Trang 1/3 123 cuốicuối
kết quả từ 1 tới 8 trên 18

Ðề tài: [TD] Angelic Và Tình Yêu - Serge Anne Golon

  1. #1
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Lightbulb [TD] Angelic Và Tình Yêu - Serge Anne Golon

    Nguon: vnthuquan.net
    tac giản: Serge Anne Golon











    Chương 1



    Tóm tắt:
    Là con thứ năm của một gia đình quý tộc tỉnh lẻ đã sa sút, Angiêlic lớn lên giữa đám bạn bè cùng quê và cảnh hương đồng cỏ nội. Với sắc đẹp mê hồn và một tính cách táo bạo, bướng bỉnh, giàu nghị lực với ít nhiều hoang dã, Angiêlic đã vượt qua cả một chuỗi dài những thử thách khắc nghiệt mà bàn tay số phận cố tình bày đặt.
    Bị cha mẹ ép gả cho bá tước Đờ Perắc cực kỳ giàu có nhưng thọt chân, mặt đầy sẹo, Angiêlic thoạt đầu phản kháng kịch liệt. Tuy vậy, dần dần nàng nhận ra trong con người tật nguyền này một nhà bác học lỗi lạc, một nghệ sĩ kỳ tài, con người có trái tim nồng nhiệt tinh tế, và cũng hết sức kiêu hãnh. Chính giữa lúc tình yêu của hai người đang lên tới độ nồng nàn nhất thì bá tước bị vua Lu-I thứ 14 và Giáo hội ganh ghét, tống giam vào ngục Baxtiơ.
    Một mình giữa đế độ Paris xa lạ và thù nghịch, Angiêlic tính “chọc trời khuấy nước” để cứu chồng nhưng nàng đã thất bại. Bá tước bị kết án tử hình và bị thiêu trên giàn lửa. Angiêlic rơi vào cảnh ngộ éo le: phải trở thành nhân tình của Nicôla, một người bạn thuở thiếu thời nay là tướng cướp. Cuối cùng với nghị lực, sắc đẹp và nữ tính của mình, nàng thoát khỏi vũng lầy và trở lại chiếm lĩnh vị trí của mình trong đời sống quý tộc để tìm cách trả thù cho chồng.
    Sau 1 thời gian bôn ba, nàng trở thành bà chủ tiệm làm chocolate, giàu có và nổi tiếng xinh đẹp. Từ đó bằng mọi giá nàng lấy cho được tước Philip đuy Plexi Belie để con nàng có danh phận.
    Thời gian đầu, vì bị ép buộc phải lấy Angiêlic, nên mặc dù yêu nàng, nhưng Philip ghét cay ghét đắng và hành hạ Angiêlic, không cho nàng xuất hiện ở triều đình. Angiêlic cá cược với Philip rằng, một ngày nào đó, nếu chàng yêu nàng say đắm, thì sẽ phải tặng nàng dây chuyền của gia tộc chàng. Và dần dần, Philip cũng ngày càng yêu Angiêlic hơn. Đúng lúc này thì Angiêlic nghe được tin Canto (đứa con trai thứ hai của nàng với bá tước Đờ Perắc) đã chết trên biển Địa Trung Hải. Philip từ trận địa, một mình một ngựa phi về bên vợ, ôm nàng vào lòng, và đeo cho nàng sợi dây chuyền của gia tộc - thú nhận là chàng đã yêu nàng.
    Nhưng đồng thời với tình yêu của Philip dành cho Angiêlic, nhà vua cũng yêu nàng... nhiều lần bày tỏ tình yêu với nàng. Philip cũng biết Vua yêu vợ mình, nhưng lòng trung thành tuyệt đối của chàng đối với nhà Vua khiến chàng im lặng. Và với thói quen phục tùng Vua tuyệt đối, thấy mối tình tuyệt vọng của Vua đối với Vợ mình, trong một trận đánh (mà cả Vua và Angiêlic cũng như cả triều đình cùng đang ở nơi có diễn ra trận đánh), Philip đã băng vào giữa làn lửa đạn - nhiệt tình hơn mức phải có - và một quả đại bác đã cắt phăng đầu chàng.
    Sau đó Angiêlic phải đối diện với mưu mô của phu nhân Mongtexpang - bạn đồng hương với Angiêlic, người tình của Đức vua. Đối diện với tình yêu âm ỉ của Đức Vua, sự chinh phục không ngừng... Angiêlic đã chống lại nhà vua và chịu nhiều đau khổ (bị hãm hiếp và sinh ra một đứa con gái không được thừa nhận).
    Bị bán như món hàng sống ở chợ nô lệ, nàng được tên cướp biển Rescator (thực chất là bá tước đờ Perắc chồng nàng) mua về. Angiêlic không biết đó chính là chồng nàng vì Rescator luôn đeo mặt nạ và chân không bị thọt giống chồng nàng. Còn Rescator tuy vẫn còn yêu nàng tha thiết nhưng nghĩ rằng nàng đã trở thành người tình của Nhà vua - người đã chia cắt hai người nên không tiết lộ danh tính thực của mình. Sau đó nàng trốn khỏi tay Rescator.
    Bị truy quân lính của nhà vua truy bắt, Angiêlic vào làm người ở gái cho thương gia Gabrien Bécnơ và ông Becnơ (đã góa vợ) đem lòng yêu nàng. Một ngày nọ, nàng được tin đoàn quân lính kị binh của nhà vua sẽ tàn sát toàn bộ đám người Tin Lành đang bao bọc nàng. Hoặc là họ cải đạo, hoặc là họ chết
    Lúc này tên cướp biển Rescator đang ở ngay cạnh nàng. Và Angiêlic tìm cách lên thuyền, nhờ ông ta đưa toàn bộ đám người Tin lành lên thuyền để trốn thoát. Còn diễn biến tiếp theo như thế nào thì mời các bạn đọc truyện Angiêlic và tình yêu

    °°°°





    Cảm giác bị một cái nhìn vô hình dòm ngó đưa Angiêlic trở về thực tại. Nàng giật mình và đưa mắt sục sạo xung quanh tìm kẻ đã đem mình đến đây, trong căn phòng sang trọng kiểu phương Đông của cái lầu sau này. Nàng quả quyết là người đó nhất định phải ở đây, nhưng vẫn không nhìn thấy.
    Nàng nhận ra chính tại căn phòng này, đêm qua, nàng đã được Rescator tiếp. Sự mau lẹ của các sự kiện, tấm thảm kịch trải qua, vẻ thanh bình đang ngự trị, và cảnh trí mới lạ, cùng lúc tạo cho nàng phong vị giấc mơ. Angiêlic hẳn là chưa thức giậy nếu Ônôrin không bắt đấu ngọ nguậy vươn vai vươn cổ như một chú mèo con.
    Trong bóng tối lấp loé ánh vàng của đồ đạc và các vật trang trí mà nàng chưa thấy thật rõ hình thù, mùi hương quen thuộc làm nàng xao xuyến, và có một cái gì riêng biệt của Rescator vẫn còn phảng phất đâu đây. Nàng vẫn chưa quên phong vị Địa trung hải, cũng như nàng vẫn giữ thói quen uống cà phê, dùng thảm và ghế dựa có đệm bọc bằng lụa.Một làn gió lạnh tạt vào qua cửa sổ mang theo hơi ẩm của sương mù. Angiêlic thấy rét. Cùng lúc đó nàng đâm ra bối rối, vì thấy chiếc nịt vú đã bị cởi ra. Bàn tay nào đã tháo móc cài? Ai đó đã cúi xuống người nàng trong lúc nàng còn đang thiêm thiếp? Đôi mắt đàn ông nào, có thể vì lo lắng, đã nhìn xoi mói làn da tái nhợt, tư thế bất động, đôi mắt nhắm nghiền và vẻ bầm dập của nàng?
    Có thể người đó thấy nàng nằm ngủ một mình, trong trạng thái ngã vật,kiệt sức,và đã cởi nịt vú để cho nàng dễ thở hơn.
    Cử chỉ ấy có thể đơn giản là một sự ý tứ, nhưng cũng chứng tỏ người đàn ông quen thuộc với đàn bà, và biết cách đối xử với mọi cung cách của họ, kể cả sự buông thả đáng yêu mà chỉ nghĩ đến nàng đã đột nhiên đỏ mặt, và vừa ngồi dậy, vừa sửa lại quần áo một cách nóng nảy đến dữ tợn.
    Tại sao người đó đem nàng tới đây, đến chỗ ông ta không để nàng ở cùng với các bạn hữu của nàng? Như thế này thì nàng có khác gì nô lệ của ông ta, tù binh của ông ta, được xếp đặt theo tính khí thất thường của ông ta, cho dù có những dấu hiệu chứng tỏ ông ta cũng chẳng thiết gì nàng.
    -Có ai đấy không? - nàng hỏi to - Ngài ở đây à, thưa ngài.
    Không có ai đáp lại ngoài nhịp thở của biển khơi và tiếng vỗ bập bềnh của sóng. Nhưng Ônôrin đã bị đánh thức và vừa lồm cồm ngồi dậy vừa ngáp. Angiêlic cúi xuống bế con bằng một cử chỉ che chở, và kiêu hãnh vì nàng đã nhiều lần giữ được cho cái sinh linh yếu ớt này thoát khỏi sự đe doạ của những hiểm nguy.
    -Lại đây con bé bỏng của mẹ - nàng thì thào - không sợ gì nữa. Chúng ta đã ở ngoài biển rồi. Nàng đi tới cửa kính và ngạc nhiên khi thấy cửa có thể mở ra một cách dễ dàng. Vậy thì nàng đâu phải là tù binh...
    Bên ngoài trời vẫn còn sáng. Nghe rõ tiếng bước chân thuỷ thủ đi đi lại lại trên boong tầu, trong khi những ngọn đèn đầu tiên đã được thắp. Sóng dịu nhẹ và một vẻ thanh bình toát ra từ con tàu cướp biển đơn độc giữa đại dương trống trải, tưởng chừng như trước đó vài tiếng đồng hồ, nó chưa hề phải đối mặt với cái chết. Người ta chỉ thấm thía ý nghĩa của sự sống một khi cái chết cầm chắc kề sát bên cạnh.
    Có người nào đó vẫn ngồi dựa cửa vụt đứng dậy và Angiêlic thấy ngay bên cạnh gã người Mo khổng lồ đêm vừa rồi đã pha cà phê cho mình. Anh ta trùm đầu bằng tấm khăn len trắng của người Marốc và khoác một khẩu súng mút có báng khảm bạc, giống như những tên lính cấm vệ của Mulai Ismail mà nàng đã từng thấy.
    - Các bạn tôi ở đâu? - Nàng hỏi.
    -Mời bà đi - gã người Mo đáp – ông chủ bảo tôi dẫn bà đi khi nào bà tỉnh dậy.
    Giống như mọi chiếc tàu khác được dùng để chở hàng hay cướp bóc, chiếc Gunxbôrô không có khả năng tiếp nhận hành khách. Khoang dành cho thuỷ thủ đoàn ở dưới boong trước chắc chắn có chỗ nhưng không thể chứa nhiều hơn. Vì vậy, người ta phải để cho những kẻ di tản ở trong một phần của khoang boong dành cho giàn pháo được nguỵ trang của chiếc tàu cướp biển. Xuống hết một cầu thang ngắn, Angiêlic nhận ra đám bạn hữu của mình đã bắt đầu được xếp đặt một cách tuỳ tiện giữa các khẩu pháo. Nhìn chung, các giá súng với những thanh đồng lớn được phủ vải, có thể dùng để đặt các bọc đồ sơ sài của họ.
    Ánh ngày vẫn còn rớt lại trên boong, nhưng ở đây, dưới tháp, trời đã thẫm lại trong thứ ánh sáng mầu hồng đục lờ từ một ô cửa mở ở thành tàu rọi tới.
    Vừa bước vào, Angiêlic đã bị hỏi dồn:
    -Bà Angiêlic! Mọi người nghĩ là bà chết rồi, chết đuối rồi...
    Hầu như lập tức, những lời tố cáo vang lên:
    -Ở đây chúng tôi chẳng nhìn thấy gì cả... Họ nhốt chúng tôi như tù. Trẻ con khát khô cổ...
    Trong tranh tối tranh sáng, Angiêlic chỉ nhận ra họ qua giọng nói. Giọng Abighen cao hơn cả.
    -Cần phải chăm sóc ông Becnơ, ông ấy bị thương nặng.
    -Ông ấy đâu? – Angiêlic vừa hỏi vừa thầm tự trách mình bỏ qua ông Becnơ.
    Mọi người giúp nàng đi tới chỗ người thương gia nằm, phía dưới ô cửa thành tàu.
    -Chúng tôi nghĩ là không khí mát lành sẽ làm ông ấy khá hơn, nhưng chẳng thấy khá gì cả.
    Angiêlic quỳ xuống cạnh người bị thương. Nhờ chút ánh sáng hồng của mặt trời đang lặn chiếu rọi vào khoang tàu tối sẫm, nàng có thể phân biệt các đường nét, và nàng thấy khiếp hãi trước vẻ tái nhợt, nỗi đau khổ mà ông ta phải chịu đựng, dù đang thiêm thiếp. Nhịp thở ông ta chậm và khó khăn.
    “Ông ấy bị đánh trong lúc che chở ta”, nàng tự nhủ.
    Thật xúc động khi nhìn thấy ông ta trong tình cảnh này. Nhà đại thương gia của xứ La Rôsen, cùng lúc bị tước bỏ hết sức lực lẫn tư cách đáng kính, bây giờ nằm đó với đôi vai lực lưỡng để trần, với bộ ngực lông lá xồm xoàm, không khác gì bộ ngực của một anh phu khuân vác tầm thường.
    Các bạn đồng hành của ông ta, trong lúc nguy cấp đã xé chiếc áo rơđanhgốt thấm máu và áo sơmi của ông ta để bịt vết thương. Chính vì vẻ ngoài ít khi thấy như vậy mà Angiêlic đã không nhận ra ông ta. Giữa người thương gia theo đạo Tin lành bình thản ngồi trước cuốn sổ ghi chép trong khung cảnh cửa hàng đày của cải và cũng người ấy, trần truồng, bất lực, đang tồn tại một cái vực cách biệt sâu thẳm. Trong nỗi kinh hoàng, một ý nghĩ kỳ cục chợt lướt qua đầu nàng: “Đáng lẽ ra ông ấy đã là người tình của ta”.
    Đột nhiên ông ta trở nên hết sức gần gũi, nàng cảm thấy mình ít nhiều thuộc về ông ta, và nỗi lo lắng tăng lên gấp bội khi nàng đặt bàn tay êm dịu của mình lên thân thể ông ta.
    -Từ lúc được đưa tới đây ông ấy có cử động hay nói năng gì không?
    -Không. Thế mà chúng tôi cứ ngỡ là vết thương không nghiêm trọng lắm. Nhát kiếm đâm trúng vai và ngực trái. Máu ra ít thôi.
    -Cần phải làm một cái gì đó.
    -Nhưng làm gì mới được chứ? – Tay thầy thuốc Anbe Parin, lại một lần nữa phản đối bằng thứ giọng chua loét của ông ta – trong tình thế của tôi lúc này, tôi chẳng có gì cả. Không thuốc tẩy, không ống thụt, không ở gần hiệu thuốc để mà chạy đến tìm các cây thuốc.
    -Ít ra thầy cũng có thể mang theo túi đồ nghề chứ, thầy Parin – Abighen nói, với một vẻ hung hăng chưa từng thấy – cái túi ấy có cồng kềnh gì cho cam.
    -Tại...sao – con người từ thiện tỏ vẻ uất ức - tại sao lại chê trách tôi bỏ mất đồ nghề trong khi các người lôi tôi ra khỏi giường không một lời giải thích, rồi đẩy tôi lên cái tàu này, mình trần thân trụi, đến cả lau qua con mắt cũng không có thời gian nữa. Vả lại, trong trường hợp của ông Becno, tôi chả làm được gì nhiều. Tôi đâu phải nhà phẫu thuật.
    Lôrie bám lấy Angiêlic, cố nài nỉ:
    -Chẳng lẽ để cha tôi chết sao?
    Từ mọi phía những bàn tay chìa tới túm chặt lấy nàng, có thể có cả bàn tay của Xêvêrin, Ônôrin, Macxian, hoặc những bà mẹ đang cuống cuồng lên trước tình cảnh khốn quẫn của họ.
    -Lũ trẻ đang khát đấy – bà Care lặp lại.
    Cũng còn may là họ không đến nỗi quá đói. Ông chủ hiệu thực phẩm hào hiệp đã bỏ chỗ bánh mì và bánh xốp dự trữ ra phân phát cho mọi người. Khác với ông thầy thuốc, ông này khá bình tĩnh, đã mang theo bọc bánh và thậm chí cả cuộc vượt truông cũng không thể làm ông ta bỏ lại được.
    -Nếu bọn bất lương này không đem ta đến chỗ có ánh sáng, tôi phá cửa. – Ông Manigôn đang đứng trong vùng tối nhập nhoạng gần đó, chợt kêu lên.
    Dường như chỉ còn chờ giọng nói vang rền như sấm này để bày tỏ thái độ, những người thuỷ thủ hiện ra trong ánh sáng của ba chiếc đèn lớn mà họ đang đi tới để treo vào giữa và hai phía giàn pháo. Sau đó họ quay lại bậc cửa và bưng đến một chiếc chậu gỗ đang bốc lên mùi thơm ngon lành, và một xô sữa đầy ắp.
    Trong số họ có hai người là dân đảo Mantờ, trước kia từng được dùng làm hầu cận cho Angiêlic. Mặc dù họ có vẻ man rợ với nước da màu xanh ô liu và những cặp mắt đỏ đòng đọc, nàng biết rằng họ là những người tốt…tốt trong chừng mực nào đó. Họ chỉ chậu thức ăn cho những người khách với vẻ mời mọc.
    -Mà này, các ông muốn chúng tôi ăn như thế nào đây? – bà Manigôn kêu lên, giọng the thé – Các ông định cho lũ lợn chúng tôi đớp thức ăn trong cùng một cái máng ư? Chúng tôi chẳng có đến một cái đĩa.
    Bà ta bật lên những tiếng nức nở cuồng loạn trong khi nhớ tới những thứ đồ gốm đẹp đẽ bị vỡ trong động cát.
    - Ồ những thứ ấy có đáng gì đâu hở bà – bà Care nói - rồi sẽ tự xoay xở được hết.
    Thật hết sức bất ngờ, bà ta đưa cho mọi người chiếc chén duy nhất, mà đến giây phút cuối cùng, như có phép lạ, đã nhét được vào cái bọc khốn khổ của mình. Angiêlic cố cắt nghĩa cho đám thuỷ thủ bằng thứ ngôn ngữ hổ lốn của vùng Địa trung hải mà nàng chỉ còn nhớ được dăm ba tiếng. Họ gãi đầu gãi tai tỏ vẻ bối rối. Câu hỏi về bát đĩa đặt ra một vấn đề gai góc đối với toán lính. Họ vừa bỏ đi vừa nói như mọi lần rằng họ sẽ lo liệu.
    Quây quanh chậu thức ăn, đám khách bàn tán hồi lâu về các thứ đựng trong đó.
    -Món ragu trộn rau sống.
    -Dù gì nữa cũng là món ăn tươi.
    -Vậy là chúng ta chưa được nếm món bánh bích quy và thịt muối rất quen thuộc của vùng biển.
    - Những thứ này họ phải cướp ở đất liền. Tôi vừa nghe tiếng lợn kêu và tiếng một con dê be be trong khoang ngay phía dưới bọn mình đây này.
    -Không phải đâu. Những con vật ấy, họ mua đấy, trả bằng tiền mặt hẳn hoi. Họ buôn bán tử tế mà.
    -Ai nói thế? – Ông Manigôn hỏi ngay khi vừa nghe hết những lời giải thích bằng thổ ngữ miền Sarăngtơ.
    Dưới ánh sáng đèn, ông ta phát hiện ra những khuôn mặt chưa hề quen biết: hai người dân quê gầy gò, để tóc dài và các bà vợ, bìu díu chừng nửa tá con cháu nhếch nha nhếch nhác.
    -Các người ở đâu ra vậy?
    -Chúng tôi là tín đồ Tin lành ở xóm Xanh-Môritxờ.
    -Thế các người làm gì ở đây?
    -Thì đấy! Khi một người chạy về phía vách đá, chúng tôi cũng chạy. Và tệ hại hơn là sau đó chúng tôi tự nhủ: thì họ lên tàu mình cũng cùng lên tàu. Ông tưởng rằng chúng tôi thích rơi vào tay bọn lính long kỵ của Nhà Vua sao? Có khả năng chúng sẽ trút cơn bực bội lên chúng tôi…Nhất là khi chúng biết rằng mọi người đã buôn bán với bọn cướp. Và kết cục chúng tôi đã bỏ lại những gì ở phía sau? Cũng chả có gì nhiều. Vì chúng tôi đã bán cho họ đến con dê, con lợn cuối cùng…Thế thì sao nào?
    -Chúng tôi cũng đã quá đủ những chuyện như thế rồi! – Ông Manigôn nói một cách giận dữ - Lại còn cả những cái miệng vô ích phải nuôi này.
    -Ngay bây giờ, ông bạn thân mến ạ - Angiêlic nói – tôi xin lưu ý ông rằng không phải chỉ riêng ông mới phải chịu đâu nhé. Tuy không trực tiếp, nỗi lo ấy cũng liên quan đến những người dân quê này, những người mà ông còn mắc nợ món xúp bữa chiều, vì chắc chắn thiệt của một trong những con lợn của họ đã được dùng để nấu ra món ăn đấy.
    - Nhưng rồi khi chúng ta đến đảo…
    Ông mục sư Bôke liền can thiệp:
    -Những người dân quê biết lật đất và chăn dắt súc vật không bao giờ là gánh nặng cho một trại di cư cả, xin hoan nghênh các bạn đến ở cùng chúng tôi.
    Chuyện rắc rối chấm dứt và vòng người được mở ra để lấy chỗ cho những người dân quê khốn khổ kia.
    Với mỗi người, cái buổi chiều đầu tiên trên con tàu xa lạ đang đưa họ đi tới định mệnh này, có một cái gì phi hiện thực. Mới hôm qua, người này giàu, người kia nghèo, họ đều còn ngủ trong nhà mình. Nỗi lo cho số phận tạm lắng dịu, vì ý định lên đường làm họ nguôi ngoai. Đành chịu sự hy sinh, họ tìm đủ mọi cách để đạt được tối đa sự an toàn và tiện lợi. Và bây giờ họ tự thấy mình vật vờ trong bóng tối đại dương, bị cắt đứt mọi liên hệ, hầu như vô danh, không khác gì linh hồn của những kẻ bị đày xuống địa ngục trong con thuyền Carông (1). Sự so sánh ấy xuất hiện trong đầu óc đám đàn ông, vì họ phần lớn đều có học, và chính vì thế, họ ngồi nhìn một cách buồn thảm món xúp sóng sánh nhẹ nhàng trong chậu, theo nhịp lắc của con tàu.
    Cánh đàn bà đã có việc khác để làm, chẳng hơi đâu kề cà đi nhớ thơ Đăngtơ. Có chiếc chén của bà Care, họ lần lượt chuyền nhau cho lũ trẻ uống sữa. Công việc không phải không khó khăn, vì cùng lúc với bóng đêm buông xuống, tàu càng chao đảo mạnh. Lũ trẻ cười đùa vì được thấy nước bắn tung toé, trong khi các bà mẹ la mắng. Họ chẳng còn bao nhiêu quần áo để thay, và ở trên tàu thì giặt giũ vào đâu cơ chứ? Mỗi một khoảnh khắc trôi qua lại mang đến cho đoàn người sự xa cách và nỗi khổ đau. Trái tim các bà nội trợ rỉ máu vì nuối tiếc những đồ dùng đẹp đẽ và các bánh xà phòng bị bỏ lại trong nhà giặt. Cả những chiếc bàn chải đủ cỡ - mà không có bàn chải thì giặt thể nào được? Chỉ bà thợ làm bánh là mỉm cười, vì nhớ rằng mình có mang theo những thứ đó. Bà ta đưa cặp mắt hoan hỉ nhìn những người bên cạnh ỉu xìu xìu.
    Angiêlic quay lại quỳ xuống cạnh ông Gabrien. Nàng thấy yên tâm về số phận Ônôrin. Con bè vừa tự xoay xở để múc lấy một trong những chén sữa đầu tiên, bây giờ lại đang sục tìm vài miếng thịt trong chậu xúp. Nó sẽ luôn luôn biết tự bảo vệ.





    (1). Caron: Tên người lái đò trên sông Styx ở địa ngục, làm nhiệm vụ chở những linh hồn có tội bị đầy đoạ - Theo “Thần khúc” của Đante.


    o0o



    Tình trạng nhà thương gia làm Angiêlic hết sức lo lắng. Càng lo, nàng càng ân hận và cảm kích “Không có ông ấy, ta, hoặc Ônôrin đã bị nhát kiếm đâm trúng rồi”.
    Vẻ bất động và cơn mê kéo dài của Gabrien Bécnơ là dấu hiệu không bình thường. Bây giờ dưới ánh sáng đèn, nàng thấy ông ta trắng bệch như sáp. Khi hai người trong thuỷ thủ đoàn quay lại và mang theo khoảng chục chiếc bánh, nàng túm áo một người, kéo đến trước mặt ông Gabrien và ra hiệu cho anh ta hiểu rằng chẳng có gì để cứu chữa ông ta cả. Người thuỷ thủ tỏ vẻ dửng dưng, và vừa nhún vai vừa ngước lên: Lạy Đức mẹ! Anh ta cho biết trong đám thuỷ thủ cũng có người bị thương, và giống như trên mọi chiếc tàu cướp khác, người ta chỉ có thể chữa trị bằng hai thứ thuốc thần hiệu: dùng rượu rum và thuốc súng để sát trùng hoặc đốt vết thương. Công thêm nữa là cầu nguyện Đức mẹ như anh ta vừa bày tỏ.
    Angiêlic thở dài. Nàng có thể làm gì được? Nàng cố nhớ lại tất cả các bài thuốc học được trong cuộc đời làm chủ gia đình, làm mẹ, cũng như các bài thuốc của mụ phù thuỷ mà nàng đã dùng để chữa trị người bị thương hồi xẩy ra cuộc nổi loạn ở Poatu. Nhưng nàng không có gì, thật sự không có gì trong tay. Các túi dược thảo cất trữ còn nằm cả trong đáy hòm ở La Rôsen và lúc lên đường nàng đã quên khuấy mất.
    -Đáng lý ra phải quan tâm tới những thứ đó – nàng tự trách mình – nhét vào bọc thì nặng nhọc gì cơ chứ.
    Dường như có một nét run rẩy mơ hồ làm méo mó khuôn mặt Gabrien Bécnơ. Nàng cúi xuống nhìn chăm chú. Ông ta động đậy, cặp môi mím chặt hé mở để tìm hơi. Thấy rõ ông ta đau đớn mà nàng thì không thể làm gì được cho ông ta cả.
    “Phải chăng ông ấy sắp chết”, nàng tự nhủ, và cảm thấy lạnh toát cả người.
    Phải chăng cuộc hành trình sẽ bắt đầu bằng một dấu hiệu tai ương? Phải chăng vì sự sơ suất của nàng, lũ trẻ mà nàng yêu mến sẽ mất đi chỗ nương tựa duy nhất? Và phải chăng chính nàng nữa? Nàng đã quen thói chỉ biết có ông ta, nương tựa vào ông ta. Vào cái lúc lại mất hết mọi mối dây liên hệ, nàng thật không muốn một chút nào việc ông ta phải ra đi. Mất ông ta ư! Đó là người bạn chí cốt của nàng, bởi vì nàng biết ông ta yêu nàng.
    Nàng đặt bàn tay lên bộ ngực nở nang, nhớp nháp mồ hôi. Bằng sự tiếp xúc ấy, nàng đang cuống quýt tìm cách đưa ông ta trở về với cuộc sống, truyền cho ông ta sức lực của mình mà lúc này, giữa biển khơi, nàng có thể san sẻ một cách tự do.
    Ông ta rùng mình. Cái dịu dàng khác lạ của bàn tay đàn bà có lẽ đã thấm sâu vào cõi vô thức của ông ta.
    Ông ta cựa mình và cặp mắt hé mở. Angiêlic từ nãy đến giờ vẫn rình chờ cái nhìn đầu tiên ấy. Cái nhìn trong cơn hấp hối hay cái nhìn của một con người đang trở về với sự sống?
    Nàng yên tâm. Ông Gabrien mở mắt, đồng thời ông ta cũng rũ bỏ luôn cái vẻ liệt nhược và nỗi ngao ngán trước cảnh tượng con người cường tráng ấy trở nên yếu đuối, mờ nhạt. Dù vẫn còn vướng vất chút ảnh hưởng của cơn mê kéo dài, cái nhìn của ông ta có chiều sâu và chứng tỏ ông ta nhìn thấy. Tia mắt ông ta đảo lướt qua vòm trần thấp, chỉ được chiếu sáng lờ mờ của khoang boong rồi ngưng lại trên khuôn mặt Angiêlic lúc đó gần kề mặt mình.
    Nàng biết ngay rằng người bị thương còn chưa lấy lại được tính tự chủ của mình, bởi vì chưa bao giờ nàng thấy ông ta biểu lộ một vẻ nhìn hau háu và mê đắm đến như vậy, kể cả trong cái ngày bi thảm, khi ông ta bế nàng trong tay để thoát vòng vây cảnh sát.
    Lần duy nhất ông ta thú nhận với nàng điều ông ta chưa bao giờ có thể thú nhận với cả chính mình: nỗi thèm khát của bản thân ông ta đối với nàng! Khép mình trong lớp vỏ cứng của đạo đức, của khôn ngoan, của ngờ vực, dòng chảy mãnh liệt của một tình yêu như vậy chỉ có thể được bộc lộ trong thời điểm này, khi mà ông ta đã trở nên liệt nhược, dửng dưng với thế giới bên ngoài.
    -Bà Angiêlic – ông ta thì thào.
    -Tôi đây mà.
    “May sao không ai thấy - nàng nghĩ - mọi người đều ở chỗ khác”.
    Trừ Abighen cũng quỳ ở phía sau, đang rì rầm cầu nguyện, có thể cô ta thấy.
    Gabrien Bécnơ liếc nhìn về phía Angiêlic. Liền sau đó, ông ta rên khẽ và lại nhắm mắt.
    -Ông ấy vừa cử động đấy – Abighen thầm thì.
    -Ông ấy còn mở mắt nữa.
    -Vâng, em có thấy.
    Đôi môi của nhà thương gia cử động một cách khó nhọc:
    -Bà Angiêlic…chúng ta đang ở đâu?
    -Ở ngoài biển… Ông bị thương…
    Khi ông ta nhắm mắt, nàng không còn bị vẻ mặt của ông ta ám ảnh nữa. Nàng chỉ còn nghĩ tới trách nhiệm của mình đối với ông ta, cũng như hồi còn ở La Rôsen, khi tối tối ông ta ngồi trước cửa sổ, chờ nàng mang đến một tách trà, hay rượu vang hâm nóng cùng với một lời nhắc nhở rằng sức khoẻ ông ta sẽ giảm sút vì ít ngủ.
    Nàng vuốt ve vầng trán rộng. Hồi ở La Rôsen nàng vẫn ao ước được làm thế mỗi khi nàng thấy ông ta lo lắng, hoặc bị nỗi dằn vặt đè nặng nhưng cố che lấp đi dưới cái vẻ bình thản. Cử chỉ của tình mẫu tử, của tình thân. Giờ đây nàng đã có thể tự cho phép mình làm như thế.
    -Tôi ở đây mà, bạn thân mến…Nằm yên nhé.
    Cảm thấy một món tóc nhầy dính, nàng rút bàn tay ra và thấy bê bết máu. Ôi! Thế là ông ta bị thương cả ở đầu. Té ra vì thế mà cơn ngất mới kéo dài. Bây giờ ông ta phải được chăm sóc tốt hơn, phải được sưởi ấm, được băng bó và chắc chắn sẽ qua khỏi. Nàng đã thấy nhiều người bị thương, nhờ đó nàng có thể chẩn đoán được trường hợp của ông ta.
    Nàng ngồi thẳng dậy và bỗng nhận thấy một sự im lặng lạ lùng ngự trị khắp trong khoang. Tiếng bàn tán quanh chậu xúp đã ngừng, cả bọn trẻ cũng ngồi im thin thít. Nàng ngước nhìn lên, và cùng lúc với cú giật thót tim, nàng thấy Rescator đang đứng dưới chân người bị thương. Ông đứng đó bao lâu rồi? Ở khắp mọi nơi Rescator xuất hiện, ông đều bắt đầu bằng cách tạo ra sự im lặng. Im lặng thù nghịch hoặc chỉ đơn giản là sự nghi ngờ gây nên bởi cái nhìn qua chiếc mặt nạ màu đen bí ẩn.
    Một lần nữa Angiêlic nghĩ, quả thật ông là con người khác lạ.. Nàng không có cách cắt nghĩa nào khác sự bối rối và thứ sợ hãi mà nàng cũng cảm thấy khi thấy ông ở đây. Nàng không biết ông đi tới, và những người khác chắc cũng thế thôi, bởi vì dưới ánh sáng đèn trong khi quan sát người chủ tàu ở chung với họ, vẻ mặt những người Tin lành hiện lên một thứ sợ hãi khủng khiếp, như thể ông là con quỷ hiện hình. Họ càng bối rối hơn khi thấy xuất hiện bên cạnh Rescator một nhân vật kỳ quái, một con người dài ngoẵng và gậy guộc, bận áo dài trắng dưới mộc chiếc áo choàng dài có thêu thùa. Bộ mặt ông ta đầy nếp nhăn như được tạo ra bởi con dao của một người thợ tạc gỗ, chỉ là bộ khung xương được bao bọc một lớp da già cỗi, đen đủi với một cái mũi to đùng trên đó lấp lánh cặp kính lớn gọng đồi mồi.
    -Tôi dẫn đến cho các vị người thầy thuốc A rập của tôi – Rescator nói bằng giọng trầm.
    Có thể ông nói với Manigôn lúc đó đứng phía trước. Nhưng Angiêlic có cảm tưởng là ông ta chỉ nói với nàng.
    - Xin cảm ơn ông – nàng trả lời.
    Anbe Parin gầm gừ:
    -Một thầy thuốc Ả rập! Lão ta lại không làm nặng thêm nữa ấy.
    -Các bạn có thể tin ở ông ấy – Angiêlic quả quyết với vẻ khó chịu – khoa y học Ả rập có sớm nhất và hoàn hảo nhất thế giới.
    -Tôi xin cảm ơn, thưa bà – ông già trả lời. Trong giọng nói của ông không phải không có chút mỉa mai khó nhận thấy dành cho đám người đồng cảnh của nàng. Ông già nói bằng một thứ tiếng Pháp rất chuẩn.
    Ông ta quỳ xuống và bằng đôi bàn tay thành thạo, nhẹ nhàng - giống như những chiếc que nhỏ bằng gỗ hoàng dương lướt nhẹ qua – ông ta xem xét các vết thương của người khách. Ông này cựa quậy. Đột nhiên giữa lúc ít ai ngờ tới, ông Bécnơ ngồi bật dậy, và nói một cách giận dữ.
    -Xin hãy để tôi yên! Tôi chưa bao giờ ốm và tôi cũng không có ý đinh bắt đầu ốm vào hôm nay.
    -Ông không ốm, ông bị thương mà – Angiêlic nói với vẻ kiên nhẫn.
    Nàng nhẹ nhàng vòng tay ôm lấy vai ông ta, đỡ cho ông ta ngồi.
    Ông thầy thuốc nói với Rescator bằng tiếng Ả rập. Các vết thương, theo lời ông ta, tuy sâu nhưng không nguy kịch. Chỉ có vết đâm ở hộp sọ là cần theo dõi lâu hơn. Sau khi người bị thương đã tỉnh táo, chắc chắn vết đâm ấy chỉ còn gây mệt mỏi một vài ngày.
    Angiêlic nghiêng đầu về phía ông Gabrien, để dịch cho ông ta nghe tin tức tốt lành ấy.
    -Ông ấy nói rằng nếu ông chịu khó tĩnh dưỡng, chẳng mấy chốc mà bình phục.
    Nhà thương gia mở mắt nhìn nàng với vẻ nghi ngờ.
    -Bà biết tiếng Ả rập, bà Angiêlic?
    -Chắc chắn bà Angiêlic biết tiếng Ả rập – Rescator trả lời – Thưa ông, thế ông không biết rằng đã có thời bà là một trong những người tù nổi tiếng nhất vùng Địa trung hải sao?
    Lời giải thích ấy gây ấn tượng đối với Angiêlic không khác gì một cú đánh hèn hạ. Nàng không phản ứng tại trận, bởi vì việc đó xem ra quá bỉ ổi đến mức nàng không dám chắc đã nghe đúng như vậy.
    Nàng cởi áo khoác của mình ra đắp cho ông Gabrien, vì không còn một chiếc chăn nào khác.
    -Ông thầy sắp đưa thuốc đến cho ông đấy, cơn đau của ông sẽ dịu lại. Ông có thể ngủ được.
    Nàng nói bằng một thứ giọng bình tĩnh, nhưng lòng nàng đang rung lên vì tức giận.
    Rescator có thân hình to lớn. Ông chế ngự đám người đứng xung quanh trong một thứ im lặng sững sờ. Khi ông quay bộ mặt đen bọc da về phía họ, những người Tin lành đều lùi lại. Phớt lờ cánh đàn ông, ông chỉ đưa mắt tìm các khăn trùm và mũ chụp trắng của phụ nữ.
    Rồi ông ngả mũ chào hết sức duyên dáng.
    -Thưa quý bà, nhân dịp này tôi xin chúc mừng sự có mặt của quý bà trên tàu tôi. Tôi rất tiếc là không thể tạo cho quý bà nơi ăn chốn ở đầy đủ tiện nghi hơn. Bởi lẽ quý bà không phải là người chúng tôi chờ đợi. Tôi hy vọng trong suốt chuyến vượt biển này sẽ không xảy ra điều gì làm quý bà khó chịu. Sau cùng, tôi xin chúc quý bà ngủ ngon.
    Đến cả bà Sara Manigô người vẫn quen thú tiếp hàng xóm láng giềng ở La Rôsen trong phòng khách của mình mà cũng không nói được lời nào để đáp lại. Vẻ ngoài của con người này như tuyên án họ. Thứ âm sắc hiếm thấy trong giọng nói của ông ta tạo cho mọi người cảm giác bị nhạo báng và đe doạ, làm sững sờ hết thảy đám đàn bà. Họ nhìn ông ta đầy vẻ khiếp hãi. Mãi cho đến lúc Rescator sau khi nói thêm một hai câu chào, lách qua vòng người để đi về phía cửa, theo sau là cái bóng đen ma quái của ông già thầy thuốc Ả rập, một đứa trẻ mới hét lên và đứng nép vào váy mẹ.
    Chính vào lúc đó, cô gái Abighen vốn rụt rè, thu góp được hết lòng cam đảm của mình, đánh bạo lên tiếng. Cô ta nói bằng thức giọng nghẹn ngào.
    -Xin cảm tạ ngài về những lời chúc mừng, thưa Đức ông, và chúng tôi còn cảm ta ngài nhiều nữa về ơn cứu mạng trong ngày hôm nay, cái ngày đã trở thành kỷ niệm mà chúng tôi sẽ không bao giờ quên.
    Rescator quay lại. Bị bóng tối lờ mờ bao phủ, cô gái trông ủ dột và có vẻ khác thường. Ông tiến về phía Abighen đang sợ hết hồn, và sau thoáng chút đắn đo, ông ấp bàn tay vào má cô gái, bằng một động tác dịu dàng nhưng quả quyết xoay mặt cô ra ánh sáng.
    Ông mỉm cười. Nhờ ánh sáng của ngọn đèn kề bên cạnh, ông ngắm khuôn mặt trong trắng của cô gái đồng trinh xứ Flamăng, ngắm đôi mắt hiền từ vẫn còn mở to vì kinh ngạc và lo lắng. Cuối cùng ông nói:
    -Nòi giống châu Mỹ sẽ tốt hơn nhờ sự đóng góp của cô gái xinh đẹp này đây. Nhưng liệu Thế giới Mới sẽ có đánh giá đúng sự giàu có về tình cảm mà cô mang đến cho họ không, hở cô bạn? Tôi thì tôi hy vọng đấy. Trong lúc chờ đợi, hãy ngủ cho yên và đừng để trái tim vướng bận với người bị thương kia nữa nhé…
    Với một thái độ có phần nào khinh khỉnh, ông chỉ ông Gabrien.
    -… Tôi xin bảo đảm với ông rằng không có gì nguy hiểm cả và ông cũng chẳng đau xót về sự tổn thất đó đâu.
    Cánh cửa khoang tàu đã đóng lại mà những người chứng kiến màn kịch ấy vẫn chưa lấy được bình tĩnh.
    - Theo tôi – anh thợ đồng hồ nói với giọng buồn thảm – tay tướng cướp ấy chính là ma quỷ hiện hình.
    - Sao con lại dám táo tợn nói với ông ta những lời như vậy, hả Abighen? - Mục sư Bôke hỏi một cách tức tối – Khơi gợi sự chú ý của loại người ấy là điều nguy hiểm đấy, con gái của ta ạ!
    - Và những lời lẽ bóng gió ông ta nói về chuyện nòi giống châu Mỹ sẽ được lợi mới…sỗ sàng làm sao! – Ông thợ làm giấy vừa phản bác vừa đưa mắt nhìn Becti, con gái ông ta, với hy vọng cô gái không hiểu gì cả.
    Abighen đưa bàn tay lên ôm lấy hai má nóng bừng. Trong suốt quãng đời dài của một cô gái đức hạnh và không hề biết mình đẹp, chưa có người đàn ông nào dám bày tỏ với cô một cử chỉ như vậy.
    - Tôi nghĩ…Tôi nghĩ có lẽ chúng ta phải cám ơn ông ấy – cô gái ấp úng… - Dầu thế nào đi nữa ông ấy cũng đã đánh liều cả con tầu, cả sinh mạng của chính ông ấy và đồng bọn để cứu chúng ta.
    Cô đưa mắt nhìn từ vùng bóng tối, nơi Rescator vừa đi khuất tới chỗ ông Gabrien nằm.
    -Nhưng tại sao ông ấy lại nói thế? - Cô ta kêu lên - Tại sao ông ấy lại nói thế?...
    Cô ta gục mặt vào hai bàn tay và bật lên những tiếng nức nở cuồng loạn. Quờ quạng, lảo đảo, cô ta né tránh những người đứng quây quần xung quanh, để đi tới, và gieo mình xuống, ngồi tựa vào một góc giá súng khóc tức tưởi một cách tuyệt vọng.
    Sự suy sụp của cô gái Abighen là tín hiệu báo trước cho đám đàn bà con gái về một thời kỳ trầm uất. Nỗi đau buồn tích tụ từ lâu đang bùng phát. Sự khiếp hãi từng trải trong thời gian chạy trốn và lên tàu vẫn còn giày vò họ. Chỉ có tiếng khóc và nước mắt mới có thể làm họ nguôi ngoai. Mộ người đàn bà trẻ đang có mang dập đầu vào tấm vách ngăn và lặp đi lặp lại:
    -Tôi muốn quay về La Rôsen…Con tôi sẽ chết mất…
    Anh chồng chị ta chả biết làm cách nào cho chị ta dịu lại. Ông Manigô liền chộp lấy thời cơ, nói một cách cương quyết nhưng đồng thời cũng tỏ vẻ bất lực.
    -Nào, các bà, hãy nén đi một chút. Quỷ hay không quỷ thì ông ta cũng có lý. Chúng ta mệt mỏi lắm rồi, phải đi ngủ thôi…Đừng khóc nữa. Tôi xin báo rằng người nào nín cười cũng sẽ bị hắt một chậu nước biển vào mặt đấy.
    Sự im ắng trở nên đường đột, hoàn toàn.
    - Và bây giờ chúng ta hãy cầu nguyện - mục sư Bôke nói - bởi vì hỡi những con người yếu đuối, chúng ta không đến đây để chỉ nghĩ đến than vãn mà không tạ ơn đấng Tối cao đã cứu vớt chúng ta.





