da thịt.
    Làm nhục một con người như thế, Giôphrây đờ Perắc biết rằng mình đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Ông đã thiếu cả sự thận trọng sơ đẳng nhất, khi đưa Gabrien Bécnơ đến chỗ mình. Nhưng sáng nay, do để ý bàn tay quấn băng của ông ta, ông đã không cưỡng nổi ý muốn xác minh một giả thiết mà ông nghĩ là đúng.
    “Nàng đẩy lão ra – ông tự nhủ với vẻ mừng rỡ, - nàng đẩy lão ra, vậy thì lão không phải là nhân ngãi của nàng!”. Sự thích thú ấy chắc chắn ông sẽ phải trả giá rất đắt. Ông Bécnơ sẽ không quên, ông Bécnơ sẽ trả thù. Trong cặp mắt xảo trá của nhà thương gia, đang tích tụ một mối hận thù ghê gớm.
    - Ông nghĩ gì khi đoán ra được điều đó, thưa Đức ông?
    - Tôi nghĩ đến cái điều mà chính ông cũng không phủ nhận, ông Bécnơ ạ. Bà Angielic dữ lắm.
    - Tôi sẽ hết sức ngạc nhiên khi bà ấy đồng ý cho ông cái mà bà ấy từ chối tất cả những người đàn ông khác.
    “Đúng rồi”. Giôphrây đờ Perắc nghĩ thế, và nhớ lại việc Angielic cố thoát ra khỏi vòng tay mình.
    Ông chăm chú nhìn khuôn mặt đối thủ của mình đã trở lên trơ lì.
    “Lão biết gì về nàng, về những điều mà ta không biết?”
    Ông Bécnơ cảm thấy Perắc núng thế. Ông ta muốn đẩy lợi thế của mình. Ông ta bắt đầu nói. Giọng nói của ông ta gợi lại sự khủng khiếp của một câu chuyện hiếm thấy vào thời đó. Cả một tòa lâu đài bốc cháy, các gia nhân bị tàn sát, một người đàn bà liệt nhược bị những tên lính đánh thuê làm nhục, vẫn ôm chặt trong tay đứa con đã bị cắt cổ. Từ sau cái đêm hãi hùng đó, người đàn bà ấy không thể tiếp nhận tình yêu, mà không phải sống lại những cảnh tàn bạo đã từng phải chịu đựng. Còn tồi tệ hơn thế nữ. Đứa con, đứa con gái đã sinh ra trong tội lỗi. Nàng mãi mãi không biết tên đứa nào trong số những tên lính đánh thuê đã làm nhục nàng là cha đứa bé.
    - Ông lấy đâu ra một câu chuyện hoang đường như vậy? – Người đeo mặt nạ hỏi đột ngột.
    - Tôi lấy từ miệng bà ấy. Từ chính miệng bà ấy.
    Không thể được.
    Đến đây, ông Bécnơ đã có thể thưởng thức cuộc báo thù của mình. Đối thủ đứng trước mặt ông đã bắt đầu chao đảo, cho dù vẫn đứng thẳng và không biểu lộ một sự xúc động nào rõ rệt.
    - Bọn long kỵ binh của Nhà vua, ông bảo thế à? Chúng nó chỉ là một lũ ngồi lê đôi mách ngu dốt. Bởi vì một người đàn bà thuộc thế giới thượng lưu, người tình của Đức vua và của những tên tuổi lớn nhất trong Vương triều không thể nào lại là nạn nhân của lũ lính tráng. Tại sao người ta chống lại bà ấy? Tôi biết rằng ở Pháp, những người theo đạo Tin lành bị bức hại, nhưng bà ấy có theo đạo Tin lành đâu.
    - Nhưng bà ấy đã giúp đỡ họ.
    Nhà thương gia thở hổn hển và mồ hôi chảy thành giọt trên trán ông ta.
    - Đấy là “cuộc nổi loạn ở Poatu” – ông ta thì thào, - lâu nay tôi vẫn còn nghi ngờ chuyện đó, nhưng bây giờ qua lời ông nói, tôi tin đó là điều chắc chắn. Chúng tôi biết có một bậc mệnh phụ, ngày xưa từng được vinh biểu ở triều đình, đã dẫn dắt mọi người nổi dậy chống lại Đức vua, người Tin lành, người Thiên chúa giáo, khắp cả tỉnh đều nổi dậy. Cuộc phản loạn kéo dài gần ba năm. Cuối cùng họ thất bại. Cả tỉnh Poatu bị triệt hạ. Người đàn bà biến mất. Đầu bà ấy đã được đặt giá năm trăm đồng livrơ. Tôi nhớ ra rồi. Đấy chính là bà ấy.
    - Ông đi đi! – Giôphrây đờ Perắc nói bằng một thứ giọng hầu như không nghe nổi.
    Đấy là lý do tại sao có năm năm trời ông không biết gì về cuộc đời nàng. Trong năm năm đó, ông cứ nghĩ là nàng đã chết hoặc trở về, chịu thuần phục Nhà vua nước Pháp.
    Hồi ở Canđi, nàng vẫn còn nguyên vẹn như hình ảnh nàng được lưu giữ trong ký ức ông, vì thế khi gặp lại nàng ông xúc động vô cùng. Biết bao năm tháng đã trôi qua, cho đến lúc ông nhìn thấy và nhận ra nàng sau màu khói của cái chợ buôn bán nô lệ phương Đông ấy.
    Lúc đó ông đang bỏ neo ở đảo Mylô. Một thương gia báo cho ông biết là ở chợ buôn bán nô lệ Canđi, người ta rao bán một người đàn bà đẹp tuyệt vời…Xưa nay ông vẫn được coi là tay tài tử trong việc chọn người đẹp. Thực ra họ cũng có thổi phồng lên đôi chút, nhưng trong cuộc sống xa hoa của thế giới Ả rập, tình thế bắt buộc ông không thể thờ ơ mãi với đàn bà.
    Ông thích phô trương các hành động gây ấn tượng mạnh để làm tăng những huyền thoại về mình, tạo cho mình một sự kính trọng ngày càng tăng, một cái giá cao cực kỳ đối với những con người phương Đông chuộng khoái lạc. Vả lại, ông đã từng có tiếng là người biết chọn gái đẹp. Sự kích thích của các cuộc mua bán và đấu giá, niềm hứng khởi khi phát hiện dưới lớp vỏ ngoài trần tục và đẹp rực rỡ, ngọn lửa người còn khép nép rụt rè của những người đàn bà bị bày bán, được thấy họ sống lại, được nghe những người đàn bà như vậy từ bốn phương đến: Bắc Côcadơ, Mạc tư khoa, Hy lạp, Eetiôpi…, mỗi người kể một câu chuyện về thời thơ ấu của họ, về nỗi khổ của họ, giúp ông khuây nguôi nỗi vất vả và nguy hiểm của công việc hàng ngày. Ông thích được nghỉ ngơi trong vòng tay họ, và thỉnh thoảng một khoảnh khắc lãng quên trong niềm vui xác thịt. Chẳng mấy chốc họ trở thành những người bạn nhỏ của ông, sẵn sàng chung thủy với ông đến trọn đời. Như một thứ đồ chơi nhỏ nhắn ông vui đùa trong phút chốc qua những khám phá, vuốt ve hay một con thú hoang xinh xinh ông thích được thuần hóa. Cuộc khám phá hoàn thành, lập tức mất luôn niềm hứng khởi. Ông đã quá quen thuộc với đàn bà, nên khó mà có một cô gái nào có thể làm ông say đắm. Và trước khi thả họ ra, ông cố hết sức để trả lại cho họ một cuộc sống may mắn, đưa những người nữ nô lệ bị cướp về quê hương của họ, chu cấp tiền nong, để họ có thể chọn lấy con đường tự do. Có trường hợp, ông còn tìm cách trả lại cho một bà mẹ những đứa con bị thất lạc…Nhưng nhiều người đã níu chặt lấy ông và van xin: “Xin ông hãy giữ em mãi mãi, em sẽ không làm phiền ông… Em chỉ cần một cái xó trong nhà thôi. Đó là tất cả những gì em xin ở ông”.
    Những lạc thú như vậy, ông phải coi chừng các thứ bùa mê thuốc ngải và các mưu mẹo quanh co của họ. “Ông thật quá đáng. Họ ngúng nguẩy giận dỗi, - nhưng thấy hết, ông đoán được hết. Ông làm như vậy là không phải. Em bé bỏng biết bao. Em chỉ là một người đàn bà muốn được nấp bóng ông”. Ông chỉ cười và hôn lên cặp môi xinh đẹp, đã mềm nhũn mà đối với ông lúc này không quan trọng gì hơn là những trái cây thối nẫu từ ngoài biển dạt vào.
    Nhà thương gia ở Mylô, với thái độ nồng nhiệt vốn có của người vùng Cận đông, trong khi nói về người nữ tù có đôi mắt xanh đã làm ông thích thú với những lời ca ngợi như: “đáng đồng tiền lắm,” “có một không hai”. “tuyệt vời”. Cả Samy Bây, viên hoạn quan chuyên cung cấp cung tần mỹ nữ cho hậu cung của Đại quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã vào cuộc. Chính vì mỗi một lý do ấy mà Đức ông Rescartor tự thấy mình phải bước lên vũ đài. Thôi thì tha hồ đốn đoán! Dòng giống của người đàn bà ấy? Một cô gái Pháp, người ta chỉ biết có thế. Sắc đẹp? Thật kinh ngạc. Nghe nói nàng là một mệnh phụ ở triều đình vua Lui thứ 14. Một cách thầm kín, những người đã quyết định sẽ đặt giá rỉ tai nhau rằng chính người đàn bà ấy được Đức vua nước Pháp yêu quý. Dáng đi của nàng, thái độ của nàng, lời ăn tiếng nói của nàng, không lẫn vào đâu được, kết hợp với toàn bộ vẻ đẹp lý tưởng: mái tóc vàng, cặp mắt xanh lấp lánh màu nước biển và tấm thân của một nữ thần. Tên nàng? Còn giữ kín làm gì nữa cơ chứ. Đó là nữ hầu tước đuy Plexix – Belie. Một trong những tên tuổi lớn. Rôsa, viên lãnh sự Pháp đã có dịp nhìn thấy nàng và được trò chuyện với nàng quả quyết như vậy.
    Thật sửng sốt! Sau khi được đảm bảo về một số những vấn đề cấp thiết nhất, Rescartor ra lệnh đình hết một số công việc, lao vào sửa soạn để nhổ neo đến Canđi. Trên đường đi, ông biết thêm về cảnh ngộ đã đưa người đàn bà đến chỗ lọt vào tay bọn buôn bán nô lệ. Nàng đến Canđi lo việc buôn bán. Có người nói như vậy. Nhưng lại có người khác nói nàng đến để gặp lại một người tình. Chiếc tàu galê của hạm đội Pháp chở nàng đã bị đánh chìm. Hầu tước Đetxcranhvin, kẻ bèo bọt trên biển đã vớt nàng trên một chiếc mảng, và thế là tên cướp ranh con ấy vớ bẫm. Ai cũng thấy rằng trong cuộc đấu giá này, giá cả sẽ lên tới mức chóng mặt.
    Tuy thế, ông vẫn phải đợi đến lúc nhìn thấy nàng mới có thể nghĩ về chuyện đó được. Dầu hết sức bình tĩnh, vào cái giây phút mà cùng lúc ông vừa biết chắc đấy là nàng, vừa biết chắc là nàng bị đem bán. Ông cảm thấy bàng hoàng, đến nỗi giờ đây cái giây phút ấy chỉ còn lưu giữ trong ký ức ông một kỷ niệm lờ mờ. Trước hết, phải làm ngừng cuộc bán đấu giá, phải giật lấy nàng bằng con số có một không hai trong cuộc mua bán này: 35.000đồng. Một con số điên rồ.
    Và tiếp đó mặc quần áo cho nàng, tránh cho nàng khỏi phải chịu những cái nhìn hau háu.
    Chỉ đến lúc đó ông mới cảm thấy nàng, mới sờ nắn nàng, sờ nắn một người đang sống, một người có thật. Ông cũng thấy, ngay từ cái nhìn đầu tiên là hệ thần kinh của nàng đã căng thẳng đến tột cùng, nàng lúc ấy chỉ còn là một người đàn bà liệt nhược, đang hoảng hốt trước lời đe dọa và đối xử thô bạo của những tên buôn bán thịt người đê tiện. Ông quyết định chưa cởi mặt nạ vội. Việc đầu tiên là phải kéo nàng ra khỏi đám đông với những vẻ mặt hăm hở và hiếu kỳ đang quây chặt quanh nàng. Ông sẽ đưa nàng về lâu đài, sẽ chăm sóc nàng và khi nàng thức dậy, sẽ thấy ông ở đấy, bên cạnh giường nàng.
    Nhưng than ôi, cái dự định biết bao thơ mộng ấy đã bị chính Angielic làm thất bại hoàn toàn. Ông làm sao có thể hình dung nổi là một con người bị vây dồn đến thế, sức lực cùng kiệt đến thế mà vẫn có thể trốn thoát ngay từ lúc vừa ra khỏi chợ buôn người. Có những kẻ đồng mưu của nàng đã tìm cách đốt bến cảng. Dần dần, giữa đám đổ nát còn bốc khói, sự thật được làm sáng tỏ. Người ta đã nhận ra một chiếc thuyền chở bọn nô lệ, lợi dụng cảnh lộn xộn của đám cháy để đi thoát ra khơi. Nàng có mặt trong đám người ấy! Thật cứ như ma quỷ!
    Cũng như ở Canđi, lúc này ông chỉ biết nguyền rủa số phận. Định mệnh đã trả nàng về, nhưng đó là một người đàn bà khác.
    Làm thế nào để nhận ra nàng tiên nhỏ vùng đầm lầy Poatu, hay thậm chí, người nô lệ ở Canđi, trong người đàn bà kiên nghị mà ngay cả lời ăn tiếng nói ông cũng không hiểu. Trong nàng có một ngọn lửa lạ lùng thật khó mà cắt nghĩa.

    - Thưa Đức ông, xin ngài thứ lỗi.
    Bạn ông, thuyền phó Giadông đang đứng trước mặt ông.
    - Tôi gõ cửa mãi, tưởng ngài đi đâu, tôi cứ vào.
    - Cứ vào đi
    Bình thường, dẫu có nóng giận lắm, Rescartor cũng không bao giờ thể hiện ra ngoài. Vậy mà lúc này, sự căng thẳng nội tâm lộ rõ đến mức tất cả những ai từng quen biết ông đều có thể đoán được một cách dễ dàng. Ngọn lửa trong mắt ông vốn linh lợi hoặc say đắm nay đột ngột thay đổi, trở nên hau háu và dữ dội.
    Giadông không nhầm lẫn. Vả lại, ông ta nghĩ, có bao nhiêu lý do để gây nên sự đổi thay trong tâm trạng ông chủ. Với vẻ mặt buồn bã, viên thuyền phó đưa tay chỉ một cái bọc to tướng mà mấy người thủy thủ cùng đi với ông ta mang đến, đặt xuống sàn rồi đi ngay. Một mớ đồ tầm tầm được gói trong mấy mảnh chăn cũ bằng da lạc đà. Những viên kim cương thô nom gần giống như những cái nút chai tầm thường bằng pha lê, mấy thứ đồ trang sức bằng vàng từ thời nguyên thủy, một chiếc túi da dê hôi xì hãy còn đầy nước chắc chắn là thối đến lộn mửa lên được, một cuốn kinh thánh Côran buộc chặt vào với cái túi đựng bùa.
    Giôphrây đờ Perắc cúi nhặt chiếc túi da và mở ra: trong túi đựng một ít bột thơm lấy ở La Meclơ và một chiếc vòng đeo tay tết bằng lông hươu cao cổ, trên đó treo lủng lẳng hai chiếc răng của một loài rắn độc.
    - Tôi còn nhớ hôm đó ở vùng Asantix, Apđula đã giết con rắn độc đang bò đến gần tôi – ông nói với vẻ đang nghĩ ngợi – tôi tự hỏi…
    - Thôi được, rồi tôi cũng sẽ giết rắn độc hộ ngài – Giadông cắt đứt câu nói của ông, trái hẳn với lề luật trên tàu và thói quen từ trước đến nay, - Mọi người sẽ đặt túi bùa này lên ngực anh ta và liệm anh ta trong chiếc áo choàng đẹp nhất.
    - Rồi khi hoàng hôn đến, sẽ thả anh ta xuống biển. Làm thế anh ta còn sung sướng hơn là chôn dưới đất…
    - Dầu sao các đạo hữu của anh ta trên tàu cũng không phật lòng. Họ vẫn nghĩ rằng anh ta sẽ bị đối xử tồi tệ vì phải treo cổ.
    Giôphrây đờ Perắc chăm chú nhìn người phó của mình. Khuôn mặt rỗ hoa, cái miệng đầy vẻ chua chát. Đôi mắt lạnh lẽo khiến người ta nghĩ đến những viên đá mã não. Mười năm đi biển đã gắn bó ông vào với người đàn ông to sù và trầm lặng này.
    - Các thủy thủ xì xào – Giadông nói – Họ muốn biết là ngài định liệu thế nào, họ phàn nàn là từ ngày rời Canđi đến nay đã lâu quá rồi mà không ghé vào bến nào cả. Và không thấy đả động gì đến phần họ được hưởng trong số vàng bạc do các thủy thủ Mantơ mò được trong chiếc tàu Tây Ban Nha bị chìm ở ngoài khơi Panama…Họ còn nói rằng ngài cấm họ léng phéng với đàn bà con gái trên tàu.., nhưng ngài lại giành cho mình người đẹp nhất.
    Lời trách cứ nghiêm trọng mà viên thuyền phó thẳng thừng, lại là món quà tặng làm ông chủ tàu Gunxbôrô cười phá lên.
    - Bởi vì đấy là người đẹp nhất, có phải không Giadông?...Ông biết rằng tiếng cười của mình sẽ chẳng ăn thua gì đối với viên thuyền phó, con người mà không một cái gì trên thế giới này có thể gây cười được.
    - Đấy là người đẹp nhất phải không? – Ông hỏi một cách gay gắt.
    - Tôi biết đâu đấy- Viên thuyền phó lầu bầu tỏ vẻ tức giận – Điều tôi biết là có những chuyện không hay xảy ra trên tàu và ngài thì không thấy gì cả, bởi vì ngài bị người đàn bà đó bắt mất hồn vía đi rồi.
    - Bắt mất hồn vía? Ông đã bao giờ thấy tôi bị một người đàn bà bắt mất hồn vía chưa Giadông?
    - Chắc chắn chưa. Chưa một người đàn bà nào… Nhưng với người đàn bà này thì đúng. Bà ta chả đã làm ngài lẩn thẩn một dạo ở Canđi là gì? Cứ như là một con người bất định ấy. Bao nhiêu công việc đều bê trễ vì ngài muốn giành bằng được người đàn bà ấy bằng mọi giá, ngài chả quan tâm gì đến những người khác nữa.
    - Ông phải công nhận rằng giành lại một người nữ nô lệ với cái giá 35.000 đồng là điều hết sức bình thường.
    - Nhưng hồi ấy có một cái gì khác – Giadông vẫn tỏ ra bướng bỉnh, - Một cái gì khác mà ngài không bao giờ thổ lộ với tôi. Nhưng thôi, chả cần! Chuyện đã qua rồi. Tôi cứ tưởng bà ấy đã biến mất, đã chết, đã bị chôn vùi. Thế mà bây giờ bà ấy lại xuất hiện.
    - Giadông ạ, ông vẫn chứng nào tật ấy. Chỉ vì ngày xưa ông bị phản bội, mà ông gán cho đàn bà một mối hận thù đến nỗi làm chính ông cũng mất hết mọi lạc thú. Trong lúc những ông chồng khốn khổ của các con mụ quạ mổ ấy sẽ phải thèm đến rỏ dãi cái tự do mà ông đã giành lại được thì ông lại chẳng biết sử dụng gì cả.
    Giadông vẫn rầu rĩ.
    - Có những người đàn bà mà hễ họ đã tiêm một chất độc mà ta không sao chữa lành nổi. Chính ngài đấy thôi, thưa Đức ông, chắc chắn không phải lúc nào ngài cũng tránh được những đau khổ ấy, có phải thế không ạ? Người nữ nô lệ của ngài ở Canđi làm tôi sợ đấy…
    - Thế nhưng dáng vẻ hiện nay của bà ấy có thể làm ông yên tâm. Thú thật là tôi hết sức ngạc nhiên và thậm chí có phần nào thất vọng, khi tìm lại được bà ấy dưới chiếc mũ trùm của một người đàn bà thị dân vẻ đoan trang.
    Nhưng Giadông vẫn lắc đầu với thái độ ương bướng.
    - Vẫn cứ là cạm bẫy thưa Đức ông. Thà rằng cứ là một nữ nô tì thực thụ đi, một nữ tì theo ý nghĩa trần truồng của nó. Đằng này mọi sự xảo trá đều được che đây, và dường như chỉ một cái nhìn đã có thể hứa hẹn với anh cả một cõi thiên đường. Chất độc thô thiển lúc đó đã biến thành một thứ tinh chất mịn màng, quá mịn màng để anh có thể phân biệt và đề phòng. Tinh chất? Điều tôi muốn nói là gì?...Là sự tinh tế ấy!...
    Giôphrây đờ Perắc vừa nghe vừa sờ cằm, vẻ nghĩ ngợi.
    - Lạ thật! Giadông ạ! – Ông thầm thì, - rất lạ lùng! Tôi cứ tưởng nàng làm cho tôi không quan tâm đến nàng nữa…nhưng tôi lại quan tâm đến nàng hơn hết thảy.
    - Than ôi – Giadông nói với vẻ buồn thảm. – Giá mà có thể quan tâm! Nhưng chúng ta còn lâu mới có được kết cục ấy.
    Giôphrây đờ Perắc cầm tay ông ta kéo về phía hành lang.
    - Đi thôi…”Gia tài” của Apđula tội nghiệp của tôi đã làm thối hoăng cả buồng tôi lên rồi.
    Ông đứng yên, chìm đắm trong vẻ trầm mặc, trước bầu trời nhuốm sắc da cam, trong khi mặt biển vẫn còn giữ mãi vẻ lạnh lẽo và khắc nghiệt.
    - Chúng ta đến với họ. Ông hãy cố gắng làm mọi người yên tâm. Ông nói cho họ biết rằng số vàng lấy được từ tàu Tây Ban Nha vẫn còn ở cả trên tàu. Khi tàu tới đất liền, chỉ trong vài hôm, tôi sẽ đưa họ một khoản tạm ứng về món hàng sắp bán.
    - Họ sẽ trả lại thôi, bởi vì họ luôn luôn có tiền. Nhưng họ cảm thấy có cái gì không được rõ ràng. Tại sao khi xuất phát lại phải đâm bổ vào La Rôsen? Tại sao lại cho cả một đống những người kia lên tàu và vì những người ấy mà họ phải chịu thiếu thốn. Và rồi thì cũng chẳng thu về được một đồng xu mẻ nào bởi vì họ thấy rõ là những người kia chẳng có gì hơn là chiếc áo mặc trên người?
    Thấy Giôphrây đờ Perắc cứ đứng im mãi, thuyền phó Giadông lấy làm khổ tâm lắm.
    - Ngài có thấy tôi quá tọc mạch không, thưa Đức ông? Và ngài định làm cho tôi hiểu rằng chúng tôi không cần phải can thiệp vào các công việc của ngài không? Các thủy thủ và bản thân tôi đều cảm thấy ngài lơ là thế nào ấy…Trước hết là các thủy thủ, họ rất nhạy bén về chỗ đó. Cho dù thuộc giống nòi gì, như ngài biết đấy, họ đều là những con người của biển. Họ suy nghĩ bằng các tín hiệu và gắn bó với một cái gì không nhìn thấy nhiều hơn là những cái gì nhìn thấy rõ ràng. Họ cứ nhắc đi nhắc lại rằng ngài không còn che chở cho họ nữa.
    Nụ cười làm cái miệng của Rescartor giãn ra.
    - Nếu tôi không che chở họ nữa, một cơn bão sẽ lên ngay lập tức.
    - Tôi biết …Ngài vẫn còn là người của chúng tôi. Nhưng họ cứ đoán già đoán non.
    Giadông hất hàm về phía boong trước của con tàu.
    - Giả dụ ngài sẽ dành cho những người mà ngài chở lên tàu kia định cư ở vùng đất Tây – Hạ ngài vừa giành được, lúc đó liệu những người thủy thủ trên tàu Gunxbôrô có còn liên quan đến vùng đất đó nữa?
    Bá tước đờ Perắc đặt tay lên vai người bạn của mình. Cái nhìn của ông vẫn lang thang ở phía chân trời, nhưng ông ghì chặt bộ khung sườn chắc khỏe mà ông vẫn thường dựa dẫm trong suốt các cuộc hành trình không nghỉ.
    - Này Giadông, người bạn đường thân thiết của tôi, khi ông gặp tôi, tôi là một con người đã đi được nửa đường đời. Ông không biết hết về tôi, cũng như tôi thừa nhận là tôi không biết hết về ông. Nhưng ông biết rằng chừng nào tôi còn sống, chừng ấy còn có hai niềm say mê xen kẽ vào cuộc đời tôi: kho báu của trái đất và sự hấp dẫn của biển cả.
    - Và người đẹp nữa chứ?
    - Thiên hạ thổi phồng lên đấy thôi. Phải công nhận rằng người đẹp cũng có, năm thì mười họa, với cô này, cô nọ. Nhưng chỉ đất và biển thôi, Giadông ạ. Hai thực thể. Hai ả nhân tình khó tính. Hễ tôi hiến dâng cho ả này quá nhiều, ả kia đòi hỏi ngay. Thế là đã hơn mười năm, kể từ ngày Đại quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ giao cho tôi việc độc quyền buôn bán bạc, tôi không rời khỏi boong tàu nữa. Ông cho tôi mượn tiếng nói của ông để tôi có theere điều khiển được những con người đồng bóng kia, và từ Địa Trung Hải đến đại dương, từ các biển vùng cực đến vùng biển Caraip, chúng ta đã từng trải biết bao cuộc thí nghiệm đầy hứng khởi.
    - Và giờ đây ngài lại bị nỗi khát khao đi sâu vào lòng đất chiếm lĩnh?
    - Đúng là cái đó.
    Câu nói nghe nặng chịch.
    Giadông cúi đầu. Hai bàn tay chắc khỏe của ông ta bíu chặt lấy lan can bằng gỗ thiếp vàng.
    - Tôi sẽ giao tàu lại cho ông, Giadông ạ.
    Bạn ông lắc đầu.
    - Điều tôi cần là tình bạn của ngài. Có cái đó tôi mới sống được. Sự say mê của ngài, niềm vui sống của ngài luôn luôn làm tôi ngạc nhiên. Tôi cũng cần phải có những thứ đó để tồn tại.
    - Mặc kệ! Chẳng lẽ ông lại đa cảm thế, hở ông già giỏi chịu đựng kia?
    Nhưng Giadông thậm chí không ngước nhìn mặt biển màu xanh lục trải rộng đang dập dờn phía trước.
    - Thưa Đức ông, ngài không thể hiểu nổi. Ngài là một con người của lửa. Còn tôi là một con người của băng giá.
    - Vậy thì phá vỡ băng đi.
    - Quá muộn mất rồi.
    Giadông buông một tiếng thở dài.
    - Đáng lẽ ra tôi phải biết sớm hơn điều bí mật đã cho phép ngài mỗi lúc lại ném vào thế giới này một cái nhìn mới. Nó là cài gì vậy?
    - Nhưng chẳng có điều gì bí mật cả - Giôphrây đờ Perắc nói – trừ phi là những điều khác nhau. Mỗi người có những cái riêng của mình. Tôi muốn nói thế nào với ông nhỉ?...Phải luôn luôn có khả năng làm lại từ đầu. Không chấp nhận chỉ có một cuộc đời…Mà nhiều cuộc đời được nhân lên…




    Chương 22



    Cuộc hành trình vẫn tiếp tục tưởng như vô tận, Sáng sáng khi lên boong tàu hành khách vẫn chỉ mãi mãi nhìn thấy biển và biển, Có khác chăng, chỉ là màu nước biển đổi thay, tựa như người phụ nữ thay màu áo dài buổi sáng.
    Mặt biển phẳng lặng tựa một mặt hồ, gần như không có một gợn sóng nhỏ. Dù đã giương hết tất cả cánh buồm, con tàu vẫn chỉ hơi nhúc nhích, khiến những người trong boong khoang ngỡ tàu đã thả neo. Nhiều tiếng nói cất lên với biết bao hy vọng: phải chăng đã tới đích?
    - Hãy cầu Chúa là không có gì như thế cả, - ông Manigô kêu to, - chúng ta, chúng ta chưa đi được bao xa về phía Nam, nên chưa thể đến Xanh – Đômingô được. Bây giờ có lẽ ta đã tới những vùng biển hoang vu của vùng Tân Xcốtlen, mà chẳng ai có thể đoán được là số phận rồi sẽ ra sao.
    Với sự thất vọng pha lẫn ít nhiều nhẹ nhõm, họ ngắm nhìn vùng nước mênh mông trải ra trước mắt.
    Sự ám ảnh của một ngày biển êm gió lặng hoàn toàn, đã đến với mọi người. Trời tương đối ấm áp. Ngày có vẻ khá dài. Và đêm tối, khi lên boong xem lần nữa, hành khách nhận thấy những cánh buồm vẫn thõng thượt, lùng nhùng và răn reo, cho dù đoàn thủy thủ vất vả điều khiển các dây buồm. Những tiếng thở dài buồn bã. Gienni, cô con gái lớn của nhà Manigô đang chờ ngày sinh con bật khóc nức nở:
    - Nếu con tàu này không chịu đi nữa, không khéo tôi phát điên mất! Mong sao cho nó đến đích! Cho tàu đến nơi đi, đến nơi nào cũng được, miễn sao chuyến đi kết thúc!
    Cô ta chạy đến Angielic van vỉ:
    - Bà hãy cho em biết đi…hãy nói là chúng ta sắp tới đích.
    Angielic vừa dìu cô ta ngồi xuống cái ổ tồi tàn của mình vừa ra sức an ủi cô ta. Đám trẻ vẫn tỏ ra hết sức tin tưởng ở Angielic. Điều đó làm nàng có phần bối rối, vì nàng tự thấy mình khó mà đáp ứng được niềm tin cậy. Nàng đâu có thể ra lệnh cho gió và sóng biển, đâu có thể quyết định được số phận con tàu Gunxbôrô.
    - Thế bao giờ thì chúng ta sẽ lên bờ? – Gienni nằn nì, cô ta vẫn thấy khó có thể bình tĩnh nổi.
    - Tôi không thể nói được, em ạ.
    - Ôi thế thì chúng ta cứ ở lại La Rôsen có hơn không? Trên tàu khổ sở thế này!... Ở quê nhà gia đình em có bao nhiêu là khăn trải giường đẹp, đặt mua tận Hà Lan…
    - Lúc này thì lũ ngựa của bọn long kỵ binh đang ngủ trên các tấm khăn trải giường Hà Lan của em rồi, Gienni ạ. Tôi đã thấy chúng nó làm thế trong nhà của những người theo đạo Tin lành ở Poatu. Bọn lính còn lấy rượu nho trong các hầm rượu, và dùng vải đăng ten để nút các thùng rượu. Còn đứa con của em sẽ sinh ra trong nhà giam và lập tức bị tách khỏi mẹ ngay. Bây giờ thì nó sẽ ra đời trong tự do. Được cái này thì phải mất cái kia thôi em ạ!
    - Vâng, em hiểu – Thiếu phụ vừa nói vừa cố cầm nước mắt- nhưng ước gì ta đã đến ngay được đất liền! Tàu lắc lư suốt ngày đêm trên biển cả thế này, làm em phát ốm lên. Vả lại trên con tàu này còn lắm cái rắc rối! Chắc rồi sẽ phải đổ máu mất thôi! Và không chừng, trong số người chết sẽ có cả chồng em…Tai họa!
    - Em nói lảm nhảm rồi Gienni ạ. Tại sao cứ lo sợ viển vông thế?
    Gienni sợ sệt nhìn quanh. Cô ta vẫn bám chặt lấy Angielic:
    - Bà Angielic, - cô ta thì thầm – Bà quen biết ngài Rescartor, bà sẽ che chở cho bọn em chứ? Xin bà cố làm sao cho đừng có chuyện gì khủng khiếp xảy ra.
    - Em sợ chuyện gì vậy? –Angielic hỏi với vẻ hoang mang.
    Ngay lúc đó một bàn tay đặt lên vai nàng: Angielic thấy bà Anna gia hiệu cho mình.
    - Lại đây, bà bạn – Bà ta nói – tôi đoán được điều gì làm Gienni lo sợ.
    Angielic đi theo bà ta đến tận cuối khoang boong. Bà ta đẩy một cánh cửa đã ọp ẹp, gạt sang bên những đống giẻ rách và mấy bó rơm, để lộ ra khoảng một tá súng hỏa mai xếp thành từng đống, cùng với mấy chiếc bị đựng các viên đạn chì nhỏ và một thùng thuốc súng.
    Angielic tần ngần nhìn đống vũ khí:
    - Những thứ này là của ai vậy?
    - Tôi không biết. Nhưng tôi nghĩ đây không phải là chỗ để xếp súng đạn trên một con tàu mà kỷ luật hình như khá chặt chẽ.
    Angielic sợ hãi không muốn hiểu sâu hơn.
    - Thằng cháu tôi làm tôi lo ngại, bà Anna hình như định chuyển sang chuyện khác, - Bà Angielic, không phải bà không liên quan gì đến chuyện thằng cháu tôi đâm ra trái tính trái nết. Nhưng tôi nghĩ nó cũng chẳng nên vì thất vọng mà lao vào những hành động thiếu suy nghĩ.
    - Có phải bà muốn nói là ông Bécnơ đã cất vũ khí ở đây không? Cất vũ khí để làm gì? Và ông ta đã làm cách nào để kiếm được những súng đạn ấy?
    - Tôi có biết gì đâu, - Bà già không chồng vừa nói vừa nhún vai – nhưng hôm trước tôi có nghe Manigô tuyên bố: “Cướp bóc một tên kẻ cướp đâu phải là tội ác”.
    - Lại thế nữa cơ à? – Angielic lẩm bẩm- Lẽ nào các bạn chúng ta lại muốn làm hại người đã cứu sống họ?
    - Họ nghi ngờ ông ta định làm hại họ.
    - Thì ít nhất họ cũng phải chờ xem thực hư thế ra thế nào đã chứ, có phải không bà?
    - Họ nói rằng đợi đến lúc ấy thì đã quá muộn.
    - Họ có kế hoạch gì vậy?
    Có cảm giác bị theo dõi, hai người ngừng câu chuyện. Đằng sau họ, hai thủy thủ xuất hiện từ trong bóng tối đang quan sát họ với con mắt nghi ngờ. Vẻ không hài lòng, hai thủy thủ vừa đến gần vừa nói một chàng dài bằng tiếng Tây Ban Nha. Angielic hiểu tiếng họ khá thành thạo. Nàng kéo bà Anna đi và thì thầm.
    Họ bảo những khẩu súng này là của họ, chúng ta không nên dính dáng đến và đối với những người đàn bà bép xép, người ta sẽ cắt lưỡi đi…
    Rồi nàng nói thêm với vẻ nhẹ nhõm:
    - Bà thấy chưa? Những ấn tượng của bà sai lệch cả. Đấy là súng của đoàn thủy thủ.
    - Vũ khí của đoàn thủy thủ thì việc gì phải đem giúi xuống dưới đống rơm, - Bà Anna khăng khăng đáp lại – Điều tôi nói tôi biết rõ chứ. Mà sao bọn người thô lỗ ấy lại dọa giết cắt lưỡi chúng ta, nếu như chúng ngay thẳng? Bà Angielic này, khi có dịp liệu bà có đồng ý nói cho ngài Rescartor biết những cái tôi chỉ cho bà xem hôm nay không?
    - Thế bà nghĩ là tôi được ông ấy tin yêu đến mức có thể cả gan lên lớp cho ông ấy phải đối xử ra sao với những người dưới quyền mình à? Có mà ông ấy cười mũi cho! Ông ấy kiêu ngạo và khinh khỉnh như vậy thì làm sao chịu lắng nghe những lời khuyên bảo của đàn bà, bất cứ đó là ai!
    Angielic lộ vẻ chua chát. Nàng ý thức rõ rệt là đáng lẽ ra phải bắt đầu lại một cuộc sống thật sự tâm đầu ý hợp với chồng, Perac thật ra để nàng đứng hẳn ngoài rìa đời hoạt động của ông.
    - Tôi tưởng là…-Bà Anna nói với vẻ nghĩ ngợi – Tuy nhiên giữa bà và con người đó có cái gì khiến hai bên gần gũi nhau. Đó là cái quá khứ chung, phải không?... Bà có mặt nào giống ông ấy lắm. Tất nhiên tôi thừa nhận vị chỉ huy của bà đúng là có gây ra vài điều sợ sệt cho các đạo hữu của tôi, thế mà ông ấy cũng chẳng quan tâm đến việc xua tan những nghi ngại ấy đi. Nhưng tôi tin tưởng ở sự sáng suốt của ông ấy. Kỳ thật. Tôi tin chắc chắn đó là hành động của một con người khôn ngoan và tốt bụng. Và hơn nữa …đây là một nhà khoa học lớn.
    Từ trong một cái khăn lụa gói bọc kỹ càng, bà rút ra hai cuốn sách gáy đỏ, bìa bọc bằng da:
    - Đây là những cuốn sách cực kỳ hiếm, cuốn “những nguyên lý về hình học giải tích của Đêcactờ” và cuốn “Sự quay vòng trên quỹ đạo vũ trụ” của Coopecnic. Tôi chưa bao giờ được đọc những cuốn sách đó ở La Rôsen. Chính ông Rescartor đã cho tôi mượn hai cuốn này ở giữa đại dương. Kỳ lạ thật!
    Rồi bà Anna ngồi xuống sàn tàu, trên cái áo khoác gập lại và nói:
    - Chiều nay tôi không đi dạo mát. Tôi vội đọc cho xong hai cuốn này…
    “Giôphrây luôn luôn biết cách tranh thủ thiện cảm của phụ nữ. Đặc điểm này của chàng ta dễ nhận ra ngay”
    Nàng cũng nhận thấy ngay chàng có biệt tài làm người khác bối rối, làm cho một người điềm tĩnh như ông Bécnơ phải nổi nóng điên cuồng.
    Mọi cái đều đã đổi thay nhưng đảo ngược cả. Trên đất liền, Angielic bao giờ cũng được đàn ông săn đón, còn đàn bà thì không niềm nở gì với nàng. Giờ đây, đám đàn bà có vẻ gần gũi với nàng trong khi những đôi mắt của đám đàn ông nhìn nàng như kẻ thù đich. Một trong thứ linh tính, ẩn nấp sâu kín, báo trước cho họ biết là một kẻ có ác ý nào đó đã len vào giữa nàng với họ: nỗi oán giận ấy xen lẫn sự nghi ngại và những điều ngờ vực cụ thể hơn, không hiểu rồi sẽ đưa họ đi đến đâu?...
    Bé Ônôrin lòng đầy kiêu hãnh thầm kín: cuối cùng đã tìm được cho mình một người che chở, một người đàn ông to, khỏe trên chiếc tàu khốn khổ này. Chiếc tàu đã quăng bé xuống sàn tàu, làm bé lăn xuống mấy vòng lộn tùng phèo, sưng vù cả mũi, cả trán –vả lại trên con tàu này tất cả mọi người, kể cả mẹ đều bất thình lình tỏ ra dửng dưng với bé.
    Để lẩn trốn cái thế giới thờ ơ kia, Ônôrin đã nhảy ùm xuống biển. Nhưng cũng chính biển cũng phản bội bé. Vừa gieo mình xuống một cách tin cậy liền bị chìm ngay.
    Mặt biển vẫn cõng trên mình những tảng băng và những con chim, nhưng lại không muốn cõng bé. Những con chim hóa ra dữ tợn và muốn mổ vào mắt bé. May sao đúng lúc đó từ những làn sóng thấy nhô lên một người bạn mặt xấu xí như mặt nhím, đó là anh chàng “Vỏ hạt dẻ”: anh ta đánh đuổi con chim biển đi và giang tay ra ẵm lấy bé đúng lúc nước biển mặn ùa vào mồm bé.
    Rồi “vỏ hạt dẻ” đã đưa bé lên tàu và cả đêm đó mẹ phải săn sóc bé
    Anh chàng người đảo Xixin này rất chu ý đến tấm hình Đức Bà nhỏ xíu Ônôrin đeo ở cổ. Anh ta nói câu gì bằng thứ tiếng bé không hiểu, nhưng giọng nói êm tai làm bé vui thích:
    - Chú có phải là cha cháu không? – Bé hỏi, đột nhiên hy vọng tìm thấy cha mình.
    Anh chàng người Xixin lộ vẻ ngạc nhiên, bật lên cười ha hả. Anh lắc đầu và giải thích và làm điệu bộ buồn bã: bé đoán anh ta không phải là cha mình và anh ta lấy làm tiếc.
    Anh ta đưa mắt nhìn quanh và thọc bàn tay vào thắt lưng, rút ra một con dao. Rồi anh ta lấy từ trong áo sơ mi ra một vật, cắt sợi dây đeo và quàng vật ấy vào cổ cho bé Ônôrin lúc đó đang dán mắt vào anh ta. Anh ta thì thầm:
    - Em bé, không được nói là ai đã cho cái này. Bé thề đi.
    - Thấy Ônôrin không hiểu, anh thủy thủ nhổ nước bọt xuống sàn tàu và ra hiệu bảo bé làm theo. Bé bắt trước đúng thế, rất vui thích. Anh thủy thủ bỏ đi, một ngón tay đặt lên môi vì chợt trông thấy Angielic đi tìm con gái.
    Ônôrin vô cùng sung sướng, bé đã có một người bạn mới: mọi người lại bắt đầu cho bé quà tặng. Bé khua khoắng túi áo choàng và nhận ra món đồ chơi bằng đá quý lấp lành mà Người –mặt- đen đã cho. Thấy bóng mẹ, bé vội vàng ấn mạnh báu vật vào túi với sắc mặt nghiêm và giả vờ không thấy mẹ lại gần.
    Một tia mặt trời làm nổi bật màu tóc đỏ hung của bé và Angielic nhận thấy ngay sợi dây chuyền vàng màu xanh lá cây nổi bật trên cổ đứa con có đeo một quả tim, bên trong chắc đựng một ít di vật của một vị Thánh tử vì đạo.
    - Con lấy ở đâu ra cái báu vật kia, Ônôrin?
    - Người ta cho con.
    - Ai thế?
    - Con không biết.
    - Con đừng nói dối – Quả tim không thể tự dưng từ trên trời rơi xuống được
    - Có chứ ạ. Có con chim ngậm quả tim ấy trong mỏ, chắc nó đánh rơi nên quả tim rơi vào cổ con.
    Angielic phân vân không biết nên cười hay nên cáu và cứ tiếp tục tra hỏi cho ra. Hay con bé này lại đi ăn trộm?
    Nàng ôm lấy con thật chặt: nàng thấy con mình đang cố chuỗi ra.
    - Con muốn tìm thấy cha con – Ônôrin nói – Cha con chắc tồi lắm, còn mẹ thì ác lắm!
    Angielic thở dài: từ con gái đến khi lấy chồng, không ai dễ dàng tha thứ cho bất cứ lỗi lầm nhỏ nào của nàng…
    - Dù sao, con hãy cứ giữ lấy các đồ chơi của mình. Con thấy mẹ có độc ác gì đâu nào.
    - Có chứ, mẹ rất ác, rất ác đấy! – Ônôrin khăng khăng nói, không thương xót – mẹ luôn luôn chạy trốn, để mặc con có một mình. Lúc đó con nghĩ là con sắp chết, vì con buồn nản lắm.
    - Người ta không buồn chán bao giờ từ khi còn là một cô bé. Cuộc đời tươi đẹp lắm chứ. Con xem, con chim đã đem cho con quà đấy thôi.
    Ônôrin vừa cười khanh khách vừa ngả đầu vào vai mẹ. Bé rất thích thú phát hiện ra là mẹ quá dễ tin như vậy.
    Tối hôm đó, hai mẹ con thấy đã gần nhau hơn.
    - Con tàu này dễ thương quá – Ônôrin nói! – Tàu không lắc lư nữa.
    - Đúng đấy.
    Angielic cố kìm một cái thở dài và đưa mắt nhìn mặt biển loang loáng một cách khác thường.
    Chiều tối xuống dần trong một thứ ánh sáng màu da cam mờ đục, vừa êm dịu vừa nặng nề và lạnh lẽo tựa một lời đe dọa.
    Một tiếng nói vang xuống từ trên đỉnh cột buồm. Đó là tiếng nói của anh chàng thủy thủ người Xixin:
    - Ôi lũ trẻ đâu? Có những con cá nhà táng!
    Đám trẻ con đang mải nghịch ném phi tiêu trên boong vội vàng chạy xô đến – Đúng vậy, cả một đàn cá nhà táng mà lúc nãy Angielic tưởng là những hòn đảo – những thân mình khổng lồ đen bóng nổi lên trên mặt nước rồi lại lặn xuống và lướt sóng tiến lên.
    Angielic say mê ngắm đàn cá vùng vẫy và nghe tiếng đám trẻ con hoan hô ầm ĩ.
    Thế nào, các cháu có bằng lòng đi tàu Gunxbôrô này chứ?
    - Ôi! Có ạ, - lũ trẻ đồng thanh trả lời.
    Từ đầu chuyến đi biển Angielic đã cảm thấy ngạc nhiên trước lòng dũng cảm của đám trẻ con. Bọn chúng không cáu kỉnh, không lè nhè như người ta tưởng ban đầu. Ngược lại, chính đám bố mẹ chúng lại rền rĩ, phàn nàn về sự vui nhộn của con cái họ. Dễ hiểu thôi, bọn trẻ biết là chúng đã thoát khỏi cảnh khổ sở cùng cực rồi. Hơn nữa, chưa bao giờ chúng được tự do như ở trên sàn gỗ con tàu này.
    Những đứa trẻ lớn nhất, tuy nhiên, cũng để lộ đôi chút dè dặt. Cô bé Xêvêrin hỏi:
    - Thưa bà Angielic, có đúng ông Rescartor muốn gây chuyện chẳng lành cho chúng ta không ạ? – Cô không tin.
    Và nàng đặt bàn tay lên bờ vai gầy của nó. Khuôn mặt Xêvêrin ngẩng lên lộ vẻ tin cậy và hi vọng. Cũng như hồi ở La Rôsen, khi nhìn đám con trẻ, Angielic bao giờ cũng cảm thấy tính vĩnh cửu của sự vật khiến nàng yên tâm, đỡ nghĩ ngợi về sự thoảng qua của đời người. Giúp cho lũ trẻ sống sót qua cảnh hiểm nguy, điều đó làm cho cuộc đời nàng thêm ý nghĩa. Nàng nói:
    - Cháu không nhớ là chính ông Rescartor và những người dưới quyền ông ấy đã cứu gia đình các cháu khỏi nanh vuốt bọn long kỵ binh Nhà vua săn đuổi chúng ta ư?
    - Cháu nhớ. Nhưng bố mẹ chúng cháu nói rằng không thể biết nổi là ông ta sẽ dẫn chúng ta đến tận đâu.
    - Bố mẹ cháu lo ngại bởi vì ông Rescartor và quân của ông ta rất khác biệt với chúng ta. Họ nói một ngôn ngữ khác, họ có những thói quen khác
    - Chú bé Giêrêmi, vốn được Angielic yêu thương vì gương mặt giống Saclơ - Hăngri lấy tay gạt mớ tóc hung che lấy đôi mắt xanh lơ, kêu to:
    - Ông ấy đưa quân ta đến miền Đất Hứa
    Angielic cảm thấy nhẹ nhõm. Vượt lên trên cuộc đấu tranh ác liệt cần phải tiến hành chống lại thiên nhiên và chống lại những dục vọng đam mê của con người, những tiếng nói của đám trẻ con vang lên tựa bản đồng ca của những thiên thần và nhắc đi nhắc lại:
    - Chúng ta lướt sóng đến miền Đất Hứa.
    - Đúng thế, - Angielic khẳng định với vẻ kiên quyết- phải, chính các cháu nói đúng, các cháu của ta ạ.
    Và, theo một cử chỉ đã trở thành quen thuộc, nàng quay về phía cuối con tàu. Và nàng giật mình: Chàng đang ở đó, trên khoang thượng đuôi tàu và nàng có cảm tưởng là chàng đang nhìn về phía nàng.


    Chương 23



    Thấy Angielic giữa đám trẻ con đang sôi nổi trò chuyện với nàng và nàng đang vừa trả lời vừa mỉm cười, Perắc tưởng như vừa phát hiện ra một người đàn bà hoàn toàn mới. Ông thấy bối rối.
    Chiếc áo choàng nâu từ trên hai vai nàng tỏa xuống những nếp gấp dài, làm Angielic cao hẳn lên. Cách ăn mặc quá giản dị ấy làm tăng thêm vẻ bí ẩn và cao quý của nét mặt nàng.
    Nàng đang dắt tay đứa con gái nhỏ tóc đỏ hung của mình. Nhưng vừa trước đó ông thấy nàng ôm con vào lòng. Nếu đúng con bé ra đời trong một tấn thảm kịch và chỉ gợi nàng nhớ lại những kỷ niệm ghê tởm, vậy nàng đã tìm thấy từ đâu sức mạnh để mỉm cười với nó và yêu thương nó đến như vậy?
    Bécnơ đã thuật lại rằng có kẻ đã tàn sát đứa con trai út của Angielic ngay trước mặt nàng. Vậy ra đó là số phận chú bé, con của Plexi – Belie …
    Tại sao nàng lại thổ lộ với anh chàng Tin lành kia, nhưng nàng lại im lặng trước ông, Perắc, chồng mình? Tại sao nàng đã không làm như bao người khác ở địa vị nàng sẽ làm, nghĩa là kể lể một loạt câu chuyện kèm theo những lời than khóc về các sự đầy ải mình đã phải trải qua, do đó có thể tự bào chữa cho chính mình trước mắt người chồng?
    Vì sự e thẹn của tâm hồn và thể xác ư? Nàng sẽ không bao giờ nói ra? Ôi! Sao mà ông giận nàng đến thế!
    Không hẳn vì nàng đã trở thành như bây giờ, mà giận nhiều hơn mà vì nàng khác đi do những kẻ khác chứ không có ảnh hưởng gì của bản thân ông cả.
    Perắc giận nàng – đúng thế - vì nàng thanh thản, vì nàng kháng cự và vì sau khi đương đầu với trăm nghìn nỗi hiểm nghèo, đã sống những giờ phút khủng khiếp, mà vẫn giữ được khuôn mặt không gợn nếp nhăn, tựa như một bãi biển đẹp tuyệt vời, ở đó làn thủy triều có thể lướt qua nhiều lần mà không để lại vết tích, không giảm bớt được sắc lóng lánh như xà cừ của lớp cát mịn màng.
    Đây có đúng là người đàn bà đã đương đầu với Quốc vương Mulai Ismail, đã bị tra tấn, đã chịu đói, chịu khát chăng?
    “Và ta còn được biết bao chuyện khác nữa! Biết nàng đã dẫn đầu đám nông dân dưới quyền để chống lại nhà vua! Nàng đã bị thích dấu hoa huệ vào người. Vậy mà bây giờ nàng lại mỉm cười, kia kìa, giữa đám trẻ con, vừa ngắm đàn cá bơi lội. Ta có thể coi nàng như chưa từng đau khổ chăng?... vậy phải xác định nàng là con người thế nào? Không bị làm thấp hèn, nhát sợ đi, không trở thành thờ ơ, chai cứng đi”.
    Một phụ nữ có phẩm giá.
    Làm thế nào tìm đến được trái tim nàng để chinh phục lại nàng?
    Ông buộc lòng phải thú nhận rằng, chính vì trở thành bí ẩn hơn, sức quyến rũ của Angielic lại càng mãnh liệt hơn. Dù thực chất nó là ma quái, có tính xác thịt hay có tính huyền bí, sức quyến rũ vẫn tồn tại hiển nhiên: và ngài Perắc, biệt danh là Rescartor, đích thực đã lại bị cuốn vào đó mặc dù muốn cưỡng lại, bị dính chặt như keo vào đó bởi những câu nghi vấn làm đau nhói mà chỉ một mình nàng có thể giải đáp được, bởi những điều ham muốn mà chỉ riêng nàng có thể làm thỏa mãn được.
    Thật hão huyền nếu tưởng tượng rằng ta có thể biết mọi cái ở một con người, hay là khước từ cho kẻ khác cái quyền được đi theo một vài con đường nào đó. Những con đường mà Angielic đã đi lúc ở xa ông, nhất là trong năm gần đây nhất, không phải là ít điều kỳ dị.
    Perắc hình dung ra cảnh phi ngựa dẫn đầu những toán nông dân ra trận. Ông như trông thấy nàng bị quân lính của Nhà vua lùng đuổi, chạy lê mình sát đất như một con chim bị thương… Ở đây bắt đầu điều bí ẩn mà có lẽ sẽ không bao giờ ông khám phá nổi. Và ông phẫn nộ vì buộc phải chấp nhận rằng, chính trong cuộc biến đổi mà Angielic phải trải qua đó cũng thể hiện nữ tính bất diệt của nàng.
    Ông đã ghen tức khi thấy nàng chăm sóc tận tâm các bạn mình, khi ông phát hiện ra con gái riêng của nàng được nàng âu yếm mãnh liệt, cũng như khi ông thấy nàng quỳ gối đầy xúc động trước anh chàng theo đạo Tin lành và đặt bàn tay dịu dàng lên cái vai trần của người bị thương ấy. Lòng ghen tuông ấy còn xót xa hơn cả trong trường hợp ông bắt gặp nàng đang ở trong vòng tay của một người tình: vì nếu như vậy thì ít nhất ông sẽ có quyền khinh nàng và sẽ biết đúng giá trị của nàng. Và như thế ông sẽ biết cách đối xử với nàng cho thích hợp tính cách nàng.
    Con người nàng đã được nhào nặn bằng chất liệu mới nào? Chất men mới nào đã làm tăng vẻ đẹp đang độ chín rực rỡ trong ánh mặt trời mùa hè của đời nàng, khiến vẻ đẹp ấy càng tỏa sáng dịu dàng và nồng ấm, gây cho ta niềm mong ước được đặt vầng trán đau nhức lên lòng nàng, để được nghe nàng nói những câu dịu dàng khích lệ.
    Thái độ yếu đuối ấy, thật hiếm khi có thể thấy ở Perắc…
    Rồi, khi mặt trời đã lặn ở chân trời, Perắc bỗng tìm ra một chiếc chìa khóa giúp ông khám phá ra điều bí ẩn trong cách đối xử của Angielic trong rất nhiều trường hợp, điều đó khiến ông rất ngạc nhiên: “phải rồi, nàng có tấm lòng hào hiệp”, ông nghĩ thầm.
    Điều này lóe ra như một ảo ảnh.
    Angielic nhìn ra xa, không nhúc nhích.
    Ông đoán chắc là nàng nhìn về phía mình, qua bóng tối mỗi lúc một dày thêm.
    “Nàng hào hiệp. Nàng tốt bụng. Ta đã đánh bẫy cho sự độc ác của nàng nhưng nàng không rơi vào bẫy. Chính vì thế nàng đã không oán trách ta đã gây ra những điều bất hạnh cho nàng. Và cũng chính vì thế nàng đã sẵn sàng chịu đựng nhiều điều bất công và những lời oán trách của ta, chứ không ném thẳng vào mặt ta cái điều khủng khiếp mà nàng tin là có thật: nàng không trách ta phải chịu trách nhiệm về việc đã gây ra cái chết của con trai ta là Canto, ta người cha của nó…”