  2. #2
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default




    Chương 2



    Lợi dụng lúc ồn ào Angiêlic lẩn ra ngoài. Leo hết một cầu thang nhỏ, nàng dừng lại, đứng tựa vào lan can kề bên cạnh. Khí lạnh ban đêm đẫm hơi nước mặn thấm vào nàng, nhưng nàng không thèm để ý. Phẫn uất và điên dại đủ làm nàng nóng bừng lên.
    Những ngọn đèn treo trên các cột buồm và tay vịn không đủ sức xua tan hoàn toàn bóng tối sâu thẳm. Nhưng phía sau chân đế của cột buồm lớn, nàng vẫn có thể nhận ra những ô kính màu đỏ của căn buồng dành cho Rescator. Theo hướng đó nàng tiến về phía trước bằng bước chân vững chãi, nhờ tiềm thức đang tìm lại được thói quen đi trên cầu tàu đung đưa hồi ở Địa trung hải.
    Đang đi, nàng đụng phải một người nào đó và chưa kịp kêu lê vì kinh hãi thì đã cảm thấy một cái xiết cháy bỏng thít chặt lấy cổ tay mình. Nhờ sự tiếp xúc đó, nàng nhận ra bàn tay đàn ông, và trong khi cố sức để nới lỏng bàn tay ấy, một viên kim cương của chiếc nhẫn đã cứa vào tay nàng.
    -Bà đi đâu thế này, bà Angiêlic – Rescator hỏi – và làm sao bà giẫy ghê thế?
    Thật tức điên lên khi cứ phải luôn luôn nói với chiếc mặt nạ. Với cái mặt bằng da ấy trông ông như một con quỷ. Nàng không thể nhận ra ông trong sương mù, và khi nàng ngẩng mặt về phía giọng nói, cũng không khác gì nàng nói với đêm tối.
    -Bà định đi đâu vậy? Liệu có phải bà đang đi về phía tầng thượng đuôi tàu để tìm tôi ở đó không?
    - Hoàn toàn đúng! – Nàng thét lên - Bởi vì tôi muốn báo cho ông biết rằng tôi không thể chịu nổi những lời bóng gió của ông về quá khứ của tôi trước các bạn tôi. Tôi cấm ông, ông hãy nghe cho rõ, tôi cấm ông để những người đó biết rằng tôi đã từng là nô lệ ở Địa trung hải, và ông đã mua tôi ở Canđi hoặc giả tôi đã có mặt trong hậu cung của Mulai Ismail, không được nói bất cứ điều gì liên quan đến tôi. Tại sao ông dám nói ra với họ điều đó? Như vậy là hoàn toàn thiếu lịch sự đối với phụ nữ.
    -Có những người phụ nữ thích lịch sự, nhưng cũng có những người phụ nữ khác không thích.
    -Tôi cấm ông xúc phạm tôi thêm nữa. Ông là một người đàn ông thô lỗ, bất lịch sự với phụ nữ… Một tên cướp tầm thường.
    Nàng ném ra lời thoá mạ cuối cùng ấy với tất cả sự khinh bỉ mà nàng có thể huy động được. Nàng có ý định chấm dứt để gỡ mình ra, bởi vì lúc này, cả hai cổ tay của nàng đều bị ông nắm giữ. Đôi bàn tay Rescator ấm sực như bàn tay của một người đàn ông khoẻ mạnh, và quen coi thường mọi thời tiết, khí hậu khác biệt nhất, cũng như ngọn lửa nóng từ chính nàng phát ra, ngọn lửa đang làm nàng bức bối và phát điên lên được.
    Một lúc sau bàn tay Rescator không còn gây cảm giác khó chịu, mà trở nên thoải mái. Nhưng chưa phải lúc để nàng chấp nhận điều đó. Lúc này, dường như đối với nàng, Rescator là một con người đáng căm ghét và nàng chỉ muốn nghiền nát ông ta.
    -Bà không chịu nổi…bà cấm tôi…- ông đay lại - Chỉ cần một câu nói của tôi, bà mất đầu ngay, cô bé quạ mổ ạ. Bà quên rằng tôi là ông chủ duy nhất của chiếc tàu và tôi có thể cho treo cổ bà, ném bà xuống biển, hay quẳng bà cho bọn lâu la làm đồ chơi, nếu tôi xét thấy làm như vậy là tốt.
    Không nghi ngờ gì nữa, chính bà đã nói với ông bạn Đetxcranhvin, một loạt những hình ảnh trở lại với nàng. Trước kia, nàng sống giằng co giữa các cuộc phiêu lưu trong quá khứ và ý thức hiện tại. Chính trên con tàu này, với sự có mặt của con người này, Rescator, mà nàng sắp tìm thấy giải hợp lưu của tất cả các cuộc sinh tồn.
    “Mong rằng ông ta thả mình ra – nàng van vỉ chính mình - bằng không mình sẽ thành cái gì, nô lệ của ông ta, đồ chơi của ông ta. Ông ta đang tước bỏ sức mạnh của mình. Tại sao?”
    -Bà vẫn còn nhớ tới triều đình của Đức Vua chứ, thưa phu nhân Plexi-Belie? – Rescator hỏi bằng giọng trầm - nhờ vậy bà mới tỏ ra ngạo nghễ đến thế chứ? Hãy cẩn thận, bà không còn có ở phía sau sự bảo hộ của người tình vương giả nữa đâu…
    Nàng đột ngột lùi bước với một sự khéo léo, không kém phần đỏm đáng nhưng cũng khá ngay thẳng, cái tính cách vẫn thường làm lắng dịu những cơn thịnh nộ nguy hiểm nhất có khả năng thức dậy để chống lại nàng.
    - Thưa Đức ông Rescator, xin hãy tha thứ cho tôi về những lời nói dại dột. Tôi điên đấy mà. Quả thật tôi không còn có ở phía sau cái mà tôi tưởng tôi có ở bạn hữu. Ông kiếm được lợi lộc gì trong việc chia cách tôi với những người bạn cuối cùng của tôi?
    -Quá khứ gây cho bà sự hổ thẹn lớn lao tới mức bà run sợ đến thế khi nghĩ rằng mọi người đã biết ư?
    Nàng trả lời, và những tiếng nói cứ tràn qua môi mà không có sự can dự của ý thức.
    - Đã đi đến nửa đường đời, và đã sống nhiều, có con người nào xứng đáng với danh hiệu ấy lại không có trong ký ức của mình một đôi điều hổ thẹn cần phải che dấu?
    -Vậy là sau cơn thịnh nộ, bà lại trở về với triết lý suông đấy.
    “Thế là – nàng nghĩ – mình đã trở nên gần gũi một cách lạ lùng với con người này. Tại sao?”
    -Ông nên biết rằng – nàng nói tiếp như thể đang nói với một người bạn – tâm tính những người theo đạo Tin lành này khác hẳn chúng ta. Họ khác ông và những người trong đoàn thuỷ thủ của ông. Ông đã xúc phạm kinh khủng cô gái khốn khổ Abighen khi nói với cô ta một cách suồng sã như thế và nếu họ phát hiện ra rằng tôi có thể phụ hoạ, thì dù là tôi đi nữa, vẫn mang tai tiếng đấy.
    Thình lình, xảy ra điều đã có lúc nàng mong đợi một cách vô thức.
    Ông kéo nàng dịch sát vào mình và ôm chặt lấy, làm nàng phát đau lên. Vẫn trong tư thế ấy, ông đẩy nàng đi vài bước và nàng cảm thấy mình đứng áp vào lan can của thành tàu. Một cú trao lắc đưa nàng đến đối diện với ngọn nước bắn tung cao của đợt sóng. Nàng nhận ra ở phía trên đầu mình, cái đỉnh bù xù nhợt nhạt của bọt nước. Một thứ ánh sáng mờ câm lặng, ánh sáng của mặt trăng bị lớp mây dày đặc che phủ, nhưng trong phút chốc, chọc thủng qua mây, rải lên mặt biển một ánh phản chiếu màu bạc xỉn.
    -Có thật không? – Rescator nói – có thật có nhiều khác biệt giữa những người theo đạo Tin lành ấy với những người trong đoàn thuỷ thủ của tôi? Giữa ông mục sư đáng kính tóc bạc mà tôi vừa thoáng nhìn thấy với tôi, tên kẻ cướp tàn bạo của tất cả các vùng biển trên trái đất?...Giữa cô Abighen đứng đắn và tiết hạnh với một kẻ tội lỗi khủng khiếp trong bản chất con người bà…? Nhiều khác biệt ư?...Khác những gì hả bà bạn thân yêu? Hãy nhìn quanh chúng ta đây này…
    Lại một đám bụi nước bắn vào vỏ tàu hắt lên làm ướt mặt Angiêlic và vì khiếp sợ cái vực thẳm tối tăm mà ông đang buộc mình phải nhìn xuống, nàng đưa bàn tay ra bíu lấy tấm áo chẽn bằng nhung của ông.
    -Không – ông nói – chúng ta không có gì khác nhau cả. Chúng ta chỉ là một số những con người, cùng đáp chung một con tàu, giữa đại dương!
    Trong khi nói với nàng, đôi môi ông gần kề một cách nguy hiểm với môi nàng. Chừng nào chúng chưa chạm sát vào nhau, nàng vẫn còn có thể đổi chọi với ông. Nhưng lúc này nàng đang hoảng hốt vì cảm thấy mình tự buông thả. Nàng cũng chẳng còn biết gọi tên là gì sự bấn loạn kỳ cục đang tàn phá nàng. Đã lâu lắm, nàng chưa trải qua một lần nào như thế này. Nàng tự nhủ: sợ hãi, và chính nó, ham muốn. Ý nghĩ cho rằng ông dùng ma lực để chế ngự mình và lôi mình vào một tình thế bắt buộc khiến nàng cứng rắn lên. “Nếu cả buổi tối nay chúng ta ở trên tàu như thế này – nàng nghĩ – chúng ta sẽ phát điên lên tất cả và sẽ giết lẫn nhau cho bằng hết trước khi kết thúc cuộc hành trình”.
    Và vàng quay đi đến nỗi môi của tay tướng cướp lướt nhẹ qua thái dương nàng. Chỉ cảm thấy cú va chạm mạnh của chiếc mặt nạ bằng da, và thế là thoát ra khỏi cái ghì ôm chặt cứng, nàng lùi ra xa, quờ quạng tìm chỗ bấu víu.
    Nàng còn nghe giọng nói của ông, vẻ giễu cợt:
    -Việc gì bà phải tránh? Tôi chỉ có ý định mời bà dùng bữa chiều thôi mà. Bà sẽ cảm thấy khoái trá nếu bà là người thích ăn ngon, bởi vì tôi có một người đầu bếp tuyệt vời.
    -Ông nghĩ thế nào mà dám đề nghị với tôi như thế nhỉ? – Nàng nói với vẻ phẫn nộ - Nghe ông nói, cứ như thể trong cung Vua ấy! Tôi phải chia sẻ với số phận của bạn bè tôi. Và với người bị thương, ông Bécnơ.
    -Ông Bécnơ? Cái người bị thương được bà chăm sóc hết sức dịu dàng đó phải không?
    -Đấy là người bạn tốt nhất của tôi. Ông ấy đã giúp tôi và con tôi…
    -Này, theo ý thích của bà, tôi vui lòng chấp nhận việc hoãn trả món nợ bà còn mắc, nhưng khi coi trọng khoang boong ẩm ướt hơn phòng riêng của tôi thì bà sai lầm đấy, bởi vì theo tôi, bà có vẻ là một người sinh ra vốn đã kém chịu rét. Mà này, bà đã làm gì với chiếc áo choàng bà mượn của tôi đêm ấy?
    -Tôi không biết nữa – Angiêlic nói và cảm thấy có lỗi.
    Nàng ấp bàn tay lên trán cố nhớ lại. Có lẽ nàng đã bỏ quên.
    -Tôi…tôi nghĩ rằng tôi đã bỏ lại ở nhà – nàng nói.
    Và đột nhiên ngôi nhà ở La Rôsen với chiếc lò sưởi đã nguội tắt hiện ra trước mắt nàng.
    Nàng thấy lại, một cách rõ ràng, những bộ bàn ghế đẹp đẽ, những đồ đạc bằng đồng sáng choang trong nhà bếp, những gian buồng mờ tối, ngời lên con mắt tròn lấp lánh của chiếc gương Vơnidơ quý giá, và những tấm thảm trải dọc cầu thang, những bức chân dung với vẻ mặt chăm chú của những tay tướng cướp và các thương gia xứ La Rôsen. Nỗi luyến tiếc não nề nơi nương náu mà nàng chỉ ở đó với danh hiệu con sen đấy là tất cả những gì nàng mang theo của Thế giới cũ. Đằng sau vẻ thanh bình ấy, những ngọn đèn xếp của điện Vecxây nhoà nhạt đi, những trận chiến đấu ác liệt của nàng, cho đến cả nỗi cay đắng có thể gợi lên trong lòng nàng hoài niệm về lâu đài Plexi với những đổ nát cháy đen, nằm giữa lòng Poatu, tình quê hương bị tàn phá, chỉ để nguyền rủa mãi mãi.
    Nhưng từ lâu, hình ảnh Môngtơlu đã rời bỏ nàng. Môngtơlu nay đã thuộc về Đơni và có những đứa trẻ ra đời ở đấy. Đến lượt chúng rình chờ trong các lối đi, bóng ma của bà già có đôi bàn tay quờ quạng, và tự chúng bày đặt trong cảnh nghèo khổ cao sang của chúng một thời trẻ thơ đầy kỳ thú.
    Đã từ lâu Angiêlic không còn ở Môngtơlu, cũng không ở Poatu. Và cho đến khi nàng chui vào khoang boong này, kỷ niệm duy nhất vẫn bám riết theo nàng là cái cảnh ông Gabrien dụi tắt những mẩu củi đang cháy dở cuối cùng trong lò sưởi nhà mình, trước khi bế bé Lôriê và ra đi.
    Đêm ấy, sau mí mắt khép lại của những kẻ lưu vong đang lần lượt diễu qua kỷ niệm về những ngôi nhà đẹp đẽ ở La Rôsen, trống trải không một bóng người, mặc cho ánh trăng của bầu trời Onix vẫn tuôn chảy xuống quanh thềm. Cửa kính đóng lại như con mắt người chết, chúng lặng yên chờ đợi, và chỉ có tiếng sột soạt của cây cọ ngoài sân và cây lila Tây Ban Nha bên tường mới gợi nhớ cuộc sống đã qua.
    Khoang tàu tối và lạnh. Người ta đã tắt hai ngọn đèn để cho lũ trẻ vạ vật vì quá mệt có thể ngủ được. Vài tiếng người lẩm bẩm, thì thào. Một anh chồng đang cố làm yên lòng vợ bằng tài thuyết phục “Rồi em sẽ thấy!... Rồi em sẽ thấy!... Khi chúng mình đến đảo, mọi việc sẽ đâu vào đấy cả”.
    Bà Care động viên chồng.
    -Ở đảo, ông sẽ làm ra chẳng kém gì ở La Rôsen đâu. Lúc đó thử hỏi chúng mình mất cái gì nào?
    Angiêlic lần tới quầng sáng, nơi Manigô và ông mục sư hãy còn thức, bên cạnh người bị thương. Ông này đã ngủ, nom có vẻ tươi tắn và bình tĩnh hơn trước. Hai người thông báo vắn tắt rằng ông thầy thuốc đã tới cùng với một người giúp việc. Họ băng bó cho ông Bécnơ và cho ông ấy uống một thứ thuốc gì đó, nhờ thế cơn đau đã dịu đi nhiều.
    Nàng không nài nỉ để được nhận phiên gác của mình. Nàng cảm thấy mình cần được nghỉ ngơi, không phải vì quá mệt, mà vì hình như trong đầu nàng đầy ắp những ý nghĩ ngổn ngang. Nàng còn chưa nắm vững tình thế, vả lại, bóng tối nhập nhoạng và những chao lắc của con tàu cũng có thể gây nên một cái gì đó.
    “Ngày mai trời sẽ sáng. Ngày mai mình sẽ biết!”
    Nàng nói hầu như không nghĩ trong lúc lần tìm Ônôrin. Đang đi, chợt có một bàn tay túm lấy nàng, Xêvêrin chỉ hai đứa em đã nằm ngủ.
    -Cháu ru chúng nó ngủ đấy - cô bé nói một cách tự hào.
    Cô lấy áo khoác đắp cho các em, và còn phủ quanh chân chúng một mớ rơm chẳng biết lấy được ở đâu. Xêvêrin đã thành một người đàn bà thực thụ rồi. Cô gái dễ tủi thân trong đời sống bình thường đã tỏ ra hết sức vững vàng trong những giờ phút hoạn nạn.
    Angiêlic ôm chặt cô bé như một người bạn tâm tình.
    Cô bé nói tiếp một cách sôi nổi:
    -Đúng là bố cháu bị thương, nhưng cháu nghĩ điều đó vẫn không nghiêm trọng bằng việc bố bị bỏ tù và chúng cháu phải xa cách bố mãi mãi…Theo ông thầy thuốc mặc áo dài, thì chỉ nội ngày mai, bố cháu sẽ khỏi thôi. Cô Angiêlic ạ, cháu đã cố cho Ônôrin ngủ, nhưng em ấy nói rằng em ấy không buồn ngủ vì em ấy không có cái hộp châu báu.
    Tâm hồn các bà mẹ được trời phú cho một cái nhìn đặc biệt. Trong tất cả các biến cố dồn tụ vào mấy tiếng đồng hồ vừa qua, chỉ riêng việc bỏ quên hộp châu báu của Ônôrin, là để lại cho Angiêlic hậu quả nặng nề nhất và khó cứu vãn nhất. Nó đè nặng tâm hồn nàng. Con gái nàng nép mình bên một khẩu pháo, đứng yên, vẫn thức như một chú mèo rừng nhỏ dại.
    -Con muốn có hộp châu báu.
    Angiêlic còn đang lưỡng lự chưa biết nên thuyết phục hay dùng biện pháp mạnh mẽ cuối cùng, thì đúng lúc ấy, nàng nhận ra một thân hình ủ rũ bên cạnh Ônôrin, và thực tế đó là nơi nương tựa của cô bé.
    -Abighen?...Có phải em đấy không? Nhưng tại sao lại?...
    Vẻ ủ ê của Abighen, cô gái lúc nào cũng trang nghiêm và đúng mực, làm nàng lúng túng.
    -… Có chuyện gì xẩy ra vậy? Em đau hả?
    -Ôi! Em xấu hổ làm sao - Cô thiếu nữ trả lời, giọng nghẹn ngào.
    -Nhưng mà làm sao?
    Abighen chẳng ngốc nghếch cũng không hề có tính cả thẹn. Dù sao đi nữa cô ta cũng chưa đến nỗi choáng váng vì bị Rescator vuốt má.
    Angiêlic kéo cô ta dậy và nhìn thẳng vào mặt cô ta:
    -Có việc gì đấy?...Tôi không hiểu.
    -Nhưng những điều ông ấy nói, thật kinh khủng!
    -Những điều nào cơ?
    Angiêlic cố nhớ lại cảnh tượng ấy. Nếu như cung cách xử sự của Rescator đối với Abighen có gì xấc xược và không đúng mực - nhưng đấy lại chính là cung cách quen thuộc của ông - thì các từ ngữ ông nói không có gì phải lo lắng.
    - Bà mà không biết? - Cô thiếu nữ ấp úng…- Có thật thế không?
    Nỗi xúc động làm Abighen tươi tắn ra, và với hai bầu má đỏ rựng và cặp mí mắt sưng mọng, quả thật cô ta đẹp. Nhưng chỉ có cái lão Rescator chết tiệt ấy mới nhận ra vẻ đẹp của cô ta ngay từ cái nhìn đầu tiên. Angiêlic nghĩ ngay tới lúc ông ôm chặt lấy nàng mà nàng không hề cảm thấy hoảng sợ. Ông đối xử như vậy với tất cả và với từng người xung quanh ông, trước hết là với phụ nữ, như thể ông là một ông Vua có quyền đối với mọi thần dân.
    Cô gái tỏ vẻ phẫn nộ.
    - Abighen, để ý làm gì thái độ ông chủ tàu hở em. Em chưa quen với bọn người ấy, cũng như với các cuộc phiêu lưu mà tôi đã trải qua, ông ta còn…còn…
    Nàng không tìm được từ ngữ để diễn đạt ý mình.
    -Thật không thể chịu nổi - Nàng kết luật - Nhưng trong tình thế hiểm nguy ghê gớm đang đe doạ chúng ta, tôi thấy chỉ cái con người ngoài pháp luật ấy mới có thể kéo chúng ta ra khỏi một số phận bi thảm. Giờ đây chúng ta đang nằm trong tay họ. Phải chấp nhận ông ta cùng đám thuỷ thủ của ông ta, và chú ý để đừng chọc vào sự hung hăng của họ. Cái dạo tôi đi đến vùng Địa trung hải ấy - tại sao lại phủ nhận một khi đã biết ông ta lịch sự như thế nào - tôi chỉ gặp ông ta có một lần, nhưng mà danh tiếng ông ấy lớn lắm. Đó là một tên cướp không tín ngưỡng cũng chẳng có lương tâm nhưng tôi không nghĩ rằng ông ta không biết trọng danh dự.
    -Ô! ông ấy chẳng làm em sợ đâu – Abighen vừa thì thầm vừa lắc đầu.
    Nét mặt cô ta dịu lại, và cô ta ngước về phía Angiêlic cái nhìn vốn có, đầy vẻ ngoan ngoãn.
    -Bí ẩn làm sao những con người sát cánh bên ta hàng ngày! - Cô ta nói, vẻ mơ màng – bà Angiêlic, do việc tấm màn mà bà cứ khăng khăng trùm lên quá khứ của bà đã được vén lên, có vẻ như với em bà vừa gần lại vừa xa. Liệu chúng ta còn có thể hiểu nhau hơn nữa không hở bà?
    -Tôi cũng đang nghĩ thế, em thân yêu ạ! Abighen thân yêu, nếu em muốn thế, tôi và em sẽ mãi mãi là bầu bạn.
    - Em muốn thế vô cùng. Trong chuyến đi này, bà Angiêlic ạ, nếu hận thù và ty tiện trong con người chúng ta mạnh hơn tình thương, chúng ta sẽ vỡ tan như thuỷ tinh, chúng ta sẽ không sao sống sót nổi.
    Kìa, cô ta đang đột ngột bày tỏ cùng một ý tưởng như Rescator vừa nãy đó thôi: “Chúng ta chỉ là những người đàn ông, những người đàn bà đi trên cùng một con tàu, với những ham muốn, những nuối tiếc, và hy vọng”.
    -Quả là một điều lạ lùng, bà Angiêlic ạ - Abighen tiếp tục nói rất khẽ - thế là bỗng dưng phát hiện ra những tầm vóc khác của cuộc sống. Giống như người ta đột ngột kéo tấm màn sân khấu, và cái cảnh ta tưởng chỉ có vậy, không hề thay đổi đã được trang trí lại và mở rộng ra đến vô cùng. Đấy chính là cái bất ngờ đã xảy đến với em hôm nay, cho đến tận lúc chết em vẫn còn nhớ. Không phải vì những hiểm nguy chúng ta trải qua, mà trước hết, vì những phát hiện em vừa đạt được…Có thể em cần phải tiếp nhận những cái đó để chuẩn bị cho cuộc sống đang chờ đợi chúng ta ở bên kia đại dương… Chúng ta cần phải vặt trụi đi lớp vỏ cũ của mình… Em nghĩ một cách sâu sắc rằng chính là một phép màu nhiệm đã buộc chúng ta phải đáp con tàu này…nói một cách chính xác là con tàu của con người này…
    Đôi mắt cô ta lấp lánh đến nỗi Angiêlic như không còn nhận ra Abighen. Cô gái La Rôsen mờ nhạt, có vẻ nhẫn nhục như mọi người đôi khi vẫn nói.
    -Bởi vì cái con người mà bà gọi là một kẻ ngoài vòng pháp luật ấy, bà Angiêlic ạ, em tin chắc rằng ông ấy biết đọc qua cái nhìn của ông ấy những bí ẩn được che giấu kín nhất trong đáy sâu của các con tim. Trong con người ông ấy có cả một thế lực.
    -Ở Địa trung hải, người ta gọi ông ta là Nhà quỷ thuật! – Angiêlic nói khẽ.
    Sự hoà nhập của Abighen tạo cho nàng một niềm vui phi lý không cắt nghĩa nổi. Nàng cảm thấy hứng khởi và đầy hứa hẹn. Nàng nghe tiếng các con sóng vỗ mạnh vào vỏ tàu. Sự chuyển động của con tàu làm nàng ngây ngất, và nàng sẽ có thể ở bên cạnh Abighen suốt đêm để tâm sự với cô ta về quá khứ của mình, về Rescator, nếu nỗi lo của người mẹ mà Ônôrin gây ra không trở lại với nàng.
    -Rõ khổ, Ônôrin lại không chịu ngủ chỉ vì không có hộp châu báu! - Nàng vừa thở dài vừa chỉ con người nhỏ bé vẫn đứng thẳng luôn luôn quay lưng lại, kề bên cạnh nàng, nom như một vị lãnh chúa quyền uy.
    -Ôi! Em thật có lỗi – Abighen vừa nói vừa đứng dậy.
    Bây giờ cô gái đã hoàn toàn trở lại bình tĩnh. Cô ta rời bỏ hai mẹ con, để đi tìm một cái gì đó trong bọc hành lý của mình và khi trở lại, mang theo một cái tráp nhỏ bằng gỗ mà Maxian đã làm cho Ônôrin.
    -Lậy Chúa tôi, Abighen – Angiêlic vừa kêu lên vừa chắp hai bàn tay vào nhau – em còn nghĩ được đến nó cơ à! Em là thiên thần! Em thật tuyệt vời! Này Ônôrin, vỏ sò vỏ ốc của con đây!...
    °°°
    Tiếp đó, tất cả trở thành đơn giản. Sự bình yên từ trái tim Ônôrin đã truyền sang trái tim người mẹ, Angiêlic lấy ra vài chiếc áo xống mang theo được, chỉ một cái váy, và một cái áo cánh của nàng là đủ cho cô bé tí tẹo một chiếc chăn rộng rãi.
    Nằm xuống sàn tàu cạnh đứa con, Angiêlic có thể yên tâm là con bé không còn thiếu bất cứ một cái gì. Còn bản thân nàng thì đã có lần ngủ trong nhà tù, với những hoàn cảnh còn bất tiện hơn nhiều, giấc ngủ không đến. Nàng nằm dựa vào thành tàu, cố lập lại trật tự cho cái đầu nhộn nhạo của mình.
    Ngày mai, điều gì sẽ xẩy ra?
    Nàng cảm thấy trên da thịt tay mình, vẫn còn lưu lại dấu ấn của hai bàn tay Rescator. Nghĩ đến đó, nàng thấy mình mềm yếu đi. Cảm giác lạnh lẽo lúc này gợi nhớ giây phút ông ta áp chặt vào nàng, lúc đó hình như nàng cảm thấy thích thú. Đã đành cũng sợ chết khiếp lên được. Vì bên dưới tấm áo chẽn nhung mà bàn tay nàng đụng vào đáng lẽ cảm thấy bộ ngực đàn ông cường tráng, thì nàng như đụng phải một mảng vách cứng đờ. Áo giáp lưới sắt, hay tấm che ngực bằng thép?... Con người của hiểm nguy, mỗi một giây phút đều nhìn thấy cái chết. Trái tim ông ta được bọc sắt. Vả chăng một con người như thế, liệu có thể có một trái tim không?
    Liệu nàng có phạm phải khinh suất để đi đến chỗ trở thành tình nhân của người đàn ông ấy không?...Không! Vả lại, nàng đã không còn khả năng trở thành tình nhân của bất cứ ai. Nếu ông ta quyến rũ nàng, thôi miên nàng bằng ma thuật như…ngày xưa, người nào đó đã khơi dậy trong tâm hồn nàng những tình cảm pha trộn cuốn hút và nghi ngại như thế, thì lúc đó sẽ ra sao? Mọi người cũng nói rằng ông hấp dẫn đàn bà bằng…
    Một tia sáng đèn rọi vào mặt làm nàng chớp mắt.
    -A, bà đây rồi!
    Một cái đầu bù xù nghiêng về phía nàng. Đấy là Nicôla Perôt, người đàn ông đội mũ trùm bằng lông thú.
    - Ông chủ bảo tôi mang cái này đến cho bà và một chiếc võng cho đứa trẻ.
    Một cuộn vải ấm sực, chưa biết áo choàng hay chăn đắp, khá nặng, có thêu thùa, mềm mại, như được dệt ra cho những người chăn lạc đà trên sa mạc Ả rập. Thứ mùi riêng biệt của phương Đông vẫn còn thấm trong vải.
    Bằng bàn tay thành thạo, Nicôla Perôt mắc võng vào những chiếc xà thấp. Nàng bế Ônôrin vẫn còn ngủ đặt lên đó.
    - Dù sao vẫn tốt hơn và đỡ ẩm. Có điều là không đủ tiện nghi cho tất cả. Tàu chúng tôi không có khả năng đáp ứng nhu cầu của nhiều người. Không dự kiến một chuyến đi vất vả thế này. Nhưng khi chúng ta đến vùng băng giá, sẽ có những lò sưởi bằng than được mang tới.
    -Về phần tôi, tôi xin cảm ơn Đức ông Rescator.
    Anh ta vừa chớp chớp mắt vẻ đồng tình vừa bước đi khệnh khạng trên đôi ủng to tướng bằng da hải cẩu.
    Tiếng ngáy nổi lên khắp trong khoang. Người ta đã tắt ngọn đèn thứ hai, chỉ còn lại ánh sáng ở chỗ người bị thương nằm. Tất cả chìm vào yên lặng. Angiêlic bó mình trong tấm chăn sang trọng. Sáng ngày mai, các bạn đồng hành sẽ không thể không chú ý đến sự ưu tiên mà nàng được hưởng. Lẽ nào Rescator lại không thể bảo mang đến cho nàng một chiếc chăn đỡ loè loẹt hơn? Không, ông đã có chủ đích rõ ràng. Với trò trêu chọc này ông đang đặt mọi người sang phía khác, làm họ ngạc nhiên, họ ganh tị, khơi dậy những phản ứng thấp hèn hoặc dữ tợn.
    Chiếc chăn ấy cũng là một sự xúc phạm đối với những kẻ khốn cùng khác.
    Nhưng rốt cuộc, có thể trong tay ông không còn một chiếc chăn nào khác? Rescator bị vây bọc giữa các đồ vật quý giá. Ông không thể biếu một món quà bình thường. Như vậy mới xứng đáng với ông. Ông quyền quý từ trong máu như… “Ông ta không có gươm, ông ta mang một thanh kiếm, nhưng vẫn là một nhà quý tộc, mình cam đoan rằng…cái cúi chào của ông ta vừa dùng cho các bà, không phải đóng kịch, cũng không phải là sự âu yếm. Ông ta không thể chào theo cách nào khác ngoài cách chào quý tộc. Và mình chưa bao giờ gặp một ai biết mặc áo choàng như ông, ngoài…”.
    Một sự so sánh bám riết lấy tâm hồn nàng. Rescator gợi nhớ trong ký ức nàng một người đàn ông…
    “Ông giống như một người nào đó mà ta đã biết. Có lẽ vì thế cho nên đôi lúc ta thấy ông quen quen, và ta đáp lại sự quan tâm của ông như đối với một người bạn cũ. Hiển nhiên là cùng một loại người, bởi vì nói rằng ông ta “giống” chỉ là cách ẩn dụ, ta đã bao giờ nhìn thấy mặt ông đâu. Nhưng cái dáng vẻ thư thái ấy, và cái thói đùa cợt ấy…phải rồi… quen thuộc với ta lắm và hơn nữa người ấy cũng đeo mặt nạ…”
    Tim nàng bắt đầu đập loạn. Nàng đột nhiên cảm thấy nóng rồi lạnh. Nàng ngồi dậy và đưa bàn tay đặt lên cổ họng như để ngăn một nỗi sợ không thể cắt nghĩa nổi đang làm nàng xúc động đến nghẹt thở.
    “Chàng đeo mặt nạ, nhưng đôi lúc chàng cởi ra và khi đó…”
    Nàng cố kìm một tiếng kêu. Đột nhiên nàng nhớ lại.
    Rồi nàng bắt đầu cười sằng sặc. “Đúng rồi, chính thế… Ông giống Giôphrây đờ Perắc, người chồng đầu tiên của ta. Chính vì thế nên ta mới phải hoài công nhớ lại”.
    Nhưng một cơn sốt khác thường vẫn tiếp tục hun đốt nàng. Đầu nàng đầy ắp những tia sáng muôn màu chớp loé liên tiếp như những ngọn lửa pháo hoa trong đêm Canđi.
    “Ông ấy giống chàng! Ông ấy đeo mặt nạ và ông ấy ngự trị ở Địa trung hải. Và nếu như đây chính là… chàng”
    Một đợt sóng nghẹn ngào dâng đầy ngực nàng. Tưởng chừng như trái tim nàng sắp vỡ tung dưới sức đẩy của một tiếng kêu hấp hối và vui sướng.
    “Chàng…Thế mà ta đã không biết…”
    Thế rồi đột ngột, nàng lấy lại được hơi thở…
    Nỗi an ủi và thất vọng cùng hoà trộn trong tâm hồn nàng.
    “Ta thật ngốc nghếch”…Mới điên rồ làm sao? Rõ lố lăng!”
    Trong cảnh tươi vui của thành phố Tuludơ, nàng đang bước đến để gặp lại người đàn ông cũng đang tiến về phía cô vợ trẻ. Những kỷ niệm bị lãng quên hầu như được gợi nhớ. Nếu nàng không thể tái tạo khuôn mặt đã ít nhiều nhoà nhạt trong ký ức, thì nàng thấy lại rất rõ mái tóc dày đen nhánh đã làm nàng xiết bao kinh ngạc khi nhận ra rằng không phải là tóc giả, và sau đó, đặc biệt là dáng đi khập khiễng làm nàng khiếp hãi của con người lúc bấy giờ được gọi là người thọt vĩ đại xứ Lăngờđốc.
    “Ta thật ngốc nghếch! Làm sao ta lại có thể tưởng tượng ra một người thứ hai như vậy?” Song xét kỹ, nàng nhận ra một số điểm có thể đã bị trí tưởng tượng của nàng quy kết một cách sai lầm và nóng vội. Một kiểu tâm hồn trào lộng, phóng khoáng. Nhưng về phía Rescator, ông có một cái đầu của giống chim săn mồi, rất đặc biệt, hầu như bé tí, đặt trên loại cổ to tướng của người Tây ban nha. Ông cũng có một dáng đi đặc biệt và chắc chắn, một đôi vai vạm vỡ…
    “Chồng ta bị thọt. Và chàng rất biết cách điều chỉnh để mọi người không nhận ra chỗ vô duyên ấy…Tâm hồn chàng rực rỡ đến mê ly, nhưng ở chàng không có sự độc ác như ở con người phiêu lưu trên biển này”.
    Nàng thấy khắp người mình đầm đìa mồ hôi như sau một cơn sốt. Vừa kéo tấm chăn mịn nàng vừa đưa tay ve vuốt một cách chăm chú.
    “Sự độc ác?...Từ ngữ liệu có đúng không? Giôphrây đờ Perắc cũng có thể có những cử chỉ hào hiệp na ná như vậy…Nhưng tại sao mình lại dám so sánh hai người? Giôphrây đờ Perắc là con người cao sang bậc nhất của tỉnh Tuludờ, một đại công hầu, một người gần như Vua. Còn Rescator, mặc dù ông thích được gọi một cách hợm hĩnh là Đức ông, kỳ thực chỉ là kẻ phiêu lưu sống bằng cướp bóc và buôn bán bất chính. Ngày hôm nay ông còn giàu nứt đố nổ vách, ngày mai đã có thể khố rách áo ôm như một gã ăn mày, luôn luôn bị săn đuổi như một kẻ mắc tội trọng. Những tay tướng cướp lúc nào cũng nghĩ rằng họ có thể giữ mãi của cải. Thật ra chẳng có gì trên đời này vững bền cả, nhất là đối với những người như họ…Của cải rồi cũng bị phung phí đi một cách chóng vánh không khác gì khi gom góp được…”
    Nàng chợt nhớ tới hầu tước Đetxcranhvin trước con tàu của ông ta đang bốc cháy. “Các con bạc mắc một sai lầm duy nhất có thể dẫn đến nguy hiểm là đặt sự may rủi của họ vào việc tàn sát sinh mạng con người. Giôphrây đờ Perắc thì trái lại, là một con người theo chủ nghĩa khoái lạc. Chàng coi khinh bạo lực. Sự tồn tại của Rescator được xây dựng trên xác chết. Bàn tay của ông dính đầy máu…”
    Nàng nghĩ tới Canto, trong chiếc tàu galê bị đánh chìm vì đại bác của bọn cướp. Chính mắt nàng cũng đã trông thấy một chiếc tàu buồm của hạm đội Nhà Vua chìm nghỉm cùng với những người nô lệ khổ sai, trong khi chiếc xêbéc của Rescator thao diễn xung quanh như một con chim kền kền. “Ấy thế mà chính người đàn ông ấy đã hấp dẫn mình bởi mình bị cuốn hút, mình đã không cưỡng lại ông ta!”.
    Cần phải nhìn thẳng vào sự thật. Angiêlic lại nằm xuống sàn gỗ. Nàng vẫn chưa thể nhắm mắt để ngủ được. Thế là nàng đã chạy tới cầu xin sự giúp đỡ của con người ấy. Thế là nàng đã tự đặt mình vào bàn tay con người ấy, với lòng tin cậy thiếu thận trọng hoàn toàn.
    Ông muốn gì khi lưu ý nàng là “ông chấp thuận việc hoãn trả món nợ của nàng”. Ông tính đến cách nào để nàng có thể đền trả cái việc được ông ta chấp thuận,cũng như cái vố đau mà nàng đã chơi ông ngày trước?
    “Đấy là chỗ khác nhau căn bản giữa ông và người chồng cũ của ta. Giúp đỡ không tính toán, hoàn thành một kỳ tích vô tư, điều đó thuộc đặc quyền của những con người thực sự cao quý. Giôphrây đờ Perắc, đúng là một hiệp sỹ chân chính “.
    Nàng phải cố hết sức trước khi gọi được cái tên từ lâu thân thuộc với trái tim nàng.
    Giôphrây đờ Perắc!
    Đã bao nhiêu năm, nàng tự cấm mình không để cho kỷ niệm ấy trỗi dậy? Đã bao nhiêu năm nàng hết hy vọng tìm lại chàng còn sống trên thế gian này?
    Dù sao nàng cũng phải kiên nhẫn. Bởi vì, qua nỗi xúc động vừa dày vò mình lúc nãy, nàng chợt nhận ra rằng chút ảo vọng của mình, bất chấp tất cả, vẫn sống dai dẳng.
    Cuộc sống không thể xoá đi trong con người nàng cái kỷ niệm của một thời hạnh phúc tuyệt vời. Ấy vậy mà, còn chút gì ở nàng hôm nay giống với nàng hồi còn là nữ bá tước đờ Perăc nhỏ nhắn nữa hay không?
    “Lúc ấy ta chẳng biết quái gì. Thế mà vẫn cứ tin chắc rằng biết tất. Ta cảm thấy một cách tự nhiên là chàng yêu ta”. Hình ảnh đôi vợ chồng, nàng và bá tước đờ Perăc, làm nàng mỉm cười. Đôi vợ chồng đó đã thật sự trở thành một hình ảnh để giờ đây nàng có thể ngắm nghía mà không đến nỗi quá buồn bã, như thể ngắm chân dung của hai kẻ xa lạ.
    Vẻ huy hoàng của cơ nghiệp chàng, đám bộ hạ tinh tế xung quanh chàng, vì thế chàng nắm giữ trong vương triều Akiten, tất cả những cái đó dường như chẳng liên quan gì với một chiếc tàu bí ẩn, chở bọn cướp và những kẻ di tản đang lênh đênh đi tới một miền đất lạ.
    Và mười lăm năm đã trôi qua!
    Triều đình đã xa rồi, Đức Vua sẽ không bao giờ còn tìm lại được Angiêlic đuy Plexix-Belie, cựu bá tước phu nhân đờ Perắc. Ông ta, Đức Vua, ít ra cũng còn đứng vững, luôn luôn ở giữa đám con rối của ông ta trong lòng chiếc hòm đồ sộ và lấp lánh là điện Vecxay.
    Phải rồi, nàng đã từng là người đàn bà bận những bộ quần áo lộng lẫy, mình đeo đầy vàng, được sủng ái, trong một thế giới trọng đại, của một xứ sở thuộc những kẻ chinh phục, người đàn bà đã từng làm rung chuyển một phần vũ trụ.
    Những con tàu càng đi xa về phía đại dương, ảo ảnh về điện Vecxay càng mất hết sức mạnh. Nó đứng im lìm, khoác một vẻ ngoài giả dối, hào nhoáng của cảnh trang trí sân khấu.
    “Chính lúc này ta mới sống thực, nàng tự nhủ, chính lúc này ta mới trở lại con người thực của mình…hoặc giả đang ở điểm bắt đầu trở thành như thế. Bởi lẽ ta luôn luôn đau khổ, kể cả lúc ở trong Triều đình, luôn cảm thấy mình không hoàn chỉnh, mình đi chệch ra ngoài con đường đã định sẵn cho mình”.
    Đã đến lúc phải dậy để nhìn trong khoang tàu mờ tối…sáng lờ mờ, một nhân loại bị đầy ải vì lo lắng và mệt mỏi đang thiếp ngủ.
    Khả năng gợi nhớ mà nàng vừa phát hiện ở mình một cách đột ngột hầu như khiến Angiêlic sợ hãi. Người ta không thể trong một lúc trút đi được khỏi vai mình cái gánh nặng của con người đã hình thành, đã in dấu trong ta, cùng với tình yêu…và thù hận. Quả thật là kinh khủng!
    Thế mà như vậy đấy. Nghèo khổ, nàng đã biết từ trong quá khứ của mình. Nàng đang đi đến một thời điểm của đời mình mà của cải duy nhất nàng sở hữu và không vứt bỏ được, ấy chính là nàng. Những vai khác nhau nàng đang sắm và một thời gian dài chúng đã vật lộn trong nàng - người đàn bà thuỷ chung hay dễ thay lòng đổi dạ, tham lam hay độ lượng, cứng đầu cứng cổ hay dễ bảo – đang chấm dứt lặng lẽ bởi việc tạo lập sự bình yên trong con người nàng.
    “Như thể ta chỉ sống cho một mục tiêu duy nhất là đến một ngày nào đó, tìm lại được mình trên một con tàu chưa quen biết, giữa những con người chưa quen biết, lênh đênh đi tới một nơi chưa quen biết”.
    Nhưng cũng cần phải quên Giôphrây đờ Perắc ư? Phải dứt lìa quá khứ ư?
    Nỗi tiếc hận đau nhói đối với những gì đã có thể là tình yêu của hai người nện vào nàng như một cú đấm. Lẽ nào chúng có thể bị tàn phá, theo năm tháng, giống như nhiều đôi lứa khác nàng đã từng gặp? Hoặc giả chúng phải biết cách tồn tại giữa biết bao ngáng trở của cuộc đời?
    Nàng chỉ có học cách tự biết mình mà trong cuộc đấu tranh khốc liệt cần phải có để tồn tại và xoay xở lấy một mình.
    Đơn độc, nàng sẽ luôn luôn đơn độc như vậy.
    Mặc dù đã hai lần lấy chồng, mặc dù đã làm mẹ, thói đa đoan của tạo hoá vẫn muốn rằng phận nàng sinh ra để làm một người đàn bà đơn độc.
    Đơn độc trong việc định hướng cuộc đời mình, chọn nơi này hay nơi kia, đơn độc trong việc chấp nhận hay từ chối đi theo con đường này hơn là con đường khác. Chưa bao giờ có một đôi vai để dựa vào đó, nhắm mắt lại và nghĩ: “Cần quái gì! Hãy dẫn dắt em đi! Bởi vì em là vợ anh và cái gì thuộc ý muốn của anh cũng là ý muốn của em”.
    Bắt buộc phải đơn độc, các hành động của nàng luôn luôn được quyết định bởi ý muốn của một mình nàng. Và nàng nhận thấy rằng mình đang ở tình trạng chán ngán, bởi vì sự quyết định như thế vốn không thuộc bản chất người đàn bà.
    Nghĩ đến đó, Angiêlic phản ứng một cách dữ dội. Đêm nay, đã có điều gì đè nặng lên nỗi đơn độc của nàng? Cho đến lúc này không có gì có thể chứng minh được rằng nàng là một con người dễ dãi.
    Giờ đây nàng sẽ chấp nhận để mặc ai dắt đi đâu cũng được ư? Rốt cuộc, nàng biết rõ hơn nhiều so với phần lớn đàn ông, về những điều nàng đang làm. Cái ách sắt nàng phải mang đến là khó chịu. Ông Bécnơ sẽ không để chậm việc cầu hôn. Hiện giờ ông ấy đang bị thương. Nhưng ông ấy yêu nàng, ông ấy sẽ đòi nàng phải kết hôn với ông ấy, và nàng sẽ phải trả lời. Đối với nàng gật hay lắc đều khó như nhau, bởi vì trước hết nàng phải cảm thấy mình yêu.
    “Đấy - nàng nghĩ - cái ách ta đeo đẳng. Đó là tình yêu. Liệu có thể sống mà không ràng buộc chăng?”
    Con đường của nàng đã được vạch. Nàng sẽ ở vậy một mình. Nàng sẽ sống cuộc đời goá phụ. Đó chính là số phận của nàng: goá bụa, gắn bó với một tình yêu quá khứ mà nỗi nhớ sẽ còn theo nàng cho đến trọn đời. Nàng sẽ sống một cách ngay thẳng. Nàng và Ônôrin, đứa con gái yêu quý xinh đẹp của nàng sẽ sung sướng. Ở đảo, nàng sẽ không có thì giờ để buồn trong khi lo xây dựng một cuộc sống mới. Nàng sẽ trở thành bầu bạn của mọi người, và trước hết là của trẻ con, và như thế nàng sẽ không phản bội cái số phận đã sinh ra kiếp đàn bà của nàng.
    Còn về Rescator… đã có lúc nàng tách được ra khỏi hình ảnh của ông nhưng rồi hình ảnh đó lại quay về bám lấy nàng. Ông đã trở nên quá gần gũi.
    Ông không phải là kẻ đã khuất để nàng mãi mãi nhớ thương. Sự có mặt của ông lúc này quá sống động đến nỗi Angiêlic chỉ còn biết có đấu tranh chống lại các cạm bẫy, mà cạm bẫy nguy hiểm nhất có thể lại đang ở ngay trong chính nàng. May thay, lúc này nàng đã biết trái tim nàng, trí tưởng tượng của nàng được thổi bùng và bốc lên như thế nào. Một sự giống nhau tế nhị trong thái độ, cung cách của người này với người kia, con người nàng từng yêu tha thiết, đã dần dần đi tới một ảo ảnh lầm lạc. Nàng sẽ không để cho ông chủ tàu Gunxbôrô biến nàng thành đồ chơi của ông ta.
    Cuối cùng giấc ngủ đã đến…”Không có một chút nào giống nhau”, nàng còn lặp lại một lần nữa trước khi chìm vào giấc ngủ, “trừ cái gì vậy?”. Nàng sẽ ngắm kỹ Rescator, khi gặp ông ta vào lần sau.
    Nhưng không phải lỗi hoàn toàn ở nàng, chính sự giống nhau ấy và những kỷ niệm đang trỗi dậy trong nàng mới là nguyên nhân, dẫu sao, cũng có một chút…tình yêu.