  3. #11
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default




    Chương 24



    Trong sự yên tĩnh của căn phòng nhỏ giữa đêm khuya Perắc nhớ lại sự kiện đầy kịch tính ở mũi Patxơrô.
    Khi tàu của ông đuổi kịp hạm đội Pháp ở ngoài khơi đảo Xixin, quyền lực của Rescartor đang ở thời kỳ cực thịnh, không ai chối cãi được. Người tù khổ sai cũ thọt chân ở Macxay có một mạng lưới rộng khắp những người đồng lõa và đồng minh.
    Tuy đi biển để kinh doanh, ông đã trang bị cho chiếc tàu ba buồm của mình thành một tàu chiến: các trận đánh chống kẻ này kẻ nọ thường xảy ra luôn. Ông phải miễn cưỡng chống lại những cuộc tiến công của các hiệp sĩ dòng Mantơ vì họ vẫn coi tên cướp biển đeo mặt nạ - mà người ta không biết cả tên và gốc tích – là một tên phản tặc đi phục vụ cho Đại quốc vương Hồi giáo ở Conxxtangtinop. Thời đó không hề có sự dung hòa nào giữa đạo Thiên chúa với đạo Hồi: người ta phải ủng hộ hoặc bên này hoặc bên kia. Vậy mà Perắc, một lần nữa lại chọn lá cờ riêng, không phải là chữ thập cũng không phải là lưỡi liềm, cờ mang hình cái mộc thêu chỉ bạc trên nền vải đỏ.
    Ông cũng biết rằng, khi tiến ra biển, hạm đội do công tước đờ Vivon chỉ huy có nhiệm vụ hành quân trừng phạt mà bản thân ông là một trong những mục tiêu cấp bách hàng đầu. Bởi vì hoạt động của ông gây khó chịu rất nhiều cho Vua Lui 14 và còn đe dọa những khối tài sản kếch xù của Pháp vơ vét được bằng cách trao đổi với vùng Cận Đông những sản phẩm công nghiệp hạng xấu bị ế đọng ở Pháp.
    Do đó Perắc đã cử những gián điệp đi dò la thật tỉ mỉ đường đi và quân số của hạm đội Hoàng gia Pháp và ông căn dặn họ phải kể thật chính xác danh sách những binh sĩ có mặt trên các tàu galê Pháp. Khi soát lại danh sách quân sĩ của đô đốc – công tước Vivon, ông đọc thấy một cái tên làm ông phải suy nghĩ: Canto Moren, tiểu đồng.
    Canto! Phải chăng đó chính là tên được đặt cho đứa con trai của ông đã ra đời sau ngày ông bị hành hình – qua người thế mạng? (Ông được biết mình có đứa con này nhờ lá thư của cha Angtoan mà ông nhận được ở Canđi. Lúc nhận tin này, ông chưa chú ý nhiều lắm bởi vì ông bị choáng váng ghê gớm trước cái tin sét đánh: vợ ông đi lấy chồng khác)
    Lúc này, trước cái tên xuất hiện đột ngột ấy, ông suy nghĩ “Canto Moren…Đúng rồi, chỉ có thể là đứa con trai sinh sau ngày “khai tử” của ông. Ông cho lấy thêm tài liệu và mọi nghi vấn đều bị xua tan. Đứa trẻ đúng là lên chín tuổi; là con riêng của bà vợ Thống chế Plexi – Belie.
    Như thế là biển cả đang đem con trai ông đến đây. Con trai của ông và Angielic: mẹ nó đã thụ thai trong một đêm ở Tuludơ, điên cuồng và tuyệt diệu, mà ông vẫn còn luyến tiếc mãi không sao nguôi hẳn được. Chuyện đó diễn ra ít ngày trước khi hai vợ chồng ông lên đường đi Xanh Giăng đờ Luy, nơi ông bị bọn lính Nhà vua bắt lén lút.
    Cần phải trông thấy đứa con trai, đứa con của tình yêu đã tan vỡ giữa hai vợ chồng ông.
    Và nhất là cần phải giành lại nó.
    Ý chí sắt đá đã thành hình. Và Rescartor lập tức ra lệnh chuẩn bị nhổ neo ra khơi.
    Tàu ông lọt vào tầm nhìn của hạm đội Pháp. Ông muốn thương lượng, đề nghị có cuộc trao đổi. Nhưng được tin tên tướng cướp mà ông ta được lệnh bắn chìm cả người lẫn của này lại cả gan dẫn xác đến, đô đốc Vivon cho người quẳng gã phái viên toàn quyền của Perắc xuống biển, rồi không thèm cảnh cáo trước, ra lệnh bắn một loạt đạn súng thần công vào tàu đối phương. Trúng đạn, tàu Hải bằng của ông bị lao đao khoảng mười lăm phút và ông buộc phải giao chiến. May sao, những tàu galê nặng nề vận động khá ì ạch. Trên một trong những tàu đó có chú bé Canto. Ông tìm cách tách riêng chiếc tàu này ra, nhưng trong lúc hai bên bắn nhau loạn xạ, chiếc tàu chở Canto bị trúng đạn nặng không thể cứu chữa được. Lo sợ hết hồn – vì ông biết một con tàu bị bắn thủng có thể chìm dưới nước và biến mất nhanh như chớp - Perắc phái ngay mây người tin cẩn nhất của mình áp sát, nhảy lên tàu để tìm bằng được đứa bé ở giữa đàm người túm tụm trên boong ở đuôi tàu, trong đó có vài người bạt vía đã nhảy bừa xuống nước.
    Đứa bé được Apđula, gã người Mo, ôm lên và đưa lại cho Perắc; một tiếng nói trong trẻo kêu lên: “Cha ơi! Cha”. Perắc tưởng mình như đang nằm mơ. Thằng bé ở trong vòng tay của anh chàng Apđula, người Mo cao lớn, mà không lộ gì vẻ sợ hãi, mặc dù vừa chết hụt, bất chấp những khuôn mặt lầm lì vây quanh, tay lăm lăm những thanh mã tấu sáng quắc.
    Giương đôi mắt màu xanh ngọc bích trong vắt như nước nguồn, cậu bé nhìn khuôn mặt bị che khuất sau tấm mặt nạ đen của gã tướng cướp cao lớn và thản nhiên goi: “Cha ơi!”
    Làm sao có thể không đáp lại tiếng gọi ấy?
    - Con trai của ta!
    Cậu bé không có vẻ gì nhớ tiếc quãng đời đã qua. Perắc đã rất nhanh chóng nhận thấy đứa bé dễ thương này tính tình rất kín đáo. Mà ông thì không muốn hỏi trước. Ông còn đôi phần dè dặt. Ông sợ điều gì? Sợ biết nhiều điều qua và sợ vô ý chạm vào những vết thương chưa kín miệng hẳn.
    Thật vậy, lần đầu tiên chú bé Canto nói đến gia đình mình còn ở lại bên Pháp, thì là để khoe với niềm hãnh diện:
    - Mẹ Canto là người yêu của vua nước Pháp!
    Rồi cậu ta nói thêm với vẻ ngây thơ:
    - Chẳng có gì là lạ! Mẹ là phu nhân xinh đẹp nhất trong cả nước.
    Bị đòn choáng váng bất ngờ, ông Perắc từ đó để mặc cho đứa bé thích thì kể chuyện cũ, chứ không tự ý gợi ra.
    Những mẩu chuyện ông thu lượm như vậy được chắp vá thành những bức tranh kỳ quái, với Angielic trong những bộ quần áo lộng lẫy, với người hùng Phlorimong, với Thống chế Plexi – Belie, lạnh lùng nhưng phong nhã, được Canto yêu mến, với cả Nhà vua, Hoàng hậu và Thái tử nữa.
    Tuy nhiên, Canto thú nhận là bé thấy ở biển thích thú hơn cung điện Vecxây: chính vì vậy, bé đã quyết định đi tìm cha. Phlorimong cũng sẽ đến nhưng đến sau này kia! Cậu bé có vẻ không tính đến chuyện Angielic có thể trở về với mấy cha con. Do đó, trước mắt ông hiện ra hình ảnh một người mẹ nông nổi, thờ ơ với các con mình.
    Một buổi tối, ông quyết định hỏi con một câu.
    Ngày hôm đó, trong cuộc giao chiến với một trong những kẻ thù nguy hiểm nhất của ông là Medo - Mooctơ, Canto bị trúng một mảnh đạn ở đùi. Ngồi ở đầu giường săn sóc con, Rescartor ân hận nghĩ thầm: thằng bé này còn quá nhỏ tuổi, có lẽ chưa nên để nó nếm mùi những cuộc chiến đấu ác liệt giữa những người lớn thô bạo chăng?
    - Con có nhớ mẹ con không, Canto?
    Thằng bé nhìn cha, hơi ngạc nhiên. Rồi mặt nó sa sầm và nói đến cái dạo “socola”, khiến Perắc không hiểu ra sao cả:
    - Cái dạo “socola”, mẹ đặt hai chúng con lên hai đầu gối. Mẹ cho chúng con ăn những món tẩm bột rán. Mẹ làm bánh xèo…
    “Con thích dạo ấy lắm. Nhưng về sau, khi mấy mẹ con về ở lâu đài Bôtrây, thì mẹ con phải vào trong triều đình và cả chúng con nữa…thế là, đành phải bỏ mất “cái dạo socola”
    Thật ra, cuộc đời hiện nay của Canto cũng có khá nhiều cái thú vị cho cậu ta rồi, nên cậu cũng không say sưa nhiều lắm trong việc ôn lại các kỷ niệm xưa cũ.
    Perắc đã nhanh chóng phát hiện ra năng khiếu bẩm sinh về ca và nhạc của cậu con trai, khiến ông xúc động. Và bản thân ông, tuy đã mất đi giọng hát hay nhưng nay lại thích chơi đàn ghi ta. Ông soạn những khúc nhạc ngắn cho con chơi, rồi cho con làm quen với những biến tấu cho một sô nhạc cụ của phương Đông cũng như của phương Tây. Rồi về sau, ông quyết định sẽ cho con đi học trong nhiều tháng tại một trường ở Italia, như ở Vownido hoặc ở Palecmo trên đảo Xixin.
    Canto học dốt như chú lừa con; mới chỉ biết đọc, biết viết tàm tạm; đếm còn rất kém; nhưng ngược lại cuộc sống trong cung đình, rồi cuộc sống trên tàu cướp biển đã biến cậu thành một đứa con trai khỏe đẹp, thành thạo những động tác đấu gươm, biết điều khiển các buồm trên tàu và khi có dịp cũng biết lễ phép, có phong thái lịch sự.
    Canto không lười biếng, bé ham hiểu biết. Nhưng mấy người thầy mà bé được học từ trước đến nay đã không biết cách khêu gợi lòng say mê học tập cho bé. Bé đồng ý sẽ vào học trong ký túc xá của trường các cha dòng Tên ở Palecmo.
    Còn có một lý do khác thúc đẩy ông Rescartor gửi đứa con trai đến chỗ an toàn và tách nó ra xa hoạt động của mình trong một thời gian. Đó là vì những nguy hiểm nhiều mặt đang bao vây ông, rất có thể một ngày nào đó, xâm phạm con trai ông. Ông cần phải đánh bại hoàn toàn những kẻ thù chủ yếu của mình và muốn thế, thì phải phát động một chiến dịch quyết liệt chống lại chúng vừa bằng chiến tranh, vừa bằng những cuộc vận động ngoại giao. Một lần, trong khi ông cho tàu thả neo ở Tuyni, Canto đã suýt nữa bị bọn tay sai của Medo - Mooctơ, đô đốc của Angie bắt cóc: tên đồng tính luyến ái dâm dục này, gần như phát điên vì những ảo tưởng vinh quang vĩ đại, căm thù Perắc, vì đã làm giảm quyền lực của mình ở vùng Địa Trung Hải…
    Giống bố về lòng yêu thích âm nhạc, Canto lại có những nét xa lạ thu hút sự chú ý của Perắc khiến ông như bị thôi miên và làm ông nhớ đến Angielic với những đặc điểm di truyền của nguồn gốc vùng Poatu. Cậu bé ít nói, đầu óc sáng suốt và người ta không dễ gì biết được những ý nghĩ và dự đoán được những hành động của cậu.
    Ông Perắc tỏ ra hết sức tôn trọng năng khiếu đặc biệt của đứa con trai này, cậu ta có thể nói về một số sự kiện nhiều ngày trước khi sự kiện đó xảy ra.
    Tính cách độc đáo của đứa bé, liệu có bị việc học hành của nó, cùng với khí hậu tuyệt vời ở Palecmo, và nước biển xanh lơ sẽ nuôi dưỡng tính mơ mộng của Canto. Và Perắc sẽ cho người đầy tớ trung thành của mình là Cuaxi - Ba đi theo và ở liền bên cạnh, để săn sóc, che chở đứa con thật chu đáo.



    Chương 25



    Nếu như Medo – Mooctơ đã thất bại trong mưu đồ bắt cóc Canto, thì lão ta lại thành công đối với Angielic, sau khi nàng trốn khỏi Canđi và rời đảo Mantơ.
    Perắc rụng rời chân tay, khi được tin vợ mình xuất hiện ở Địa Trung Hải không hiểu bằng cách nào đã rơi vào tay kẻ thù nguy hiểm nhất của mình. Cùng một lúc, ông nhận được tin báo là Angielic đang ở Mantơ. Hơi yên lòng một chút, ông quyết định đi tìm nàng.
    Ông buộc lòng phải đến Angie gặp Medo – Mooctơ. Tên đạo phản gốc Calabrơ này tin chắc từ trước rằng Rescartor sẽ phải làm bất cứ điều gì hắn muốn. Vì hắn nắm được – không hiểu bằng cách nào – điều bí mật mà Rescartor không thổ lộ với ai hết: Angielic là người vợ theo đạo Thiên chúa của ông và ông sẵn sàng hy sinh tất cả để tìm lại được nàng.
    Trước những yêu sách quá quắt của gã đô đốc vùng Bắc Phi này, rất nhiều lần Perắc muốn chửi toáng lên và bỏ đi. Nhưng đây lại là vợ ông, lại là Angielic. Sao ông lại có thể nhẫn tâm khước từ, để đẩy nàng vào cái chết, vào một số phận thảm khốc.
    Ra sức giữ vẻ thản nhiên, Perắc dùng mưu, huy động mọi tài năng đóng kịch sẵn có để đối phó với tên bất lương đó, hắn vốn người Italia và cũng biết những thủ đoạn tinh vi, độc ác.
    Càng lo sợ cho nàng, ông càng tức giận điên lên vì nàng: con người sao mà tai ác, chẳng chịu ở yên một chỗ! Sau khi tuột khỏi tay ông ở Canđi sao cô ta lại nhắm mắt lao đầu vào những cạm bẫy thô bỉ của Medo – Mooctơ?
    Ông đang, một lần nữa, tiêu hủy cuộc đời mình vì nàng. Gã Medo - Mooctơ đòi giành lấy riêng cho mình quyền bá chủ ở Địa Trung Hải. Rescartor phải lánh mặt đi và rời bỏ địa bàn này. Hắn đòi như vậy. Ông đi rồi, hắn sẽ tiếp tục làm mưa làm gió: cướp bóc, đốt phá, càn quét, bán nô lệ, món hàng thuận tiện và cao giá nhất trong khắp vùng biển này.
    Perắc đã đề nghị với hắn những chuyện làm ăn có thể kiếm lãi cho hắn còn to gấp trăm lần cái hắn đã cướp được khi cho quân dùng những thuyền buồm nhẹ đánh vào các tàu buôn hay tàu chiến của những nước theo đạo Thiên chúa. Nhưng tên cướp phản đạo này không cần cái đó. Hắn muốn thành “tên cướp biển hùng mạnh nhất, được nể sợ nhất, bị căm ghét nhất ở Địa Trung Hải”.
    Tên Medo - Mooctơ cười gằn nói:
    - Ngươi hãy coi chừng. Nếu ngươi rời Angie ra đi mà không hứa danh dự với ta rằng ngươi sẽ để mặc cho tự do hành động ở vùng biển này, thì chắc chắn Ngươi sẽ không bao giờ có thể gặp lại cô ấy còn sống nguyên vẹn! Có một tên tay sai của ta hiện đã ở sẵn trong đám người Maroc đi kèm cô ta rồi. Ta chỉ cần chuyển cho nó một lời nhắn của ta, thì ngay đêm đó, nó sẽ giết cô ấy…
    Cuối cùng, Perắc đành phải đưa ra lời cam kết với Medo – Mooctơ. Đồng ý, ông sẽ rời bỏ Địa Trung Hải. Ông không nói cụ thể sẽ vắng mặt trong bao lâu.
    Tên phản đạo, quá vui sướng vì một thắng lợi trước mắt mà hắn đã tưởng không còn hy vọng giành được, đã tỏ ra cả tin. Vả lại, hắn vẫn còn phải kinh sợ những đòn sấm sét trả thù của Đại quốc vương ở Côngxtăngtinnốp, nếu như ngài được tin có kẻ đã thủ tiêu người cố vấn bí mật và người chỉ huy tài chính của ngài.
    Sau khi rời khỏi Angie không gặp trở ngại gì, con tàu của Rescartor rẽ sóng đi về phía Xowta, để đến Xale rồi Micơnê.
    Perắc vẫn giữ vẻ mặt âm thầm. Lúc thì ông nguyền rủa Medo - Mooctơ, lúc thì ông oán trách Angielic. Nhưng ông không thể nào không bay đến để cứu nàng được, với một tình cảm nôn nóng trong đó không chỉ có ý thức về nghĩa vụ đối với một người vợ dại dột mà thôi.
    Lúc này, bỗng nhiên ông nhận được một lá thư của Osman Feraji:
    “Đến ngay…người đàn bà mà số mệnh đã trao cho ngài đang gặp nguy hiểm”
    Giữa lúc đang mải mê nhớ lại chuyện cũ, Perắc đột ngột đứng thẳng người lên trong phòng thuyền trưởng của mình trên tàu Gunxbôrô. Tàu nghiêng mạnh về một bên, rồi lại nghiêng sang bên kia, khiến ông lảo đảo. Ông lầm bầm: bão rồi!...Ông vẫn đứng thẳng, hai chân doãng ra lấy thăng bằng.
    Đầu óc ông vẫn còn quay về quá khứ.
    “Đến ngay…người đàn bà mà số mệnh đã trao cho ngài đang gặp nguy hiểm”
    Nhưng khi ông đến Micơnê thì Osman Feraji đã chết vì bị một người nô lệ theo đạo Thiên chúa đâm bằng dao găm.
    Tất cả đám dân Do thái trong làng đều đã bị bọn lính cận vệ da đen của vua Ả rập chém chết bằng mã tấu. Mọi người xôn xao về chuyện bảy nô lệ người Thiên chúa giáo bỏ trốn và nhất là chuyện một người đàn bà trong hậu cung đã trốn thoát.
    - Người đàn bà kỳ lạ biết mấy! ông bạn của tôi hãy xem- Quốc vương Mulai Ismail kể lại với Perắc, hai mắt tròn xoe lộ vẻ thán phục hơi có tính thần bí- cô ta dám cả gan đâm vào cổ tôi đấy.
    Ismail chỉ một vết sẹo trên cổ họng nâu sám của mình:
    - Và đâm bằng chính con dao găm của tôi! Cô ta còn chống lại các cuộc tra tấn nữa. Tôi đã tha chết cho cô ấy, vì cô ấy quá xinh đẹp và vì viên thái giám của tôi đã ra sức khuyên tôi tha tội – chả hiểu cô ta đã rót thứ thuốc độc nào vào mạch máu của con người cương trực đó? Ông ấy đã phải đền mạng vì quá nhu nhược đối với cô ta, tuy rằng ông ta vốn rất kiên nghị và ngay thẳng. Cô ta đã trốn thoát. Đó là ác quỷ hiện hình đàn bà.
    Chẳng cần hỏi tên người đàn bà ấy, Perắc đã đoán được ngay.
    Perắc giải thích cho Ismail biết rằng người phụ nữ ấy đúng là người vợ Pháp của mình và được tin nàng đã thuộc về ông ta nên đến để xin chuộc. Ông ta tạ ơn đức Thánh Ala rằng nhờ đức kiên trung của Angielic, ông ta đã tránh được việc xúc phạm người bạn tốt nhất của mình một cách không thể nào tha thứ được. ông ta hứa sẽ trả lại nàng cho ông mà không lấy tiền chuộc: đó là luật pháp của kinh Coorran.
    Ông ta hi vọng quân lính của mình sẽ đuổi kịp nàng và những kẻ chạy trốn khác. Những toán lính được phái đi theo nhiều đường mòn khác nhau và đã nhận được lệnh: chém đầu tất cả những tên nô lệ đàn ông chạy trốn và bắt sống người đàn bà mang về.
    Cuối cùng đã nhận được những tin báo về, sau đó những tên lính mang nộp những cái đầu đã bị cắt, máu đọng khô đen. Ismail nhận thấy còn thiếu cái đầu của Coolanh Paturen.
    - Còn người phụ nữ đâu?
    Những tên lính tâu rằng mấy tên Thiên chúa giáo bỏ trốn, trước khi chết đã khai báo: lúc bị bắt, người đàn bà không còn trong bọn họ, vì người đàn bà Pháp ấy đã chết khá lâu rồi do rắn độc cắn; mấy người kia đã chôn xác bà ta ở sa mạc.
    Perắc thấy nghẹn ngào. Bỗng nhiên, ông thấy rõ là tất cả những dự định, những ý nghĩ và cả những tình cảm say mê của mình đều là vô nghĩa. Và tức cười biết bao!
    Thôi được ông sẽ ra đi. Ông sẽ rời Địa Trung Hải đi xa, không phải vì cam kết với Mede – Moóctơ, mà vì ông chợt nhận thấy mình vẫn lạc lõng giữa những con người trong nhiều năm đã giúp mình làm lại cuộc đời.
    Vậy thì ông sẽ đi tìm lại Canto, rồi sau đó sẽ dong buồm đi sang phía Tây, đi tới những lục địa mới. Từ bỏ cả một khối tài sản đã lại trở nên khổng lồ, ông sẽ bỏ lại phía sau lưng hai nền văn minh đã bị ô nhiễm đối chọi với nhau vì cùng bị thúc đẩy bởi sự cuồng tín, khiến cho cả hai đều giống nhau ở sự thái quá và tính không khoan nhượng.
    Ông đã chán ngấy cuộc đấu tranh ấy, mà tính vô bổ đã quá hiển nhiên.
    Perắc cưỡng lại ý muốn lao về vùng sa mạc để tìm kiếm một nấm mồ tội nghiệp: sẽ là một hành động điên rồ nữa, chẳng thể mang lại cái gì khác ngoài sự tuyệt vọng. Mọi cái chỉ là hư không?
    Những người nô lệ kia, những kẻ cùng chạy trốn với nàng đều đã chết rồi. ông cảm thấy cả nàng cũng đã tan biến trong khoảng mênh mông dưới ánh nắng mặt trời tàn bạo, nó làm tiêu tan mọi ý nghĩ và làm nảy sinh những ảo ảnh.
    Số mệnh sau khi đã ngăn cách hai vợ chồng ông, lại đã luôn luôn cản trở không để hai người đoàn tụ: điều ấy ắt hẳn phải có một ý nghĩa nào đó. Ý nghĩa gì vậy?..
    Cuối cùng, một con người mạnh mẽ như ông mà không đủ lòng can đảm, không đủ sự nhẫn nhục để đi tìm một điều bí mật mà chỉ tương lai mới có thể làm sáng tỏ được…
    Sau khi đã gặp lại con trai ở Palecmo, Perắc cám ơn trời đã để lại đứa con ấy cho mình: sự có mặt của Canto kéo ông ra khỏi những day dứt sâu xa mà lần này ông phải vất vả lắm mới vượt qua được.
    Khi con tàu của ông ra khỏi eo biển Gibranta đi vào đại dương và rẽ sóng tiến theo hướng châu Mỹ, ông chỉ còn giữ lại cho mình con tàu Hải bằng với đoàn thủy thủ, ít nhất là những thủy thủ nào sẵn sàng chia sẻ vận mệnh mới của ông.
    Perắc biết rất rõ tất cả số người ấy, những con người lang thang. Ông biết rõ những bi kịch nào đã ném họ cùng với ông đi khắp đó đây. Ông chỉ giữ lại những người mà mình không thể trả về nhà được, những người thà nằm bệt xuống sàn tàu ở dưới chân ông chủ chứ không muốn trở về đơn độc trên bến cảng, với cái túi hành lý nghèo nàn, ở giữa những đám người đầy ác cảm. Bởi vì họ không biết đi đâu nữa; họ sợ chế độ nô lệ của đạo Hồi, sợ chế độ nô dịch dưới các tàu gale của người Thiên chúa giáo, sợ rơi vào tay một thuyền trưởng mới tàn bạo và tham lợi, để bị bóc lột.
    Perắc được sự kính trọng của những tâm hồn mờ tối đó, của những con người mà ý chí đã chết, của những trái tim biết đau xót dưới cái vỏ thô bạo lộ liễu của họ. Ông giám sát họ nghiêm khắc nhưng không bao giờ lừa dối họ và biết cách làm thức tỉnh sự quan tâm của họ đối với những nhiệm vụ được giao và với mục đích các chuyến đi biển của ông.
    Ông không giấu giếm họ là khi rời Địa Trung Hải họ đã không còn thuộc quyền của một ông chủ đầy uy lực nữa. Bởi vì ông phải làm lại sự nghiệp từ đầu. Nhưng họ đã chấp nhận cuộc phiêu lưu này. Vả lại, rất nhanh chóng, ông đã có thể dành những phần thưởng giá trị cho sự tận tụy của họ.
    Ông mang theo cả một đội thợ lặn người đảo Mantơ và Hi Lạp. Trang bị cho đội này những thiết bị hoàn hảo, ông tiến hành công việc dò tìm trong vùng biển Caribe, cho đội thợ lặn đi mò các kho tàng của những chiếc tàu Tây Ban Nha bị đánh đắm quanh vùng này, nạn nhân của các toán cướp biển đã hoành hành ở đây từ hơn một thế kỷ rồi. Hoạt động này, ít người biết đến và chỉ một mình Perắc có thể tiến hành được, không bao lâu đã làm ông trở nên giàu to. Ông đã đạt được thỏa thuận với những trùm tướng cướp ở đảo Con Rùa; còn những người Tây Ban Nha và Anh như thuyền trưởng Philip, vì không bị ông tiến công mà lại được ông tặng một ít đồng tiền vàng giá trị nhất mò được dưới đáy biển, đều để cho ông được yên.
    Dần dần, Perắc đã vượt qua được nỗi ám ảnh mà trong một thời gian từng hằn sâu trong tâm trí ông: Angielic …Nàng chết rồi, và ông mãi mãi không bao giờ gặp lại.
    Ông không còn oán trách nàng đã sống cuồng say, có lẽ quá dại dột. Cái chết đã bổ sung cho khúc huyền thoại về nàng. Nàng đã làm một kỳ tích mà không một người nữ tù nhân Thiên chúa giáo nào dám mơ tưởng. Ông không thể quên được rằng Angielic đã cự tuyệt Quốc vương Ismail và dũng cảm đương đầu với nhục hình. Thật rồ dại! Người ta không đòi hỏi phụ nữ phải là anh hùng, ông đau đớn tự nhủ. Nếu như nàng bảo toàn được mạng sống cho mình, để ông còn được ôm nàng trong vòng tay, cảm thấy thân hình nóng ấm của nàng suốt bên người mình, để ông lại được chiếm lĩnh đôi mắt nàng, như lúc ở Canđi, thì ông sẽ quên đi mọi vết tích không chung thủy của nàng, ông sẽ tha thứ hết!...nhưng phải được thấy nàng đang sống, được chạm tới làn da mịn màng ấy, được thấy nàng là thuộc về mình trong một hiện tại vui sướng mà không lo lắng gì về quá khứ hay về ngày mai, và không phải hình dung cái thân hình kiều diễm khô quắt lại trong cát bỏng, hấp hối, đôi môi xám xịt, bị bỏ mặc không người cứu chữa giữa thanh thiên bạch nhật.
    - Ôi em yêu, anh đã yêu em biết nhường nào!...
    Tiếng gào rú của cơn bão lên cao, rung động những cái hất mạnh của sàn tàu đang điên đảo, Perắc vẫn lắng tai nghe tiếng kêu thốt lên trong ông hồi nào:
    - Em yêu, anh đã yêu em, anh đã khóc em…Vậy mà, giờ đây, anh đã tìm thấy em còn sống trên đời, nhưng anh lại không dang rộng cánh tay đón em vào lòng.
    Con người là thế. Hắn đau khổ, rồi hắn hết đau khổ. Lúc đó hắn quên đi sự sáng suốt, sự khôn ngoan do đau khổ mang lại. Đầy sức sống, hắn vội vã lấy hành trang đầy những ảo tưởng, những nỗi lo sợ nhỏ nhặt, những mối oán trách hủy diệt. Chẳng những không mở rộng vòng tay ôm lấy nàng, người đàn bà mà ông đã khổ công tìm kiếm bấy lâu nay, ông lại nghĩ đến đứa con mà một kẻ đàn ông khác đã cho nàng, nghĩ đến Đức vua, đến những năm tháng đã phí hoài, đến những đôi môi đã từng hôn lên môi nàng…ông oán trách nàng đã trở thành người xa lạ. Nhưng thế mà đúng là lúc này ông đang yêu người đàn bà xa lạ ấy.
    Một loạt câu hỏi luẩn quẩn trong óc ông:
    “Đôi môi nàng sẽ đáp lại ra sao khi ta tìm để hôn nàng? Nàng có cử chỉ gì khi ta muốn ôm nàng vào lòng? Điều bí ẩn của da thịt nàng, cũng như bí mật trong tư tưởng nàng, ta không biết được? Em là ai? Bọn họ đã làm gì em, cái thân hình xinh đẹp kia, từ nay được che giấu kín đáo như vậy…”
    Nhưng rồi ông sẽ biết làm nàng khuất phục. “Em là của anh và anh sẽ biết cách làm em hiểu ra điều đó”.
    Ông sẽ làm được như thế! Ông sẽ làm mất sự thế thủ của nàng. Ông sẽ gạt bỏ mọi điều bí ẩn của nàng, từng cái một, cũng như gỡ dần những tấm áo che thân nàng.
    Perắc phải dùng hết sức mạnh chống lại cơn gió mới đẩy được cánh cửa, ra đến bên ngoài. Trong đêm đen hoang dã đầy bọt sóng tứ tung, ông dừng lại một lát, tay bám chặt hàng lan can trên boong đã bắt đầu cót két, rên rỉ như tấm gỗ cũ mọt sắp nứt toác ra.
    “Anh là người thế nào vậy, bá tước Perắc, mà bỏ rơi vợ mình cho kẻ khác và thậm chí không buồn đấu tranh gì nữa? Mẹ kiếp! Hãy để ta trị cho xong cơn bão trời đánh này, rồi sau đó…quân ta sẽ thay đổi chiến thuật, thưa phu nhân đờ Perắc!”
    Giữa tình trạng hỗn loạn ghê gớm của con tàu trong cơn bão, một tiếng hét nổi lên:
    - Khoang bong đổ sập rồi!
    Đúng là một cơn ác mộng. Những mảnh trần lợp gỗ nứt vỡ răng rắc trên đầu các hành khách, át hẳn mọi tiếng động khác: tiếng sóng vỗ, tiếng gió rít, tiếng kêu thét vì sợ hãi của những người ngồi trên tàu bị xô đẩy vào nhau trong bóng tối hoàn toàn.
    Angielic tuột xuống sàn tàu, bị dựng đứng lên như bức tường. Nàng thấy người mình bị lăn vào cái giá súng đại bác cứng đơ, rồi lại lăn ngược trở lại. Nàng khiếp sợ nghĩ rằng bé Ônôrin nhỏ xíu cũng bị tàu lắc lư dữ dội như vậy. Tìm nó ở đâu được bây giờ? Làm thế nào nghe thấy tiếng nó kêu khóc? Tiếng gọi nhau, tiếng kêu la lẫn lộn, trần vẫn kêu răng rắc, nặng nề. Một tia nước biển mặn phọt vào. Một tiếng phụ nữ kêu lên: “Lạy Chúa, cứu vớt chúng con…chúng con chết mất!”
    Bàn tay Angielic sướt da vì chạm vào một vật cứng nóng bỏng: một chiếc đèn bị gió thổi tắt phụt và bắn tung xuống sàn tàu. May mà đèn không bị vỡ. “Cần phải nhìn thấy rõ”, nàng vừa nghĩ vừa cố bám cho chắc. Ngồi xổm dưới sàn, ra sức cưỡng lại những lắc lư khủng khiếp của con tàu, nàng mò mẫm, tìm ra chỗ mở thông phong đèn. Mấy cây nến còn khá dài và mò trong ngăn kéo được cái bật lửa đá. Nàng đánh lửa và châm đèn” một luồng ánh sáng đỏ tỏa ra.
    Phía trên kia thấy hiện ra một lỗ thủng to lởm chởm, qua đó từng lúc tràn vào một mớ nước có bọt trắng xóa.
    - Chỗ này, - Angielic kêu to- Cây gỗ kê cột buồm đằng trước tàu đã đâm thủng trần của khoang này rồi.
    Người đầu tiên từ trong bóng tối lao đến là Manigô. Với sức mạnh của người khổng lồ, ông ta đứng nâng những thanh xà sắp gẫy lên. Bécnơ, Mécxơlô và ba người đàn ông khác khỏe nhất cũng kéo đến và làm theo Manigô. Tất cả mấy người xuống tấn đỡ những xà gỗ để giảm bớt nguy cơ mái sụp.
    - Cần có…những thợ mộc, - Manigô hổn hển nói. Bảo họ đến…với gỗ và dụng cụ. Phải kê đỡ lấy cột buồm…lỗ thủng không to thêm nữa.
    Angielic đã tìm được Ônôrin: may sao, bé vẫn nằm nguyên trong cái võng của nó đã được cột rất chắc và lắc lư theo tầu.
    Angielic cầm đèn chiếu sang phía Manigô và mấy người bạn đang ra sức dùng vai nâng những thanh xà gồ kếch xù lên. Liệu họ còn sức chịu đựng được bao lâu nữa.
    Mắt đỏ ngầu những tia máu, Manigô lại hét nàng:
    - Thợ mộc!...Đi tìm họ đi…
    - Cửa bị đóng!
    - A! bọn khốn khiếp! chúng giam chúng ta lại, để chúng ta chết trong cái lỗ này như một lũ chuột…Đi sang…góc kia, có một cái cửa sập,- Manigô nói hổn hển.
    Angielic nhanh ý hiểu ngay: đó là cái cửa sập mà hôm nọ mấy thủy thủy Tây Ban Nha đã đột ngột hiện ra sau lưng nàng và bà Anna.
    Nàng chuyển cây đèn sang tay Maxian đứng cạnh đó:
    - Cầm chắc lấy cây đèn và đứng cho vững. Còn ánh sáng thì họ còn trụ được. Để tôi đi báo cho thuyền trưởng.
    Nàng bò lê bằng đầu gối, tìm được cái then cài cửa sập và thả người xuống cái lỗ tối đen. Nàng lần xuống từng bậc thang, rồi theo một hành lang hẹp và bị quăng người từ thành tường này sang thành tường bên kia như một quả bóng lăn qua lăn lại. Nàng leo lên boong tàu.
    Những tia chớp cho phép nàng nhận ra những bóng người đi đi lại lại, ra sức sửa chữa những thiệt hại nguy hiểm chết người sau mỗi đợt tấn công của các làn sóng.
    Angielic bắt đầu bò để tiến lên, tay bám lấy những dây thừng chạy dài trên lối đi từ mũi tàu đến buồng lái. Bây giờ nàng biết rằng Perắc đang ở mũi đằng kia, trên khoang thượng đuôi tàu, đang giữ bánh lái và bằng mọi giá nàng cần đến được chỗ chồng. Đấy là ý nghĩ duy nhất, đang chiếm lĩnh cả con người nàng. Nàng vượt qua đêm tối, người ướt lướt thướt, bám chắc lấy thành tàu bằng tất cả sức lực của mình.
    “Chết bên cạnh chàng. Ít nhất, cũng giành được điều đó từ tay số mệnh”.
    Cuối cùng nàng đã trông thấy chồng, lẫn trong đêm tối, hòa vào cơn bão, đến mức trông ông như là hiện thân của thần biển. Giữa những cảnh ồn ào hỗn độn, ông đứng không nhúc nhích một cách kỳ lạ.
    “Chàng chết rồi – nàng tự nhủ- chàng đã chết đứng, bị sét đánh ở tay lái!”
    Nàng lê người đến chỗ chồng đứng, chạm tay vào cái chân đi ủng của ông hầu như bị bắt vít vào sàn tàu. Lúc đó, nàng cố hết sức đứng thẳng lên, hai tay bíu chặt lấy cái dây lưng da của chồng. Ông vẫn không nhúc nhích như một pho tượng đá. Nhưng trong một tia chớp vừa sáng lóe lên, nàng thấy đầu ông vẫn động đậy và cúi xuống xem ai bám lấy mình. Ông giật mình và nàng đoán ra câu ông hỏi:
    - Em làm gì ở đây?
    Nàng kêu to:
    - Cần thợ mộc ! nhanh lên!...Khoang boong đang đổ sập!...
    Liệu chồng nàng có nghe rõ không, có hiểu lời nàng nói không?.. Perắc không thể rời tay lái. Ông cúi đầu trước một làn sóng mạnh đã phóng lên tận đây. Khi Angielic đã lấy lại được hơi, miệng còn đắng ngắt vì nước mặn ào lên giữa mặt nàng, nàng thấy thuyền trưởng Giadông đứng ở gần Rescartor. Một lát sau, thuyền trưởng lại gần chỗ lan can và áp loa vào miệng, ông gọi to những mệnh lệnh cho đám thủy thủ.
    Một tia chớp khác cho phép Angielic nhìn rõ mặt chồng lại cúi xuống gần mặt nàng…và ông mỉm cười
    - Mọi cái đều ổn…thêm một chút kiên nhẫn và sẽ là kết thúc.
    - Kết thúc gì vậy?
    - Kết thúc cơn bão…
    Nàng đưa mắt nhìn ra bóng đêm trong giông tố. Phía trên đằng cao đang diễn ra điều kỳ lạ - Angielic đứng thẳng người lên hét:
    - Kìa! Nhìn kìa!
    Perắc cũng đã nhìn thấy. Ông biết rằng cái đập nước màu trắng đang lơ lửng trên không kia, không phải gì khác là cái ngọn đầy bọt trắng xóa của một làn sóng khủng khiếp, mù quáng ào ào đổ ụp xuống hai người:
    - Làn sóng cuối cùng – Ông lẩm bẩm.
    Căng hết cơ bắp, chạy đua về tốc độ với quả núi nước biển đó, Perắc quay mạnh bánh lái hết cỡ về mạn trái rồi cài lại.
    - Tất cả mọi người về mạn trái- thuyền trưởng Giadông hét to.
    Perắc hất người lại đằng sau. Với một cánh tay, ông ôm sát Angielic vào người mình; và dùng cánh tay kia, ông ôm chặt lấy cột buồm lái.
    Khối nước khổng lồ ập xuống người họ, đè lên mạn phải và bị đẩy đi với một tốc độ chóng mặt, con tàu Gunxbôrô chỉ còn là một cái nút chai nhỏ bằng gỗ cuốn theo cái vòng khổng lồ của làn sóng.
    Rồi con tàu cũng đã qua được cái đầu sóng sủi bọt trắng, lật mình trên sườn bên kia hết sức đột ngột và lao xuống dốc như phóng xuống một cái vực không đáy.
    Angielic cảm thấy cơn mưa như thác đổ đang trút xuống người hai vợ chồng nàng sẽ không bao giờ dứt được.
    Thực tại duy nhất mà trí óc nàng cảm nhận được đó là cánh tay sắt vòng quanh người mình, cánh tay của chàng đang giữ nàng. Nàng muốn hít không khí, nhưng đã hớp phải nước mặn tanh. Hai người đang ở dưới đáy biển, mãi mãi ràng buộc với nhau, đoàn tụ vĩnh cửu và một niềm thanh thản tuyệt vời tràn ngập trái tim và thân thể mệt mỏi của nàng: “Hạnh phúc lớn nhất…đây rồi…cuối cùng đã đến…”
    Nàng không bị ngất, nhưng những sự va chạm quá mạnh gây nghẹt thở đã khiến nàng đờ đẫn. Và nàng không sao tin được rằng biển cả đã ngừng bắt nàng lăn đi như hòn đá cuội và yên tĩnh đã trở lại chung quanh nàng.
    Sự yên tĩnh này chỉ có tính tương đối. Con tàu tiếp tục bị lay chuyển nhưng so với cái mà nó vừa trải qua thì có thấm vào đâu.
    Căn phòng nhỏ của Rescartor thành một nơi ẩn náu yên tĩnh như có phép thần.
    Angielic đã trôi dạt vào đây, quần áo ướt sũng và nàng không thể nhớ lại bằng cách nào mình đã lần đến được đến tận chỗ này.
    Nàng bỗng nhận ra có một người đàn ông mình trần ở trong phòng đang vuốt nước trên người xuống thật mạnh, đồng thời nóng nảy rũ mớ tóc dày cho bắn tung hàng loạt giọt nước nhỏ như sương.
    Người đàn ông, cả bàn chân và bắp chân đều để trần, chỉ mặc độc chiếc quần nịt ngắn bằng da dính sát người, làm nổi rõ những đường nét cao, gầy của thân hình.
    - Thế nào, phu nhân nhỏ bé của tôi, em đã tỉnh cơn mơ màng chưa đây? –tiếng nói của Perắc vang bên tai nàng.
    Ông làm nốt công việc xoa mạnh đôi vai mình cho nóng lên; rồi với chiếc khăn, ông lại gần Angielic, ngắm nhìn nàng, hai bàn tay để cạnh sườn. Chưa bao giờ trông ông giống như một tên cướp biển lợi hại thế, với hai bàn chân không, với nước da đen sạm như hun khói và những tia sáng mỉa mai cay độc dưới những món tóc xoăn dày đen sẫm.
    - A, anh…- Nàng lẩm bẩm một cách máy móc.
    - Thưa vâng…anh chẳng còn một mảnh nào khô trên người. Mà cả em nữa, em phải bỏ ngay những quần áo ướt sũng kia đi…Em thấy bão ở vùng biển này thế nào? Mãnh liệt đấy chứ, phải không nào?
    Ông cười. Tiếng cười làm Angielic công phẫn đến nỗi nàng đủ sức gượng đứng thẳng dậy được, mặc dù váy nàng đầy ứ nước nặng như chì.
    - Ông cười ư? – Nàng kêu to giận giữ - những cơn bão làm ông cười, ông Perắc …Những cuộc tra tấn làm ông cười. Ông còn hát to trên thềm Nhà thờ Đức bà…Tôi khóc thì có quan trọng gì? …Và ngay ở Địa Trung Hải…không có ông.
    Đôi môi nàng run run. Nước biển mặn chát hay chính là nước mắt đang chảy đầm đìa trên đôi má tím nhợt của nàng? Chẳng lẽ nàng khóc, Angielic bất khuất kia mà?...
    Perắc dang rộng cánh tay, kéo nàng vào sát bộ ngực ấm áp của mình:
    - Em bình tĩnh lại, bình tĩnh lại, phu nhân nhỏ bé của anh…Chả nhẽ bây giờ lại bắt đầu để thần kinh mình căng thẳng sao?...Nguy hiểm đã qua rồi, em yêu ạ. Cơn bão đã tan.
    - Nhưng bão còn quay lại.
    - Cũng có thể. Nhưng chúng ta vẫn sẽ vượt qua. Vậy ra em ít tin tưởng ở tài năng thủy thủ của anh đến thế ư?
    - Anh bỏ mặc em – Nàng rên rỉ.
    Những ngón tay lạnh như băng của nàng lần tìm những nếp gấp trên quần áo chồng mà lúc nãy nàng đã bám chặt, nhưng chỉ chạm tay vào làn da ram ráp nóng hổi khiến nàng bồi hồi. Và nàng bỗng thấy mình như trong mơ. Nàng vịn bằng cả hai bàn tay vào đôi vai vững vàng vô địch ấy, đôi chân nàng lơ lửng và thấy đôi môi ông sát lại gần môi mình.
    Niềm xúc động ập đến quá nhanh, nàng không thể cưỡng lại được. Nàng giật nảy mình, buông hai tay rời chồng ra. Ông Perắc ngăn trước cử chỉ của nàng định bỏ chạy ra cửa.
    - Hãy ở lại
    Angielic giương mắt ngơ ngác nhìn ông, không hiểu gì cả.
    - Ở đằng kia, mọi cái đã ổn cả. Những người thợ mộc đã đến kịp. Người ta đã buộc phải hạ bớt cột buồm đằng trước xuống nhưng trần đã chữa xong và nước đã tát cạn. Con gái em, anh đã giao nó cho người vú em rất tận tâm, là anh chàng Toocmini xứ Xixin mà nó rất quý.
    Ông nhẹ nhàng đặt bàn tay dài của mình lên má nàng và buộc nàng phải áp mặt vào vai ông.
    - Hãy ở lại…ở nơi khác không ai cần đến em cả, chỉ có anh ở đây là cần đến em thôi.
    Nàng run rẩy hết chân tay. Sự êm dịu đột ngột này, nàng không thể tin đó là sự thật. Ông hôn nàng…chàng hôn nàng!...
    Và nàng bị cuốn vào một loạt những cảm giác trái ngược nhau, quay cuồng như một cơn gió lốc, khiến nàng kiệt sức, như trong bão lúc trước.
    - Nhưng mà, - nàng vừa kêu lên vừa cố giãy ra một lần nữa, - không thể thế được!...Anh không yêu em nữa…Anh khinh rẻ em…anh thấy em xấu đi…
    - Này, này! Em nói gì thế, cô em xinh đẹp của anh, - chàng vừa nói vừa cười – chẳng lẽ anh đã làm em giận đến thế ư?...
    Chàng đẩy nàng ra một chút, để giữ nàng với cánh tay duỗi thẳng và ngắm nghía nàng với nụ cười giễu cợt xen lẫn một thứ tình cảm không thể nào mô tả chính xác được.
    Nàng hoang mang đưa bàn tay lên khuôn mặt giá lạnh cứng đơ của mình, lên mớ tóc dính bết lại vì nước biển:
    - Nhưng, nom em mới gớm ghiếc làm sao! – nàng rên rỉ
    Chàng ôm lấy nàng và đột nhiên nhấc bổng nàng lên nhẹ nhàng như không
    - Em điên thật, em yêu quí!...Ai mà chẳng phải yêu em? Nhưng em chỉ thuộc về một mình anh thôi.
    Chàng bế nàng về phía giường, đặt nàng lên đó, giữ nàng sát cạnh mình, vuốt ve trán nàng như săn sóc một đứa bé ốm:
    - Ai chẳng muốn được yêu em, em yêu quí của anh!
    Trong vòng tay của chàng, nàng ngơ ngác, không còn sức chống đỡ. Cơn bão khủng khiếp, vừa làm nàng sợ hãi hết hồn, nay mang đến cho nàng, thật bất ngờ, cái giây phút mà nàng đã không hy vọng có nữa, giây phút mà nàng đã luôn luôn vừa ao ước vừa muốn lẩn tránh. Tại sao được như vậy? Do phép thần kỳ nào?
    - Nào, em hãy nhanh nhanh gỡ bỏ đám quần áo ướt kia đi, nếu em không muốn để anh làm hộ.
    Cởi bỏ hết những quần áo ướt sũng dính bết vào làn da rét run của mình, nàng bắt đầu cảm nhận bàn tay vuốt ve của chàng.
    - Đừng lo ngại gì cả - chàng thì thầm – để anh sưởi ấm cho em.
    Chàng khao khát nàng.
    Chàng dường như phát hiện ra nàng, y như một người đàn ông lần đầu tiên phát hiện một người đàn bà mà từ lâu anh đã từng ao ước tấm thân kiều diễm ấy.
    - Em có đôi cánh tay mới tuyệt mỹ làm sao, chàng thốt lên đầy vẻ thán phục.
    Đây là ngưỡng cửa của tình yêu, của mối tình lớn, tuyệt đẹp đã từng gắn bó hai người trước kia.
    Angielic tiếp nhận, nhưng chưa thể đáp ứng ngay được, đôi môi nồng ấm của chàng đặt lên môi nàng, rồi lên cổ nàng, lên vai nàng…
    Đôi môi ấy như xoáy chặt vào da thịt nàng, trong những cái hôn mỗi lúc một thêm thiết tha nồng cháy hơn…
    Chút khiếp sợ còn vương vấn trong nàng đã được quét sạch hoàn toàn. Người đàn ông được tạo ra cho nàng, nay đã trở lại với nàng. “Có anh ấy, mọi cái đều là tự nhiên, đơn giản và đẹp đẽ. Mình là của anh ấy, hãy để nguyên cho anh chiếm lĩnh”. Và đột nhiên tỉnh táo, nàng chợt nhận thấy, vừa sợ sệt vừa vui mừng rạng rỡ, là cuối cùng hai người chỉ là một…
    Trời sáng dần, từ từ xua đi những màn bóng tối và hoàn lại cho đôi mắt còn ngơ ngác của Angielic những đường nét trong khuôn mặt nghiêm khắc của vị thần đồng nội như được tạc bằng gỗ phủ lớp rỉ đồng, khiến nàng băn khoăn tự hỏi, đây là thật hay mơ.
    Trời đã sáng rõ, sau cơn bão, sóng biển có một lối chuyển động uể oải, khoái lạc, như Angielic cũng đang có cảm giác ấy một cách sâu lắng. Mùi của biển đã mất vẻ đắng ngắt. Angielic ngửi thấy có mùi hương thơm của tình yêu, hương thơm của cảnh đoàn tụ. Tuy vậy, không phải nàng không có một chút nghi ngai.
    Tuy trong đáy lòng nàng vang lên những tiếng nói thiết tha, chưa có tiếng nào thoát ra lời.
    Chàng nghĩ gì về sự im lặng ấy, về sự ngượng nghịu của nàng?
    - Chà! Perắc bảo nàng – Nói riêng với em thôi nhé, em thân yên, em chẳng tiến bộ gì về tình yêu kể từ thời ở trường học vui cả.
    Angielic bật cười: Perắc cứ chê mình vụng về trong yêu đương như thế còn hơn là chê trách những tiến bộ của mình!
    Nàng ra vẻ ngượng nghịu:
    - Em biết. Anh sẽ còn phải dạy cho em học lại nhiều điều, ngài quý tộc của em. Xa anh, em có sống thật đâu, em chỉ sống sót thôi. Hai cái không giống nhau…
    - Hừ! Anh không tin em hẳn đâu! Không sao! Cái em vừa nói là một lời đẹp.
    Chàng tiếp tục vuốt ve nàng:
    - Thật có lỗi lớn nếu che giấu tấm thân đẹp này trong những quần áo xấu xí như đứa ở. Anh sẽ sửa sai ngay.
    Nàng nhìn ông đứng lên và đến tìm trong một cái rương một số quần áo, đem ném xuống chân giường,
    -Từ nay, em sẽ ăn mặc cho coi được.
    - Anh bất công quá, Giôphrây – những quần áo như người ở mà em đang mặc này – anh bảo thế mà – nó cũng có cái tốt chứ. Chả lẽ anh lại muốn em ăn mặc như bà hoàng khi xuống tàu Gunxbôrô của anh, để cho bọn lính long kỵ binh của Nhà vua bám theo à? Em đâu còn là nữ chủ của một vương quốc?
    Perắc lại nằm xuống cạnh nàng. Gối đầu cao lên một chút trên khuỷu tay vẻ mơ mộng như một nhà thơ:
    - Một vương quốc ư?... Nhưng anh có một vương quốc đấy. Nó mênh mông …tuyệt vời. Tùy theo mùa, nó mặc những bộ quần áo bằng ngọc bích hay bằng vàng. Biển xanh lơ hiếm có vỗ sóng vào những bãi cát đẹp rực rỡ như ánh bình minh…
    - Vương quốc của ngài ở đâu, thưa chúa công?
    - Anh đang đưa em đến đó.
    Nàng giật mình trở lại những hiện thực.
    Chàng đưa mắt nhìn nàng và lại mỉm cười . Bàn tay chàng như cái máy, đùa giỡn với mớ tóc của Angielic xõa xuống gối.
    Perắc lộ vẻ ngạc nhiên:
    - Tóc của em nhạt màu đi nhiều nhỉ, - chàng kêu lên,- Này, anh nói thật đấy, em có những sợi tóc bạc!
    - Vâng, - Nàng nói khẽ,- mỗi món tóc bạc là kỷ niệm một kỳ hấp hối.
    Chàng cau mày, tiếp tục ngắm nàng thật tỉ mỉ.
    - Em kể đi, - chàng nói, giọng thúc giục.
    Kể ư? Kể cái gì chứ? Kể những khổ đau đã đánh dấu từng chặng đường nàng đã qua, khi ở xa chàng ư?
    Mắt nàng mở to mênh mông, sâu thẳm, nàng nhìn chàng chằm chằm, cái nhìn đầy vẻ dầy vò. Đưa ngón tay, thật dịu dàng, chàng vuốt ve hai bên thái dương nàng. Nàng không biết rằng động tác ấy, chàng đã đồng thời lau đi những giọt nước mắt từ từ chảy ra mà nàng không hay.
    - Em đã quên hết rồi, có gì đâu mà kể.
    Nàng giương hai cánh tay trần ra, mạnh dạn quàng vào cổ chàng và kéo sát vào ngực mình.
    - Anh còn trẻ hơn em nhiều, ngài Perắc ạ; anh còn giữ nguyên được mớ tóc dày như tóc người Mo của anh, đen thẫm như mun. Chỉ lác đác có vài sợi hơi bạc.
    - Vì em mà anh có những sợi bạc đó.
    - Thật ư anh?
    Chàng trông thấy, trong ánh bình minh lờ mờ, rung rung đường cong của đôi môi nàng, nửa mỉm cười, nửa buồn bã – Và chàng nghĩ thầm: “Nỗi đau khổ duy nhất của anh…tình yêu độc nhất của anh”.
    - Đúng rồi, anh đã đau buồn …vì em…nếu em muốn biết rõ…ôi, cô gái làm tan nát trái tim những gã đàn ông.
    Nàng đẹp biết bao! Càng xinh đẹp hơn, vì trái tim chan chứa tình người nồng nhiệt, trong cuộc đời sóng gió. Chàng muốn được nghỉ ngơi trong lòng nàng. Trong vòng tay nàng, chàng sẽ quên mọi điều.
    Chàng nâng mớ tóc dày óng ả rồi xoắn lại thành một cái dây quấn quanh cổ mình. Hai cặp môi sát nhau, hai người sắp hôn nhau say xưa thì bỗng một tiếng súng nổ ở bên ngoài phá tan sự yên tĩnh lúc ban mai.




    Chương 26



    Nghe tiếng súng nổ, Angielic có cảm tưởng như sống lại những cảnh đã qua: cảnh sát Nhà vua ập đến, bọn long kỵ binh. Tất cả rối tinh rối mù lên.
    Mắt căng ra, nàng nhìn Giôphrây đờ Perắc vùng dậy, hối hả mặc quần áo, nai nịt chiếc áo kỵ sĩ bằng da đen, đi đôi ủng cao cổ.
    - Dậy đi!- chàng thảng thốt! – nhanh lên!..
    - Cái gì vậy?
    Nàng chợt nghĩ là tàu Gunxbôrô bị một con tàu cướp biển khác tấn công.
    Lấy lại bình tĩnh, nàng nhào đến đống quần áo chồng nàng vừa vứt ở cuối giường. Chẳng bao giờ có người đàn bà nào ăn mặc cẩu thả đến thế. Nàng vừa kịp gài yếm lại thì một tiếng nổ trầm làm rung chuyển khung cửa kính căn phòng.
    - Mở cửa ra – một tiếng nói thều thào phía bên ngoài.
    Giôphrây đờ Perắc mở chốt cửa và một thân người nặng nề đổ vào ông ta rồi lăn đùng xuống tấm thảm trải sàn. Giữa hai bả vai của người vừa ngã xuống, một vệt đỏ sẫm to tướng lan dần ra.
    Đờ Perắc đưa tay lật người đó lên.
    -Giadông!
    Viên thuyền trưởng mở mắt.
    - Hành khách- Ông ta lẩm bẩm – chúng…bất ngờ…tấn công tôi…trong sương mù này…chúng đã làm chủ boong thượng.
    Qua cánh cửa mở toang, sương mù nhợt nhạt và dày đặc cuồn cuộn tràn vào. Angielic thấy hiện lên mấy bóng người quen quen. Gabrien Bécnơ xuất hiện trước ngưỡng cửa, tay cầm khẩu súng lục còn bốc khói.
    Tay súng của hắn và của đờ Perắc vung lên cùng một lúc.
    “Không” – Angielic muốn kêu lên.
    Nàng kìm được tiếng kêu nhưng kịp nhào ra phía trước và giữ tay chồng lại. Nòng súng đang nhằm vào gã lái buôn theo đạo Tin lành bị chệch hướng và viên đạn bắn ra mất hút vào lớp gỗ vàng phủ tường phía trên cửa ra vào.
    - Dại dột! – đờ Perắc rít lên qua kẽ răng.
    Nhưng chàng không đẩy nàng ra. Chàng biết khẩu súng ngắn của mình chỉ có vẻn vẹn mỗi viên đạn và không thể nạp thêm được nữa, Angielic lấy thân mình làm khiên che cho chồng.
    Không nhanh bằng địch thủ, Bécnơ chưa kịp nổ súng. Hắn ngập ngừng, nét mặt rúm ró. Bây giờ thì hắn không thể hạ sát người hắn thù ghét mà không làm bị thương và có khi làm chết người đàn bà hắn yêu dấu.
    Manigô bước vào rồi đến Care, Mécxơlô và mấy thủy thủ người Tây Ban Nha đồng mưu với họ.
    - Này, được đấy Đức ông – Tay chủ tàu nói, giọng mỉa mai – Bây giờ đến lượt chúng ta vào cuộc! Hãy thú nhận là ông không lường trước rằng những người di cư khốn khổ trước mặt ông, những kẻ chỉ đáng cho một tên phiêu lưu tham tàn đem đi bán, mà bây giờ lại chơi cho ông một vố đau như thế này. Ông hãy thức đêm và cầu nguyện đi, vì ông không còn ngày nào nữa cũng chẳng còn giờ nào nữa đâu – như Thành thư đã dạy. Đalila đã làm ông lơ là cảnh giác và chúng tôi lợi dụng sự lơ là chúng tôi vốn theo dõi từ lâu ấy. Thưa Đức ông, xin ngài nộp hết vũ khí cho chúng tôi.
    Angielic đứng sững như tượng đá giữa hai người.
    Giôphrây đờ Perắc đẩy nàng ra và đưa khẩu súng ngắn cho Manigô. Hắn giắt ngay vào thắt lưng. Hắn và đồng bọn được trang bị đến tận răng. Chúng có lợi thế và đờ Perắc hiểu rằng mọi dấu hiệu chống lại đều vô ích và có thể làm mình mất mạng ngay. Rất bình tĩnh chàng thắt lại khăn đeo ngực và cổ tay bằng đăng ten trên áo sơ mi.
    Đám người Tin lành khinh khỉnh nhìn quanh cái phòng sang trọng, người đàn ông đồi bại và cảnh chăn nệm bề bộn đầy ý nghĩa trên chiếc tràng kỷ kiểu Phương Đông. Angielic chẳng thèm để ý đến những sự phán xét của họ về đức hạnh của nàng, những gì vừa xảy ra quả là vượt quá nỗi kinh hoàng khủng khiếp nhất của nàng, chỉ suýt nữa là bá tước đờ Perắc và lão Bécnơ giết nhau ngay trước mặt nàng. Và hành vi phản nghịch của những người bạn đồng hành của nàng chống lại chồng nàng khiến nàng khiếp đảm.
    - Ôi! Các bạn, các bạn làm gì vậy? – Nàng thì thầm.
    Đám người Tin lành đã lường trước được cơn thịnh nộ và dè chừng những lời khiển trách dữ dội của Angielic. Vững lòng tin ở mình, họ quyết tâm đối phó, nhưng trước ánh mắt của nàng, trong một lúc, họ cũng đâm ra nghi ngờ sự chính đáng của cuộc phiêu lưu này. Quả thật có cái gì đó không sao hiểu nổi.
    Giữa hai người đàn ông và đàn bà trước mặt họ - người đàn ông với vẻ mặt không quen biết và kỳ dị, vì đây là lần đầu tiên họ trông thấy mặt chàng không đeo mặt nạ và người đàn bà, cũng xa lạ trong chiếc áo dài mới – họ cảm thấy có một mối dây liên hệ bất diệt, ngoài mối liên hệ về xác thịt mà họ lên án.
    Với chiếc áo thêu kiểu Vơnidơ hở vai trên đó đung đưa mớ tóc vàng óng, Angielic không còn là người bạn họ từng quen biết nữa mà là vị mệnh phụ phu nhân trước kia Gabrien Bécnơ đã mơ hồ nhận ra dưới lớp ngụy trang của người ở gái. Nàng đứng bên cạnh đờ Perắc như đứng cạnh lãnh chúa của mình. Kiêu hãnh, cao ngạo, hai người tỏ ra thuộc một loại người khác, một dòng giống khác và đám người Tin lành thoáng cảm thấy mình lạc hướng đang sắp sửa sai lầm về xét đoán mà họ sẽ phải trả giá khủng khiếp. Những lời ngắn gọn Manigô định nói, cuối cùng hắn cũng quên mất. Hắn đã từng hí hửng sẽ nắm gọn trong tay anh chàng Rescartor bí ẩn và khinh người. Nhưng lúc này, đứng trước mặt vợ chồng nàng, sự khấp khởi của hắn tan biến.
    Tuy vậy hắn vẫn là người đầu tiên trấn tĩnh lại.
    - Chúng tôi phải tự vệ - hắn hăng hái. Thưa ông, nhiệm vụ của chúng tôi là lập lại trật tự để thoát khỏi số phận tai hại mà ông dành cho chúng tôi. Và bà Angielic đã giúp chúng tôi khi làm ông mất cảnh giác.
    Chớ có mỉa mai, ông Manigô – nàng nói một cách nghiêm trang, - ông sẽ phải hối hận đã xét người qua vẻ bề ngoài, khi ông biết được sự thật. Nhưng hôm nay ông chưa thể nghe ra đâu. Tuy vậy tôi vẫn hy vọng ông sẽ nhanh chóng nhận ra lẽ phải và ông sẽ thấy những hành động của mình là điên rồ.
    Chỉ có sự bình tĩnh và vẻ đàng hoàng mới làm cho những kẻ đang điên tiết kia phải kinh sợ. Nàng cảm thấy họ đang có nhu cầu phải chém giết và cũng có quyền thống trị còn bấp bênh của họ. Chỉ cần một cử chỉ, một lời nói có thể xảy ra đổ vỡ không sao hàn gắn được.
    Nàng vẫn đứng trước Giôphrây đờ Perắc. Dù sao đi nữa họ cũng chẳng dám bắn vào nàng, người đã dẫn dắt họ vượt qua các vực thẳm.
    Và quả là họ do dự.
    - Bà tránh ra, bà Angielic – cuối cùng tay chủ tàu nói – mọi sự chống cự đều vô ích, bà thấy đấy. Từ nay tôi là người chỉ huy con tàu, chứ không phải là người đàn ông kia mà bà khăng khăng bảo vệ để chống lại chúng tôi, những người mà và vừa gọi là bạn của bà.
    - Các ông định làm gì ông ấy nào?
    - Chúng tôi sẽ giám sát ông ta.
    - Các ông không có quyền giết ông ấy mà không xét xử, không có chứng cứ về tội lỗi của ông ấy đối với các ông. Nếu giết ông ấy các ông sẽ phạm điều ô nhục xấu xa nhất. Chúa sẽ trừng phạt các ông.
    -Chúng tôi không có ý định giết ông ta – Manigô nói sau một phút ngập ngừng.
    Nhưng nàng biết rõ bọn họ đến đây là để trước hết trừ khử chàng và nếu không có nàng thì chắc chắn chàng đã nằm sóng sượt cạnh Giadông rồi. Nàng cảm thấy người đầm đìa mồ hôi lạnh.
    Thời gian trôi đi chậm chạp.
    Nàng phải cố giữ cho khỏi run lên. Nàng ngoảnh lại nhìn chồng xem chàng phản ứng ra sao trước những hành động sỉ nhục và nguy hiểm kia. Nàng rùng mình. Đờ Perắc nhoẻn một nụ cười bí ẩn chàng vẫn dành cho những kẻ mưu toan hãm hại mình.
    Có cái gì trong con người này đã làm cho những kẻ kia quyết sát hạ chàng. Mọi cố gắng nhằm bảo vệ chàng đều uổng công vô ích. Chàng chẳng cần ai hết và có thể còn dửng dưng với cái chết, với việc xa nàng ngay sau khi vừa tái ngộ.
    - Anh không trông thấy họ làm gì ư? – Nàng hỏi gần như tức giận. Họ …chiếm đoạt mất tàu của anh rồi!
    - Chưa có gì làm bằng cớ - chàng đáp, vui vẻ đùa.
    - Ông nên biết rằng phần lớn đoàn thủy thủ của ông đã bị nhốt dưới hầm tàu và không thể nào ra được để bảo vệ ông đâu. – Manigô lớn tiếng – Bộ hạ tôi có vũ khí đang giám sát từng ngõ ngách, từng lối ra vào…và kẻ nào tìm cách ló cổ ra ngoài sẽ bị bắn bỏ xác không thương tiếc. Còn những người khác đang đứng trên boong tàu phần lớn đều muốn thoát khỏi tay một ông chủ tàn bạo, tham lam và từ lâu họ đã hứa sẽ đồng mưu với chúng tôi.
    - Rất vui vì được biết điều đó – đờ Perắc nói.
    Chàng đưa mắt nhìn đám thủy thủ người Tây Ban Nha đang lượn lờ như những con sói quanh phòng khách. Lần đầu tiên chúng nhìn thấy bao nhiêu là của cải và bắt đầu vơ vét những đồ mĩ nghệ bằng vàng chúng thèm khát.
    - Giadông đã báo trước cho tôi biết – Chàng nói – Chúng tôi đã phạm sai lầm là tuyển người quá vội vàng. Và các ông thấy đấy, một sự sai lầm thường phải trả giá còn đắt hơn cả một tội ác…
    Chàng nhìn cái xác cứng đờ của thuyền trưởng Giadông, máu thấm qua lớp len dày và những hoa văn trên thảm. Nét mặt chàng rắn đanh và cặp lông mày chàng nhíu lại trên đôi mắt đen láy sáng rực.
    - Các ông đã giết chết người phó của tôi…người bạn chí cốt đã mười năm nay…
    - Chúng tôi giết những đứa chống lại chúng tôi. Nhưng tôi đã nói với ông, chúng không nhiều, còn những tên khác thì bây giờ đã đi theo chúng tôi.
    - Tôi chúc ông sẽ không gặp phải quá nhiều khó khăn với đám “tân binh xuất sắc” này, những kẻ được nhặt trong cái đám vô lại mạt hạng ở Canđi và Lixboa – Giôphrây đờ Perắc nói và cười gằn – Manuelô! – Chàng thét lên.
    Một tên cướp bạo loạn giật nảy mình và Rescartor ra lệnh cho hắn bằng tiếng Tây Ban Nha. Hắn hốt hoảng và vội vàng đưa áo khoác cho chàng.
    Đờ Perắc khoác áo lên vai và cương quyết đi ra cửa.
    Đám người Tin lành lập tức vây lấy chàng và ngạc nhiên thấy dù sao chàng vẫn giữ được uy tín đối với đoàn thủy thủ.
    Manigô dí súng vào sườn chàng.
    - Đừng có tìm cách dọa dẫm chúng tôi. Tuy chúng tôi chưa quyết định số phận sẽ dành cho ông, ông vẫn nằm trong tay chúng tôi và ông không tài nào thoát khỏi đâu.
    - Trong lúc này, tôi chẳng dại gì mà không nhận ra điều đó. Tôi chỉ muốn xem xét tình hình tận mắt thôi.
    Chàng đi lên ban công và tựa vào tay vịn bằng gỗ chạm trổ trong khi các họng súng dài, súng ngắn dí sát bên hông. Một phần lan can đã bị bão cuốn mất đêm qua.
    Ở phía dưới, Giôphrây đờ Perắc có thể nhìn thấy con tàu bị tàn phá. Những chiếc buồm rách treo thòng lòng. Đầu một số trụ căng buồm, thừng chão nhằng nhịt làm thành những cuộn rối tinh rối mù quái dị, đung đưa, chỉ trực cướp đi những ai dám qua lại nơi này. Trên boong, một khúc cột buồm mũi bị đánh gãy cùng với buồm, trục căng buồm và dây néo, làm cho con tàu Gunxbôrô dũng mãnh giống như một xác thuyền bị đắm, vĩnh viễn làm mồi cho con sóng biển khơi vùi dập.
    Ngoài sự phá phách của bão táp, còn những đổ nát do cuộc đánh nhau ngắn ngủi nhưng dữ dội gây ra. Đám thủy thủ hôm nay đã trở thành những kẻ bạo loạn, thản nhiên quẳng xuống biển những xác chết lăn lóc trên boong tàu.
    - Tôi thấy rồi – Rescartor nói khẽ.
    Chàng ngước mắt. Giữa hai trục căng buồm trên hai cột buồm còn lại, đoàn thủy thủ mới rất ít thôi, nhưng khá năng nổ, cố sức bảo quản và sửa chữa những lại dàn buồm, gỡ thừng chão ra và đưa thêm thừng chão mới vào những nơi cần thiết. Mấy chàng trai theo đạo Tin lành được dịp luyện tập nghề thủy thủ trông coi buồm. Công việc chẳng nhanh chóng gì nhưng biển cả khoan dung và hiền từ như sẵn sàng để cho những người mới tập việc có thời gian học nghề.
    Trên khoang thượng đuôi tàu, Lơ Gan nhân sương mù lúc dạng đông đã lẻn vào hạ sát Giadông, cướp lấy loa phóng thanh. Manigô giao việc chỉ huy cho người hoa tiêu xứ Brơtanhơ vì hắn là người có khả năng nhất trong nghề đi biển.
    Breagio cầm tay lái. Nói chung, những người La Rôsen này đã đi biển hoặc ít hoặc nhiều, không đến nỗi ngỡ ngàng trong nhiệm vụ mới, và mặc dù tầm quan trọng của một con tàu như Gunxbôrô, họ vẫn có thể tiến tới làm chủ và lái được nó với sự giúp đỡ của hai mưoi thủy thủ đã chạy sang hàng ngũ họ và với điều kiện là không nghỉ ngơi….và với điều kiện là …
    Đờ Perắc quay lại đối mặt với đám người Tin lành. Chàng vẫn tiếp tục mỉm cười.
    - Công việc đẹp thật các ông ạ. Tôi công nhận là các ông đã tiến hành trót lọt. Kiệt sức sau một đêm vật lộn để cứu con tàu, tự cứu họ và cứu các con ông, đoàn thủy thủ của tôi phải nghỉ ngơi, chỉ còn lại vài người canh chừng và các ông đã biết lợi dụng cơ hội để thực hiện kế hoạch kẻ cướp của các ông.
    Lão Manigô vốn cục tính đỏ mặt lên vì câu chửi thề.
    - Kế hoạch kẻ cướp á! Tôi thấy ông đảo ngược vai trò rồi đấy.
    - Này! Vậy nên gọi hành động dùng vũ lực chiếm đoạt của cải của người khác, như tàu của tôi đây, là gì?
    - Một con tàu ông đã đánh cắp của người khác. Ông sống bằng cướp bóc…
    - Ngài thật hàm hồ trong nhận xét, các ngài Tân giáo ạ. Các ngài hãy đến Bôxton. Các ngài sẽ biết là tàu Gunxbôrô đã được đóng theo bản thiết kế của tôi và được trả bằng tiền vàng hẳn hoi.
    - Vậy thì những đồng tiền vàng ấy, nguồn gốc cũng khả nghi lắm, tôi cam đoan như thế đấy!
    - Ai có thể khoe khoang rằng những đồng tiền vàng trong túi mình là những đồng tiền vàng trong sạch cơ chứ. Cả ông nữa, thưa ông Manigô, của cải mà tổ tiên ngoan đạo của ông, dù là cướp biển hay thương gia ở La Rôsen để lại cho ông chẳng phải là đã thấm bao mồ hôi nước mắt của hàng nghìn nô lệ da đen ông đã mua trên bờ biển Ghinê để rồi đem bán lại ở châu Mỹ đó sao?
    Đứng tựa lan can, miệng vẫn mỉm cười, chàng nói chuyện như trong phòng khách, chứ chẳng phải trước những họng súng đang lăm lăm định hạ sát mình.
    - Có liên quan gì? Manigô sửng sốt nói – Tôi đâu có phát minh ra nghề buôn bán nô lệ. Hơn nữa châu Mỹ cần nô lệ thì tôi cung cấp. Thế thôi.
    Đờ Perắc đột nhiên phá lên cười vui vẻ thỏa mãn tới mức Angielic phải bị tai. Nàng muốn nhảy bổ tới vì chắc chắn Manigô sẽ đáp lại sự khiêu khích đến như thế bằng một phát súng ngắn. Nhưng chẳng xảy ra chuyện gì hết. Đám người Tin lành như bị chàng thôi miên. Angielic cảm thấy như có một luồng điện toát một thứ quyền lực vô hình, chàng làm cho họ mất cảm giác về không gian và thời gian họ đang sống.
    - Ôi lương tâm vô cùng tận của những người chính trực! - Chàng vừa nói vừa hít thở, - có ai còn mảy may nghi ngờ lý do chính đáng của hành vi con người khi người đó tin chắc mình đã nắm được chân lý? Nhưng hãy cho qua chuyện ấy đi – chàng nói với cử chỉ của một đại lãnh chúa ung dung và khinh thị. – chính lương tâm ngay thẳng làm cho hành động trong sáng. Tuy nhiên, nếu như ông hành động không phải là để cướp bóc thì ông đưa ra động cơ gì để biện bạch cho ý muốn cướp sạch tài sản của tôi và cả tính mạng của tôi?
    - Ông dự định không đưa chúng tôi đến đích của chuyến đi là Xanh – Đômanhgơ.
    Rescartor im lặng. Đôi mắt đen láy, sáng rực của chàng không rời khỏi khuôn mặt lão chủ tàu. Hai người mặt đối mặt. Thắng lợi sẽ thuộc về người nào có thể làm cho người kia phải cụp mắt xuống.
    - Thế là ông không còn chối cãi được nữa – Manigô nói tiếp, vẻ đắc thắng – May mà chúng tôi đã biết tỏng ý đồ của ông. Ông muốn đem bán chúng tôi chứ gì!
    - Hừ! buôn bán nô lệ chẳng phải là một cách tốt và lương thiện để hốt bạc đó sao? Nhưng ông nhầm rồi. Tôi chưa hề bao giờ có ý định đem bán các ông cả. Tôi chẳng quan tâm đến việc đó. Tôi không biết các ông có những gì ở Xanh – Đômanhgiơ, nhưng những gì mà tôi có, còn nhiều hơn tất cả của cải trên hòn đảo tí hon đó; và giá tôi có lợi dụng được cái thân xác chẳng lấy gì làm đẹp đẽ của những người Tân giáo các ông, thì cũng chẳng vì vậy mà tôi giàu có thêm và cũng không phải vì thế mà chăm lo cho các ông và gia đình các ông để thêm phiền phức đâu. Tôi sẵn sàng các thêm tiền để rũ khỏi các ông – chàng nói tiếp với nụ cười ngọt ngào – ông phóng đại cái giá trị hàng hóa của các ông lên đấy, ông Manigô ạ, mặc dù ông là người lái buôn thịt người có kinh nghiệm.
    - À! Đủ rồi đấy – Manigô giận điên người kêu lên – chúng tôi để cho ông nói đã là quá tốt rồi. Sự láo xược của ông không cứu nổi ông đâu. Chúng tôi bảo vệ sự sống còn của chúng tôi mà ông đã từng nắm trong tay. Điều ác mà ông gây ra với chúng tôi…
    - Điều ác gì?...
    Bá tước đờ Perắc đứng thẳng người hai tay khoanh trước ngực dữ dằn nhìn hết người này người khác từ đầu đến chân và trước ánh mắt sáng quắc của chàng họ đứng lặng câm.
    - Điều ác mà tôi gây nên cho các ông có lớn hơn điều ác mà bọn long kỵ binh của Nhà vua muốn trút lên đầu các ông khi chúng phi nước đại gươm tuốt trần, đuổi theo các ông không? Trí nhớ các ông quá xoàng, các ông ạ, nếu không phải là nó phản bội các ông…
    Rồi chàng lại cười:
    - Ồ! Đừng nhìn tôi với những tròng mắt ngơ ngác kia như thể tôi chẳng hiểu các ông nghĩ những gì. Nhưng tôi hiểu rõ, ồ, tôi hiểu! Điều ác thật sự mà tôi đã làm đối với các ông, tôi biết lắm. Tôi đã đem các ông tới trước mặt những người chẳng giống các ông, những người mà các ông cho là ác nhưng đã làm điều thiện cho các ông. Con người bao giờ cũng sợ cái mà người ta không hiểu. Những người Morơ trên tàu của tôi là những người dị giáo, kẻ thù của chúa Giêsu, là những người Địa Trung Hải trụy lạc, là những người làm nghề biển cục cằn và báng bổ: thế nhưng họ đã tự nguyện chia sẻ cho các ông khẩu phần bánh qui của họ, nhường cho con cái các ông rau tươi để giúp chúng chống lại bệnh hoại huyết. Dưới hầm tàu, có hai người bị thương ở La Rôsen. Nhưng các ông không thể có một chút tình hữu ái nào đối với họ vì theo các ông thì họ là những người “xấu”. Cùng lắm thì các ông cũng chỉ dùng họ làm những kẻ đồng mưu, như khi các ông thương lượng với những người Ả rập buôn bán nô lệ da đen chúng cướp được trên các vùng cao châu Phi mà tôi chứ không phải ông biết khá kỹ càng. Tôi cho qua.
    - Ông còn xỉ vả tôi với đám nô lệ nữa hay thôi đấy? – Lão chủ tàu giận dữ hỏi, - Đúng là ông lên án tôi đã phạm tội ác. Những đứa vô thần man rợ thì có nên lôi chúng ra khỏi những thần tượng tội lỗi của chúng để làm cho chúng biết Thượng đế chân chính và niềm vinh quang của lao động hay không?
    Giôphrây đờ Perắc ngạc nhiên. Chàng đưa tay lên sờ cằm và lắc đầu, vẻ suy tưởng.
    - Tôi công nhận có thể bảo vệ quan điểm của ông, mặc dù phải là một bộ óc…tôn giáo sâu sắc mới có thể hiểu được. nhưng quan điểm đó làm tôi kinh tởm. Có thể là vì trước đây, tôi cũng vậy, đã từng đeo xiềng xích.
    Chàng lật ống tay áo đăng ten lên và chìa hai cổ tay nâu sạm trên đó còn lưu lại những vết sẹo sâu nhợt nhạt.
    Phải chăng chàng lầm lẫn? Đám người Tin lành nghe chàng nói, giật mình hoang mang và trên mặt họ - chính bản thân tôi và đoàn thủy thủ của tôi trên con tàu này, hầu hết đều đã bị xiềng xích. Vì vậy mà chúng tôi không thích những người buôn bán nô lệ như ông.
    - Thằng tù khổ sai! – Manigô quát lên – Thế mà ngươi còn muốn chúng ta tin và tin bọn bạn tù khổ sai của ngươi.
    - Bị tòa án Nhà vua cầm tù ở thế kỷ chúng ta có phải là điều xấu xa không thưa ông? Trước đây, tôi có những người bạn tù ở nhà lao Macxay mà tội ác duy nhất là đã theo Tôn giáo, như người ta thường nói trong vương quốc Pháp mà các ông đã bỏ trốn…
    - Đấy là chuyện khác. Họ chịu khổ đau vì tín ngưỡng.
    - Vậy ông có quyền gì xét xử mà không cần biết là niềm đam mê nào khác tôi phải chịu đựng những bản án bất công?
    Manigô cười ha hả vẻ châm chọc cay độc.
    - Chỉ ít nữa, Đức ông lại làm cho chúng tôi tin là trong nhà tù Macxay và trên ghế bị cáo của Nhà vua đầy rẫy những người vô tội, chứ không phải là bọn giết người, cướp của và bọn cường đạo chứ gì.
    - Biết đâu đấy? chẳng thiếu gì đâu nếu theo chuẩn mực của cái thế giới cũ suy đồi. Than ôi “Có một nỗi đau mà tôi đã thấy dưới ánh sáng mặt trời như là một lỗi lầm của người cai trị: sự điên rồ chiếm những vị trí rất cao và những người giàu có bị đặt xuống địa vị thấp hèn. Tôi đã từng thấy những tên nô lệ ngồi trên lưng ngựa và những hoàng tử đi chân đất như những kẻ nô lệ” Tôi dẫn Thánh kinh đấy, các ông ạ.
    Chàng giơ một ngón tay kiên quyết, hầu như tiên tri lên và lúc đó, Angielic đã hiểu.
    Chàng tìm cách đánh lừa. Trong cuộc đối thoại kỳ quặc này chàng không hề biện bạch với đối phương, thuyết phục họ “hối cải” theo quan điểm của chàng với hy vọng hão huyền làm cho họ nhận ra sai lầm. Chính bản thân Angielic cũng biết là vô ích và vì thế nàng hết sức lo lắng theo dõi những lời lẽ trao đổi giữa hai bên mà nàng thấy hầu như không đúng chỗ trong lúc này. Bỗng nhiên nàng khám phá ra mưu mẹo của chàng. Biết là đám người Tin lành rất sính những cuộc tranh luận kinh viện, chàng đưa họ vào một cuộc thảo luận về tín ngưỡng, dùng những lý lẽ gian trá và đặt những câu hỏi kỳ quặc để thu hút sự chú ý của họ.
    “Anh ấy tìm cách tranh thủ thời gian – nàng tự nhủ - nhưng anh ấy có thể hy vọng gì? Chờ đợi gì? Những người trung thành trong đoàn thủy thủ đều đã bị nhốt dưới hầm tàu và những người tìm cách thoát ra đều bị bắn không thương tiếc”.
    Một phát súng trường vang lên dướ hầm tàu, như đáp lại ý nghĩ của nàng và nàng đau đớn giật mình.
    Tình cảm nồng nàn đối với Angielic day dứt trong lòng Bécnơ khiến trực giác của lão càng thêm mạnh mẽ, liệu có làm cho lão linh cảm được những gì nàng đang suy nghĩ hay không?
    - Hỡi các bạn – Lão kêu lên – Hãy coi chừng! kẻ quỷ quái này đang tìm cách ru ngủ lòng ngờ vực của chúng ta. Hắn mong bạn bè đến cứu và định dùng lời lẽ để trì hoãn bản cáo trạng của chúng ta.
    Họ tiến lại gần Rescartor và vây chặt lấy chàng. Nhưng không một ai dám đưa tay ra để bắn giữ và trói tay chàng.
    - Đừng có tìm cách lừa dối chúng tôi nữa – Manigô dọa dẫm – Ông hết đường hy vọng rồi. Những người của chúng tôi mà ông tuyển vào đoàn thủy thủ đã cung cấp cho chúng tôi một bản sơ đồ tỉ mỉ của con thuyền và chính bản thân ông Bécnơ – ông hãy nhớ lại đi – bị ông xích chân xích tay, đã nhận ra được là cái phòng ông ta bị giam, thông gió bằng một cái hầm tàu người ta thả dây neo trong đó. Qua hầm tàu mà chúng tôi giữ cửa ra vào ấy, chúng tôi có thể đi vào kho thuốc súng và kho đại bác. Nếu cần, chúng ta sẽ đánh nhau trong hầm tàu, nhưng chúng tôi đã nắm trọn kho dự trữ đạn dược rồi.
    - Xin tỏ lời khen ngợi!
    Chàng giữ tư thế một đại lãnh chúa và giọng mỉa mai hầu như không che giấu làm họ bực tức và lo lắng.
    - Tôi công nhận trong lúc này các ông là người mạnh nhất. Tôi nhấn mạnh “trong lúc này” vì dù sao thì tôi cũng có năm mươi người dưới chân tôi đây.
    Chàng dùng ủng dẫm mạnh xuống sàn tàu.
    - Ông tưởng là sau phút bất ngờ đầu tiên, họ sẽ ngoan ngoãn chờ ông hết ngày này đến ngày khác để ông mở cửa lồng sắt cho họ ra ư?
    - Nếu họ biết là họ không còn thuyền trưởng để mà phục vụ hay để sợ hãi nữa – Gabrien Bécnơ nói, giọng lúng túng – thì có thể phần lớn bọn họ sẽ đi với chúng tôi. Những người khác, những người sẽ vĩnh viễn trung thành với ông…thì mặc xác chúng!
    Angielic ghét lão chỉ vì câu nói này.
    Gabrien Bécnơ muốn Giôphrây đờ Perắc phải chết. Nhưng chàng chẳng tỏ vẻ xúc động.
    - Vì thưa các ông, các ông chớ quên rằng muốn đi từ đây đến các hải đảo châu Mỹ, các ông ít nhất cũng phải mất hai tuần lễ vượt biển đầy khó khăn.
    - Chúng tôi chẳng dại gì mà đi thẳng một mạch, không dừng – Manigô nói, điên tiết lên vì cái giọng kẻ cả của địch thủ và không thể nào kìm giữ nổi không nói ra ý đồ của mình, - Chúng tôi sẽ tiến về bờ biển và trong vòng hai ngày, chúng tôi sẽ đến Xacô hay Bôxtôn…
    - Nếu như dòng xoáy Phlôriđơ cho phép.
    - Dòng xoáy Phlôriđơ nào? Trong lúc đó, Angielic nhìn về hướng tầng thượng trước mũi tàu và bị thu hút vì một hiện tượng đáng lo ngại, nàng không chú ý theo dõi cuộc đối thoại. Lúc nãy nàng thấy hình như sương mù dày đặc lên ở phía đó, nhưng bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa. Không phải sương mù mà là khói. Nàng không thể phân biệt từ đâu những cuộn khói dày đặc tản ra, phủ kín cảnh tượng ngổn ngang trên boong tàu bị sóng đánh vỡ. Đột nhiên, nàng kêu lên một tiếng. Nàng chỉ tay vào cửa khoang boong, nơi đàn bà trẻ con đang ở trong đó và khói trắng đang từ từ thoát ra. Qua các khe hở từ những thanh ván sàn khép kín boong tàu, cũng có những cuộn khói đáng sợ như thế bốc lên cao, cuốn xoắn lại. Chính là dưới ấy, ở phía dưới ấy, ở phía trong đó đã nổ ra đám cháy.
    - Cháy! Cháy!
    Họ nghe tiếng kêu và nhìn về hướng tay chỉ
    - Cháy trong kho chứa…các ông đã cho di chuyển các bà vợ đi nơi khác chưa?
    - Chưa – Manigô nói – Chúng tôi dặn họ ngồi im trong khi chúng tôi hành động. Nhưng nếu xảy ra hỏa hoạn…tại sao họ không chạy ra?
    Lão gân cổ ra gào.
    - Chạy ra! Chạy ra …cháy đấy.
    - Có khi nào họ bị chết ngạt rồi – Bécnơ nói.
    Rồi lão lao đi, Mécxơlô chạy theo.
    Không ai chú ý đến người tù nữa. Chàng nhảy đi, lẹ như một con cọp. Bỗng cất lên một tiếng rên bị nén lại trong cổ họng. Người thủy thủ Tây Ban Nha đứng gác trước cửa phòng Rescartor lăn ra, cổ họng hắn bị đâm một mũi dao găm chàng vừa rút từ trong ủng ra.
    Khi quay lại, bọn Bécnơ còn trông thấy cái xác chết nằm sóng sượt. Rescartor đã nấp vào trong phòng, ngoài tầm tay của bọn họ. Chàng hẳn đã có vũ khí trong tay và buộc chàng ra khỏi nơi này chẳng phải là chuyện dễ.
    Manigô nắm chặt tay, lão hiểu ra là đã bị đánh lừa.
    - Tên khốn khiếp! Hãy đợi đây. Hai người trong bọn các anh ở lại đây – Lão ra lệnh cho những người thủy thủ mang vũ khí vừa chạy tới – Chúng tôi phải chạy xuống chỗ bị cháy và sẽ tính chuyện với hắn sau. Hãy canh chừng cửa và đừng để hắn thoát ra ngoài.
    Angielic không nghe những lời sau cùng này. Nghĩ là Ônôrin đang ở giữa lò lửa, nàng nhảy bổ đến chỗ con tàu đang bị ngọn lửa đe dọa.
    Chỉ cách hai bước, không còn trông thấy gì nữa. Trước cửa ra vào, Bécnơ và Mécxơlô ho khúc khắc vì nghẹt thở, cố hết sức phá cửa.
    - Có thanh sắt chốt phía trong.
    Họ dùng rìu phá tung cánh cửa.
    Những bóng người loạng choạng xuất hiện, tay bưng lấy mắt. Những cơn ho, tiếng hắt hơi, tiếng kêu, tiếng khóc vang lên từ trong đám mây mờ đục. Angielic mò mẫm như người mù, vấp phải những sinh linh vô hình đang giãy giụa trong cơn ác mộng. Có những bàn tay túm chặt lấy nàng. Nàng nhấc mấy đứa trẻ ngã xỉu dưới sàn lên và lôi chúng ra ngoài. Bất giác nàng thấy mình không hề ngửi thấy mùi khói. Chỉ có mắt cay xè vì ngứa ở cổ họng, ngoài ra không có gì khó chịu lắm. Không sợ bị ngất nữa, nàng trở lại căn hầm dày đặc sương mù để tìm Ônôrin. Tiếng người ngột ngạt bắt đầu í ới gọi nhau.
    - Xara! Gieni! Ở đâu đấy?
    - Chị đấy ư?
    - Có làm sao không?
    - Không, nhưng cửa ra vào cũng như cửa sổ, không mở được.
    - Tôi đau cổ họng.
    - Bécnơ, Care, Đari lại đây. Phải tìm cho ra nơi gây hỏa hoạn.
    - Nhưng …không hề thấy có hỏa hoạn!
    Bỗng Angielic nhớ lại cái đêm Canđi bốc cháy. Con tàu của Rescartor trôi dạt trong một lớp khói màu vàng nhạt. Savary kêu lên:
    - Đám mây là là trên mặt nước kia là cái gì vậy?... Là cái gì vậy?
    Bò lê dưới sàn, Angielic sờ soạng tìm Ônôrin. Nỗi kinh hoàng của nàng dịu xuống. Không có khói, không có ngọn lửa. Chắc hẳn lại một âm mưu của Rescartor, chồng nàng, vị bá tước thông thái mà những thí nghiệm khoa học của chàng đã làm dấy lên khắp nơi những nỗi ngờ vực và khiếp sợ.
    - Mở cửa sổ thành tàu ra – có người lên tiếng.
    Những nắm tay mạnh mẽ hưởng ứng. Nhưng mặc dù có không khí mới lọt vào, lớp sương mù kỳ lạ cũng chỉ tản đi một cách chậm chạp: nó dính chặt vào đồ đạc và vách tàu.





  4. #12
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default




    Cuối cùng Angielic nhận ra khẩu đại bác cạnh chỗ nàng nằm và chiếc võng của Ônôrin. Võng bỏ không. Nàng tìm kiếm quanh mình, đụng phải một người đàn bà hai tay úp lên mặt và cố đi tìm một ô cửa để thở.
    - Abighen! Cô có biết con gái tôi ở đâu không?
    Abighen ho một tràng dài. Angielic dìu cô ta ra phía sau cửa sổ.
    - Không sao đâu. Chắc chẳng có gì nguy hiểm đâu. Chỉ khó chịu tí chút thôi.
    Lấy lại hơi thở, cô gái bảo nàng là cô cũng đang đi tìm Ônôrin.
    - Tôi nghĩ là anh thủy thủ người đảo Xixin trông giữ cháu đã đem nó đi trước khi khói tuôn vào hầm tàu. Từ xa xôi tôi trông thấy anh đứng dậy, đi vào phía trong hầm tàu trên tay mang một vật gì, có thể là con bé. Tôi không chú ý…Lúc đó chúng tôi đang nói chuyện với nhau về tình hình xảy ra trên boong tàu. Chúng tôi hết sức lo lắng…Bà Angielic, bà tha lỗi cho tôi vì đã lơ là trong việc trông nom em bé. Hy vọng không xảy ra chuyện gì với em. Anh chàng người đảo Xixin ấy có vẻ hết lòng với nó.
    Cô gái lại ho, lau hai mắt đỏ hoe và giàn giụa nước mắt. Giống như sương mù một buổi sáng mùa hè tan đi trong ánh nắng mặt trời mới mọc, màn khói dày đặc dần dần loãng ra, để lộ mọi vật xung quanh. Không một dấu vết lửa cháy.
    - Bà Angielic, tôi cứ tưởng bà bị chìm, bị cơn bão khủng khiếp cuốn đi. Bà dũng cảm biết chừng nào trong cái đêm đi cứu đó. Khi cánh thợ mộc tới thì ông Mécxơlô vừa bị ngất xỉu. Tất cả mọi người chúng tôi đều đổ xô ra để chống đỡ cái sàn sắp đổ ụp xuống đầu. Sóng tràn ngập chúng tôi. Giá chỉ có một mình chúng tôi thì chẳng chống đỡ được lâu hơn. Những người thợ mộc ấy tuyệt thật!
    - Thế mà sáng nay các người đã giết hại họ - Angielic nói, đầy vẻ chua xót.
    - Cái gì đã thực sự xảy ra vậy? – Abighen thì thầm vẻ sọ hãi – Mệt quá, chúng tôi ngủ thiếp đi, khi thức dậy thì đã thấy tất cả đàn ông mang vũ khí. Cha tôi cãi nhau kịch liệt với ông Manigô. Ông cụ cho rằng lão ta sắp sửa làm một việc điên rồ.
    - Đúng vậy, họ đã cướp tàu, giết chết những người trong đoàn thủy thủ đang canh gác trên boong tàu và giam giữ trong hầm tàu những người đang nằm nghỉ trong đó. Cả một sự lộn xộn.
    - Thế còn ông Rescartor?
    Angielic buông thõng hai cánh tay trong một cử chỉ tuyệt vọng. Thậm chí nàng cũng không còn đủ sức để nghĩ đến số phận của Giôphrây đờ Perắc, của Ônôrin, và để tự đặt cho mình những câu hỏi về cách giải quyết tình huống nguy kịch này.
    Các sự kiện xảy ra dồn dập và xô đẩy nàng như trong bão tố.
    - Làm gì để chống lại sự điên cuồng của con người – Nàng vừa nói, vừa ngơ ngác nhìn Abighen, - Tôi cũng không biết nữa…
    - Tôi nghĩ chẳng có gì đáng lo ngại về em bé – Cô bạn cố an ủi nàng – Ông Rescartor đã ra lệnh cho anh chàng người Xixin khi ông đến đây hôm qua. Hình như ông dặn dò phải chăm sóc em bé như thể là con đẻ của chính ông vậy. Phải chăng ông gắn bó với em bé là vì bà? Ông Rescartor yêu bà, phải không?
    - Bây giờ đâu phải là lúc nói về tình yêu! – Angielic phản đối và úp mặt vào hai bàn tay.
    Nhưng phút yếu lòng chỉ thoáng qua.
    - Cô bảo là ông ấy đến đây đêm qua?
    - Vâng…chúng tôi bám lấy ông ấy và kêu toáng lên “Cứu chúng tôi với” Bà Angielic, làm sao giải thích được điều này: lúc đó, tôi cho là ông cười và thế là đột nhiên, chúng tôi hết sợ và hiểu là một lần nữa chúng tôi lại thoát chết. Ông bảo: “Bão táp sẽ không nuốt chửng các bà đâu. Chỉ là một cơn bão con con, nó không “thèm ăn đâu”. Chúng tôi thấy mình sợ hãi đến như thế thật là ngu ngốc. Ông giám sát và điều khiển công việc của đám thợ mộc, rồi sau đó…
    “Rồi sau đó, chàng đến với mình- Angielic thầm thì – và ôm mình vào lòng. Không, mình không chịu thoái chí – nàng lại nghĩ. Số phận đâu run rủi mình đến chốn này…vào trong vòng tay chàng để rồi mình lại bị bỏ rơi …vì mệt mỏi qua bao cuộc vật lộn!”.
    “Đây là cuộc thử thách cuối cùng” – Một tiếng nói từ nội tâm cất lên.
    - Định mệnh không muốn có mối tình của chúng tôi – Nàng nói lớn – Có thể vì mối tình của chúng tôi lớn lao quá, mạnh mẽ quá. Nhưng con người có thể chiến thắng số mệnh. Osman Feraji đã từng nói như vậy.
    Nét mặt nàng đanh lại và nàng vươn dậy một cách kiên quyết.
    - Lại đây mau lên – Nàng bảo Abighen.
    Hai người bước qua những tấm đệm nằm và đồ vật lăn lóc trên sàn tàu. Khói hầu như đã tan hết. Chỉ còn phảng phất một lớp khói mỏng, một mùi hăng hắc.
    - Quái lạ thật, không biết cái hơi mù này từ đâu tới? – Angielic hỏi.
    - Hình như từ khắp mọi nơi. Lúc đầu, tôi cứ tưởng mình ngủ thiếp hay ngất lịm đi…Ồ!...tôi cũng còn nhớ. Hình như tôi thấy người thầy thuốc Ả rập đến với chúng tôi. Ông ta cầm một cái bình to tướng bằng thủy tinh màu đen, nặng tới mức ông phải oằn người xuống. Tôi cứ tưởng mình đang nằm mơ, nhưng có thể đấy là sự thật…
    - Chúng tôi cũng vậy, chúng tôi trông thấy ông ta – nhiều tiếng nói cùng khẳng định.
    Trên boong tàu, đàn bà và trẻ con tỉnh dậy. Họ bị choáng váng nhưng không có vẻ ốm đau, nhiều người trông thấy người thầy thuốc Ả rập hiện lên như có phép màu qua những mảng sương mù lúc đó dã bắt đầu bao phủ lấy họ.
    - Làm sao ông ấy vào được và nhất là lại ra được? Đúng là trò phù thủy!
    Thốt xong từ “phù thủy”, họ kinh hoàng nhìn nhau. Nỗi lo sợ tiềm tàng trong lòng họ từ khi lên tàu Gunxbôrô, giờ đây trở lên rõ rệt.
    Manigô đưa nắm đấm về phía những cửa kính lấp lánh đằng kia, dưới boong thượng con tàu.
    - Tên phù thủy! nó dám cả gan tấn công vào lũ trẻ để đánh lạc hướng cơn thịnh nộ của chúng ta và trốn thoát.
    Angielic không còn chịu nổi nữa. Nàng lao vào giữa bọn họ.
    - Đồ khốn nạn! Lúc nào cũng nhai nhải cái từ cách đây mười lăm năm người ta đã vu oan cho anh ấy: Đồ phù thủy! Tên phù thủy! Bao giờ cũng vẫn những lời nhảm nhí ấy! Này, những kẻ ngớ ngẩn kia! Tín ngưỡng của các người và những lời giáo huấn của mục sư của các người có ích lợi gì nếu các người vẫn mê muội như những người nông dân thô lỗ theo đạo Thiên chúa mà các người khinh bỉ? “Con người còn thù ghét khoa học đến bao giờ?...”. Đọc Thánh kinh, có khi nào các ngươi suy ngẫm về những lời nói trong đó không? Người ta còn thù ghét đến bao giờ những cái gì cao hơn mình, thù ghét con người mà không một nỗi khiếp hãi nào có thể ngăn cản trong công cuộc tìm hiểu vũ trụ? Các người để mình được đưa đến một vùng đất mới phỏng có lợi ích gì, nếu như người vẫn mang theo dưới đế giày tất cả bùn nhơ của những sự dại dột, tất cả bụi bặm vô bổ của thế giới cũ?..
    Nàng không sợ họ thù ghét. Nàng không còn biết sợ hãi là gì nữa. Nàng cảm thấy chỉ có nàng mới đảm nhận được vai trò hòa giải giữa hai đám người đang đối đầu nhau kia, vì bị chia rẽ bởi những hiểu lầm cố hữu.
    - Ông Manigô, có phải ông tin chắc rằng các ông đang đứng trước một hiện tượng phù phép không? Không! Vậy tại sao ông cố tình khích động những đầu óc chất phác hay sợ hãi bằng những chuyện bày đặt dối trá? Ông mục sư, - Nàng vừa kêu lên vừa quay về phía ông già đang đứng lặng im – Ông hãy xem đám con chiên của ông còn giữ lại được những gì về tinh thần công lý và chân lý mà họ từng phô trương ở La Rôsen khi họ có trong tay tất cả của cải và tiện nghi. Ngày nay điều khiển các hành vi của họ là lòng tham lam ghen ghét, thù hằn thấp hèn nhất. Ông Manigô, không phải chỉ vì sợ mất tiền bạc mà ông quyết định làm cái trò cướp giật này, mà còn vì ông sợ không có nhiều tiền bạc hơn nữa, ngay trên đảo. Con tàu đẹp tuyệt vời này quyến rũ ông. Và ông tự bào chữa cho mình là tước đoạt những người sống ngoài vòng pháp luật, tức là làm việc thiện.
    - Quan điểm của tôi vẫn như vậy đấy. Hơn nữa, đối với những kẻ sống ngoài vòng pháp luật, người ta phải dè chừng tất cả mọi việc và ý đồ của chúng tôi đối với chúng rồi xem ra cũng chẳng lấy gì có thể yên tâm. Ông mục sư, tôi biết ông không tán thành chúng tôi, ông khuyên chúng tôi chờ đợi. Nhưng chờ đợi cái gì? Khi chúng tôi bị đưa xuống một vùng bờ biển hoang vắng không tiền bạc, không vũ khí, thì sẽ tự vệ cách nào? Tôi đã nhiều lần nghe nói về những con người bất hạnh lên tàu để đi sang Tân thế giới nhưng bị bọn thuyền trưởng đem bán cho các công ty, chủ những vùng đất cần khai khẩn. Chúng tôi thì chúng tôi phải chiến đấu chống lại một tên phản đạo, một kẻ báng bổ, một con người vô hạnh và không có đức tin. Người ta bảo tôi hắn là cố vấn bí mật của quốc vương Côngxtăngtinnốp. Giống như tất cả mọi kẻ phản đạo, hắn là đứa độc ác, gian xảo. Ngay lúc này, hắn chẳng đã tìm cách giết hại hết sức man rợ vợ con vô tội của chúng tôi sao?...
    - Ông ấy chỉ tìm cách đánh lạc hướng các ông trong khi các ông đe dọa tính mạng ông ấy. Mưu mẹo cũng là một thứ vũ khí lợi hại chứ.
    - Đồ khốn khiếp! Hun gia đình người ta như hun chuột, thế không phải là cách thể hiện rõ bản chất bất cứ việc gì của hắn hay sao?
    - Cách đó là vô hại, cứ nhìn vào nét mặt hiện nay của các “nạn nhân” thì rõ.
    - Nhưng mà làm sao mà chỉ bằng…một cái nhìn, hắn có thể phóng lửa ra được? – Một bác nông dân ở xóm Xanh – Đômanhgio ngập ngừng hỏi, - Hắn đang đứng nói chuyện với chúng tôi ở đằng đuôi tàu kia, thế rồi, bỗng nhiên khói bốc lên. Thế có phải là phù thủy không nào…?
    Manigô nhún vai.
    - Ngu như lợn – Lão lầu bầu… có gì khó mà không hiểu nào…Hắn có những kẻ đồng mưu mà chúng ta không để ý. Lão thấy thuốc già người ả rập dường như ốm lả trên giường…và cả cái gã người đảo Xixin ấy nữa cũng chưa biết chừng. Tôi đoán là Rescartor cố tình bố trí ở đấy vì hắn có điều nghi hoặc. Y tìm cách báo cho chủ. May sao chúng ta nhanh tay hơn. Nhưng chắc hẳn hắn đã có kế hoạch phối hợp thực hiện trước với lão thầy thuốc để đề phòng bất trắc… Anh bảo là đứa con ba lần đáng nguyền rủa đó của Môhamet ôm một cái bình bằng thủy tinh màu đen phải không?
    - Vâng! Vâng!... Chúng tôi trông thấy ông ta! Nhưng chúng tôi cứ ngỡ mình nằm mơ.
    - Cái chai bầu đó đựng thứ thuốc độc gì vậy?...
    - Tôi biết – Bà Anna lên tiếng – Đấy là dung dịch amôniac, một thứ muối vô hại, nhưng gây cảm ứng và khi tan ra, thoát khỏi bình chứa, người ta kinh hoàng vì trông giống một cách kỳ lạ khói mù của một đám cháy.
    Bà ta ho một cách kín đáo và lau đôi mắt vẫn còn bỏng rát vì nhứ “muối vô hại”.
    - Các ông nghe thấy chưa? Các ông đã nghe thấy chưa? – Angielic sôi nổi hỏi.
    Nhưng những kẻ bạo loạn không muốn nghe giọng nói nhẹ nhàng và thông thái của bà già độc thân. Lời giải thích tự nhiên của bà chẳng những không trấn an được họ mà càng làm họ nổi khùng thêm. Khi họ tưởng đã làm chủ tình thế, thì Rescartor vẫn điều khiển họ với những tài khéo léo mà người ta chỉ có thể cho là ma quái mà thôi. Chàng kìm giữ họ lại bằng những lời lẽ và những cuộc tranh luận mà họ đã dại dột để mình bị lôi kéo vào. Thế là thời gian đã ủng hộ chàng. Những người đồng mưu có điều kiện chuẩn bị một đám cháy giả tạo. Lợi dụng sự xúc động không tránh khỏi khi xuất hiện một tai họa trên tàu, giờ đây Rescartor đã thoát khỏi tay họ.
    - Sao chúng ta lại không giết chết hắn ngay tức khắc! Bécnơ giận điên người thốt lên.
    - Nếu các người dám đụng đến một sợi tóc ông ấy…Angielic nghiến chặt răng – Nếu các người dám đụng đến ông ấy..
    - Thì bà sẽ làm gì nào? – Manigô lên tiếng và đến đứng trước mặt nàng – chúng tôi có đủ sức mạnh bà Angielic ạ và nếu bà kiên quyết bênh vực kẻ thù của chúng tôi, thì chúng tôi cũng sẽ làm cho bà không còn khả năng làm hại nữa.
    - Các ông cứ thử đụng đến tôi xem – Nàng dữ dằn đáp – Cứ thử xem, rồi các người sẽ biết tay!
    Đấy là điều họ không dám làm. Họ chỉ dám đe dọa hòng làm nàng khiếp sợ. Họ mong sao nàng suy sụp, cấm khẩu đi càng tốt vì mỗi lời nàng phóng ra là một mũi tên bắn vào họ, nhưng họ không dám hành hạ nàng. Họ cho làm như thế là phạm thánh. Không một ai trong số họ có thể giải thích vì sao.
    Angielic cố bám vào chút uy tín mỏng manh dù sao nàng vẫn còn giữ được đối với họ. Một lần nữa nàng nghiêm khắc nhìn họ và quyết định.
    - Chúng ta hãy quay lên trên kia. Bằng bất cứ giá nào cũng phải thương thuyết với ông ấy.
    Họ hầu như ngoan ngoãn đi theo nàng. Vừa men theo dọc con tàu, họ vừa nhìn xuống mặt biển. Sương mù đã lan thành một vòng tròn khép kín màu lưu huỳnh cách con tàu cô đơn chỉ mấy sải tay. Tuy vậy, biển vẫn êm đềm hiền dịu và cuộc hành trình của tàu Gunxbôrô bị thương vẫn tiếp tục suôn sẻ. Hình như thần linh quyết định để cho con người có thời gian chấm dứt những chuyện cãi cọ của họ.
    “Nhưng nếu lại gặp giông bão – Manigô chợt nghĩ – thì mình làm gì được khi đám người kia đang bị nhốt kín dưới hầm tàu? Phải làm cho họ đứng ngay vào hàng ngũ bọn mình…Và muốn vậy thì phải kiểm soát thật chắc bản thân Rescartor …Phải làm cho chúng tin là Rescartor chết rồi. Đấy là điều duy nhất khiến chúng phải bối rối. Chừng nào chúng còn tin Rescartor còn sống thì chúng còn chờ hắn gây nên những chuyện thần kỳ.Chừng nào hắn còn sống!..”



    Chương 27



    Lên đến hàng ban công có tay vịn, cảnh tượng bày ra trước mặt khiến họ dừng lại và Angielic suýt ngất đi vì sợ hãi. Trái lệnh của Manigô, đám người phản loạn Tây Ban Nha hắn sai đến canh gác trước cửa phòng Rescartor đã phá cửa và đập kính. Bắt lấy người chủ chúng vốn khiếp sợ là mục tiêu đầu tiên. Sau đó thì cướp phá.
    Một tên trong bọn, Ginăng Phecnăngđê, trước đây từng bị Rescartor trói vào cột buồm mũi vì tội chống lệnh, tỏ ra điên cuồng nhất. Hắn cũng mơ hồ cảm thấy chừng nào người chủ còn sống thì chưa biết thắng lợi sẽ thuộc về ai. Lúc bấy giờ thì vô phúc cho những kẻ bạo loạn! Vô số đứa sẽ bị treo cổ…
    Cửa bị phá tung, chúng chờ đợi đòn đánh trả của kẻ đang ẩn nấp trong phòng. Chúng kéo nhau vào, súng trường và dao bầu lăm lăm trong tay. Chẳng có gì hết.
    Giờ đây chúng đứng giữa phòng khách thênh thang, trống không!
    Kinh ngạc tới mức không còn nghĩ đến việc chiếm đoạt những của cải chúng hằng thèm muốn, chúng lục lọi khắp nơi cũng chẳng thấy đâu. Vậy thì con người làm cho chúng e ngại kia trốn đâu? Phải chăng ông ta chui vào bình kia như một làn khói. Manigô chửi bới om sòm và đấm đá túi bụi.
    Ấm ớ mãi, cuối cùng chúng cũng nói được thành lời. Chúng bảo là chúng đi vào nhưng không có một ai. Có khi hắn ta đã hóa thân thành chuột. Với một con người như vây, thì việc gì cũng có thể xảy ra…
    Cuộc tìm kiếm lại bắt đầu. Mécxơlô đến mở hết các cánh cửa sổ lớn phía sau con tàu, những cửa mà qua đấy Angielic đã nhìn thấy mặt trời lặn trong buổi chiều kỳ thú khi rời khỏi La Rôsen. Cúi gập người xuống họ nhìn không chớp mắt những đợt sóng sục sôi dưới mạn tàu. Ông ta không thể nào trốn qua đây được. Họ cũng nhận định một cách xác đáng là nếu nhảy xuống biển thì ông ta không thể nào đóng cửa sổ lại được.
    Họ tìm ra chìa khóa của sự bí ẩn này trong căn phòng nhỏ bên cạnh. Ở đấy tấm thảm bị ném sang một bên cho thấy một cái nắp cửa sập. Họ lặng im nhìn nhau. Manigô cố kìm những tiếng chửi.
    - Chúng ta chưa biết hết mọi thứ cạm bẫy trên con tàu này, - Lơ Gan nói sau khi vừa đến nhập bọn - Chủ nó như thế nào thì nó như thế ấy.
    Có một nỗi cay đắng và lo âu trong giọng nói của hắn ta. Được thể Angielic nói thêm.
    - Đấy, các ông thấy chưa! Các ông tự lừa dối mình khi kết tội Rescartor là một tên cướp biển. Thật ra các ông đã phải công nhận con tàu này là của ông ấy và trên thực tế các ông rất có thể thỏa thuận với ông ấy. Tôi cam đoan với các ông là ông ấy không hề muốn làm điều xấu với các ông. Các ông hãy đầu hàng đi trước khi tình hình còn có thể cứu vãn được!
    Angielic đã sai lầm. Lời nói cuối cùng của nàng thật tai hại. Người dân La Rôsen rất nhạy cảm về những vấn đề danh dự.
    - Đầu hàng ư?...Họ đồng thanh kêu lên.
    Rồi quả quyết quay lưng lại phía nàng.
    - Các ông thật ngớ ngẩn – nàng bực tức nói.
    Giôphrây lúc này đang sống an toàn. Đấy là một điểm thắng lợi…đối với nàng. Nhưng còn đối với họ?...Với những ý nghĩ khác nhau, họ nhìn xuống cái cửa sập trên sàn tàu bằng gỗ quí. Bỗng Mécxơlô kéo cái vòng dùng để nhấc nắp cửa và họ rất ngạc nhiên thấy nắp cửa được nhấc lên một cách dễ dàng. Một cái thang bằng dây thừng thòng xuống hầm tàu tối om.
    - Hắn quên không chốt lại sau khi đóng nắp cửa – Manigô khoan khoái nhận xét – Đây là một lối đi có thể giúp ích cho chúng ta! Chúng ta phải bịt kín mọi lối thoát lại.
    - Tôi thử xuống coi lối này đi đến những đâu – Một người trong bọn họ nói
    Người ta đánh bật lửa và sau khi châm lửa chiếc đèn bão đeo ở thắt lưng, người vừa nói bíu chặt lấy chiếc thang dây, leo xuống. Đấy là Rômanh, người thợ làm bánh.
    Anh ta xuống được nửa đường thì một tiếng nổ vang từ dưới hầm tàu. Họ nghe Rômanh kêu lên như một con vật bị thương rồi tiếng anh ta ngã vật xuống phía dưới, tiếng chiếc đèn bão vỡ tan. Ánh đèn tắt ngấm.
    - Rômanh! Họ gào lên.
    Không một tiếng trả lời. Ngay cả dư âm vang vọng lại của một tiếng rên cũng không. Đến lượt Bécnơ cũng muốn xuống bằng chiếc thang dây.
    Manigô giữ không cho lão xuống.
    - Đóng nắp của lại – Hắn ra lệnh.
    Và vì mọi người đứng sững sờ, hắn tự mình dùng chân đá nắp cửa sập xuống và cài phía ngoài lại.
    Bây giờ thì họ bắt đầu hiểu. Hầm tàu và boong tàu đã bắt đầu tuyên chiến với nhau.
    “Đáng ra mình phải giữ Rômanh lại – Angielic tự nhủ - Đáng ra mình phải nhớ rằng Giôphrây đờ Perắc không bao giờ quên một cái gì hết, nhất cử nhất động của chàng đều được tính chính xác chứ không bao giờ do ngẫu nhiên hay sơ suất chi phối. Chàng để nắp cửa mở là muốn cho sự việc rùng rợn kia phải diễn ra. Bọn họ đọ sức với chàng thì thật điên rồ đã thế lại còn không chịu nghe lời mình”
    Nàng chayh ra ngoài, sợ hãi đưa mắt nhìn cảnh bừa bộn trên con tàu Gunxbôrô đang thản nhiên đung đưa giữa lòng biển lặng.
    Một người chạy hớt hải, đuổi theo sau là những tiếng kêu la và những lưỡi dao găm sáng loáng rút ra từ thắt lưng đám người bạo loạn Tây Ban Nha. Một bóng người mảnh khảnh, lúng ta lúng túng trong chiếc áo choàng trắng bám lấy các bậc thang cố sức thoát khỏi đoàn người đuổi theo.
    - Nó đấy! Nó đấy! –Tiếng kêu vang lên – Tên tòng phạm! Tên thổ! Tên Hồi giáo! Hắn định làm cho con cái chúng ta chết ngạt!
    Ông thầy thuốc người ả rập quay lại. Ông đương đầu với bọn dị giáo, trong bọn này có những người theo đạo cơ đốc trang phục màu đen của giáo phái mà người ta gọi là Tân giáo và những người Tây Ban Nha, kẻ thù truyền kiếp của đạo Hồi. Một cái chết thật tội nghiệp của một tín đồ Môhamet. Ông ta bị đánh chết.
    Đám người Tin lành ngừng tay. Nhưng những người Tây Ban Nha vẫn lăn xả vào vì khát máu và vì mối thù truyền kiếp đối với người Morơ.
    Angielic nhảy vào giữa đám người điên loạn.
    - Dừng lại! Dừng lại! Quân hèn mạt!..đây là một ông già.
    Một tên Tây Ban Nha đâm nàng một nhát, may mà lưỡi dao chỉ làm rách ống tay chiếc áo dài và sướt da trên cánh tay nàng. Thấy thế Gabrien Bécnơ nhảy tới giáng cho tên Tây Ban Nha một báng súng ngắn vào đầu và phải giơ vũ khí ra dọa những đứa khác mới buộc chúng lùi ra.
    Angielic quỳ xuống cạnh nhà bác học già, đỡ cái đầu tím bầm và đầm đìa máu me của ông lão. Nàng nói khẽ với ông bằng tiếng ả rập:
    - Thầy ơi! Thầy! Thầy đừng chết. Thấy ở cách xa đất nước quá chừng. Thầy sẽ trông thấy lại thành Micơnêdơ với những vườn hồng…và Phêdơ, thành phố vàng, xin thấy nhớ cho!
    Ông già còn đủ sức mở một con mắt long lanh vẻ mỉa mai.
    - Hoa hồng mà làm chi, hả con – Ông thì thầm bằng tiếng Pháp -Ta gắn bó với những bờ bến khác ít trần tục hơn. Ở đây hay ở kia, có quan trọng gì đâu! Môhamet chẳng đã nói: “Hãy nắm lấy khoa học ở bất cứ nơi nào” đấy sao?...
    Nàng muốn nâng ông già dậy để đưa ông vào phòng Giôphrây đờ Perắc nhưng nàng thấy ông đã tắt thở.
    Angielic khóc nức nở.
    “ Đây là người bạn của chàng, chắc hẳn là thế, cũng như Osman Feraji là bạn của ta…Ông đã cứu chàng, đã chữa khỏi vết thương cho chàng. Không có ông thì Giôphrây không sống được đến bây giờ. Vậy mà chúng đã giết ông”.
    Nàng không còn biết ghét ai nữa, yêu ai nữa. Mọi người, tất cả mọi người đều không thể tha thứ được. Nàng hiểu vì sao Thượng đế đã đổ lửa xuống các thành phố, và trút đại hồng thủy xuống trái đất để tiêu diệt hết những kẻ phản phúc.
    Nàng tìm thấy Ônôrin đang ngoan ngoãn ngồi cạnh anh chàng người đảo Xixin tưởng như đang ngủ. Anh chàng này cũng bị đánh chết. Trong đầu bù xù của anh là một vết thương đỏ lòm.
    - Họ đánh “Vỏ hạt dẻ” đau lắm – Ônôrin nói.
    Cô bé không nói “họ đã giết chú ấy”, nhưng nó biết giấc ngủ lạnh lẽo của người bạn có ý nghĩa như thế nào.
    - Ôi! Mẹ có chiếc áo dài đẹp quá – Ônôrin nói – Trên áo viết cái gì vậy hả mẹ, có phải những bông hoa không mẹ?
    Angielic ôm con vào lòng. Nàng những mong được đi thật xa, thật xa với con gái. Cái thời hai mẹ con nàng ẩn náu trong rừng đi từ con đường này qua con đường khác, thời ấy hạnh phúc biết chừng nào.
    Ở đây thì không biết trốn vào đâu. Chỉ còn có thể quay tròn trên con tàu khốn khổ, ít nữa sẽ đẫm máu và chở đầy xác chết này, nếu tình trạng hiện nay còn tiếp diễn…
    - Mẹ ơi, có phải là những bông hoa không mẹ?
    - Phải, là những bông hoa.
    - Áo dài của mẹ xanh và sẫm như nước biển. Vậy đấy là những bông hoa của biển. Người ta sẽ trông thấy những bông hoa đó. Nếu xuống tận dưới đáy nước thì sẽ trông thấy hoa phải không mẹ?
    - Phải, sẽ trông thấy hoa! – Angielic nói với một niềm tin bột phát.
    Sau đó, ngày hôm ấy trôi qua bình lặng hơn. Con tàu lướt đi ngoan ngoãn. Những người trong thủy thủ đoàn bị nhốt dưới hầm tàu với Rescartor không xuất đầu lộ diện. Tình hình im ắng đó đáng ra làm đám bạo loạn lo ngại, nhưng mệt mỏi vì trận đánh sau nửa đêm, giông bão, họ liền thưởng thức một chút nghỉ ngơi. Họ muốn tin là vẻ bình yên bề ngoài của biển khơi và của tình hình sẽ kéo dài mãi mãi; ít ra thì cũng đến khi cập bến các hải đảo châu Mỹ. Điều trợ lực cho những người Tin lành trong cơn điên loạn của họ - Angielic nghĩ bụng – chính là thói quen sống trong một cộng đồng luôn luôn bị uy hiếp và cực kỳ khép kín, một thói quen hầu như thâm căn cố đế vì mang tính đặc thù La Rôsen. Ngay từ thời còn trẻ, ở Pháp họ sống trong tình trạng chiến tranh bí mật. Mỗi người tự hiểu mình, hiểu cả những mặt yếu và khuyết tật của người khác, những cũng hiểu cả những mặt tốt của họ, những mặt tốt này được sử dụng một cách có hiệu quả, vì vậy mặc dù ít người, họ đã chiếm được con tàu trọng tải bốn trăm tấn với mười hai cỗ đại bác. Bây giờ chỉ còn vấn đề kỷ luật do ba chục con người đặt ra, sau khi những người này liên kết với họ, phản lại Rescartor. Đối với họ, coi ba chục con người đó là đồng mưu hay kẻ thù cũng gần như nguy hiểm ngang nhau. Bọn chúng sẵn sàng cho mình là những kẻ cầm đầu cuộc bạo loạn, tức chúng sẽ phải là những kẻ đầu tiên được chia chiến lợi phẩm. Cái báng súng của Bécnơ giáng xuống một tên trong bọn chúng làm chúng thất vọng. Sau khi biết tên kia đã chết, chúng bắt đầu vỡ lẽ ra bọn chủ mới này không chịu khoanh tay đâu. Bị áp đảo trong lúc này, chúng thi hành các mệnh lệnh khá nghiêm túc. Tuy vậy vẫn cứ phải để mắt theo dõi và coi chừng chúng.
    Bầu không khí tưởng như trở lại hòa bình.
    Đàn bà bắt đầu làm công việc nội trợ và đem cả con cái đi theo, họ giúp đám đàn ông dọn dẹp trên boong tàu và vá lại những lá buồm bị rách.
    Mãi đến chiều, những phát súng hỏa mai mới vang lên, đám đàn ông từ trên boong vội vã xuống nhà kho, nơi chứa nước ngọt. Họ thấy các thùng nước đều bị chọc thủng và người canh kho chứa nước đã biến mất tăm.
    Chỉ còn nước ngọt đủ dùng trong hai ngay.
    Đến rạng đông, tàu Gunxbôrô đi vào dòng xoáy Phlôriđơ.