  3. #3
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default




    Chương 3



    Ngày hôm sau ông Gabrien Bécnơ cầu hôn.
    Ông ta đã hoàn toàn tỉnh táo và có vẻ đang lại sức. Cánh tay bên trái còn quấn băng, nhưng nhờ dựa vào cái gối lớn bằng rơm do Abighen và Xêvêrin nhặt ở chuồng dê và chuồng bò trong khoang bên cạnh, ông ta đã lấy lại được phong thái bình thường, nước da đỏ đắn, và cặp mắt bình thản. Ông ta không hề che dấu việc mình sắp chết đói đến nơi. Vào quảng buổi sáng, anh chàng người Mo hầu phòng của Rescator, theo lệnh ông chủ mang đến cho người bị thương một chiếc âu bạc nhỏ đựng món ragu ngon lành thơm phức mùi gia vị, một bình rượu vang lâu năm và hai chiếc bánh vừng.
    Sự xuất hiện của anh chàng Arập cao lớn làm cả khoang tàu nhộn nhạo hẳn lên. Anh ta có cái vẻ của một đứa trẻ tốt bụng, và nụ cười phô hết hàm răng khoẻ mạnh trắng ởn tỏ ra rất hoà hợp với tính hiếu kỳ của lũ trẻ vây bọc xung quanh.
    - Mỗi một người trong bọn quỷ ranh ấy lại thuộc về một chủng tộc khác nhau – ông Gabrien vừa lưu ý mọi người vừa đưa cặp mắt không mấy nhã nhặn nhìn theo anh người Mo đang đi xa dần – cái đám này tôi thấy hình như chỉ có một thứ quần áo sặc sỡ kiểu Aclơcanh. (Mẫu nhân vật hài kịch có gốc gác ở Ý, đầu thế kỷ 17 hầu như lan ra khắp châu Âu với bộ quần áo loè loẹt, được chắp nối bằng nhiều mảnh vải và thanh kiếm gỗ trong tay.)
    -Chúng ta chưa thấy người châu Á, nhưng ngược lại, tôi đã nhận ra một người Anhđiêng – Maxian bình luận sôi nổi – đúng, đúng tôi bảo đảm đấy là một người Anhđiêng mà. Anh ta ăn mặc cũng như các thuỷ thủ khác, nhưng có một cái đuôi sam đen và da thì đỏ như gạch.
    Angiêlic đặt các món ăn vừa được mang tới bên cạnh người bị thương.
    -Ông được đãi vào hàng thượng khách đấy.
    Nhà thương gia nói lầu bầu những gì nghe không rõ và đúng lúc Angiêlic sửa soạn cho ông ta ăn, ông ta gần như bắt đầu nổi nóng.
    -Vì ai mà bà quan tâm đến tôi thế? Tôi không phải là một đứa trẻ ranh!
    -Nhưng ông hãy còn yếu.
    -Yếu à? – Ông ta vừa nói vừa nhún vai, động tác đó làm ông nhăn nhó vì đau.
    Angiêlic bật cười. Nàng vẫn thường thích sự trầm tĩnh khoẻ khoắn ở ông ta. Nó tạo cho mọi người quanh ông ta một ấn tượng thanh bình và yên ổn. Vóc người vạm vỡ của ông ta cũng góp phần làm họ vững lòng. Đấy không phải là sự khoẻ khoắn của một kẻ yêu đời hoặc chỉ biết dựa dẫm, hoặc thực chất là nhu nhược nhưng cố làm ra vẻ. Sự vạn vỡ của ông ta là do máu huyết, và từ lúc hãy còn rất trẻ, người ông ta đã đẫy ra, nhưng không vì thế mà ảnh hưởng tới sức khoẻ. Trông ông ta có vẻ già hơn tuổi, và chính điều đó đã nhanh chóng làm cho ông ta được khách hàng và các người cộng sự vì nể. Mọi người luôn luôn tỏ ra kính trọng ông ta, một sự kính trọng không hề giả dối. Angiêlic nhìn ông ta với vẻ độ lượng trong lúc ông ta đang ăn một cách ngon lành món ragu, chỉ bằng tay, chiếc âu đặt bên cạnh.
    - Ông có thể thành một kẻ sành ăn, ông Bécnơ ạ, nếu ông không phải là một người theo đạo Tin lành.
    -Tôi có thể thành những cái khác nữa – ông đáp và ném về phía nàng một cái nhìn khó hiểu - Một người đàn ông mang theo mình mặt trái và mặt phải của anh ta – Ông ta nói thêm trong khi đưa thìa thức ăn lên miệng một cách ngập ngừng.
    -Tôi hiểu điều bà muốn nói, nhưng tôi thú thật là hôm nay, tôi đói, cái đói của một con chó sói và…
    -Vậy thì mời ông cứ việc ăn. Tôi đùa ông một chút thôi mà - nàng nói một cách âu yếm - Tôi đang nhớ lại tất cả những lần ở La Rôsen ông đã quở trách tôi vì dọn bữa cho ông quá chu đáo, và ông cứ hay khép lũ con ông vào tội tham ăn.
    -Đấy là những cuộc chiến tranh chính đáng – ông ta thừa nhận với một nụ cười - Thế là từ đây, than ôi chúng ta xa tất cả những cái đó rồi.
    Ông mục sư đang tập hợp các con chiên. Người chỉ huy khoang tàu đến và báo cho tất cả hành khách là họ nên lên boong để dạo chơi trong chốc lát. Trời đang đẹp và đấy chính là lúc họ có thể đi dạo một cách thoải mái.
    Một mình Angiêlic ở lại với ông Bécnơ. Nàng muốn nhân dịp này nói với ông lời cảm tạ của mình.
    -Tôi chưa có dịp cảm ơn ông, ông Bécnơ ạ, nhưng tôi chịu ơn ông nhiều lắm. Ông đã bị thương trong khi cứu mạng sống của tôi.
    Ông ta ngước mắt lên nhìn nàng và trầm ngâm hồi lâu. Nàng cụp mi xuống. Cái nhìn của ông ta vốn cứng cỏi và lạnh lúc này đang có cùng một thứ truyền cảm, như buổi chiều hôm qua, khi ông ta tỉnh dậy và chỉ nhìn thấy có mỗi nàng bên cạnh.
    -Làm sao mà tôi không cứu bà được - cuối cùng ông ta nói – Bà chính là cuộc đời tôi.
    Nàng phác một cử chỉ phản kháng.
    -Bà Angiêlic, bà có muốn làm vợ tôi không?
    Angiêlic bối rối. Vậy là thời điểm đã tới. Nàng không biểu lộ sự hoảng hốt. Và nàng cũng cần phải bày tỏ với ông ta một chút dịu dàng nào đó. Ông ta yêu nàng vì muốn nàng trở thành người bạn đường của mình trước Chúa, cho dù tất cả những gì ông ta đã biết…hoặc chưa biết về quá khứ của nàng. Với một người đàn ông không hề biết khoan nhượng, đấy là cách tốt nhất để biểu lộ tầm vóc tình yêu của họ.
    Nhưng nàng cảm thấy mình không tìm nổi một câu trả lời chính xác.
    Nàng bắt chéo hai bàn tay và xiết chặt trong một cử chỉ bối rối.
    Gabrien Bécnơ không rời mắt khỏi khuôn mặt nhìn nghiêng đầy vẻ thanh khiết và hài hoà, với cái nhìn dồn tụ một tình cảm bị giằng xé và gần như đau khổ. Kể từ khi ông ta không cưỡng nổi ý muốn nhìn nàng với tư cách là một người đàn bà, cứ mỗi cái nhìn ông ta lại phát hiện ra ở nàng một vẻ hoàn hảo khác. Ông ta yêu từ vẻ tái nhợt vì mệt mỏi in dấu lên nét mặt nàng trong cái ngày bi thảm hôm qua, khi nàng phải mang theo bọn trẻ con nặng trĩu cánh tay, để dằng chúng khỏi số mệnh tàn khốc. Ông ta đã thấy lại cái nhìn bốc lửa của nàng, nghe thứ giọng oai nghiêm trong tiếng nàng giục giã mọi người.
    Nàng chạy qua truông cát bị gió lật bay tung, tay bế những đứa trẻ có nguy cơ bị bỏ lại, làm dấy lên nguồn sức mạnh kỳ diệu của những người đàn bà khi bản năng sống của họ nhập cuộc. Ông ta sẽ không bao giờ quên hình ảnh đó.
    Cũng người đàn bà ấy đang ở kia, quỳ bên cạnh ông ta và nàng trông có vẻ yếu ớt. Nàng cắn chặt môi và ông ta có thể đoán được những tiếng đập hối hả của trái tim nàng. Ngực nàng đang thổn thức.
    Cuối cùng nàng trả lời:
    -Tôi lấy làm vinh hạnh lắm, ông Bécnơ ạ, về cái điều ông vừa nói với tôi ấy, nhưng…tôi không phải là một người đàn bà xứng đáng với ông.
    Ông ta cau mày. Quai hàm ông ta co cứng lại, ông ta cố hết sức vẫn không mở được ra. Phải mất một lúc lâu ông ta mới lấy lại được bình tĩnh. Dường như ngạc nhiên về sự im lặng của ông ta nàng ngước nhìn ông ta và thấy mặt ông tái đi vì giận dữ.
    -Tôi phẫn nộ khi bà tự dẫn mình đến chỗ đạo đức giả - Ông ta nói không rào đón - Chính tôi mới không xứng đáng với bà. Đừng tưởng có thể lừa tôi một cách dễ dàng. Tên tôi như vậy, tức là tôi khờ khạo chứ gì…(1) (Chú giải: Trong tiếng Pháp, Berné có nghĩa là kẻ bị lừa.) Nhưng tôi biết…Tôi có một niềm tin, nếu không phải là chắc chắn, ràng bà thuộc về một thế giới khác với thế giới của tôi. Vâng, thưa bà. Tôi biết rằng trước mặt bà, tôi chỉ là một gã lái buôn tầm thường.
    Nàng nhìn ông ta, và với một dự cảm sợ hãi nào đó, nàng nắm lấy hai bàn tay ông ta đang chìa ra.
    -Bà Angiêlic ạ, tôi là bạn của bà. Tôi không hay biết điều gì đã ngăn cách bà v ới tất cả những gì thuộc về bà và tấm thảm kịch nào đã đưa bà đến cảnh khốn cùng ở nơi tôi tìm thấy bà…Trái lại, điều tôi biết là người ta đang săn đuổi bà, người ta ghét bỏ bọn bà, như những con chó sói săn đuổi đàn súc vật không chịu rú lên như chúng. Bà đã tìm thấy nơi nương náu ở chỗ chúng tôi, và ở đấy, bà đã được sung sướng.
    -Chắc chắn là như vậy, ở đây tôi sống sung sướng - nàng nói rất khẽ.
    Nàng nâng bàn tay ông ta lên áp vào má mình, trong một cử chỉ kính cẩn và dịu dàng khiến ông ta rùng mình.
    - Ở La Rôsen, tôi không dám nói với bà – ông ta nói với giọng nghẹn ngào - bởi vì lúc đó tôi cảm thấy giữa hai chúng mình có một khoảng cách mênh mông. Nhưng hôm nay hình như chúng mình đã tìm lại được nhau, cùng khốn quẫn như nhau. Chúng mình đang đi sang Thế giới Mới, và bà cần đến sự bảo hộ, có phải thế không nào?
    Nàng gật đầu xác nhận. Đáng ra chỉ cần trả lời đơn giản: “Vâng, tôi đồng ý!” và giã từ luôn cái số phận thấp hèn mà nàng từng nếm trải.
    -Tôi yêu mến các con ông - nàng nói - tôi muốn được giúp đỡ ông, ông Bécnơ ạ, nhưng…
    -Nhưng…
    -Vai trò người vợ đòi hỏi một số phận sự nào đó!
    Ông ta nhìn nàng chằm chằm. Ông ta vẫn nắm bàn tay nàng và nàng cảm thấy các ngón tay ông ta đang run lên.
    - Bà có làm vợ không mà sợ các nghĩa vụ đó? – ông ta hỏi dịu dàng (vẻ ngạc nhiên rung lên trong giọng nói của ông ta). Ít ra thì cá nhân tôi không làm bà ác cảm chứ?
    - Làm gì có chuyện đó - nàng nghiêm khắc phản đối.
    Bất ngờ, nàng bắt đầu kể với ông ta, kể một cách lộn xộn, câu chuyện bi thảm mà nàng chưa bao giờ để lọt qua môi, lâu đài của nàng bốc cháy, lũ trẻ con bị xiên trên đầu các ngọn giáo, bọn long kỵ binh làm nhục nàng, hãm hiếp nàng trong khi chúng cắt cổ con trai nàng. Càng kể, nàng càng cảm thấy nhẹ người. Các hình ảnh đã mất đi quyền lực của chúng. Và nàng nhận thấy mình có thể nhớ lại hoàn toàn. Duy chỉ có một vết thương mà không thể không đau nhói khi đụng tới, đó là kỷ niệm về Salơ - Hăngri đang ngủ, chết trong tay nàng.
    Nước mắt tuôn chảy trên hai má nàng.
    Ông Bécnơ lắng nghe hết sức chăm chú, không biểu lộ sự hoảng sợ, cả thương cảm cũng không.
    Ông ta nghĩ ngợi hồi lâu.
    Tâm trí ông ta mải miết đuổi theo hình ảnh một tấm thân đẹp đẽ bị xúc phạm, như ông đã quả quyết từ trước kia, khi chưa bao giờ quay lại với quá khứ của người đàn bà chỉ được gọi là bà Angiêlic, vì không biết tên thật. Ông ta chỉ muốn nói chuyện với người đàn bà ấy, người đàn bà đang ở trước mặt ông ta và ông ta đang yêu, chứ không phải người đàn bà không quen biết có một cuộc đời đau khổ lâu lâu thoáng hiện trong cặp mắt long lanh, màu nước biển. Nếu ông ta chậm đoán ra, chậm phát hiện quá khứ của nàng, ông ta sẽ phát điên vì bị ám ảnh.
    Ông ta nói một cách quả quyết.
    -Tôi nghĩ bà đang hình dung trong đầu rằng tấn bi kịch quá khứ cản trở bà sống một cuộc sống mới của người vợ đứng đắn trong tay một người chồng dù tốt dù xấu cũng sẽ yêu bà. Giá bà còn là một cô gái tân, mà chuyện đó xẩy ra thì cũng khá rầy rà. Đằng này bà đã thành đàn bà, và nếu tôi tin được những lời nói bóng gió hôm qua của cái lão Rescator độc ác vẫn đang theo đuổi chúng ta đó, thì người đàn bà chẳng phải lúc nào cũng tỏ ra yếu ớt đối với đàn ông. Thời gian trôi qua. Đã lâu lắm rồi, cả trái tim và thân thể bà đều không còn phải chịu đựng nỗi khốn khổ ấy. Người đàn bà có cái khả năng ấy để làm mình mới lại cũng giống như mặt trăng, như thời tiết. Bà bây giờ là một người khác. Tại sao bà cứ giữ mãi những vết bầm kỷ niệm, bà cứ đắm chìm, trong khi bà, sắc đẹp của bà dường như vừa được làm mới lại vào hôm qua.
    Angiêlic nghe một cách ngạc nhiên, con người tốt bụng thô thiển ấy đã không thiếu sự tinh tế, để làm nàng khoẻ lại. Quả thật, tại sao tâm hồn nàng lại không thể hưởng lợi từ cái sức sống mà nàng cảm thấy đang tái sinh trong thân thể nàng? Tại sao không tẩy sạch những kỷ niệm ô trọc ấy đi? Lại bắt đầu tất cả, dù là thí nghiệm, điều mãi mãi bí ẩn, của tình yêu?
    -Phải công nhận là ông có lý – nàng nói – đáng lẽ phải quét sạch tất cả những sự kiện ấy khỏi đầu mình, thì thật tệ hại, tôi lại còn cho là quan trọng vì những sự kiện ấy gắn liền với cái chết của một đứa con trai. Điều đó thì tôi không thể xoá đi được!...
    -Không ai đòi hỏi bà như vậy. Nhưng lúc này bà đang học sống lại. Và tôi sẽ đi xa hơn thế nữa để phá tung sự e ngại của bà. Tôi cam đoan rằng bà đang đợi tình yêu của một người đàn ông để sống lại hoàn toàn. Không ai buộc tội bà về sự đỏm đáng đâu, bà Angiêlic ạ, ở bà có một cái gì đó nhắn gọi tình yêu… và tiếng gọi ấy phát ra, từ bà.
    - Đã bao giờ tôi khêu gợi ông chưa mà ông có thể buộc tội tôi? – Angiêlic phản đối với vẻ phẫn nộ.
    - Bà đã phớt lờ tôi vào lúc hết sức không thuận lợi – ông ta nói giọng nặng nề.
    Dưới cái nhìn nài nỉ của ông ta, nàng lại cụp mắt xuống. Cho dù nàng tự bào chữa, việc phát hiện ra sự mềm yếu trong con người theo đạo Tin lành ấy, quả thật, không làm nàng khó chịu.
    -Ở La Rôsen, bà còn thuộc về tôi, dưới bóng mái nhà tôi – ông ta nói tiếp – Còn ở đây, hình như tất cả mọi cái nhìn của bọn đàn ông đều đuổi theo bà, thèm khát bà.
    -Ông gán cho tôi một thế lực quá đáng…
    -Một thế lực mà tôi ở vào vị trí thuận lợi để đo tầm mức. Vậy thì Rescator là thế nào với bà? Người tình của bà, có phải không? Cái đó rõ ràng quá.
    Ông ta đường đột xiết mạnh tay nàng một cách thô bạo, và nàng nhận ra sức mạnh thường ít thấy ở cái nắm tay vốn chỉ quen với công việc của kẻ thị dân. Nàng cố cưỡng lại.
    -Làm gì có chuyện ấy!
    -Bà nói dối. Giữa bà và ông ấy có những mối liên hệ mà cả những người ít từng trải nhất cũng không thể không biết khi hai người đối diện với nhau.
    -Tôi thề với ông rằng ông ấy chưa bao giờ là người tình của tôi cả.
    -Vậy thì nó là cái gì?
    -Có thể là cái tồi tệ nhất! Một ông chủ đã mua tôi với giá cực đắt, và mượn tay ông ấy, tôi đã bỏ trốn trước khi ông ấy có thể sử dụng tôi. Cái tình thế của tôi phải đối mặt với ông ấy hôm nay…thật là phức tạp. Tôi biết ơn ông ấy và cũng hơi sợ, tôi thú thật là thế đấy.
    -Thế mà ông ấy ve vãn bà đấy, rõ lắm!
    Angiêlic phản bác kịch liệt, nhưng rồi nàng thay đổi ý định và một nụ cười sáng ửng khuôn mặt nàng.
    -Này, ông Bécnơ ạ, tôi nghĩ rằng chúng ta vừa phát hiện ra một chướng ngại mới trong cuộc hôn nhân của chúng ta đấy.
    - Cái gì vậy?
    -Tính cách của chúng ta. Tôi và ông đã có đủ thời gian để hiểu rõ nhau. Ông là một con người độc đoán, nhưng ông Bécnơ ạ. Tôi cố vâng phục ông với tư cách người ở, nhưng khi đã là vợ liệu tôi có còn kiên nhẫn được như thế nữa hay không. Tôi vốn quen điều khiển lấy cuộc đời mình.
    -Thú nhận để thú nhận thôi. Bà là một người đàn bà độc đoán, bà Angiêlic ạ, và đối với tôi bà có một quyền lực tinh thần. Trước khi thấy rõ, tôi đã tranh cãi với mình chán ra rồi, bởi vì tôi sợ đoán đúng cái điểm mà bà có thể khống chế tôi. Bà cũng nhìn đời với con mắt tự do, điều vốn chưa quen với những người Tin lành chúng tôi. Chúng tôi là những con người tội lỗi. Chúng tôi cảm thấy có cạm bẫy và vết nứt dưới bước chân mình. Đàn bà làm chúng tôi sợ… Có thể vì chúng tôi phải chịu trách nhiệm về bản án của mình. Những đắn đo, ngần ngại của mình, tôi đã kể hết với cha Bôke rồi.
    -Cha trả lời sao?
    -Cha bảo tôi: “Hãy khiêm nhường với chính các người. Hãy cảm ơn dục vọng của các người, cái đó rốt cuộc là tự nhiên và được thánh hóa bởi sự thiêng liêng của hôn thú, để cuối cùng tôn các người lên thay vì hạ các người xuống”. Tôi làm theo lới khuyên của cha. Cho phép tôi được thực hiện những lời khuyên đó với bà. Hãy lìa bỏ thói kiêu ngạo, chính cái đó sẽ ngăn cản chúng ta nghe rõ những lời khuyên.
    Ông ta nhổm dậy và, quàng tay quanh nàng, kéo nàng về phía mình.
    -Ông Bécnơ, ông đang bị thương.
    -Bà biết rất rõ rằng sắc đẹp của bà có thể làm sống lại một người chết đấy thôi.
    -Tối hôm qua, một cánh tay khác đã ôm nàng, cũng với một ý muốn sở hữu thiết tha như thế. Có lẽ ông Bécnơ nói đúng, nàng chỉ còn chờ sự ve vuốt của một người đàn ông để tìm lại người đàn bà đích thực của mình. Thế mà khi ông ta tỏ ý định hôn mình, nàng đã ngăn ông ta lại, bằng một phản xạ ngoài ý muốn.
    -Chưa – nàng thì thầm - ồ, tôi van ông, hãy để cho tôi suy nghĩ thêm chút đã.
    Quai hàm nhà thương gia co dúm lại. Ông ta lấy lại tự chủ một cách khó khăn. Mặt ông ta tái đi vì cố gắng quá sức. Tách khỏi Angiêlic, ông ta buông mình xuống chiếc gối rơm. Mắt ông ta không nhìn Angiêlic nữa, mà trái lại, với vẻ mặt hết sức lại lùng, ông ta nhièn xoáy vào chiếc âu nhỏ bằng bạc anh người Mo của Rescator vừa mang tới lúc nãy.
    Đột nhiên ông ta túm lấy chiếc âu và ném mạnh vào thành tàu phía trước.