    Nhiều giờ sau họ mới bắt đầu nhận tra nguy cơ thiếu nước, Angielic nghe tiếng ồn ào của nhóm người chỉ huy đang đi tới gần.
    - Khá lắm, Lơ Gan ạ - Manigô nói – Ông đã biết lợi dụng một thoáng hừng sáng giữa lúc trời đầy sương mù. Nhưng ông có tin chắc điều ông nói không đấy?
    - Tin rất chắc, thưa ông. Hơn nữa ngay một thủy thủ mới vào nghề dù có ngờ nghệch đến mấy cũng không thể nhầm lẫn được. Gần cả một ngày thuận buồm xuôi gió và chính hướng này, thế mà chúng ta lại vượt hơn năm mươi hải lý lên phía Bắc. Theo tôi thì nguyên nhân là do một dòng xoáy tai ác đã lôi chúng ta đi bất cứ nơi nào nó muốn, mà chúng ta thì không thể chế ngự được nó…
    Manigô xoa xoa mũi, suy nghĩ. Chẳng ai nhìn ai nhưng người nào cũng nghĩ đến câu nói mỉa mai trước đây của Rescartor: “Nếu như các ông không gặp phải dòng xoáy Phlôriđơ.”
    - Ông có dám chắc là trong phiên trực đêm người cầm lái tàu, hoặc vì dốt nát hoặc vì phản trắc đã không cho tàu chạy theo hướng Bắc không?
    - Chính tôi là người lái – Lơ Gan bực bội nói – Còn từ sáng nay thì Brêagiơ lái. Tôi đã nói với ông cũng như với Bécnơ rồi.
    Manigô đằng hắng.
    - Phải, ông Lơ Gan ạ, chúng tôi đã bàn với ông Bécnơ, với mục sư và các thành viên khác trong bộ tham mưu, về công việc phải làm, vì sắp hết nước ngọt rồi. Và vì tình hình nghiêm trọng nên chúng tôi đã nói rõ với vợ con để họ góp ý kiến về những giải pháp cần thi hành.
    Angielic đang đứng gần đấy giật mình và phải cắn môi mới giữ nổi im lặng. Nàng thấy nhẹ cả người khi nghe bà Manigô nói lên thật to những điều nàng đang nghĩ thầm.
    - Ý kiến của chúng tôi ư? Khi sử dụng vũ khí và chiếm tàu các ông có thèm hỏi ý kiến chúng tôi đâu. Các ông chỉ yêu cầu chúng tôi ngồi im, dù có xảy ra bất kỳ chuyện gì; thế nhưng bây giờ khi tình hình không diễn ra như các ông mong muốn, thì các ông mới đến hỏi ý kiến những bộ óc yếu ớt này. Tôi biết đàn ông các ông quá đi chứ. Các ông bao giờ cũng hành động như thế. Các ông chỉ làm theo ý mình. May mà đã bao lần có tôi để sửa chữa những điều dại dột của các ông.
    - Sao lại thế, Xara! – Manigô ra vẻ sửng sốt phản đối – Bà đã chẳng bao lần cảnh cáo tôi là Rescartor sẽ không đưa chúng ta đến nơi đến chốn đó sao? Do trực cảm, bà đã chẳng bảo thế là gì? Thế mà bây giờ bà lại tuyên bố là bà không tán thành hành động giành quyền làm chủ con tàu Gunxbôrô của chúng tôi.
    - Không – Xara Manigô kiên quyết nói, không cần biết mình tiền hậu bất nhất.
    - Thế bà thích được đem đi bán ở Keebech như con gái bọn phu nông chăng? Manigô gào lên và tức tối nhìn trừng trừng bà vợ phục phịch.
    - Suy cho cùng, sao lại không? Số kiếp đó cũng chẳng tệ hơn cái số kiếp đang chờ đợi chúng tôi vì những hứng thú tối tăm quen thuộc của các ông.
    Luật sư Care lên tiếng, chua chát.
    - Bây giờ không phải lúc đùa giỡn, cũng không phải lúc vợ chồng cãi lộn nhau. Chúng tôi đến gặp các bà là để đi đến những quyết định với sự đồng ý của cộng đồng theo truyền thống của chúng ta từ đầu Tân giáo. Chúng ta phải làm gì bây giờ?
    - Trước hết hãy sửa chữa tấm cửa bị phá hỏng – Bà Care nói – Chúng tôi sống giữa luồng gió lùa và con cái chúng tôi đều nhức đầu sổ mũi.
    - Đấy, lại là những lo toan vô tích sự của đàn bà! Cái cửa đó sẽ không được sửa chữa đâu, - Manigô lại kêu lên như điên như dại – Từ khi lên đường, cái cửa ấy đã bị phá hỏng hai, ba lần rồi. Chúng ta phải cập một bến bờ nào đấy trong vòng hai ngày tới. Nếu không thì…
    - Bến bờ nào vậy?
    - Đấy là điểm mấu chốt! Chúng ta không biết những vùng đất nào gần đây nhất. Chúng ta cũng không biết dòng xoáy sẽ cuốn chúng ta đến tận đâu, nó đưa chúng ta ra xa hay đến gần những vùng dân cư để kiếm được nước và lương thực…Rốt cuộc là chúng ta cũng chẳng biết mình đang ở đâu – Hắn kết luận.
    Một khoảng im lặng nặng nề.
    - Hơn nữa – hắn nói tiếp – Chúng ta đang bị Rescartor và đoàn thủy thủ của hắn uy hiếp… Để giải quyết cho chóng vánh, tôi đã tính đến việc hun cho chúng một mẻ khói bằng cách ném những mùi nhựa cháy vào trong hầm tàu như người ta dẹp những cuộc bạo loạn của nô lệ trên các tàu buôn người da đen. Nhưng đem áp dụng phương pháp đó với người đồng chủng thì hình như khá bất nhân, cho dù Rescartor đã tìm cách dùng nó để hãm hại chúng ta.
    - Đúng ra ông phải nói là họ có nhiều cửa sổ thành tàu mở ra biển, nên chẳng bị khói của ông quấy rầy đâu – Angielic tuyên bố vì không ghìm được tâm trạng bực bội
    - Cũng có thể là như vậy – Manigô đành phải nhượng bộ.
    Hắn liếc nhìn nàng, và nàng cảm thấy hắn tỏ ra hài lòng vì nàng ở lại và hơn nữa nàng vẫn sáng suốt.
    - Hơn nữa – Lão chủ tàu nói tiếp, - Bọn người dưới hầm tàu đã tìm thấy một số vũ khí đạn dược. Hẳn là không đủ để dàn trận đánh nhau với chúng ta, nhưng đủ để làm chúng ta thất bại nếu chúng ta muốn tiêu diệt họ dưới đáy hầm tàu. Vả lại, công việc đó sẽ khó khăn. Trong hầm để dây xích neo, chúng ta đã khoan thử để chọc thủng các vách ngăn nhưng vấp phải lớp chắn bằng đồng.
    - Có thể họ đặt tấm đồng ở đấy là đề phòng một cuộc nổi loạn – Angielic nói chen vào.
    - Dĩ nhiên chúng ta có thể thử chọc thủng cái lớp bọc đó bằng đại bác hay tạc đạn nhưng con tàu đã bị hư hại quá nhiều vì trận bão vừa qua nên không thể làm cho nó hư hỏng quá nghiêm trọng thêm rồi chúng ta cùng chìm với nó. Cũng không nên quên rằng con tàu này là của chúng ta, và cũng không nên quên rằng Đức ông Rescartor…
    - Hắn dữ dằn nhìn Angielic:
    …cũng chẳng may mắn gì hơn là vì ông ta cũng thiếu nước, thiếu lương thực và đạn dược nên mới im hơi lặng tiếng dưới hầm tàu. Ông ta và hạ bộ sẽ chết khác trước chúng ta. Đấy là điều rõ như ban ngày.
    Xung quanh hắn, đám phụ nữ lắc đầu, vẻ nghi ngờ. Họ không sao hiểu nổi. Biển lặng và con tàu rong ruổi một cách bình yên qua lớp sương mù nhẹ chỉ còn bao phủ đường chân trời. Dù tàu đi về hướng Nam hay hướng Bắc, họ cũng chẳng hay biết gì. Họ đâu có trông thấy người lái tàu cố hết sức để làm cho con tàu thoát ra khỏi sức hút của dòng xoáy và lấy lại phương hướng.
    Và lũ trẻ con cũng chưa đòi uống.
    - Nếu họ chết trước chúng ta thì đây sẽ là một điều an ủi – Cuối cùng bà Anna nói – Nhưng tôi mong tất cả mọi người sẽ thoát nạn. Đức ông Rescartor hình như thông thuộc vùng biển xa lạ đối với chúng ta này và trong đoàn thủy thủ của ông ấy chắc có những người hoa tiêu dẫn đường cho chúng ta cập bến. Tôi đề nghị các ông thương thuyết với ông ấy để có thể được sự giúp đỡ cần thiết.
    - Bà nói đúng đấy – Bécnơ kêu lên, mặt mày rạng rỡ - Và chúng tôi mong chờ sự khôn khéo của bà. Vì đấy cũng là giải pháp chúng tôi muốn theo. Mọi người hãy nghe rõ! Đây không phải là đầu hàng. Chúng ta chỉ muốn đề nghị với đối phương một sự thỏa thuận. Ông ta sẽ hướng dẫn chúng ta đến một miền đất lành và đáp lại chúng ta sẽ trả tự do cho ông ta và cho những người vẫn muốn trung thành với ông ta.
    - Các ông có trả lại con tàu cho ông ấy không? –Angielic hỏi.
    - Hẳn là không. Còn tàu này chúng tôi đã giành được bằng vũ khí và chúng tôi cần con tàu để đi đến Xanh – Đomanhgơ. Mà thế cũng là nhiều rồi, vì ông ta nằm trong tay chúng tôi và chúng tôi cho ông ta được sống và tự do.
    - Và các ông tưởng ông ấy sẽ chấp nhận?
    - Ông ta sẽ chấp nhận! Bởi vì số phận của ông ta gắn liền với số phận của chúng tôi. Tôi công nhận Rescartor là một nhà hàng hải xuất sắc. Vì thế ông ta không thể không biết hiện giờ con tàu đang trên đường bị tiêu vong. Chúng tôi cố lái nó về hướng Tây nhưng nó vẫn cứ quay về hướng Bắc. Và nếu cứ đi mãi về hướng Bắc như thế thì chúng ta sẽ rơi vào miền đất giá lạnh băng tuyết. Điều đe dọa chúng ta là: mắc cạn hoặc bị đắm ở một bến bờ nguy hiểm mà chúng ta không biết hết mọi thứ cạm bẫy; thiếu lương thực, thiếu phương tiện cấp cứu, giá rét…Rescartor thì biết hết tất cả những chuyện đó và ông ta sẽ hiểu làm thế nào thì có lợi cho ông ta và cho người của ông ta.
    Cuộc thảo luận sau đó đi vào vấn đề ai là người chịu trách nhiệm đứng ra thương lượng và dám đương đầu với cơn giận của anh chàng cướp biển. Việc gã làm bánh mì tội nghiệp bị bắn chết tươi là một đòn cảnh cáo. Không thỏa thuận với nhau được, đám người Tin lành chuyển qua tìm cách liên lạc với những người dưới hầm tàu.
    Có người đề nghị nên đi xuống căn hầm để dây xích neo mà trước kia đám người Tin lành đã đi qua để vào kho chứa thuốc súng và có người canh gác. Họ sẽ đánh qua bức tường ngăn một bức thư theo mật mã hải quân để đề nghị cử một đoàn đại biểu. Là người nắm được mật mã đó, Lơ Gan xuống cùng với những thủy thủ có vũ khí. Gần một giờ sau, hắn trở lên buồn bã.
    - Ông ta đòi đàn bà –hắn nói.
    - Thế hả? – Manigô kêu lên.
    Lơ Gan lau mồ hôi đầm đìa trên mặt. Ở dưới đó thiếu không khí mà.
    - Ôi! Các ông chớ nhầm. Việc không như các ông tưởng đâu. Tôi phải vất vả lắm mới liên lạc được với họ vì với một mẩu gỗ gõ vào vách tường ngăn thì làm sao nói được hết ý mình. Tôi chỉ hiểu được là Rescartor đồng ý tiếp một đoàn đại biểu với điều kiện đó là một đoàn phụ nữ.
    - Tại sao vậy?
    - Rescartor bảo nếu một người nào trong chúng ta đây hoặc trong số những người Tây Ban Nha xuống dưới đó thì ông ta không thể nào ngăn nổi những người dưới quyền xé xác ra đâu. Ông ta cũng đòi hỏi trong số những người xuống thương thuyết phải có cả bà Angielic.


  5. #13
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default



    Chương 29



    Bà Manigô cũng muốn tham gia đoàn nhưng vì người cao to qua nên đành chịu.
    Những lời chỉ dẫn bằng mật mã của Rescartor bảo các bà đến gặp thì phải xuống bằng lối cửa sập và chiếc thang dây trong phòng riêng của chàng.
    - Lại một trò đùa không đúng lúc của lão – Đám người Tin lành lầu bầu.
    Họ nghi ngờ thành công của cuộc thương lượng vì chẳng mấy tin tưởng tài ngoại giao của các bà vợ.
    Do nhiều lần sinh nở, bà Care vẫn giữ được vẻ nhanh nhẹn cần thiết nên nhận lấy cái nhiệm vụ khó khăn là làm người phát ngôn của cộng đồng. Người đàn bà nhỏ nhắn đầy sức sống, quen ào ạt điều khiển việc nhà và đám tôi tớ ấy sẽ không để đối phương hăm dọa và sẽ hoàn thành sứ mệnh đến cùng.
    - Bà đừng nhân nhượng gì hết về các điều kiện – Manigô căn dặn bà ta – Ngoài tính mạng và tự do, chúng ta sẽ không cho họ gì thêm nữa đâu.
    Đứng tách riêng ra, Angielic nhún vai. Giôphrây sẽ chẳng bao giờ chấp nhận những điều kiện đó. Vậy ai sẽ nhượng bộ? Cuộc chiến đấu đã bắt đầu giữa hai đám người cứng rắn như đá hoa cương. Về mưu lược thì Giôphrây đờ Perắc chắc hẳn vững vàng hơn đối phương trong thế tùy cơ ứng biến, nhưng chàng và các bạn chàng khó có thể chinh phục thái độ ương bướng của nhóm người La Rôsen này.
    Abighen xin gia nhập đoàn nhưng bị Manigô từ chối khước từ. Thái độ không tán thành của ông mục sư đối với cuộc bạo loạn làm cho con gái ông bị nghi ngờ. Thế nhưng rồi Manigô nghĩ lại. Rescartor tỏ ra yêu quí cô gái. Có thể chàng sẽ vui lòng nghe lời cô. Còn về vai trò của Angielic thì hắn không muốn nghĩ ngợi nhiều. Không ai hiểu vì sao mọi người chỉ đặt hy vọng vào nàng. Không ai muốn thú nhận điều đó, nhưng nhiều phụ nữ muốn lén lút bắt tay nàng và nài nỉ nàng “ Cứu lấy chúng tôi”, vì họ bắt đầu hiểu nguy cơ của tàu Gunxbôrô trong tay những kẻ thiếu kinh nghiệm trong hàng hải.
    Xuống đến phía dưới, ba người đàn bà phải chờ cho cánh cửa sập phía trên được đóng lại. Hầm tàu tối om. Cuối cùng một tia sáng hiện ra ở phía trong đường hầm trước mặt họ và họ đi theo thủy thủ trưởng Ericxon đến một căn hầm khá rộng, ở đấy đã họp mặt hầu hết những người trong đoàn thủy thủ bị bao vây. Các cửa sổ thành tàu đều mở ra để lọt vào một thứ ánh sáng nhờ nhờ. Các thủy thủ đang chơi bài, chơi xúc xắc hoặc đưa võng. Họ bình tĩnh nhìn những người mới tới với ánh mắt khó hiểu và gần như hờ hững. Angielic nhận ra thấy có rất ít vũ khí, lòng nàng se lại, không biết mình có muốn trông thấy Manigô và chồng mình phải ngang sức khi đương đầu với nhau hay không. Trong một trận đánh giáp lá cà, mặc dù số người đông hơn, quân của Giôphrây đờ Perắc sẽ khó chống chọi.
    Từ một ngách cửa mở ra ở phía trên hầm chứa lương thực, tiếng nói của bá tước đờ Perắc vẳng tới tai nàng. Tim nàng nhói lên. Tưởng như đã hàng thế kỷ, nàng đã không nghe thấy tiếng chàng. Trong tiếng nói đó có cái gì đang giày vò nàng như vậy?
    Giọng nói mới hấp dẫn làm sao, cái giọng tuy không còn cất lên để ca hát được nữa. Đấy là tiếng nói của một tình yêu mới mẻ. Âm sắc nghẹn ngào và trầm lắng khiến nàng quên một âm sắc khác, âm sắc của quá khứ, với những thanh điệu tuyệt vời nhưng tiếng vang mờ dần trong xa xăm như hình bóng mối tình đầu.
    Cá tính của người kia, con người phiêu lưu có bộ mặt rám nắng, trái tim cứng rắn và mái tóc đã nhuốm màu muối tiêu bao trùm hết tất cả. Tiếng nói vỡ giọng ấy chính là tiếng nói đã từng nâng đỡ nàng trong những giờ phút vừa ngọt ngào vừa sợ hãi không thể tưởng tượng của một đêm ái ân ngắn ngủi trong hiểm nguy và giờ đây nàng tưởng như trong giấc mơ.
    Đôi bàn tay khô khan và quí phái, nhưng sử dụng dao găm cực kỳ linh hoạt kia chính là đôi bàn tay đã từng vuốt ve nàng.
    Người đàn ông còn xa lạ kia chính là chàng, người tình của nàng, người yêu của nàng, chồng nàng.
    Nàng thấy ở Rescartor một thái độ không khoan nhượng phía sau chiếc mặt nạ; và chàng chào ba người đàn bà một cách lịch sự, nhưng không mời ngồi. Bản thân chàng cũng đứng cạnh thành cửa sổ thành tàu, khoanh tay trước ngực vẻ tự tin.
    Nicôla Perôt cũng đứng trong góc căn phòng nhỏ, miệng ngậm píp.
    - Úi dào! Thưa các bà, các đức ông chồng của các bà chơi trò chiến tranh thì khá xuất sắc đấy, nhưng đã bắt đầu nghi ngờ về khả năng hàng hải của họ, hình như thế phải không?
    - Vâng, thưa Đức ông – bà Care trung hậu đáp – Ông chồng luật sư của tôi quả là về cả hai mặt đó đều không thành công. Nếu đấy không phải là ý kiến của ông ấy thì ít ra cũng là ý kiến của tôi. Nhưng không phải vì vậy mà họ không được vũ trang ra trò và không quyết tâm giữ lời thề để đi đến các hải đảo châu My, chứ chẳng đi đâu khác. Vì vậy, tìm cách thỏa thuận với nhau để bên nào cũng có lợi thì có lẽ hợp lý hơn.
    Và rất can đảm, bà ta chuyển lời đề nghị của Manigô.
    Thái độ im lặng của Rescartor khiến mọi người hy vọng chàng suy nghĩ và dễ dàng chấp nhận những điều khoản thương thuyết.
    - Một hoa tiêu cho các người cập bến đổi lấy mạng sống cho tôi và cho thủy thủ đoàn của tôi ư? – Chàng nhắc lại vẻ mơ màng, - Hay đấy. Nhưng có một điều duy nhất không cho phép thực hiện kế hoạch tuyệt vời đó. Bờ biển dọc theo đây không có chỗ nào cập bến được hết. Dòng xoáy Phlôriđơ tuyệt vời bảo vệ nó và sẽ vĩnh viễn cuốn đi những ai dám cả gan mơ tưởng chuyện ghé vào bờ…Những mỏm đá ngầm lấp ló mặt nước, cồn cát nổi chạy dài và nguy hiểm chết người…tôi không nói đến nữa. Hai nghìn tám trăm hải lý ngoằn ngoèo đầy mỏm đá trên hai trăm tám mươi hải lý đường thẳng.
    - Nhưng dù xấu đến đâu, bờ biển nào cũng phải có chỗ ghé vào được chứ - Abighen lên tiếng và cố trấn tĩnh giọng nói run run của mình.
    - Đúng thế, nhưng phải biết là những chỗ nào chứ.
    - Ngài không biết sao? Ngài có vẻ nắm chắc đường đi kia mà? Ngài đã chẳng nói đến chuyện ghé vào đất liền trong vài ngày tới như các thủy thủ của ngài kể lại hay sao?
    Hai má Abighen đỏ ửng vì xúc động nhưng cô vẫn nài nỉ một cách táo bạo mà Angielic chưa hề thấy ở cô.
    - Có thật là ngài không biết không? Có thật là ngài không biết không?
    Một nụ cười có phần dịu dàng thoáng nở trên môi Rescartor.
    - Thật khó lòng mà nói dối cô được. Nhưng thôi, cứ tạm cho là như tôi biết khá rõ vùng biển này để thử - tôi nói là thử thôi nhé – ghé vào bờ an toàn thì cô có cho đó là tôi ngốc nghếch đến nỗi – Chàng đổi giọng và trở lại gay gắt – cứu sống cô và cả bọn, sau khi các người đối xử với tôi như thế không? Đầu hàng đi, trả lại vũ khí đi, trả lại tàu cho tôi đi. Sau đó, nếu không quá muộn tôi sẽ lo việc cứu con tàu.
    - Cộng đồng chúng tôi không tính đến chuyện đầu hàng – Bà Care nói – Mà chỉ tính chuyện làm sao thoát khỏi số phận chung đang rình rập tất cả chúng ta: chết khát đến nơi rồi và tàu sẽ vỡ tan ra trên một miền đất xa lạ hoặc chết trong băng giá mà dòng xoáy điên loạn này sẽ lôi chúng ta theo. Ông đã chọc thủng các thùng chứa nước ngọt, chính ông cũng tự làm hại mình…không còn con đường nào khác là ghé vào bờ, ghé vào bất cứ đâu để kiếm nước uống..hay là chết.
    Rescartor cúi chào bà ta.
    - Tôi cho cách lập luận của bà là đúng, thưa bà Care.
    Chàng lại mỉm cười và hết lượt nhìn cả ba gương mặt phụ nữ, mỗi người một vẻ đang rướn về phía chàng với vẻ băn khoăn lo lắng như nhau.
    - Thôi được! Thế thì chúng ta cùng chết với nhau – chàng kết luận.
    Chàng quay ra phía cửa sổ, từ đó có thể nghe rõ hơn trên boong, tiếng sóng vỗ xôn xao vào thành con tàu đang bị cuốn theo dòng xoáy.
    Angielic trông thấy hai bàn tay nội trợ nhỏ nhắn của bà Care run run.
    - Thưa ngài, dứt khoát ngài không thể chấp nhận…
    - Quân của tôi đều đồng tình với tôi.
    Chàng nói mà không nhìn họ, có thể vì không đủ can đảm để nhìn.
    - Các ông các bà là những người theo đạo Thiên chúa, các người tuân theo một vị chúa mà các người bảo là các người yêu mến. Thế mà các người sợ chết. Tôi và những người anh em đạo Hồi của tôi hết sức ngạc nhiên về nỗi khiếp đảm đang ám ảnh các người. Cách nhìn của tôi thì khác. Dĩ nhiên nếu chỉ sống cuộc sống trần thế này thì có lúc người ta có thể cảm thấy chán nản với những ngày tháng trôi đi và những con người ta gặp trên đường đời. May sao còn có cõi chết và thế giới bên kia chờ đón chúng ta, nó tiếp nối một cách hào hứng tất cả những chân lý chúng ta đã đón nhận trong cuộc sống trần gian.
    Nghe chàng nói, mấy người đàn bà hết sức hoang mang, như thể đang nghe một người điên.
    Vợ ông luật sư chắp hai tay đưa về phía chàng.
    - Hãy thương xót! Hãy thương xót mười một đứa con của chúng tôi!
    Chàng bỗng quay lại, cảm thấy phát khùng lên.
    - Đáng ra bà phải nghĩ đến điều đó sớm hơn. Bà đã không ngần ngại lôi kéo lũ con bà vào những sự bất trắc trong khi bà hành động. Như thế là bà đã chấp nhận để chúng trả giá cho thất bại của bà. Muộn quá rồi. Mỗi người một sở thích. Các ngươi muốn sống. Còn tôi thì tôi thà chết trăm lần còn hơn là nhượng bộ trước sự đe dọa của các người. Đấy là lời nói cuối cùng của tôi. Các bà về nói lại với các đức ông chồng, với các vị mục sư, với thân nhân các bà.
    Kinh hãi trước cơn giận dữ bất thần đó, bà Care và Abighen đi ra, đầu cúi thấp theo theo sự hướng dẫn của Nicôla Perôt vì họ không còn biết đặt chân vào đâu nữa. Mắt nhòa lệ, họ nhìn không rõ.
    Angielic không đi theo họ.
    - Chỉ có hai giải pháp – Hoặc tôi đầu hàng hoặc họ đầu hàng. Bà đừng có mong giải pháp thứ nhất. Bà có muốn thấy tôi run như cầy sấy ngồi vào tay lái trước sự đe dọa của những súng trường trong tay bè bạn của bà để rồi sau đó bị quẳng xuống một bãi biển hoang vắng với một vài người thân tín không? Bà không còn đếm xỉa đến danh dự của tôi, thưa bà và bà chẳng hiểu gì tôi cả.
    Nàng đăm đăm nhìn chàng. Hai chòng mắt nàng có chiều sâu và vẻ sôi động của biển cả, ánh sáng duy nhất trong bóng tối lờ mờ của căn phòng nhỏ.
    - Ồ! Có chứ, em hiểu anh – Nàng khẽ đáp
    Nàng đưa tay ra bất giác nắm lấy vai chàng.
    Em bắt đầu hiểu anh và vì thế anh làm em sợ. Có lúc anh như hơi điên nhưng anh sáng suốt hơn tất cả mọi người khác. Chỉ có một mình anh bao giờ cũng biết anh làm gì…Anh biết anh làm gì khi anh trích dẫn Thánh kinh…Anh chờ cho đến lúc những người đồng mưu làm theo lệnh anh. Anh dự kiến trước mọi việc, ngay cả trường hợp sẽ bị người ta mưu phản. Và khi anh nói về thế giới bên kia với những người đàn bà ấy, anh chờ thời cơ nào vậy? Bao giờ anh cũng điều khiển một trận đấu, theo đuổi một mục đích. Vậy thì khi nào anh thành thực?
    - Khi anh ôm em trong vòng tay, em xinh đẹp của anh ạ. Chỉ những lúc đó anh không còn biết anh đang làm gì. Và đấy là một sai lầm mà anh đã phải trả giá rất đắt. Vì anh có cái yếu là muốn ở bên em, người vợ bé bỏng rất mực quyến rũ của anh, là cách đây mười lăm năm, anh đã không kịp thời trốn thoát bọn cảnh sát Nhà vua được lệnh đến bắt anh, là đêm hôm nọ, anh lơi là cảnh giác, để cho bọn người theo Tân giáo có thời cơ giăng bẫy bắt anh…
    Vừa nói chàng vừa cởi mặt nạ ra. Nàng ngạc nhiên thấy nét mặt chàng thanh thản. Chàng còn mỉm cười và say đắm nhìn nàng.
    - Nếu anh cho là em đã mang đến cho anh những điều không may tới mức nào thì anh sẽ giận em lắm đấy. Nhưng anh không thể giận được.
    Chàng cúi cả thân hình cao lớn xuống sát mặt nàng. Angielic cảm thấy chóng mặt.
    - Giôphrây, em van anh, anh chớ coi thường mức nghiêm trọng của tình hình đang xảy ra. Anh chịu để tất cả chúng ta chết hay sao?
    - Sao em cứ bị ám ảnh vì những chuyện nhỏ mọn như thế hả em xinh đẹp của anh! Về phần anh, anh cứ trông thấy em là anh quên hết.
    - Anh đã nhận lời thương thuyết kia mà.
    - Đấy chỉ là cái cớ để em xuống đây với anh và chiếm lại em thôi.
    Rất mực dịu dàng chàng ôm chặt nàng vào vòng tay, hôn lên má nàng.
    - Giôphrây, Giôphrây, em van anh…anh vẫn còn chơi cái trò đáng sợ gì đấy?
    - Có thật sự là một màn trò không? – Chàng vừa hỏi vừa ôm nàng chặt thêm – Bà làm cho tôi tin bà chẳng mấy kinh nghiệm về nỗi xao xuyến do sắc đẹp của bà gây ra cho một người đàn ông thèm muốn bà.
    Nỗi đắm say của chàng chẳng phải giả vờ. Nàng mê mẩn tâm thần, bị lôi cuốn vì sức nóng xao xuyến của đôi môi chàng, vì hương vị hơi thở chàng giờ đây đã trở lại quen thuộc, nhưng vẫn làm nàng sửng sốt như những điều khám phá người ta lần lượt tìm ra ở một người tình xa lạ.
    Mối nghi ngờ từng hành hạ nàng tan biến: “Chàng yêu ta thật. Đúng thế…Chàng vẫn yêu ta? TA?..”
    - Anh yêu em, em ơi, em có biết không? – Chàng thì thầm – anh nằm mơ thấy em từ đêm hôm trước… Đêm ấy trời đầy sao trôi nhanh thế và sao em thấp thỏm thế…anh nóng lòng được gặp lại em…để biết chắc đấy không phải là một giấc mơ…là em hoàn toàn thuộc về anh…là em không sợ anh nữa.
    Chàng vừa nói vừa hôn lên mái tóc nàng, lên thái dương nàng.
    - Tại sao em còn giữ mình thế? Hôn anh đi…Hôn anh thật sự đi.
    - Em không thể, với nỗi lo cháy bỏng trong tim…Ôi! …Giôphrây, anh là người thế nào? Bây giờ đâu phải là lúc nói chuyện yêu đương.
    - Nếu cứ chờ những lúc không có những nguy hiểm mới nói chuyện yêu đương thì trong những năm gần đây, anh chẳng mấy khi có được niềm vui đó. Yêu giữa hai cơn giông bão, giữa hai trận đánh, giữa hai cuộc phản loạn, đấy là số mệnh của anh và quả vậy anh đã biết cách làm quen với chất cay kích thích thú vui này.
    Nghĩ tới cuộc dan díu mà chồng nàng có thể trải qua khi xa nàng, ở Địa Trung Hải hay ở một nơi nào khác. Angielic khó chịu. Bỗng trong lòng nàng nổi lên một cơn ghen dữ dội khiến nàng mất hết cả dịu dàng.
    - Ông là đồ đểu cáng, ông đờ Perắc ạ và ông đã sai lầm khi ông tin tưởng tôi cũng như bọn cung tần ngớ ngẩn ông dùng để tiêu khiển sau các trận đánh. Buông tôi ra!
    Chàng cười! Chàng vẫn tìm cách làm nàng nổi giận và đã thành công. Cơn giận của Angielic mỗi lúc một thêm dữ dội vì nàng nghĩ chàng đùa với nỗi kinh hoàng của mọi người trong đó có cả mình.
    - Buông tôi ra! Tôi không muốn nhìn thấy mặt ông nữa. Ông là một con quỉ.
    Nàng cố hết sức đẩy chàng ra khiến chàng phải buông tay.
    Đúng là cô thiển cận và cố chấp chẳng khác gì bọn người Tin lành của cô
    - Những người Tin lành “của tôi” không phải là những đứa trẻ trong đội đồng ca và nếu ông đừng khiêu khích họ thì đâu đến nông nỗi này. Có thật là ông không bao giờ có ý định đưa họ đến các hải đảo châu Mỹ không?
    - Đúng thế
    Angielic tái mặt. Cơn giận tiêu tan và chàng thấy môi nàng run lên như một đứa trẻ thất vọng.
    - Tôi luôn đảm bảo ý đồ của ông, thế mà ông lừa dối tôi. Thật tai hại.
    - Chúng ta có ký một bản giao ước chính xác về nơi tôi phải đưa họ đến không nào? Khi bà tới La Rôsen nài nỉ tôi cứu mạng cho họ, bà có tin là tôi sẽ bằng lòng đưa lên tàu những kẻ Tân giáo với hai bàn tay trắng và sẽ chẳng bao giờ trả một đồng xu nhỏ cho công lao vất vả của tôi chỉ vì tôi được hưởng cái thú vui duy nhất là nghe họ hát thánh thư không nào? …Hay là vì đôi mắt đẹp của bà? Tôi đâu phải là Ngài đờ Pôn, sứ đồ của lòng từ thiện.
    Thấy nàng vẫn lặng im nhìn mình, chàng nói thêm giọng dịu dàng hơn.
    - Nếu bà tin vào điều đó là vì bà lý tưởng hóa lòng độ lượng của giới nam nhi đấy, thưa bà. Tôi không phải, tôi không còn là một anh hùng hiệp sĩ nữa, bản thân tôi đã chiến đấu dữ dội để sống sót. Nhưng đừng gán ghép cho tôi những mưu đồ đen tối. Tôi chẳng bao giờ có ý định “bán” những con người khốn khổ ấy như họ tưởng tượng mà chỉ muốn đem họ đến khai khẩn trên những miền đất của tôi ở châu Mỹ, ở đó họ có cơ hội làm giàu nhanh hơn rất nhiều so với các hải đảo.
    Nàng quay lưng và bước ra cửa.
    Chàng chặn nàng lại
    - Bà đi đâu?
    - Tôi về với họ
    - Để làm gì?
    - Để tìm cách bảo vệ họ
    - Chống lại ai?
    - Chống lại ông.
    - Chẳng phải họ là những kẻ mạnh nhất hay sao? Chẳng phải họ đang làm chủ tình hình đó sao?
    Nàng lắc đầu.
    - Không, tôi cảm thấy, tôi biết ông đang nắm số mệnh họ trong tay. Ông bao giờ cũng là người mạnh nhất.
    - Bà quên là họ muốn trừ khử tôi rồi sao? Hình như việc đó ít làm bà xúc động hơn là cuộc sống bị đe dọa của họ.
    - Phải chăng chàng muốn làm cho nàng hóa điên bằng cách đặt những câu hỏi giày vò nàng đến thế? Bỗng chàng lại ôm nàng vào lòng.
    - Angielic, em yêu, tại sao chúng mình xa cách nhau đến như thế? Tại sao chúng mình không gặp gỡ nhau? Có phải vì em không yêu anh không? Em hôn anh đi…Em hôn anh đi…Em ở lại đây với anh.
    Càng cảm thấy mình yếu đuối, chỉ muốn nép vào người chàng, muốn quên đi, muốn tin cậy ở chàng và phó mặc cho sức mạnh của chàng mà không mong muốn gì hơn, nàng càng dữ dội chống chọi lại
    - Buông tôi ra, tôi không thể.
    Chàng buông nàng ra nét mặt đanh lại
    - Đấy là điều tôi từng tìm hiểu để biết cho rõ…Cô không yêu tôi nữa. Tiếng nói của tôi làm cô chán ghét, lòng kính yêu của tôi làm cô sợ hãi…Đêm nọ môi cô không đáp lại môi tôi… Cô lạnh lùng và gượng gạo…biết đâu cô chẳng làm cái trò ấy để cho bạn bè cô dễ bề thực hiện kế hoạch của họ.
    - Ông thóa mạ tôi với mối nghi ngờ lố bịch ấy đấy – Nàng nói giọng run rẩy – Chính ông giữ tôi lại, ông có nhớ không? Làm sao ông lại có thể nghi ngờ tình yêu của tôi?
    - Em ở lại với anh. Qua đó anh sẽ thấy tình yêu của em
    - Không, không, tôi không thể. Tôi muốn trở lên trên kia. Tôi muốn ở cạnh mấy đứa trẻ.
    Nàng bỏ chạy như điên, không biết động cơ nào xui khiến mình nữa.
    Mặc dù sức quyến rũ của chàng, mặc dù muốn được ôm chặt trong cánh tay chàng và đau đớn trước những lời trách móc của chàng, nàng vẫn không sao đành lòng ở lại với chàng trong khi, ở trên kia, Ônôrin và lũ trẻ đang trong cơn nguy hiểm chết người.
    Điều đó chàng không sao hiểu nổi. Những đứa trẻ ở ngay trong trái tim nàng và là một phần của chính nàng. Chúng yếu ớt và không thể tự vệ. Nạn thiếu nước uống, nạn đắm tàu đang đe dọa chúng. Chỉ có chúng là đáng cho nàng hy sinh tất cả.
    Giờ đây ngồi trên boong tàu Gunxbôrô với con, nàng nhớ lại những câu chàng vừa nói với nàng. Chưa bao giờ chàng nói với nàng âu yếm đến thế. Nàng bế Ônôrin trên đầu gối. Lôriê, Xêvêrin và thằng bé tóc vàng Giêrêmi ngồi dưới chân nàng. Mấy đứa trẻ chơi đùa và cười một cách kín đáo, nhưng phần lớn ngồi im. Chúng đến tụ tập bên nàng, như những con chim non theo bản năng đi tìm đôi cánh che chở trong gió bão. Trong mỗi đứa trẻ nàng như thấy lại Canto. Phlôrimông. “Mẹ ơi, phải đi thôi! Mẹ ơi, cứu con với, bảo vệ con với”…Nàng tưởng như thấy lại gương mặt nhợt nhạt, thiếu màu sắc của sự sống của bé Saclơ – Hăngri.
    Đối với đám người lớn, nàng không thương xót nữa
    Nàng thờ ơ đối với tất cả, ngay cả đối với Abighen, cô gái công bằng, ngay cả với Giôphrây đờ Perắc, người chồng mà nàng đã mất biết bao công tìm kiếm.
    “Mình bắt đầu hiểu mình và chàng không thể cùng nhau chung sống nữa. Chàng đã thay đổi quá nhiều. Trừ phi xưa nay chàng vẫn như thế mà mình không biết, như việc chàng thà chết chứ không chịu nhượng bộ, chẳng hạn chàng đã hưởng thụ đầy đủ cuộc sống nên đối với chàng, kéo theo những đứa trẻ vào cái chết cũng chẳng có gì là quan trọng. Đàn ông có thể tự cho phép họ làm vậy, chứ đàn bà chúng mình thì không, vì chúng mình có trách nhiệm đối với những cuộc đời nhỏ nhoi ấy. Người ta không có quyền cố tình tước đoạt cuộc sống của một đứa trẻ .Đó là kho vàng quý báu nhất của nó. Nó đã yêu cuộc sống biết chừng nào! Nó biết giá trị của cuộc sống lắm chứ”.
    - Bà Manigô – nàng nói lớn – Bà phải đi tìm chồng bà và thuyết phục ông ấy đưa ra những điều kiện bớt khắt khe hơn. Tôi không tin là ông ấy làm bà sợ với cái kiểu la hét đâu. Bà đã từng nghe những tiếng la hét khác và ông ấy phải hiểu rằng Rescartor sẽ không bao giờ chịu nhượng bộ nếu không trả lại tàu cho ông ấy.
    Bà Manigô lo trả lời và Angielic trông thấy hai giọt nước mắt đau buồn ở khóe mắt bà ta.
    - Tôi không thể đòi chồng tôi phải đầu hàng, bà Angielic ạ. Làm như thế là giết chết ông ấy. Nếu trở lại nắm quyền, liệu Rescartor có tha chết cho ông ấy không?
    Cả hai người ngồi im. Angielic năn nỉ:
    - Cứ thử xem, bà Manigô,…Sau đó đến lượt tôi, tôi cũng sẽ cố gắng. Tôi sẽ xuống lại hầm tàu để thuyết phục Rescartor nhân nhượng.
    Bà vợ lão chủ tàu đứng lên và thở dài. Sau khi Abighen và bà Care trở về, bộ tham mưu những người Tin lành họp lại trong phòng hàng hải đồ để nghiên cứu khả năng cập bến và hỏi ý kiến các thủy thủ thạo nghề biển.
    Đám người bạo loạn Tây Ban Nha náo động. Chúng bắt đầu sợ. Angielic nghe lõm bõm những lời chúng nói với nhau bằng giọng cổ. Chúng tính chuyện dùng xuồng và trốn khỏi con tàu đang lâm nguy.
    Bọn ngu ngốc! Dòng xoáy sẽ cuốn chúng vào con đường chết thôi và sức lực yếu ớt, chúng không thể thoát khỏi sức cuốn của nó khi cả một con tàu cũng đã bất lực trong cuộc vật lộn.
    Chỉ có sương mù mênh mông, im lặng, những miền băng giá xa lạ với những con người còn sống đang đi tới cõi chết
    Bỗng có tiếng kêu, có sự chuyển động giữa đám người mờ ảo như những bóng ma xôn xao trên boong tàu. Có cái gì thay đổi. Một tia hy vọng. Đám đàn bà đứng dậy, đợi chờ.
    Macsxian thở không ra hơi trước mặt họ.
    - Ông ấy chấp nhận! ông ấy chấp nhận!..Ông Rescartor ấy! Ông ấy báo sẽ cho một hoa tiêu và ba người biết rõ bờ biển để hướng dẫn tàu ra khỏi dòng xoáy và cho tàu cập bến.



    Chương 30



    Ericxon nhô mình lên khỏi cửa boong. Khuôn mặt anh chàng lùn tịt, béo mập vẫn bí ẩn như xưa. Lạch bạch trên đôi chân ngắn cũn, gã đi đến cầu thang và trèo lên khoang thượng.
    Angielic đang ngồi với mấy người đàn bà, chờ xem cái bóng cao lớn của chồng nàng xuất hiện. Nhưng không thấy chàng đâu. Chỉ có Nicôla Perôt và người da đỏ, rồi khoảng mười người trung thành trong đoàn thủy thủ, những người Anh và ba người đảo Mantơ. Một thủy thủ đến gặp Ericxon ở phía đuôi tàu, những người khác cùng với anh chàng người Canada rậm râu đến ngồi gần chiếc xuồng lớn. Họ bình tĩnh hành động và như không để ý đến tới những khẩu súng trường đang chĩa vào người. Nicôla Perôt còn lôi pip ra uể oải nhồi thuốc. Anh ta nhìn quanh.
    - Nếu các ông còn cần người để điều khiển buồm tàu – Anh ta kéo dài giọng ra nói - Thì ở dưới kia còn có người sẵn sàng phục vụ.
    - Không – Manigô trả lời nhát gừng và giám sát anh ta một cách đặc biệt – Đoàn thủy thủ “của tôi” tự xoay sở lấy được.
    - Vậy ông làm sao truyền đạt được cho những người phụ trách thừng chão những điều chỉ dẫn của Ericxon đang cầm lái?
    Họ đều im lặng.
    - Thôi được! Thôi được! Nicôla vừa thở dài vừa lắc lắc pip như thể phải từ bỏ một lúc nhàn hạ sung sướng - Thế thì tôi cáng đáng lấy vậy. Tôi chẳng hiểu gì về nghề biển đâu, nhưng được cái là tôi nói đủ mọi thứ tiếng của miền Tây. “Người ta” bảo tôi phải đem hết tài năng ra phục vụ các ông. Thực ra tài năng của tôi chẳng có là bao. Xin hết.
    Anh ta nhấc chiếc mũ lông thú lên và cũng đi về phía hướng đuôi tàu. Sau khi đặt người canh gác đám đàn ông đang ngồi, Manigô đi theo anh ta. Thật ra, người nào cũng vừa thất vọng vừa hài lòng khi không thấy xuất hiện Rescartor bằng xương bằng thịt. Thất vọng, vì đối với đám hành khách đang kinh hoàng, khoa học hàng hải và tài điều khiển mà chàng đã thi thố nhiều phen chắc chắn sẽ cứu thoát họ vượt qua bước nguy nan này. Hài lòng vì chỉ sự có mặt của chàng là đủ khiến mọi người khiếp sợ. Trước mặt chàng, Manigô sẽ không dám tin là mình sẽ thắng. Dù có giám sát chàng với sáu khẩu hỏa mai lăm lăm trong tay cũng không đủ. Còn nếu là bọn thuộc hạ chàng phái đến thì đỡ rắc rối hơn. Hơn nữa, những người này trông có vẻ mệt mỏi và dửng dưng. Có thể họ mong được đổ bộ xuống bãi biển và để mất một phần chiến lợi phẩm còn hơn mất mạng. Chắc họ đã thuyết phục anh chàng Rescartor ương ngạnh cố gằng một lần cuối để cứu sống tất cả và dồn chàng vào cái thế “nửa- đầu-hàng” mà chính bọn bạo loạn cũng phải lấy làm lạ này.
    - Phải biết cứng rắn – Lão luật sư Care khoác lác và sôi nổi nói – Trước thái độ của chúng ta thằng cha anh hùng rơm ấy đã phải kéo cờ hàng. Chúng ta thắng cuộc.
    - Đừng có mà khuơ cái khẩu súng ngắn của ông loạn xạ như thế, ông ơi – Vợ lão khuyên lão bình tĩnh.
    Bà ta tức tối nắm chặt hai bàn tay lại dưới chiếc khăn san.
    - Nếu ban nãy ông mà nói chuyện với ông ta, mặt đối mặt như tôi đã nói thì ông sẽ hiểu là không phải vì sợ bản thân mình và cả những người khác chết mà ông ta quyết định cử hoa tiêu đến đâu.
    - Thế thì vì cái gì?
    Các bà nhún vai tỏ ra chẳng hiểu vì cái gì. Những chiếc mũ của họ phập phồng trong sương mù xám xịt thỉnh thoảng có một ánh sáng vàng dị thường xuyên qua giống như một mảnh sứ trong mờ.
    Tóc Angielic ướt đẫm sương, nhưng cũng như các bà, nàng không tìm chỗ ẩn náu. Họ chờ Ericxon ngồi vào tay lái. Trên tàu Gunxbôrô, tay lái điều khiển trực tiếp bánh lái và nằm trên khoang thượng đuôi tàu, chứ không phải ở phía dưới. Vì vậy nếu cần, người cầm lái có thể nhìn để thao tác một mình.
    Trước những mũi súng canh giữ, người đàn ông bé nhỏ có đôi tròng mắt màu đá vẫn rất mực bình tĩnh. Anh ta cầm lái, không biết anh ta mơ màng hay ngủ, hai mắt vẫn mở to. Cách đấy mấy bước chân, anh chàng người Canada râu phấp phới trước gió, nhai nhai đầu ống pip, chiếc loa phóng thanh ngày trước của thuyền trưởng Giadông nằm trong tầm tay.
    Sau nhiều giờ, hành khách và đoàn thủy thủ non nớt lại bực tức lo lắng. Những người gác trên đài buồm quả quyết không những tàu vẫn chạy trong dòng xoáy theo hướng chính Bắc mà còn chạy nhanh hơn vì Ericxon cho căng buồm về hướng đó.
    Mọi người nghi ngờ anh chàng Rescartor xảo trá cho người hoa tiêu đến để chóng vánh đưa họ về cõi chết.
    - Bà có tin là có thể như thế không? – Abighen hỏi Angielic – Bà có tin là ông ấy có thể hành động như thế không?
    Angielic lắc đầu một cách kiên quyết nhưng thật ra nàng cũng hoài nghi. Người ta lại đòi hỏi nàng phải đảm bảo về ý đồ của người nàng yêu. Nhưng nàng phải thú thật với lòng mình là nàng không hay biết. Nàng rất muốn tin ở người đàn ông trước đây nàng yêu quí. Nhưng nàng thật sự hiểu gì bản thân con người ấy? Cuộc sống không để cho nàng có thời gian tiếp cận trí tuệ phong phú, sôi động và nhiều vẻ của chồng nàng. Ngược lại, nó cũng làm tiêu tan ảo ảnh của nàng. Trong những năm tháng chung sống như họ đã từng chung sống, nàng không có thời gian nhận ra rằng dù gần gũi nhau đến đâu, chàng và nàng vẫn không sao gặp gỡ nhau, chẳng khác nào giữa đám sương mù dày đặc trên biển cả, rằng tình duyên của họ chỉ là ảo ảnh và không thể có trên cõi đời này… “Anh là ai, hả anh, người mà em đi tìm hạnh phúc trong ánh mắt? Và cả em đây nữa, với anh em có phải là một điều bí ẩn khôn lường không?..”
    Nếu quả Giôphây cũng băn khoăn, cũng tự hỏi về nàng như vậy, thì đằng sau cái vỏ bọc cứng rắn và khép kín của chàng chưa mất mát gì hết.
    Hai người gọi nhau, chìa tay cho nhau qua màn sương dày đặc, khó tan đang ngăn cách họ
    Trừ phi hai người xa nhau theo một tốc độ chóng mặt như tốc độ của dòng xoáy bề ngoài dường như vô tình kia nhưng đang cuốn cả con tàu đi xa, xa mãi chẳng biết đến tận đâu.
    “Không, chàng không yêu mình. Mình không ăn sâu trong trái tim chàng. Chỉ là một chút thèm muốn phù phiếm mình gợi được cho chàng thôi…Quá ít để chàng có thể hy sinh vì những lời năn nỉ của mình, để chàng nghe lời mình…Thật đáng sợ khi người ta chẳng có quyền lực gì, chỉ có hai bàn tay trắng… Chàng thì lẻ loi…Tuy mình là vợ chàng”.
    Những người khác nhìn nàng bất giác mấp máy môi, nói lẩm bẩm và lắc đầu. Nàng thấy vẻ mặt khẩn khoản, nài nỉ của họ.
    - A! Thế các ngươi hãy cầu Chúa đi- nàng sốt ruột nói, bây giờ là lúc cầu Chúa chứ không phải lúc hy vọng một phép màu ở một người đàn bà khốn khổ như tôi…
    Trong đêm chỉ nghe tiếng rì rào của biển và gió lẫn tiếng chuông báo trời có sương mù của chú thủy thủ nhỏ Maxian hay Tômax. Những tiếng leng keng kéo dài mãi ấy nghe đến não lòng.
    “Bọn đàn ông ấy thật ngây thơ mặc dù cái vẻ hiếu chiến của họ. Đánh chuông báo sương mù ở ngoài khơi La Rôsen, Brơtanhơ hay ở Hà Lan, đó là điều có chút ý nghĩa đối với họ. Người ta báo cho những con tàu khác, người ta gọi đất liền, nơi đang đốt lên những ngọn lửa trông chờ. Nhưng ở đây, trong cảnh cô đơn này, tiếng chuông vang lên chỉ để tự đánh lừa mình, để cố làm cho mọi người tin mình không đơn độc mà thôi…”
    Tiếng chuông làm người ta nghĩ đến tiếng chuông cầu hồn cho người quá cố. Nhưng hai cánh tay Ônôrin ôm ghì lấy Angielic với tất cả sức lực mỏng manh của nó và đôi mắt đen lay láy của con làm nàng nhớ lại cái đêm nàng đem nó lúc còn trứng nước vào khu rừng chó sói và binh lính rình rập.
    Nàng đứng dậy.
    “ Tôi lại đi xuống đây…,phải, tôi lại đi xuống. Tôi sẽ nói chuyện với ông ấy. Chúng ta phải đi hỏi xem thế nào!”.
    Ngay lúc đó, tiếng nói của Nicôla Perôt vang lên lanh lảnh. Ngước mắt nhìn lên, đám phụ nữ thấy lờ mờ những lá buồm rủ xuống bên dưới những chiếc cột và trục căng buồm. Con tàu kêu lên răng rắc, đu đưa một cách khó nhọc dưới bàn tay của người lái. Mệnh lệnh dồn dập nói tiếp mệnh lệnh. Đám thủy thủ chạy tới chạy lui. Đám người Tây Ban Nha cũng tíu tít, tỏ rõ một tinh thần kỷ luật khác thường.
    Ngồi im từ nãy giờ cạnh chiếc xuồng, những người Rescartor phái đi đột nhiên đứng dậy. Họ đưa mắt theo dõi dàn buồm chuyển động. Chắc hẳn họ được cử tới đây để giúp một tay trong trường hợp gay go, nhưng thấy tình hình yên ổn, họ lại ngồi xuống gật đầu, vẻ đồng tình. Một người khác lấy cuộn thuốc lá trong thắt lưng ra nhai.
    - Có lẽ đám thủy thủ của chúng ta không đến nỗi quá tồi – bà Manigô nói, sau khi theo dõi điệu bộ những người do Rescartor cử tới -Những người kia có vẻ công nhận tay nghề của họ rồi đấy. Tuy vậy ông Care này, tôi vẫn tiến những người bị các ông cầm tù ấy không có thiện ý leo lên cột buồm, vì nếu có, thì tôi sẽ rất thú vị thấy ông leo lên theo họ: ông vốn bàn cãi rất giỏi về công việc nhưng chẳng thấy ông mó tay vào bao giờ.
    Ông luật sư đang ngủ gà ngủ gật giữa hai khẩu súng bỗng giật mình và có tiếng cười cất lên. Người ta lại bắt đầu hy vọng và bàn cãi. Có cái gì đó lại xảy ra. Một lần nữa, trên không, người ta lại nghe thấy tiếng những lá buồm no gió phành phạch.
    Nhưng bình minh chỉ đem lại nỗi thất vọng cho những người đàn bà đã mệt mỏi. Trời còn rét hơn hôm trước và cảm giác bị dòng xoáy cuốn đi thấm tận xương tủy họ. Nước uống đã có mùi gỗ thối. Nước ở dưới đáy thùng mà. Chẳng ai dám một lời và khi Lơ Gan đi vào kho chứa vàng với vẻ mặt hớn hở thì người ta cho anh ta có lẽ mắc bệnh tâm thần.
    - Có tin vui – Lơ Gan nói – và tôi đến để làm yên lòng các bà đây. Tôi đã sử dụng tốc lực kế và xác định được vị trí con tàu đúng một cách vất vả, vì chỉ nhìn thấy lờ mờ ánh mặt trời. Nhưng tôi có thể đảm bảo với các bà là tàu đã đổi hướng và từ nay tiến về hướng Nam.
    - Hướng Nam?...Nhưng sao trời lại rét hơn hôm qua!
    - Ấy là vì hai hôm nay tàu chạy theo một dòng xoáy ấm, dòng Phlôriđơ, nó sưởi ấm chúng ta. Còn bây giờ tàu đi theo một dòng xoáy lạnh trong vịnh Huxơn, tôi tin chắc như vậy.
    - Xứ sở chết tiệt! Ông mục sư già lầu bầu và bỗng nhiên không còn dè dặt nữa – Làm sao mà biết được những cái dòng xoáy nóng và lạnh ấy. Tôi bắt đầu tự hỏi phải chăng ngục thất của Nhà vua còn tốt hơn những vùng độc địa này, nơi con người và thiên nhiên đều trái khoáy.
    - Cha! – Abighen kêu lên, giọng trách móc.
    Mục sư Bôke lắc mái đầu bạc trắng. Chẳng giải quyết được gì hết. Điều quan trọng nhất không phải là từ một dòng xoáy nóng chuyển sang một dòng xoáy lạnh – ông suy nghĩ – mà là tránh đừng để người ta chết thêm nữa.
    Ông hoàn toàn không nắm được con chiên nữa và cũng chẳng biết nói gì với họ. Còn đối với những kẻ nghịch đạo kia, thì những lời hô hào bằng cái thứ giọng thuyết giáo già nua và những lời kêu gọi Công bằng, Bắc ái phỏng có tác dụng gì?
    - Tôi không bao giờ đồng tình với mục sư Rôsơpho, con người giang hồ bất trị đã muốn quẳng tất cả chúng ta xuống các đại dương ấy. Cầu trời phù hộ ông ấy! Chẳng biết rồi sẽ đi đến đâu…
    Tiếng nói của ông chìm đi giữa những câu hỏi ồn ào và những câu trả lời của Lơ Gan.
    - Bây giờ thì chúng ta có lên bờ được không?
    - Lên đâu?
    - Ericxon và anh chàng người Canada nói gì?
    - Chẳng nói gì hết! Các người cứ đi mà hỏi thằng cho nhấm nhẳng ấy và cả lão cầm lái chết tiệt câm như hến ấy nữa. Nhưng tay lái hắn thì tuyệt thật! Hôm qua, hắn đã biết lợi dụng một hợp lưu để đưa chúng ta từ dòng xoáy này qua dòng xoáy kia. Khó ghê lắm, nhất là trong sương mù dày đặc.
    - Lần này thì tôi rõ rồi – Mécxơlô nói vẻ uyên bác – Hắn là một người Hà Lan. Trước đây, tôi cứ tưởng hắn là người Ecôx vì thanh kiếm của hắn, “thanh gươm to bản” ấy mà; nhưng chỉ người Hà Lan mới thông thuộc các dòng xoáy đến như thế. Họ nhìn thấy chúng giữa biển cả, họ còn ngửi thấy nữa kia…
    Trong khi Mécxơlô nói, Angielic tưởng như nhìn thấy ông ngồi trước bàn viết ở La Rôsen, dùng cây bút lông ngỗng và giấy láng chép lại biên niên sử của những người theo Tân giáo. Hôm nay, chiếc áo cổ bẻ màu trắng của ông ta chỉ còn như một mớ giẻ lau, chiếc áo rơđanhgốt màu đen đứt hết đường chỉ trên hai vai và dĩ nhiên, ông ta đi chân không, mặc dù trời rét căm căm. Với nhiệt tình hoạt động, chắc chắn ông ta đã leo lên các dây néo và biết đâu đấy leo lên tận buồm trước mũi tàu.
    - Tôi khát quá có cái gì để uống chút không nhỉ?
    - Một cốc rượu mạnh anh nhé? – Bà vợ đề nghị với một nụ cười buồn bã.
    Nhắc lại cuộc sống sung túc đã qua và mảnh đất quê hương, hai vợ chồng đâm mơ màng. Họ nhớ lại thứ rượu mạnh xứ Sarăngtơ vàng ươm, những chùm nho chín dưới các dãy tường xứ Cônhắc. Muối mặn biển khơi làm cổ họng họ rát bỏng. Da họ nhày nhụa như da cá trích hun khói.
    - Chúng ta sắp ghé vào bờ rồi – Lơ Gan nói – Lên đất liền chúng ta sẽ tìm ra suối nước ngọt.
    Từ “suối nước ngọt” làm họ thở dài.
    Angielic đứng riêng một chỗ. Khi công việc trót lọt, thì người ta không thèm hỏi han đến nàng. Khi tình hình khó khăn người ta mới năn nỉ nàng can thiệp. Nàng cũng đã bắt đầu quen với thủ đoạn đó rồi. Nàng nhún vai.