    o0o



    Chương 4



    Đã gần tám ngày kể từ hôm chiếc Gunxbôrô rời La Rosen hướng thẳng về phía Tây. Angielic đếm từng ngày một trên đầu ngón tay. Một tuần lễ trôi qua nàng vẫn chưa trả lời ông Becnơ.
    Không có điều gì xảy ra.
    Vậy thì điều gì có thể xảy ra? Nàng cảm thấy như mình đang thấp thỏm chờ một sự kiện quan trọng.
    Mọi người hình như đã đi tới chỗ bằng lòng với tình thế hiện tại. Bà Manigôn không còn ca thán nữa, vì có kêu cũng chẳng được gì. Còn lũ trẻ đâm ra lơ là với cuộc sống đơn điệu ngoài biển và việc thiếu tiện nghi cũng làm chúng cảm thấy bị gò bó. Ông mục sư có tổ chức những buổi khảo kinh nhằm bắt buộc mọi người di tản tự tập họp lại, mỗi buổi một vài tiếng đồng hồ.
    Nếu thời tiết cho phép, buổi đọc kinh cuối cùng đáng ra được tổ chức trên boong, trước những cặp mắt lạ lẫm của đám thủy thủ.
    -Chúng ta phải tỏ ra cho bọn người ngoài vòng cương tỏa này biết lý tưởng chúng ta tôn thờ được mang theo nguyên vẹn – ông mục sư nói.
    Quen với việc thăm dò tư tưởng, ông lão cảm thấy , tuy không nói ra, cái cộng đồng nho nhỏ của ông đang có nguy cơ tan rã từ bên trong, có thể còn nghiêm trọng hơn cả tù tội và chết chóc mà họ phải chịu ở La Rosen. Những người buôn bán và thợ thủ công phần lớn giàu có và cố thủ trong các bức tường thành phố, bị nhổ bật ra khỏi môi trường của họ quá đường đột.
    Những trái tim bị bóc trần trước sự đổ vỡ kinh khủng, những ánh mắt nhìn cũng đã đổi khác.
    Từ sau buổi cầu kinh, Angielic bế Ônôrin trên đùi ngồi cách xa mọi người một chút. Những lời dạy của cuốn Thánh thư hiện đến cùng nàng trong đêm tối.
    “ Có một thời cho hết thảy., một thời cho muôn vật dưới gầm trời…một thời để giết chóc và một thời để chữa lành….một thời để ghét và một thời để yêu…”
    Và khi nào thời để yêu sẽ đến?
    Bởi vì không có gì xẩy ra cả, và Angielic đang chờ đợi một cái gì đó. Nàng không gặp lại Rescator kể từ buổi tối đầu tiên của chuyến đi, cái buổi tối nàng đã suy ngẫm rất lâu về những tình cảm khác nhau mà con người đó khơi gợi trong lòng nàng. Sau khi đã quyết định phải dè chừng cả ông và chính mình, đáng lẽ nàng phải lấy làm mừng về sự vắng mặt của ông. Thế mà nàng lại đang cảm thấy lo. Có thể nói là không nhìn thấy nữa. Vào lúc mọi người lên boong đi dạo, họ có thoáng thấy từ xa, ở lầu sau, cái bóng mờ của người chủ con tàu, chiếc áo khoác tối sẫm của ông bị gió lùa vào làm căng phồng lên.
    Nhưng ông không can dự vào công việc hàng ngày nữa, và mới đây, hình như, cả trong việc điều khiển tàu.
    Công việc được giao cho thuyền trưởng Giađông, người vẫn đứng trên khoang thượng đuôi tàu, ra lệnh bằng một chiếc loa đồng. Nhà hàng hải xuất sắc nhưng bản tính trầm mặc và hơi khó gần, ông ta không mấy thích thú việc chuyên chở những người Tin lành và điều này chắc chắn đi ngược ý muốn của ông ta. Khi không mang mặt nạ, ông ta phô ra bộ mặt lạnh lùng và khó đăm đăm, làm nản lòng những ai muốn làm quen. Ấy thế mà ngày nào Angielic cũng phải gánh vác vai trò trung gian thay mặt mọi người trình bày về một số chi tiết nào đó. Giặt giũ ở đâu bây giờ? Dùng nước nào đây?...Vì nước ngọt được chia phần phải dành để uống., Đành bằng lòng với việc giặt giũ bằng nước biển. Thảm kịch đầu tiên không thấy trước với các bà nội trợ…bởi quần áo giặt không sạch, giặt rồi vẫn dính dáp. Vào giờ nào thì có thể lên boong đi dạo mà không cản trở công việc của đoàn thủy thủ?...v.v…
    Trái lại Nicôla Perốt, người đàn ông đội mũ chụp lông thú, là trợ thủ quý giá nhất đối với nàng. Anh ta không giữ vai trò cố định trong đoàn thủy thủ. Mọi người thường thấy anh ta vừa lượn lờ vừa hút thuốc bằng ống điếu. Sau đó anh ta tự giam mình hàng nhiều tiếng đồng hồ trong buồng với Rescator. Nhờ anh ta Angielic có thể đạt các thỉnh cầu. Trong khi chuyển trả các câu trả lời anh ta thường làm nhẹ bớt những gì có thể làm nàng khó chịu, một con người dễ thương và hiền lành.
    Vào ngày thứ năm, đã xảy ra một chuyện om sòm, khi mấy người đầu bếp mang đến món thịt muối và một thứ hổ lốn lạ lùng, chua loét, mùi thum thủm, bảo mọi người phải ăn. Bà Manigôn từ chối ngay món ăn có vẻ đáng ngờ. Cho đến lúc naỳ, bữa ăn thường ngày trên tàu vẫn tốt và đủ. Nhưng ngay bây giờ, nếu bắt đầu nốc cái món thối tha kia vào bọn trẻ sẽ đổ bệnh, và cuộc hành trình mới bắt đầu sẽ kết thúc với những đám tang khủng khiếp. Tốt hơn hết là bằng lòng với món thịt muối, bánh quy vụn chia đều, thức ăn bình thường của thủy thủ trên tàu.
    Sau vụ từ chối ấy, người trưởng khoang đến la mắng, nói rằng bọn họ phải ăn cái món hổ lốn ấy nếu không người ta sẽ dùng vũ lực bắt họ ăn.
    Một gã lùn dị tướng chẳng biết thuộc quốc tịch nào, có lẽ miễn cưỡng phải làm nghề cướp biển ở đâu đó trong vùng phía bắc Âu: Ecốt, Hà Lan hoặc Bantích. Hắn ta nói một thứ tiếng pha trộn cả Anh, Pháp và Hà Lan và mặc dầu các nhà buôn La Rôsen biết các thứ tiếng ấy họ vẫn không sao hiểu nổi.
    Angielic lại một lần nữa thổ lộ những lo lắng của họ với Nicôla Perốt tốt bụng, rốt cuộc là con người duy nhất trên tàu Gunxbôrô có thể đến gần. Anh ta trấn an nàng và động viên nàng làm theo lời chỉ dẫn của trưởng khoang. Vả lại, trưởng khoang cũng chỉ lặp lại những mệnh lệnh của chính Rescator.
    -Chúng ta quá đông so với số lương thực thực phẩm mang theo trên tàu. Ngay từ bây giờ phải cố định khẩu phần. Còn một ít thịt tươi sống: hai con lợn, một con dê và một con bò. Phải để dành cho người ốm, điều đó luôn luôn có thể xảy ra. Nhưng ông chủ đã quyết định cho khui những thùng bắp cải. Ông ấy nói rằng với món ăn đó có thể tránh được triệt để bệnh Scoócbut, bệnh do thiếu vitamin C. Bản thân tôi cũng tin như vậy, vì tôi đã hai lần đi biển với ông ấy mà không hề thấy có một ca bệnh Scoócbut nào nặng xảy ra trong đoàn thủy thủ. Bà phải làm cho các bạn bà hiểu rằng cần phải ăn món đó, mỗi ngày một ít. Đó là quân lệnh trên tàu đối với những con người chán ngấy cái cảnh bị nhốt trong khoang bọc lưới sắt. Và không khéo người ta sẽ phải nhồi cho họ đấy, như nhồi ngỗng ấy.
    --------------------------
    Ngày hôm sau, tay trưởng khoang được đón tiếp khá hơn. Gã đứng nhìn mọi người ăn bằng con mắt xanh lơ, có những ánh phản chiếu lạnh lẽo, đong đưa trên khuôn mặt màu đùi lợn hun khói.
    - Càng ngày tôi càng có khuynh hướng tự cho mình bị vứt xuống một dòng sông thuộc vương quốc ma quỷ- Mecxơlô
    Vừa nhận khẩu phần thức ăn vừa lưu ý mọi người bằng kiểu nói trào lộng của người có học- Hãy nhìn hộ tôi con người được nôn mửa ra từ địa ngục này này…Chắc chắn người ta đã gặp đủ loại người ấy ở các bến cảng, nhưng tôi chưa bao giờ gặp một mớ tạp nham cái nhân loại đáng lo ngại này đang cụm nhau trên cùng một con tàu. Bà hướng dẫn chúng tôi khá lý thú đấy bà Angielic ạ.
    Angielic lúc đó đang ngồi trên bệ pháo, cố nhồi Ônôrin và một số đứa trẻ nàng tập họp xung quanh mình, nuốt lấy vài mẩu bắp cải chua.
    -Các con là những con chim non trong tổ. Hãy há mỏ ra nào! –Nàng bảo chúng.
    Khi những tiếng kêu ca chống đối tàu Gunxbôrô, ông chủ tàu và đoàn thủy thủ dậy lên, nàng luôn luôn cảm thấy mình bị tố cáo và chịu một phần trách nhiệm, thế nhưng chỉ Chúa mới biết nàng không còn có cáhc nào khác để lựa chọn.
    Nàng trả lời:
    -Ôi dào! Các ông các bà tưởng là con tàu Nôê phô bày ra một cảnh tượng kém lí thú hơn con tàu của chúng ta à? Lạy Chúa, thế mà họ vẫn vui lòng đấy thôi…
    -Chủ đề để suy ngẫm, quả vậy – mục sư Bôkê vừa nói một cách trịnh trọng vừa đưa một bàn tay lên đỡ lấy cằm- Nếu bị chìm chúng ta sẽ xứng đáng để tái tạo loài người và đổi mới luật đạo chứ?
    -Với một con thịt thuộc loại này tôi thấy có vẻ khó đấy – Ông Manigôn làu bàu- khi nhìn gần ,ta nhận thấy ngay rằng bọn họ còn có cả dấu sắt ở chân nữa cơ.
    Angielic không dám trả lời, bởi vì thực chất nàng chia sẻ ý nghĩ ấy. Có vẻ đúng là tay cựu tướng cướp Địa Trung Hải đã tuyển lựa những người trung thành nhất với ông ta trong đám người được cứu thoát khỏi các tàu Galê. Trong đôi mắt của hết thảy những thủy thủ thuộc nhiều chủng tộc khác nhau này, và trong tiếng cười, tiếng hát lạ lùng thỉnh thoảng vọng ra từ khoang tàu dành cho họ, có một biểu hiện bao trùm mà có thể, chỉ một mình nàng mới hiểu được. Đó là biểu hiện của một con người đã từng bị khổ ải xích xiềng và đối với anh ta từ nay trái đất không còn đủ lớn, biển cũng không còn đủ rộng. Một con người lẻn được vào cái thế giới từ lâu anh ta vẫn bị cấm đoán này, với một tình cảm sợ hãi là mình không có quyền và cũng sợ lại mất đi cái tài sản quý giá đã giành giật được: tự do.
    -Này anh gù, anh nói đi, tại sao nhà anh lại làm chúng tôi buồn phiền với cái món bắp cải Đức của nhà các anh hả?- Lơ Gan hỏi. Đáng ra thì lúc này tàu đã đến ngang Aco hoặc gần đó và sẽ mua cam. Mua thức ăn tươi sống dự trữ chứ?
    Tay trưởng khoang ném về phía anh ta một cái nhìn liếc và nhún vai.
    -Hắn không hiểu- ông Manigôn nói
    -Hiểu quá đi chứ nhưng hắn không muốn trả lời- Với vẻ khinh khỉnh, Lơ Gan đưa mắt nhìn theo con người mập ù, dập đôi ủng quái dị đang đi ra khỏi khoang boong theo sau đám thủy thủ tay cầm cà men.
    Hôm sau nữa, trong khi đang đi dạo tha thẩn trên boong trước, Angielic phát hiện ra rằng Lơ Gan có những số liệu bí mật tự ông ta tính toán được bằng cách sử dụng đồng hồ riêng của ông ta và một chiếc la bàn. Khi nàng đến gần ,ông ta giât nảy mình và giấu vội cái thứ đó vào dưới chiếc mũ dân chài bằng vải dầu.
    _ Ông cảnh giác cả với tôi sao ?_Angielic hỏi._Thế thì tôi thì lại mù tịt,ngay cả việc ông đang mưu toan một mình với đồng hồ và la bàn của ông kia, tôi cũng chả biết gì sất.
    _Không đâu, bà Angielic ạ.Tôi chỉ tưởng là ngườì nào đó trong đoàn thủy thủ lại gần. Bà có vẻ hơi giống họ, bước đi mà không hề nghe tiếng, thậm chí không biết bà tới. Thế rồi bà đứng lù lù ở đó. Kể cũng sợ chứ, nhưng, vì là bà nên chẳng có gì đáng ngại.
    Ông ta hạ thấp giọng
    _Đúng là có một người ngồi ở vị trí của hắn ta trong đài cột buồm để quan sát tôi từ trên cao, nhưng không sao. Hắn không thể hiểu được mánh khóe của tôi. Những người khác thì đều đã đi ăn cơm, trừ người lái tàu. Biển đẹp, đêm cũng chả còn lâu nữa, tôi muốn nhân lúc này xác định lại lần cuối cùng.
    _Chúng ta còn ở cách xa Aco đến thế cơ à?
    Ông ta nhìn Angielic chòng chọc với kẻ nhạo báng
    _Đúng!...Tôi không biết chiều hôm trước, lúc tôi hỏi lão gù về quần đảo Aco,bà có để ý không ?Đúng như thế tức là chúng ta đang ở trên đường đi sang các đảo châu Mỹ.Nếu đi qua đảo Atxang-xiong tức là đi theo hướng chính nam, thì cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. nhưng mà đi theo hướng chúng ta đang đi chính tây, thì quả là một con đường hết sức xa lạ nếu định đến biển Angti và các đảo khác thuộc vùng nhiệt đới!...
    Angielic hỏi ông ta làm thế nào để biết những điều đó trong hoàn cảnh không có bảng kinh tuyến, không có bảng múi giờ cũng như cung lục phân và loại đồng hồ chính xác.
    _Đơn giản thôi, tôi chỉ rình chộp tiếng chuông báo giờ ban trưa trên tàu.Đúng là ban trưa, theo giờ thiên văn ,bởi vì lúc ở trên tầng thượng, tôi có liếc nhìn vào buồng lái, nhìn lướt qua thôi. Ông chủ tàu có bao nhiêu là dụng cụ đẹp! Cần gì có máy! Chính vì thế khi chuông báo tôi biết chắc là đúng. Những người ấy không thể nhầm hướng được. Tôi so sánh với đồng hồ của tôi lúc đó hãy còn chỉ theo giờ La Rosen.Với cách đây, với la bàn của tôi, vị trí của mặt trời khi nó đi qua thiên đỉnh và khi nó sắp lặn, thế là đủ để xác định chắc chắn rằng chúng ta đi theo “con đường phía bắc”, con đường của những người đánh cá thu và cá mập. Tôi chưa bao giờ đi con đường ấy, nhưng tôi biết. Bà chỉ cần nhìn biển thôi, thật khác nhau xa.
    Angielic không tin. Những phương pháp chỉ dựa vào kinh nghiệm của con người giỏi giang này có vẻ thiếu cơ sở khoa học. Còn về biển, chắc chắn biển ở đây khác biển Địa trung hải, nhưng đây là Đại dương, và nàng đã nhiều lần nghe cánh thủy thủ nói về các cơn bão xảy ra ơ nơi gần vịnh Gaxconho. Và họ còn nói rằng về một số mùa nào đấy, có thể biển rất lạnh chẳng hạn như ở ngoài khơi đảo Aco…
    _Bà hãy nhìn cái màu sữa kia kìa , bà Angielic_anh chàng người xứ Brotong vẫn bám riết_và bà phải chú ý cái màu xà cừ của bầu trời lúc sáng sớm: đấy là bầu trời phương Bắc. Tôi đánh cuộc như thế! Cả thứ sương mù này nữa ! Dày đặc như tuyết. Con đường nguy hiểm đi đúng vào điểm đỉnh của những cơn bão chí tuyến. Những người đánh cá thu không bao giờ đi như thế vào mùa này. Và đấy, thế là chúng ta biết mình đang ở đâu rồi. Xin chúa phù hộ chúng ta….
    Giọng Lơ Gan trở nên buồn thảm, Angielic cố mở to mắt: chẳng hề thấy sương mù, chỉ có về phía tây bắc, bầu trời màu trắng và biển hòa trộn vào nhau, được tách biệt bởi một cái vạch nhỏ xíu màu hồng ở chân trời.
    _ Thế này thì bão tố và sương mù sẽ đến vào ban đêm… hoặc ngày mai _ Lơ Gan vẫn tiếp tục nói bằng thứ giọng trầm đục.
    Rõ ràng ông ta muốn thấy mọi việc đều tối tăm. Là một cựu thủy thủ. Ông ta tự buông thả một cách dễ dàng vào xúc cảm gây nên bởi biển cả mênh mông, chưa hề gặp một chiếc tàu nào khác kể từ lúc nhổ neo. Không có một cánh buồm trong tầm nhìn ! Đám hành khách thấy thật là đơn điệu. Angielic lại thấy vui. Những cuộc gặp trên biển, chỉ đưa dến cho nàng nỗi sợ hãi.
    Cảnh đại dương với những con sóng cao và dài thực ra chưa bao giờ làm nàng buồn chán. Ngay từ đầu nàng không hề cảm thấy cực khổ vì những khó khăn ở biển như phần đông những người bạn đồng hành.
    Giờ đây, những người đó cụm cả vào trong khoang vì lạnh. Từ hai hôm trước, các thủy thủ đã mang đến cho họ những chiếc bình bằng đất, mặt ngoài được trang trí bằng các hình vẽ man rợ, có cửa hẹp ở miệng và bên hông, đựng đầy than cháy rực . Thứ lò sưởi hoặc bếp lò nguyên thủy ấy đủ để giữ một sức nóng và sự khô ráo tương đối, bổ sung cho những ngọn đèn lớn đốt bằng mỡ súc vật được thắp khi đêm xuống.
    _Thực chất là đỡ nguy hiểm hơn nhiều so với một cái lò sưởi để ngỏ. Ở đâu ra những cái lò bằng đất kì lạ thế này ?
    Angielic đột nhiên nhớ lại câu nói của Nicola Perốt “ Khi chúng ta đi vào vùng băng giá , sẽ có một cái lò được mang tới để sưởi .
    _ Nhưng rốt cuộc – nàng kêu lên , có thể có băng giá ở ngoài khơi Aco cơ à ?
    Một giọng nói làm lành , trả lời nàng với vẻ đùa cợt .
    _ Bà thấy băng giá ở đâu, ở đây à, bà Angielic?
    Ông Manigon cùng đi với ông Becsno và người thợ làm giấy Mecxolo bước đến gần nàng. Ba người đều được quấn kín trong những chiếc áo choàng, mũ đội sụp xuống tận mắt. Cả ba trong dáng vẻ bề thế ấy , có thể nhầm người nọ với người kia.
    _Trời lạnh buốt, tôi đồng ý như vậy, nhưng mùa đông không xa nữa và những cơn bão vùng chí tuyến đang làm các vùng phụ cận lạnh ghê gớm.
    Lơ Gan càu nhàu.
    _Không chỉ là các vùng phụ cận, như ông vừa nói, thưa ông Manigon, tất cả đều có một cái vẻ thật lạ lùng.
    _Anh sợ bão tố à?
    _Tôi sợ tất!
    Anh ta nói thêm với vẻ kinh hãi.
    _Nhìn kìa…Hãy nhìn đi. Đây chính là xứ sở tận cùng của thế giới.
    Sóng lừng bổ xuống đột ngột. Nhưng dưới bề ngoài lặng lẽ, mặt đại dương nom lốm đốm, chuyển động như nồi nước sôi. Nắng hồng xuyên thủng bầu trời trắng tuyền, tỏa xuống một thứ ánh sáng đục màu đồng nung chảy. Mặt trời xuất hiện đột ngột, to lớn một cách kỳ dị, làm tỏa cả mặt biển. Rồi mặt trời nhanh chóng và hầu như lập tức lại biến mất, trong thoáng chốc tất cả trở thành màu xanh, tiếp đó là màu đen.
    _Biển sương mù- Lơ Gan thở dài, biển của những tên cướp biển ngày xưa.
    _Chúng ta vừa chứng kiến một cảnh mặt trời lặn hết sức ngoạn mục- Mecxolo nói- chỉ đơn giản thế thôi. Có gì đặc biệt đâu?
    Nhưng Angielic đoán rằng chính ông ta bị ràng buộc với vẻ bề ngoài không bình thường của mọi vật. Thoạt đầu bóng tối xuất hiện khắp nơi , đến mức họ không nhìn thấy gì nữa, rồi bóng tối tan loãng ra, được thay thế bằng một thứ tranh tối tranh sáng kiểu hoàng hôn. Đột nhiên, tất cả, lại trở nên rõ ràng , kể cả chân trời , nhưng được nhúng chìm trong một thế giới không có sự sống, không màu, không hơi ấm nào có thể nảy sinh ra được.
    _Đấy là cái người ta gọi là đêm ở vùng cực- Lơ Gan nói
    _Vùng cực! Cái anh này!_ Ông Manigon thốt lên.
    Tiếng cười sằng sặc của ông ta nghe như một lời báng bổ thánh thần vang lên trong im lặng. Rồi tự ông ta hiểu và ngừng cười. Để tự phong cho mình một thái độ , ông ta đưa mắt nhìn những cánh buồm đang được hạ xuống, nhẽo nhèo.
    _Bọn chúng nó định làm gì trên con tàu ma quỷ này thế hả?
    Như chỉ chờ câu nói ấy , những người trong đoàn thủy thủ lập tức chạy tóe ra khắp mọi phía.
    Những người chuyên lo về dây nhợ trèo lên dây néo và bắt đầu di chuyển dọc theo các trục căng buồm. Nhưng do thói quen , họ làm việc một cách tương đối lặng lẽ, và những cái bóng của họ chuyển động góp phần tạo nên bầu không kí khác thường.
    “Tối nay, đêm nay, sắp có điều gì xảy ra “. Angielic nghĩ
    Và nàng đưa bàn tay kên ấp vào chỗ trái tim như thể bị hụt hơi. Ông Becno vẫn ở cạnh bên nàng. Trong lúc đó thì nàng lại không tin rằng ông ta có thể đế giúp đỡ nàng.






  4. #4
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default




    Chương 4 (tt)