    Chương 31



    Vào khoảng giữa trưa– nếu căn cứ vào vùng ánh sáng lờ mờ - Angielic đi lên boong tàu vì nghe có tiếng tranh cãi gần đấy.
    Trước chiếc xuồng cỡ lớn, Manigô và Nicôla Perôt đang thương lượng
    - Chúng ta sẽ đưa chiếc xuồng xuống dưới nước để dò xem bờ biển – Anh chàng người Canada hỏi.
    - Hiện giờ chúng ta đang ở đâu thế này?
    - Tôi cũng chẳng biết gì hơn ông đâu! Điều tôi có thể chắc với ông là đã đến gần bờ biển. Chúng ta sẽ là một lũ điên nếu cứ tiến lên mãi mà không tìm ra một lối đi cho con tàu. Chắc chắn chúng ta sẽ tìm ra một cái vịnh, một cái vũng để thả neo. Nhưng có điều là đừng để bị vỡ tàu trên đường vào. Ông hãy nghe có tiếng gì kia!...
    Anh chàng lật chiếc mũ lông thú ra phía sau, nghé tai, nghiêng đầu như thể để nghe một tiếng động xa xăm mà chỉ một mình nghe thấy.
    - Ông hãy nghe đi…
    - Cái gì vậy?
    - Tiếng động của cồn cát nổi gần cửa biển. Chúng ta phải vượt qua cồn cát ấy.
    Nhưng tiếng sóng làm ù tai mọi người.
    - Chúng tôi chẳng nghe thấy gì hết.
    - Nhưng tôi lại nghe thấy đấy – Anh chàng người Canada nói – Thế là đủ rồi!
    Anh ta hít hít sương mù, nó dày đặc đến nỗi anh tưởng như nuốt một thứ gì đặc quánh khi há miệng ra.
    - Đất liền không xa nữa đâu. Tôi cảm thấy mùi đất rồi.
    Giờ đây, họ cũng cảm thấy. Trong bãi sa mạc trắng xóa này những làn hơi khó tả bốc lên, khiến họ tin chắc một sự hiện diện tuyệt vời và thân thuộc: ĐẤT LIỀN!
    Một bến bờ, cát, sỏi, có thể là cả cây cỏ nữa…
    - Không phải suy nghĩ làm gì cho lắm – Anh chàng người Canada giễu cợt – Bởi vì ông biết đấy, ở đây có thể có những đợt triều dâng lên cao đến một trăm hai mươi bộ trong vòng hai tiếng.
    - Một trăm hai mươi bộ! Nhưng anh không đùa đấy chứ? Làm gì có cái chuyện đó!
    - Nhưng ông hãy tin lời tôi, đừng để nhỡ giờ cho tàu đi qua. Và trong khi chờ đợi, tôi khuyên ông nên nhảy xuống nước trước khi vỏ tàu chạm xuống đáy và vỡ tan. Đây là vùng biển nhiều đá ngầm nhất thế giới – người ta bảo thế - Nhưng ông làm sao hiểu được với cái cảng La Rôsen nhỏ xíu và thứ thủy triều thảm hại chỉ lên cao có mười hai bộ của ông!
    Hai mắt lim dim, anh chàng có vẻ giễu cợt họ. Phía trước nghe có tiếng tháo dây xích neo.
    - Tôi chưa ra lệnh cơ mà! – Manigô kêu lên
    - Không làm thế nào khác được, thưa ông chủ - Lơ Gan nói. Đúng là đến gần đất liền thật rồi…Nhưng biết còn cách bao nhiêu sải cáp là chuyện khác…Với sương mù dày đặc như thế này.
    Một người đến báo là neo tàu đã chạm đáy biển ở độ sâu bốn mươi bộ.
    - Đến giờ rồi!
    - Không làm thế nào khác – Lơ Gan nhắc lại -Cứ phải làm theo lời họ thôi.
    Hắn hất hàm về phía Nicôla Perôt và những người của Rescartor đang chuẩn bị xuống xuồng.
    Họ lợi dụng một ngọn sóng dâng cao để đưa xuồng xuống biển rồi xuống theo.
    Manigô và Bécnơ đưa mắt hỏi nhau, ngập ngừng, sợ mình lại bị đánh lừa một vố nữa.
    - Khoan đã - Lão chủ tàu Tin lành nói – Để tôi còn thương lượng với Rescartor đã.
    Hai con mắt anh chàng người Canada lúc bấy giờ cứng rắn như những viên đạn súng trường. Anh đập mạnh tay xuống vai Manigô.
    - Ông lầm rồi, ông bạn ạ. Ông không nhớ là ở dưới kia, trong hầm tàu, số ít đạn dược của chúng tôi còn lại là để dành cho các ông hay sao? Cũng như các ông đã từng dành cho chúng tôi trước đây. Các ông muốn đánh nhau, thì sẽ được đánh nhau. Nhưng nên nhớ là…chúng tôi không tha chết cho các ông đâu… nếu như các ông thua.
    Anh ta mải bước đi qua cửa tàu và trượt qua dây chão xuống xuồng. Chiếc xuồng bập bềnh trên những đợt sóng bọt trắng ngần giữa vùng biển một màu xanh tím tuyệt đẹp trong sương mù. Chỉ sau mấy mái chèo, chiếc xuồng đã rời con tàu và mất hút. Nhưng nó vẫn gắn liền với con tàu bằng một chiếc dây cáp. Cáp tiếp tục quay.
    Ericxon ở lại trên boong tàu. Anh ta lo phần việc đã được dự kiến, không đếm xỉa gì đến đám người Tin lành đáng khinh bỉ kia, những tay “thủy thủ nước ngọt” đã câu kết với bọn Tây Ban Nha khốn khiếp để cướp tay lái của anh. Vừa thổi còi inh ỏi vừa đá thật lực, anh bắt mười đứa đến đứng bên tời quay cáp.
    Dây cáp quay nhanh, một lát sau kéo theo xung quanh tời những cuộn dây thừng to bằng bắp tay, trông như những con rắn trong lớp sương mù dày đặc. Chiếc xuống hẳn đã ghé vào bờ. Dây cáp rung lên dữ dội.
    - Họ cột nó vào một mỏm đá để làm chỗ dựa và sau đó kéo chúng ta vào bờ biển – Lơ Gan lẩm bẩm.
    - Không thể như thế được, hiện thủy triều đang xuống.
    - Biết thế nào được? …Tôi cho đây là một con lạch ngầm chỉ có thể vượt qua trong khi thủy triều lên cao. Chắc hẳn như thế. Nhưng ở đây thủy triều lên cao vào những giờ nào?
    Họ hồi hộp chờ, không thể tin là những nỗi lo phiền đã chấm dứt.
    Ericxon ra hiệu quấn dây cáp vào quanh cọc. Trước đó, anh đã ra lệnh kéo neo. Con tàu Gunxbôrô từ từ chuyển mình như thể được kéo đi bằng bàn tay vô hình.
    Những người ở trục quay ra sức kéo cáp, mình đầm mồ hôi tuy trời rét như cắt. Dây cáp căng ra rung lên như muốn đứt.
    Lơ Gan im lặng đưa tay chỉ cho Manigô nhìn qua lan can. Mặc dù sương mù, họ nhận thấy rất gần những mỏm đá là là mặt nước nhô lên khắp nơi đen ngòm, lởm chởm, bọt nước đánh trắng xóa..
    Nhưng con tàu lớn vẫn tiếp tục đường đi của nó không suy suyển, một cách thần kì qua luồng nước hẹp và sâu. Người ta phấp phỏng lo sợ tàu va vào mỏm đá, với tiếng răng rắc rùng rợn, tiếng kêu bất hạnh “Mắc cạn” quen thuộc với những người trên eo biển. Nhưng không có gì xảy ra: tàu Gunxbôrô vẫn tiếp tục tiến lên tuy sương mù thêm dày đặc. Một lát sau, trên boong tàu, họ chỉ thấp thoáng trông thấy nhau. Trong cái nhà tù lờ mờ này, họ có cảm giác như được nâng lên, nâng lên mãi. Khi tàu bắt đầu rơi xuống thì vài ba người nghe thấy một tiếng va chạm nhẹ nhưng tàu Gunxbôrô trôi nhanh, nghiêng về phía mạh trái rồi đứng thẳng lên và đung đưa trong những xoáy nước vô hình bập bềnh kéo dài.
    - Chúng ta vừa vượt qua cồn cát –Lơ Gan nói.
    Một tiếng thở dài nhẹ nhõm thoát ra cùng một lúc từ lồng ngực bị nén lại của cả hai đám đối địch.
    Tiếng nói khàn khàn của Ericxon cất lên, tiếp theo là tiếng xủng xoảng của dây xích sắt được tháo ra. Tàu Gunxbôrô lại thả neo, tiếp tục đung đưa một cách hiền lành. Những người đi trên tàu chờ đợi một lúc lâu, chờ nghe tiếng mái chèo bì bõm báo hiệu chiếc xuồng trở về.
    Nhưng chẳng có gì hết. Lơ Gan cầm loa phóng thanh và gọi, rồi cho kéo cả chuông báo sương mù.
    Đột nhiên nảy ra một ý, Manigô đi tới chỗ trục quay cáp. Lão kéo sợi dây thừng. Dây mềm mại cuộn theo bàn tay lão.
    - Dây đứt rồi!
    - Sao đứt được! trừ phi người ta cố tình chặt nó đi…
    Một gã Tân giáo ở xóm Xanh – Môrix lúc này trong nhóm trục tời bước tới.
    - Dây thừng bị đứt giữa lúc chúng ta vượt qua cồn cát. Chắc hẳn nhờ mấy chàng trai trong xuồng đây. Phải làm như thế, nếu không chúng ta đã bị đập vào các mỏm đá rồi. Hay quá! Thế là chúng ta thoát nạn.
    Họ kéo dây thừng lên. Quả sợi dây thừng đã bị chặt đứt bằng lưỡi dìu.
    - Làm đến là nhanh. Hay thật! –Tay thủy thủ nhắc lại vẻ thán phục
    Angielic nghe có tiếng lẩm bẩm:
    - Đúng là hay thật, đối với một cuộc đổ bộ vào một xứ sở xa lạ.
    Manigô giật mình.
    - Nhưng ai, là ai người cầm lái trong khi chúng ta vượt qua vùng lạch? Ericxon lúc đó ở bên cạnh chúng ta kia mà.
    Họ vội vàng đi về phía đuôi tàu. Angielic đi theo. Nàng muốn cùng một lúc có mặt khắp nơi để đề phòng và đối phó với mọi nguy hiểm mà nàng cảm thấy đang lẩn quất quanh họ. Thiên nhiên không đe dọa nữa. Mặc dù vậy, nàng vẫn chưa yên tâm. Sự đoàn kết của con người để chống lại biển cả đã đột ngột chấm dứt. Một trận đấu khác, có tính chất quyết định lại diễn ra giữa đám người Tin lành và Giôphrây đờ Perắc.
    Cạnh bánh lái, bây giờ bất động, họ vấp phải một xác người sóng xoài, một người Tây Ban Nha, kẻ bất lực nhất trong những người phản loạn. Một nhát dao găm đâm đúng vào lưng đã kết liễu cuộc đời vô tích sự của hắn.
    - Có phải hắn là người Ericxon đã chỉ định cầm lái không?
    - Không thể như thế được. Trừ phi hắn biết trước là sẽ có người đến thay thế…
    Họ nhìn nhau hồi lâu, im lặng, không bàn cãi và cũng không động viên nhau.
    Bà Angielic – cuối cùng Manigô quay lại phía bóng người phụ nữ đang đứng cạnh và nói – chính Ông ta cầm lái trong khi chúng ta vượt qua lạch phải không?
    - Làm sao mà tôi biết được, thưa các ông? Tôi có ở dưới hầm tàu với ông ấy không? Không. Tôi ở trên này với các ông, tất nhiên không phải vì tôi tán thành hành động của các ông mà chỉ vì tôi vẫn hy vọng tất cả mọi người chúng ta đều được cứu thoát.
    Họ cúi đầu im lặng. Một lối thoát may mắn như thế từ nay đối với họ dường như không sao có thể có nữa. Họ suy ngẫm những lời nói của anh chàng cục mịch người Canada: “Giữa chúng ta chỉ có một sống một chết mà thôi!”.
    - Ít ra thì những người tôi cử đến gác các ô cửa sập cũng phải canh giữ cẩn thận chứ?
    - Thì cứ hy vọng như thế! Nhưng chúng ta không thể nào biết được mọi thứ cạm bẫy người ta chăng ra trong cái mớ bòng bong này.
    Manigô thở dài não nề.
    - Tôi sợ rằng đối với họ chúng ta chỉ là những kẻ đánh nhau tồi và lái thuyền tồi…Nhưng mặc! Đã đâm lao thì phải theo lao. Hãy cẩn thận, anh em ạ, và sẵn sàng hy sinh nếu cần. Biết đâu số phận lại chẳng chiều lòng chúng ta. Chúng ta có vũ khí. Khi tan sương mù, chúng ta sẽ biết mình đang ở đâu. Đất liền không còn xa nữa. Nó ở mạn này này. Nghe tiếng sóng vỗ thì biết tàu chắc đang đậu trong một cái vũng yên lặng. Cho dù xuồng không trở lại, chúng ta cũng có thể lên bờ bằng xuồng. Và chúng ta đã đông người lại có vũ khí. Ngay cả những khẩu đại bác trên tàu cũng trong tay chúng ta. Chúng ta sẽ trinh sát, thế nào cũng tìm thấy và đem nước ngọt về. Sau đó chúng ta sẽ dùng vũ khí áp giải Rescartor và đồng bọn lên đất liền, rồi cho tàu chạy thẳng đến vùng hải đảo.
    Nhưng lão không làm cho người ta yên lòng được.
    - Tôi nghe cái gì như tiếng xích sắt ấy – Mécxơlô nói.
    - Tiếng sóng vỗ đấy
    - Tiếng sóng nào?
    - Có thể là một con tàu khác – Lo Gan nói.
    - Nghe cứ như tiếng xích sắt ở La Rôsen khi người ta kéo căng ra giữa vũng tàu và bến tàu cho tới ngọn tháp Xanh – Nicola ấy.
    - Ông nằm mơ đấy.
    - Tôi cũng nghe thấy – một người khác nói
    Họ chờ đợi.
    - Sương mù chết tiệt! Giá là thứ sương mù lương thiện như ở quê mình, nhưng quả thật chưa bao giờ tôi gặp loại sương mù này.
    - Có khi là do sự gặp gỡ giữa hai dòng xoáy nóng và lạnh cuốn con tàu chúng ta đi.
    - Điều lạ lùng nhất là mọi tiếng động vẫn vang lên chứ không bị bóp nghẹt như thường lệ trong thời tiết sương mù dày đặc…
    - Ericxon đâu rồi? – Manigô chợt hỏi,
    Họ chẳng còn tìm thấy anh ta đâu nữa.
    Trời chạng vạng. Khi châm ngọn nến đầu tiên lên, chàng trai Maxian cảm thấy mình xúc động một cách thích thú.
    - Lại mà xem – cậu ta kêu lên.
    Đàn ông, đàn bà, trẻ con chạy tới, thấy cậu ta đang đứng trước hàng nghìn ngọn lửa chiếu sàng do ánh sáng ngọn nến yếu ớt tạo ra quanh màn sương mù. Những tinh thể đóng băng bỗng tan thành vô vàn tia sáng xanh lục, xanh kim tuyến, vàng đỏ, hồng và xanh lơ. Họ đánh bật lửa châm tất cả đèn bão lên. Mỗi ngọn lửa xuất hiện lại tạo ra một cảnh huyền ảo muôn màu. Mọi người đứng nhìn, miệng há hốc, vừa lo sợ vừa vui thích tự hỏi: “Chúng ta đang ở đâu đây?”.
    Không sao ngủ được, Angielic nhiều lần trở lên boong tàu. Sau nhiều ngày vượt biển, bỗng cảm thấy tàu đột nhiên bỏ neo, bỗng nghe tiếng sóng dội trên bãi sỏi không xa, thì thật não lòng.
    Một cảm giác chờ đợi lại gợi nhớ cho nàng những đêm thức chuẩn bị ra quân trong vùng Boocagio trong thời kỳ nàng nổi loạn, gợi lại không khí trên con tàu hoàng gia hay con tàu các hiệp sĩ xứ Mantơ, vài giờ trước khi quân thù tiến công. Đấy là cảm giác về cuộc chiến đấu sắp xảy ra.
    “Thật ra, mình là một người phụ nữ chiến đấu…Giôphrây không biết điều đó, Chàng cũng vậy, chẳng hiểu biết gì về mình, về người đàn bà mình đã trở thành như hôm nay”.
    Trong những quầng sáng kỳ lại, màu sắc cầu vồng, nàng trông thấy những bóng người rét cóng, mặc áo khoác màu đen, đang canh gác, mắt mở to nhìn vào đêm đen kỳ lạ. Thỉnh thoảng một lớp mù bất thần đổ xuống vai họ những giọt sương giá lạnh lấp lánh.
    “Tại sao mình ở đây? – nàng tự hỏi – Trước sau mình vẫn không yêu mến họ. Mình bắt đầu thấy ghét Bécnơ vốn là người bạn thân thiết nhất. Mình có thể bỏ qua cho hắn nhiều chuyện, nhưng hắn muốn giết chết Giôphrây. Điều này thì mình không bao giờ có thể tha thứ cho hắn ta. Thế nhưng mình đang ở đây. Mình cảm thấy mình có mặt ở đây là đúng… Những đứa trẻ, phải…Ônôrin. Mình không thể bỏ chúng được. Giôphrây là kẻ mạnh. Cuộc sống dạy cho chàng tất cả những gì một người đàn ông có thể trải qua. Chàng cứng rắn. Chàng không có điểm yếu nào, ngay cả trong tình yêu đối với mình…”
    Nàng mong muốn được thấy chàng và xa chàng nàng thấy như bị lưu đầy. Đêm hôm trước, chàng gần gũi biết chừng nào, âu yếm biết chừng nào. Ảo ảnh hay thực tại? Nàng không biết nữa. Giữa lúc hừng đông, nàng đang trong dòng suy tưởng ấy thì một bàn tay lôi nàng về phía sau. Hai người thủy thủ đứng sau lưng nàng và nàng nhận ra những người đã đi theo nàng tới La Rôsen cùng với Nicôla Perôt. Thế là họ cũng đã chạy qua hàng ngũ bạo loạn. Nhưng họ đánh tan sự ngờ vực của nàng.
    Một thủy thủ hình như người xứ Mantơ, thì thầm bằng thứ tiếng vùng Địa Trung Hải mà nàng có thể hiểu được.
    - Ông chủ sai chúng tôi đến bảo vệ bà và cháu bé.
    - Tại sao lại bảo vệ tôi?
    - Đứng im
    Và cùng lúc đó, họ nắm chặt cổ tay nàng. Một tiếng động vang lên. Gã Tin lành đứng gác trước cửa boong tàu gần nhất ngã nhào. Phía trước hắn, Angielic trông thấy một con người lạ kỳ vừa giống như người mà cũng vừa giống như muông thú. Trông cứ như người khổng lồ. Trong ánh sáng lờ mờ, hắn vươn mình, xòe những chùm lông đỏ trên đầu như lông chim vẫy những cái đuôi lông lá như đuôi mèo, nhảy nhót vòng tròn. Cánh tay hắn giơ lên loang loáng ánh kim loại. Hắn đánh một lần nữa và một người lại ngã xuống. Người này chắc hẳn không nghe thấy tiếng chân của hắn đi tới. Hắn hành động nhanh nhẹn như loài ma quái, từ khắp nơi, trèo qua tay vịn, những bóng ma khác hiện hình lặng lẽ, vồ tới và lướt nhanh như đi trên mây, chiếm cả boong tàu.
    Bộ lông sặc sỡ của chúng và những chiếc áo choàng lông màu xanh lam hay màu hung bay phấp phới phía sau giống như những cánh chim đầy lông tơ khiến cánh tay chúng giơ lên chẳng khác tay những thượng đẳng thần báo oán.
    Angielic muốn kêu lên, tưởng mình đang nằm mơ. Hai thủy thủ của Rescartor ngăn nàng lại.
    - Đừng kêu! Những người da đỏ …bạn của chúng ta đấy.
    Một người nhảy tới trước mặt Angielic như một người làm trò nhào lộn. Một tay gã huơ lên chiếc kiếm ngắn, lưỡi kiếm rất rộng trang trí bằng những cái lông màu đỏ, tay kia giơ một thứ kẹp bằng gỗ, gắn một cục sắt tròn làm thành một cái thùng thô sơ. Angielic trông thấy cạnh mình bộ mặt như đất sét màu đỏ của gã, bí ẩn, chằng chịt những đường xanh lam.
    Đám thủy thủ giơ tay lên và gọi gã người da đỏ bằng một thứ ngôn ngữ du dương, Họ chỉ Angielic cho gã thấy và chỉ cái cửa kho hàng họ đang đứng gác. Hắn bèn ra hiệu là hắn đã hiểu và quay trở lại chiến đấu.
    Còn có vài tiếng kêu lẻ tẻ, mấy tiếng súng rồi tiếng rên rỉ kéo dài, tiếp theo là tiếng ì ầm kỳ cục gợi nhớ những đêm nhậu nhẹt trong quán rượu ở bến tàu.
    Những người khác để râu cằm, đội mũ lông thú giống như Nicôla Perôt hớn hở náo nhiệt gọi nhau, nhảy qua lan can lên tàu Gunxbôrô.
    Angielic trông thấy hai người đi qua, dáng vẻ quý tộc gươm đeo bên hông, mặc chiếc áo chẽn kiểu châu Âu, kiêu hãnh đội những chiếc mũ to tướng mặc dù có phần không hợp mốt. Họ điềm tĩnh bước về phía đuôi tàu và nàng không trông thấy họ đâu nữa. Boong tàu nhộn nhịp những người. Họ dường như nhìn thấy qua màn sương dày đặc mà họ đã quen mắt. Trong vài phút, Angielic biết mọi việc đã giải quyết xong. Chiến thắng đã đổi trận tuyến và ưu thế mong manh của đám người Tin lành đã sụp đổ.
    Manigô, Bécnơ và bộ hạ hai tay bị trói cánh khuỷu, bị dẫn lên boong chính. Mặt họ tái xanh tái xám, râu xồm xoàm, áo quần rách tả tơi. Cuộc tấn công bất ngờ của những người da đỏ khiến họ không kịp trở tay.
    Bị đánh quỵ bằng thứ vũ khí bắn ra những hòn cuội tròn và không hề nhìn thấy kẻ thù đã đến gần, giờ đây họ vẫn chưa hoàn hồn. Nhiều kẻ bị đánh ê ẩm. Vẻ mặt họ co dúm lại đau đớn.
    Angielic không hề thương hại bọn họ. Nàng rất giận họ mặc dù nàng mong chồng nàng làm chủ trở lại tình hình, vẫn không nên gây cảnh đổ máu quá nhiều.
    Trong thâm tâm, bao giờ nàng cũng cảm nhận là cuối cùng chàng sẽ khống chế được đối thủ, những kẻ chắc hẳn là quyết tâm và dũng cảm, có khi xảo quyệt, nhưng thiếu kinh nghiệm.
    Thực ra chàng chỉ chấp nhận sự thất bại để chờ thời cơ. Với sự hiểu biết về biển cả và cùng duyên hải chàng nhử kẻ thù vào tròng, chàng đã dễ dàng lừa gạt chúng. Ẩn nấp trong ruột con tàu chàng theo dõi bước tiến điên cuồng của tàu Gunxbôrô trong dòng xoáy Phlôriđơ, rồi khi thời cơ đến cho Ericxon và Nicôla Perôt xuất hiện. Hai anh chàng giả vờ không biết nơi ghé tàu này là ở đâu và đưa tàu vào bẫy giăng sẵn, tức là sào huyệt của chàng. Xuống đất liền những người trên xuồng đi tìm gặp và báo cho bạn bè cũ của họ biết và báo động cho những người da đỏ trong các bộ lạc thân quen.
    Bị cầm tù trong sa mạc sương mù xa lạ, đám người Tin lành đã nằm gọn trong tay đờ Perắc. Đèn bão thắp sáng trên tàu dẫn đường cho những chiếc xuồng nhẹ làm bằng vỏ cây bulô. Những chiếc xuồng này chở vũ khí và các chiến sĩ người da đỏ, những người săn bắn và thủy thủ, hiệp sĩ cướp biển, những cư dân thuộc nhiều chủng tộc khác nhau trên các bến bờ hoang dại này, tất cả đều là người của Rescartor.
    Và đột nhiên từ trong sương mù, chàng xuất hiện đen sẫm. Chàng như cao lớn hơn những người khác, ngay cả ở bên cạnh những người da đỏ to cao sừng sững. Họ chào chàng và quì lạy với những động tác mềm mại của giống mèo trong những chiếc áo khoác bằng lông thú lộng lẫy với những cái đuôi mèo vẫn mang trên đỉnh đầu cạo trọc và đung đưa trên hai vai. Rescartor nói chuyện với họ bằng thứ tiếng của họ. Cả ở đây nữa, ở cái xứ sở tận cùng của thế giới này, chàng vẫn như đang ở nhà mình.
    Hình như chàng không trông thấy Angielic và chỉ dừng lại trước đám người bị bắt. Chàng nhìn ngắm họ hồi lâu rồi thở dài.
    - Cuộc phiêu lưu đã kết thúc, các ngài Tân giáo ạ - chàng nói – Tôi lấy làm tiếc cho các ngài đã không biết dùng dũng khí của mình vào những nhiệm vụ có ích hơn cho tất cả chúng ta. Các ngài đã không chọn đúng kẻ thù và cũng chẳng nhận biết ai là bạn. Đấy là những sai lầm quen thuộc của đồng loại các ngài, những sai lầm phải trả giá rất đắt.
    - Bây giờ ông định làm gì chúng tôi? – Manigô hỏi.
    - Sẽ làm những gì chắc hẳn các ông làm nếu các ông chiến thắng. Trước đây, các ông đã đọc Kinh thánh cho tôi nghe. Bây giờ đến lượt tôi đọc cho các ông suy ngẫm một trong những điều luật của Thánh thư: “Ăn miếng trả miếng!”.






  6. #14
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default




    Chương 32



    - Bà Angielic, bà có biết ông ấy sẽ làm gì họ không?
    Angielic rùng mình và ngước nhìn Abighen. Trong buổi sáng nhợt nhạt, nét mặt cô gái trông hốc hác. Lần đầu tiên cô tỏ ra cẩu thả. Nỗi lo choán hết tâm trí, cô không thể nghĩ đến chuyện làm duyên làm dáng nữa. Cô không buồn cởi chiếc tạp dề bẩn vì những đêm thức để lắp đạn và lau chùi súng cho đám người Tin lành, cũng chẳng buồn đội chiếc mũ vải trắng đẹp lên đầu. Những mớ tóc dài mượt mà lòa xòa trên hai bờ vai làm cô có vẻ trẻ trung và thẫn thờ ít thấy, Angielic ngắm nhìn cô gái mà như không nhận ra. Đôi mắt sưng húp của Abighen và vẻ lo âu hiện rõ trong ánh mắt khiến nàng ngạc nhiên, nhất là vì cô con gái mục sư Bôke này chẳng có việc gì phải sợ bố hoặc người anh họ bị trả thù bởi lẽ đã có thái độ đúng mực trong cuộc bạo loạn. Cô cũng chẳng có chồng, có con trong số những người mà số phận còn chưa được định đoạt.
    “Họ” là những người cầm đầu cuộc bạo loạn. Manigô, Bécnơ, Mécxơlô, Lơ Gan và ba kẻ lọt vào đoàn thủy thủ của Rescartor để dễ bề dò la. Từ hôm trước không còn thấy họ đâu nữa. Những người khác đã trở về với vợ con. Đầu cúi gằm, mệt mỏi và cay đắng, họ nếm qua đầu lưỡi những trái cây và rau, kèm theo những túi da đựng nước ngọt được phân phát rộng rãi.
    - Tôi thấy chúng ta đã hành động như một lũ ngu ngốc – lão thấy thuốc Đary vừa nói vừa gieo mình xuống một bó rạ - Trước khi nghe theo Manigô và Bécnơ ít ra chúng ta cũng phải thương thuyết với tên hải tặc. Dẫu sao hắn cũng đã cho chúng ta lên tàu trong khi thất cơ lỡ vận.
    Luật sư Care cũng làu bàu. Vốn vụng về, ông ta tự làm mình bị thương vì một khẩu súng trường và bàn tay bị đau càng làm ông ta cáu kỉnh.
    - Thật ra đối với tôi, đi đảo này hay đi đến một nơi nào khác cũng thế thôi…Còn Manigô thì sợ mất tiền của và Bécnơ thì sợ mất tình yêu của một người đã từng làm ông ta như điên như dại…
    Lẩm bẩm trong kẽ răng, tay luật sư nhìn Angielic với một ánh mắt thâm hiểm.
    - Chúng ta đã để cho hai kẻ điên dắt mũi…Bây giờ thì tôi đã ra nông nỗi này đây…với mười một đứa con thơ dại…
    Trạng thái rã rời đè nặng lên đám người Tin lành ngồi im lặng. Hoảng sợ vì những sự cố vừa qua và vì những người da đỏ, lũ trẻ vẫn chưa hoàn hồn nên ngồi câm như hến, đưa mắt dò hỏi những gương mặt lo âu và buồn bã của bố mẹ.
    Con tàu bỏ neo đung đưa nhịp nhàng trong lớp sương mù dày đặc, nhợt nhạt, khiến mọi người càng có cảm giác nửa tỉnh nửa mê sau những ngày bão tố và đọ sức. Cảm thấy buổi sàng nay uy hiếp nặng nề, Abighen bừng tỉnh, tim đập như trống trận. Vẫn chưa thoát khỏi cơn ác mộng rùng rợn trong giấc ngủ, cô đột nhiên đứng dậy và bước tới chỗ Angielic.
    Nàng cũng không hề chợp mắt, trong lòng day dứt tới mức nàng quên cả thái độ thù hận của những người bạn cũ ở La Rôsen đối với mình. Nàng ở lại với họ là để bảo vệ họ, chứ đâu phải để ẩn thân. Nàng hết nghĩ tới Giôphrây đờ Perắc lại nghĩ đến những con người nàng cảm thấy mình có trách nhiệm với họ. Cúi xuống khuôn mặt nhợt nhạt của Lôriê, nàng vừa kéo chăn đắp cho nó vừa cố làm cho nó yên tâm, nhưng hai môi mím chặt của thằng bé không thốt ra một câu hỏi nào. Xêvêrin và Maxian cũng vậy.
    Một lần nữa, bị lôi cuốn vào những cuộc tranh chấp rối ren của người lớn, bọn trẻ con lại chịu đau khổ.
    - Phải chăng mình cứu chúng nó khỏi lao tù của Nhà vua để chúng bị hai lần côi cút…ở nơi cùng trời cuối đất này? Không, không thể như thế được!...
    Khi thấy Abighen xuất hiện trước mặt, nàng càng khiếp hãi hơn. Angielic đứng dậy và ung dung vuốt lại những vết nhàu trên chiếc áo dài. Mọi người đang trong cơn hoảng loạn. Nàng phải sẵn sàng đối phó và tập hợp hết sức lực để dập tắt nỗi thất vọng sắp sửa dâng tràn.
    Phía sau Abighen, những người đàn bà khác cũng đã đứng dậy, mụ Brêagiơ, mụ Lơ Gan, vợ đám thủy thủ rụt rè và tuy lo âu vẫn không dám nhập bọn với mấy bà quí tộc La Rôsen, mụ Mécxơlô, mụ Manigô và mấy cô con gái bỗng nhiên kiên quyết, mặt đanh lại, nhào đến chỗ Angielic.
    Họ không nói ngay nhưng nhìn nàng chằm chằm, cùng nhắc lại câu hỏi mà Abighen đã đặt ra.
    - Ông ta định làm gì đây?
    - Tại sao cô lại như thế Abighen? – Angielic khẽ nói riêng mới cô gái mà thái độ khiến nàng băn khoăn , - Cám ơn Chúa, ông cụ cô và anh họ cô đã thận trọng không dây vào một hành động mà họ không tán thành. Chẳng có gì không hay sẽ xảy ra với họ đâu.
    - Nhưng còn Gabrien Bécnơ! – Cô gái kêu lên một tiếng kêu xé lòng – Bà Angielic, bà nỡ lòng thờ ơ để ông ấy chết hay sao? Bà quên là ông ấy đã cứu mạng bà, đưa bà về ở trong nhà và vì bà…vì bà..
    Hầu như có cả nỗi căm hờn trong đôi mắt cô gái đang nhìn thẳng vào Angielic. Cái mặt nạ trong sáng, dịu hiền của cô gái cũng tan vỡ nốt. Angielic hiểu ra.
    - Abighen, thế ra cô yêu ông ta?...
    Cô gái đưa hai bàn tay lên ôm mặt, tức tưởi.
    - Phải, tôi yêu anh ấy! Đã bao nhiêu năm rồi, bao nhiêu năm rồi…tôi không muốn anh ấy phải chết, cho dù bà có cướp anh ấy của tôi.
    “Mình thật dại dột – Angielic thầm nghĩ – Thì ra cô gái là bạn mình, vậy mà mình chẳng hiểu gì lòng dạ cô ta cả. Nhưng Giôphrây thì biết ngay từ tối đầu tiên chàng trông thấy Abighen trên tàu Gunxbôrô. Chàng đã đọc được trong đôi mắt cô gái là cô ta yêu Bécnơ”.
    Abighen ngẩng khuôn mặt giàn giụa nước mắt lên.
    - Bà Angielic, xin bà can thiệp để người ta tha tội chết cho anh ấy…Có tiếng gì ở phía trên kia kìa?
    Không kìm nổi nỗi lo sợ trào dâng trong lòng, cô gái nói thêm, quên cả e lệ thẹn thùng.
    - Bà nghe xem, có tiếng bước chân, tiếng chùy giáng xuống kia. Tôi chắc người ta đang sửa soạn để treo cổ. Ôi! Nếu anh ấy chết thì tôi sẽ chết theo.
    Một hình ảnh cùng hiện ra trước mắt Angielic và Abighen: họ nhớ lại nỗi kinh hoàng khi tìm thấy trong một buổi bình minh cũng như buổi bình minh này xác gã người Mo Apđula đung đưa trên cột buồm. Họ thấy rõ là công lý của đờ Perắc được thi hành nhanh chóng và dứt khoát. Mặt ngửa lên, nét mặt căng thẳng, miệng hé mở, thở hổn hển họ lắng nghe những bước chân gấp gáp phía trên đầu.
    - Trí tưởng tượng của cô lạc hướng rồi đấy, Abighen ạ - Cuối cùng Angielic cố hết sức bình tĩnh nói – Làm gì có chuyện chuẩn bị treo cổ, vì cột buồm trước mũi đã bị gãy gục trong cơn bão.
    - Ồ! Còn khối cột buồm và cột buồm trên tàu Gunxbôrô để giết chết họ - Mụ Manigô giận dữ kêu lên -Đồ khốn kiếp! Chính mi đã lôi kéo chúng tao, bán đứng chúng tao cho tình nhân của mi, cho kẻ đồng mưu của mi để làm hại chúng tao…Không bao giờ tao không ngờ mi.
    Tay giơ cao, hai má đỏ rực như bốc lửa, mụ ta xông tới Angielic. Ánh mắt uy nghiêm của nàng buộc mụ dừng lại.
    Từ khi Angielic trở lại với họ trong chiếc áo dài mới và mái tóc bỏ xõa trên vai, đám phụ nữ tuy thù ghét vẫn có phần kính trọng nàng. Với cách trang phục này, họ dễ nhận ra vẻ quí phái trong cử chỉ và ngôn ngữ của nàng.
    Mụ trưởng giả kiêu kì bất đắc dĩ phải khuất phục trước mắt nàng. Tay mụ ta buông thõng. Bà Mécxơlô nắm lấy cổ tay mụ.
    - Bình tĩnh nào, cái mụ lắm mồm này – Bà ta vừa nói vừa lôi mụ ta ra phía sau – Mụ quên rằng chỉ có bà ấy là còn có thể cứu chúng ta ra khỏi bước hiểm nghèo này hay sao? Chúng ta đã làm quá nhiều điều dại dột rồi…
    Ánh mắt Angielic đanh lại.
    - Đúng thế - Nàng nói, giọng sắc như dao –Bao giờ các người cũng muốn trút lên đầu người khác trách nhiệm về những lỗi lầm của chính các người. Bà Manigô này, chính bà cũng cảm thấy Rescartor là người đáng tin cậy, nhưng các bà không biết kiềm chế và thuyết phục đầu óc sai lạc của các ông chồng các bà, bọn họ theo đuổi những mục đích và quyền lợi còn xấu xa hơn nhiều so với những tay cướp biển mà các người khinh bỉ. Đúng thế, tôi ở cạnh ông thuyền trưởng khi họ bắt giữ ông ấy. Họ dọa giết ông ấy, họ tàn sát đồng nghiệp của ông ấy ngay trước mắt ông…Ai có thể quên được những điều sỉ nhục như vậy?...Và ông ấy lại càng khó quên hơn những người khác…Các bà đều biết chuyện đó. Và vì vậy mà tất cả các bà đều khiếp hãi.
    Sự phẫn nộ làm nàng run lên
    Họ nhìn nàng và nhận ra tai họa đã xảy tới. Và chính mụ Manigô đành nhẫn nhục nhắc lại câu hỏi não nề:
    - Ông ấy sẽ làm gì họ?
    Angielic cúi mặt xuống. Câu hỏi đó chính nàng cũng luôn tự đặt ra cho mình suốt đêm qua, sự bình yên giả tạo của những giờ phút cuối cùng của cuộc nổi dậy.
    Bỗng mụ Manigô quì sụp xuống trước mặt Angielic. Và những người đàn bà khác cùng chung một ý nghĩ liền bắt chước mụ ta.
    - Bà Angielic! Xin bà cứu chồng chúng tôi!
    Họ chắp tay vái nàng.
    - Chỉ có bà là có thể cứu thoát họ - Abighen thiết tha khẩn nài – Chỉ có bà biết rõ những uẩn khúc trong lòng ông ấy và tìm ra những lời lẽ khiến ông ấy quên đi sự xúc phạm.
    Angielic bàng hoàng trước những lời van xin đó.
    - Các bà lầm rồi, tôi chẳng có quyền lực gì đối với ông ấy cả. Con tim ông ấy khó mà lay chuyển nổi.
    - Chỉ có bà là có thể làm được.
    - Bà có thể làm được mọi việc!
    - Bà Angielic, xin bà thương lấy con cái chúng tôi.
    - Bà đừng bỏ rơi chúng tôi. Xin bà đi gặp ông ấy.
    Nàng một mực lắc đầu:
    - Các bà không hiểu. Tôi chẳng thể làm gì đâu. Ôi! Giá mà các bà biết rõ, không gì lay chuyển được trái tim ông ấy đâu.
    - Nhưng đối với bà! Niềm say mê đối với bà sẽ làm mềm lòng ông ấy.
    - Nhưng than ôi! Tôi không hề làm ông ấy say mê!
    - Ôi! Tất cả đồng thanh kêu lên – Bà nói gì vậy? Không có một người đàn ông nào say mê một người đàn bà như ông ấy say mê bà. Khi nhìn bà, mắt ông ấy long lanh như ngọn lửa.
    - Tất cả bọn chúng tôi đều phải phát ghen và bực tức vì ánh mắt ấy – Mụ Care thú nhận và đi lại gần nàng.
    Họ vây quanh nàng và bám chặt lấy nàng với một lòng tin mù quáng.
    - Xin bà cứu lấy cha cháu – Gieni năn nỉ -Cha cháu là chỗ dựa của tất cả chúng cháu. Không có cha cháu thì chúng cháu sẽ biết làm gì trên những miếng đất xa lạ này?
    - Chúng tôi ở cách xa La Rôsen biết chừng nào…
    - Chúng tôi thật cô đơn.
    - Bà Angielic! Bà Angielic!
    Giữa những tiếng van xin ồn ã ấy, Angielic hình như chỉ nghe thấy giọng nói yếu ớt và buồn bã của Xêvêrin và Lôriê tuy chúng không hề thốt ra lời. Chúng mon men đến bên cạnh và đưa những cánh tay nhỏ bé ôm choàng lấy nàng.
    Nàng ôm chặt chúng vào lòng để khỏi nhìn thấy ánh mắt lo âu của chúng.
    - Ôi! Những đứa bé đáng thương bị bỏ rơi ở nơi cùng trời cuối đất
    - Bà sợ gì, hả bà Angielic? Ông ấy chẳng làm hại bà đâu – Lôriê nhỏ nhẹ và ngập ngừng nói.
    Nàng chỉ có thể nói với chúng là những nỗi oán giận xót xa, tuy còn thầm kín, đã chia rẽ hai người. Chứng cớ là cuộc tranh cãi kịch liệt hôm trước, mặc dù sau đó họ đã giàn hòa với nhau.
    Nàng không thể căn cứ vào sự hấp dẫn thể xác đối với chồng nàng. Vì cái đó chẳng mấy ý nghĩa. Không thể ràng buộc Giôphrây đờ Perắc bằng sức mạnh tình dục. Nàng biết rõ điều đó hơn bất cứ ai khác có mặt ở đây. Thật ít người có khí phách như anh ấy, vừa có thể thưởng thức một cách sành sỏi lạc thú nhục dục vừa dễ dàng xa lìa chúng. Niềm hứng thú của anh đối với những khoái cảm cao thượng hơn cho phép anh khống chế dục vọng và nếu cần, khước từ một cách dễ dàng những thú vui phù du xác thịt.
    Những người đàn bà tiết hạnh đang quì trước mặt nàng, muốn tưởng tượng ra điều gì đây? Hy vọng một cách ngây thơ vào sức quyến rũ của nàng để tiêu tan cơn phẫn nộ của một chúa tể biển khơi sau khi người ta lôi kéo cả đoàn thủy thủ của chàng vào cuộc bạo loạn.
    Giôphrây đờ Perắc sẽ không tha thứ đâu!
    Tuy có tinh thần hiệp sĩ lúc cần có, theo truyền thống cha ông, chàng vẫn không bao giờ ngần ngại làm đổ máu khi thấy cần phải làm và sẵn sàng giết hại khi cần thiết.
    Vậy làm sao nàng dám đến trước mặt chàng để biện hộ cho những kẻ tội phạm hiển nhiên đã tàn bạo xúc phạm chàng đến thế?...
    Sự can thiệp của nàng chắc sẽ như dầu đổ vào lửa. Chàng sẽ xua đuổi nàng không thương tiếc, sẽ trách mắng nàng đã cấu kết với kẻ thù.
    Đám đàn bà và trẻ nhỏ lo lắng theo dõi cuộc giằng xé nội tâm hiện lên trên nét mặt nàng.
    - Bà Angielic! Chỉ có bà là có thể làm ông ấy xiêu lòng! Trong khi còn cơ hội…Ít nữa, thì quá muộn mất!...
    Linh tính – một linh tính được những thử thách đã từng chịu đựng mài giũa – báo cho họ biết về những công việc đang được chuẩn bị đâu đấy tuy tiếng động không vang đến tận tai họ. Mỗi phút trôi qua là một phút mất đi. Họ rùng mình, sợ cánh cửa mở ra; người ta sẽ đưa họ ra, dẫn họ lên boong tàu và …họ sẽ nhìn thấy! Lúc đó thì có kêu khóc, van xin cũng quá muộn. Lúc đó sẽ phải chấp nhận điều không thể tránh được, sẽ phải trở thành người đàn bà đau khổ, hai mắt trống rỗng như chị Envia, người vợ trẻ góa bụa của anh thợ làm bánh mì bị giết trong bạo loạn. Từ hôm đó, chị ta ngồi như phỗng đá, ôm hai đứa con vào lòng.
    Angielic quyết định hành động.
    - Vâng, tôi sẽ đi – nàng nói khẽ - Phải đi thôi, nhưng…Ôi! Lạy Chúa! Sao mà khó khăn đến thế!
    Nàng tự cảm thấy bất lực, với hai bàn tay không, vì tự nàng đã cắt đứt sợi dây mỏng manh mới được nối lại giữa hai người, khi nàng từ chối không ở lại bên chàng “Em hãy ở lại bên anh”, chàng thầm thì với nàng. Nhưng nàng đã từ chối và chạy trốn. Chàng không phải là con người dễ tha thứ. Tuy nhiên, nàng vẫn nhắc lại. Tôi sẽ đi! Và giãn mọi người ra.
    - Tránh cho tôi đi nào!
    Bật đứng ngay dậy, đám phụ nữ lặng lẽ kéo đến quanh nàng. Bà Mécxơlô bắt tay nàng. Các bà tiễn nàng ra tận cửa.
    Hai người gác, thủy thủ của tàu Gunxbôrô đứng canh trước cửa. Họ ngập ngừng khi trông thấy Angielic, nhưng nhớ lại là nàng được ông chủ ưu đãi, liền để nàng đi qua.
    Nàng chậm rãi bước lên những bậc thang dẫn về phía đuôi tàu. Những bậc thang gỗ nhầy nhụa, thấm muối trong trận bão, thấm máu qua các trận đánh này, quen thuộc tới mức nàng bước qua mà không để ý. Vẫn một màn sương mù bao phủ con tàu thả neo trong cái vịnh bị che lấp. Hôm đó sương mù có nhẹ hơn nhưng trắng như sữa. Những ánh hồng và những ngôi sao vàng óng chợt hiện lên trong sương mù nhưng Angielic nhìn mà không thấy.
    Nàng va vào một người đàn ông tầm vóc cao lớn, mặc bộ đồng phục có thêu ren – kim tuyến và đội mũ phớt có chùm lông thật đẹp. Lúc đầu nàng nhầm tưởng là chồng nàng và đứng sững. Nhưng ông ta lịch sự chào nàng.
    - Thưa bà, tôi xin tự giới thiệu: Rôlăng đờ Uyêcvin, con út của gia đình nhà Valônhơ thuộc dòng dõi quí tộc xứ Noocmăngđi.
    Giọng nói người Pháp, cử chỉ lịch sự, mặc dù bộ mặt rám nắng của một tay cướp biển, khiến nàng có phần vững tâm. Ông ta hỏi có phải nàng muốn gặp bá tước đờ Perắc và xin được đưa nàng đến tận nơi. Angielic đồng ý. Nàng sợ phải giáp mặt với một chiến sĩ người da đỏ.
    - Bà không có gì phải sợ - Rôlăng nói – Họ là những chiến sĩ khủng khiếp trong chiến đấu, nhưng khi rời vũ khí, họ rất hiền lành và đầy tinh thần tự trọng. Ngài đờ Perắc đang chuẩn bị lên đất liền chính là để đi chào Đại tù trưởng Maxaoa của họ…nhưng, bà làm sao vậy?
    Khi bước lên tầng lầu trên boong thượng phía sau con tàu, Angielic ngước mắt nhìn lên.
    Nàng thấy những bàn chân trần đung đưa lơ lửng trên không ở phía cột buồm lớn.
    - À! Phải, đấy là những người bị treo cổ - Đờ Uyêcvin nói, sau khi nhìn theo ánh mắt nàng – Chẳng có gì đâu, chỉ là mấy tay làm loạn người Tây Ban Nha. Hình như chúng đã làm ông chủ và những người thân tín của ông khốn đốn trong cuộc hành trình trở về. Xin bà đừng xúc động. Công lý trên biển khơi hoặc trong các vùng hoang vu của chúng tôi phải được thi hành khẩn trương và dứt khoát. Những tên khốn kiếp đó chẳng đáng được quan tâm.
    Angielic muốn hỏi xem người ta đã làm gì đám người Tin lành, nhưng không dám. Bước vào phòng khách trên khoang thượng đuôi tàu, nàng bỗng thất sắc. Nàng tựa vào cánh cửa sau khi cửa được Rôlăng đóng lại. Nàng đứng một lúc trong cảnh tranh tối tranh sáng trước khi biết mình đang ở đâu. Thế nhưng nàng đâu có xa lạ căn phòng này, nơi mùi thơm của những đồ đạc sang trọng phương Đông như muốn lấn át mùi vị ám ảnh của biển cả.
    Biết bao cảnh tượng, biết bao bi kịch đã diễn ra tại đây từ buổi chiều đầu tiên ở La Rôsen, nơi thuyền trưởng Giadông đưa nàng đến gặp Rescartor!
    Nàng không nhìn thấy chồng ngay. Bình tĩnh lại đưa mắt tìm kiếm, nàng mới thấy chàng ở phía trong cùng căn phòng, gần khung cửa sổ lớn lởn vởn những lớp sương mù óng ánh. Ánh sáng đông đặc nhưng trắng ngần lọt qua cửa kính soi rõ mồn một chiếc hộp để trên bàn và Giôphrây lấy ra các thứ nữ trang, ngọc trai và kim cương.
    Đờ Uyêcvin lúc nãy bảo nàng là chủ tàu Gunxbôrô sắp lên đất liền tiếp một vị tù trưởng nổi tiếng. Chắc hẳn để chuẩn bị cho cuộc tiếp tân nên hôm đó trang phục chàng lộng lẫy khác thường. Khi nhìn thấy chiếc áo khoác của chàng bằng nhiễu đỏ, đính những bông hoa lớn bằng kim cương, chiếc áo chẽn và quần chẽn bằng nhung xanh thẫm không trang trí nhưng cắt rất khéo làm cho dáng người cao lớn của chàng đấy sức quyến rũ, Angielic tưởng chừng như sống lại những lễ hội trong triều ngày trước. Những ngày trước ấy, tuy cà nhắc, chàng đã chẳng nổi tiếng là một trong những lãnh chúa thanh lịch nhất của thời đó sao? Đôi ủng Tây Ban Nha cao cổ cũng như đôi găng tay có măng set đặt trên bàn và chiếc thắt lưng đeo bao súng ngắn và bao dao găm của chàng đều bằng da màu đỏ thắm.
    Chi tiết duy nhất phân biệt chàng với các vị lãnh chúa ở triều đình là chàng không đeo kiếm. Khẩu súng ngắn khảm xà cừ luôn luôn lấp lánh bên hông chàng.
    Chàng đang luồn hai chiếc nhẫn vào ngón tay và đeo vào cổ trên tấm áo chẽn, một sợi dây chuyền đính vàng và kim cương như thời Vua Lui 13, các tướng lĩnh quí tộc vẫn đeo, vì họ chán chiếc áo giáp đã trở thành vô dụng và biến nó thành đồ trang sức.
    Chàng ngồi hơi quay lưng ra phía nàng. Chàng có nghe thấy tiếng nàng vào không? Chàng có biết nàng đang ở đây không? Cuối cùng chàng đóng hộp lại và quay ra.
    Trong những giờ phút nghiêm trọng nhất không phải không nảy sinh những ý nghĩ kỳ cục. Nàng nghĩ bụng phải làm quen với hàm râu chàng đã để mọc lại khiến chàng trông giống một người Hồi giáo thời Trung cổ.
    - Em đã đến…Nàng bắt đầu nói.
    - Tôi biết.
    Chàng ngồi yên và chằm chằm nhìn nàng thái độ không vồn vã.
    - Giôphrây – Nàng nói – anh sẽ làm gì họ?
    - Bà bận tâm về việc đó lắm sao?
    Nàng cúi đầu im lặng, nghẹn ngào.
    - Thưa bà, bà từ La Rôsen đến, bà đã đi qua Địa Trung Hải và tôi nghe nói bà quan tâm đến các vấn đề buôn bán bằng tàu thủy. Như vậy là bà đã biết luật biển. Số phận nào sẽ dành cho những kẻ, trong khi vượt biển, chống lại kỷ luật và tìm cách sát hại thuyền trưởng. Người ta treo cổ chúng…Treo cổ mà không cần xét xử gì hết. Vì vậy tôi sẽ treo cổ chúng.
    Chàng nói một cách thản nhiên. Nhưng quyết tâm của chàng thì thật sắt đá.
    Angielic thấy toàn thân lạnh toát, choáng váng “Không thể để xảy ra chuyện đó – nàng tự nhủ - mình phải làm bất cứ gì để tránh điều đó, mình sẽ phủ phục dưới chân chàng…”
    Nàng đi qua căn phòng và trước khi chàng đoán được cử chỉ của nàng thì nàng đã quì sụp xuống trước mặt, ôm lấy chàng.
    - Giôphrây, anh tha tội cho họ, em van anh, anh yêu của em, em van anh…Em van xin anh điều đó vì chúng ta nhiều hơn là vì họ. Em sợ, em run sợ một hành động như vậy sẽ dập tắt tình yêu em dành cho anh…em run sợ vì sẽ không bao giờ quên được bàn tay nào đã đưa họ về cõi chết… Máu của bạn bè em sẽ ngăn cách chúng ta.
    Nhưng máu của bạn bè tôi đã đổ: Giadông, người bạn trung thành trong suốt mười năm, ông già Apđen Macrat bị chúng giết hại một cách dã man…
    Giọng nói cố nén của chàng run lên vì giận dữ và hai mắt chàng này lửa.
    - Lời van xin của bà xúc phạm tôi, thưa bà và tôi e bà đã bị thúc đẩy vì sự gắn bó đáng khinh bỉ với một trong số những kẻ đã phản bội tôi, phản bội chồng bà mà bà bảo bà yêu mến.
    - Không, không và anh biết đấy..Em chỉ yêu anh…bao giờ em cũng chỉ có yêu anh…yêu đến chết đi được…Yêu đến mức sẵn sàng hy sinh vì anh…đến mức cõi lòng tan nát khi xa anh…
    Chàng những muốn đẩy nàng ra, sợ tỏ ra tàn nhẫn nên không dám, vì nàng bám chặt vào chàng với một sức mạnh nhân lên gấp bội và chàng cảm thấy hơi ấm của cánh tay nàng, của vầng trán nàng tựa vào người chàng.
    Đứng im như pho tượng chàng nhìn nàng ra xa, tránh đôi mắt khẩn cầu của nàng nhưng không sao cưỡng nổi giọng nói xúc động của nàng. Trong tất cả những tiếng nàng vừa thốt lên, có một tiếng làm chàng cháy lòng: “Anh yêu dấu của em”. Chàng đinh ninh được trang bị để không nhượng bộ, nhưng chàng đã bị tiếng kêu bất ngờ đó và cử chỉ của người đàn bà kiêu hãnh quì gối trước mặt lung lạc.
    - Em biết – Nàng nói, giọng nghẹn ngào – Hành vi của họ đáng tội chết.
    - Vì vậy thưa bà, chẳng hiểu sao bà vẫn một mực bênh vực chúng nếu quả thật bà không tán thành lòng dạ phản trắc của chúng và cũng không hiểu vì sao bà lại quan tâm số phận của chúng đến thế?
    - Em cũng đâu có biết. Em cảm thấy gắn bó với họ, mặc dù những lỗi lầm và sự phản trắc của họ. Có thể vì trước kia họ cứu sống em và đến lượt em, em cũng đã cứu sống họ bằng cách giúp họ chạy thoát khỏi La Rôsen khi họ bị kết tội. Em đã sống với họ và chia sẻ miếng ăn với họ. Em khốn khổ biết chừng nào khi Bécnơ cho em trú thân trong nhà. Giá anh biết…không một gốc cây nào, không một bụi rậm nào trong vùng quê em, trong xứ sở tuổi thơ em là không có kẻ thù ẩn nấp để làm hại em. Em là một con vật bị săn đuổi không thương xót, bị mọi người nhăm nhe đem bán đứng…
    Chàng bóp tay nàng, không để nàng tiếp tục tâm tình.
    - Việc gì đã qua rồi hì không còn quan trọng – Chàng nói một cách nghiêm khắc – Những cái tốt trong quá khứ không thể làm quên đi tội lỗi trong hiện tại. Bà là một người đàn bà. Hình như bà không hiểu rằng những người đàn ông mà tôi chỉ huy trên con tàu này hay ở các vùng đất chúng ta đang đi đến, không có luật lệ nào khác ngoài luật lệ tôi áp đặt cho họ và buộc họ phải tuân theo. Kỷ luật và công lý phải ngự trị nếu không thì đầu óc vô chính phủ sẽ hoành hành và chẳng có cái gì to lớn, vững bền có thể xây dựng được. Hơn nữa, nếu thế thì tôi sẽ bị mất mạng một cách vô ích. Trong hiện tình chúng ta không có thái độ mềm yếu.
    - Đây không phải là sự mềm yếu, mà là lòng nhân hậu.
    - Một sự lập lờ nguy hiểm! Lòng vị tha của đàn bà làm lạc hướng và chẳng thích hợp với bà chút nào.
    - Thế cuối cùng, anh muốn tôi trở thành con người như thế nào? – Nàng bỗng phẫn nộ kêu lên – Cứng rắn ư? Độc ác ư? Không chút thương người ư? Dĩ nhiên, trước đây mấy năm, tôi chỉ biết căm thù…Tôi không muốn điều ác nữa, ông Giôphrây ạ. Điều ác là cõi chết. Tôi thích cõi sống.
    Chàng trố mắt nhìn nàng.
    Tiếng kêu nàng vừa cất lên đã chiến thắng sức chống đỡ cuối cùng của chàng.
    Trong những sự kiện biến động gần đây, tư tưởng của Angielic không rời khỏi chàng, khiến chàng luôn luôn hình dung trong đầu óc những điều bí ẩn của người yêu. Thế đấy, trong con người nàng không hề có gì giả dối, tính toán. Với cái logic thông thường của đàn bà, rất đặc biệt nhưng rất đúng, nàng vừa đặt chàng trước thực tại đối với nàng và đòi hỏi chàng phải lên tiếng. Thật ra chàng đâu có muốn nàng là một người đàn bà tham lam độc ác, ích kỷ một cách tệ hại như biết bao người đàn bà mà cuộc sống chỉ biết vun xới cho riêng mình. Là con người mạo hiểm đang một lần nữa sửa soạn thử vận may trong lúc tiến về những vùng đất hoang vu giờ đây, chàng biết làm gì đối với một nữ hầu tước mang đầy trang sức, tính nết thất thường và phù phiếm.?
    Trong cuộc đời mới ngày hôm nay biết dành vị trí nào đây cho nàng Angielic của quá khứ, cô gái xinh đẹp và lớn lên mở to đôi mắt ngơ ngác nhìn vào một thế kỷ đầy sức quyến rũ và nóng lòng muốn đem ra thử thứ vũ khí của đàn bà, hay cho một nàng Angielic trong lúc ngự trị trên con tim của một Nhà vua đã biến cái thế giới đồi bại của triều đình thành trường hoạt động, thành sân khấu của những chiến công của nàng?
    Vùng đất hoang dại và gai góc mà chàng đưa nàng tới không thể hài lòng với những trái tim nhỏ nhen và trống rỗng. Phải tận tụy với nó.
    Cái tận tụy mà chàng đã nhận thấy trong đôi mắt đang ngước lên nhìn chàng, phải thừa nhận đấy là một nét biểu hiện kỳ lạ của ánh mắt đã từng ngạo nghễ nhìn biết bao kẻ tai to mặt lớn, khiến họ phải mê hồn. Nhưng bằng những con đường bí ẩn, Angielic đã đến với chàng, bộc bạch nỗi lòng với chàng.
    Nàng lo lắng nhìn chàng, chờ nghe chàng tuyên án và không biết chàng đang nghĩ gì?
    Chàng đang nghĩ “Đôi con mắt đẹp nhất trần gian. Đối với ánh mắt như thế…35.000đồng cũng chẳng phải là quá đắt. Một Nhà vua đã ngã gục dưới ánh mắt đó…Một quốc vương ả rập khát máu đã phải nghiêng mình trước quyền uy của nó”.



    Chương 32 (tt)



    Chàng khẽ đặt tay lên trán như để tránh ánh mắt nài nỉ ấy, rồi khẽ vuốt mái tóc nàng. Thời gian hình như điểm bạc mái tóc nàng chỉ là để tô điểm thêm cho đôi mắt xanh lóng lánh của nàng. Đến các nữ thần trên núi Olimpơ ắt hẳn cũng ghen tị với mái tóc óng ánh như vàng ngọc, châu báu ấy.
    Lòng chàng hoan hỉ nhận thấy nàng vẫn đẹp dù bị lo âu giày xé cũng như chàng đã thấy nàng đẹp trong bão tố hay trong ái ân. Vì sắc đẹp của nàng không phải là thứ sắc đẹp nhờ lối làm duyên làm dáng giả tạo mà có. Sự giản dị thích hợp với vẻ lộng lẫy mới của nàng bắt nguồn từ sự trong sáng vừa từ lòng say mê cuộc sống lạ lùng
    Chàng đã phải mất bao nhiêu thời gian để khám phá ra nàng, để chấp nhận nàng. Kinh nghiệm của chàng về phụ nữ chẳng giúp gì chàng để hiểu được người đàn bà này vì chàng chưa bao giờ gặp người đàn bà như vậy. Trước kia, chàng không nhận ra nàng không phải vì nàng rơi xuống quá thấp mà chính vì nàng vươn lên cao hơn. Thế là tất cả đều sáng rõ.
    Dù đến với chàng trong quần áo xoàng xĩnh, rách rưới, đầu tóc rối bù, rã rời trên biển cả, hay lo lắng và mệt mỏi như ngày hôm nay; dù trần truồng, yếu ớt và hiến thân như đêm hôm nọ khi chàng ôm nàng vào lòng và nàng khóc mà không hề hay biết, nàng vẫn xinh đẹp, xinh đẹp như dòng suối người ta có thể cúi xuống để giải cơn khát.
    Và chàng sẽ không còn bao giờ có thể là một người đàn ông cô đơn. Không, không bao giờ.
    Sống không có nàng sẽ là một thử thách quá sức đối với chàng. Chỉ cảm thấy nàng cách biệt ở phía cuối con tàu chàng cũng đã không sao chịu đựng nổi. Hôm nay, nhìn thấy nàng run rẩy dưới chân mình, lòng chàng thật xao xuyến.
    Chỉ có Chúa là biết chàng chẳng sung sướng gì khi treo cổ những người Tin lành “của nàng”. Nhưng con người xảo trá, đúng thế, nhưng dũng cảm, dày dạn và xét cho cùng đáng có một số phận tốt hơn. Tuy vậy, chàng bắt buộc phải xử tội. Trong cuộc đời gian nan của mình, chàng đã phải trả giá để học được bài học: sự mềm yếu là nguyên nhân của mọi thất bại lớn nhất, nó kéo theo vô vàn điều tai hại. Kịp thời cắt đi một cánh tay thối sẽ cứu được nhiều mạng người…
    Angielic im lặng đợi chờ.
    Bàn tay chàng đặt lên mái tóc nàng đem lại hy vọng cho nàng, nhưng nàng vẫn quỳ, biết mình chưa thuyết phục được chàng và nếu có tìm cách quyến rũ chàng thì chàng sẽ chống lại, sẽ nghi ngờ và biết đâu chẳng quyết liệt hơn.
    Còn phải tìm ra lí lẽ nào khác nữa?..Đầu óc nàng như vật vờ trên sa mạc, nơi cảnh những người La Rôsen bị treo cổ trên cột buồm lớn lẫn vào cảnh mỏm đá Nàng tiên trước đây trong một buổi sáng giá lạnh trong rừng Niơn. Tất cả những hình người chết chóc, câm lặng, đung đưa, quay tròn quanh nàng trong một điệu nhảy chóng mặt và ma quái. Và nàng như trông thấy khuôn mặt Lôriê, của Giêrêmi và khuôn mặt của Xêvêrin thảm hại và nhợt nhạt dưới chiếc mũ nhỏ xíu.
    Tiếng nói của nàng bị ngắt quãng vì những nhịp tim rộn ràng.
    - Giôphrây, anh đừng tước đoạt của em điều duy nhất còn lại…cứ để cho em được tự cảm thấy mình cần thiết đối với những đứa trẻ bị uy hiếp. Tất cả là lỗi tại em. Em đã từng muốn cứu chúng ra khỏi một số phận còn thảm hại hơn cả cái chết. Người ta đã giết chết những linh hồn. Trước đây, ở La Rôsen, chúng đã từng thấy cha chúng bị làm nhục, bị khủng bố, bị điêu đứng vì muôn ngàn nỗi đọa đầy, bị bỏ tù, bị xiềng xích…Bây giờ việc gì em phải đưa chúng đến nơi cùng trời cuối đất này để chúng lại trông thấy cha chúng bị treo cổ một cách nhục nhã?..Chúng sẽ thất vọng biết chừng nào…Đừng tước đoạt hết của em, anh Giôphrây! ..Em không chịu đựng được nỗi đau của chúng. Giúp những cuộc đời thơ trẻ ấy chiến thắng số phận nghiệt ngã là lẽ sống của em…Anh tước đoạt cả lẽ sống đó của em ư?...Em giàu có đến thế ư?..Ngoài niềm hy vọng cứu sống chúng…đưa chúng đến những chân trời đầy hoa lá như em đã hứa với lòng tin thơ ngây của chúng, em còn lại gì nữa?...Em đã mất hết…đất đai, tài sản…địa vị…tên tuổi…danh dự, con cái..cả anh…cả tình yêu của anh…Em chẳng còn gì nữa…Trừ một đứa con gái bị nguyền rủa.
    Một tiếng nấc nghẹn ngào trong cổ hong, nàng cắn môi để kìm nén.
    Những ngón tay của Giôphrây đờ Perắc nắm chặt lại trên gáy nàng, làm nàng đau đớn.
    - Bà đừng có nghĩ là có thể làm tôi mềm lòng bằng nước mắt.
    - Em biết – Nàng lẩm bẩm – Em thật vụng về…
    - “Ồ, không đâu, trái lại, quá khôn khéo kia đấy” – Chàng thầm thì…Trông thấy nàng khóc, chàng không chịu nổi. Trái tim chàng tan nát khi thấy đôi vai nàng rung lên vì thổn thức.
    - Đứng lên đi – Cuối cùng chàng nói – Đứng lên đi. Trôn bà như thế trước mặt tôi, tôi không chịu được.
    Nàng nghe theo: đã quá mệt mỏi, nàng không chống chọi nữa. Chàng gỡ đôi bàn tay nàng nắm chặt quanh người. Đôi bàn tay giá lạnh. Chàng cầm tay nàng một lúc. Rồi bỏ tay ra, chàng đi đi lại lại. Angielic nhìn theo. Chàng bắt gặp vẻ đau đáu trong đôi mặt nàng đang nhìn theo bước chân mình. Lông mi ướt, mi mắt sưng lên, đôi má hoen ngấn lệ.
    Lúc này, chàng thấy yêu nàng mãnh liệt tưởng không sao kìm giữ nổi niềm rạo rực ôm nàng vào lòng với những nụ hôn say đắm, tha thiết và thầm thì gọi tên nàng. Angielic! Angielic! Linh hồn của anh! Chàng không muốn nàng run rẩy trước mặt chàng tuy trước kia, chàng đã không dễ dàng tha thứ khi nàng thách thức chàng.
    Làm sao nàng có thể tỏ ra khi mãnh liệt, lúc yếu đuối, khi kiêu hãnh, lúc khiêm nhường, khi phũ phàng, lúc hiền dịu đến thế?...Đấy là bí quyết cám dỗ của nàng. Đành phải khuất phục hoặc nhận lấy cảnh sống cô đơn cằn cỗi không một chút ánh sáng.
    - Mời bà ngồi xuống, bà tu viện trưởng – chàng đột ngột nói – Một lần nữa, bà đặt tôi vào một thế khó xử, vậy bà đề nghị giải pháp như thế nào? Có nên hình dung con tàu của tôi, vùng biển và căn cứ này ít nữa sẽ trở thành sân khấu của những cuộc tranh chấp đẫm máu nữa không? Chúng có thể xảy ra giữa đám bạn bè nóng nảy của bà, những người thân tín của tôi, những người da đỏ, những người săn bắn, bọn lính đánh thuê Tây Ban Nha và cả bầy người vùng Đâu Ixt này?
    Vẻ mỉa mai nhẹ nhàng trong lời nói của chàng làm Angielic cảm thấy nhẹ nhõm không sao tả xiết. Nàng gieo mình xuống ghế và thở phào.
    - Bà đừng tưởng là bà đã thắng cuộc – Bá tước đờ Perắc nói – Tôi chỉ xin hỏi bà một câu. Làm gì họ bấy giờ, nếu ít ra không dùng họ làm gương cho những kẻ muốn bắt chước họ. Được thả, họ sẽ chờ dịp trả thù. Mà tôi thì chẳng biết làm gì với những phần tử thù hằn và nguy hiểm ấy trên một vùng đất vốn đã đầy dẫy những cạm bẫy…Dĩ nhiên tôi có thể trừ khử như họ đã định làm với chúng tôi, bằng cách quẳng họ và gia đình họ xuống một nơi hoang vắng trên bờ biển, về phía Bắc chẳng hạn. Làm như thế là đưa họ đến cái chết chắc chắn chẩng kém gì treo cổ. Còn rước họ đến đảo để đáp lại lòng dạ phản trắc của họ thì tôi dứt khoát loại trừ giải pháp đó, dù là để làm hài lòng bà đi chăng nữa. Tôi sẽ mất mặt không chỉ đối với người của tôi ở mà còn trước con mắt của Tân lục địa. Ở đấy người ta không tha thứ cho những kẻ ngu ngốc đâu. Angielic cúi đầu, suy nghĩ.
    - Anh đã từng định đề nghị họ đến khai khẩn một phần đất đai của anh. Tại sao bây giờ anh lại từ chối?
    - Tại sao ư?..Đặt vũ khí vào tay những kẻ đã công khai tuyên bố là kẻ thù của tôi hay sao! Có gì đảm bảo là họ sẽ trung thành với tôi.
    - Thế còn lợi ích của công việc mà anh giao cho họ? Hôm trước anh nói với em là ở đấy họ sẽ kiếm được nhiều tiền hơn bất cứ công việc buôn bán nào trên các hải đảo châu Mỹ. Có đúng như thế không nào?
    - Đúng như thế. Nhưng ở đấy chưa có gì được thiết lập. Mọi cái đều phải tạo ra. Một hải cảng, một thành phố, một hệ thống buôn bán.
    - Có phải vì thế mà anh có ý định chọn họ không? Chắc hẳn anh biết là những người Tin lành rất giỏi khi phải bám lấy những vùng đất mới. Người ta bảo em là những người Tin lành nước Anh được mệnh danh là những Người hành hương, mới đây đã xây dựng được những thành phố đẹp trên một vùng bờ biển trước đó là nơi hoang dã. Những người dân La Rôsen cũng sẽ làm được như thế.
    - Tôi không chối cãi điều đó, nhưng theo tâm lý cừu thị và kỳ cục của họ, tôi có thể tiên đoán được cách ứng xử của họ sau này.
    - Nhưng tâm lý ấy cũng có thể là một đảm bảo cho thành công trong tương lai. Dĩ nhiên sống hòa thuận với họ không phải dễ, nhưng họ giỏi nghề buôn bán và hơn nữa, lại gan dạ, thông minh. Chỉ nhìn cách họ vạch kế hoạch để làm chủ một con tàu lớn ba trăm tấn với hai bàn tay trắng, không vũ khí, không vàng bạc, chỉ có chút kinh nghiệm đi biển, cũng chẳng đáng phục lắm hay sao?
    Giôphrây đờ Perắc phá lên cười.
    - Tôi phải có một tâm hồn thật vĩ đại mới công nhận điều đó được
    - Nhưng anh có thể đạt tới mọi tầm cao vĩ đại cơ mà – Nàng nói một cách nhiệt thành.
    Đang đi, chàng dừng lại trước mặt nàng và nhìn nàng không chớp mắt.
    Lòng ngưỡng mộ và tình gắn bó chàng đọc thấy trong đôi mắt Angielic không hề giả dối. Đấy chính là cái nhìn buổi thanh xuân khi nàng bộc lộ không dè dặt mối tình cháy bỏng trong lòng.
    Chàng biết là trên trái đất này nàng chẳng biết một ai khác ngoài chàng.
    Làm sao trước đây chàng có thể nghi ngờ được? Niềm vui bỗng tràn ngập lòng chàng. Chàng chỉ còn loáng thoáng nghe Angielic tiếp tục biện hộ.
    - Anh Giôphrây, em có vẻ tha thứ một cách dễ dàng cho một hành động làm anh đau lòng và tác hại của nó không thể nào hàn gắn được vì đã đem lại cái chết cho các bạn bè trung thành của anh. Sự bội bạc của họ đối với anh làm em công phẫn. Tuy thế, em vẫn tiếp tục đấu tranh để dẫn đến sự sống, chứ không phải đến cái chết. Có thể mồi thù khôn nguôi. Nhưng trường hợp hiện tại không phải như thế. Tất cả chúng ta đều là những con người có thiện chí. Chúng ta chỉ là nạn nhân của một sự hiểu lầm và em cảm thấy hai lần có tội vì đã không tìm cách đánh tan nó đi.
    - Bà muốn nói gì?
    - Giôphrây, khi em đến tìm anh ở La Rôsen trong lúc không biết tung tích của anh và van xin anh cho họ lên tàu những con người sẽ bị bắt trong vòng vài giờ, lúc đầu anh từ chối, nhưng sau khi hỏi em về nghề nghiệp của họ, anh đã nhận lời. Như thế là anh có ý muốn đem họ đi khai khẩn. Em tin chắc là trong quyết định đó, anh không hề muốn làm hại họ, mà trái lại, đồng thời phục vụ lợi ích của anh, anh tính chuyện cho những con người bị lưu đầy ấy một dịp may hiếm có
    - Quả là như thế…
    - Thế thì sao anh không nói ngay cho họ biết ý định của anh? Giá có những cuộc chuyện trò thân mật, thì đã có thể tránh được sự ngờ vực bột phát anh gây ra cho họ. Nicôla Perôt bảo em là không có một ai trên thế giới này mà anh không hiểu được ngôn ngữ của họ và từ những người da đỏ đến những người làm nghề săn bắn hay những người hành hương lập nghiệp trong các thuộc địa châu Mỹ, anh đều có thể kết bạn với họ…
    - Bọn La Rôsen này ngay từ đầu đã làm cho tôi hết sức căm thù và tôi muốn trả thu.
    - Vì nguyên nhân nào vậy?
    - Vì bà.
    - Vì em?
    - Đúng thế. Những lý lẽ cụ thể của bà, hôm nay làm tôi hiểu rõ mối ác cảm khiến chúng ta đối đầu với nhau ngay từ đầu. Bà có tưởng tượng được điều đó không? – Chàng sôi nổi hẳn lên, - Tôi thấy bà nhập bọn với bọn họ như một người thân. Làm sao không nghi ngờ được là có một tình nhân và tệ hại hơn, một người chồng của bà trong số những người đó? Hơn nữa, tôi phát hiện ra bà có một đứa con gái. Thế thì cha nó có ở trên tàu không? Tôi thấy bà âu yếm cúi xuống một người đàn ông bị thương mà số phận của hắn làm bà lo lắng đến mức bà không còn biết gì về tôi nữa.
    - Giôphrây, ông ta vừa cứu sống em!
    - Chỉ còn thiếu là bà chưa báo cáo cho tôi biết tin bà kết hôn với hắn…Tôi cố kéo bà về với tôi, trong lúc không đủ can đảm bỏ mặt nạ ra vì cảm thấy tâm hồn bà hết sức xa cách. Nhưng làm sao mà không thù ghét chúng được, cái bọn tín đồ Thanh giáo cứng nhắc và đa nghi đã từng làm bà mê say? Mọi cái ở tôi đều làm cho chúng bực tức, nhưng còn phải nói thêm nỗi ghen tức điên cuồng của Bécnơ mà bà đã làm cho si mê đến cuồng dại.
    - Ai ngờ được điều đó? – Angielic rầu rĩ nói, - Một con người rất điềm đạm, rất mực thước!...°° biết trong em có vận hạn gì mà làm cho đàn ông chia rẽ nhau đến vậy?..
    - Sắc đẹp của nàng Elen đã gây nên cuộc chiến tranh thành Troa
    - Giôphrây, anh đừng bảo em là nguyên nhân của bao nỗi đau thương khủng khiếp vậy.
    - Đàn bà là nguyên nhân gây ra những thảm họa lớn nhất, tai hại nhất, phi lý nhất. Người ta chẳng đã bảo “hãy tìm hiểu đàn bà” là gì?
    Chàng nâng cằm nàng lên và nhẹ nhàng đưa tay vuốt qua mặt nàng như thể xóa đi mọi nỗi ưu phiền.
    - Đàn bà cũng có khi đem lại những hạnh phúc lớn nhất. Thật ra tôi hiểu vì sao Bécnơ muốn giết tôi. Tôi tha tội cho hắn chỉ vì tôi cảm thấy hắn đã bị đánh bại, không phải vì những chiếc rìu chiến của những người da đỏ dưới quyền tôi mà vì sự lựa chọn của bà…Chừng nào tôi còn nghi ngờ về kết quả của sự lựa chọn đó thì kêu gọi lòng khoan hồng của tôi chỉ là uổng công vô ích. Đấy, đàn ông đáng giá như thế đấy, bà bạn ạ. Chẳng bao nhiêu đâu.. .Cho nên chúng ta hãy cố sửa chữa những lỗi lầm trong đó tôi thừa nhận là mỗi người trong chúng ta đều góp phần. Ngày mai, xuồng máy sẽ đưa tất cả hành khách lên đất liền. Manigô, Bécnơ và những người khác sẽ bị xích tay, bị canh giữ trong lúc được đưa đi theo chúng tôi. Tôi sẽ nói với họ tôi mong muốn ở họ những gì. Nếu họ chấp nhận, tôi sẽ buộc họ phải thề trung thành theo Thánh kinh…Tôi nghĩ họ sẽ không thể bất chấp một lời thề như vậy.
    Chàng cầm lấy chiếc mũ để trên bàn.
    - Bà đã thỏa mãn chưa?
    Angielic không trả lời. Nàng không dám tin ở thắng lợi của mình. Nàng choáng váng.
    Nàng đứng dậy và theo chàng ra cửa. Bất giác nàng đặt tay lên cổ tay chàng.
    - Thế nếu họ không chấp thuận? Nếu anh không thuyết phục được họ? Nếu lý lẽ của họ vững hơn.
    Chàng nhìn đi chỗ khác. Rồi nhún vai:
    - Tôi sẽ cho họ mượn một người da đỏ dẫn đường, ngựa, xe bò và vũ khí và họ muốn đi đâu thì đi…đi cho biệt tăm…ở nơi…cho đến tận Plâymao hay Bôxtôn, nơi những người đồng đạo sẽ đón tiếp họ…


    Chương 33



    Trên khoang thượng đuôi tàu, những làn sóng trong suốt truyền qua sương mù, mang tới cho Angielic tiếng nói xa xăm của đất liền. Tiếng hát hay tiếng gọi? Thế giới xa lạ ẩn hiện cách vài sải cáp kia là nơi Giôphrây đờ Perắc thả neo và chọn làm đất sống. Vì lí do đó, Angielic đã gắn bó với vùng đất này.
    Nàng lắng tai nghe, trong một niềm hứng khởi tràn ngập lòng nàng làm tiêu tan hết mọi sự mệt mỏi. Nàng đã mất đi thói quen dùng từ hạnh phúc, nếu không, ắt hẳn nàng nhận ra thực chất lòng nàng cảm nhận những gì. Chỉ là một chút thoáng qua, mong manh, nhưng nàng cảm thấy tâm hồn mình sau những trận chiến đấu được nghỉ ngơi trong một trạng thái thỏa mãn không sao tả xiết. Giờ phút này thật trọng đại. Nó sẽ trôi qua nhanh nhưng vẫn đọng lại trong ký ức nàng, ánh sáng của nó đánh dấu con đường định mệnh của nàng.
    Angielic sống như thế trong đợi chờ giữa sương mù. Nàng ở lại một mình trên boong tàu với Ônôrin sau khi mang tin mừng đến cho những người đàn bà đang lo lắng.
    Nàng cần ngồi một mình. Lòng nàng bộn bề trăm mối. Nàng đã thoát khỏi tai họa.
    Giôphrây đờ Perắc mới chia tay, nàng đã mong ngóng chàng trở về. Nàng lắng đợi tiếng nói của chàng, lắng đợi tiếng nước róc rách, tiếng mái chèo khỏa sóng báo hiệu một chiếc xuồng đến gần, có thể là chiếc xuồng của chàng, nàng lắng đợi bước chân của chàng. Nàng thèm khát được sống cạnh chàng, được trông thấy chàng, được nghe chàng nói. Được chia sẻ cuộc sống nội tâm của chàng, những lỗi lo âu, những ước mơ, những tham vọng của chàng. Được nấp dưới bóng chàng, được nằm trong cánh tay chàng.
    Bỗng nàng cười khanh khách.
    - Si tình! Si tình! Mình si tình ghê thật.
    Lòng nàng tràn ngập niềm vui được yêu. Nàng muốn tung tăng ca hát trên đồi núi. Nhưng trong sương mù nàng còn phải chờ đợi trước cánh cửa hạnh phúc trong khi còn bị cầm tù trên con tàu đã đưa họ qua vùng biển tối tăm. Bây giờ nàng nhớ lại từng cử chỉ, từng lời nói của chàng, nhớ lại bàn tay gân guốc và thanh nhã vuốt ve tóc nàng, nhớ lại giọng nói nghẹn ngào và đột nhiên như âu yếm: “Mời bà ngồi xuống, bà tu viện trưởng…”
    “Chắn hẳn chàng không chấp nhận những lời van xin của mình nhanh chóng đến thế nếu không yêu mình. Chàng đã tha chết cho họ! Chàng đã ban cho mình ân nghĩa ấy như một món quà thật quí giá còn mình thì đã để chàng bỏ đi…như ngày xưa, khi chàng thanh thản tặng mình những đồ trang sức lộng lẫy mà mình không dám cảm tạ chàng. Thế có lạ không?...Bao giờ chàng cũng làm mình sờ sợ. Phải chăng vì chàng khác xa những người đàn ông khác?...Hay vì mình cảm thấy yếu ớt trước mặt chàng?...Mình rất sợ bị kẻ khác chế ngự. Nhưng chàng chế ngự mình thì có sao? Mình là đàn bà..mình là vợ chàng kia mà”.
    Quan hệ hôn nhân tuy trói buộc hai người nhưng cho phép họ tìm gặp nhau. Mặc dù bá tước đờ Perắc bảo nàng phản bội, chàng vẫn không thể hoàn toàn bỏ mặc người đàn bà vốn là vợ mình. Chàng đã từng lao tới cứu nàng ở Canđi và khi được Osman Feraji báo cho biết chàng đã lên đường đi Micơnedơ ngay tức khắc. Cũng chính để cứu nàng mà chàng đã đến La Rôsen.
    Angielic giật nảy mình. Bây giờ thì nàng biết chắc không phải ngẫu nhiên mà bá tước đờ Perắc đến dưới thành La Rôsen. Chàng biết nàng đang ở trong thành phố. Ai đã báo cho chàng hay?...Nàng đặt ra nhiều giả thuyết nhưng dừng lại ở giả thuyết có phần đích xác nhất: những lời tán gẫu với tay Rôsa. Ở các hải cảng lớn hướng cả về phương Đông lẫn phương Tây này, tin tức nào cũng dễ dàng lan truyền đi cả.
    “Bao giờ chàng cũng tìm cách giúp mình khi biết mình gặp khó khăn. Như vậy là chàng vẫn thiết tha tới mình còn mình thì chỉ gây cho chàng toàn những điều phiền muộn…”
    - Mẹ ơi, mẹ đang run như khi mẹ nằm mơ ấy mẹ ạ - Ônôrin nói giọng trách móc.
    Cô bé hoàn toàn có vẻ không bằng lòng.
    - Con không thể nào hiểu được đâu – Angielic đáp – Tuyệt diệu con ạ!...
    Ônôrin bĩu môi để tỏ rõ nó không đồng ý, Angielic vuốt ve làn tóc đỏ hoe của nó với một nỗi ân hận âm thầm. Ônôrin luôn luôn đoán biết hễ mọi việc ổn thỏa giữa Người đàn ông đen và mẹ nó là sự an ủi của nó sẽ bị đe dọa. Mẹ nó sẽ quên nó đi hoặc sẽ đau khổ về sự có mặt của nó…Vì sao vậy?
    - Con đừng sợ gì cả - Angielic thì thầm – Mẹ không rời khỏi con đâu, con của mẹ ạ, chừng nào con còn cần đến mẹ. Mẹ không thể để con không có mẹ đâu. Con cũng vậy, trái tim bé bỏng của con cũng bị dằn vặt. Nhưng mẹ bao giờ cũng có mặt vì con.
    Và vừa vuốt ve cái đầu tròn vo của nó, nàng vừa sóng lại tình thân giữa hai mẹ con nàng, một tình thân bí ẩn tới mức mẹ cũng như con không thể xác định được tính chất của mối quan hệ bất diệt đó.
    - Mẹ nói với con điều này, Ônôrin yêu quí của mẹ. Con là đứa con cưng nhất của mẹ. Mẹ yêu con hơn mọi đứa con khác của mẹ từ trước đến nay. Tiếc thay! Hình như con đã dạy mẹ làm mẹ. Nhẽ ra mẹ không được nói với con điều đó. Nhưng dẫu sao mẹ vẫn muốn con cũng được biết. Bởi vì lúc ra đời con chưa hề nhận được gì cả
    Nàng nói rất khẽ. Ônôrin chẳng hiểu nàng nói gì mà chỉ đoán ra qua giọng nói.
    Một bóng đen phủ xuống hạnh phúc của Angielic. Và cả những bóng đen khác chưa thoát khỏi: những đứa con trai của hai vợ chồng mà chàng trách nàng không bảo vệ đến nơi đến chốn, những lần thất tiết của nàng mà lần nghiêm trọng nhất không phải do nàng gây nên.
    Rồi sẽ có ngày nàng phải có can đảm nói với chồng rằng chưa bao giờ nàng là tình nhân của Nhà vua, nàng chưa bao giờ yêu – và vì những ly do hiển nhiên – kẻ vốn là cha của Ônôrin.
    Cũng phải nói về Phlôrimông. Cha mẹ nó phải có trách nhiệm cố tìm lại chàng trai đã kịp thời trốn chạy khỏi thái ấp Plexi để thoát chết. Phải có can đảm nhắc lại những giờ phút khủng khiếp. Và nếu chàng nói với nàng về Canto thì sao? Chuyện đó sẽ làm nàng đau lòng. Giôphrây là người bao giờ cũng biết rõ điều mình làm, vậy vì sao khi tấn công hạm đội hoàng gia, chàng không biết con trai mình đang ở trên một trong những chiếc thuyền ấy? Đây là hành động hiếu chiến duy nhất chàng không trực tiếp tiến hành chống vua Pháp…Điều run rủi…Điều không may chăng? Hay một duyên cớ khác?..
    Cũng như lúc nãy, khi nghĩ tới Rôsa, Angielic có cảm giác nàng sắp sửa khám phá ra một điều thật sơ đẳng mà nhẽ ra nàng phải biết từ lâu.
    Đầu óc nàng chập chờn. Nàng ngước mắt nhìn trời và đồng thời cảm thấy một nỗi sợ hãi nguyên thủy. Vùng ánh sáng luôn luôn tỏa rộng, chuyển qua màu cam tím, rồi màu đỏ, cuối cùng cố định ở một màu da cam rất khó chịu. Ánh sáng hình như khuếch tán nhưng cùng một lúc tỏa ra khắp vòm trời.
    Bất giác Angielic lại ngẩng đầu lên cao hơn. Một hình cầu khổng lồ màu da cam mở ra như một cây nấm trên đầu nàng. Nàng cảm thấy hơi nóng khủng khiếp và phải cúi đầu xuống.
    Ônôrin đưa ngón tay chỉ:
    - Mẹ ơi ông mặt trời!..
    Angielic suýt bật cười.
    - Chỉ là mặt trời thôi mà.
    Thế nhưng sự hoang mang của con bé chẳng có gì là buồn cười. Cái mặt trời này đến lạ. Nó chuyển sang màu đỏ rồi cứ to mãi như thế mặc dù đã lên cao trên bầu trời. Nó như được bao quanh bằng một loạt những tấm màn sắc màu khác nhau, những bức bình phong đính ngọc trai và trong suốt, hơi uốn con và xếp dọc theo nhau, chiếc nọ sau chiếc kia.
    Sức nóng của mặt trời tương phản với cơn lạnh bất ngờ do gió thổi về. Sau khi tưởng mình bị trời dội lửa xuống đầu, Angielic cảm thấy nàng đã hóa thành tượng bằng băng giá. Nàng cuộn Ônôrin vào chiếc áo khoác và bảo con: “Chúng ta về buồng nhanh lên” nhưng nàng không nhúc nhích. Cảnh tượng trước mắt chôn chân nàng tại chỗ.
    Lớp sương mù dày đặc tan biến đi như những tấm mạng mutxơlin rơi xuống hay bị vén lên.
    Nàng tưởng trông thấy một con quái vật màu ngọc bích hiện hình, vươn dài, to lên ghê gớm và phóng ra khắp nơi những cái vòi mênh mông với những móng vuốt màu hồng chói chang. Và đột nhiên, không còn một chút sương mù. Bị một luồng gió lạnh quét đi, màn sương mù cuối cùng rơi xuống. Bầu không khí tinh khiết lại rung lên như tiếng tù và. Vầng dương nhợt nhạt vẫn giữ ánh hào quang muôn sắc trên bầu trời có nhiều sắc xanh khác nhau; nhưng phía dưới, cái mà Angielic lầm tưởng là con quỉ màu ngọc bích hóa ra là quanh cảnh những ngọn đồi giữa một khu rừng rậm kéo dài đến tận vô số những mũi và những mỏm, viền bằng những bãi sỏi và cát màu đỏ và hồng.
    Rừng lấp lánh và từ xa cũng trông thấy những màu sắc chói chang và kỳ lạ, điểm xuyết màu đen của linh sam, màu xanh ngọc lam của những cây thông khổng lồ vút lên như những chiếc tàu, màu đỏ ối của mấy bụi rậm báo hiệu mùa thu. Mùa thu rồi ư? Thế mà đâu có thấy mùa hè. Khắp nơi xung quanh, trên vịnh và xa xa hơn nữa, trên mặt biển một màu xanh thẫm, chạy dài những hòn đảo viền màu hồng với những rặng cây sum xuê trên đỉnh. Đảo trông giống như một đàn cá mập dùng những bãi đá ngầm nguy hiểm để bảo vệ bờ biển tuyệt đẹp chống lại sự thèm khát của con người. Len lỏi giữa những hòn đảo này để đi vào nơi ẩn náu, chỗ con tàu đang đung đưa, hình như là một công việc không thể làm được.
    Sau những ngày mù sương nhợt nhạt, giờ đây biết bao màu sắc sống động, vui tươi trải ra trước mắt như một sự hiện hình chỉ trong mơ mới có và mê hoặc Angielic tới mức nàng không nghe thấy tiếng xuồng trở về.
    Giôphrây đờ Perắc đã đứng sau lưng nàng. Chàng quan sát nàng và đọc thấy niềm hân hoan rạng rỡ trên gương mặt nàng. Quả là một người đàn bà thuộc dòng giống tốt. Cái rét và vẻ man rợ nơi đây không làm nàng xúc động bằng vẻ đẹp siêu phàm của nó.
    Khi nàng quay lại nhìn chàng, chàng khoát rộng tay và nói:
    - Bà muốn có hải đảo, thưa bà. Thì hải đảo đây.
    - Xứ này gọi tên là gì hả anh? – Nàng hỏi
    - Xứ Gunxbôrô.
    XỨ SỞ CẦU VỒNG




  7. #15
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default




    Chương 34



    - Chúng ta đến châu Mỹ rồi phải không? – Một cậu con trai nhà ông Care hỏi.
    - Thật tình tôi cũng chẳng biết, nhưng tôi tin là đã đến – Maxian nói.
    - Trông chẳng giống như ông mục sư Rôsơpho viết.
    - Nhưng mà đẹp hơn
    Chỉ nghe tiếng lũ trẻ cất lên trong khi hành khách ngồi túm tụm trên bong tàu với vẻ im lặng nặng nề.
    - Sắp đến đất liền à?...
    - Phải!
    - Rồi cũng phải đến!
    Mọi người nhìn về phía rừng cây. Do sương mù dâng lên từng đợt, lúc dày, lúc mỏng, khó ước lượng được khoảng cách. Mãi sau này Angielic mới biết rằng phong cảnh ở đây ít khi lộ ra hoàn toàn như cái vẻ tinh khôi mà nàng vừa nhìn thấy và sẽ không bao giờ quên được đó. Thường thường phong cảnh chỉ lộ ra từng quãng lúc nào cũng có một vài chỗ ẩn khuất và bí hiểm như để gợi nỗi lo âu hoặc tọc mạch của con người.
    Tuy nhiên thời tiết cũng đủ sáng sủa để có phân biệt được đất liền và những chiếc xuồng làm bằng vỏ cây sơn đỏ, nâu, trắng đang từ bãi biển hướng tới con tàu.
    Manigô, Bécnơ và bạn bè của họ đều nhìn về hướng đó khi vừa từ hầm tàu chui lên. Từ phía ghềnh dựng đứng là một bức tường nước đang gầm thét và thở hồng hộc. Đối với những kẻ bị giam giữ, đám bọt nước khủng khiếp này tượng trưng cho sự bất lực của họ trong ý đồ trốn thoát khỏi cái hang ổ được canh giữ cẩn mật này.
    Tuy vậy, họ cũng bước đi một cách vững vàng. Angielic hiểu ngay rằng họ vẫn chưa biết vì cớ gì mà người ta đã tháo bỏ xiềng xích cho họ và đưa họ lên boong tàu. Rescartor kéo dài sự trả thù bằng cách cứ để cho họ sống trong tình trạng mập mờ chết người làm căng thẳng thần kinh và chắc hẳn họ nghĩ rằng việc hai thủy thủ câm như hến đến săn sóc họ là sửa soạn cảnh tang tóc của họ đây. Quả vậy, người ta trả lại cho họ những đồ dùng cần thiết để cạo râu, mang tới cho họ khăn trải giường trắng tinh và quần áo họ thường mặc, cũ lắm rồi nhưng sạch sẽ và thẳng thớm.
    Họ xuất hiện, gần như giữ được dáng vẻ trước đây. Angielic cảm động thấy họ không bị xiềng xích, đúng như chồng nàng đã báo trước với nàng. Nàng vô cùng cảm biết ơn chàng vì nàng biết vì sao mà chàng đã tránh cho họ khỏi chịu nhục trước con cái họ.
    Đấy chính là vì nàng, vì để đẹp lòng nàng! Nàng đưa mắt tìm chàng. Chàng vừa xuất hiện một cách bất ngờ như thói quen, vẫn mang trên mình chiếc áo choàng lớn màu đỏ chàng mặc hôm qua. Và những chiếc lông chim màu đỏ và đen trên chiếc mũ phớt của chàng góp thêm với rừng lông chim rung động khắp nơi. Những người da đỏ lặng lẽ lên cả boong tàu với vẻ nhanh nhẹn của loài khỉ. Chỗ nào cũng có. Sự im lặng và cái nhìn bí ẩn của những con mắt xếch ngược lên của họ gây ấn tượng bức bối.
    “Ngày xưa ta cũng đã trông thấy một người da đỏ trên Cầu Mới – Angielic nhớ lại – Một người thủy thủ già chỉ cho ta như chỉ một vật lạ. Hồi đó ta không nghĩ là rồi mình cũng có lúc đến tận Tân lục địa, sống với họ và có thể còn phụ thuộc vào họ nữa”.
    Đột nhiên, những người Anhđiêng quắp những đứa trẻ nhỏ nhất và biến mất. Các bà mẹ kinh ngạc và hoảng hốt kêu lên.
    - Ê! Bình tĩnh nào các mụ lắm điều – Ngài đờ Uyêcvin vui vẻ nói lớn. Ông ta vừa lên tàu bằng chiếc xuồng lớn của tàu Gunxbôrô – các ngươi quá đông nên không đào đâu ra xuồng mà chở hết. Các ông bạn người Môhican sẽ chở bọn trẻ con bằng những chiếc thuyền nhỏ làm bằng vỏ cây của họ. Có gì mà phải hốt hoảng lên như thế. Đấy đâu phải là những người man rợ!...
    Thấy nét mặt vui vẻ của ông ta, lại còn nghe ông ta nói tiếng Pháp, các bà vững tâm. Tay cướp biển xứ Noócmăngđi chăm chú nhìn những gương mặt đàn bà.
    - Trong số các mụ này, có khối bà xinh ra phết – ông ta nhận xét.
    - Bây giờ đến lượt tôi nói với anh: hãy bình tĩnh ông bạn ạ - Giôphrây đờ Perắc nói – Anh chớ quên là anh đã lấy con gái ngài Đại tù trưởng của chúng ta và anh phải thật chung tình với cô ta nếu như anh không muốn nhận một mũi tên cắm phập vào giữa con tim lông bông của anh.
    Ngài Uyêcvin nhăn mặt, rồi ông ta nói to là đã đến lúc phải quyết định xuống xuồng và ông ta sẵn sàng đón vào cánh tay ông ta một bà can đảm nhất trông số các bà đây.
    Với ông ta, bầu không khí bi đát tuồng như bỗng nhiên bị xua tan. Biết là cuộc hành trình đã kết thúc, người nào người nấy chuẩn bị sẵn số ít của cải mang theo từ lúc rời La Rôsen.
    Angielic được mời ngồi chiếc xuồng cỡ lớn. Những người bị giam giữ cũng được đưa xuống theo, cùng với mục sư Bôke, Abighen, bà Manigô và các cô con gái của bà ta, bà Mécxơlô và Bécti, bà Care và một phần đàn con của bà ta.
    Giôphrây đờ Perắc nhảy xuống sau cùng, đứng trước mũi xuồng và ngỏ lời mời mục sư đến cạnh chàng.
    Ba chiếc khác do các thủy thủ hướng dẫn chia nhau chở hết số hành khách còn lại.
    Rời khỏi con tàu Gunxbôrô chẳng ai còn lòng dạ nào mà ngoái nhìn lại nó. Đã hạ hết cột buồm, nó đang lắc lư. Người ta chỉ nhìn về phía bờ biển.
    Các con thuyền tiến vào bờ kéo theo cả một hạm đội những chiếc xuồng nhỏ làm bằng vỏ cây của người da đỏ, từ đấy vang lên một điệu hát trầm, nhịp theo tiếng sóng. Trong giờ phút họ đang sống đây, khúc ca đơn điệu đó đem lại một vẻ trang nghiêm mà mọi người đều cảm thấy. Sau những ngày dài sóng gió giữa trời nước mênh mông, vùng đất nguyên sơ đã xuất hiện trước mắt họ. Vào gần bờ họ thấy một đám người sặc sỡ màu sắc tập hợp trên một bãi nhỏ đầy cát và vỏ sò màu hồng nhạt. Những tảng đá lớn màu đỏ và đỏ sẫm, nhô lên gần bờ và nối nhau tạo trùng điệp trên sườn dốc đá hoa cương, được bao bọc bởi những rừng thông mênh mông, xen lẫn màu trắng xương xẩu của mình những thân cây phong và tán lá cuồn cuộn của những cây sồi to lớn.
    Dưới chân những hình thù khổng lồ đó, con người trông cứ như những con kiến đang bò đi bò lại, cứ như từ trong các rễ cây chui ra. Nhưng nhìn gần hơn, người ta thấy một đường mòn dốc đứng chạy đến tận một khu rừng trồng giữa dốc, trên mặt phẳng nghiêng ra biển. Ở đấy có mấy túp lều thấp lè tè và mấy căn nhà lá của người Anhđiêng. Rồi con đường còn vươn mãi đến tận chóp núi và người ta phát hiện ra một loạt pháo đài xây toàn bằng những khúc gỗ tròn. Một hàng giậu dài, cao mười bộ làm bằng toàn thân cây thông, vây quanh một ngôi nhà cao hơn có hai ngọn tháp hình vuông.
    Hàng giậu được trổ bốn hành lang ngầm dưới đất ở cuối đường người ta có thể thấy con mắt tròn của những cỗ đại bác đang rình rập.
    Mặc dù có dấu vết của sự sống, nơi này vẫn mang một vẻ đẹp hoang dã và vô tình không thể so sánh được. Nhất là các màu, như được đánh bóng rực rỡ với nhiều sắc độ, được làm giàu thêm bởi sương mù bay qua đã đem lại một cảm giác siêu thực. Rồi cả tầm cỡ của các vật. Mọi thứ ở đây hình như đều đồ sộ, quá lớn đè nặng.
    Họ nhìn, câm lặng. Cả xứ sở thu vào tầm mắt họ.
    Chiếc xuồng được một ngọn sóng sủi bọt mang đi, chạm vào bãi sỏi màu đỏ như máu dưới làn nước trong suốt, đột nhiên biến thành màu tím. Mấy người thủy thủ lội xuống nước ngập đến thắt lưng để kéo thuyền lên bãi biển.
    Giôphrây đờ Perắc vẫn đứng trước mũi thuyền quay lại mục sư.
    - Thưa mục sư, cái vũng heo hút, khuất nẻo này trước đây và bây giờ cũng vậy, bao giờ cũng là nơi ẩn náu của bọn cướp…Từ thuở xa xưa, những nhà hàng hải phương Bắc mà người ta gọi là Viking, những kẻ tà đạo, từ châu Âu đến cũng tìm nơi ẩn náu ở đây. Họ đều là bọn cướp hoặc những kẻ giang hồ hảo hán, những kẻ sống ngoài vòng cương tỏa và tôi tự xếp mình vào hàng ngũ những người đó mặc dù tôi không đi tìm tội ác cũng chẳng đi tìm chiến tranh. Luật lệ duy nhất tôi phải tuân theo là luật lệ của riêng tôi. Thưa mục sư, tôi muốn nói rằng, cha sắp sửa là người đầu tiên của Chúa, đã đến được những vùng đất này và nắm lấy quyền sở hữu. Vì vậy tôi đề nghị mục sư đổ bộ xuống trước nhất và hướng dẫn người của cha đến miền đất mới.
    Ông già không ngờ lại có được lời thỉnh cầu như vậy, vụt đứng dậy. Ông ôm chặt cuốn Kinh thánh dày cộp là tất cả gia tài của ông vào ngực. Không cần chờ được giúp đỡ, với vẻ nhanh nhẹn không ngờ, ông nhảy từ xuồng xuống và lội băng băng dưới nước, vượt qua một khoảng cách ngắn đi vào bờ.
    Mái tóc của ông phất phơ trước gió vì ông đã để mất chiếc mũ trong lúc đi đường. Ông tiến về phía trước, gầy, đen và sau một quãng đi trên bãi biển, ông dừng lại đưa cuốn Thánh kinh lên cao quá đầu và hát một bài thánh ca. Những người khác đồng thanh hát theo.
    Đã bao nhiêu ngày rồi họ không có dịp hát lên như thế để ca ngợi Chúa, cổ họng họ cháy bỏng vì muối, con tim họ tan nát vì buồn lo nên họ không muốn cùng nhau cầu nguyện. Tụ họp quanh vị mục sư của họ, họ hát với giọng loạc choạc của những người đang hồi sức. Có mấy người vừa đi lại được vài ba bước chân đã quì thụp xuống như bị ngã khuỵu. Những người Anhđiêng trên các thuyền con bế các đứa trẻ trên tay. Tương phản với nước da nâu bóng như đồng, những đứa trẻ châu Âu này nhợt nhạt và thảm hại trong những bộ quần áo bạc màu rộng thùng thình vì người chúng gầy. Chúng giương những đôi mắt lạ lẫm nhìn lên.
    Người ta đứng vòng trong vòng ngoài để nhìn ngắm những người mới đến, đại diện cho sự pha trộn kỳ lạ nhất của loài người, “tộc người Đâu Ixt” – Giôphrây đờ Perắc gọi thế. Đàn ông và đàn bà Anhđiêng, dân bản hay chiến binh với những chiếc lông chim, lông thú, giáo mác sáng ngời, sơn phết đầy mình, những người đàn bà mang trên lưng mỗi một người một cái bọc nhỏ sặc sỡ bó chặt đứa con mới đẻ của họ, tiếp đến là bọn người quần áo đốm sọc sặc sỡ của đoàn thủy thủ, từ người Địa Trung Hải đen sạm đến chàng trai trắng nhợt tóc hung của vùng bắc Âu, Ericxon béo lùn, nhai thuốc lá, bên cạnh một người nhà quê ở thành phố Napơlờ đội mũ chụp đỏ, trong khi những chiếc áo choàng của hai người Ả rập phồng lên trong gió, cả hai đều mang theo gươm ngắn, gươm dài. Mấy người râu xồm kiểu Nicôla Perôt mặc áo da, đội mũ lông thú chống tay lên khẩu súng trường nhìn ra xa, trong khi một tốp lính canh người Tây Ban Nha áo giáp, mũ sắt màu đen bóng lộn, đứng cứng nhắc, tay cầm ngọn giáo dài như sắp sửa đi diễu binh.
    Một nhà quí tộc Tây Ban Nha gầy gò với bộ ria đen nhánh kỳ dị hình như là chỉ huy của họ. Angielic đã trông thấy ông này trên tàu Gunxbôrô, trong trận tấn công làm tiêu tan mọi hy vọng của những người Tin lành. Ông ta mím chặt môi và chốc chốc lại nhe răng ra trông đến là dữ tợn, không nghi ngờ gì nữa, vị thần dân của Đức hoàng thượng chí thánh, đang vô cùng đau khổ và phẫn uất vì phải trông thấy những kẻ dị giáo đổ bộ xuống vùng bờ biển này. Với Angielic, ông ta là kẻ bất lịch sự nhất trong tất cả mọi người. Ông ta làm gì ở đây, con người như từ khung ảnh thiếp vàng của đại lãnh chúa Tây Ban Nha bước ra này?
    Nàng mải nhìn ông ta và bọn lính cứng đờ như gỗ của ông ta đến nỗi vấp khi bước xuống xuồng. Nàng muốn gượng lại. Có điều gì xảy ra vậy? Tất cả quay cuồng. Mặt đất dâng lên và hụt hẫng dưới chân nàng. Nàng cũng vậy, suýt nữa thì ngã khuỵu xuống.
    Một cánh tay vững vàng giữ nàng lại và nàng thấy chồng mình cười.
    - Đất liền làm em kinh ngạc. Cả mấy hôm nữa, em vẫn còn cảm thấy như mình ở trên boong tàu.
    Cứ thế vịn tay chàng, nàng bước lên bãi biển. Cử chỉ của chàng chỉ tình cờ nhưng nàng nhận ra rằng đấy là một điềm lành.
    Tuy vậy những khẩu súng trường của đám thủy thủ tàu Gunxbôrô chĩa vào những người đàn ông Tin lành không cho phép được quá lạc quan.
    Những xúc động đầu tiên qua đi, đám đàn ông này và gia đình của họ đang lo lắng đợi chờ số phận của mình được định đoạt. Cứng rắn với bản thân cũng như với mọi người khác, họ chẳng hề có chút ảo tưởng nào về tương lai được dành cho họ. Ở đây luật ăn miếng trả miếng sẽ ngự trị một cách chắc chắn hơn và họ chẳng mong gì ở lòng độ lượng của con người mà nhiều lần họ đã đọ sức về tài nhanh nhẹn trong đòn đánh trả. Hãy còn sống là điều hầu như làm họ ngạc nhiên.
    Những người Anhđiêng đến gần và đặt xuống dưới chân Manigô và người nhà của ông ta những bắp ngô kết lại thành từng bó, những sọt rau và các thứ thức uống khác nhau đựng trong những chiếc bình rất lạ hình tròn hoặc dài, hình như làm bằng một thứ gỗ rất nhẹ và những món ăn chín bày trên các tấm vỏ cây phong.
    - Đây là đoạn đầu của cuộc đón tiếp dành cho Đại tù trưởng – Bá tước đờ Perắc giải thích – Ngài chưa có mặt ở đây nhưng sắp sửa đến.
    Manigô vẫn trong trạng thái căng thẳng.
    - Ngài định làm gì chúng tôi đấy – Ông ta hỏi – Bây giờ đã đến lúc nói ra rồi đấy, thưa ngài! Nếu cái chết đón chờ chúng tôi thì bày ra cái trò hề đón tiếp này phỏng có ích gì?
    - Ông hãy nhìn quanh ông kia. Không phải là cái chết mà là sự sống…Bá tước nói với một cái khoát tay rộng ra khắp cảnh sầm uất trước mặt.
    - Tôi hiểu rằng như thế tức là ngài hoãn lại cuộc hành hình đúng không?
    - Đúng thế, tôi hoãn lại.
    Những khuôn mặt nhợt nhạt và mệt mỏi của những người Tin lành hồng hào lên. Họ đã dũng cảm chuẩn bị cho cái chết của họ và vẫn còn nghi ngờ nhớ lại lời nói không thương xót “Ăn miếng trả miếng” mà chàng đã ném vào họ.
    - Tôi cũng tò mò muốn biết lòng khoan dung của ngài đang che giấu cái gì? Mécxơlô lầu bầu.
    - Tôi sẽ bộc lộ hết cho ông thấy và tính tò mò của ông sẽ được thỏa mãn. Vì đằng nào thì các ông cũng có nợ máu đối với tôi, thưa các ông, đối với những người của tôi mà các ông đã giết chết, trong đó có hai người là bạn thân thiết nhất của tôi.
    - Chúng tôi phải trả giá nào đây?
    - Nhà quí tộc dẫm dẫm chiếc ủng đỏ xuống lớp cát đỏ.
    - Ở lại đây và xây dựng một hải cảng có thể trở lên giàu có hơn, rộng lớn hơn và nổi tiếng hơn La Rôsen.
    - Đây là điều kiện để giải thoát chúng tôi?
    - Phải…nếu quả thật sự giải thoát là để con người theo đuổi một sự nghiệp của cuộc sống.
    - Ngài bắt chúng tôi làm nô lệ cho ngài phải không?
    - Tôi hiến cho các ông một vùng đất kỳ diệu.
    - Trước hết, đây là đâu? – Manigô hỏi.
    - Chàng trả lời cho họ biết là hiện giờ họ đang ở một nơi trên bờ biển Đâu Ixt, miền đất trải dài từ Bôxton đến tận Hải cảng – Hoàng gia ở Tân Êcôxờ, tiếp giáp ở phía nam với ban Niu Oóc, ở phía bắc với Canada và là một phần của mười ba bang xứ thuộc địa của Anh quốc.
    Ông chủ tàu La Rôsen, Bécnơ và Lơ Gan nhìn nhau khiếp đảm.
    - Cái mà ngài đòi hỏi ở chúng tôi là chuyện điên rồ. Vùng bờ biển lởm chởm này nổi tiếng là không thể cập bến được – Lơ Gan nói – Đây là một cái bẫy của thần chết đối với mọi loại tàu thuyền. Không một con người văn minh nào có thể cắm rễ ở đây.
    - Đúng thế. Trừ cái chỗ tôi đã đưa các ông đến đây. Chỗ mà các ông cho là một lối đi vào rất khó khăn chỉ là một cái ngưỡng cửa bằng đá, tàu có thể đi qua khi thủy triều lên cao và sẽ là một nơi trú đậu bất khả xâm phạm trong vùng vịnh bình lặng này.
    - Là một nơi ẩn nấp của bọn cướp biển thì tôi không phủ nhận. Nhưng để xây dựng một hải cảng thì những chuyện kể của các nhà hàng hải chẳng cho ta một hy vọng nào cả, Sămpơlanh cũng đã hãi hùng. Ý đồ di dân đã làm cho những người khốn khổ được đưa đến đấy chết hàng loạt. Đói rét, sóng thần dữ dội hơn bất cứ nơi nào trên thế giới…Đấy là số phận ông dành cho chúng tôi – Ông ta nhìn hai bàn tay trần trụi của mình- Ở đây chẳng có gì hết và ông để chúng tôi cùng vợ con chết đói.
    Ông ta vừa dứt lời, Giôphrây đờ Perắc đột ngột vung tay ra hiệu cho một thủy thủ ngồi trong xuồng. Chiếc xuồng lao về phía những mỏm đá đỏ nhấp nhô trên mặt biển.
    - Các ông lại đây.
    Họ chậm rãi đi theo. Sau khi tưởng là người ta sắp sửa cho dây thòng lọng vào cổ, họ thấy người đàn ông quỉ quái này mời họ đi dạo chơi một vòng trên bờ biển. Họ đến doi đất cuối cùng, nơi chiếc xuồng đang ghé vào, những người thủy thủ tung lưới.
    - Trong số các ông có ai làm nghề đánh cá không? Chắc hẳn là mấy ông này – Bá tước vừa nói vừa túm vai hai người dân của xóm chài Xanh Môrixờ và nhất là ông Lơ Gan này. Các ông hãy lên thuyền, ra khơi và thả lưới đi.
    - Đồ vô thần! –Mécxơlô gầm lên – Ông dám nhạo báng cả Thánh thư.
    - Đồ ngu! – Perắc vui vẻ quật lại – Không thể có hai cách khác nhau khuyên người ta làm cùng làm một việc để đạt cùng một kết quả.
    Quả thật khi những người đi đánh cá trở về, tất cả bọn họ phải xúm lại mà kéo vì lưới đầy nặng cá.
    Cá nhiều vô kể, nhiều loại cá và cá to quá làm họ bàng hoàng. Ngoài các loại cá giống như ở bờ biển Sarăngtờ, còn có những loại cá hầu như họ chưa từng biết, cá hồi, cá bơn lưỡi bò, cá tầm. Nhưng họ đã được thưởng thức cái ngon của các loại cá này sau khi được hun khói. Những con tôm hùm to kềnh to càng, xanh màu thép giãy giụa dữ dội trong đám cá lấp lánh.
    - Hàng ngày các ông có thể cất những mẻ lưới như thế. Có những thời kỳ hàng đàn cá lũ cá tuyết kéo nhau về ẩn náu trong hàng nghìn khúc cuộn của bờ biển. Những con cá hồi ngược lên các dòng sông để đẻ.
    - Các loại cá sau khi muối hoặc xông khói có thể tiếp tế cho các tàu bè ghé đậu ở đây – Ông Bécnơ bây giờ mới mở miệng.
    Ông ta có vẻ suy nghĩ. Ông ta bắt đầu tưởng tượng ra những kho chứa tối om nồng nặc mùi muối với những thùng sắp xếp đâu vào đấy trong bóng mát.
    Bá tước đờ Perắc nhìn ông ta với con mắt cảnh giác nhưng cũng rất đồng tình.
    - Hẳn là thế…Dù sao đi nữa thì các ông cũng không còn sợ bị đói. Chưa kể đến thú rừng đầy rẫy để săn bắn, hái lượm nho rừng và mật hoa cây bằng thích và mùa màng rất tốt của người Anhđiêng mà tôi sẽ nói chuyện với các ông sau và để các ông tự đánh giá lấy.