    Từ trên tầng thượng, thuyền trưởng Giadong đang hô các mệnh lệnh bằng tiếng Anh.
    Ông Manigon vùng vẫy, vẻ phởn phơ.
    _À này, Lơ Gan, hồi nãy anh vừa nói tới Aco. Anh có thể nói được rằng ai thạo nghề hàng hải hơn tôi khi chúng mình ghé lại đó không ? Tôi đang nóng lòng muốn biết liệu đám bạn bè người Bồ đào nha của tôi ở đấy có vui vẻ tiếp nhận việc tôi chuyển cơ nghiệp từ Bờ biển Epix đến không.
    Ông ta vỗ vào túi của chiếc áo căng phồng :
    _Khi tôi sẽ lại cảm thấy mình làm chủ tiền bạc, tôi sẽ có thể đối đầu với tên tướng cướp hỗn láo này. Lúc nào lão đối xử với chúng ta như với những kẻ khốn cùng. Chúng ta phải hôn tay lão. Nhưng hãy chờ khi chúng ta dến vùng cướp biển Caraip. Lão đừng có nói rằng lão là người mạnh nhất.
    _ Trong vùng biển Caraip thì bọn cướp là những ông chủ - ông Becno nói với vẻ khinh khỉnh.
    _ Không đâu ông bạn. Chính bọn buôn người da đen mới là những ông chủ . Và tôi đây này, tôi đã từng có một vị trí vai trò ở đấy. Nhưng có một lần tôi tính chuyện nắm độc quyền việc buôn bán nô lệ. Dại gì một chuyến tàu chỉ chở có thuốc lá và đường sang châu Âu, mà khi từ châu Phi trở về lại không lèn đầy một tàu những tên mọi. Thế mà, chuyến tàu chúng tôi đi lần đó lại không phải là tàu buôn người da đen. Nó được trang bị để dùng cho việc khác. Và rồi tôi đã bắt được cái này trong khi giả vờ tìm đường trong các khoang tàu.
    Ông ta xòe bàn tay để cho mọi người thấy hai màu vàng có đánh dấu mặt trời.
    _ Đây là dấu tích các kho báu của người Inca. Một số như thế này thỉnh thoảng người Tây ban nha đưa về . Và nhất là, tôi chú ý đến một số khoang khác chất đầy các đồ đạc lạ lùng dùng cho việc xuống sâu những cái mốc đặc biệt, những chiếc thang… Ngược lại những chỗ cần thiết để chở hàng thì được thu nhỏ vào, không còn là một chiếc tàu buôn tử tế nữa.
    _ Vậy ông cho là cái gì ?
    _ Chẳng là cái gì sất. Tất cả điều gì tôi có thể nói là cái tàu cướp ấy đang ăn cướp. Bằng cách nào? Đấy là công việc của nó. Điều tôi thích hơn cả là cảm thấy mình đang đứng trước một kẻ cạnh tranh. Hừ! Bọn ấy can đảm đấy nhưng không kịp thời bằng các tố hợp thương mại. Không phải họ thực sự làm chủ trên biển. Chúng ta, những thương gia có nghề sẽ dần dần thay thế họ. Vì thế tôi mới cảm thấy thích thú khi nghĩ mình có thể đối mặt với lão ta. Chi ít, cũng có thể lão phải mời mình ăn cơm chiều.
    _ Người ta nói rằng buồng riêng của ông ta ở trên lần sau ấy rất sang trọng và đầy những thứ quý giá- người thợ làm giấy lên tiếng.
    Mọi người chờ đọi ý kiến của Angielic, nhưng hễ nghe nhăc đến Rescator là nàng lại cảm thấy lòng mình đầy lo lắng, và vì thế nàng không nói một lời nào. Trong lúc đó thì caí nhìn của ông Becno lại đang rình chờ câu nói của nàng.
    -----------------
    Tâm trí Angielic kể từ lúc nàng đi qua cầu thang của lầu sau cũng hỗn độn như mặt biển.Không khác gì những ngọn sóng đã đột ngột trở nên cuồng loạn lòng nàng cũng đầy ắp những tình cảm trái ngược mà chính nàng không xác định được nổi là gì: giận, lo, vui, hi vọng và rồi đột ngột, một sự khiếp sợ thoáng qua đè trĩu xuống đôi vai như thể một lớp bọc bằng chì.
    Chắc sắp có một điều gì khủng khiếp sắp xảy ra! Một điều gì khủng khiếp, nặng nề, quá nặng nề không thể nào chống đỡ nổi.
    Nàng nghĩ rằng người ta đã đưa nàng vào phòng Rescator . Ý nghĩ ấy chỉ đến đúng vào lúc cánh cửa sau lưng nàng đã khép lại và nàng thấy mình đang ở trong một căn buồng nhỏ có cửa kính, được chiếu sáng bởi một ngọn đèn treo lắp khung đôi để giữ cho nó khỏi đung đưa.
    Không có ai trong buồng. Nhìn kỹ hơn, Angielic nghĩ rằng căn buồng có lẽ ở sát bên buồng thuyền trưởng, bởi vì tuy hẹp và thấp cũng có một cửa sổ cao như ở cuối buồng như cửa sổ của lầu sau. Dưới lớp thảm lát tường, Angielic phát hiện ra một cái cửa. Điều này càng khẳng định ấn tượng của nàng là buồng này chắc chắn ăn thông với căn buồng mà nàng đã được đón tiếp. Nàng thử vặn chốt, nhưng cánh cửa không nhúc nhích. Nó đã được khóa lại.
    Vừa bực tức, vừa phó mặc cho định mệnh, angielic nhún vai đến ngồi xuống một chiếc ghế bành cũng giống hệt những chiếc ghế bành ở các buồng khác. Càng ngẫm nghĩ về căn buồng nàng càng đi tới chỗ phải công nhận rằng đây là nơi nghỉ ngơi của Rescator. Nàng trở lại hình ảnh của mình trên chiếc đi văng và cảm thấy sức mạnh của một cái nhìn vô hình đang dõi theo.
    Được đem thẳng vào căn buồng ấy, trong buổi chiều hôm ấy nàng thấy cũng đã sỗ sàng lắm rồi.
    Nhưng nàng đang sắp sửa hiệu chỉnh các sự vật! Nàng chờ đợi mỗi lúc một bồn chồn, rồi cảm thấy không còn chịu nổi nữa, và cho rằng ông ấy coi thường mình nàng đứng dậy bước đi.
    Nàng cảm thấy ngạc nhiên khó chịu khi tìm được cái cửa mà người ta đẩy nàng vào, cả cửa này cũng đóng chặt. Cung cách này gợi nhớ những thủ đoạn của Dexcranhvin và nàng vội đưa tay gõ vào tấm gỗ. Tiếng nàng bị chìm đi trong tiếng gió hú và tiếng biển gầm. Sóng càng dữ dội hơn từ lúc màn đêm bắt đầu buông xuống.
    Phải chăng sẽ có bão tố như Lơ Gan đã cảnh báo trước?
    Nàng nghĩ tới những va chạm có thể xảy ra với các khối băng đồ sộ và đột nhiên thấy sợ. Dựa vào tấm vách ngăn nàng tìm khuôn cửa sổ được chiếu rọi một cách yếu ớt bởi ngọn đèn pha phía sau. Mặt kính thủy tinh dày cộp luôn ngập ngụa một lớp bọt trắng như tuyết do các con sóng để lại đang tan chảy chậm chạp.
    Thế mà giữa một khoảng lặng tạm thời đột ngột angielic đưa mắt nhìn ra ngoài, nàng thấy đung đưa trên mặt nước, rất gần tàu, một con chim trắng dường như gắn chặt vào nàng một cách tàn nhẫn.
    Nàng lùi lại bối rối.
    “ Phải chăng là linh hồn của một kẻ chết chìm? Có nhiều con tàu bị đánh đắm ở quanh đây…nhưng tại sao người ta lại nhốt tôi vào đây, chỉ một mình tôi?”
    Một rung chuyển đẩy bật nàng ra khỏi tấm vách ngăn và sau khi đã tìm cách bám víu vô ích nàng thấy mình ngồi bệt xuống một chiếc giường.
    Một tấm long thú trắng muốt, dày và tầm vóc khá rộng được đặt trên giường. Không cần suy nghĩ Angielic luồn đôi tay lạnh cóng của mình vào đấy. Nàng từng nghe truyện kể rằng ở vùng Bắc có loài gấu cũng trắng như tuyết. Tấm chăn này có lẽ được cắt may từ bộ da của một trong những con gấu ấy.
    “ Chúng ta đang đi đâu thế này?”
    Chiếc đèn có thiết bị đặc biệt đang đung đưa trên đầu nàng gợi sự tò mò. Bởi vì chính giữa đèn, cái bầu dầu vẫn đứng yên, bất động một cách khó hiểu.
    Ngay cả chiếc đèn cũng là một đồ vật kỳ lạ. Ở Pháp cũng như ở xứ đạo Hồi, Angielic chưa bao giờ được thấy một chiếc đèn như vậy. Được cấu tạo theo hình dạng tròn hoặc hình bát, là các kiểu đèn treo có tác dụng lọc tia sáng vàng của sợi bấc.
    May sao bão tố hình như không lạnh thêm. Lâu lâu Angielic lại nghe thấy âm vang của những tiếng nói đang trao qua đổi lại. Thoạt đầu nàng không xác định được những tiếng ấy từ đâu vọng tới, một giọng nói nặng, một giọng khác mạnh và trầm, từng lúc có thể phân biệt một số tiếng nổi bật, các mệnh lệnh được phát ra.
    -Giương buồm lên! Kéo buồm mũi và buồm hình thang!
    Không nghi ngờ gì nữa, đó chính là giọng nói của thuyền trưởng Gia đông diễn giải các chỉ dẫn được Rescator truyền cho ông ta.
    Vừa nghĩ đến những người trong căn buồng bên cạnh, Angielic vừa đi tới gõ mạnh vào cánh cửa thông. Nhưng ngay lập tức sau đó nàng biết họ đang ở phía trên đầu mình, trong buồng lái, trên tấng thượng.
    Thời tiết xấu làm cả hai thuyền trưởng phải chuyên chú vào công việc. Đoàn thủy thủ chắc ở trong tình trạng báo động. Vậy thì tại sao Rescator lại cho mời Angielic đến để hội kiến – có lịch duyệt với phụ nữ hay không? Đã biết trước là có bão tố và sẽ phải ở lì trên tầng thượng để chỉ huy tàu vậy mà còn gửi lời mời, tại sao?
    “ Mong rằng Abighen hoặc Xeverin săn sóc Ônôrin!...Vả lại ông Gabrien đã nói rằng ông ta sẽ tới để làm om sòm lên nếu sau một tiếng đồng hồ ta không quay trở lại”. Nàng trấn tĩnh.
    Vậy mà một tiếng đồng hồ đã qua từ lâu, thời gian cứ trôi mà chẳng có ma nào tới để giải thoát cho nàng cả. Vật vã chán chường nàng nằm dài ra giường và sau đó cuộn mình trong chăn, hơi ấm của tấm da gấu trắng làm nàng đờ đẫn. Nàng chìm vào một giấc ngủ không yên, bị chia cắt bởi những bừng thức đột ngột. Tiếng biển lọt vào qua các khuôn cửa sổ tạo cho nàng ấn tượng bị dìm xuống đáy sâu trong một lâu đài dưới biển nào đó, nơi các hợp âm của bão tố hòa trộn vào nhau biến thành tiếng rì rầm của những bóng ma buồn thảm đang bay lượn lờ giữa băng giá trong một khung cảnh khá mơ hồ.
    Khi nàng mở mắt, ánh sáng đèn có vẻ đã mờ đi, ngày đang đến. Nàng ngồi dậy.
    “ Ta làm gì ở đây thế này? Thật không thể chịu nổi!..”
    Vẫn chưa ai tới.
    Cái đầu làm nàng khó chịu, mái tóc xổ tung. Nàng đã tìm lại được chiếc mũ trùm cởi ra trước lúc nằm xuống. Nàng chẳng muốn một chút nào việc Rescator nhìn thấy mình trong tư thế xuềnh xoàng buông thả thế này. Ông ta hẳn cũng không mong gặp nàng như thế. Các mưu mẹo còn chưa biết của ông ta, cạm bẫy của ông ta và cả mục đích của ông ta, trước hết là những gì có liên quan đến bản thân nàng thật khó mà phân định.
    Nàng vội vã đứng lên để chỉnh đốn lại trang phục và mối quan tâm có tính chất bản năng của người phụ nữ đưa mắt nhìn quanh để tìm một chiếc gương.
    Có một chiếc được treo trên tường, khung gương là vàng khối.Cái báu vật v giá ấy lấp lánh một thứ ánh sáng ma quái. Nàng thấy mừng vì không nhận ra nó vào đêm qua.
    Trong trạng thái tinh thần của nàng lúc bấy giờ chiếc gương hẳn sẽ làm nàng khiếp sợ.Cái con mắt tròn xoe ấy với chiều sâu không đáy, nhìn nàng chằm chằm gợi lên một cái gì xui xẻo. Bộ khung gương được thể hiện những tràng hoa mặt trời được cầu vồng bao phủ.
    Nhìn hình ảnh phản chiếu của mình Angielic nghĩ tới một nàng tiên cá với đôi mắt xanh, làn môi với mái tóc nhợt nhạt không có tuổi như tất cả các nàng tiên cá có khả năng giữ được tuổi thanh xuân vĩnh cửu qua nhiều thế kỷ.
    Nàng vội vã xua tan hình ảnh ấy bằng cách tết lại tóc và bó chặt vào trong chiếc mũ trùm. Rồi nàng cắn môi cho nó hồng lên đôi chút và cố gắng tạo ra một vẻ mặt đỡ nhớn nhác. Dù thế nàng vẫn cứ nhìn mình với một vẻ dè chứng. Chiếc gương này không như những chiếc gương khác.
    Sự trong suốt nhuốm màu lá mùa thu của nó tạo cho vẻ mặt những mảng tối dịu dàng, một cái quầng bí ẩn. Cùng với chiếc mũ trùm hiền lành của người nội trợ La Rooswossen Angielic thấy mình có cái vẻ ưu tư của một thần tượng.
    “ Đúng là ta như vậy hay do chiếc gương ma quỷ tạo nên?” Khi cánh cửa mở ra, nàng vẫn còn cầm chiếc gương trong tay. Nàng vội giấu vào nếp váy, thầm tự trách mình không đặt nó vào chỗ cũ bằng một động tác bình thường. Xét cho cùng thì một người phụ nữ luôn luôn có quyền soi gương cơ mà. Cánh cửa thông mở ra, Rescator đứng ở bậc cửa một bàn tay vịn vào tấm rèm ông ta vừa kéo.
    Angielic đứng thẳng người nhìn ông ta với vẻ mặt lạnh tanh.
    -Thưa ông, tôi có thể hỏi ông được không ạ, tại sao ông lại giam giữ tôi?...
    Ông ngắt lời nàng bằng một dấu hiệu bảo nàng đến gần
    -Vào lối này.
    Tiếng nói của ông vẫn còn nặng hơn lúc bình thường và ông ho liên tiếp hai lần. Nàng thấy ông có vẻ mệt mỏi. Có một cái gì đó đã thay đổi ở ông, khiến cho con người ấy bớt…” bớt vẻ Angdalu” như ông Manigon vừa nói. Ông cũng không có cái vẻ Tây Ban Nha. Bây giờ thì nàng tin ông là gốc Pháp. Điều đó cũng chẳng làm ông dễ gần hơn. Trên chiếc mặt nạ vẫn còn lấm tấm những vệt nước, nhưng ông đã kịp thay quần áo.
    Trong phòng khách bừa bộn áo khoác, quần nịt, ủng; những thứ ông dùng trong khi chống chọi với bão tố.
    Nàng thốt lên do một phản ứng tức thời:
    -Ông làm bẩn những tấm thảm đẹp đẽ này mất.
    -Quan trọng gì đâu.
    Ông vừa ngáp vừa vươn vai.
    -Một anh đàn ông hẳn là khó chịu lắm nếu bên cạnh anh ta có một bà nội trợ kè kè bên cạnh. Làm sao mà người ta có thể lấy vợ nhỉ?
    Ông gieo mình xuống một chiếc ghế bành, cạnh chiếc bàn có chân được gắn chặt vào ván sàn. Do tàu chao đảo, nhiều đồ đạc trên sàn bị rơi vẫn còn nằm đó. Angielic chặn được mình ngay khi nảy ý định cúi nhặt. Phản ứng của Rescator vừa rồi đã chỉ cho nàng thấy ông ta không hề hứng thú một chút nào với sự nhã nhặn và ông ta sẽ vin vào từng cử chỉ của nàng để lấy cớ lăng nhục nàng.
    Ông thậm chí không mời nàng ngồi. Ông duỗi thẳng đôi chân đi ủng trước mặt nàng và làm ra vẻ nghĩ ngợi.
    -Vật lộn mới ghê chứ! – cuối cùng ông nói – Biển băng giá và mảnh vỏ cây. Nhờ ơn Chúa, bão tố đã không nổi lên.
    -Không nổi lên – Angielic lặp lại- thế mà tôi cứ tưởng biển dữ dội lắm.
    -Biển động thôi, quá lắm chỉ là thế. Chẳng đến mức dữ dội đâu.
    -Chúng ta đang ở đâu?
    Ông phớt lờ câu hỏi và đưa tay về phía Angielic.
    -Cho tôi xin chiếc gương bà đang cầm trong tay kia. Tôi chắc là bà thích lắm.
    Ông xoay tròn chiếc gương bằng các ngón tay.
    - Vẫn còn vết tích kho báu của nền văn minh Inca.Lắm lúc tôi tự hỏi phải chăng những điều được nói tới trong bài thơ ngụ ngôn Nooyumbaga không phải là sự thật? thành phố lớn của người Anhđiêng với những ngọn tháp nhỏ bằng pha lê, những bức tường lát bằng vàng lá và khảm ngọc…
    Ông nói với chính mình.
    -Những người Inca không biết đến thủy tinh. Sức phản chiếu của tấm gương này có được là nhờ hỗn hợp vàng tráng thủy ngân. Nhờ thế nó tạo cho khuôn mặt người được phản chiếu ánh lộng lẫy của vàng vẻ thấp thoáng của thủy ngân. Người đàn bà tìm được ở khuôn mặt trong gương cái mà họ có: giấc mơ huyền diệu và thoáng qua. Chiếc gương này là một vật hiếm. Bà có thích không? Bà có muốn có nó không?
    -Không, tôi xin cảm ơn ông – nàng nói một cách lạnh lùng.
    -Bà có thích đồ trang sức không?
    Ông kéo một chiếc tráp sắt trên bàn và mở nắp.
    Ông nâng lên những viên ngọc, những châu báu tuyệt vời tỏa ánh sáng màu trắng đục và lấp lánh ngũ sắc được đính những khóa bấm màu hồng. Sau khi phô ra trước mặt nàng bộ trang sức ông đặt nó xuống bàn và lấy lên một thứ khác có những viên ngọc rực rỡ nhất, cỡ lớn, mức độ chói sáng bằng nhau và nhiều đến mức tạo nên một chuỗi hạt thần kỳ. Người ta có thể quấn chuỗi ngọc ấy quanh cổ mười vòng và phần thừa ra vẫn còn dài đến tận đầu gối.
    Angielic ném lên những châu báu lạ lùng ấy một cái nhìn bối rối. Sự xuất hiện của chúng như là một sự lăng mạ đối với những gì nàng đang mặc trên người, chiếc áo dài khiêm tốn may bằng vải phuyten, áo nịt bằng dạ đen và áo sơ mi bằng vải thô. Nàng tự nhiên cảm thấy bứt rứt trong những thứ trang phục tầm thường ấy của mình.
    “ Những viên ngọc ư?...Ta cũng đã đeo những viên ngọc như thế khi ta còn ở trong triều, nàng nghĩ. Không, không hoàn toàn đẹp như thế”. Nàng tự cải chính ngay lập tức.
    Thình lình sự gò bó trong người nàng biến mất.
    “ Được sở hữu những báu vật như thế quả là một niềm vui hiếm hoi những cũng là một gánh nặng. Lúc này, ta đang tự do”.
    -Bà có muốn tôi tặng bà một trong những chiếc vòng này không?- rescator hỏi.
    Angielic nhìn ông ta lo sợ:
    -Cho tôi? Nhưng ông muốn tôi làm gì với những chiếc vòng đó ở vùng đảo mà chúng ta đang đi tới?
    -Bà có thể bán chúng đi, còn hơn là bán bà.
    Nàng giật mình và cảm thấy hai má đỏ bừng dù không hề muốn thế. Chắc chắn chưa bao giờ nàng gặp một người đàn ông- không, kể cả Đê gê cũng không- đã đối xử với nàng hết lần này đến lần khác bằng sự hỗn láo không thể nào chịu nổi và cũng lại có sự quan tâm tinh tế đến như vậy.
    Cặp mắt bí ẩn của ông như cặp mắt mèo vẫn dõi theo nàng.
    Đột nhiên ông thở dài.
    -Không- ông nói vẻ thất vọng- không một chút nào thèm thuồng trong mắt bà, không một chút nào của cái ánh sáng đói khát rực cháy lên trong cái nhìn của những người đàn bà khi đặt trước mặt họ các đồ trang sức.. bà thì trái lại, bà phẫn nộ.
    -Nếu tôi thèm khát đến thế - Angielic đáp- thì hà cớ gì tôi phải đứng như vậy trước mặt ông, con người không có cả chút lịch sự đơn giản nhất là mời tôi ngồi xuống một chiếc ghế? Ông phải thấy rằng tôi chẳng tìm thấy một chút vui thích nào ở chỗ này cả. Và thế thì tại sao ông còn bỏ tù tôi suốt cả đêm nay?
    -Đêm nay – Rescator nói- Chúng ta vừa phải trải qua một hiểm họa chết người. Chưa bao giờ tôi thấy băng trôi xuống thấp như vậy ở vùng này, vùng có những cơn bão chí tuyến rất hung dữ. Bản thân tôi cũng vô cùng bất ngờ và bắt buộc phải cùng đối phó với cả hiểm họa mà thông thường thì không có sự kết hợp như vậy: bão tố, tảng băng, và tôi nói thêm: cả đêm tối nữa. May sao như tôi vừa nói với bà đây, gió đổi chiều, như có phép lạ ấy, không cho biển nổi giận đến nơi đến chốn. Chúng tôi cũng đã cố gắng hết sức tránh các tảng băng và trụ được ở đây cho đến lúc rạng đông. Nhưng mà tối hôm qua, chúng tôi đã tính có thể phải sửa soạn để chờ đón một thảm họa, chính lúc đó tôi cho mời bà tới…
    -Nhưng tại sao?- Angielic hỏi, nàng chưa hiểu gì cả.
    -Bởi vì có khả năng chúng ta sẽ bị chìm, và tôi muốn có bà ở cạnh bên tôi trong giờ phút cuối cùng. Angielic nhìn thẳng vào mắt ông trong trạng thái đê mê không tả nổi. Nàng không tin rằng ông nói một cách nghiêm chỉnh. Chắc chắn ông vẫn còn mải mê với những niềm vui ma quái.
    Trước hết nàng đã ngủ trong cái đêm phi thường đáng sợ ấy, không mảy may nghi ngờ hiểm họa lại có thể sát sườn đến thế. Và sau nữa, tại sao ông có thể nói rằng ông cần có sự có mặt của nàng vào giờ phút cuối cùng,trong khi ông đối xử với nàng bằng lăng nhục và một sự coi thường không che giấu. Nàng nói:
    -Ngài nhạo báng đấy à thưa đức ông? Tại sao ngài nhạo báng tôi?
    -Tôi không nhạo báng bà và tôi xin nói ngay với bà tại sao ngay bây giờ.
    Angielic lấy lại bình tĩnh;
    -Dù sao đi nữa nếu hiểm họa nguy cấp như ông nói ông phải biết rằng TÔI, tôi mong muốn có một khoảnh khắc như vậy để được gần con gái tôi và bạn bè tôi chứ!
    -Đặc biệt là được gần ông Gabrien Becnơ?
    -Đúng thế - nàng xác nhận- Được gần ông Becnơ và các con ông ta mà tôi yêu mến như gia đình riêng của tôi vậy. Thế thì ông hãy thôi đi, đừng coi tôi như của riêng và ông đừng tùy ý sử dụng tôi nữa.
    -Thế mà chúng ta lại có những món nợ phải trả và điều đó tôi đã nói với bà từ trước rồi.
    -Được thôi- Angielic nói, nàng cảm thấy mỗi lúc một nổi nóng hơn- có điều là tôi van xin ông nếu lần sau ông mời tôi, hãy chuyển cho tôi những từ ngữ đỡ xúc phạm hơn một chút.
    -Những từ ngữ nào cơ?
    Nàng thuật lại điều ông thầy thuốc Ả rập đã đến báo với nàng: Rescator muốn nàng qua đêm trong phòng riêng của ông ta.
    -Thì đúng rắp như vậy còn gì nữa. Trong phòng riêng của tôi, chỉ hai bước chân nữa là bà có thể tìm thấy tầng thượng, và trong trường hợp xảy ra sự cố do sự va đập do định mệnh…
    Ông cười vẻ cay độc:
    -Bà còn mong muốn cái gì khác ở lời mời ấy?
    -Mong muốn, không – Angielic nói một cách cứng cỏi, kiểu ăn miếng trả miếng- Tôi sợ, điều đó đúng. Còn muốn thì không.Tôi không muốn bất cứ một cái gì có trên đời này mà lại phải chịu bày tỏ lòng khâm phục đối với một người đàn ông thiếu lịch sự đến thế, một người đàn ông mà…
    -Bà không việc gì phải sợ. Tôi đã không giấu giếm bà rằng bộ dạng mới của bà làm tôi thất vọng sâu sắc.
    -Lạy chúa tôi!
    -Về phần tôi, tôi thề rằng có ma quỷ can dự vào mới tạo ra được một đổi thay như vậy! Thật tai họa! Tôi ôm ấp kỉ niệm về một nô tì đầy quyến rũ, có mái tóc vàng óng như ánh mặt trời, tôi lại tìm thấy một người đàn bà đội mũ trùm, nửa là một bà mẹ trong gia đình, nửa là mẹ nhất trong tu viện…Bà phải công nhận rằng ở đây có cái gì đáng ngạc nhiên, ngay cả với một tên cướp dày dặn như tôi, kẻ đã chứng kiến bao nhiêu điều khác lạ thuộc loại đó.
    -Đáng tiếc là đã có sự hiểu lầm về hàng hóa, thưa đức ông. Rồi cũng sẽ phải nhờ tay Đức ông sắm sửa lại để bảo tồn món hàng ấy, khi nó được đem bán.
    -Lại còn cái kiểu nói năng hách dịch ấy nữa…Lời lẽ ương bướng. Hồi ở chợ Candi bà khiêm nhường đến thế, cúi gập người thấp đến thế.
    Angielic trở về với nỗi tủi hổ của mình. Nàng trần truồng, phơi mình trước những cái nhìn bốc lửa của bọn đàn ông.
    “ Ấy thế mà lúc đó, ta vẫn còn có cái xấu nhất để mà sống…”
    Một vẻ mặt nghiêm trọng chợt rung lên trong giọng nói của ông.
    -Ôi lúc ấy bà mới đẹp làm sao thưa phu nhân duy Plexi. Chỉ với mỗi một bộ tóc thay cho toàn bộ trang phục, với đôi mắt của con báo bị vây dồn, và với tấm lưng vẫn còn in dấu những cuộc hành hạ của ông bạn Dexcranhvin của tôi gây nên…Cái tổng thể đó làm bà nổi trội hơn, hơn hẳn, so với dáng vẻ mới bây giờ, dáng vẻ ngông nghênh của một kẻ thị dân…Hồi đó còn có thêm chút uy danh của nhân ngãi Đức vua nước Pháp làm bà sáng rực hào quang, bà có giá lắm…Chắc chắn là thế!
    Ông làm nàng phẫn nộ khi ném thẳng vào nàng cái danh hiệu mà nàng chỉ mắc nợ do sự vu khống của bọn người xung quanh nhà Vua, và nhất là khi ông ta so sánh bây giờ với quá khứ để làm cho nàng hiểu rằng ngày xưa nàng đẹp hơn. Thật đểu giả, nàng tức điên lên.
    -Này đâu phải chỉ lưng tôi bị đánh dấu, nhìn đây này! Hãy nhìn cái mà bọn người của nhà Vua đã làm cho người tình giả mạo của Ngài ngự đây này.
    Bằng mấy ngón tay, nàng giật sợi dây chằng nịt vú, kéo tụt áo sơ mi xuống để phơi trần cả đôi vai.
    -Hãy nhìn đi! –Nàng nhắc lại – Chúng nó in dấu hoa huệ lên người tôi đây này!
    Tên cướp đứng dậy và bước đến gần nàng. Ông ta xem xét cái dấu do miếng sắt nung đỏ tạo nên với vẻ chăm chú của một nhà thông thái đang khám phá một đối tượng hiếm hoi. Không hề có một dấu hiệu tình cảm nào chứng tỏ rằng vết sẹo ấy làm ông ta xúc động.
    -Thật thế ư? – Cuối cùng ông ta nói- Thế những người bạn Tin lành có biết rằng họ đang che giấu một tên tử tù bị săn đuổi không?
    Angielic thấy ân hận về cử chỉ thiếu suy nghĩ của mình. Ngón tay Rescator ve vuốt một cách hờ hững vết sẹo nhỏ đã chai cứng, nhưng sự tiếp xúc ấy vẫn khiến nàng rùng mình. Nàng muốn kéo áo lên. Ông ta giữ nàng lại, tóm chặt lấy cánh tay nàng bằng cái nắm tay cứng ngắc và không thể lay chuyển được.
    -Họ biết chứ?
    -Chỉ một người biết.
    -Ở vương quốc Pháp người ta đóng dấu như thế cho điếm và tội phạm.
    Đáng ra nàng có thể nói rằng người ta đóng dấu như vậy cho cả những người đàn bà mắc tội theo tôn giáo cải cách, và nàng là một trong những người như vậy. Nhưng sự hoảng sợ đã xâm chiếm nàng. Nỗi hoảng sợ ấy nàng đã biết rất rõ, và nó làm nàng tê liệt trong đôi cánh tay của người đàn ông, khi người đó tìm cách áp đặt cho nàng sự ham muốn của ông ta.
    -A! Tôi bất cần!- Nàng vừa nói vừa giãy giụa- Ông muốn nghĩ về tôi thế nào thì nghĩ, nhưng hãy buông tôi ra.
    Nhưng ông ôm lấy nàng y như buổi tối hôm trước, xiết chặt đến nỗi không thể cất đầu khỏi cái mặt nạ đang khống chế nàng, càng không thể làm một động tác để đẩy ông ra. Cánh tay của rescator cứng nhắc như một cái kiềng sắt.
    Ông đặt bàn tay kia vào cổ họng người đàn bà trẻ và những ngón tay nhẹ nhàng lần xuống bộ ngực đã lộ ra do chiếc áo sơ mi hé mở.
    -Bà cất giấu kho báu của bà khá lắm –Ông thì thầm.
    Trước kia đã có một thời có một người đàn ông không dám ve vuốt nàng một cách mạnh bạo như thế. Nàng gồng mình lên dưới bàn tay đầy quyền uy tin chắc một cách bình thản ở vẻ đẹp của nàng.
    Bàn tay Rescator vẫn sờ vuốt một cách dai dẳng. Nàng đang cảm thấy quyền lực của ông.
    Angielic không thể cựa quậy, thở một cách khó khăn. Nàng đang sống trong một khoảnh khắc lạ lùng. Một ngọn lửa xâm chiếm nàng, và cùng lúc nàng nghĩ rằng mình sắp chết.
    Trong lúc đó sức phản kháng âm thầm của nàng lên tới mức mạnh mẽ nhất. Nàng vẫn còn có thể kêu lên:
    -Để mặc tôi! Ông buông tôi ra!
    Mặt nàng ngả hẳn về phía sau như thể bị tra tấn.
    -Tôi làm bà ghê tởm đến thế kia à? – Ông hỏi và thả nàng ra.
    Nàng lùi đến tận bức tường và phải dựa mình vào đó.
    Ông đưa mắt dò xét nàng và nàng đoán ông bối rối trước những phản ứng quá quắt như vậy.
    Nàng vẫn còn đang ở trong trạng thái chưa lấy lại được sự cân đối bình thường của con người mình.
    “ Mày sẽ không bao giờ trở thành người đàn bà thực sự- một tiếng nói nội tâm đầy tuyệt vọng cất lên. Tiếp đó nàng tự trấn tĩnh: trong vòng tay của tên kẻ cướp này ư?..A! Không, không bao giờ! Hắn đã chứng tỏ khá rõ với mình sự khinh ghét của hắn. Ngược đãi và vuốt ve là công thức phải có để hắn đạt kết quả đối với những người đàn bà phương đông. Nhưng với mình, chẳng ăn thua gì đâu.. Nếu mình rơi vào cạm bẫy, hắn sẽ có thể biến mình thành một kẻ khốn khổ, sa đọa…Không có hắn mình cũng đã khổ sở vì những sai lầm của mình rồi”.
    Nhưng lạ thay, nỗi tuyệt vọng vẫn bám riết nàng “ Chỉ ông ta, có thể, sẽ có thể”.
    Điều gì ông ta vừa đưa tới cho nàng? Nỗi lo lắng thú vị dưới những ngón tay khéo luồn lách- Điều mà nàng đã biết- phải chăng là sự thức tỉnh của dục vọng và sự cám dỗ của ý muốn buông thả? Với ông, nàng sẽ không có gì phải sợ. Nàng tin cậy ở ông thế mà ông lại tưởng rằng ông nhìn thấy trong mắt nàng một phản ứng sợ hãi. Ông không hề biết là phản ứng ấy không dành cho ông.
    Cho đến lúc này nàng vẫn chưa dám nhìn ông. Là người nhanh trí rescator thừa nhận với sự thất vọng của mình một cách cao thượng.
    -Gớm, bà chống trả còn dữ tợn hơn cả một cô gái tân, ai mà ngờ được?
    Ông đứng dựa vào bàn và khoanh tay trước ngực.
    -Thôi đừng có rắc rối nữa, việc bà cự tuyệt gây hậu quả nặng nề đấy. Bà định làm gì với bản giao kèo của chúng ta?
    -Giao kèo nào?
    -Tôi nghĩ bà hiểu khi bà đến chỗ tôi. Ở La Roorssen, nói rằng nếu tôi chở các bạn của bà đi bà sẽ trả cho tôi một nữ tì mà tôi có thể sử dụng tùy theo ý thích và quyền hạn.
    Angielic cảm thấy mình có tội như kiểu một thương gia cố tình quên đi những điều khoản của hợp đồng.
    Khi nàng chạy trên truông, dưới trận mưa quất tới tấp, bị xâm chiếm bởi ý nghĩ duy nhất là đưa tất cả những người bị nhà vua ngược đãi ra khỏi mảnh đất chết tiệt này, nàng biết rằng mình đang đi tới chỗ rescator, hiến thân cho ông ta. Mọi việc đối với nàng lúc ấy có vẻ dễ dàng. Điều quan trọng duy nhất là khả năng trốn thoát.
    Giờ đây ông làm cho nàng hiểu rằng đã đến lúc phải trả nợ.
    -Nhưng…ông chả nói rằng tôi đã làm ông chán là gì- nàng nói với vẻ hi vọng.
    Rescator cười phá lên.
    -Mưu mô xảo quyệt và dã tâm của đàn bà không bao giờ thiếu lí lẽ, kể cả những điều bất ngờ nhất- ông nói giữa hai tràng cười cùng cục làm nàng khiếp vía- Này cô em, chính tôi là ông chủ! Tôi có thể tự cho phép mình thay đổi ý kiến, kể cả cái điều bà vừa nói. Sức quyến rũ của bà không hề kém đi lúc bà nổi cơn thịnh nộ, và sự hung hăng của bà cũng lại có duyên cơ đấy. Tôi thú thật rằng, đã có những lúc nào đó tôi ao ước được lột bỏ chiếc mũ bà xơ và bộ quần áo vải len thô của bà ra và khám phá kỹ càng hơn cái vừa rồi bà có nhã ý thỏa thuận với tôi.
    -Không- Angielic vừa nói vừa xiết chặt chiếc áo khoác lửng quanh người nàng.
    -Không à?
    Ông bước lại gần nàng với một vẻ uể oải giả vờ.
    Nàng thấy ông có một dáng đi nặng nề đến khó chịu. Cho dù có một vẻ ngoài tế nhị đặc trưng của nhà quý tộc Tây Ban Nha, ông ta vẫn là một con người gang thép. Đôi khi ta quên điều đó.Ông có thể vui đùa, giải trí, nhưng rồi sau đó ta sẽ phát hiện ở ông cái sức mạnh hoàn hảo đến dễ sợ.
    Vào giây phút đó, nàng biết rằng hết thảy năng lực thể xác và tinh thần của nàng chẳng còn giúp gì được cho nàng.
    -Xin ông đừng làm thế- nàng nói một cách hấp tấp – đó là điều không thể được. Ông là người biết tôn trọng các luật lệ của đạo Hồi, xin ông nhớ cho rằng người ta không được phép lấy vợ của một người đàn ông còn sống. Tôi đã hứa hôn với một người trong các bạn đồng hành của tôi. Chúng tôi sẽ làm phép cưới trong vài ba ngày nữa, ngay trên tàu này.
    Nàng cứ nói ào đi. Cần phải vội vàng dựng nên một bức tường. Trái lại với sự chờ đợi, sự thú nhận của nàng tỏ ra có hiệu quả.
    Tên cướp dừng phắt lại.
    -Một trong những người bạn đồng hành, bà vừa nói thế có phải không?
    -Vâng…
    -Người đó có biết không?
    -Biết cái gì?
    -Biết rằng bà đã bị đóng dấu hoa huệ?
    -Có biết, đúng là người ấy có biết.
    Tiếng thét làm nàng rụng rời. Nàng chờ đợi ở ông một thái độ thô bỉ, thế mà ông lại có vẻ bị tổn thương.
    “ Tại vì ta nói tới các luật lệ của đạo Hồi, điều ông ấy quý trọng”. – Nàng tự nhru.
    Như thể đọc được ý nghĩ của nàng, ông văng ra một câu nói dữ tợn.
    -Tôi không liên quan gì nhiều với luật lệ của đạo Hồi hơn là luật lệ của các nước theo đạo Thiên chúa đã sinh ra bà.
    -Ông là kẻ báng bổ- Angielic nói tỏ vẻ sợ hãi – Ông chả vừa nói nhờ Chúa mà chúng ta được cứu thoát khỏi bão tố còn gì?
    -Cái ông Chúa mà tôi chịu ơn, tôi nghĩ, chỉ là bà con xa với ông Chúa là tòng phạm của những kẻ vô đạo và độc ác thuộc thế giới bà… Thế giới cũ đã mọt ruỗng – ông nhấn mạnh với vẻ oán giận.
    Lời đả kích ấy không ra vẻ của ông “ Ta làm ông ta bị tổn thương”. – Angielic lại nghĩ.
    Nàng cảm thấy ngạc nhiên trước cảnh ông, giống như Gooliat bị Đavit đánh ngã bất ngờ bằng một túi đá tầm thường chẳng có giá trị gì cả.
    Nàng nhìn ông lại ngồi phịch xuống cạnh bàn, lấy từ trong tráp ra một chiếc vòng ngọc, và ve vuốt một cách lơ đãng giữa các ngón tay.
    -Bà biết ông ta từ lâu rồi à?
    -Ai cơ?
    -Người chồng tương lai của bà ấy.
    Vẻ mỉa mai lại hằn lên trong giọng nói của ông.
    -Vâng…đã lâu.
    -Nhiều năm rồi?
    -Vâng, nhiều năm- nàng trả lời, không đả động gì đến kỷ niệm về người kỵ sĩ tin lành nhân ái đã giúp cứu nàng trên con đường Sarangtong, lúc nàng chạy đuổi theo bọn Boohemieng đánh cắp đứa con trai thứ của nàng, bé Canto.
    -Người đó là cha của đứa con gái của bà?
    -Không.
    -Vẫn không!
    Rescator cười đểu.
    -Bà biết ông ta nhiều năm rồi vậy mà ông ta lại không ngăn cản bà để bà đi có con với một gã nhân tình tóc hung?
    Nàng thậm chí không hiểu điều ông muốn nói “ gã nhân tình tóc hung” nào.
    Thế rồi máu bốc lên mặt và khó khăn lắm nàng mới giữ nổi tự chủ. Mắt nàng quắc lên.
    -Ông không có quyền nói với tôi bằng cái giọng ấy. Ông không biết gì về cuộc đời tôi. Những cảnh ngộ bắt tôi phải có đứa con gái ấy. Ông có quyền gì mà lăng nhục tôi? Ông có quyền gì mà tra hỏi tôi như.. như một tên cảnh sát?
    -Tôi có đủ quyền lực về bà.
    Ông nói về điều đó không lấy gì làm hăng hái, bằng thứ giọng buồn tẻ, nhưng nàng còn cảm thấy đáng sợ hơn cả những lời đe dọa.
    “ Tôi có đủ mọi quyền lực về bà”.
    Câu nói báo hiệu một cái gì không tránh được.
    “ Nhưng ta sẽ trốn thoát khỏi ông ta…Ông Bécnơ sẽ bảo vệ ta”.
    Và nàng đảo mắt nhìn quanh với một ấn tượng bị tách khỏi thực tại, cảm thấy mình đang ở ngoài thế giới, ngoài thời gian.