    Chương 35



    Khi họ quay trở về, bãi biển hầu như đã trở thành một bàn tiệc. Dân bản xứ tiếp tục đem tới bao nhiêu là món ăn mới, hàng giỏ hoa quả, bé thôi nhưng thơm lừng, những cây rau to tướng, nào bí ngô, nào bầu, nào cà chua. Những bếp lửa được nhen lên và từ đó bốc lên mùi thơm của cá rán. Những người Anhđiêng bắt đầu vừa nhảy vừa múa những chiếc rìu trận.
    - Con chúng tôi đâu rồi? – Các bà mẹ bỗng sợ hãi kêu lên khi thấy cảnh man rợ này.
    - Mẹ ơi – Ônôrin thét lên và chạy bổ đến với mẹ - Mẹ lại đây mà xem những con tôm câu được cùng với ông Cơrâulê này.
    Bộ mặt non choẹt của nó nhem nhuốc màu xanh.
    - Cứ như là nó uống mực viết vậy!
    Nhưng bọn trẻ con đứa nào cũng thế cả.
    - Chúng con vừa ăn những quả “Strauberrie” (dâu tây) và những quả “Whortberrie” (nham lê)…
    “ Chỉ ít ngày nữa, bọn trẻ sẽ nói tiếng Anh hết” – Các ông bố bà mẹ nói với nhau.
    - Khi đói thì đã có đây – Bá tước vừa nói vừa chỉ các thứ thực phẩm – Còn rét thì đã có lông thú và củi đốt ê hề ra đấy.
    - Vậy mà Sămpơlanh đã thất bại – Manigô nhắc lại.
    - Đúng. Nhưng ông có biết vì sao không? Ông ta mù tịt về cái khoản bãi đá ngầm ven biển, chiều cao của thủy triều lên tới một trăm hai mươi bộ và mùa đông khủng khiếp làm ông ta sợ hết hồn.
    - Ông có loại trừ được những khó khăn đó không? –Mécxơlô cười khẩy.
    - Hẳn là không. Thủy triều bao giờ cũng vẫn còn lên cao đến một trăm hai mươi bộ, nhưng chỉ ở phía bên kia mũi Gunxbôrô này, nơi mà Sămpơlanh đã hạ trại. Ông ta bám vào một nơi đáng nguyền rủa trong khi đó chỉ cách nửa giờ ngựa phi nước đại ông ta sẽ tìm thấy chỗ ta đang đứng đây nơi thủy triều chỉ cao bốn mươi bộ.
    - Bốn mươi bộ vẫn là mức thủy triều quá cao đối với một hải cảng.
    - Không đúng, bốn mươi bộ là mức thủy triều ở Xanh – Malo, hải cảng rất phồn thịnh ở Brơtanhơ.
    - Ở đấy không có bùn – Manigô nói vừa nhúng tay xuống làn nước trong vắt.
    - Ở đấy không có eo biển – Bécnơ cho biết thêm.
    - Đúng thế, nhưng ở đấy lại có con sông Răngxơ có những kỳ nước ròng và bùn lầy.
    - Cho nên vận may của các ông còn lớn hơn tổ tiên các ông ngày trước, khi các cụ quyết định xây dựng một hải cảng chẳng ai dám bén mảng tới trên mỏm núi đá sau này trở thành La Rôsen đó. Cũng được bảo vệ bằng những eo biển như ở đây, nhưng La Rôsen đang bị đe dọa, đến một ngày không xa nữa sẽ bị bùn lầy bóp chết hoàn toàn. Nếu các ông, những người dân La Rôsen không đứng ra xây dựng ở đây một hải cảng có nhiều cái tương tự như thành phố quê hương của các ông thì ai vào đây mà xây dựng.
    Angielic để ý thấy những tín đồ Tin lành xúm xít quanh con người mà họ vẫn gọi là Rescartor. Nhưng cũng như tất cả, bất cứ ai khi nói chuyện với một người mà họ biết là thông thạo, họ đã quên khuấy hoàn cảnh bấp bênh của mình đối với ông và tỏ ra say sưa như thường. Câu hỏi của ông đưa họ trở về với thực tại.
    - Thật ra thì lúc này chúng tôi đang nằm trong tay ngài- Manigô nói giọng cay đắng – Chúng tôi làm gì có quyền lựa chọn.
    - Lựa chọn cái gì? – Giôphrây đờ Perắc vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt họ - Đi đến ư? Các ông biết gì về hòn đảo đó nào? Muốn đến được đó phải cống nộp cho bọn cướp ở vùng biển Caribe và cứ lâu lâu lại bị bọn giặc ở dưới biển và bọn phỉ trên rừng của đảo Con Rùa đến trấn lột. Những con người như các ông đến đó thì làm nên công chuyện gì. Các ông khéo léo, năng động, biết nghề biển, lại biết nghề buôn. Đến đấy để làm nghề đánh cá? Chỉ có mấy con cá đục trong dòng suối còm và ven biển thì chỉ có độc một loại cá mập hung dữ.
    - Thế nhưng ở đấy tôi có cửa hàng – Manigô nói – Và có tiền.
    - Không, tôi không tin điều đó. Các cửa hàng của ông chắc hẳn đã bị hải tặc cướp phá sạch sành sanh rồi và ông chẳng còn gì nữa đâu, thưa ông Manigô. Ông có thể cứ giữ lại những cơ sở vững chắc ở La Rôsen với hi vọng còn thu được một số của cải khi đến các hải đảo châu Mỹ. Nhưng ông có dám chắc là những người ở Xanh Đômanhgio cũng như ở La Rôsen, trước đây là những người cộng sự thân thiết và trung thành đã chẳng chia nhau cả cái xác còn lại của ông rồi không?
    Manigô bối rối. Chính lỗi lo sợ của ông đã được Rescartor cụ thể hóa bằng lời nói.
    - Chắc hẳn một trong nhiều động cơ đã thúc đẩy các ông chiếm chiếc tàu của tôi là các ông sợ rằng khi đến đảo sẽ ở trong tình trạng nghèo đói hoàn toàn, lại còn phải làm nghĩa vụ đối với tôi là người đưa các ông đến tận nơi ấy. Cái kế hoạch kiểu cướp biển của ông sẽ đem lại cho ông hai lợi thế. Loại trừ tôi, loại trừ được một người chủ nợ và các ông trở thành người chủ của một con tàu đẹp. Mặc dù là kẻ di cư khốn khổ, các ông có thể trở nên cao giá đối với những ai ở trên hòn đảo ấy dám đón tiếp các ông không bằng đón tiếp một con chó.
    Manigô không chối cãi. Ông ta chỉ khoanh tay trước ngực, đầu cúi xuống trong tư thế suy nghĩ sâu sắc.
    - Và thưa ngài, ngài bảo rằng sự e ngại của tôi đối với những người cùng cộng tác với tôi trước đây ở hải đảo và ở La Rôsen là đúng. Đây là phỏng đoán hay sự thật?
    - Sự thật.
    - Làm sao ngài biết được tất cả những điều đó?
    - Thế giới đấu phải quá to lớn như ta tưởng. Khi tàu nghỉ ở ven biển Tây Ban Nha, tôi có gặp một trong những kẻ ba hoa nhất trên đời này, một người tên là Rôsa tôi đã quen ở phương Đông.
    - Cái tên ấy làm tôi nhớ lại một điều gì đó.
    - Ông ta trước đây là tùy viên phòng thương mại ở La Rôsen. Ông ta nói chuyện với tôi về cái thành phố mà ông ta vừa mới rời khỏi, nói về cả ông nữa, để chứng minh cho tôi hiểu là ở La Rôsen cách thức mà quyền lực và của cải từ tay những nhà tư sản lớn theo đạo Tin lành chuyển sang những nhà tư sản lớn theo đạo Thiên Chúa sẽ diễn ra như thế nào? Ngay từ đó, ông cũng đã bị kết tội rồi, ông Manigô ạ. Nhưng khi nghe ông ta kể chuyện, tôi cũng không ngờ rằng mình sẽ được…hân hạnh…Ông cúi chào một cách mỉa mai – Dành cho những con người bị khủng bố mà ông ta nói chuyện với tôi đó, nơi ẩn náu trên con tàu của tôi.
    Manigô như không nghe thấy. ông ta thở dài não nề.
    - Tại sao ngài không cho chúng tôi biết việc này sớm hơn. Như thế có khi đã tránh được đổ máu.
    - Tôi nghĩ ngược lại – Nếu biết được điều đó các ông sẽ càng hăng máu hơn trong việc cướp bóc của tôi để trả đũa cho những kẻ thù của các ông.
    - Cho dù chúng tôi có bị những người bạn ngày xưa của chúng tôi kết tội và trở thành khánh kiệt, điều đó cũng không cho phép ông được quyền sử dụng mạng sống của chúng tôi
    - Các ông đã sử dụng mạng sống của chúng tôi. Thế là hòa! Bây giờ thì các ông hãy quyết tâm làm một điều gì đó. Ngoài việc trồng mía và thuốc lá mà ông không hề có một chút kinh nghiệm nào, ở trên hòn đảo đó chắc là ông sẽ chỉ làm cái nghề buôn bán người da đen mà thôi. Và, về phần tôi, tôi sẽ chẳng đời nào giúp một thương gia thiết lập nghề buôn nô lệ. Ở đây không cần đến cái công nghiệp có hại đó, có khi ông có thể xây dựng cơ sở cho một thế giới ngay từ khi khởi đầu đã không mang lại mầm mống của sự tàn phá.
    - Nhưng ở Xanh Đômanhgio, người ta có thể trồng nho và ý định của tôi là như thế đấy – Một người La Rôsen làm nghề đóng thùng gỗ đựng rượu cho miệt Sarăngtờ nói.
    - Nho không thể mọc lên ở Xanh Đômanhgio. Người Tây Ban Nha đã thử trồng nhưng chẳng ăn thua gì. Muốn cây nho có quả, phải qua một sự tắt nhựa do các mùa gây nên. Ở trên đảo này nhựa lúc nào cũng lưu thông. Lá nho không rụng. Không có mùa. Không có nho.
    - Vậy mà mục sư Rôsơpho đã viết trong sách của ông ấy…
    Bá tước đờ Perắc lắc đầu.
    - Mục sư Rôsơpho là một nhà du lịch đáng quí và dũng cảm thỉnh thoảng tôi có gặp, đã từ nhãn quan đặc biệt của ông ta về cuộc sống mà viết sách, ông ta đi tìm thiên đàng trên trần thế và đi tìm Đất Hứa. Có nghĩa là những chuyện kể của ông ta chứa đựng những sai lầm hiển nhiên.
    - À! Mục sư Bôke vừa kêu, vừa đập tay thật mạnh lên cuốn kinh thánh to tướng – Đúng là tôi cũng nghĩ như vậy. Tôi có bao giờ đồng ý với cái ông Rôsơpho cuồng tưởng này đâu.
    - Chúng ta hãy nhất trí với nhau. Những người cuồng tưởng cũng có cái hay. Họ làm cho con người tiến bộ và bứt họ ra khỏi lối mòn thiên niên vạn đại. Họ thấy những biểu tượng. Còn biểu đạt như thế nào là tùy ở người khác. Nếu như nhà văn Rôsơpho đã phạm phải những sai lầm về địa lý và miêu tả sự giàu có của Tân thế giới với lòng ngưỡng mộ quá ngây thơ, thì cũng chẳng vì thế mà những người dân di cư được ông ta lôi cuốn từ phía bên kia Đại dương tới xem như bị lừa phỉnh đâu. Vị mục sư thân kính này đã thu nhận ý nghĩa biểu tượng vốn là cơ sở trí tuệ người Anhđiêng. Hẳn là người ta chẳng tìm thấy những chùm nho ngọt lịm trên các chồi tái sinh của cây nho rừng, cũng như chẳng tìm thấy đâu những chiếc bánh mì tròn vàng rộm trên cành cây bánh mì, nhưng việc tìm thấy của cải, hạnh phúc, sự bình yên của tâm hồn và trí tuệ có thể mọc lên và nảy nở khắp mọi nơi. Đối với những người biết phát hiện những của cải đích thực được dâng tặng; sẽ hết lòng vì miền đất mới và sẽ không mang đến nơi này mối oán hận của thế giới cũ. Có phải đấy là những cái mà tất cả các ông đến đây để tìm kiếm không nào?
    Giọng Giôphrây đờ Perắc trong cuộc diễn thuyết dài dòng này có lúc nghẹn ngào, có lúc khàn đi nhưng không có gì ngăn cách nổi chất lửa trong lời nói của ông.
    Ông coi thường cái cuống họng bị thương, như ngày xưa, khi đấu kiếm, ông đã sử dụng tài tình đôi chân tập tễnh của mình. Hai con mắt của ông ngời sáng dưới nét lông mày rậm rì hấp dẫn người nghe và truyền niềm tin cho họ. Một gã người Morơ thay anh chàng Apđula tiến gần và đưa cho ông một cái bầu bụng phụ trông rất lạ, màu vàng ánh đựng thứ nước uống thần bí do người Anhđiêng mang tới. Ông ngửa cổ lên uống mà không để ý tới nước gì.
    Có tiếng ngựa hí từ xa. Lát sau, hai anh chàng Anhđiêng xuất hiện và nhảy xuống bãi làm sỏi bắn tung tóe. Người ta hướng cả về hai người này. Họ báo tin Đại tù trưởng Maxaoa sắp sửa đến chào những người da trắng mới tới. Mệnh lệnh được phát ra bằng đủ mọi thứ tiếng để nhanh chóng chuyển từ tàu Gunxbôrô xuống những thứ tặng phẩm và chất đống trên bãi biển, những khẩu súng trường mới tinh, có khẩu còn bọc trong vải dầu, các vũ khí khác và những dụng cụ bằng thép.
    Gabrien Bécnơ không ngớt dướn cổ ra nhìn những chiếc thùng gỗ mở toang.
    Giôphrây đờ Perắc đưa mắt theo dõi điệu bộ của ông ta.
    - Đấy là các loại dao Sipphin – ông giới thiệu – loại tốt nhất.
    - Tôi biết – Bécnơ xác nhận.
    Và, đây là lần đẩu tiên kể từ bao nhiêu lâu nay, nét mặt ông ta mới dãn ra và cái nhìn của ông ta mới linh lợi lên. Ông ta quên là mình đang nói chuyện với một địch thủ có thâm thù.
    - Đối với bọn dã man, tặng phẩm thế là quá đẹp. Chẳng cần đến thế chúng đã mừng rơn.
    - Người Anhđiêng rất khó tính trong việc chọn vũ khí và dụng cụ. Lừa gạt họ tức là phá bỏ lợi thế của mình trên thị trường. Những tặng phẩm mà ông trông thấy đấy phải mua về chúng ta bằng được nền hòa bình trên một vùng lãnh thổ còn rộng lớn hơn cả vương quốc Pháp. Nhưng người ta cũng có thể đổi các thứ hàng hóa này lấy lông thu hay vàng bạc hoặc đá quý mà người Anhđiêng cất giữ từ ngày xưa trong các thành phố huyền bí của họ.
    Bécnơ vẻ suy tư, trở lại với bạn bè ông ta. Những người này bao giờ cũng ngồi quây quần bên nhau và im lặng. Vùng lãnh thổ mênh mông này làm họ cảm thấy quá nặng, không kham nổi. Họ không ngừng nhìn biển, nhìn những ghềnh đá rồi ngước nhìn các ngọn đồi có những tán cây khổng lồ và mỗi lần nhìn họ lại thấy sương mù trôi lang thang làm biến dạng cảnh quan, khi thì có vẻ dịu dàng niềm nở khi thì man rợ bất nhân. Bàn tay đặt trên thắt lưng, Bá tước quan sát họ vẻ chế giễu gần như làm nheo đôi mắt bị xếch lên vì các vết sẹo trên má. Ông có vẻ cay độc nhưng Angielic biết trong lúc này cái vẻ ngoài cứng rắn đó đang che dấu cái gì và con tim nàng cháy lên một niềm khâm phục nồng nàn.
    Bỗng chàng nói khẽ, không ngoảnh lại nhìn nàng.
    - Đừng có nhìn tôi như vậy, mệnh phụ kiều diễm ạ. Bà gây cho tôi những ý nghĩ lười biếng và bây giờ là không phải lúc.
    Rồi ông hỏi Manigô:
    - Câu trả lời của các ông như thế nào?
    Người chủ tàu đưa tay lên đầu sờ trán.
    - Có đúng là có thể sống ở đây không?...Mọi cái với chúng tôi đều xa lạ. Chúng tôi có phải sinh ra để sống trên xứ sở này không?
    - Tại sao không? Con người được sáng tạo ra là để sống khắp trên trái đất. Các ông thuộc về loài vật thượng đẳng để làm gì, loài vật được trời phú cho một linh hồn có khả năng làm sống động một thân xác chán ngắt, một niềm tin dời non lấp biển, nếu các ông không thể đảm đương nổi một nhiệm vụ với lòng dũng cảm và trí thông minh như của những con kiến hay những con mối mù lòa? Ai đã bảo rằng con người ta chỉ có thể sống, hít thở và suy ngẫm ở một chỗ mà thôi, như một con sò bám vào mỏm đá? Nếu trí tuệ của anh ta làm cho anh ta suy giảm chứ không phải nâng anh ta lên thì loài người hãy biến khỏi trái đất đi cho rồi và nhường chỗ cho loài côn trùng lúc nhúc, nghìn lần đông hơn và năng động hơn quần thể người trên địa cầu và trong tương lai sẽ lại tràn ngập bằng những giống nòi nhỏ xíu như ở thời đầu thế giới chưa hình thành, chưa có người nào xuất hiện mà thuộc về các giống thằn lằn khổng lồ quái dị.
    Những người Tin lành không quen với thứ ngôn từ đa dạng và những ý nghĩ xa xôi như vậy, ngơ ngác nhìn ông, nhưng đám trẻ con thì vểnh tai lên nghe.
    Mục sư Bôke ôm chặt lấy cuốn kinh thánh vào lòng.
    - Tôi hiểu – Ông lão thở hổn hển – Tôi hiểu ngài muốn nói gì thưa ngài. Nếu con người ta không còn đủ sức theo đuổi khắp nơi sự nghiệp sáng tạo thì người để làm gì? Và con người sống trên trái đất này để làm gì?..Tôi thâu hiểu lời khuyên của Chúa khi Người nói vơi Abraham: “Hãy đứng lên, rời khỏi nhà ngươi và gia đình của cha ngươi và đi đến xứ sở mà ta sẽ chỉ cho ngươi”.
    Manigô giơ hai cánh tay mạnh mẽ của ông ta lên để đòi được nói.
    - Chớ có lạc hướng. Chúng tôi có một tâm hồn, đúng thế, và có niềm tin, nhưng chúng tôi chỉ có mười lăm người trước một nhiệm vụ mênh mông.
    - Ông tính sai, ông Manigô ạ. Còn vợ, còn con các ông? Ông thường nói về họ như nói về một đàn cừu be be và vô trách nhiệm. Thế nhưng họ đã tỏ ra chẳng kém gì các ông về mặt ý thức, sức dẻo dai và lòng dũng cảm. Ngay cả bé Raphaen của ông cũng có cố gắng sống mặc dù những thiếu thốn và những nỗi đau trong suốt cả cuộc hành trình trên biển mà hiếm có đứa bé nào ở tuổi của nó chịu đựng nổi…Nó cũng chẳng ốm đau gì. Ngay cả đứa con đang nằm trong bụng một cô con gái của ông đấy, ông Manigô ạ, nó nhờ ở sức dẻo dai của mẹ nó nên đã không để mất cuộc sống vừa mới được phôi thai. Nó sẽ được sinh ra ở đây, trên đất Mỹ và nó sẽ thừa nhận xứ sở này là của ông vì nó chẳng biết xứ sở nào khác, nó sẽ yêu quí vùng đất này như quê hương của nó. Vậy các ông có một lớp con cháu can trường, các ông La Rôsen ạ và những người vợ can trường. Các ông không phải chỉ có mười lăm người đàn ông. Các ông đã là cả một dân tộc rồi.
    Những món ăn người ta liên tiếp nấu nướng hoặc đem tới tỏa mùi thơm pha trộn, mới lạ và ngon lành. Những người Tin lành liền bị vây quanh và được mời ăn. Những người đàn bà Anhđiêng cũng mạnh dạn và cười vui, không như các ông chồng của họ tỏ ra xa cách và bí ẩn. Họ sờ mó quần áo các bà, chuyện trò, reo len. Họ đặt tay lên bụng từng bà rồi nhảy qua một bên, nhấc bàn tay lên liên tiếp từng nấc, dừng lại một chút ra vẻ hỏi xem.
    - Họ hỏi các bà đã được mấy con và các cháu bao nhiêu tuổi – Nicôla Perôt giải thích.
    Những nấc liên tiếp của gia đình Care bắt đầu từ tầm cỡ bé Raphaen đã được coi như những thành công kỳ diệu. Bà Care được vây quanh bằng một điệu khiêu vũ thật sự với những nhịp vỗ tay và những tiếng hú đầy hứng khởi.
    Nhưng một câu hỏi đã đem các bà trở về với nỗi lo lắng quen thuộc.
    - Bọn trẻ con đâu rồi?
    Lần này thì chúng đã biến mất tăm. Người ta chỉ tìm lại được mấy đứa – Nicôla Perôt đi thu thập tin tức.
    - Ông Cơrâulê đem tất cả chúng nó sang bên kia khu trại Sămpơlanh rồi.
    - Cơrâulê là ai vậy? Trại Sămpơlanh ở đâu?...
    Chỉ trong ngày hôm nay đã xảy ra bao nhiêu là chuyện sau này sẽ trở thành lịch sử trong cuốn sử biên niên của xứ Men nên người ta không còn thì giờ để trông thấy họ tới.
    Angielic cho ngựa phi nước đại trên con đường mòn chật hẹp phủ đầy rêu khô dưới những hàng cây rợp bóng như trong cung điện Vecxay và men theo vùng bờ biển với những mỏm đá lởm chởm, nơi biển xô vào một cách giận dữ như con thú đang gầm. Âm vang đó củ biển và của gió lạnh, ánh sáng đó của cây lá, cảm nghĩ về một vùng đất khi thì đông đúc dân cư, khi thì hoang vắng đó, đã tạo nên vẻ kỳ thú của nơi này.
    Đám người thông thạo đường rừng được giao trách nhiệm hộ tống các bà mẹ đang lo lắng. Bà nào không biết cưỡi ngựa thì đã có xe bốn bánh và những chiếc kiệu. Đến phút cuối cùng, một số đàn ông cũng đi theo họ.
    Hành trình bị chậm lại vì phải vượt qua một con sông và con đường mòn chật hẹp, nhưng cũng chỉ mất chưa đến một giờ đồng hồ. Đây chỉ là một cuộc dạo chơi và bọn trẻ con rất thích thú được dịp làm cho những đôi chân của chúng đỡ tê cóng. Những mái nhà tranh đổ nát xuất hiện. Những ngôi nhà này đã được những người dân di cư khốn khổ của Sămpơlanh xây dựng trước đó khoảng năm mươi năm. Bỏ hoang, khu nhà còn sót lại từng phần ở bìa rừng, chiếm một vùng rừng cây rộng lớn chạy xuống cái dốc thoai thoải rồi xuống bãi sỏi màu đỏ san hô. Nhưng, còn lâu mới có thể là nơi trú ẩn như cách đây mấy dặm. Vùng bờ biển này ngổn ngang những mỏm đá chồng chất lên nhau trên đó những ngọn sóng hung dữ không ngừng đập vỗ vào.
    Lũ trẻ xuất hiện, chúng chạy lồng lên và đuổi bắt nhau giữa các túp lều tranh
    - Mẹ ơi – Ônôrin vừa kêu lên vừa nhảy bổ tới – Con đã tìm thấy nhà của mình. Mẹ đến mà xem, ngôi nhà đẹp nhất. Chỗ nào cũng có hoa hồng, Và ông Cơrâulê cho chúng ta ngôi nhà đó, chỉ cho mẹ và cho con mà thôi.
    - Cho cả các anh nữa chứ - Lôriê giận dữ kêu lên.
    - Yên nào, yên nào, những con chó sói đồng cỏ nhỏ bé hay gào thét kia – Một nhân vật lạ lùng lên tiếng. Ông ta đứng đầu đường đi vào như một chủ nhân đón mừng các bà khách đáng kính. Chiếc mũ không vành to đùng bằng lông thú ông ta cầm ở tay để lộ ra một mái tóc màu hung hết sức đẹp, nhưng mặt ông ta cạo nhẵn nhụi trừ hai chòm râu không phải trên thái dương mà trên gò má, làm thành một thứ mặt nạ lờm xờm, màu lửa, khá là dễ gây cảm xúc đối với những người không sành về nét đặc trưng đó của giống người Ecôxờ.
    Ông ta phát biểu ý kiến nửa bằng tiếng Pháp, nửa bằng tiếng Anh kèm theo vô số động tác kiểu như người Anhđiêng và người ta không hiểu hết ông ta muốn nói gì.
    -Đứa bé nói đúng đấy, thưa bà. Quán trọ của tôi là dành cho bà. Tên tôi là Cơrâulê, Gioócgiờ Cơrâulê, và trong cửa hàng dành của tôi bà sẽ tìm thấy mọi thứ dụng cụ gia đình…Bà hãy nhìn xem những bông hồng dại của tôi.
    Nhưng người ta chẳng trông thấy gì hết vì một làn sương mù dày đặc vừa dâng lên và trút xuống hằng hà sa số những giọt li ti lấp lánh quanh người họ.
    -Ồ! Thứ sáu sương mù này – Bà Care rên rỉ - Tôi không bao giờ quen được. Các con ơi, các con đâu rồi?
    - Chúng con đây! – Bọn trẻ con kêu lên
    - Trong một xứ sở như thế này rồi thì chúng nó sẽ chơi cho tôi những vố đau đấy.
    - Mời vào!..Mời vào! – Người Ecôxờ lặp lại
    Họ đành phải đi theo ông ta với lòng tin cậy.
    - Không có sương mù – Ông ta nói một cách xởi lởi -Hôm nay chúng ta không có sương mù. Nó đi, nó ra đi. Mùa đông, đúng, đây là thứ sương mù dày đặc nhất thế giới.
    Đúng như ông ta đã báo trước, sương mù lại ra đi trên đôi cánh gió.
    Angielic đứng trước một ngôi nhà bằng gỗ lợp tranh đầy những hoa hồng nở rộ màu men sứ thơm mùi hương tinh tế
    - Nhà của con đây – Ônôrin báo cho mẹ biết.
    Và nó vừa chạy hai vòng quanh nhà vừa kêu lên như một con chim én.
    Trong nhà, một bếp lửa ấm áp đang cháy. Còn có cả hai căn phòng bày các thứ bàn ghế làm bằng những cành cây tròn hay những thân cây được đẽo gọt một cách sơ sài, nhưng người ta ngạc nhiên khi thấy một chiếc bàn gỗ màu đen, chân bàn kiểu xoắn thừng hình như vẫn để nguyên tại chỗ trong một căn phòng không xê xích.
    - Bá tước đờ Perắc tặng đấy – Người Ecôxờ nói với vẻ hài lòng.
    Ông ta còn chỉ lên những tấm kính trên cửa sổ, thứ của cải sang trọng mà các căn nhà khác không có. Cửa sổ căn gác này chỉ được làm bằng da cá, để lọt vào nhà một thứ ánh sáng lờ mờ mà thôi.
    - Trước đây, tôi hài lòng với căn nhà này.
    Trước đây là từ khá lâu rồi. Cơrâulê hồi đó là phó thuyền trưởng của một con tàu đã bị vỡ tan trên những mỏm đá không thể vượt qua ven bờ biển xứ Men cách đấy ba mươi dặm. Là người duy nhất sống sót, mình đầy thương tích, người đắm tàu bơi được vào vùng bờ biển chẳng mấy hiếu khách này. Được ở lại nơi đây, ông ta vô cùng thích thú.
    Tự cho mình là chúa tể của địa phương này, ông ta đã đón tiếp những tên cướp biển đến tìm nơi trú ẩn trong vịnh Gunxbôrô bằng những mũi tên bắn rất chính xác từ trên ngọn cây cao. Những người Anhđiêng cũng chẳng làm gì cho ông ta. Vốn hòa nhã, họ chẳng dám tự mình gây thù oán, nhưng người Ecôxơ thì tự mình đã nhận lấy việc xua đuổi các vị khách không mời mà đến.
    Nhờ kết thân với một tù trưởng người Môhican gặp tại cuộc thương thảo ở Bôxton nên đờ Perắc đã cùng lúc biết được nơi trú ẩn bất khả xâm phạm ở Gunxbôrô và những lý do gây nên những điều tồi tệ đang ngự trị ở đây. Ông đã thành công trong việc liên minh với con người có đầu óc láu lỉnh này và Cơrâulê nhờ nồng nhiệt tiếp đón các đề nghị của ông nên đã bắt đầu tìm được khách hàng cho món lông thú của ông ta. Quả vậy, sau khi đã yên chỗ trong căn nhà của Sămpơlanh bỏ lại, Cơrâulê nảy ra ý muốn làm nghề buôn bán. Thiên tài kỳ lạ của ông ta là làm nên giàu có từ hai bàn tay trắng. Ông ta bắt đầu bằng cách bán những lời khuyên bao cho dân bản xứ để chữa khỏi những căn bệnh mà các thấy phù thủy của họ đã chịu bó tay. Rồi đến những chiếc kèn hơi ông ta tự chế tạo ra bằng thân cây sậy và bong bóng hoặc dạ dày của những con thú săn được. Rồi những buổi hòa nhạc ông ta tổ chức với những chiếc kèn hơi của ông ta. Những người từ Canada đến thường hay nghỉ lại ở trong nhà ông ta, trao đổi một số lông thú của họ để lấy những lời khuyên tốt lành và những tối hòa nhạc.
    Giôphrây đờ Perắc lấy lông thú của ông ta và trả ông ta bằng các thứ hàng ngũ kim và mỹ nghệ. Từ đấy ông ta trở thành ông vua của ngành thương nghiệp trong vùng. Đấy là câu chuyện ông ta kể cho các bà nghe quanh bếp lửa. Ông ta cũng chưa biết nên đối xử với những người mới đến như thế nào. Bản tính không phải ít nói năng, ông ta tự bảo mình trong khi chờ đợi xác định minh bạch thì cứ xem các bà như bạn cùng phường vậy. Và lại được nhìn thấy những người đàn bà da trắng mắt màu sáng cũng thú vị lắm chứ, nhất là vì ông ta đã lấy một mụ vợ người Anhđiêng và thả sức sinh con đẻ cái.
    Lũ con đem vào những chiếc giỏ con đựng đầy quả phúc bồn tử, dâu tây và những chùm nho rừng tặng các bà đang ngồi trên những chiếc ghế dài trong khi ông Cơrâulê tiếp tục bản tin góc nhà của ông ta:
    - Ngài đờ Uyêcvin – ông ta kể - là một anh chàng nóng nảy đã đi sang châu Mỹ sau một vụ đấu súng đáng buồn. Đẹp trai, anh ta đã chiếm được cô con gái của viên tù trưởng người Abinaki – Kaku. Chính anh ta là người canh giữ pháo đài kiểm soát đường vào vịnh Gunxbôrô trong khi ngài bá tước đờ Perắc vắng.
    Còn người Tây Ban Nha? Đông – Giuăng Phécnăngđê và binh sĩ của ông ta ư? Những người sống sót của một đội quân viễn chinh Mécxicơ đã biến vào trong những khu rừng bất khả xâm phạm ở Mixixipi. Tất cả đều bị tàn sát trừ mấy anh này đã lần về miệt Đâu Ixt, da bọc xương, chết dở, quên hết, không còn nhớ tí gì về quá khứ của họ nữa.
    - Cái ông Đông- Phécnăngđê trông có vẻ dữ tợn – Angielic nhận xét – Lúc nào cũng thấy ông ta nhe nhăng ra.
    Cơrâulê lắc đầu, mỉm cười. Ông ta giải thích rằng cái cười nhếch mép củ anh Tây Ban Nha này là do thương tật để lại sau khi ông ta bị người Irôcơ tra tấn. Người Irôcơ rất hung dữ, ở đây người ta quen gọi là bộ tộc Nhà dài vì cái nhà tranh rất dài của họ trong đó quần tụ nhiều gia đình.
    Khi sang châu Âu trong chuyến vừa rồi, ngài đờ Perắc muốn đưa người Tây Ban Nha về nước của họ. Nhưng thật lạ lùng, người Tây Ban Nha từ chối. Phần lớn những người đi làm thuê này đã sống lâu năm trên đất Mỹ và không biết nghề nào khác hơn là việc chạy đi tìm những thành phố hoang đường và băm vằm những người Anhđiêng ra từng mảnh vụn. Trừ việc đó ra, chúng cũng không phải là người độc ác.
    Angielic đánh giá cao tài hài ước của người kể chuyện.
    Ông ta cho biết là trời đã trưa rồi và vì mọi người đều đã được sưởi ấm nên phải chỉ nhà cho họ.
    - Ở đấy có bốn hoặc năm căn nhà lá có thể sửa sang để ở được. Come in! Come in!
    Ônôrin túm lấy áo mẹ:
    - Con yêu ông Cơrâulê lắm. Ông ấy có mái tóc giống màu tóc của con và ông ấy đã cho con cùng lên ngựa với ông ấy mẹ ạ.
    - Phải, ông ấy rất tốt. Thật may cho mẹ con mình là đã tìm thấy căn nhà đẹp của ông ấy ngay từ khi mới tới.
    Ônôrin ngập ngừng không đặt một câu hỏi – Nó ngập ngừng vì sợ câu trả lời.
    - Đấy chắc là cha con phải không mẹ? – Cuối cùng rồi nó cũng vừa hỏi với một cái nhìn chứa chan hy vọng, vừa nghếch cái mỏ xanh nhem nhuốc lên.
    - Không, không phải ông ấy – Angielic trả lời, xót xa cho nỗi thất vọng của con bé cũng như những điều làm đau lòng đứa con gái của nàng.
    - À! Mẹ ác lắm – Ônôrin nói với giọng yếu ớt.
    Hai mẹ con đi ra khỏi nhà và Angielic muốn chỉ những bông hồng cho con bé xem. Nhưng nó không chú ý đến điều đó.
    - Chúng ta từ bên kia biển cả đến đây phải không mẹ? Sau một lúc nó hỏi.
    - Phải
    - Thế thì cha con đâu? Mẹ đã nói với con là mẹ sẽ tìm thấy cha ở bên kia biển cả cùng với các anh trai con cơ mà.
    Angielic không còn nhớ là mình đã nói ra những lời như thế, nhưng tranh cãi với trí tưởng tượng của Ônôrin là một việc không dễ.
    - Xêvêrin thật may mắn -Con bé vừa nói vừa dẫm chân – Chị ấy có một người cha và các anh trai, còn con thì chẳng có gì hết.
    - Con đừng có mà ghen tị. Thế là không hay. Xêvêrin có một người cha và các anh trai nhưng chị ấy làm gì có mẹ. Còn con thì có cả một người mẹ hẳn hoi.
    Luận điểm đó hình như làm cho người đàn bà bé tí xíu này tỉnh ra. Sau một phút trầm tư, nỗi buồn của nói bay mất và nó vội vàng nhảy ra để cùng chạy với lũ bạn của nó.
    - Đây là một ngôi nhà có vẻ chắc chắn – Cơrâulê vừa nói vừa lấy ủng đá vào cột một ngôi nhà trống huếch trống hoác – Hãy thu xếp vào đây mà ở!
    Thật kỳ diệu là những ngôi nhà này đã chống lại được mưa nắng thất thường và chứng tỏ nhà được xây dựng rất vững chắc.
    Thế nhưng các nhà tư sản La Rôsen ngắm nhìn với nỗi lòng hoang mang cảnh đổ nát gợi nhớ lại chết chóc bệnh tật, nỗi thất vọng vì bị bỏ rơi nơi tận cùng thế giới và đã lần lượt lụi tàn ở đây, bị thiên nhiên hiềm khích nghiền nát. Có điều kì lạ là những cây hồng leo lên khắp nơi, đan chéo vào nhau và làm cho người ta quên cả tiếng gầm gào của biển ở ngay cạnh đấy, và một mùa đông sắp đến với những luồng gió, những tuyết, những băng choàng lên các mỏm đá, mùa đông trước đây đã giết chết những người của Sămpơlanh.
    Người Ecôxơ nhìn họ, không hiểu vì sao mặt họ lại cứ thuỗn ra như thế.
    - Đưa tất cả chúng tôi vào ở đây, ít ra các ông cũng phải có bốn ngôi nhà để ngủ qua đêm.
    - Đúng thế, chúng tôi sẽ ngủ đêm ở đâu? Họ hỏi.
    - Chỉ có nơi này là có thể ngủ qua đêm được mà thôi – Nicôla Perôt giải thích – Vì trong pháo đài đã chật ních như cá hộp ấy rồi và nếu không thì chúng ta phải trở lại tàu.
    - Xuống tàu, không đời nào! – Họ đồng thanh gào lên.
    Những ngôi nhà tồi tàn đối với họ bỗng như những tòa lâu đài, Cơrâulê nói với họ là ông ta có thể kiếm cho họ những ván sàn, dụng cụ và đinh. Ông ta chỉ huy tác chiến, sai người bản xứ đi cắt tranh để lợp mái. Mọi người khẩn trương bắt tay vào việc.
    Sương mù dâng lên khi tỏ khi mờ, khi cho họ thấy biển khơi ngoài xa, khi vây quanh khu rừng thưa, nơi mọi người đang hoạt động và người ta thấy những ánh hồng hoặc xanh nhấp nháy nhưng chẳng còn ai còn thì giờ đâu để mà nhìn ngắm.
    Mục sư Bôke sử dụng chiếc búa một cách thành thạo như suốt cả đời ông lão chỉ chuyên làm có mỗi việc đó, ông vừa làm vừa khe khẽ hát thánh ca.
    Từng lúc một, những người Anhđiêng khác từ trong con đường mòn đi tới tiếp tục mang đến nào trứng, nào ngô, nào cá, tôm, cua, và cả một con chim rất đẹp săn bắn được, những con gà sếu, những con gà tây lông óng ả treo lủng lẳng trên những chiếc áo dài. Nhà ông Cơrâulê với một “cửa hàng” liền đó, dùng làm tổng hành dinh.
    Nhưng chẳng bao lâu, một căn nhà, rồi hai căn nhà được hoàn tất. Người ta có thể nổi lửa lên trong một căn nhà đó. Ống khói vui vẻ hút khói lên. Angielic nảy ra ý nghĩ đầu tiên là đổ nước vào nồi, treo lên bếp lò và dìm vào đấy một con tôm hùm. Rồi nàng bảo ba cô gái bắt đầu nhổ lông gà tây.
    Người ta đóng những khung gỗ bó chặt bằng dây làm bằng vỏ cây và thế là thành những chiếc giường nằm, trên đó những người râu xồm ném lên những tấm lông thú nặng chịch.
    - Các bà sẽ ngủ ngon đêm nay, những con cá con nhợt nhạt vớt lên khỏi biển, những con hải âu trắng xinh đẹp đã vượt trùng dương.
    Từ phương Bắc, từ các đỉnh của Canada đến, họ nói một thứ tiếng Pháp chậm chạp nhưng giàu chất thơ theo thói quen của họ khi chuyện trò với người Anhđiêng nên thích những câu nói vòng vo thật dài và những hình ảnh hoa hòe hoa sói…
    - Hỡi những người dân La Rôsen! Hãy nhìn kìa! Angielic kêu lên.
    Nàng chỉ cái bếp lò. Con tôm hùm to một cách kỳ dị không muốn chết cứ đội cả nắp vung lên. Đây là biểu tượng của sự giàu có đối với những người làm nghề biển.
    Họ phá lên cười. Bọn trẻ con kêu ré lên. Chúng nhảy bổ ra phía ngoài, chen lẫn nhau, ngã lăn lóc trên nền đất, cười không còn thở ra hơi nữa.
    - Chúng nó say rượu – Bà Manigô sợ hãi kêu lên – Không biết người ta đã cho chúng uống cái gì đây?
    Các bà mẹ xem xét những chiếc bình bọn trẻ vừa dùng xong. Nhưng chúng chỉ say vì ăn nho chín, uống nước suối, vì những ngọn lửa đang nhảy nhót trong bếp lò…
    - Các cháu chúng nó say miền đất này – Ông mục sư nói với giọng âu yếm – Miền đất vừa tìm lại được. Không đáng kể dáng vẻ của nó như thế nào, nó hiện lên ở điểm nào trên thế giới, làm sao mà không mừng cho được, sau những ngày dài tăm tối của trận đại hồng thủy.
    Ông lão chỉ các màu sắc như được lọc qua lăng kính đang rung rinh sau tán lá và vươn qua những mỏm đá của bãi sỏi để soi mình trên các ngọn sóng.
    - Các con trai của ta hãy nhìn kìa, hãy nhìn mà xem, đây là dấu hiệu của Tân ước.
    Ông lão giơ hai tay lên và những giọt nước mắt chảy trên khuôn mặt nhăn nheo.