    o0o



    Chương 5



    Ánh sáng ban ngày trắng nhợt không thể hoàn toàn chọc thủng lớp thủy tinh dày. Căn phòng chìm trong một thứ ánh sáng mờ, khiến cuộc trò chuyện của hai người cứ mỗi lúc một bí ẩn, tối tăm. Giờ đây khi Rescator đã ngồi xa Angielic, trong mắt nàng, ông chỉ còn là một cái bóng của một con ma ủ rũ, với chút ánh sáng duy nhất ở đôi bàn tay đang đưa qua đưa lại sợi dây lấp lánh của chiếc vòng ngọc.
    Vì thế nàng mới hiểu tại sao nom ông khác đi.
    Ông không còn để râu. Nên cái bóng đó vừa là ông lại vừa là một người nào khác.
    Trái tim nàng u ám như buổi tối hôm qua, khi nàng nghĩ rằng mình đã hiểu ra một sự thật điên rồ. Và không có cách nào để bày tỏ, nàng lại bắt đầu lo sợ vì thấy mình ở đây với một người đàn ông mà mình chẳng hiểu gì cả, nhưng lại có khả năng quyến rũ mình.
    Người đàn ông ấy sẽ đưa đến cho nàng những đau khổ không tên.
    Nàng nhìn về phía cửa với đôi mắt của một kẻ bị giam hãm.
    -Bây giờ thì ông hãy để cho tôi đi- nàng nói rất khẽ.
    Ông hình như không nghe được tiếng nào, thế rồi ông ngẩng đầu lên:
    -Angielic!
    Giọng ông nghẹn ngào, có âm vang của một giọng nói khác.
    -Sao mà bà xa xôi đến thế…
    Nàng đứng im không nhúc nhích, đôi mắt mở trừng trừng. Tại sao ông lại nói với nàng bằng một giọng trầm và buồn đến thế? Một khoảng trống lớn lao xuất hiện trong con người nàng, chân nàng bị chôn chặt xuống thảm. Nàng muốn chạy về phía cửa hòng trốn chạy những bùa phép mà ông sắp tung ra để hãm hại nàng nhưng không thể chạy nổi.
    -Tôi van ông, hãy để cho tôi đi – nàng van nài.
    -Phải làm sao để chấm dứt cái tình huống kì cục này. Tôi muốn nói với bà về ý định đó trong buổi sáng ngày hôm nay. Để chậm lại và quyết tâm của chúng ta sẽ bị tản mác đi. Và từ nay tình thế còn kì cục hơn nữa.
    -Tôi không hiểu ông…Tôi không hiểu một chút gì điều ông vừa nói với tôi.
    -Người ta vẫn nói về trực giác của người đàn bà, về tiếng nói của trái tim. Tôi biết được điều gì?..Chí ít cũng có thể nhận thấy rằng bà hoàn toàn thiếu những cái đó. Chúng ta hãy đi thẳng vào vấn đề. Thưa phu nhân duy Plexi, khi bà đến Candi, có người cho rằng bà đến đó để lo việc buôn bán, vài người khác cho rằng bà đến để gặp lại một người tình, vài người khác nữa thì cho rằng bà đi tìm một người trong số các ông chồng của bà. Cách giải thích nào là đúng?
    -Tại sao ông lại hỏi tôi chuyện đó?
    -Ồ! Hãy trả lời đi- ông nói với vẻ sốt ruột. Chắc chắn bà sẽ chống trả đến cùng. Bà đang sợ chết đi được nhưng bà vẫn còn chống trả. Bà sợ cái gì ở các câu hỏi của tôi nào?
    -Tôi không biết cả tôi nữa.
    -Hãy trả lời cho xứng đáng ít nhiều với sự bình tĩnh vốn có của bà, và hãy chứng tỏ ngược lại rằng bà đã bắt đầu nghi ngờ, không biết đâu là cái đích mà tôi muốn đạt tới…Thưa phu nhân duy Plexi, cái ông chồng mà bà đã mất công tìm kiếm ấy, bà đã tìm được hay chưa?
    Nàng lắc đầu, không còn đủ khả năng để thốt nên lời.
    -Không à? …ấy thế mà tôi, Rescator, người biết tất cả đàn ông và tất cả đàn bà ở khắp vùng địa trung hải, tôi có thể khẳng định rằng chồng bà đang ở rất gần bà.
    Angielic cảm thấy xương cốt nàng đang chảy rữa thành nước, thân thể nàng tan ra.
    Nàng hét lên như một kẻ mất trí:
    -Không, không, không phải thế…Không thể thế được! Nếu anh ấy ở gần tôi, tôi đã gặp lại anh ấy từ lâu rồi.
    -Này bà, chính đấy là chỗ bà nhầm! Bởi vì tốt hơn hết bà hãy nhìn đây.
    Chương 6.
    Rescator đưa tay lên gáy.
    Trước khi angielic hiểu được ý nghĩa của cái động tác ấy, chiếc mặt nạ đã nằm trên đầu gối tên cướp và ông ta quay về phía nàng một bộ mặt không che đậy.
    Nàng thét lên kinh hãi và đưa cả hai bàn tay lên che mặt. Nàng nhớ lại điều ở địa trung hải mọi người vẫn kể về tên cướp mang mặt nạ, họ nói rằng ông ta có một chiếc mũi lõm sâu xuống. Nỗi kinh hãi về việc sẽ phát hiện ra bộ mặt thần chết ấy đang chế ngự những hành động đầu tiên của nàng.
    -Bà nhận ra gì nào?
    Nàng nghe tiếng ông đứng dậy, tiến về phía nàng.
    -Không đeo mặt nạ Rescator cũng chẳng đẹp hơn có phải không?Tôi thừa nhận thế. Nhưng không sao, sự thật quá nặng nề với khả năng chịu đựng của bà,cho nên bà không thể nhìn thẳng được vào sự thật có phải không?
    Các ngón tay của Angielic trượt xuống chậm chạp trên đôi má của nàng. Đứng trước nàng chỉ hai bước chân là người đàn ông xa lạ với nàng, tuy thế nàng lại biết ông ta.
    Một hơi thở dài nhẹ nhõm thoát ra khỏi lồng ngực nàng. Ít ra thì ông ta cũng không hề có chiếc mũi lõm sâu xuống.
    Cái nhìn của ông đen và sắc, ẩn dưới đôi lông mày rậm, có cùng một dáng vẻ với cái nhìn lấp lánh sau các khe hở của chiếc mặt nạ mà nàng vừa trông thấy lúc nãy. Mặt ông có những đường nét nom như tạc, rắn rỏi và má bên trái mang những vết sẹo đã lâu ngày. Do những vết dấu ấy làm biến dạng đi ít nhiều, bộ mặt của ông có khả năng gây ấn tượng mạnh nhưng không hề đáng sợ.
    Ông nói, vẫn là giọng nói của rescator
    -Đừng nhìn tôi như thế!...Tôi đâu phải là ma quỷ…Lại đây, giữa thanh thiên bạch nhật…hãy nhìn nhau đi, lẽ nào bà không nhận ra tôi.
    Với vẻ nôn nóng ông dẫn nàng đến bên cạnh cửa sổ, nàng vẫn để mặc đôi mắt mở to nhìn ông trân trối mà không hiểu gì cả.
    -Hãy nhìn tôi thật kỹ đi nào…Những vết sẹo này không làm thức dậy trong lòng bà một kỉ niệm nào à? Ký ức bà cũng khô cạn như trái tim bà sao?
    -Tại sao? – nàng thì thầm- tại sao ông không nói với tôi hồi ở Candi…rằng anh ấy ở gần tôi.
    Một tia sáng bồn chồn lóe lên trong đôi mắt đen đang chăm chú nhìn nàng. Ông lắc mạnh vai nàng.
    -Nhớ lại đi chứ. Đừng làm ra vẻ không biết gì như thế. Ở Candi, tôi đã ở bên cạnh bà, tôi mang mặt nạ, đúng thế và bà đã không nhận ra tôi, và tôi cũng chưa có thì giờ để cho bà thấy mặt tôi. Nhưng hôm nay thì sao?...bà mù à…hay bà điên?
    “Phải, ta điên…” Angielic nghĩ. Đứng trước mặt nàng lúc này là một người đàn ông, kẻ có mưu ma chước quỷ này đang định đánh lừa nàng bằng vẻ mặt của Giô phây đờ Perac.
    Khuôn mặt vô cùng thân yêu ấy, mà trái tim nàng còn giữ mãi một vết hằn cháy bỏng, đã đi khỏi nàng và cuối cùng đã bị xóa nhòa, bởi vì nàng không bao giờ nghĩ có một khuôn mặt nào khác có thể gợi nàng nhớ lại được.
    Giờ đây nàng đang bị đẩy vào một tình thế trớ trêu, khuôn mặt ấy đang được dựng lại, ở ngay trước mắt nàng, chính xác lạ lùng. Sống mũi thanh đầy vẻ quý phải, đôi môi dày phảng phất nụ cười riễu cợt, gò má rắn chắc, bộ cằm nhô ra phía trước, dưới làn da ngăm ngăm của người vùng Akiten, và đường nét thân quen của những vết sẹo làm biến dạng khuôn mặt mà ngày trước các ngón tay nàng vẫn lướt qua một cách nhẹ nhàng.
    -Ông không được phép làm thế - nàng nói bằng một thứ giọng nghèn nghẹt- ông không được phép giống anh ấy để đánh lừa tôi.
    -Hãy thôi cái điệu lảm nhảm đó đi…Tại sao bà cố tình không nhận ra tôi?
    Nàng cố chống chọi với ảo ảnh đe dọa.
    -Không, không…ông không phải anh ấy.Anh ấy có bộ tóc…đúng thế…một bộ tóc dày, đen, ôm lấy hai bên mắt.
    -Tóc ư? Tôi đã cắt đi từ lâu rồi. Bộ tóc rườm rà như vậy không phải là mốt của người bôn ba trên biển.
    -Nhưng mà anh ấy…anh ấy bị thọt –nàng thét lên- Người ta có thể cắt đi một bộ tóc, che dấu một khuôn mặt nhưng không thể làm một cái chân ngắn thành dài được.
    -Thế mà tôi đã gặp một nhà phẫu thuật có khả năng tạo trên thân thể tôi sự thần kỳ như vậy đấy. Một nhà phẫu thuật mặc áo đỏ mà bà cũng đã có dịp gặp.
    Và trong khi nàng đứng lặng đi vì chẳng hiểu mô tê gì cả, ông ném cho nàng một tiếng gọn lỏn:
    -Tên đao phủ
    Vừa đi đi lại lại trong phòng ông vừa nói một mình.
    -Ngài Ô banh, tên đao phủ, kẻ tạo ra mọi thăng trầm cho thành phố Pari. Đó là một người thích hợp để bẻ gẫy thần kinh và cơ bắp của anh, bắt anh phải quy phục theo lệnh Đức vua của chúng ta. Tật thọt của tôi thoạt đầu là do bị teo gân ở khoeo. Sau ba lần bị tra tấn, chỗ đó bị thêm nhiều vết thương há hốc, thế là cái chân tàn tật của tôi lành lại và đuổi kịp chiều dài của chiếc chân kia. Tuyệt vời thay tên đao phủ và Đức vua của chúng ta! Nói lành ngay tại trận là láo toét. Tôi cũng còn phải nhờ ông bạn Aldel Mecchrat hoàn chỉnh thêm. Giờ đây với một miếng độn ở đáy ủng, dáng đi của tôi không khác một chút nào dáng đi của mọi người. Sau ba mươi năm bị thọt thật dễ chịu vô cùng khi cảm thấy mặt đất vững vàng dưới chân mình. Tôi không hề nghĩ là đời mình lại có được điều may mắn ấy.
    Ông nói như thể nói với chính mình, song cái nhìn nhọn hoắt vẫn không rời khuôn mặt tái nhợt của người thiếu phụ. Nàng vẫn như không nghe, không hiểu gì cả. Mãi một hồi lâu đôi môi Angielic mới lắp bắp.
    -Giọng nói của anh ấy..làm sao ông có thể mạo nhận…Anh ấy có một giọng nói vô song. Tôi vẫn còn nhớ lắm.
    Nàng đang nghe giọng nói ấy, vang lên từ quá khứ với một âm vang mạnh mẽ.
    Đứng ở đầu cuối đằng kia bàn tiệc, chàng lúc đó chỉ là một cái bóng mờ vận quần áo bằng nhung đỏ, một mái tóc đen dày như mun ôm lấy khuôn mặt, hàm răng hiện ra cùng với nụ cười sáng ửng, trong khi đó các âm thanh ngọt ngào vang lên, làm rung cả vòm trần lâu đài cổ ở Tuludơ.
    Như thể đang nghe thật, đầu óc nàng rung lên một cách đau đớn bởi tiếc hận và xúc động.
    -Giọng hát của anh ấy đâu rồi? giọng hát vàng của vương quốc.
    -Chết rồi!
    Nỗi cay đắng tạo cho tiếng nói vừa ném ra một âm sắc lạc long. Không, angielic sẽ không bao giờ có thể hòa hợp được giọng nói ấy với khuôn mặt này.
    Người đàn ông dừng lại trước mặt nàng và nói với vẻ dịu dàng:
    -Bà còn nhớ không, ở Candi ấy mà? Lúc đó tôi đã nói với bà rằng giọng tôi bị vỡ từ ngày xưa bởi tôi phải gào gọi một người ở quá xa là Thượng đế. Nhưng để đổi lại cái mất đó, tôi đã được cái mà tôi xin người: mạng sống.Việc đó diễn ra trước nhà thờ Đức bà. Tôi tưởng rằng cái giờ phút cuối cùng của đời tôi đã đến…tôi hướng về Thượng đế và gào lên. Gào rất to, chừng nào tôi còn đủ sức để gào…Giọng tôi bị hỏng vĩnh viễn….Thượng đế cho, Thượng đế lấy thế là hòa.
    Đột nhiên, nàng hết nghi ngờ.
    Những hình ảnh ghê gớm và không thể nào quên được ập đến cùng lúc với hai người. Đó là hình ảnh về một kẻ tử tù, quần áo phong phanh, thòng lọng quấn cổ, đến làm lễ tạ ơn trước nhà thờ Đức bà mười lăm năm về trước.
    Kẻ tử tù khốn khổ kiệt sức được tên đao phủ và ông cha đạo dìu đi, đã trở thành một mắt xích trong sợi dây xích khó tin nối liền vị lãnh chúa oai phong vùng Tuludơ với kẻ giang hồ bốn biển, giờ đây đứng trước mặt nàng.
    -Thế à- nàng nói với vẻ sững sờ khó tả…- ông là chồng tôi ư?
    -Tôi đã từng là thế đấy…Liệu hôm nay còn lại những gì? Tôi thấy hình như ít lắm mà.
    Và ông cười, nụ cười riễu cợt nàng từng quen biết.
    Tiếng kêu thét vẫn thường vang lên trong tâm hồn nàng: “Chàng vẫn còn sống” lúc này chỉ dội lại một âm vang chết choc và tan nát, không còn lại chút gì của cái ánh sáng rực rỡ của niềm vui mà nàng đã nuôi dưỡng trong các giấc mơ từ bao nhiêu năm nay.
    “ Chàng còn sống…nhưng chàng cũng đã chết: người đàn ông đã yêu mình…đã hát và không còn hát được nữa.Và tình yêu…và tiếng hát sẽ không còn gì làm chúng có thể sống lại được…không bao giờ”.
    Ngực nàng đau nhói như thể trái tim sắp vỡ tan. Nàng muốn tìm lại hơi thở nhưng không tìm được. Một vực thẳm tối tăm ôm chụp lấy nàng, nhấn chìm nàng, đưa nàng vào tận cõi vô thức với bao điều khủng khiếp và cũng thật diệu kỳ.





  5. #5
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default




    Chương 6



    Một ngày mùa đông, giữa lúc Angiêlíc đang nhìn mưa rơi qua cửa sổ, cô ngạc nhiên thấy một đoàn người, ngựa và những cỗ xe phóng nhanh trên con đường lầy lội dẫn đến cầu treo vào toà lâu đài.
    Những người đánh xe ngựa từ trên chỗ ngồi cao nhảy xuống đất để dẫn các cỗ xe đi qua cái cổng hẹp. Angiêlíc đi như chạy xuống các bậc cầu thanh từ trên thap cao. Cô tới cổng đúng vào lúc một vị quý tộc ăn mặc lộng lẫy vừa giẫm phải phân ngựa ở sân và đánh rơi xuống đất cái mũ có cắm lông chim, khiến ông tức giận lấy gậy chống nện mạnh vào lưng anh người hầu kèm theo một tràng chửi rủa.
    Nhảy từ viên đá lát này sang viên đá khác trên mũi giày, nhà quí tộc cuối cùng đã vào tránh mưa ở phòng đợi của lâu đài, tại đó Angiêlíc và mấy đứa em trai và gái đang tròn mắt nhìn ông ta.
    Đi theo ông là một thanh niên độ mười lăm tuổi, ăn mặc cũng sang trọng như bố. ông khách mới đến nhìn thấy Angiêlíc liền kêu lên:
    - Trời ơi, cháu này thật giống như đúc cô em họ Xăngxê của tôi, khi tôi dự đám cưới của cô ở Poachiê hồi nào! Này cháu bé, cho ông bác già của cháu hôn một cái nào!
    Ông nhấc bổng cô bé và hôn cô thân mật. Khi được đặt xuống đất, Angiêlíc hắt hơi liền hai cái, vì quần áo ông khách sực nức mùi nước hoa thơm hắc.
    Cô bé nhún chân cúi chào một cách dễ thương: cô vừa mới nhận ra ông khách chính là Hầu tước Plexi Belie. Rồi cô tiến lại để hôn người anh họ trẻ, cậu Philíp. Anh chàng này lùi lại một bước và đưa mắt kinh hãi nhìn ông Hầu tước:
    - Cha ơi, có thật là con có nhiệm vụ hôn cái cô…cô thiếu nữ này không ạ?
    - Ồ có chứ, dĩ nhiên rồi, anh chàng non dại ạ. Hãy hái lấy những búp hồng khi nào có dịp!- Nhà quý tộc nói to và cười phá lên.
    Chàng thanh niên thận trọng đặt môi vào đôi má tròn của Angiêlíc, rồi rút ra từ túi áo trên ngực một chiếc mùi xoa thêu thơm phức, phe phẩy trước mặt tựa như để xua ruồi.
    Nam tước Ắcmăng, người lấm bùn bê bết, chạy vội đến:
    -Ngài Hầu tước Plexi của tôi, thật bất ngờ làm sao! Thế sao ông không biên thư cho tôi biết trước là sẽ đến chơi?
    - Nói thật ra, ông em họ tôi ạ, trước tôi định đi thẳng về nhà mình ở Plexi kia- nhưng chuyến đi này có hơi trục trặc: một cái trục cỗ xe bị gãy khi tới gần Nơsô. Phải mất thì giờ sửa. Trời sắp tối mà chúng tôi đã bị cóng. Đi ngang qua khu lâu đài này, tôi nảy ra ý muốn xin ông cho ngủ trọ, chẳng cần lễ nghi phiền toái gì. Chúng tôi đã mang theo giường và đủ quần áo; bọn người nhà chúng tôi sẽ đem đặt vào bất kì phòng nào mà ông chỉ cho chúng. Như vậy, chúng ta sẽ có dịp hàn huyên vui vẻ với nhau, đỡ lãng phí thì giờ. Philíp, con hãy chào ông chú Xăngxê cùng các cô, các cậu con thừa tự đáng yêu của ông đi.
    Theo lời bố, cậu thanh niên xinh trai bước lại, nhẫn nhục cúi thấp cái đầu dẹp xuống chào con người có dáng dấp nông dân đứng trước mặt. Rồi cậu ngoan ngoãn tiếp tục đến hôn lên những cái má nhọ tròn phính của mấy đứa em họ nhỏ. Sau đó cậu ta lại rút chiếc mùi xoa thêu ra hít hít với vẻ kiêu kì.
    - Thằng con trai tôi là chàng ngốc nghếch tập sự chốn cung đình, chưa quen sống ở nông thôn- ông Hầu tước giải thích- hắn chỉ thạo gẩy đàn ghi ta. Tôi đã xin cho hắn chân tuỳ tùng tiếp cận Ngài giáo chủ Madaranh…
    Angiêlíc chú ý tới con mắt khinh thường của người anh họ trẻ khi nhìn cái phòng khách tối và cũ kỹ. Đôi mắt của công tử Philíp Plexi mày xanh trong nhưng lạnh như thép- Cái nhìn khinh khỉnh ấy lướt qua những tấm thảm bạc màu, ngọn lửa hắt hiu trong lò sưởi, và ngay cả trên người ông nội già của cô với kiểu cổ áo tròn lỗi thời. Rồi cậu ta quay nhìn ra cửa, đôi mi thanh tú mở to hơn, trong khi đôi môi hé mỉm cười hơi chế riễu.
    Bà Nam tước Xăngxê đang bước vào, cùng đi có Oóctăngxơ và hai bà cô. Tất cả đều mặc bộ áo đẹp nhất của mình; mặc dù vậy cậu thanh niên chắc vẫn cho họ là hơi ngố, vì thấy cậu ta khúc khích cười kiểu cách sau chiếc mùi xoa.
    Angiêlíc không thể nào rời mắt khỏi cậu ta, điên người muốn nhảy bổ tới cào vào mặt hắn. Làm như kẻ nực cười nhất không phải là chính hắn ta! Nào là những hàng đăng ten, dải lụa lòng thòng trên hai vai, nào là những ống tay áo xẻ dọc từ nách đến cổ tay, để khoe thứ vải áo sơ mi sang trọng!
    Bố cậu ta cúi mình chào các bà, quét cái mũ lông chim cong cong xinh đẹp trên mũ xuống sàn đá.
    Bà cô Puynsêri luôn niềm nở, đề nghị:
    - Xin mời các vị uống cái gì một chút cho đỡ khát. Rượu táo hay sữa chua ạ? Rõ ràng các vị vừa đi một chặng đường dài.
    - Cám ơn các bà. Được một cốc rượu nho pha chút nước lạnh thì tốt quá.
    - Rượu nho không còn_ ông Nam tước nói- nhưng chúng tôi sẽ cho người đến vay ở chỗ ông linh mục.
    Ông Hầu tước ngồi xuống, rồi vừa mân mê cái gậy chống bằng gỗ mun buộc dây xa tanh, ông vừa kể chuyện mình đã đi thằng từ Xanh Giécmanh đến đây ra sao; một lần nữa ông xin lỗi vì y phục quá xuyềnh xoàng.
    “Nếu ăn mặc sang trọng đến đây, không hiểu họ còn thế nào nữa?”- Angiêlíc tự hỏi.
    - Các vị có biết rằng hiện nay nhà vua đang ở Xanh Giécmanh không?- ông Hầu tước hỏi.
    - Thật vậy ư?- Nam tước Xăngxê nói- vì sao lại có tin đặc biệt ấy?
    - Còn vì sao nữa, ông bạn thân mến, vì cuộc chính biến La”Frôngđờ” đấy.
    Nghe danh từ lạ tai, ông Ắcmăng Xăngxê và cụ Nam tước tự hỏi liệu ông Hầu tước thích gẫu chuyện này có riễu mình không, vì thường ngày ông ta thích bông lơn. Vị khách nói:
    - Cái mà ở triều đình người ta gọi là La Frôngđờ thật sự là cuộc nổi dậy của nghị viện Pari chống nhà Vua. Chắc các vị chưa từng nghe câu chuyện lạ như vậy? Cách đây mấy tháng, các vị mũ cao áo dài đó đã lời qua tiếng lại với Thái hậu nhiếp chính và giáo chủ người Italia của Ngài, chỉ vì vấn đề thuế má, mà nó chẳng hề đụng chạm tới những đặc quyền của bản thân họ. Nhưng họ lại làm ra vẻ bênh vực cho dân chúng. Thế là bên này tiếp tục chỉ trích bên nọ. Và Ngài nhiếp chính bắt đầu nổi nóng. Chắc chắc các vị có nghe đến vụ náo động tháng tư vừa qua?
    - Cũng lơ mơ thôi.
    - Rối ren nổ ra là hậu quả vụ bắt gian ông Brouxen. Ông này là thành viên của Nghị viện. Ngài nhiếp chính hạ lệnh bắt ông ta vào một buổi sáng sớm, khi ông ta đang uống thuốc. Dân chúng bất bình bắt đầu dựng vật chướng ngại khắp các phố Pari.
    - Thế Thái hậu và nhà Vua nhỏ tuổi ra sao?
    - Thái hậu đã dành cho các ngài trong Nghị viện một cuộc đón tiếp đầy sự khinh miệt, nhưng rồi cũng có nhượng bộ. Tuy vậy từ đó đến nay, những tranh chấp vẫn chưa chấm dứt, chưa có hoà giải. Giông tố âm ỉ một thời gian rồi bùng lên. Các quý ngài trong Nghị viện từ lâu đã cảm thấy là có nguy cơ Thái hậu sẽ đưa đức Vua trẻ ra ngoài Pari, vì vậy đã ba lần họ kéo cả đoàn người vào cung lúc đêm, viện cớ muốn được chiêm ngưỡng Mặt rồng xinh đẹp đang yên giấc, thật ra để kiểm tra xem Vua có còn ở trong cung không. Nhưng vị Thái hậu gốc Tây Ban Nha và ngài giáo chủ người Italia cũng tinh khôn chứ. Đến đêm thứ 12, vào lúc các vương hầu chúng tôi đang yến tiệc và nâng cốc vui vẻ trong cung điện giữa đêm khuya, thì tôi và nhiều vị khác nhận được lệnh phải tập hợp ngay bầu đoàn thê tử và ngựa xe để ra ngọai thành Pari. Đến đấy, lại có lệnh đi tiếp đến Xanh Giécmanh. Tại đây tôi thấy đã có Thái hậu cùng hai vị con trai của Ngài, cùng cả đoàn tuỳ tùng bảo vệ, quanh đó các vương hầu và phu nhân lá ngọc cành vàng nằm la liệt trên sàn trải rơm trong toà lâu đài cổ trống tuyềnh trống toàng. Ngài Mađơranh cũng đến. Từ ngày đó, Pari đã bị Hoàng thân Côngđê bao vây, ông hoàng này nắm quỳên chỉ huy quân đội nhà Vua. Bên trong thủ đô, Nghị viện vẫn còn giương cao lá cờ nổi dậy, nhưng họ không thoải mái chút nào. Vị trợ lý tổng giám mục của Pari, Hoàng thân Côngti, một người lăm le thế chân chức vụ của ngài Mađơranh, đã đứng về phía những người nổi dậy. Còn tôi thì tôi theo ngài Hoàng thân Côngđê.
    - Tôi hài lòng thấy Ngài ủng hộ đức Vua- cụ Nam tước già thở dài- thời Đức Vua Angri không đời nào có chuyện rối loạn như vậy được. Nghị viện và các hoàng thân mà lại nổi dậy chống Đức Vua nước Pháp…
    Angiêlíc thấy ông Hầu tước dễ thương, mặc dù hơi kể cả. Nhưng câu chuyện của ông cuốn hút cô hoàn toàn. Dường như toà lâu đài cô ở Môngtơlu đang ngủ say bỗng bừng tỉnh, và mở rộng những cánh cửa nặng nề ra một thế giới mới lạ tràn đầy sức sống.
    Anh con trai ông Hầu tước, ngược lại, mỗi lúc một tỏ ra cau có. Ngồi cứng đờ trên ghế tựa, với mớ tóc quăn đẹp xoã đều đặn xuống cổ áo viền đăng ten, cậu ta đưa mắt hãi hùng nhìn hai anh em Giôxơlanh và Gôngtơrăng đang cường điệu thêm cung cách cẩu thả của mình, thậm chí lấy ngón tay ngoáy lỗ mũi và gãy đầu xồn xột. Những trò hề của hai anh em làm Angiêlíc kinh ngạc; cô bỗng cảm thấy khó chịu và buồn nôn. Trước đây ít lâu cô đã hơi khó ở và có lúc đau bụng. Tối nay, do ảnh hưởng những cảm xúc bất thường mà cuộc viếng thăm của những người khách đặc biệt gợi lên, cô thấy rõ mình sắp ốm thật sự. Vì vậy cô không nói câu nào, chỉ ngồi yên trên ghế tựa. Mỗi khi nhìn cậu anh họ Philíp, cô thấy nghèn nghẹn ở cổ họng, vì khinh ghét hay vì khâm phục, cô không rõ lắm. Chưa bao giờ cô từng gặp một thanh niên xinh trai nhường ấy.
    Mớ tóc quăn óng mượt như tơ rủ trên trán cậu ta có màu vàng rực mà tóc của chính Angiêlíc cũng phải thua kém. Khuôn mặt có những đường nét rất đẹp. Cái áo vét tông dạ tốt màu tro, điểm thêm những dải lụa xanh và đăng ten, rất hợp với nước da trắng hồng của cậu. Đúng là người ta dễ lầm cậu là con gái, nếu như trong ánh mắt cậu không có cái vẻ nghiêm khắc, không có chút gì là phụ nữ.
    Anh thanh niên có mặt làm cho buổi tối và bữa ăn trở thành một cuộc tra tấn đối với Angiêlíc. Trước mỗi thiếu sót của những người đầy tớ, và mỗi khi có cái gì kém tiện nghi, cô đều thấy chàng trai này nhìn chế riễu và mỉm nụ cười mỉa mia, như để nhấn mạnh thêm.
    Khi xong bữa ăn mọi người rời khỏi bàn. Angiêlíc không ăn được chút gì vì chẳng còn bụng dạ nào. Cô ra khỏi phòng, không hiểu sao bỗng thấy ớn lạnh xương sống, muốn run lên. Những chuyện cô vừa nghe được vẫn quay cuồng trong đầu: Nhà Vua rời cung phải ngủ trên đệm rơm, nghị viện nổi loạn, các ngài đại quý tộc và kinh đô Pari, một thế giới đầy sức sống với bao nhiêu điều hấp dẫn. Liên tưởng số phận mình với tất cả những niềm phấn chấn, say mê đó, cô cảm thấy dường như mình đang bị chôn sâu dưới một cái hầm.
    Bỗng nhiên cô lùi lại, nép mình vào một cái ngách cửa hành lang. Người anh họ Philíp đi qua mà không nhìn thấy cô. Cô nghe tiếng chân anh ta bước lên cầu thang, rồi tiếng anh gọi mấy người hầu đang dọn phòng cho chủ. Chàng thanh niên giận dữ nói to:
    - Thật không thể tưởng tượng được. Các người không có ai nhớ đến việc mua nến dùng trong chặng đường cuối này. Lẽ ra phải thừa hiêủ chứ! Những người gọi là quý tộc ở cái xó xỉnh hẻo lánh này, họ có hơn gì những người nông dân mà họ cai quản đâu. Thế ít nhất các người cũng phải dùng nước nóng cho ta tắm rồi chứ?
    Người đầy tớ trả lời câu gì Angiêlíc không nghe rõ-Philíp lại nói, giọng nhẫn nhục:
    - À được thôi, ta phải lau rửa tạm trong chậu. May mà cụ Hầu tước đã cho biết rằng ở lâu đài Plexi nhà ta có hai bể tắm tậu ở Phlogăngxơ. Ta nóng ruột được về đến nhà sớm. Ta có cảm giác như cái mùi của lũ người trong gia đình Xăngxê này cứ bám riết lấy những lỗ mũi ta.
    “Lần này hắn sẽ phải trả giá cho câu nói hỗn xược”- Angiêlíc nghĩ thầm.
    Cô thấy rõ hắn lại trở xuống, nhờ ánh sáng một chiếc đèn lồng đặt trên bàn trong phòng đợi của khách. Đợi cho hắn đến thật gần, từ trong bóng tối của khúc cầu thang lượn vòng. Angiêlíc bất thình lình bước ra:
    - Sao anh cả gan nói với bọn tôi tớ những lời hỗn láo về chúng tôi như vậy?- cô nói với giọng rành rọt, tiếng vang lên dưới vòm trần- Phải chăng anh đã mất hết phẩm giá của người quý tộc? Điều đó chắc chắn do nhà anh là dòng dõi người con hoang của một ông Vua, trái lại, chúng tôi thuộc dòng máu trong trắng.
    - Phải dòng máu trong sạch chừng nào thì làn da lại bẩn thỉu chừng ấy- chàng thanh niên trả lời, lạnh như băng.
    Nhảy lên bất thình lình, Angiêlíc chồm vào mặt hắn, những móng tay nhọn chìa hết ra. Nhưng cậu thanh niên túm chặt hai cổ tay cô bằng sức mạnh của một người lớn, và đẩy thật mạnh cho cô ngã đập lưng vào tường.
    Đoạn hắn bước đi không chút vội vàng. Angiêlíc thấy choáng váng, tim đập thình thình. Một cảm giác hổ nhục và tuyệt vọng mà cô chưa từng biết, làm cô thấy nghẹn trong họng.
    “Tôi căm ghét nó- cô tự nhủ- sẽ có ngày tôi trả thù này. Rồi nó sẽ phải cúi gập người trước mặt tôi, để xin lỗi”
    Nhưng lúc này đây, cô chỉ là một cô gái nhỏ sống khốn khổ trong cảnh tối tăm của một lâu đài cổ lỗ ẩm ướt và lạnh lẽo.
    Có tiếng kẹt cửa. Angiêlíc nhận ra dáng dấp đồ sộ của ông già Guyôm đang gánh hai xô nước đun sôi bốc hơi cho người quý tộc trẻ. Ông già dừng lại khi thấy cô.
    - Ai đấy?
    - Cháu đây- Angiêlíc trả lời bằng tiếng Đức.
    Thường ngày, chỉ có một mình cô với người cựu binh già, cô vẫn dùng thứ tiếng mà chính ông đã dạy cô.
    - Thế cháu đang làm gì ở đây?- ông già Guyôm hỏi, cũng bằng thứ tiếng đó- trời lạnh rồi sao cháu không vào phòng lớn mà nghe ông chú là Ngài Hầu tước kể chuyện?
    - Cháu ghét bọn người đó!- Angiêlíc nói, mặt sa sầm - bọn họ hỗ xược và khác chúng ta nhiều quá!
    - Có làm sao đâu, hả cô gái nhỏ- Bác lính già nói chậm rãi - chả lẽ cháu không thể gác bỏ ngoài tai được mấy câu đùa riễu của họ ư?
    Cảm giác khó ở trong người của Angiêlíc càng rõ rệt hơn. Mồ hôi lạnh toát ra ở hai thái dương cô.
    - Hãy nói cho cháu biết, bác Guyôm: bác sẽ làm gì, nếu gặp một kẻ vừa xấu xa, vừa hèn nhát?
    - Câu hỏi thật kỳ lạ ở một đứa trẻ nhỏ! Nhưng cháu đã hỏi, thì bác cho rằng: phảo diệt kẻ xấu, và hãy tha cho những kẻ hèn nhát chạy đi.
    Ông già nghĩ một lát rồi nói thêm:
    - Nhưng cậu anh họ Philíp của cháu, đâu phải là người xấu hay hèn nhát? Chẳng qua còn quá non trẻ, thế thôi…
    - À, ra cả bác nữa cũng bênh vực hắn!- Angiêlíc kêu to thật gay gắt. Phải, cả bác nữa! Bởi vì hắn tốt mã…, vì hắn giàu có.
    Vị đắng ứa trên miệng cô. Cô bước lảo đảo, trượt ngã vào tường và ngất đi. Cơn đau ốm của Angiêlíc thật ra chỉ là một hiện tượng tự nhiên. Bà Nam tước Xăngxê khuyên giải cô bé: nay đã là một cô gái trẻ, rằng không phải lo sợ gì cả bởi vì những triệu chứng vừa qua từ nay hàng tháng sẽ lại có, cho đến khi thật lớn tuổi mới hết.
    - Thế tháng nào con cũng sẽ bị ngất ư?
    Angiêlíc ngạc nhiên hỏi mẹ, vì cô chưa bao giờ để ý thấy người phụ nữ nào ngất xỉu như mình.
    - Không, ngất đi chỉ là một sự rủi ro. Con sẽ chóng khỏi và rồi sẽ quen đi thôi.
    - Nhưng mà, đến khi già mới hết thì còn phải đợi biết bao lâu nữa!- cô bé thở dài- mà đến lúc già, con sẽ chẳng còn thích leo trèo lên cây nữa!
    - Sắp tới con vẫn leo trèo cây được chứ?- bà Nam tước nói thế vì xưa nay bà vẫn rất tế nhị trong việc nuôi dạy con cái, bà dường như thông cảm với nỗi luyến tiếc của con gái- Nhưng con ạ, hãy nghĩ xem, quả đã đến lúc cần phải quên đi những cử chỉ không còn hợp với tuổi mình, với địa vị của con. Con là một tiểu thư quý phái kia mà.
    Bà giảng giải thích thêm về niềm vui được làm mẹ khi có con, về gánh nặng đè lên vai người phụ nữ, về sự trừng phạt ban đầu của chúa đối với tội lỗi của bà mẹ chung cho mọi người, bà Eva.
    “Đã nghèo khổ, đã chiến tranh loạn lạc còn đèo bòng thêm gánh nặng ấy nữa!”- Angiêlíc nghĩ thầm.
    Nằm dài trong chăn, nghe tiếng mưa rơi, cô không khỏi cảm thấy ít nhiều thoải mái. Trong cùng một lúc cô thấy người mình vừa yếu đi, vừa lớn lên. Cô có ấn tượng nằm trên boong một con tàu đang rời xa một bến bờ quen thuộc và dong buồm thẳng tới số phận mới. Đôi lúc nghĩ đến Philíp, cô lại nghiến chặt răng.
    Được cô Puynsêri đưa vào giường nằm để chăm sóc sau cơn ngất, cô đã không hay biết gì lúc bố con ông Hầu tước ra đi. Sau đó người ta cho cô biết những vị khách đã dừng lại không lâu ở Môngtơlu: công tử Philíp phàn nàn không ngủ say được vì giường có rệp.
    - Thế còn đơn của tôi trình Đức Vua?- ông Nam tước hỏi ông anh họ hiển hách đang sắp trèo lên cỗ xe ngựa- Ông đã dâng đơn lên chưa?
    - Tôi đã dâng lên Ngài rồi, ông bạn ạ. Nhưng theo tôi ông không nên nuôi hi vọng gì nhiều- Đức Vua thiếu niên hiện nay nghèo túng hơn cả ông đấy, thậm chí có thể nói Người chẳng có lấy một mái nhà.
    Rồi ông nói thêm, khinh khỉnh:
    - Nghe nói là ông hiện nay giải trí bằng cách chăn nuôi nhiều con la hảo hạng, phải không? Sao không bán đi một ít?
    - Tôi sẽ suy nghĩ thêm về điều ông vừa gợi ý- Lần này ông Xăngxê thấy cũng nên mỉa mai một chút- chắc chắn đối với một người quý tộc thời bấy giờ, lao động còn tốt hơn trông chờ ở sự hào phóng của những người cùng đẳng cấp.
    - Lao động! Phỉ phui! Cái từ ấy khó nghe làm sao!- ông Hầu tước vừa nói vừa phẩy tay, vẻ kiểu cách- thôi tạm biệt nhé, ông em họ của tôi. Hãy gửi các cậu trai của ông vào quân đội; và hãy cho những tên nhà quê lực lưỡng nhất của ông đăng lính vào trung đoàn của con trai tôi. Tạm biệt, xin gửi các vị một nghìn cái hôn.
    Cỗ xe chuyển bánh sau khi lắc mạnh một cái, một bàn tay thanh nhã chìa ra cửa sổ vẫy vẫy. Sau đó không thấy các nhà quý tộc ở Plexi quay lại thăm viếng nữa. Người ta được tin rằng họ có mở một vài buổi hội hè, chiêu đãi; rồi sao đó họ đã quay về vùng Inlơ đờ Phrăngxơ với một đội quân mới toanh. Có mấy viên đội tuyển lính đã qua làng Môngtơlu. Tại lâu đài này anh chàng Giăng-Áo giáp và một người ở khác xin đi theo, vì ước mơ một tương lai vinh quang đang đón chờ những người lính trong đoàn kị binh của Đức Vua. U già Phăngtin nức nở khóc tiễn con trai lên đường.
    - Nó đâu có phải đứa trẻ hư, vậy mà sẽ lại trở thành một tên lính già trác táng như ông lão này mất thôi!- bà nói với ông già Guyôm.
    - Ấy, máu di truyền mà, mụ ạ. Thế cái ông mà người ra đồn là bố nó, chẳng phải là một lão lính già thập thành ư?