    Chương 36



    Khi đêm sắp xuống, bá tước đờ Perắc được các người lính Tây Ban Nha hộ tống đến trại Sampơlanh. Ông đi ngựa và dắt theo sáu con nữa để những người Tin lành tùy nghi sử dụng.
    - Ở đây ngựa hiếm lắm. Các ông hãy chăm sóc chúng.
    Vẫn ngồi trên lưng ngựa, ông đi xem xét một vòng và thấy sự náo nhiệt có trật tự đang ngự trị ở nơi ngày xưa là chốn hoang tàn, thê thảm. Khói bếp bốc lên trên các mái nhà. Ông bảo những người Anhđiêng đi theo mình đặt xuống đất những chiếc hòm nặng. Họ lấy ra những vũ khí mới tinh được gói bọc kĩ.
    - Một khẩu súng trường cho mỗi người đàn ông và mỗi người đàn bà. Người nào không biết bắn sẽ tập bắn. Tảng sáng ngày mai phải tổ chức dạy bắn súng.
    Manigô đến gặp ông, ông ta cầm lấy một khẩu súng với vẻ ngờ vực.
    - Súng này dành cho chúng tôi à?
    - Như tôi đã nói đấy. Các ông sẽ còn chia nhau kiếm, dao găm và những người bắn giỏi nhất trong số các ông còn có sáu khẩu súng ngắn. Hôm nay chỉ có thế, tôi không thể làm hơn.
    Manigô bĩu môi vẻ coi khinh.
    - Tôi phải hiểu như thế nào cho đúng đây? Sáng nay chúng tôi còn xiềng xích đầy mình và chuẩn bị đem đi treo cổ, chiều nay thì lại được ông trang bị cho đến tận răng. Ông ta nói hầu như bị chạm lòng tự ái về cái mà ông ta cho là do tính khí thất thường – Ông không nên bí mật chúng tôi bằng cách tin rằng chúng tôi đã trở thành đồng minh của ông một cách chóng vánh như vậy. Chúng tôi vẫn là bất đắc dĩ mà phải ở lại đây và chúng tôi chưa đáp lại lời đề nghị bắt buộc của ông, theo như tôi được biết.
    - Các ông chớ có chần chừ trong việc lựa chọn. Tôi cũng chẳng sung sướng gì khi buộc lòng phải vũ trang cho các ông. Người ta báo cho tôi biết là một băng Cayuga thuộc giống người Irôcơ thù địch với chúng ta được phái đến đây để lột da đầu chúng ta.
    - Da đầu của chúng ta – những người khác vừa lặp lại vừa đưa tay lên đầu sờ tóc.
    - Đấy là những chuyện phiền lòng thỉnh thoảng xảy ra ở đây. Nước Anh và nước Pháp chưa thỏa thuận được với nhau là quyền sở hữu miền Đâu Ixt này thuộc về ngôi vua nào. Như thế, chúng ta, những người di dân có thể hoạt động trong hòa bình, nhưng cũng có những thời kỳ, các nhà cai trị ở Kêbech lại thuê các bộ lạc ở biên giới tổ chức một đội viễn chinh để xua đuổi những người da trắng có thể chiếm cứ mà không được phép của vua nước Pháp. Nước Anh cũng hành động như thế nhưng họ gặp khó khăn hơn trong việc tuyển những người Môhican là Maxaoa ủng hộ. Tuy vậy, chẳng có người da trắng nào sống trong rừng đại ngàn có thể hoàn toàn tránh khỏi một cuộc tàn sát của bộ tộc này hay bộ tộc kia đang ở tản mác.
    - Hay gớm nhỉ- Mécxơlô nói, giọng mỉa mai cay độc – Ông khoe khoang mãi về vẻ đẹp và sự giàu có của thái ấp “của ông” và ông sẽ cho chúng tôi một phần khá lớn nhưng ông quên không báo cho chúng tôi biết những mối nguy của nó và chúng tôi có thể bị những tên mọi rợ hoàn toàn trần truồng kia tàn sát.
    - Ai đã dạy cho các ông, là trên trái đất này có một nơi nào mà ở đấy con người không phải chiến đấu để bảo vệ sự toàn vẹn cuộc sống của họ? Chẳng có thiên đường nào trên trái đất cả. Quyền tự do duy nhất của con người là có thể lựa chọn cách sống, chiến đấu và chết thế nào và vì sao như anh ta muốn. Và ngay cả những người Hêbơrơ cũng phải chiến đấu với Giôxuê để chinh phục miền Đất Hứa.
    Ông quất cương ngựa và biến vào trong bóng tối.
    Lúc mặt trời lặn, những cuộn mây màu lưu huỳnh trôi đi như những đám khói của một vụ cháy lớn trên nền trời màu trắng xà cừ.
    Biển rực lên một màu vàng nâu và các hòn đảo màu đen như nhân lên thành một đàn cá nhám vội vã lội dọc theo bờ.
    Cơrâulê đến gần và bảo rằng phải lợi dụng ánh sáng cuối cùng để tổ chức các vị trí phòng thủ và đặt người gác.
    - Như vậy, chuyện người Anhđiêng là nghiêm túc phải không?
    - Việc đó có thể xảy đến. Đề phòng trước thì hơn và trong tư thế sẵn sàng còn hơn là nhận một mũi tên vào bả vai.
    - Vậy mà tôi cứ tưởng là ông ấy đùa – Manigô nói với vẻ suy tư và đưa mắt nhìn các thứ vũ khí để dưới chân mình.
    Mục sư Bôke, hai mắt nhắm nghiền như bị sét đánh.
    - Ông ta đùa nhưng ông ta thuộc Thánh thư- Mục sư lẩm bẩm- Những chuyện đùa của ông ta mở ra nhiều điều phải suy ngẫm. Các anh em, chúng ta có xứng đáng với Đất Hứa không? Không những chẳng hề oán giận Chúa về những thử thách Người đã đem đến cho chúng ta, chúng ta hãy đón nhận lấy để chuộc lại một cách công bằng những lỗi lầm của chúng ta và để trả giá cho tự do của chúng ta.
    Angielic lắng nghe tiếng vó ngựa mỗi lúc một xa dần trong đêm. Hơi thở của gió và của biển. Bí ẩn của đêm đen, trong miền đất xa lạ và những mối hiểm nguy.
    Những người thức để canh trong đêm hôm đó, rình nghe những động tĩnh nhỏ nhất, đều lấy làm lạ về vẻ yên ắng trong vùng này. Tay đặt trên nòng súng, mắt mở to nhìn vào bóng đêm, những người Tin lành thay phiên nhau đứng canh và những cái bóng cứng đơ của họ đổ dài bên cạnh những bóng người lởm chởm lông thú của những người khách trọ ngồi trước các đống lửa. Những người săn bắn với lối nói hoa mỹ và ngộ nghĩnh tập cho họ làm quen với thế giới chưa được văn minh quanh họ. Người dân La Rôsen bắt đầu quên đi quá khứ của mình.
    Tận sáng hôm sau không có một tiếng báo động nào và người ta cảm thấy một nỗi thất vọng mơ hồ.
    Angielic hỏi nàng có thể dùng một con ngựa để đi sang Gunxbôrô được không?
    Hôm nay, trông nàng có vẻ là người ỉu xìu nhất trong tất cả mọi người. Chồng nàng vẫn chưa cắt đặt cho nàng một vị trí nào bên cạnh chàng. Hôm qua đến đây chàng cũng không thèm tìm gặp nàng, cũng chẳng hỏi han gì về nàng. Chàng vờ đối xử với nàng khi thì thân mật giúp đỡ, khi thì để nàng tự xoay xở lấy.
    Thế nhưng đấy là một thái độ cần thiết, chừng nào mà những người quanh chàng chưa biết rõ mối quan hệ gắn bó giữa hai người. Nhưng Angielic bắt đầu sốt ruột. Đối với nàng, xa cách Giôphrây đờ Perắc là quá sức chịu đựng.
    Nàng cần phải nhìn thấy chàng, nghe tiếng chàng.
    Cơrâulê dặn nàng là phải đề phòng bọn người Anhđiêng Cayuga! Nàng nhún vai. Những người Anhđiêng Cayuga! Trong lúc buồn rầu, nàng gần như đổ lỗi cho Giôphrây là chỉ kiếm cớ để bỏ rơi nàng.
    - Ông chủ cấm không một ai được rời bỏ khu trại Sămpơlanh – người Ecôxơ còn nói thêm.
    Angielic bất cần, tỏ vẻ giận dỗi.
    - Phải đi sang Gunxbôrô thôi, - Nàng nói.
    Khi nàng lên ngựa rồi, Ônôrin gào thét quá nên nàng đành phải cho nó cùng đi.
    -Ôi! Ônôrin! Ônôrin, con gái yêu quí tội nghiệp của mẹ, sao con không chịu ngồi yên lấy một ngày nào?
    Tuy vậy, nàng vẫn chèn con bé thật chắc vào người nàng rồi ra đi. Cảnh này làm nàng nhớ lại những cuộc phi ngựa ngày xưa với Ônôrin trong rừng Niơn.
    Nàng đi theo con đường đầy cỏ khô êm ái, vó ngựa phóng nước đại cũng không nghe tiếng. Mùa hè đang kết thúc để lại mùi hương thoang thoảng của hạt phỉ và quả bánh mì. Thứ mùi quen thuộc và ngon lành. Chắc hẳn có những chùm nho dưới tán lá.
    Thêm vào vẻ đẹp của những cánh rừng sồi và rừng dẻ còn có vẻ đẹp xa lạ của những cây phong màu sáng dưới lớp vỏ lụa rách tươm, những cây thích chảy nhựa thơm lừng.
    Angielic thích thú nhận ra bầu không khí vô cùng khoái trá đối với nàng. Nhưng vẻ bí ẩn của khu rừng này có cái khác với rừng Niơn và từ sự trinh nguyên của nó không ngừng tỏa ra một cái gì say đắm. Niơn nặng nề quá khứ đạo. Ở đây kỷ niệm về những người da trắng duy nhất đã đến trong quá khứ, những người Viking, dừng lại bên bãi biển với những tòa tháp kỳ lạ do chính bàn tay của họ xây dựng lên bằng những tảng đá thật to.
    Khu rừng thậm chí cũng chẳng thèm biết đến dấu chân của kẻ đã chinh phục mà chỉ biết dấu chân của những loài vật nhiều vô kể và bàn chân lướt qua của người Anhđiêng, hiếm hoi và câm lặng.
    Angielic không biết là con ngựa của nàng đã đi vào một lối mòn khác dẫn tới một đỉnh đồi. Nàng lấy làm ngạc nhiên vì một luồng gió bất thần. Một cánh đồng ngô trải ra trước mặt nàng. Trên một cái sàn gỗ có vòm cây che, một người Anhđiêng ngồi xổm như một pho tượng bất động, tay cầm cây sào dài để đuổi lũ chim trời phá hoại.
    Ở phía tay phải có thể trông thấy hàng dậu của ngôi làng Anhđiêng, khói đang bay tỏa lên từ những căn lều. Xa hơn nữa, xen vào một cánh đồng lúa mì là một cánh đồng trồng bí, một cánh đồng trồng loại cây gì mà nàng không biết nhưng lá to, bóng lộn, nàng nghĩ có thể là cây thuốc lá. Mỗi nơi một ít, những cây hướng dương đang tưng bừng nở hoa. Những rừng già đã nhanh chóng khép lại trên bức tranh thôn dã đó.
    Ngạc nhiên, nữ kỵ sĩ không nghĩ đến việc hỏi đường. Ngựa nàng vẫn tiếp tục đi lên như đã quen đi trong cuộc dạo chơi thường lệ. Lên đến đỉnh đồi, nó tự ý dừng lại, Angielic nhìn một cách sợ sệt nhưng thèm thuồng vùng đất trải dài dưới chân nàng. Khắp nơi, giữa những mỏm đá và cây cối, ngời lên vô số những ao và hồ nước, một bức tranh trang trí ghép mảnh trắng và xanh lơ được dát bằng những vách đá, từ đó ào ào đổ xuống những ngọn thác trắng xóa.
    Nàng không dám thở, cố nhìn bằng thích những cảnh quan hùng vĩ và thanh bình rồi đây phải biến thành của mình. Ônôrin cựa quậy và đưa cánh tay nhỏ bé của nó ra.
    - Ở kia – nó nói.
    Một bầy chim trời từ phía dưới bốc lên và bay qua gần chỗ nàng với những tiếng kêu ríu rít khàn khàn.
    Nhưng Ônôrin vẫn cứ giơ tay ra. Không phải nó muốn chỉ đàn chim mà chỉ cái gì đã làm cho đàn chim phải bay vù lên.
    Ánh mắt Angielic lần từ trên vách đá xuống, phát hiện ra một dãy dài những người Anhđiêng nối đuôi nhau đang đi tới, men theo một con suối. Khoảng cách còn xa và bị cành che lấp, nàng không thể phân biệt rõ những người đó nhưng nàng có thể nhận thấy là họ khá đông và không phải là những người nông dân đi ra đồng. Không có dụng cụ canh tác nào trên vai mà chỉ có nỏ và những bao đựng tên.
    - Những người đi săn chăng?
    Nàng cố trấn tĩnh nhưng lập tức nàng nghĩ ngay đến bọn Cayuga. Nàng lùi lại một chút, ẩn vào trong bóng cây để khỏi bị phát hiện.
    Những người Anhđiêng đi dọc ven suối với tài nhanh nhẹn khôn ngoan. Những chùm lông đỏ và xanh trên mũ chúng đan vào nhau như một con rắn rõ dài đầy khoang sọc giữa lá rừng. Quả thật chúng rất đông…quá đông! Đội hình hành quân của chúng lao thẳng ra hướng biển. Nàng nhìn ra xa, trông thấy hiện lên trong sương mù bóng tòa pháo đài Gunxbôrô trên vịnh mà dưới ánh nắng, bề mặt sáng ngời lẫn với nền trời trắng bạc.
    “ Nếu bọn Anhđiêng đến tận đấy thì chúng ta sẽ bị cắt đứt liên lạc với pháo đài và không thể ứng cứu cho nhau. May mà Giôphrây đã phân phát hết vũ khí…”
    Chính lúc này nàng đang nghĩ đến chàng thì nàng trông thấy một người Âu cưỡi ngựa từ hướng pháo đài đi tới đang phi nước đại trên đường. Tiềm thức của nàng báo cho nàng biết trước khi người đó đến gần, rằng đó là chàng. Chiếc áo choàng màu đen tung bay, chòm lông chim trên mũ phớt rộng vành…đấy là bá tước đờ Perắc. Một mình.
    Nàng cố nén một tiếng kêu. Từ trên đồi cao nàng trông thấy bọn người Anhđiêng đã đến sát con đường ven biển và tập hợp thành từng nhóm. Chỉ trong vòng một vài phút chàng kỵ sĩ chạy thả cương sẽ nhào xuống chỗ bọn chúng. Không có cách gì để báo cho chàng biết.
    Nàng cố hết sức kêu to lên. Nhưng tiếng kêu của nàng không tới và hút vào không gian vô tận. Tuy vậy, đột nhiên phải chăng tiềm thức trong con người bao lần gặp gỡ cái chết trên đường đã báo cho chàng biết, hay một tên Anhđiêng đã bắn mũi tên đầu tiên của hắn ra quá sớm, hay một tên khác đã kêu lên một tiếng kêu xung trận – nàng thấy chàng ghìm ngựa lại mạnh đến nỗi con ngựa chồm lên quay lui và phóng thẳng tới một mô đất nhỏ đầy những mỏm đá cao hơn các bụi cây. Từ đó chàng đưa mắt nhìn quanh khắp đường chân trời để xem xét tình hình. Con ngựa của chàng lại lồng lên một cách vô cớ, rồi quỵ xuống. Angielic hiểu rằng ngựa của chàng đã trúng tên. Đúng là bọn Cayuga đáng sợ kia rồi. May mà Giôphrây đờ Perắc đã kịp rút chân khỏi bàn đạp và nhảy ra để nấp vào sau các mỏm đá vây quanh các ụ đất. Một đám mây nhỏ bay lên rồi một tiếng súng nổ vang tận nơi người thiếu phụ đang đứng. Chàng bắn và chắc chắn mỗi phát chàng có thể hạ một tên. Nhưng chàng làm gì có nhiều đạn để có thể chống chọi lâu hơn nữa với quân thù đã bắt đầu bao vây chàng. Lại một cụm mây nhỏ nữa bay lên.
    Lập tức Ônôrin giơ ngón tay nhỏ bé ra.
    - Kia kìa
    - Đúng, kia kìa – Angielic nhắc lại với vẻ chán nản vì sự bất lực của mình.
    Tiếng súng nổ vọng đến tai nàng nghe bé nhỏ như tiếng người đập hạt dẻ.
    - Từ Gunxbôrô không ai có thể nghe rõ vì quá xa.
    Nàng muốn phóng tới nơi đang đánh nhau nhưng cành cây cản nàng lại, vả lại nàng chẳng có vũ khí trong tay. Nàng quay lại và đi theo con đường đã từ đó đến đây, lao xuống đồi bằng cách cho ngựa phi nước đại. Ngựa nàng bay. Đi qua vùng trồng trọt của người Anhđiêng, nàng kêu to lên với người canh ruộng ngô đang ngồi bất động dưới vòm lá.
    - Bọn Cayuga! Bọn Cayuga!
    Nàng xông thẳng vào khu trại Sămpơlanh.
    - Bọn Cayuga tiến công chồng tôi trên con đường Gunxbôrô. Ông ấy nấp sau các mỏm đá nhưng chẳng bao lâu nữa sẽ hết đạn. Đến nhanh!
    - Ai bị tấn công? Manigô hỏi, không tin chắc ở những gì mình vừa nghe nói.
    - Chồng…bá tước đờ Perắc.
    - Ông ấy ở đâu? Cơrâulê vừa hỏi vừa chạy tới.
    - Cách đây khoảng gần một dặm.
    - Nàng trao Ônôrin vào cánh tay giơ ra đầu tiên.
    - Đưa cho tôi một khẩu súng ngắn, nhanh lên.
    - Trao súng ngắn cho một quí bà! Người Ecôxơ kêu lên vẻ bực dọc.
    Ông ta giật lấy khẩu súng nàng cầm trên tay kiểm tra, điều chỉnh, nạp đạn một cách nhanh nhẹn.
    - Thuốc súng! Đạn! Nhanh lên!
    Đến lượt mình, không cần bàn cãi gì thêm, ông ta cầm lấy khẩu súng trường và nhảy lên mình ngựa. Angielic phóng ngựa theo ông ta ra bờ biển.
    Lát sau họ nghe tiếng súng nổ và cả tiếng hò reo của người Irôcơ. Người đàn ông nhỏ bé quay lại và vừa nói to với nàng vừa nhăn mặt một cách vui vẻ.
    - Ông ấy vẫn còn bắn. Chúng ta đến kịp!
    Đến một khúc quanh, một nhóm người Anhđiêng ra chặn đường. Những người này cũng bất ngờ nên chưa kịp chuẩn bị cung tên, Cơrâulê phóng qua. Angielic theo sau, tả xung hữu đột, cho chúng xới một mẻ những báng súng ngắn vào đầu.
    - Hãy dừng lại – Ông ta ra lệnh – Tôi trông thấy những tên khác đang chạy tới, hãy lẩn vào trong lùm cây.
    Hai người chỉ còn đủ thì giờ đế nấp vào sau thân cây. Mũi tên bắn viu viu vào quanh người họ, cắm phập vào gỗ cứng. Angielic và Cơrâulê thay phiên nhau bắn. Cuối cùng bọn Anhđiêng phải trèo lên cây để kiểm soát con đường và chắc mẩm là sẽ không phải bỏ mạng ở đây. Nhưng Cơrâulê đuổi theo chúng lên tận ngọn cây và bắn, những xác người từ trên cao nặng nề rơi xuống. Angielic còn muốn tiến thêm nữa. Cơrâulê khuyên nàng không nên. Họ chỉ có hai người.
    Bỗng họ nghe thấy tiếng vó ngựa tới từ khu trại Sămpơlanh. Sáu kỵ sĩ xuất hiện với vũ khí trên tay. Trong đó có Manigô, Bécnơ, Lơ Gan, mục sư Bôke và hai người đi săn.
    - Các ông hãy đi vòng qua lối khác – Cơrâulê kêu lên – Và chạy ngay đi cứu ông đờ Perắc. Tôi gác đoạn đường này đề phòng chúng đánh úp các ông từ phía sau.
    Toán kỵ sĩ rùng rùng đi qua, Angielic lại lên ngựa đi cùng với họ. Đi xa hơn một chút họ lại một lần nữa bị bọn người Anhđiêng chặn lại, nhưng chúng đã phải tản đi trước khí thế xông lên đầy phẫn nộ của những người da trắng. Những đứa tiến lên, lăm lăm chiếc rìu chiến đều bị những khẩu súng ngắn bắn thủng mặt.
    Toán kỵ sĩ tiến thêm. Angielic thấy nhẹ cả người khi nhận ra họ đã đến nơi chồng nàng đang tiếp tục chống cự. Đến lượt họ cũng phải xuống ngựa và tìm chỗ ẩn nấp. Nhưng sự xuất đầu lộ diện của họ làm cho bọn tấn công khó xử. Bị kẹt giữa hỏa lực của bá tước đờ Perắc tử trên núi, của những người Tin lành, những người thợ săn và của Cơrâulê, mặc dù đông hơn, chúng bắt đầu núng thế.
    - Tôi mở đường cho anh – Manigô nói với Lơ Gan – Anh phi thẳng về Gunxbôrô báo động và lấy thêm quân cứu viện.
    Người thủy thủ nhảy lên mình ngựa và lợi dụng lúc con đường được mở bằng những phát súng bắn liên tục, ông ta cho ngựa lao vút đi. Một mũi tên vút qua tai, làm bay mất chiếc mũ của ông ta.
    - Đi lọt rồi – Manigô nói – Chúng chẳng đuổi kịp ông ta đâu. Bây giờ chúng ta chỉ cần kiên tâm chờ ông đờ Uyêcvin và người của ông ta kịp tới.
    Bọn Cayuga bắt đầu hiểu ra cái gì đang đe dọa chúng. Được vũ trang hoàn toàn bằng mũi tên và rìu chiến, chúng không thể nào đương đầu nổi với hỏa lực của tất cả những người da trắng cùng hợp sức chống lại. Cuộc phục kích của chúng không thành công. Chúng buộc phải vừa đánh vừa lùi.
    Chúng bò trườn vào rừng để tập hợp lại cạnh con suối. Từ đó chúng sẽ trở lại bờ sông nơi những chiếc xuồng của chúng đang chờ đợi. Quân tăng viện từ Gunxbôrô đến làm cho cuộc rút lui của chúng hoảng loạn. Bây giờ thì chúng vấp phải những người bản xứ trong cái làng mà Angielic đã báo động và họ cho chúng xơi một trận tên bắn như mưa. Những tên sống sót phải bỏ kế hoạch đi đến chỗ con sông và không còn cách nào khác là chạy tán loạn vào rừng. Người ta cũng chẳng thèm quan tâm tìm hiểu xem số phận chúng sẽ ra sao.
    Angielic nhảy bổ tới cồn đất cao, không để ý bước qua những xác người đỏ như đồng hun lại bị bắn hạ như những con chim to lớn với bộ lông sặc sỡ. Chồng nàng không xuất hiện. Nàng trông thấy chàng đang cúi xuống con ngựa bị thương. Chàng vừa cho nó một phát súng để kết liễu cuộc đời nó.
    - Anh còn sống! – Nàng nói – Ôi! Em sợ đến chết khiếp đi được. Anh phi ngựa đến gặp chúng. Bỗng anh sững lại. Vì sao vậy?
    - Tôi nhận ra cái mùi của chúng. Chúng xoa người bằng một thứ mỡ mà gió đưa mùi hôi đến tận chỗ tôi. Tôi đi lên điểm cao kia để nhìn xem con đường rút lui của mình có bị cắt không. Chính lúc đó chúng bắn chết con ngựa của tôi. Con Sôliman tội nghiệp! Nhưng, đồ dại dột, làm sao em lại mò đến tận nơi này và làm sao mà em biết được cuộc giao tranh này?
    - Lúc đó em đang ở trên ngọn đồi kia. Em thấy anh đang lâm vào cảnh khó khăn và em đã chạy được về pháo đài Sămpơlanh để xin cấp cứu. Họ đã đến.
    - Em làm gì trên ngọn đồi kia? – Chàng hỏi.
    - Em định sang Gunxbôrô nhưng bị lầm đường.
    Giôphrây đờ Perắc khoanh tay trước ngực.
    - Phải đến bao giờ - Chàng nói với giọng cố nén – Em mới chịu tuân theo mệnh lệnh và kỷ luật của tôi đề ra? Tôi đã cấm ngặt không một ai được ra khỏi các khu trại. Đây là lần dại dột cuối cùng.
    - Bản thân anh cũng hành động như thế đấy thôi.?
    - Đúng thế. Suýt nữa thì tôi đã phải trả giá quá đắt. Thế là tôi đã mất toi con ngựa. Vì lý do gì mà em đi ra khỏi khu trại?
    Nàng thú thật, không hề úp mở.
    - Không trông thấy anh, em không chịu nổi. Em đến trước để gặp anh.
    Giôphrây đờ Perắc hết căng thẳng. Chàng khẽ mỉm cười.
    - Tôi cũng vậy, chàng nói.
    Chàng nâng cằm nàng lên và ghé sát bộ mặt đen ngòm khói súng của chàng vào mặt Angielic cũng nhem nhuốc như thế.
    - Cả hai chúng ta cùng hơi điên điên – Chàng lẩm bẩm một cách ngọt ngào – Em có thấy như thế không em?
    - Ngài có bị thương không, ngài Perắc? – Đờ Uyêcvin hỏi.
    Bá tước trèo qua những mỏm đá và đi xuống chỗ mọi người đang tụ tập phía dưới.
    - Xin cám ơn các ông về cuộc can thiệp, - Chàng nói với những người Tin lành- Cuộc đột nhập của bọn cướp này sẽ không bị đập tan bằng một cuộc đụng độ sơ sơ nếu như tôi không dại dột phiêu lưu ra khỏi khu trại mà không đem theo người hộ tống. Mong rằng việc này sẽ là bài học cho tất cả mọi người chúng ta. Những cuộc đột nhập như thế của các bộ lạc hiềm khích không phải là mối nguy hiểm nghiêm trọng. Nếu như được báo kịp thời thì chúng ta có thể tập trung lại và tổ chức phòng chống. Mong rằng trong số các ông không có ai bị thương đấy chứ.?
    - Không, nhưng mà sát sạt – Lơ Gan vừa trả lời vừa ngắm nghía chiếc mũ chụp ông ta đã nhặt lên được.
    Manigô không biết mình nên có thái độ như thế nào. Các sự kiện xảy ra quá nhanh đối với ông ta.
    - Ông đừng có cảm ơn tôi – Ông ta vui vẻ nói – tất cả những gì chúng ta làm đều là phi logic.
    - Ông tin như vậy ư? –Perắc vừa trả lời vừa nhìn thẳng vào mắt ông ta – Trái lại tôi thấy mọi cái vừa diễn ra đều nằm trong logic của miền Đâu Ixt. Hôm kia các ông mong tôi chết. Hôm qua tôi muốn treo cổ các ông lên. Nhưng đến buổi chiều tôi lại trang bị vũ khí cho các ông để các ông cứu sống tôi. Còn gì logic hơn thế nữa?
    Chàng thò tay vào cái túi bằng da và giơ ra hai viên tròn lấp lánh.
    - Các ông xem – chàng nói – Tôi chỉ còn vẻn vẹn có hai viên đạn này thôi.
    Buổi chiều cả khu trại Sămpơlanh được triệu tập đến họp để chào mừng Đại tù trưởng Maxaoa ở Gunxbôrô. Những người vũ trang đi bên sườn đội hình, hộ tống các bà và lũ trẻ con. Đi qua chỗ sáng nay đã diễn ra cuộc chiến đấu ngắn ngủi chống lại bọn Cayuga, họ dừng lại.
    Máu người khô lại đã đen ngòm. Từng bầy chim bay lượn trên những xác chết không người thừa nhận.
    Cảnh chết chóc trái ngược hẳn với cuộc sống rung động cây cối được làn gió nhẹ vuốt ve và tiếng hát biển khơi kề bên cạnh.
    Họ đứng lặng yên một lúc lâu.
    - Cuộc sống của chúng ta sẽ là như vậy đấy – Bécnơ nói, trả lời cho chính những ý nghĩ của ông ta.
    Họ không buồn, cũng không hề khiếp sợ. Cuộc sống của họ là như thế đấy.
    Bá tước đờ Perắc chờ họ trước pháo đài. Ông ra đón họ và giống như hôm đổ bộ từ trên tàu xuống, ông gom họ lại trên bãi biển. Ông băn khoăn. Sau khi chào các bà thật lịch sự, ông có vẻ suy tư, mắt nhìn về phía vịnh.
    - Thưa các ông! Sự cố xảy ra sáng nay làm tôi nghĩ nhiều về số phận của các ông. Những nguy hiểm quanh các ông hình như to lớn đấy. Tôi sẽ đưa các ông lên tàu và chở các ông đến hải đảo châu Mỹ.
    Manigô giật nảy mình như bị ong bò vẽ đốt.
    - Không đời nào – ông ta gầm lên.
    - Cám ơn ông – Bá tước vừa nói vừa cúi đầu – ông vừa cho tôi câu trả lời mà tôi đã chờ đợi ở các ông. Và tôi lấy làm cám ơn những người Cayuga dũng cảm mà cuộc đột nhập của họ vào đất đai của các ông đã bỗng nhiên làm các ông có ý thức về tầm quan trọng các ông đã gắn bó với nó. Các ông ở lại.
    Manigô hiểu là một lần nữa ông ta lại rơi vào bẫy và ngập ngừng muốn nổi giận.
    - À vâng! Chúng tôi ở lại – Ông ta lầu bầu – Ngài tưởng là chúng tôi sẽ phục tùng tất cả mọi mánh khóe tráo trở của ngài hay sao. Chúng tôi ở lại và ở đây chẳng thiếu công việc để làm.
    Bà vợ trẻ của người thợ làm bánh bèn lên tiếng.
    - Tôi nghĩ đến một điều, thưa đức ông. Chỉ cần người ta đem cho tôi thứ bột thật mịn và giúp tôi xây một cái lò sấy dưới đất hoặc bằng sỏi cũng được, tôi có thể làm ra bánh bao nhiêu cũng được. Trước đây tôi đã giúp nhà tôi trong việc buôn bán này. Cả mấy đứa trẻ nhà tôi chúng nó cũng biết làm bánh xốp và bánh sữa.
    - Còn tôi – Bécti kêu lên – Tôi có thể giúp cha tôi làm giấy. Cha tôi đã dạy cho tôi những bí mật của nghề làm giấy vì tôi là con gái thừa kế duy nhất của ông.
    - Giấy! Giấy! Manigô kêu lên như muốn khóc – Con điên hay sao, con gái đáng thương của ta. Trên sa mạc hoang dại này người ta có cần đến giấy không?
    - Ông lầm rồi - Bá tước nói – Sau con ngựa, giấy là sự chinh phục đẹp đẽ nhất của con người vì con người không thể sống mà không có giấy. Con người biết rằng giấy là một phương tiện bộc lộ ý nghĩ của mình lâu bền hơn lời nói. Tờ giấy láng là vật phản chiếu mà người ta thích ngắm mình trong đó, như người đàn bà ngắm mình trong chiếc gương soi…À này, tôi quên, thưa quí bà, tôi đã dành cho quí bà những đồ dùng cần thiết mà thiếu chúng các quí bà không thể duy trì một cuộc sống mới…Manuêlô! Giôvani!..
    Những người thủy thủ được gọi tên tiến đến khiêng một chiếc hòm mà họ vừa cẩn thận đem từ dưới xuồng lên. Trong chiếc hòm, giữa lớp cỏ khô bảo vệ có những chiếc gương đủ mọi hình thù và kích cỡ khác nhau.
    Giôphrây đờ Perắc cầm lấy, tặng các bà và các cô, chào họ suốt một lượt, hết người này đến người khác như buổi chiều đầu tiên họ lên tàu Gunxbôrô.
    - Cuộc hành trình đã kết thúc, thưa quí bà. Cuộc hành trình đó có khi nào bị xáo động và có lúc đau lòng, tuy vậy tôi vẫn cứ muốn các quí bà, quí cô giữ lấy làm kỷ niệm cái vật không đáng giá này. Nhờ có nó quí bà, quí cô có thể ngắm nghía vẻ đẹp của mình. Chiếc gương con này sẽ trở thành người bạn trung thành của quí bà, quí cô vì tôi quên không nói rõ một trong những đặc điểm của xứ này. Xứ sở này làm cho con người đẹp lên. Tôi cũng không biết hiện tượng đó do sương mù mát mẻ, do thứ hơi thần diệu và pha trộn bốc lên từ biển và từ rừng, nhưng những sinh linh cư trú ở đây đều nổi tiếng về hoàn mỹ của thân thể và diện mạo. Quí bà, quí cô hãy nhìn xem! Hãy ngắm xem!
    - Tôi chẳng dám đâu- Bà Manigô vừa nói vừa sờ lên mũ và cố sửa sang lại mái tóc của mình – Hình như đầu tóc tôi làm người ta phát khiếp.
    - Không đâu mẹ ạ. Mẹ rất đẹp, thật đấy – các cô con gái bà đồng thanh reo lên, xúc động vì sự ngượng ngùng của mẹ.
    - Chúng ta ở lại thôi – Bécti vừa van vỉ, vừa nghịch với chiếc gương có cán bằng bạc trong đó cô ta vừa trông thấy bóng mình.



  8. #16
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default




    Chương 37



    Đại tù trưởng Maxaoa xuất hiện trên mình con ngựa bạch trong cuộc đón tiếp thật đặc biệt với ánh sáng chiếu rọi từ những chiếc gương mà những người đàn bà mặt trằng nhợt và ăn mặc kỳ dị cầm lăm lăm trên tay.
    Ông ta hết sức hai lòng. Ông ta cho ngựa đi bước một xuống con đường mòn, các vệ sĩ vây quanh và những người Anhđiêng từ khắp nơi chạy tới. Trông cứ như ông ta đi giữa một bó lông chim vậy. Tiếng trống nhịp theo bước chân cuộc diễu hành và những bước nhảy mềm mại của những nghệ sĩ múa phía trước.
    Hết dốc, ông ta cũng xuống ngựa và tiến đến nhóm người ra đón với một vẻ thong thả long trọng và có tính toán. Đấy là một ông già vóc người cao lớn, mặt màu đồng đỏ rạch ngang rạch dọc với hàng nghìn vết nhăn. Đầu cạo trọc bôi màu xanh lơ, trên chỏm đội một chùm lông chim sặc sỡ nhiều màu, hai cái đuôi dài và rậm buông thõng xuống, có lông vằn màu xám và đen hình như của một giống mèo rừng xứ này.
    Mình trần, tay đeo đầy các thứ vòng, chân xăm hình rất công phu tỉ mỉ - như mặc một tấm lưới mỏng màu xanh, áo khoác chéo từ vai xuống háng, nhiều vòng ngọc trai thô, những viền thủy tinh đủ mọi màu sắc. Ông ta còn đeo các thứ đó ở cánh tay và mắt cá chân cùng với các thứ lông chim. Chiếc khố và chiếc áo choàng rộng của ông ta đều may bằng thứ vải sợi cây làm láng và giản dị nhưng thêu rất đẹp những hình đen trên nền trắng. Trên hai tai ông ta đeo những chiếc vòng kì dị làm bằng bong bóng da thổi phồng lên và nhuộm màu đỏ chót.
    Bá tước đờ Perắc đến đón ông ta và họ chào nhau bằng những động tác của cánh tay và bàn tay. Sau vài phút trò chuyện vị tù trưởng tiếp tục đi đến chỗ những người Tin lành, nhưng lần này ông ta đỡ trên hai tay một chiếc gậy dài được trang trí bằng hai cánh trắng của chim mòng biển và cuối cây gậy có một cái hộp nhỏ bằng vàng mà từ đó bay lên một luồng khói nhẹ.
    Ông ta dừng lại trước mục sư Bôke mà Perắc đã chỉ cho ông ta.
    - Thưa mục sư – Ông này nói – Đại tù trưởng Maxaoa xin tặng cái mà người Anhđiêng gọi là ống điều hòa bình. Đây chỉ là một chiếc ống điếu dài đã được nhét thuốc lá. Cha phải hút vài hơi với ông ta vì cùng hút chung một ống điếu là dấu hiệu của tình thân hữu
    - Nhưng tôi có hút thuốc bao giờ đâu ạ - Ông già nói một cách e sợ.
    - Nhưng cha cứ cố thử xem. Từ chối sẽ bị coi như tuyên bố thù địch.
    Mục sư đưa chiếc ống điếu lên môi và cố hết séc giấu vẻ buồn nôn. Còn Đại tù trưởng thì đến lượt mình, sau khi nhả những hơi thuốc dài, trao chiếc ống điếu cho một chàng trai mới lớn, người cao, mắt đen đi theo hầu ông ta và ông ta ngồi xuống cạnh bá tước trên những tấm thảm chồng lên nhau dưới một bóng cây sồi cổ thụ có những rễ cây cực to vươn dài như những cái vòi bạch tuộc ra đến tận biển hay gần như thế.
    Theo chỉ dẫn của Nicôla Perôt, đến lượt mục sư và Manigô phải ngồi bên trái vị tù trưởng.
    Ông này vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên. Hình như ông ta không quan tâm đặc biệt đến một cái gì hết. Nhưng làn da nhẵn nhụi và nhăn nhoe của ông ta thì run rẩy một cách thầm lặng.
    Ông ta là một hình ảnh hầu như hóa đá nhưng cũng là hình ảnh một kẻ đang rình mò. Một tay ông ta hững hờ thò vào trong chiếc hộp đựng những viên ngọc trai và những viên đá óng ánh mà bá tước đờ Perắc tặng ông ta, trong khi tay kia vuốt ve một chiếc rìu có cái cán đơn giản bằng gỗ anh đào dại, nhưng lưỡi rìu lại làm bằng ngọc thạch anh Mécxicờ và một viên ngọc lục bảo to đùng gắn ở cuối cán rìu. Đây không phải là một vũ khí đánh giặc mà là một đồ trang sức tượng trưng.
    Từng lúc một, sự co giật rất nhanh làm cho đôi con mắt xếch của ông ta càng xếch ngược hơn khi nó liếc nhìn người nhân viên chạy vặt da trắng, còn đối với những người khác, cái nhìn sắc như dao cạo lướt qua làm cho người ít nhạy cảm như luật sư Care và người dày dặn như ông Bécnơ cũng phải rùng mình.
    Angielic cũng cảm thấy choáng và nàng cứ ngượng nghịu mãi ngay cả khi vị tù trưởng ngoảnh mặt đi ra vẻ hờ hững và ngụy trang bằng một vẻ buồn rầu có tính chất hạ cố.
    Hai người Anhđiêng mình đầy đồ trang sức đứng phía sau ông ta.
    Nicôla Perôt giới thiệu họ khi anh ta đi ngang qua để thông dịch lời của tù trưởng nói với những người Tin lành. Anh ta giải thích thêm.
    -Đại tù trưởng Maxaoa đến đây bằng đường bộ từ vùng ven Niu Amxtecdam, tức là Niu Oóc. Ngài Maxaoa không bao giờ muốn đặt chân lên một con tàu mặc dù ngài đã sẵn sàng đi du ngoạn hàng tháng trên con thuyền độc mộc. Đây là giới hạn cuối cùng thuộc quyền sở hữu của ngài nên ít khi ngài tới, nhưng cuộc gặp gỡ với bá tước đờ Perắc khi ông ta từ châu Âu trở về đã được dự kiến từ lâu…Các ông tham dự là tốt, nếu như các ông phải ở lại đây…Hai người khác mà các ông thấy kia là tù trưởng địa phương, tù trưởng Kaku và Mulopva chỉ huy người Abênaki làm nghề chài lưới và săn bắn trên vùng bờ biển và người Môhican, làm ruộng và làm lính ở phía sau.
    Đại tù trưởng bắt đầu nói, sau khi ngửa mặt chào canh xanh và vùng mặt trời. Tiếng nói của ông ta dùng là một chuỗi dài đơn điệu có lúc nghe như ngầm đe dọa.
    -…Không phải thông lệ mà một tù trưởng lớn như ta đây, Maxaoa lại đến thăm. Ta có đất đai trải rộng từ phương nam xa xăm, trồng cây thuốc lá và nơi ta buộc lòng phải chiến đấu chống lại lũ người Tây Ban Nha xảo quyệt đã hứa giúp đỡ chúng ta như những người khai hóa nhưng rồi lại muốn biến chúng ta thành nô lệ và kẻ bị xua đuổi, đất đai của ta còn kéo dài đến tận thượng bắc nơi chỉ có sương mù dựng lên làm biên giới di động của triều đại ta. Ta muốn nói về xứ sở này, nơi mà người chư hầu của ta, Abênaki – Kaku, một người đánh cá và săn hải cẩu cỡ lớn, hiện có mặt ở đây, cũng như vị chư hầu khác của ta, không kém dũng cảm, là một chiến sĩ gan dạ và là người săn hươu, nai và gấu, tù trưởng của người Môhican…Không phải ta đây, Đại tù trưởng của những tù trưởng hùng mạnh và đáng sợ, phải đến trước một người Mặt Nhợt mặc dù người đó rất nổi tiếng để bàn cãi về hòa bình hay chiến tranh giữa chúng ta…
    Những cuộc độc thoại này bị cắt từng quãng vì lúc đó hình như vị tù trưởng ngủ thiếp đi thì phải, trong khi anh chàng người Canada dịch lời ông ta.
    …Nhưng ta không quên rằng ta đã chia sẻ quyền lực của ta với vị lãnh chúa đến đây từ phía bên kia biển khơi, bởi lẽ ông ta không bao giờ dùng vũ khí chống lại những người anh em da đỏ của ta… Ta đã trao quyền cho ông ta để làm cho đất đai của ta trở lên phồn thịnh theo nghệ thuật của những người Mặt Nhợt trong khi ta giữ quyền cai trị anh em của ta theo truyền thống…Như thế là hy vọng đã nảy sinh từ trong con tim mỏi mệt vì bao trận chiến đấu và bao nỗi thất vọng của ta…Vậy, ta sẽ nhân danh ông ta mà mừng đón các bạn, vì ông chưa lừa dối ta bao giờ.
    Cuộc thương nghị còn kéo dài, Angielic nhận thấy chồng nàng hết sức quan tâm đến việc này và cố không để lộ ra một dấu hiệu sốt ruột nào. Nàng tin là ngài Đại tù trưởng lo lắng về cách cư xử của những người mới đến với dân bản xứ trên vùng ven biển khi chính bản thân ông hay đồng minh của ông vắng mặt.
    - Mong rằng họ đừng quên những lời ông đã hứa với ta và để cho cái đói lôi cuốn mà nghiền nát và đè bẹp tất cả những con người chung quanh họ, cái đói không bao giờ thỏa mãn trong con tim của những người Mặt Nhợt..Khi ông sẽ ở xa…
    “Ông ta muốn nói đến sự vắng mặt nào đây?” Angielic tự hỏi.
    Cái nhìn cháy bỏng của Đại tù trưởng có lúc rọi vào nàng và tuy vậy, không một nhà quan sát chú tâm nào có thể nói rằng ông ta để mắt tới nàng.
    “Ta nhất thiết phải thấy ông ta có thiện cảm, nếu không, tất cả chúng ta sẽ tiêu vong – Nàng còn tự nhủ - Nếu ông ta cảm thấy sợ hoặc nghi ngờ, ta sẽ biến thành một kẻ thù”.
    Nhưng khi Nicôla Perôt dịch xong câu cuối nói về cái đói trong tim người Mặt Nhợt, nàng tìm ra con đường của giống người xa lạ này như chồng nàng đã làm trước nàng.
    “Chính ông ta sợ và ông ta đang tự hỏi mình. Một con người kiêu hùng đã phải đi bước trước, hai bàn tay đầy quà cáp đem tặng những con người mình bọc đầy sắt lửa đã đổ bộ xuống các bến bờ của ông ta …và người ta buộc ông ta phải căm thù và phải chiến đấu…”
    Cuối cùng người trai trẻ có đôi mắt đen láy nàng đã trông thấy khi mới tới, từ nãy đến giờ vẫn ngồi dưới chân Maxaoa, đã đứng dậy, trao chiếc rìu có lưỡi bằng thạch anh tù trưởng vừa trao cho, bổ một nhát đánh phập vào lớp cát đỏ.
    Đấy là dấu hiệu bắt đầu một buổi lễ khác. Tất cả mọ người đứng dậy và kéo nhau ra tận bờ biển. Maxaoa tự đổ nước lạnh lên đầu nhiều lần, rồi cầm lấy một cái chổi con bằng rơm ngô và một quả bầu đổ đầy nước biển, vừa vẩy rộng ra chung quanh ông ta và các bạn bè cũ và mới của ông ta vừa lặp đi lặp lại lời chào của người Anhđiêng:
    -“Na pon tou daman asurtati…”
    Sau đó mọi người ngồi trên bãi biển để dự tiệc vui.



    Chương 38



    Giôphrây đờ Perắc nghĩ tới vị tù trưởng già Maxaoa. Vào lúc ngày tàn, trong tâm trạng ông, bên cạnh những hài lòng to lớn, có cả nỗi lo lắng nghiêm trọng.
    Và vì rất băn khoăn về điều đó nên ông hiểu rõ Đại tù trưởng có ngàn vạn lí do để lao vào một cuộc chiến tranh ác liệt sẽ chẳng đem lại cái gì khác ngoài một giải pháp tuyệt vọng. Maxaoa sẽ không bao giờ hiểu nổi những người da trắng mà ông ta liên minh không phải là những người có tự do và bị các chính phủ ở xa không thừa nhận, họ bị dồn đến chỗ buộc phải có những hành động phản phúc đối với ông ta.
    May thay ở Đâu Ixt này là nơi tách biệt hầu như không ai biết đến, nhà quí tộc Pháp còn hành động được theo ý mình. Maxaoa biết rõ giá trị lời nói của ông. Không phải là không có dụng ý gì khi ông ta trao chiếc rìu chiến cho đứa con nuôi nhỏ người Tây Ban Nha của ông ta, một đứa bé mà cha mẹ đã bị một bộ lạc của ông ta tàn sát và ông ta đem về nuôi để dạy cho đứa bé “cuộc sống hạnh phúc”. Và giao cho cậu ta việc chôn chiếc rìu tượng trưng vào trong cát, ông ta một lần nữa khẳng định niềm hy vọng của mình.
    Ông ta ra về, đầy những quà tặng. Sau sự náo nhiệt của một ngày là sự yên lặng nặng nề. Con người biến mất, quanh vùng trở lại vẻ uy nghiêm của những cảnh quan nguyên thủy.
    Bá tước đờ Perắc một mình đi trên bãi sỏi. Ông nhẹ nhàng lao lên những tảng đá đó mà trời chiều đã nhuộm thành màu tím và chốc chốc dừng lại, đưa mắt nhìn vào vịnh và các mũi đất.
    Những hòn đảo đang ngủ say trong sương mù trông như vô số những đám mây trên bầu trời màu hoa cà. Trên núi, tòa pháo đài bằng gỗ tròn hòa nhập vào rừng cây. Trong vịnh, con thuyền bỏ neo mờ nhạt đi. Tiếng sóng vỗ bờ hình như khuếch đại lên thành những hòa âm vang rền. Biển cả, chúa tể đấy quyền lực của một vùng ven bờ mà từng mùa, nó nhào lặn theo sở thích thất thường của nó, khẳng định lại quyền của mình. Chẳng bao lâu nữa mùa đông sẽ đến với cảnh tượng những giông tố vừa trữ tình vừa điên loạn của vùng đất châu Mỹ: bão táp, đêm tối lạnh lẽo, những đàn sói đói. Giôphrây lúc đó sẽ ở xa và cũng phải đương đầu với một mùa đông như thế trong những khu rừng và những đầm nước phía sau.
    Tàu Gunxbôrô sẽ ở xa. Chàng sẽ trao quyền chỉ huy cho Ericxon và ngay từ những ngày cuối cùng của mùa thu, nó đã dong buồm đi sang châu Âu mang theo lông thú là mặt hàng duy nhất còn buôn bán được có thể xuất khẩu từ một miền đất chưa khai phá.
    Bá tước tự hỏi: Còn kho báu Inca được những người thợ lặn vớt lên từ chiếc tàu Galiong của Tây Ban Nha trong vùng biển Caribê thì sao? Ericxon có đủ khả năng để thương thuyết không? Hay là phải vùi nó xuống cát, tại bìa rừng, chờ đến một cuộc hành trình khác? Hay cho những người Tin lành được toàn quyền sử dụng để kiếm lợi bằng cách đổi từng thứ lấy hàng hóa của các tàu bè thỉnh thoảng vào đậu trong vịnh. Nhưng làm thế sẽ rất nguy hiểm. Đổi lấy chì thì có hơn là đổi lấy vàng không? Có thể có những bọn cướp chưa lộ mặt đến thả neo trong các vùng lân cận. Sẽ phải phát súng cho tất cả những người Tin lành và đờ Uyêcvin. Mấy người trong đoàn thủy thủ sẽ ở lại dưới quyền của nhà quý tộc xứ Noócmăngđi này, trong khi tàu Gunxbôrô đưa về thế giới cũ những người ở vùng Địa Trung Hải, những người Morơ và sẽ cố gắng tuyển ở đấy, tốt nhất là những người Bắc Âu và các người di dân khác. Chàng sẽ khuyên Ericxon trở lại quê cha đất tổ của ông ta – cũng chẳng biết là nước nào – nhưng chắc chắn là Bắc Âu và chọn lấy những người Tin lành thì hơn, để những người này dễ hòa nhập với những người trong cộng đồng mới.
    Còn những người Tây Ban Nha của Gioăng Phécnăngđê thì sao? Nếu như chúng cứ khăng khăng không chịu trở về với vùng cao nguyên cháy sém ở Caxti và chỉ có thể sống dưới bóng của những khu rừng già hung dữ của Tân thế giới thì rồi làm thế nào đây? Để chúng lại cho đờ Uyêcvin? Chúng sẽ không thừa đâu khi nổ súng và hơn thế nữa, nếu hơi men phản loạn của những người Anhđiêng lan ra trong đám người Abeekaki và Môhican. Nhưng chung sống hòa bình với Đông Gioăng
    Phécnăngđê, con người ốm yếu ấy và đám tay chân của ông ta, những kẻ cố chấp như dân Ả rập, ảm đạm như các vị phán quan của Tòa án Tôn giáo, gợi lên bao nhiêu là khó khăn trắc trở. Đờ Uyêcvin và tù trưởng Kaku cũng đã than phiền với chàng về điều ấy. Điều gì sẽ xảy ra nếu Đông Gioăng lại dính vào việc đối đầu với mục sư Bôke, một người dị giáo!...
    Chàng quyết định mang họ đi theo mình, họ là những chiến binh dày dạn, quen với các sự cố bất ngờ và những hiểm nguy của các cuộc viễn chinh, biết nói nhiều thứ tiếng người bản xứ, có thể dùng họ làm người bảo vệ. Những người Tây Ban Nha bị ghét cay ghét đắng đến nỗi chỉ cần họ ló mặt ra là có thể gây sự ngờ vực và làm hại cho các kế hoạch của bá tước. Thế nhưng bất cứ ở đâu, người ta cũng đã biết chàng và hiểu là chàng được Đại tù trưởng Maxaoa che chở như thế nào. Và do đó người ta sẽ chấp nhận những người Tây Ban Nha.
    Vì sao những người này không muốn trở về châu Âu? Qua những kẻ thân tàn ma dại đã đến để được chàng che chở này, Giôphrây đờ Perắc nhìn thấy hình ảnh của sự suy vong sắp sửa đến với một quốc gia lớn nhất của thế giới văn minh. Nước Tây Ban Nha mà chàng cảm thấy gần gũi đó nguồn gốc Lănggờđốc của chàng và những khẩu vị của cùng một giống nòi: hầm mỏ, các kim loại quí, phiêu lưu trên biển, chinh phục….đang trượt vào một vực thẳm. Chịu trách nhiệm về tội giết hại ba mươi triệu người Anhđiêng trên lục địa hai châu Mỹ, làm sao chống chọi lại với sự mất thăng bằng do tội ác tày trời này gây ra.
    Suy nghĩ đến đây, Giôphrây đờ Perắc ngẩng đầu lên. Mải mơ màng, mắt chàng từ nãy đến giờ vẫn nhìn mà không thấy những trò đùa dỡn của những đợt sóng màu xanh lục dưới chân chàng và một cái tên người đến trên môi chàng: Angielic.
    Lập tức con tim chàng nhẹ nhõm, nỗi lo tan biến như màn sương mù lúc có lúc không và niềm tin lại đến với chàng.
    Chàng lặp đi lặp lại nhiều lần: Angielic! Angielic! Và mải mê suy xét về hiện tượng kỳ lạ này. Mỗi lần chàng gọi đến tên nàng, dường như chân trời sáng ra, vua nước Pháp hay vua nước Anh đều trở thành vô nghĩa, cả những trở lực ghê gớm nhất cũng có thể coi khinh.
    Chàng bắt đầu cười thỏa thích. Nàng ở đây và thế giới vì thế mà sáng bừng lên. Nàng đang ở đây và mọi cái đối với chàng đều trở nên tốt lành hơn. Nàng yêu chàng và không có gì phải lo sợ. Chàng thấy lại ánh sáng âu yếm trong đôi mắt nàng khi nàng nói thẳng một mạch: “Anh có khả năng làm chuyện lớn lao…” Nghe câu đó, chàng cảm thấy sung sướng như chàng hiệp sĩ trẻ tuổi được người đàn bà mình chọn ném cho chiếc găng tay trong một cuộc đấu thương trên mình ngựa.
    Angielic là hiện thân của tất cả mọi người đàn bà, chàng không thể so sánh nàng với những người đàn bà khác và cũng không thể chán nàng.
    Dưới bất cứ dáng vẻ nào chàng đã biết, nàng bao giờ cũng tìm được cách gợi sự tò mò của chàng và làm chàng hứng thú.
    Khi còn ở Canđi, chàng tưởng mình không yêu nàng nữa vì nàng đã phản bội chàng, thế mà chỉ cần trông thấy nàng là chàng lập tức thèm muốn và yêu thương. Chàng tưởng mình có thể rời khỏi nàng đến mức bỏ nàng cho một người khác không hề thương tiếc, vậy mà chỉ nghĩ đến một anh chàng Bécnơ đang tìm cách ôm ấp nàng đã làm cho chàng giận điên lên vì ghen.
    Chàng muốn khinh ghét nàng nhưng cùng một lúc ấy bỗng tìm ra nàng là người đàn bà đầu tiên mà tính cách đã gợi cho chàng một sự cảm phục thật sự. Chàng tưởng là không thèm muốn nàng nữa vậy mà chẳng có lúc nào là không nghĩ đến thân hình nàng, cái miệng nàng, đôi mắt nàng, tiếng nói của nàng…
    Hà cớ làm sao chàng lại nổi cáu với những áo quần kiểu La Rôsen nặng nề nàng đang mặc trên người? Phải chăng vì những quần áo ấy đã che kín cái hình hài mà chàng đang nóng lòng muốn tìm lại vẻ dịu dàng và những điều bí ẩn?
    Mưu toan của chàng muốn làm nhục nàng, làm nàng bị tổn thương chẳng qua chỉ là cơn sốt muốn chiếm lấy nàng đó thôi.
    Nàng làm cho chàng mất đi thói quen làm chủ bản thân. Những toan tính đàn ông, kinh nghiệm của chàng về mưu mô xảo quyệt của đàn bà đều tan vỡ như thủy tinh và chẳng giúp được tí gì cho chàng.
    Thế đấy, nàng đã làm chàng rối tinh rối mù lên.
    Và để đáp lại điều đó chàng đã ngả mũ và cúi chào nàng thật thấp vời lòng quí trọng khiến nàng hình như cũng không thấy được chiến thắng của mình.
    Nàng nắm giữ chàng cả bằng con đường đó nữa.
    Sức bảo tồn của nàng chẳng dễ gì mà lay chuyển được.
    Nàng không thuộc loại đàn bà lắm mồm chỉ chực đem vung vít các chuyện tâm tình về những xúc cảm sâu kín nhất. Người ta tưởng nàng là con người hoàn toàn bồng bột, những cảnh ngộ rủi ro đã làm tăng thêm tính kiêu hãnh vốn có của nàng.
    Nàng không buông thả mình, chẳng phải vì khinh ghét mà chính vì liêm sỉ. Nàng tự biết là uổng công khi định đi tìm nơi ẩn náu trong trái tim kẻ khác.
    Nàng chẳng nói năng gì mà chỉ cụp hai hàng mi dài của mình xuống. Nàng chạy trốn ngay trong chính mình. Chạy đến khu vườn bí mật nào đây? Đến những kỷ niệm nào đây? Hãy đến nỗi đau nào?
    Năng khiếu đoán đọc ý nghĩ người khác của chàng đã bị Angielic làm thất bại, thứ năng khiếu đã được nhà bói toán công nhận, và chính chàng cũng đã phát huy trong khi làm việc với các nhà hiền triết phương Đông.
    Phải chăng vì chàng quá yêu nàng? Hay vì những ý nghĩ của nàng có một sức mạnh hiếm thấy, đã làm nhiễu loạn các làn sóng đặc biệt kia?
    Đây là một trong những lý do chàng chờ đợi lời buộc tội của Maxaoa.
    Maxaoa sáng suốt như những sinh linh có khả năng tiếp xúc với thiên nhiên, có một cuộc sống lâu dài phong phú đã mài dũa cái cần ăngten trực giác của ông ta, sẽ không thể nhầm lẫn.
    Perắc sắp xếp để Angielic ngồi lên hàng đầu với những người Tin lành, trên bãi biển. Maxaoa làm như không thấy gì qua những kinh nghiệm, bá tước biết là ông ta để ý xem xét tất cả.
    Sau buổi lễ, hai người ngồi chuyện trò thân mật một lúc lâu về việc này, việc khác: về những người Tây Ban Nha ở miền Nam, về những người theo giáo phái Quâycơ ở Bôtxtơn, về vua nước Anh, về khí thế trong vùng cũng như về thiên chất chẳng dễ gì chế ngự được của biển.
    - Mày có biết liên kết với thiên chất của đất như liên kết với thiên chất của biển không, bạn của ta? Liệu có đúng không khi mày bỏ những người đã nhận sự thống trị của mày để đến gặp những đầu óc ghen tị và xa lạ?
    Cả hai đều ngồi trên mũi đất nhô ra biển trước pháo đài, từ đó có thể nhìn thấy biển. Ngài tù trưởng nơi xa đến đây là để nói chuyện với người mà người ta gọi là Người – nghe – ngóng – trụ. Phải dành thời gian cho ông ta. Giôphrây đờ Perắc bình tĩnh nghe ông ta nói và tôn trọng những khi ông ta ngồi im lặng.
    Cuối cùng tù trưởng nói:
    - Người đàn bà – có – mái – tóc – ánh – sáng tại sao cùng ngồi chung với những người da trắng – có – tâm – hồn – giá – lạnh?
    Và sau một lúc suy nghĩ:
    - Nó không thuộc về họ. Chàng chờ đợi và cảm thấy tim mình đập với một nỗi lo trẻ trung. Tù trưởng cầm ống điếu hít những hơi dài. Ông ta dường như ngủ đi một chút, đoạn tia sáng lại lóe lên trong cái nhìn của ông ta.
    - Người đàn bà này là của mày, tại sao mày đày đọa nó giữa đám người ấy? Tại sao mày chối từ nỗi thèm muốn của mày đối với nó?
    Ông ta có vẻ gần như sinh sự, giống mỗi lần ông ta thấy thái độ sai trái của người da trắng. Đây là những dịp duy nhất vẻ mặt thản nhiên của ông ta bộc lộ tình cảm.
    - Đầu óc người da trắng mờ tối và thô cứng như một tấm da thuộc không kỹ - Giôphrây đờ Perắc trả lời – Tôi không có được cái nhìn sắc sảo của ngài, ồ, ngài tù trưởng và tôi cứ tự hỏi mình về người đàn bà này, tôi cũng không biết bà ấy có xứng đáng được vào ở dưới mái nhà của tôi và cùng tôi chung chăn gối hay không.
    Ông già Anhđiêng lắc đầu:
    - Sự khôn ngoan của mày là đáng tôn kính, bạn của ta ạ. Thật hiếm người có được giá trị như thế. Đàn bà là con vật săn bắn duy nhất mà người thợ săn đa nghi đến đâu cũng có thể coi là vô hại. Phải nhận lấy từ người đàn bà thật nhiều vết thương, rồi mới khôn lên được. Tuy vậy, ta sẽ nói với mày những lời mà con tim si tình của mày muốn nghe. Người đàn bà đó có thể ngủ bên cạnh mày. Nó sẽ không làm suy yếu sức mạnh của mày đâu, cũng không làm cho đầu óc mày đen tối đi đâu, vì bản thân nó là sức mạnh và ánh sáng. Con tim của nó là vàng ròng đấy, ngọn lửa dịu dàng đang cháy trong đó như ngọn lửa của gia đình trong căn lều, ở đấy người chiến sĩ mệt mỏi đến ngồi nghỉ ngơi.
    - Tù trưởng vĩ đại, tôi không biết có phải ánh sáng đó đã làm ngài lóa mắt hay không, ngài cũng vậy – Bá tước đờ Perắc vừa nói vừa cười – Nhưng những lời ngài nói quả là vượt quá sự mong chờ của tôi và phải chăng vẻ dịu hiền mà ngài gán cho nàng chỉ là sự xảo quyệt nàng dùng để trang điểm bề ngoài mà thôi? Người đàn bà này, tôi xin thú thật với ngài, đã làm cho bao nhiêu hoàng tử phải run sợ…
    - Phải chăng ta đã bảo rằng nó có những móng vuốt còn sắc nhọn hơn cả dao găm đối với kẻ thù của nó?..Ông già Maxaoa nói vẻ tức giận – Nhưng mày, mày đã biết chinh phục nó thì mày chẳng việc gì phải sợ nó: mày vĩnh viễn là chủ của nó.
    Ông già Anhđiêng như mỉm cười:
    - Da thịt của nó là mật ong đấy! Hãy thưởng thức đi.
    “Cảm ơn ông già Maxaoa – Chàng nghĩ – Phải chăng ông đã làm việc này: soi sáng đầu óc: “mờ tối và thô cứng” đã bị đầu độc bởi những mối nghi ngờ, ông sẽ phục vụ một cách đắc lực người dân của ông. Vì chừng nào tôi còn sống tôi sẽ hành động để bảo vệ những người dân này. Và nếu nàng ở cạnh tôi, tôi sẽ có đủ mọi sức mạnh để sống và hành động”.
    Bởi trước đây chàng đau khổ vì mất nàng nên chàng đã dựng lên hình ảnh nàng như là một con người lẳng lơ, nhẫn tâm và bội bạc.. Canto kể lại là mẹ nó chẳng bao giờ nói gì về chàng với nó. Chàng đã bắt đầu nhìn ra là có những lý do khác ngoài sự lãng quên có thể điều khiển tư cách của nàng.
    Cái đêm trên tàu Gunxbôrô, ít nhất cũng cho chàng thấy rõ một điều chắc chắn: thể xác của họ là để cho nhau.
    Lòng khát khao chàng còn mãnh liệt hơn tất cả những nỗi sợ của nàng. Mặc dù khóe miệng quí tộc đẹp tuyệt vẫn có thể gặp những cách tỏ tình khác. Chàng vẫn là người đàn ông duy nhất có khả năng làm cho nàng rung động, đè bẹp sự chống cự của nàng. Và đối với chàng, nàng luôn luôn là người đà bà duy nhất – ngay cả khi lạnh cóng run lên cầm cập như cái đêm hôm đó – có thể đem lại cho chàng niềm vui ân ái gần như mê li.
    Chàng đã biết những người tình khéo léo. Tuy vậy, họ chẳng qua vẫn chỉ là những trò chơi thú vị.
    Với Angielic, khi chàng ôm nàng trong cánh tay,chàng thấy như mình lên thuyền đi đến hòn đảo thần tiên, đến vùng lửa, đến vực thẳm tối tăm nơi người ta chia tay với chính mình để lên thiên đường trong chốc lát.
    Quyền lực mà da thịt êm dịu và vàng óng của nàng gây ra cho da thịt chàng thật là ma lực.
    Cái quyền lực đó, trước đây chàng cảm thấy một cách mạnh mẽ khi chàng thấy làm ngạc nhiên về sự mê say mà con người xinh đẹp không có kinh nghiệm này đã gợi cho chàng.
    Rồi mười lăm năm sau, chàng đã thấy lại quyền lực đó cũng với sự ngạc nhiên như thế và niềm hân hoan như thế trong một đêm khác hẳn, khi chàng cũng như nàng, chỉ là những kẻ tha phương, hầu như không quen biết nhau trên mặt biển đầy phong ba bão táp.
    Cảm thấy vui thích, chàng lẩm bẩm “Chỉ có em mà thôi!”…
    Cuộc sống vẫn diễn ra sáng chói, vùng Men là một xứ sở đẹp tuyệt và đầy hứa hẹn. Angielic người đàn bà đam mê nhất trong tất cả mọi người đàn bà. Chàng không có đủ cho mình những ngày và những đêm để yêu nàng, thuần hóa nàng, giành lấy nàng và cùng làm lại với nàng một bộ ba vĩnh cửu: một người đàn ông; một người đàn bà và tình yêu.
    Hăng hái lên, chàng sải bước, chiếc áo choàng tung bay trong gió, chàng ngắm nhìn khắp xung quanh một cách thích thú.
    Vùng ven biển có những bãi cát màu sáng ửng này, chàng thấy đẹp đến ngây ngất. Sự suy ngẫm của chàng trùng hợp với sự phát hiện của một tình cảm mê say chàng chưa bao giờ thấy. Ngọn lửa tình yêu rực cháy trong con tim chàng.
    Những gì cuộc đời đã đánh cắp mất của chàng ngày trước bây giờ được trả lại cho chàng gấp trăm lần. Của cải, lâu đài, tước vị? Của cải chẳng là cái gì đối với một người đàn ông có sức mạnh trên bến bờ mới mẻ này, với một tình yêu lớn trong tim…
    Trở về pháo đài, chàng ra lệnh chuẩn bị yên cương.
    Angielic hiển nhiên là đang ở bên kia khu trại Sămpơlanh. Nàng bướng lắm. Những năm sống tự lập đã cho nàng thói quen tự lo liệu lấy số phận của mình. Đem nàng về dưới uy quyền của cuộc sống vợ chồng không phải dễ. Ông già Maxaoa dù có khẳng định “Mày là chủ của nó” với một niềm tin quyết đoán thì cũng vô ích thôi. Một khi dính dáng đến Angielic, người ta cần phải hết sức khôn khéo.
    Chàng vừa mỉm cười vừa đi theo lối mòn cây cối um tùm và đêm đang tỏa xuống một vùng bóng tối hùng vĩ.
    “Một cuộc chinh phục khó khăn để lấy lại tình yêu quí giá…” Ông Sapơlanh, lão sư về Nghệ thuật yêu từng dạy thế. “Tình cũ xua đuổi tình mới”.
    Chỉ có Angielic là phủ nhận triết lý của câu châm ngôn ấy: Dù hạnh phúc hay đau khổ nối tiếp nhau, nàng vẫn ở trong chàng.
    Đến gần khu trại Sămpơlanh, chàng gặp một đoàn người cầm đuốc.
    Đấy là Cơrâulê dọn nhà cùng với vợ và con cái, gia nô, vào ngủ trong làng người Anhđiêng.
    - Tôi nhường lại ngôi nhà tranh của tôi cho cái bà bắn súng ngắn rất cừ mà người Anhđiêng đặt tên cho bà ấy là “Ánh sáng mùa hè”. Thưa ngài đờ Perắc, xin ngài thứ lỗi cho. Tôi chúc mừng ngài. Người ta bảo bà ấy là nhân tình của ngài.
    - Không, bà ấy không phải là nhân tình của tôi mà là vợ tôi đấy.
    - Ngài có vợ rồi? – Ông này kêu lên – Không thể như thế được, bà ấy? Vợ ngài? Từ bao giờ?
    - Từ mười lăm năm nay - Bá tước vừa trả lời vừa phi nước đại.



Trang 2/3 đầuđầu 123 cuốicuối

Thread Information

Users Browsing this Thread

Hiện đang có 1 tv xem bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • Bạn không được quyền đăng bài
  • Bạn không được quyền trả lời bài viết
  • Bạn không được quyền kèm dữ liệu trong bài viết
  • Bạn không được quyền sửa bài
  •