    o0o



    Chương 7



    Cho đến khi đã tỉnh lại, trạng thái đó vẫn chế ngự nàng. Nỗi ám ảnh về một thảm họa không tránh được và niềm hạnh phúc không tên, cả hai cùng chia sẻ con người nàng. Lạnh và ấm, bóng tối và ánh sáng lần lượt thay nhau chiếm giữ nàng. Nàng mở mắt.
    Hạnh phúc ở kia, dưới dạng một người đàn ông đang đứng cạnh giường nàng, với những đường nét của khuôn mặt mà giờ đây nàng không còn chối bỏ.
    Rắn rỏi, nổi bật, cân đối hơn trước vì các vết sẹo dường như đã bị xóa mờ, khuôn mặt in dấu lớp bụi của tuổi tráng niên, chính là khuôn mặt Giô phây đờ Perac.
    Điều làm nàng khó chịu nhất là ông không hề cười.
    Ông nhìn nàng, chẳng chút xúc động, vẻ xa xăm tưởng như đến lúc này vẫn chưa nhận ra nàng.
    Bởi chưng trong đầu óc mù mịt của Angielic vẫn còn nguyên vẹn ý tưởng cho rằng sự thần kỳ bao năm mơ ước nay đã thành đạt, nàng quên đi vẻ lạnh lùng, và hướng về phía ông với một bộ mặt hăm hở.
    Ông làm một cử chỉ chặn nàng lại:
    -Thưa bà, tôi xin bà. Bà đừng nghĩ rằng nhất thiết phải tạo ra một sự nồng nhiệt giả vờ. Ngày xưa có thể tôi không khước từ, nhưng cái đó đã bị dập tắt trong tim của cả hai chúng ta rồi.
    Angielic sững người như bị chận đứng ngay lập tức. Thời khắc vẫn trôi qua. Trong im lặng nàng nghe một cách rõ ràng tiếng gió rít bên ngoài, qua các dây néo và các lá buồm, giống như những tiếng kêu than xé ruột vang vọng từ chính trái tim nàng.
    Khi nói lên những điều vừa nói đó, ở ông có cái vẻ xa cách của vị đại lãnh chúa vùng Tuludo ngày xưa. Nàng nhận ra điều đó dưới bộ y phục mới của kẻ giang hồ bốn biển. Chính là chàng.
    Chắc chắn mặt nàng lúc đó tái nhợt đi.
    Ông ta đi tới lục tìm một thứ gì đó trong chiếc tủ đặt ở cuối phòng. Nhìn từ phía lưng ông đúng là Rescator và có lúc – nàng hi vọng tất cả những gì vừa xảy ra chỉ là một cơn ác mộng. Nhưng ông quay lại và trong ánh ngày nhợt nhạt của vùng cực, một định mệnh khắc nghiệt đã đem trả lại cho nàng khuôn mặt bị lãng quên.
    Ông đưa cho nàng một chiếc cốc:
    -Bà uống thứ rượu này đi.
    Nàng làm một dấu hiệu chối từ.
    -Uống đi- ông nài nỉ với giọng lầu bầu rắn đanh.
    Để đừng phải nghe giọng nói ấy nữa và cho xong chuyện nàng uống cạn cốc rượu.
    -Bà thấy đỡ hơn rồi chứ? Bà bị mệt à?
    Angielic ngạt thở, ho sặc sụa vì rượu và vất vả lắm mới lấy lại được hơi thở.
    -Thế nào? Tại sao? Phát hiện ra rằng người đàn ông mà tôi đã khóc bao nhiêu năm ròng đang ở đây, còn sống, ngay trước mắt tôi, và ông muốn nói rằng tôi…
    Lần này câu nói của nàng bị ngắt bởi một nụ cười của ông.
    -Mười lăm năm đã trôi qua, thưa bà! Thà cứ nghĩ đến điều đó. Thử đánh lừa nhau sẽ chỉ là một trò đùa tồi tệ và ngớ ngẩn. Từ nay cả tôi và bà đều đã biết rằng mỗi chúng ta có những kỷ niệm khác…những mối tình khác.
    Ngay lúc đó, cái sự thật mà nàng cố tình chối bỏ không dám nhìn thẳng, đã xuyên suốt người nàng như cái mũi nhọn hoắt lạnh buốt của con dao găm.
    Nàng đã tìm lại được chàng nhưng chàng không còn yêu nàng nữa. Suốt đời nàng vẫn mơ thấy chàng đưa tay về phía mình. Những giấc mơ ấy, - mà nàng nhận thấy hôm nay- chỉ là trò trẻ con như hầu hết mọi tưởng tượng đàn bà. Cuộc đời thực được khắc tạc vào đá cứng, còn những giấc mơ chỉ là chất sáp đơn sơ mềm mại mà thôi.
    “ Đã mười lăm năm trôi qua, thưa bà. Hãy nghĩ đến điều đó…”
    Chàng đã biết những người đàn bà khác.
    Có thể chàng đã lấy một người vợ khác? Một người vợ mà biết đâu chàng đã chẳng yêu nồng nhiệt hơn so với yêu nàng?...
    Mồ hôi rịn ướt lạnh hai bên thái dương nàng. Nàng tưởng mình sắp sửa ngất lịm.
    -Tại sao ông tiết lộ điều đó với tôi vào ngày hôm nay?
    -Phải, tại sao là hôm nay chứ không phải ngày mai hoặc hôm qua? Tôi đã nói với bà: để chấm dứt một tình thế kỳ cục này. Tôi đã chờ bà nhận ra tôi, nhưng phải nói rằng bà đã chôn vùi tôi, chôn vùi thật sự, hoàn toàn, bởi vì không hề có ở bà, dù chỉ một thoáng ngờ ngợ thoảng qua. Bà tận tình chăm sóc người bị thương thân thiết của bà và các con ông ta, và quả thật, cho dù là người chồng chưa bao giờ có dịp thuận tiện để bí mật theo dõi các hành vi của một người vợ hay thay lòng đổi dạ, cái trò ấy cuối cùng cũng làm tôi phải nghi ngờ. Phải chăng lúc đó tôi phải chờ bà đến tìm tôi với tư cách là thuyền trưởng, người có quyền lực cao nhất của con tàu và làm người đại diện duy nhất của pháp luật để cho bà chung sống với nhà thương gia ấy? Làm thế là đẩy trò đùa đi quá xa đến mức bà không nghĩ tới được đâu. Có phải thế không thưa đờ Perac phu nhân.
    Ông ta cười phá lên khiến nàng không sao chịu nổi.
    -Ông im đi!- Nàng hét lên và đưa tay bịt chặt cả hai tai – Những điều ông vừa nói thật tàn bạo.
    -Tôi có bày đặt ra cho bà chuyện đó đâu. Không nghi ngờ gì nữa, đó là tiếng kêu của trái tim.
    Ông vẫn tiếp tục diễu cợt. Cái điều đang tàn phá nàng như một cơn bão thì ông lại chịu đựng một cách nhẹ nhàng. Ông đã có đủ thời gian để quen đi, kể từ ngày ông biết nàng ở Candi.Và vì thế ông có phần nào trở nên lạnh nhạt. Một khi không còn yêu nữa người ta nhìn sự việc một cách hết sức đơn giản. Tình cảm hiện tại của hai người rối ren và bi đát đến thế, ông thậm chí vẫn cứ nhởn nhơ. Thái độ đó, nàng cũng đã từng biết. Ông đã chả cười trong phòng xử án, ngay khi người ta đọc phán quyết đưa ông ta lên giàn thiêu đấy thôi?...
    -Tôi phát điên mất – nàng vừa rên rỉ vừa vặn xoắn hai bàn tay vào nhau.
    -Chắc chắn là không- ông vờ tạo ra một sự uể oải để trấn an nàng.
    -Bà đâu có dễ điên. Hãy xem nào, bà đã từng biết đến bao nhiêu người khác! Một người đàn bà dám đối đầu với Mulai Ismail…Một người đàn bà theo đạo Thiên chúa duy nhất bị bắt, đã đạt được thành công chưa từng có là trốn thoát khỏi hậu cung và vương quốc Ma rốc… Đúng là nhờ sự trợ giúp của một người bạn đồng hành dũng cảm…Ông vua của các nô lệ mà thanh danh đã trở thành huyền thoại ấy…Tên thật ông ta là gì nhỉ? A, phải rồi, Cô lanh Paturen.
    Ông lặp lại và hướng về phía nàng với vẻ mặt tự lự.
    -Cô lanh Paturen…
    Cái tên và giọng nói lạ lùng ông vừa xướng lên đã xuyên qua lớp sương mù đang quấy đảo tâm hồn Angielic.
    -Tại sao bỗng dưng ông nói với tôi về Cô lanh Paturen?
    -Để khơi dậy ký ức của bà.
    Cái nhìn đen láy và lấp lánh của ông rọi thẳng vào mắt nàng cái nhìn có khả năng cuốn hút đến không thể nào cưỡng lại nổi, và trong một khoảnh khắc nào đó, Angielic trở thành bất lực, không thoát ra được như thể một con chim bị rắn thôi mien. Dưới ánh sáng của cái nhìn ấy, một ý nghĩ nổi lên rõ ràng như những dòng chữ lửa nổi lên trước mắt nàng.
    “ Thế là chàng đã biết Cô lanh Paturen yêu mình… và mình yêu anh ấy…”
    Nàng sợ hãi và đau đớn. Cả cuộc đời hiện lên trước mắt nàng như một chuỗi những sai lầm không sao cứu vãn nổi và nàng sẽ phải trả giá quá đắt.
    “Tôi thế đấy, tôi đã biết nhiều mối tình khác…Nhưng kể ra mà làm gì”, nàng những muốn gào thét lên bằng cái ngạo mạn vô thức của người đàn bà.
    Làm sao có thể cắt nghĩa cho chàng về những mối tình đó? Mọi lời lẽ đều thô vụng.
    Đôi vai nàng như oằn xuống vì sức nặng của cuộc đời như những tảng đá đang đè lên.
    Mệt mỏi rã rời, nàng ôm mặt vào han bàn tay.
    -Bà thấy rõ rồi đấy, bà bạn thân mến ạ, mọi sự chống đối đều chẳng để làm gì cả- ông nói khẽ bằng thứ giọng nặng nề, làm cho ông hình như càng xa lạ hơn đối với nàng- Tôi xin nhắc lại với bà, tôi không sắm nổi vai mình trong một vở kịch dối lừa, điều mà phụ nữ các bà làm giỏi hơn nhiều. Tôi thích hơn nhiều nếu được thấy bà cũng như tôi, không đắn đo ngần ngại gì cả. Và để bà yên tâm hoàn toàn thậm chí tôi sẽ đi đến chỗ nói thẳng với bà rằng tôi hiểu rõ những trăn trở của bà. Thật không phải lúc khi người ta đang sửa soạn cho một cuộc hôn nhân có cheo cưới hẳn hoi với một ý trung nhân mới, mà lại cảm thấy dễ chịu trước việc một anh chồng đã quên hẳn lại hiện ra lù lù, thêm vào đó là món nợ phải trả. Thế nhưng không việc gì cả, bà cứ yên tâm. Chẳng lẽ tôi nói rằng tôi cản trở các ý định hôn nhân của bà …nếu như các ý định đó là mối quan tâm thực sự của bà sao?
    Một biểu hiện khoan dung như vậy chứng là sự lăng nhục tồi tệ nhất mà nàng phải tiếp nhận. Ông có ý định xem nàng kết hôn với người khác, đấy là sự bày tỏ không còn có gì có thể rõ ràng hơn, rằng ông không còn thuộc về nàng, đồng thời cũng chứng tỏ rằng ông có ý định, với trái tim nhẹ nhõm, làm một kẻ dị giáo thực sự. Ông đã trở thành tên tội phạm chai sạn và bất lương. Thật không thể tưởng tượng nổi! Ông đã mất trí, hoặc giả chính nàng đã mất trí!
    Nỗi nhục nhã làm nàng mất đi vẻ lơ láo. Nàng đứng thẳng lên và vừa ném vào ông một cái nhìn hách dịch vừa bám chặt một cách máy móc bàn tay xưa kia từng đeo nhẫn cưới.
    -Thưa ông, những lời ông vừa nói đối với tôi đều vô nghĩa. Mười lăm năm đã có thể trôi qua nhưng chính vì ông còn sống cho nên tôi vẫn còn là vợ ông trước con mắt Thượng đế, nếu không phải là con mắt người đời.
    Một thoáng xúc động làm nét mặt Rescator cau lại. Dưới vẻ mặt người đàn bà mà ông không chịu thừa nhận là của mình, ông vừa thấy xuất hiện cô gái dòng dõi quý tộc vẻ mặt căng thẳng mà ông từng tiếp đón trong lâu đài của mình ở Tuludo.
    Nhưng còn xúc động hơn là cái hình ảnh vừa xuất hiện trước mắt ông qua cái nhìn chớp nhoáng đó là hình ảnh bậc đại mệnh phụ của nàng, có lẽ…ở cung điện Vecxay. “Người đẹp nhất trong tất cả các phu nhân- thiên hạ nói về nàng như vậy- còn hoàng hậu hơn cả chính hoàng hậu.”
    Và điều đó quả thực không thể nào chịu nổi.
    Ông ngẩng đầu lên, bởi vì dù đã cố tình giữ vẻ thản nhiên, sự căng thẳng do cái cảnh vừa rồi gây nên vẫn tác động đến tất cả các cơ bắp của ông.
    Sau một khoảng im lặng kéo dài, ông quay về phía angielic vẫn với một vẻ mặt rắn câng và khó hiểu ấy.
    -Căn cứ vào những chứng cớ nào chắc chắn mà bà không chung thủy như tôi. Nếu những chỉ dẫn mà tôi có được không sai, thì tôi đã bị thay thế một cách khá là nhanh chóng.
    -Tôi nghĩ rằng lúc đó ông đã chết rồi.
    -Plexi Beli –ông như đang tìm cách để nhớ lại – Về phần tôi, tôi nhớ rằng bà đã có lần kể với tôi về ông anh họ ấy, một gã đẹp trai nổi tiếng mà trước kia bà đã có yêu, dù chỉ là tí chút. Quả là thời cơ tuyệt vời để cùng lúc vứt bỏ anh chồng do bố mẹ gán ghép, anh chồng đã tập tễnh lại rủi ro, và thực hiện giấc mơ ôm ấp đã từ lâu.
    Angielic đưa cả hai bàn tay lên bịt lấy miệng mình, một cử chỉ tỏ vẻ không tin.
    -Đấy là tất cả những gì mà ông nghĩ về tình yêu mà tôi đã dành cho ông- Nàng nói một cách đau khổ.
    -Lúc đó bà hãy còn quá trẻ…Tôi đã cố quên bà một thời gian. Và tôi hiểu ra rằng không thể tìm đâu được một người vợ đẹp hơn thế. Nhưng cũng trong thời gian đó tôi không bao giờ nghĩ rằng bà có thể thủy chung…Thôi vứt chuyện đó đi…Phân tích quá khứ, tôi nghĩ hình như chẳng ích lợi gì cả, cố tìm cách làm nó sống lại chỉ là việc hão huyền. Thế nhưng bà vẫn còn là vợ tôi khi bà đã làm cho tôi lưu tâm đến quá khứ như vậy, và vì lẽ đó, tôi còn có những câu hỏi đặt ra với bà, những câu hỏi liên quan đến người khác và tầm quan trọng của nó còn vượt quá những gì là riêng tư của chúng ta…
    Hai nét lông mày của ông nhíu lại, làm tối sầm đôi mắt vẫn thường lấp lánh như dát vàng mỗi khi vui vẻ, kể cả khi giả vờ vui. Nhưng lúc này, nỗi tức giận hoặc là nghi ngờ đã làm nó trở nên u ám và sắc nhọn.
    Chốc chốc Angielic lại nhận ra những chuyển động của khuôn mặt đã làm nàng mê mẩn ngày xưa. “ A! đúng là chàng! Hoàn toàn đúng là chàng!” – nàng tự nhủ, và cảm thấy mình mệt rũ ra trước những điều vừa phát hiện ấy, cũng chẳng biết vì thất vọng hay vì vui sướng nữa.
    -Bà đã làm gì cho các con trai của tôi? Và bây giờ chúng ta đang ở đâu vậy?
    Nàng lặp lại như thể mình vừa lên trời rơi xuống:
    -Các con của ông?
    -Hình như tôi đã diễn đạt một cách sáng rõ rồi mà. Đúng thế, các con của tôi. Cũng là con của bà! Những đứa con mà tôi hiển nhiên là cha. Thằng anh, Phơlôrimông, sinh ở Tuludo trong lâu đài học vui. Thằng em, tuy không biết mặt, nhưng tôi biết là có nó: thằng Canto. Chúng nó đâu rồi? Bà vứt chúng nó ở đâu? Chẳng hiểu tại sao tôi vẫn hình dung một cách lờ mờ rằng tôi sẽ được gặp chúng nó khi bà nhờ tôi cho lên tàu. Một bà mẹ cố cứu thoát con mình ra khỏi một số phận bất công, đó là vai trò mà theo tôi bà chắc chắn phải biết. Nhưng không hề có đứa con trai nào trong đám trẻ đã lên tàu có thể là con tôi. Hơn nữa, bà hầu như chỉ chăm sóc đứa con gái của bà. Chúng nó đâu? Tại sao bà không dắt chúng nó theo? Bà bỏ chúng nó lại cho ai? Ai chăm sóc chúng nó?...


    o0o


    Chương 8



    Bây giờ mà trả lời thì chẳng khác gì tự đóng đanh câu rút. Các từ ngữ sẽ xác nhận sự vắng mặt của hai đứa con trai là mãi mãi. Chính vì chúng mà nàng khó nhọc, đau khổ. Nàng muốn chúng thoát khỏi cảnh túng thiếu, chúng được phục quyền. Nàng vẫn mơ thấy chúng lớn lên, đẹp đẽ vững vàng, sắc sảo. Nhưng nàng sẽ không bao giờ thấy chúng lớn lên. Chúng đã bỏ nàng mà đi.
    Nàng nói một cách khó khăn:
    -Phlôrimông đã ra đi từ lâu…lúc bấy giờ nó lên mười ba tuổi. Tôi không hề biết nó ra sao. Còn Canto…đã chết, ở tuổi lên chín.
    -Tôi vẫn chờ câu trả lời của bà. Tôi không nghi ngờ chuyện đó. Vì thế tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho bà về sự thờ ơ của bà đối với các con tôi – Rescator nói, quai hàm nghiến chặt lại vì giận dữ - Chúng làm bà nhớ lại một thời mà bà chỉ muốn quên đi. Bà gạt chúng ra. Bà chạy theo những thú vui của bà. những mối tình của bà. Và bây giờ bà thú nhận không mảy may xúc động rằng có thể có khả năng chúng vẫn còn sống, nhưng bà không hề hay biết gì cả? Tôi sẽ có thể tha thứ cho bà nhiều cái, nhưng riêng cái đó thì không! Không bao giờ!
    Đang như bị chết đứng, Angielic vọt đến trước mặt ông, ngẩng mặt lên, tái nhợt.
    -Trong tất cả các điều ông buộc tội nàng, điều vừa nói là đi xa tới mức bỉ ổi nhất, bất công nhất. Ông trách cứ nàng dã quên ông, thế là sao, nói nàng phản bội ông thì than ôi, cũng có phần đúng. Còn nói rằng nàng chưa bao giờ yêu ông thì thật là quái dị.
    Nhưng nàng sẽ không thể nào chịu đựng nổi việc mình bị coi là người mẹ tồi tệ trong khi đã có lúc nàng có cảm tưởng đang rút máu mình ra để nuôi con. Có thể nàng không phải là người mẹ biết trìu mến các con và thường hay đi vắng, nhưng Phlôrimông và Canto lúc nào cũng sống giữa trái tim nàng…Còn ông…Bây giờ ông dám tung ra những lời mắng chửi, trong khi hàng bao năm trời, ông nhởn nhơ trên biển, chẳng hề băn khoăn gì đến vợ, đến lũ con mà ông bỗng dưng quan tâm đến thế. Ai đã kéo những đứa trẻ vô tội ra khỏi cảnh khốn cùng mà sự suy sụp của ông đã đẩy chúng vào? Nàng sẽ hỏi ông vì ai mà thằng Phlôrimông đầy kiêu hãnh mãi mãi là một đứa trẻ không tên, không tước vị, bị giáng xuống còn thấp hơn cả đứa con hoang? Nàng sẽ nói với ông rằng Canto đã chết trong hoàn cảnh nào. Do lỗi lầm của ông? Đúng thế, do lỗi lầm của ông. Vì tàu cướp của ông đã đánh đắm chiếc tàu Galê của hải quân Pháp trên đó có chở theo người thị đồng của Công tước đờ Vivonne.
    Nang nghẹt thở vì nổi giận và đau khổ. Đúng lúc nàng mở miệng để nói, một con sóng lớn dồi tàu lên làm nàng chệnh choạng. Nàng phải bíu lấy mép bàn, nàng không có đôi chân vững chãi như Rescator, ông ta dường như đã được bắt vít vào sàn tàu.
    Khoảnh khắc tạm dừng ngắn ngủi ấy đã đủ để Angielic kìm giữ những ngôn từ không sao cứu vãn nổi sắp bật ra. Liệu nàng có nên tuyên bố rằng một ông bố phải chịu trách nhiệm về cái chết của con ông ta không?
    Số phận đã chả săn đuổi Giophrây de Perắc mãi rồi sao? Người ta muốn giết chết ông, tước đọat hết tài sản của ông, đuổi ông đi biệt xứ, bắt ông phải làm một kẻ lang thang, không có một quyền nào khác ngoài thứ quyền mà ông có thể chinh phục được bằng lưỡi gươm.
    Cuối cùng thì ông đã trở thành một con người khác được rèn đúc bở lề luật không tránh khỏi của những kẻ bắt buộc phải giết để không bị giết, thế thì sao giờ đây Angielic, con người ngây thơ đến độ khóc lóc vì cảm thấy có thể nghĩ khác về ông. Thực tế phũ phàng phải vâng phục những đòi hỏi khác. Liệu có ích gì nếu còn thêm vào thảm họa đó việc phát hiện cho ông thấy rằng chính ông đã giết con mình?
    Không, nàng sẽ không nói với ông điều đó, không. Không bao giờ! Nhưng nàng sẽ phát hiện với ông những gì trong mớ hỗn độn mà ông hình như cố tình không biết. Những giọt nước mắt của nàng, nỗi hãi hùng của một người đàn bà còn quá trẻ, chưa từng trải, bị ném vào cơn gió dữ của khốn khó, bơ vơ. Nàng sẽ không nói với ông Canto đã chết như thế nào, mà nói rằng nó đã được sinh ra như thế nào: vào cái buổi tối ở lò thiêu tại quảng trường Grevơ nàng đã trở thành một kẻ bất hạnh ra làm sao, với chiếc xe hai bánh trên đường phố Pari tuyết phủ, trong xe hiện ra hai khuôn mặt nhỏ tròn trặn, tái xanh vì rét của hai đứa con trai.
    Lúc bấy giờ có thể ông sẽ hiểu ra. Ông đã phán xét nàng là vì ông chẳng hiểu gì về cuộc đời của nàng cả.
    Một khi đã hiểu liệu ông có thể trơ lì ra mãi được không? Các từ ngữ có thể làm bùng lên ngọn lửa đã bị vùi dập dưới lớp tro than của một trái tim tích tụ quá nhiều đổ vỡ. Một trái tim cũng đã bị chà đạp không khác gì trái tim nàng.
    Nhưng về phía nàng, ít ra cũng còn phải có tình yêu. Lúc đó nàng sẽ quỳ gối dưới chân ông, nàng sẽ cầu xin ông. Nàng sẽ nói với ông tất cả những lời mà nàng đã ghìm lại sau làn môi. Rằng nàng mãi mãi yêu ông, rằng chưa gặp được ông nàng vẫn còn mong đợi, khắc khoải…Không , không phải không có phần nào điên rồ trong những cuộc tìm kiếm của nàng trái với ý muốn của Đức vua, kẻ đã kéo nàng vào những thảm họa không tên.
    Đúng lúc ấy nàng thấy Rescator hướng sự chú ý sang phía khác. Với vẻ tò mò, ông nhìn cánh cửa phòng mở ra một cách nhẹ nhàng…Đó là điều khác thường. anh chàng người Mo canh gác cẩn thận. Ai có thể được phép vào phòng riêng của ông chủ lớn mà không báo trước? Hay là cửa bị đẩy ra vì gió hoặc sương mù?
    Một làn gió lạnh buốt ùa vào đẩy theo một màn sương tơi tả khi tiếp xúc với hơi ấm trong phòng. Từ màn sương ấy một cô bé gái hiện ra với chiếc mũ trùm bằng vải sa tanh màu xanh nhạt, và mái tóc đỏ rực như lửa. Hai điểm màu lấp lánh nổi bật trên nền khoảng không bên ngoài xám xịt. Đứng sau đứa bé người lính gác chìa ra khuôn mặt vàng ệch vì giá lạnh quấn đầy khăn.
    -Sao lại để nó vào hả? – Rescator hỏi bằng tiếng A rập.
    -Con bé đi tìm mẹ nó ạ.
    Ôrônin vội vàng đi về phía Angiêlic.
    -Mẹ,. mẹ ở đâu đấy? Mẹ, đi về chứ!
    Angiêlic thấy con bé xấu xí. Nàng nhìn vẻ ngây độn, khuôn mặt tròn trĩnh đang ngước về phía mình đôi mắt đen, xếch sáng quắc. Vẻ mặt xa lạ của đứa con gái trong một khoảnh khắc ngắn ngủi đập mạnh vào nàng, với những tình cảm mà nàng đã từng gặp ngày xưa: nỗi kinh hãi khi biết mình có mang trái với ý muốn, từ chối việc sinh đẻ, không chịu để dòng máu tinh sạch của mình hòa trộn với dòng máu nhơ nhớp trong đứa con gái ấy, phẫn nộ vì con bé sinh ra, ngượng đến chín cả người.
    -Mẹ, mẹ đi cả đêm. Mẹ!
    Con bé lặp đi lặp lại một cách dai dẳng cái tên mà nó ít khi dùng tới. Bản năng giành lại và bảo vệ khá là dữ tợn trong trái tim trẻ nhỏ khiến nó đọc lên cái tiếng khủng khiếp ấy, phương cách duy nhất để nó đưa mẹ trở về , kéo bà ra khỏi cái ông đen thui đã gọi bà đi và nhốt bà trong cái lâu đài đầy châu báu của ông ta.
    -Mẹ, mẹ!
    Ôrônin kia. Con bé là dấu hiệu của tất cả những gì không thể tha thứ được, là con dấu niêm phong dán lên cánh cửa đóng chặt của một thiên đường đã mất, giống như ngày xưa, dấu niêm phong của Đức vua trên cánh cửa của lâu đài Học vui, có nghĩa là mãi mãi chấm dứt một thế giới, một thời đại, một hạnh phúc.
    Nhiều hình ảnh lẫn lộn trước mắt Angiêlic.
    Nàng nắm lấy bàn tay Ônôrin.
    Giôphrây đờ Perắc nhìn con bé. Ông đoán tuổi của nó: lên ba hay lên bốn?...Không phải con gái của Thống chế đuy Plexi. Vậy thì, con ai? Căn cứ vào nụ cười nửa miệng đầy vẻ châm chọc và khinh miệt của ông nàng thử đoán ý nghĩ của ông. Một người tình chốc lát “ một người tình tóc hung”. Thiên hạ hẳn đã nói với ông về người đẹp, nữ hầu tước đuy Plexi, người tình của Đức vua, vợ quá của bá tước đờ Perắc. Chỉ còn điều đó là nàng không bao giờ có thể nói thật với ông. Sự hổ thẹn đã không cho nàng nói. Thừa nhận một vết nhơ như vậy chẳng khác gì phơi bày ra với ông một vết thương ô nhục và đáng ghê tởm. Nàng chôn chặt trong lòng, mãi mãi giữ kín cùng với những vết thương không bao giờ lành của thân thể nàng và trái tim nàng cùng với vết sẹo bỏng trên chân nàng do sự săn sóc của Côlanh Paturen, cùng với cái chết của đứa con nhỏ Saclơ- Hăngri.
    Ônôrin, đứa con gái sinh ra từ một cuộc hiếp dâm…
    Philip, những chiếc hôn của Đức vua, sự say đắm vụng về đầy hứng khởi của người đàn ông khốn khổ xứ Noócmăng, ông Vua của đám nô lệ, những khoái lạc thô sơ vui nhộn với anh chàng sĩ quan cảnh sát Đêgrê, những cuộc ái ân tinh tế mà nàng từng nếm trải với Công tước Đờ Vinvon. Ôi! Nàng đã quên Racoxki!...và chắc chắn còn nhiều người khác nữa.
    Ngần ấy tháng năm dài đằng đẵng trôi qua…nàng đã sống: cho chàng, cho nàng. Không ai có thể đòi hỏi nàng phải xóa đi.
    Ông đưa tay sờ cằm với vẻ lơ đãng.
    -Bà bạn thân mến ạ, bà phải thừa nhận là tình thế rắc rối đấy.
    Lẽ nào ông vẫn cứ có thể tiếp tục mỉa mai trong khi nàng gần như không đứng vững nổi nưẵ vì trái tim đau nhói.
    -Càng muốn làm sáng tỏ, tôi thấy rằng tình thế càng tối tăm hơn… Tất cả đều ngăn cách chúng ta.
    -Đi, mẹ đi! Vậy thì đi đi mẹ- Ônôrin vừa nhắc lại vừa kéo váy mẹ.
    -Chắc chắn bà không muốn kéo dài thêm nữa sự gần gũi, như bà đã thấy trong vài tiếng đồng hồ vừa qua, là rất xa lạ với ý tưởng của bà, một ý tưởng đã hoàn toàn thuộc về người khác…
    -Đi, mẹ!
    -Ôi, im đi! – Angiêlic nói, có cảm tưởng như đầu mình sắp vỡ ra.
    -Về phần tôi…
    Ông ném một cái nhìn hoài nghi ra xung quanh, quan sát kỹ căn phòng mà ông lấy làm thích thú vì đã tập hợp được những đồ đạc có giá trị, những dụng cụ chọn lọc, cách bài trí không đơn điệu, công phu nom rất kỳ thú, căn phòng không có chỗ cho Angiêlic.
    -Tôi là con hải bằng già quen sống cô đơn. Trừ một vài năm của cuộc sống vợ chồng ngắn ngủi ngày xưa bên bà. Trong đời tôi, đàn bà bao giờ cũng chỉ đóng một vai phụ. Có thể bà sẽ lấy làm mừng khi biết điều đó. Nhưng quả thật điều đó tạo ra những kỳ thú mà tôi chẳng phải bắt mình đi tìm trong niềm vui xác thịt của một người chồng mẫu mực.
    Con tàu này không lấy gì làm rộng rãi, các căn phòng của riêng tôi cũng có hạn…Tôi đề nghị với bà thế này: trong suốt thời gian của cuộc hành trình chúng ta hãy nhặt lấy những quân bài đã đánh xuống và coi như một ván hòa.
    -Hòa?
    -Hãy giữ nguyên vị trí tôn kính của chúng ta. Bà cứ là bà Angiêlic giữa đám bạn bè của bà…và tôi, tôi cứ ở …chỗ tôi.
    Như thế tức là ông từ bỏ nàng, đẩy nàng đi.
    -Và thêm nữa là ông sẽ không đòi hỏi tôi phải quên đi những gì ông vừa phát hiện với tôi chứ? – nàng nói với vẻ chua chát.
    -Quên à? Không. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng chớ có tiết lộ.
    -Đi mẹ - Ônôrin vừa nhắc vừa kéo nàng đi về phía cửa.
    -Quả thật, càng ngẫm nghĩ tôi càng thấy chẳng có lợi gì nếu để các bạn bà biết rằng vào một thời gian xa xôi nào đó bà đã từng là vợ tôi. Họ sẽ nghĩ rằng bà là tòng phạm của tôi.
    -Tòng phạm của ông? Về cái gì mới được chứ?
    Ông không trả lời, vẻ mặt trầm ngâm, trên vầng trán gồ lên một vết hằn khắc nghiệt.
    -Bà hãy quay về với mọi người- ông nói gọn lỏn, bằng cái giọng của kẻ chỉ huy – Đừng nói gì cả. Chỉ là vô ích. Vả lại mọi người sẽ nghĩ là bà điên mất. Câu chuyện về ông chồng biệt vô âm tín vừa tìm thấy, cái người đã đưa bà lên tàu mà chính bà cũng không nhận ra ngay lúc đó, phải nói rằng có vẻ đáng ngờ lắm.
    Ông quay về phía bàn để lấy chiếc mặt nạ bằng da, cái vỏ bảo vệ cho bộ mặt bị thương tránh khỏi sự phá hoại của bụi nước mặn và cũng tránh khỏi sự dò xét của người đời.
    -Đừng nói gì cả, đừng để lộ ra chút gì làm họ nghi ngờ. Vả lại tôi cảm thấy họ không phải là những người đáng tin cậy đâu.
    Angiêlic lúc đó đã đến gần cửa.
    -Ông nên nhớ rằng lòng tin phải có đi có lại – nàng nói như rít qua kẽ răng.
    Đứng trong khung cửa, tay dắt con gái, nàng quay lại đôi mắt nhìn ông chằm chằm. Ông đã lại đeo mặt nạ vào. Chính cái mặt nạ ấy giúp nàng nhận ra điều ông muốn làm nàng hiểu.
    Ông là chàng, cũng đồng thời là một người khác. Giôphrây đờ Perắc và Rescator. Một đại lãnh chúa bị đuổi đi biệt xứ và một tên cướp biển bắt buộc phải sống, đã đi tới kết cục là tự dứt bỏ mọi mối quan hệ vốn có, để trở thành con người chỉ còn biết có nghiệt ngã như hôm nay.
    Thật kỳ cục, đối với nàng, con người ấy nay lại có vẻ gần gũi hơn trước. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm vì mình không còn chỉ phải nói chuyện với Rescator.
    -Thưa đức ông Rescator – nàng nói – Các bạn của tôi cảm thấy lo lắng, họ không biết ông sẽ đưa họ đến đâu. Ông thử nghĩ xem, gặp băng tuyết ở ngoài khơi châu Phi như chúng ta vừa thấy là chuyện lạ lùng đối với họ.
    Ông đến gần một quả cầu bằng đá cẩm thạch màu đen, lấm chấm những dấu hiệu khó hiểu. Ông đặt lên đấy bàn tay vẫn có vẻ quý tộc nhưng rám nâu như bàn tay của một người Ả rập và đưa một ngón tay dò lần theo các đường vạch khảm vàng. Sau một lúc lần tìm, ông có vẻ như sực nhớ ra và trả lời lãnh đạm.
    - Nói với họ rằng, con đường phía Bắc cũng dẫn tới vùng Đảo.




  6. #6
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default




    Chương 9



    Bá tước Giôphrây đờ Perac, tức Rescator, lần vào cửa boong và tụt nhanh theo một chiếc thang thẳng đứng dẫn xuống lòng tàu. Đi theo sau tấm áo choàng trắng của gã người Mo tay cầm đèn, ông tiến sâu vào cái mê cung chật chội của các hành lang.
    Dưới bước chân nhịp lắc lư của con tàu khẳng định với ông một cảm giác bình yên: nguy hiểm đã qua rồi. Mặc dù phải đi trong sương mù lạnh giá rất đáng lo ngại, trên hầu khắp các trục kéo buồm và mặt boong vẫn còn đọng lại một lớp băng mỏng, ông biết rằng mọi việc đều yên ổn. Tàu Gunxboro vẫn đang lướt nhanh với sự thoải mái của một con tàu không hề cảm thấy bị đe dọa.
    Ông Rescator, ông biết mọi rung lắc mọi tiếng nứt rạn khác nhau từ vỏ tàu đến các cột buồm, đến tất cả các chi tiết tạo nên tầm vóc đồ sộ của con tàu, được thai nghén từ các biển vùng cực, do chính ông thiết kế và đặt đóng tại Boxton, xưởng đóng tàu chính của Bắc Mỹ.
    Vừa đi về phía trước, ông vừa đưa tay quờ quạng lần sờ các thanh gỗ ẩm ướt. Đối với ông, làm thế không chỉ cốt tìm chỗ vịn để bước đi, mà còn để tiếp xúc với bộ sườn vô địch của con tàu dũng cảm.
    Ông thở hít mùi thơm của nó, mùi thơm của gỗ Cù tùng lấy từ núi Klamat trong vùng Origon xa xôi, gỗ thông trắng từ đỉnh Kennobec và từ núi Katangdanh ở vùng Men- vùng Men “của ông”- thứ mùi thơm mà đến cả muối mặn thấm vào cũng không thể làm mất đi được.
    Không một cánh rừng nào của châu Âu đẹp bằng các cánh rừng Tân thế giới. Tầm cao, sức sống mạnh mẽ của cây cối, vẻ đẹp rực rỡ bóng loáng của những tàu lá, đối với ông là một sự thần khải mỗi khi ông đang cảm thấy đôi chút chán chường.
    “ Thế giới còn là vô tận để con người khám phá- ông tiếp tục suy nghĩ – Cứ mỗi ngày qua, ta lạI nhận ra rằng ta chẳng biết gì cả… Ta có thể luôn luôn lại bắt đầu tất cả… Thiên nhiên và các yếu tố tự nhiên có đấy là để trợ giúp ta, thúc đẩy ta tiến về phía trước”
    Có điều là cuộc vận lộn ghê gớm kéo dài suốt đêm qua để chống chọi với cơn thịnh nộ của biển khơi và băng giá đã không để lại trong trái tim ông sự mãn nguyện vẫn thường có, không chỉ là mãn nguyện vì thắng lợi, mà mỗi lần như thế, kho tang nội tâm của ông còn giàu có thêm lên, cái thú không ai có thể cướp đoạt của ông được.
    Chính từ lúc đó ông phải chống đỡ với một cơn bão khác, cho dù đã cố tự bảo vệ, cơn bão ấy vẫn tạo ra trong con người ông ta những tàn phá. Liệu có thể coi đó là một trò đùa cợt bỉ ổi hoặc vô vị không? Ông vẫn chưa muốn dùng chữ “thảm kịch”.
    Ông luôn luôn cố tạo cho mỗi sự kiện một tầm vóc đích thực của nó. Chuyện đàn bà nói chung thuộc về hài hơn là bi. Ngay cả chuyện bà vợ ông, một ngườ đàn bà chắc chắn là nội trội hơn nhiều người đàn bà khác – quả là một thua thiệt lớn cho ông, - ông vẫn không thể nhịn nổi sự thích thú được cười nhạo báng mỗi khi nhớ lại các dữ kiện của vở hài kịch : một người vợ đã quên đi từ mười lăm năm nay rồi, bỗng lại xuất hiện để xin cho được đáp tàu mà không nhận ra ông, và, hài hước nhất, là lại nhờ chính ông làm phép cười cho để kết hôn với một người tình mới.
    Đã đành là chuyện tình cờ, ai mà không biết thế. Nhưng ở đây có cái gì vượt quá giới hạn. Dù thế nào đi nữa cũng cứ làm phép cười cho lão ta ư? Tống cổ lão ta đi? Tin ở sự tình cờ hài hước ấy rồi mang vẻ mặt nhăn nhở, đi đánh ghen như một người tình trai trẻ ư?
    Cả ông và nàng đều không ai mong muốn quay nhìn lại phía sau. Vậy thì tại sao sáng nay ông đã nói như vậy, Vì nàng không nhận ra ông, đơn giản nhất là để cho nàng đi theo cái Tin lành thân thiết của nàng sao?
    Ông bước lên khoang boong. Ánh sáng bên ngoài làm ông lóa mắt. Và ngay lúc ấy, một ý nghĩ quá rõ ràng, cũng giống như một tia nắng chói chang bừng lóe trong đầu làm ông đau nhói.
    “ Thật ngu xuẩn!
    Hãy thú nhận rằng mày không thể làm như vậy, bởi vì mày không thể nào chịu đựng bởi điều đó .”
    Do ảnh hưởng của cơn giận, ông đưa mắt nhìn quanh bằng một cái nhìn u tối. Một vài người đang ngủ trên võng hoặc trên những chỗ nằm sơ sài được thu xếp tạm bợ dưới các giàn che pháo, nhưng người ta đã mở cửa sổ thành tàu, vì giàn pháo thứ hai này ở vào chỗ khoang boong chật chội, không được thoáng khí. Trong chuyến đi này, Giophray đờ Perac đã bắt buộc phải để ở đây một boojphaanj của đoàn thủy thủ, nhường khoang boong trước của đuôi tàu cho những người khách.
    Thỉnh thoảng nước biển bắn vọt lên boong làm một trong những nguới đang ngủ càu nhàu.
    Ở đây người ta cảm thấy rất gần nước, nghe rõ tiếng sóng rì rào vỗ vào thành tàu. Có thể đưa bàn tay vuốt ve chúng như ve vuốt những con vật to lớn đã được thuần dưỡng.
    “Không, ta sẽ không chịu đựng nổi một tình thế như vậy, ông lại một lần nữa tự nhủ. Thà nàng trở nên lạnh nhạt hoàn toàn… Đằng này nàng lại không hề lạnh nhạt với ta…”
    Tự thú nhận như thế cũng sẽ chẳng giúp gì để làm đơn giản hơn những điều sắp xẩy ra. Luôn luôn thấy rõ là không đi tới một giải pháp dễ dàng.Có lẽ phải tự nhủ một khi đã sang dến mái dốc bên kia của cuộc đời, con người ta mới biết coi thường những dằng xé nội tâm với một sự thanh thản nào đó. Những nẻo đường của hận thù vô vọng, của ham muốn, đối với ông chả có gì là hấp dẫn để mà dẫn sâu vào. Ông đã không hề ghen tuông ngay cả cái hôm nhận được lá thư báo tin rằng “bà quả phụ” Pe rắc đã tái giá với vị Hầu tước rất đẹp trai và rất phóng đãng Piexic-Belie. Ông thậm chí còn vượt qua trạng thái bị vỡ mộng một cách đến là mau lẹ. Ít ra thì ông cũng nghĩ thế.
    Những vết thương đó ta tưởng là xoàng vì mau mau kín miệng, thực ra lại là những vết thương sâu, vì bên trong thịt bị hủy hoại hoạc teo đi . Người bạn thầy thuốc Ả rập đã cắt nghĩa điều đó khi ông lão chữa cho ông cái chân thọt bằng cách bắt buộc cái vết thương phải đẻ ngỏ cho đến khi tất cả các dây thần kinh, các bắp thịt, các đường gân hồi phục theo sự hài hòa cần thiết của tự nhiên.
    Dầu thế nào đi nữa, ông vẫn đau khổ vì một người vợ đã mất và không thể hồi sinh.
    Đến đó, ông vừa nghĩ vừa nhìn mặt biển bằng đôi mắt xanh thăm thẳm, và đưa tay đập vào cánh cửa gỗ một cách giận dữ.
    Gã người Mo Apđula vẫn đang chờ sau lưng ông đang định tắt đèn.
    _Không đi, chúng ta còn xuống sâu nữa-ông ta nói với Apđula.
    Và ông theo sau gã A rập, chui vào một cái giếng tối om, miệng mở ra ngay trên sàn khoang pháo. Những hoạt động ấy đã trở nên quen thuộc với ông, mỗi khi cần phải lãng quên.
    Toàn bộ ý chí của ông đang được huy động, để có thể ngay trong buổi sáng hôm nay, thoát ra khỏi ám ảnh về Angielic. Việc ông đang đi xuống hầm tàu, cũng một phần vì mục đích ấy.
    Giận giữ thù oán, hoang mang, ông cũng chẳng biết cái gì đang ngự trị trong con người mìn nữa. Than ôi, chỉ có điều chắc chắn là không phải lạnh lùng. Những tình cảm được khơi gợi bởi một người đàn bà đã mười lăm năm nay không còn là vợ mình, và nay đang tìm mọi cách để chống lại mình còn chưa đủ phức tạp hay sao mà còn thêm vào đó nỗi thèm muốn !
    Tại sao nàng có những cử chỉ khác thường đến thế?
    Tại sao nàng lại cởi trật áo lót ra để cho ông thấy dấu hoa huệ bị đóng trên vai? Cái dấu ô nhục ấy thật ra ngay lúc đó chả làm ông xúc động bao nhiêu so với vẻ đẹp tấm lưng ngà ngọc của nàng. Ông vốn là con người say mê sắc đẹp một cách cầu kỳ, quen nhìn ngắm chi li vẻ đẹp đàn bà, lúc đó vẫn choáng mắt vì tấm lưng ấy.
    Ngày xưa, nàng chưa có một tấm lưng hoàn hảo như vậy, bởi vì lúc đó nàng chỉ mới thoát ra khỏi hình hài mảnh dẻ của tuổi thiếu niên. Khi lấy ông, nàng mới có mười bảy tuổi. Ông còn nhớ lúc bấy giờ, trong khi vuốt ve tấm thân còn non tơ hoàn toàn trong trắng ông vẫn thỉnh thoảng hình dung tới vẻ đẹp của Angielic khi mà cuộc đời nàng, khả năng làm mẹ của nàng, và vinh quang của nàng cùng đến độ bừng nở.
    Và bỗng thật lạ lùng đối với ông khi nàng đã bừng nở hoàn toàn. Vào lúc ít ai ngờ nhất, Angielic hiện ra đúng như hình ảnh ông đã tưởng tượng. Trút bỏ bộ quần áo bạc phếch và may vụng, nửa mình phía trên của nàng lồ lộ, gợi nhớ những bức tượng các nữ thần trông coi việc sinh con đẻ cái được dựng trên các đảo ở Địa trung hải. Đã bao nhiêu lần ông ngắm nhìn các bức tượng và tự nhủ rằng than ôi, làm sao còn tìm được trong thế giới đàn bà những hình mẫu như thế này nữa.
    Nhưng trong ánh sáng nhập nhoạng hôm nay, ông thậm chí còn choáng váng hơn hồi ở Canđi. Làn da trắng ngần của nàng óng ánh như sữa ngời lên trong ánh sáng nhợt nhạt của buổi bình minh phương bắc, đôi vai…, hai cánh tay…, một vết hõm điểm nhẹ trên cái gáy lộ ra sau làn tóc, gợi một cái gì hồn hậu, ngây thơ. Tất cả đều quyến rũ ông, hút ông đến gần, ông cảm thấy kinh ngạc về nàng thậm chí còn đẹp hơn cả ngày xưa.
    Nàng kháng cự mới ghê gớm làm sao! Chắc nàng sẽ hết sức kinh ngạc nếu ông thử đi xa hơn nữa. Vậy thì có cái gì ở ông làm nàng kinh sợ đến thế? Chiếc mặt nạ? Nhân cách còn che giấu của ông? Hay nỗi nghi ngờ về một đôi điều khó chịu mà ông không làm cho nàng hiểu sớm hơn?
    Ít ra, có thể nói là nàng không bị ông cuốn hút. Nỗi ham muốn của nàng rõ đã thuộc về một người khác.
    _Đi, đi – Ông giục giã người Mo với vẻ sốt ruột – Ta đã bảo anh rồi, xuống đến tận đáy, đến khoang nhốt tù.
    “ Chúng nó đóng dấu hoa huệ lên vai nàng – Ông nghĩ – Vì tội gì? Nàng đã đồi bại đến mức nào? Ở đâu? Tại sao?... Biến cố nào đã đẩy nàng rơi vào vòng ảnh hưởng của gã Tin lành kỳ cục ấy? Phải chăng nàng là một kẻ có tội đã hối cải? Đúng có vẻ là như vậy. Ý chí đàn bà xưa nay vẫn yếu đuối mà…”
    Đã không thể trả lời một cách dễ dàng các câu hỏi ấy, ông còn cảm thấy đau khổ hơn vì những hình ảnh cho các câu hỏi ấy gợi lên.
    “ Đóng dấu hoa huệ… Ta đã từng biết hang ổ của tên đao phủ, cái lạnh lẽo khủng khiếp ở những nơi người ta tạo ra sự đau đớn và ly tiện..., Nỗi sợ hãi có thể gây nên bởi một lò than đang nung đỏ các dụng cụ lạ lùng. Đối với một người đàn bà, quả là một thử thách ghê gớm… Nàng đã đương đầu với sợ hãi ra làm sao? Tai sao? Vậy là Đức vua, người tình của nàng, không còn che chở nàng nữa hay sao?”
    Hai người đi xuống đến tận đáy tàu. Ở đây, trong bóng tối, không còn nghe tiếng động của biển. Chỉ còn cảm thấy một cái gì nặng nề, dày bình bịch ở phía sau lớp vỏ gỗ. Không khí ẩm khiến Giôphray đờ Pecrac nhớ đến các vòm trần ướt rượt trong các phòng tra tấn của nhà ngục Baxti và nhà ngục Satole. Những nơi chốn thê thảm ấy, thế mà chưa bao giờ ám ảnh giấc mơ của ông trong suốt những năm tiếp theo sau khi ông bị bắt và đưa ra xử án. Cuối cùng ông đã ra khỏi những nơi ấy, dù thân tàn ma dại, chỉ nghĩ đến đó là đã thấy yên tâm rồi. Nhưng đối với một người đàn bà thì sao? Đặc biệt với Angielic! Ông không thể hình dung được nàng như thế nào trong cái nơi khủng khiếp đó.
    Chúng nó bắt nàng quỳ gối không? Có lột áo nàng ra không? Chắc nàng kêu to lắm? Nàng phải thét lên vì đau đớn chứ? Ông dừng lại và đứng dựa vào một thanh xà dính ướt. Gã Ả rập ngỡ là ông muốn xem xét các thứ chứa trong khoang, vội vàng mở một cánh cửa ở hành lang và giơ đèn lên.
    Trong ánh sáng lờ mờ hiện lên những chiếc hộp vứt ngổn ngang chiếc nào cũng đánh đai sắt và đóng đinh, còn có cả những chồng hàng lấp lánh được xếp đặt cản thận, thoạt nìn chưa phân biệt rõ hìn thù.
    Nhưng thật vô cùng kinh ngạc khi nhìn kỹ các nét chạm trổ, các hình cuốn: ghế bành, bàn, bình, đồ dùng đủ loại, tất cả đều bằng vàng khối, thỉnh thoảng có một vài thứ bằng “ bạc nhỏ”, tức là bạch kim, ngọn lửa đèn nhảy múa làm ánh lên vẻ rực rỡ của kim loại quý mà dù nước, dù muối đều không làm mờ đi được.
    _ Ngài ngắm kho báu của ngài à, thưa ông chủ? – gã người Mo hỏi bằng thứ giọng phát ra từ cổ họng.
    _ Ừ - ông trả lời, nhưng thật ra chả nhìn thấy gì cả.
    Ông lại đi tiếp, và đột nhiên đụng phải một cánh cửa bằng đồng nặng nề, ông túm lấy một cách giận dữ.
    _ Bỏ lỡ cả một đống vàng.
    Đám bạn hàng người Tây ban nha sẽ uổng công chờ đợi. Do có chuyện mấy người La Rosen, ông buộc phải quay lại, không thể hoàn thành được chuyến đi, đáng lẽ ra đó là chuyến vàng cuối cùng để rồi sau đó sẽ tiến hành thương lượng ký kết những hợp đồng buôn bán mới. Tất cả chỉ vì một người đàn bà, một người đàn bà mà ông thậm chí cũng không nắm được. Thế mà từ trước đến nay, chưa có ai bắt ông phải chịu một thiệt thòi lớn như vậy trong buôn bán. Nhưng rồi những người Tin lành sẽ phải trả. Họ sẽ trả cũng với giá thật đắt như vậy. Và tất cả sẽ kết thúc tốt đẹp.



    o0o



    Chương 10



    Dùng ngón tay, ông khẽ khàng gạt tấm chắn của cái lỗ nhòm và bước đến gần để quan sát người tù.
    Người này ngồi bệt xuống sàn, bên cạnh một chiếc đèn cung cấp cho ông ta cùng lúc cả ánh sáng lờ mờ lẫn hơi nóng chẳng lấy gì làm ấm áp. Đôi tay đeo xiềng của ông ta đặt trên đầu gối, và vẻ mặt nom có vẻ lo lắng. Giôphray đờ Pecrac chẳng có gì đáng tự hào trong chuyện này. Ông đã gặp quá nhiều loại người nên không biết đánh giá một con người ngay từ cái nhìn đầu tiên. Không hiểu được vì sao Angielic ngày xưa tinh tế đến như vậy, lại có thể đi yêu cái gã Tin lành cục mịch, tẻ lạnh ấy, khiến ông bị đẩy vào một cơn giận đen tối.
    Những người Tin lành, chắc chắn ông đã nhìn thấy họ hầu ở khắp mọi miền thế giới. Không dễ gì nắm được họ, rất khó giao du, nhưng là những người đàn ông, đàn bà có nghị lực. Ông khâm phục sự liêm khiết trong nghề buôn bán của họ, khả năng bảo đảm hội đoàn của họ, họ học rộng, thông thạo nhiều ngôn ngữ, trong lúc đó thì có nhiều kẻ đồng cấp, đồng đạo ngày trước của ông ta, thuộc giới thượng lưu của nước Pháp lại dốt nát đến thảm hại và thậm chí không thể hình dung được rằng có những con người có thể tồn tại ở ngoài phạm vi nhỏ hẹp của họ.
    Điều ông thấy rõ hơn hết là sức mạnh đoàn kết được tạo ra trong cái tôn giáo nghiêm khắc và còn đang bị đe dọa ấy. Những người thuộc phe thiểu số bị hành hạ, bị coi là “ muối của đất”. Nhưng ma xui quỷ dắt làm sao mà một người đàn bà dòng dõi cao sang như Angielic lại đến với bọn lái buôn khắc khổ và buồn tể ấy. Sau khi thoát khỏi hiểm nguy một cách thần kỳ ở vùng hồi giáo – mà chỉ có trời mới biết tại sao nàng bị quẳng vào đó, nàng không tiếp tục giành lại những lợi thế của mình ở triều đình ư? Khi nghĩ tới nàng, ông ta luôn luôn thấy nàng hiện ra với vẻ vương giả trong ánh sáng rực rỡ của điện Vecxay, và ông thường tự nhủ: nàng sinh ra là để sống như vậy. Cho đến một lúc nào đó, cô bé có nhiều tham vọng mới bắt đầu ý thức được quyền lợi của mình. Nàng chả tính toán để làm nổi bật mình ngay tại ngai vàng của Đức vua, vào cái hôm ông đưa nàng đến dự lễ cưới của vua Luy thứ XIV ở Xanh-giăng-đờ-Luy đấy thôi? Lúc đó nàng đã là người đàn bà đẹp nhất, trang điểm giỏi nhất, nhưng liệu ông có thể khoe khoang rằng mình đã vĩnh viễn chiếm được trái tim non trẻ ấy không?
    Ai mà biết hết những ao ước muôn màu của người dàn bà đối với hạnh phúc của họ?... Với người này đỉnh cao hạnh phúc sẽ là chuỗi hạt kim cương, với người nọ là cái nhìn của Đức vua, với người kia là tình yêu chung thủy, với người kia nữa là những món được nấu nướng ngon lành…
    Thế còn Angielic?... Ông chưa bao giờ biết rõ điều gì ẩn giấu dưới vầng trán mịn màng của người đàn bà – trẻ thơ, nằm ngủ bên cạnh mình, mệt mỏi, thỏa mãn sau các cuộc tình hoạn lạc đầu tiên.
    Mãi sau này, rất lâu về sau này, ông đã biết rằng nàng đã đạt được mục đích của mình, ở điện Vecxay, và ông tự nhủ: “ Đúng thôi. Thực chất, nàng sinh ra là để sống như vậy”. Chả thế mà ngay lập tức nàng được gọi là người tù đẹp nhất Địa trung hải?
    Ngay cả khi trần truồng, nàng vẫn giữ được vẻ lộng lẫy. Thế nhưng, khi gặp lại nàng đường đột, trong bộ quần áo đứa ở, gắn bó với một gã thương gia chuyên buôn rượu và muối, kẻ suốt ngày ngốn kinh Thánh, xem ra có một cái gì thật gàn dở. Mãi mãi ông sẽ không quên cái cảnh nàng ướt sũng và hốt hoảng, đầy vẻ thất vọng vì không gợi được ở ông sự thương hại.
    Gã thủy thủ người đảo Mantogac dưới hầm, bước đến gần với chùm chìa khóa trong tay.
    Người chủ tàu ra hiệu cho ông ta mở tấm cửa bọc đồng. Rescator bước vào phòng giam. Gabrien Becno ngước nhìn ông. Tuy vẻ mặt xanh xao, ông ta vẫn giữ được cái nhìn trong sáng.
    Họ im lặng nhìn nhau. Con người xứ La rosen không vội vã đòi hỏi được cắt nghĩa về cách đối xử bất nhân mà người ta đang bắt ông ta phải chịu. Sự việc không ở đó. Nếu con người đen đủi đeo mặt nạ kia đích thân đến thăm ông ta, điều làm ông ta nghi ngờ, thì không phải chỉ đơn giản để nói với ông ta những lời trách cứ hoặc đe dọa. Có một cái khác đanh được dựng lên giữa hai người: một người đàn bà.
    Gabrien Béc nơ quan sát tỉ mẩn cách ăn mặc của kẻ đang giam giữ mình. Ông ta có thể ước tính được giá tiền của những thứ ấy. Tất cả đều được lựa chọn công phu: da, nhung, dạ hảo hạng. Đôi ủng bằng và thắt lưng bằng dạ Coocdu có lẽ được thửa tại chỗ. Vải may chiếc áo chẽn kia là nhung Metxin của Italia, ông ta dám chắc thế. Ở Pháp, cho dầu ngài Côn be đã cố gắng hết sức người ta vẫn chưa thể làm ra được loại nhung đẹp đến thế.. Ngay cả chiếc mặt nạ cũng là một tác phẩm nghệ thuật thủ công: vừa cứng, vừa mỏng mảnh. Ở bộ mặt bị che lấp dưới lớp mặt nạ, ở những quần áo sang trọng và thanh nhã, trong phong thái đường bệ của con người này đều có một cái gì đấy làm say đắm đàn bà. “Nàng nhẹ dạ cả tin quá”, ông Bécnơ nghĩ một cách chua chát.
    Đêm qua đã có điều gì xảy ra giữa tên cướp khéo mồm, vẫn quen phô trương với đàn bà các đồ nữ trang và quần áo đẹp, với bà Angielic, kẻ lưu vong khốn khổ mình trần thân trụi?
    Chỉ nguyên với ý nghĩ ấy thôi đã đủ để ông Béc nơ xiết chặt nắm tay và một sắc hồng hiện rõ trên gương mặt tái nhợt của ông ta.
    Rescator cúi xuống, đặt bàn tay lên tấm áo khoác thấm máu cứng quèo của nhà thương gia và nói:
    -Này ông Béc nơ, các vết thương của ông lại bật máu ra đấy, và ông thì đang ở trong hầm tàu. Đêm qua lẽ ra ông phải có một chút khôn ngoan sơ đẳng nhất là tự bảo mình hãy tuân thủ các quy luật của tàu. Khi con tàu đang trong vòng nguy khốn, nghĩa vụ tất yếu của hành khách là đừng có gây thêm bất cứ một sự cố nào, đừng làm vướng víu việc vận hành để có thể đẩy sinh mạng của tất cả chúng ta vào thảm họa.
    Con người của xứ La Rosen không hề tỏ vẻ sợ hãi.
    -Ông biết tại sao tôi lại hành động thế rồi. Ông bắt giữ trái phép một trong những người đàn bà của chúng tôi mà ông đã cho gọi một cách hỗn láo như …như là nô lệ vậy. Ông có quyền gì?
    -Tôi có thể trả lời ông: quyền của một ông Vua.
    Và Rescator nở một nụ cười cay độc:
    -..Quyền của ông chủ đối với chiến lợi phẩm.
    -Nhưng chúng tôi tin cậy vào ông – ông Bécnơ nói,- và….
    -Không!
    Người đeo mặt nạ đen kéo chiếc ghế đẩu và ngồi xuống cạnh người tù. Ánh sáng hồng mờ nhạt của ngọn đèn làm nổi bật lên sự khác nhau giữa hai người. Một người thô kệch, vóc dáng cứng đờ, một người bí hiểm được che chở bởi tấm áo giáp mỉa mai của chính mình. Khi Rescator ngồi, Bécnơ để ý thấy ông ta có cái động tác hất áo về phía sau, cũng như vẻ duyên dáng tự nhiên khi ông ta tình cờ đặt bàn tay lên cái cán bằng bạc của khẩu sung lục nòng dài.
    “ Một kẻ quý tộc- ông ta tự nhủ - một tên cướp, nhưng là một con người thuộc tầng lớp thượng lưu, không còn nghi ngờ gì nữa, mình là cái thá gì trước mặt ông ta?”
    -Không! Rescator lặp lại- Các ông chẳng hề tin cậy ở tôi. Các ông không hề biết tôi, các ông không hề ký với tôi bất kỳ một giao kèo nào cả. Các ông chạy đến tàu tôi để cứu mạng của mình, và tôi, tôi cho các ông lên tàu, tất cả chỉ có thế. Ông đừng nghĩ rằng vì thế mà tôi tỏ ra không hiếu khách. Các ông được ăn, ở tốt hơn đoàn thủy thủ của tôi, và không một người đàn bà nào, một cô gái nào của các ông bị hành hạ hoặc là chỉ bị quấy rầy.
    -Thế còn bà Angielic ?
    -Bà Angielic đâu phải là người theo đạo tin lành. Tôi biết rõ về bà ấy từ lâu rồi, tôi không coi bà ấy như một người đàn bà của các ông.
    -Nhưng bà ta chẳng mấy chốc sẽ thuộc về tôi. Và với tư cách ấy tôi phải bảo vệ bà ta. Tối hôm qua tôi đã hứa với bà ấy sẽ kéo bà ấy ra khỏi nanh vuốt của ông, nếu sau một tiếng đồng hồ bà ta không quay lại.- ông ta chồm về phía trước và động tác ấy khiến cho xích cả ở chân và tay ông ta kêu leng keng.
    -Tại sao cánh cửa khoang boong lại cài chặt?
    -Để cho ông hưởng cái thú vui được phá cửa bằng những cú húc bằng vai đấy ông Béc nơ ạ.
    Ông Bécnơ bắt đầu hết kiên nhẫn, các vết thương làm cho ông ta đau đớn, nhưng nỗi đau trong tâm hồn, trong trái tim xem ra còn tệ hại hơn. Trong những giờ phút cuối cùng này, ông ta đang sống trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Như một tia chớp, ông ta như thấy lại mình đang ở trong các cửa hàng ở La Rosen, ngọn bút lông ngỗng cầm tay trước quyển sổ kế toán. Ông ta không còn có thể nghĩ đến một cuộc sống cho đến tận lúc đó vẫn thẳng băng và khuôn theo mọi ý muốn của mình. Tất cả bắt đầu lên chiếc tàu tồi tệ này với vết bỏng của một mối hờn ghen làm méo mó hết mọi ý nghĩ. Một tình cảm mà ông ta không thể gọi tên, vì trước đó chưa bao giờ thể nghiệm. Ông ta chỉ muốn vứt nó đi như vứt chiếc áo tẩm thuốc độc. Ông ta đau nhói như khi bị một nhát dao đâm khi người đối thoại lưu ý mình rằng Angielic không thuộc về mình. Vì đấy chính là sự thực. Thoát khỏi cuộc nổi loạn và các trận chiến đấu của mình, nàng đã đến sống giữa những người Tin lành, nàng cứu sinh mạng của họ, nhưng nàng không thuộc về họ, vì bản chất của nàng khác họ.
    Sự bí ẩn vừa gần gũi vừa xa vời vợi của nàng làm tăng thêm phần hấp dẫn.
    -Tôi sẽ cưới bà ấy- ông ta nói một cách quả quyết- cho dù bà ấy không cùng tín ngưỡng cùng tôi. Chúng tôi đâu phải là những kẻ cố chấp như các ông, những người theo đạo thiên chúa. Tôi biết bà ấy đáng kính trọng, bà ấy tận tụy, kiên cường…Tôi không biết, thưa Đức ông, bà ấy có quan hệ gì với ông, ông quen biết bà ấy trong trường hợp nào, nhưng còn tôi, tôi biết những gì bà ấy làm trong nhà tôi, cho gia đình tôi và với tôi, thế là đủ.
    Trong tâm trí ông ta tràn ngập nỗi tiếc nuối não nề những năm tháng đã qua với sự có mặt của người đầy tớ gái kín đáo và nhanh nhẹn, dần dần, tuy không ý thức được đã chiếu sáng cuộc đời mình.
    Ông ta cảm thấy ngạc nhiên khi biết rằng mình đã đánh thức trong con người đối thoại với mình nỗi đau khổ cũng tương tự như nỗi đau khổ của mình: “ghen tuông, nuối tiếc”. Ấy thế, nhà thương gia còn biết nàng giấu kín trong lòng một dáng vẻ mà người đối thoại với mình không biết, có tên gọi là Giôphây đờ perắc. Sự có mặt của tên cướp này gợi cho ông ta nhớ lại rằng nàng còn sống vì một người khác, và người đó đã chết từ nhiều năm trước.
    -Ông biết bà ta đã lâu rồi ư? Rescator hỏi
    -Không, thật ra chưa quá một năm.
    Về điều này Giôphây đờ perắc cho rằng Angielic đã nói dối, nhằm mục đích gì?
    -Vì sao ông quen biết bà ấy, vì sao bà ấy đến làm đầy tớ trong nhà ông?
    -Đấy là việc của tôi – Ông Béc nơ trả lời cáu kỉnh, và điều đó không liên quan gì đến ông cả- ông ta nói thêm cảm thấy câu trả lời của mình đánh trúng con người đeo mặt nạ.
    -Ông yêu bà ấy?
    Người tín đồ Tin lành im lặng. Câu hỏi đặt ông vào cái thế đối mặt với một lĩnh vực bị cấm đoán. Ông ta cảm thấy bị xúc phạm như một sự lăng nhục. Nụ cười nhạo báng trên đôi môi đối thủ càng làm ông ta thêm khó chịu.
    -Ồ, thật cứng họng đối với một tín đồ Tin Lành khi phải nói đến từ yêu. Nó làm sầy da môi của ông rồi à?
    -Thưa ông, chúng tôi chỉ được quyền yêu có mỗi mình Chúa mà thôi. Đấy là lí do tại sao tôi từ chối không nói lên tiếng ấy. Những gắn bó thế gian của chúng tôi không xứng đáng. Chúa là tình yêu duy nhất trong trái tim chúng tôi.
    -Nhưng đàn bà ở trong ruột chúng ta – Giôphây đờ perắc nói một cách thô bạo- Tất cả chúng ta đều đeo đàn bà ở ngang thắt lưng này này.Và chúng ta chẳng làm được gì để chống lại được, ông cũng không, tôi cũng không ông Bécnơ ạ…Tin lành hay không tin gì cũng thế cả thôi.
    Ông ta đứng dậy, đẩy chiếc ghế đẩu một cách thô bạo và chồm về phía người Tin lành nói với vẻ giận dữ:
    -Không, ông chẳng yêu bà ấy đâu. Loại đàn ông như ông không yêu đàn bà. Họ chỉ tha thứ cho đàn bà thôi. Họ thờ phụng đàn bà và họ thèm muốn đàn bà, hai điều ấy khác nhau. Ông thèm muốn người đàn bà ấy vì thế ông muốn cưới bà ta làm vợ để cho lương tâm ông không bị áy náy.
    Grabien Béc nơ đỏ bừng mặt. Ông ta cố đứng thẳng dậy nhưng chỉ đứng được lom khom.
    -Những người đàn ông thuộc loại tôi không phải sinh ra để tiếp nhận lời dạy bảo từ loại của ông, lời dạy bảo của một tên cướp, một tên vô lại, một tên kẻ cắp thân tàn ma dại.
    -Ông biết được gì nào? Tôi đúng là một tên cướp. Những lời khuyên của tôi có thể không đúng với một người đàn ông sắp cưới một người đàn bà mà rồi các ông Vua sẽ phát ghen lên với ông ta. Nào, liệu ông có thể thấy rõ điều đó không hở ông Bécnơ?
    Câu nói cuối cùng có tác dụng làm ông ta ngã quỵ, ông ta phải dựa vào một tấm vách ngăn. Rồi ông ta quay lại, hướng về phía Perắc , cặp mắt bừng lên một ánh sáng man dại…Tâm trí ông ta đâm ra vơ vẩn.
    -Tôi cố quên- ông ta nói –quên cái buổi đầu tiên ấy, lúc tôi thấy bà ấy trong cầu thang, cả một mái tóc buông xõa trên vai…Tôi không muốn xúc phạm bà ấy trong nhà tôi, tôi ép xác, tôi cầu nguyện…Nhưng tôi vẫn bị đánh thức dậy, bị xô đẩy vào vòng cám dỗ, và tôi biết chừng nào bà ấy còn ở dưới mái nhà tôi thì đến cả việc tôi được nghỉ ngơi yên ổn cũng chẳng còn có nữa.
    Ông ta thở hổn hển, cúi gập người xuống, do hậu quả của nỗi đau thân xác thì ít mà nỗi nhục nhã vì những lời thú nhận của mình thì nhiều. Perắc nhìn ông ta sửng sốt.
    “ Này nhà thương gia ơi, ông cũng chẳng khác tôi gì nhiều lắm đâu- ông nghĩ. Tôi cũng bị đánh thức dậy vào cái thời con hoẵng hoang dã ấy bắt tôi phải chờ đợi và cấm cửa tôi. Có điều chắc chắn là tôi không ép xác, không cầu nguyện, nhưng tôi đã đưa đôi mắt buồn bã nhìn khuôn mặt không mấy duyên dáng của mình trong gương và tự mắng mình là đồ mất dạy".
    -Đúng, thật khó mà làm dịu đi được- Rescator lẩm nhẩm như đang nói với chính mình. Tự phát hiện ra mình lẻ loi và yếu đuối trong khi đối mặt với những yếu tố hàng đầu: biển cả, cô độc, đàn bà…Khi đến phút giây phải đương đầu với những thứ đó, người ta chẳng biết phải làm gì…Nhưng khước từ cuộc chiến đấu ư? Không thể được.
    Ông Béc nơ buông mình xuống ổ rơm. Ông ta vẫn thở hổn hển và mồ hôi chảy ròng ròng trên thái dương. Những lời Perắc vừa nói nghe hoàn toàn mới lạ, khiến ông ta nghi ngờ, chẳng biết cái cảnh đang diễn ra có phải là thực hay không? Trong hầm tàu hôi hám và nhầy nhụa này, Rescator đi đi lại lại trong ánh sáng nhập nhoạng của ngọn đèn, ám ảnh ông ta như một vị ác thần. Ông ta cần phải biết tự vệ.
    -Ông nói về những điều ấy nghe thật báng bổ.- ông ta vừa nói vừa lấy lại hơi thở- cứ như đàn bà là một yếu tố, một thực thể vậy.
    -Đúng là một thực thể. Coi thường khả năng của họ là không tốt nhưng cũng không nên thỏa hiệp với họ. Biển cũng đẹp đấy chứ. Nhưng ông có thể gặp nguy hiểm đắm tàu nếu ông coi thường sức mạnh của biển. Và đối với đàn bà ông cũng có thể bị chìm đắm như vậy nếu như ông không thuần hóa được họ. Một người đàn bà, như ông biết đấy ông Béc nơ ạ, tôi bao giờ cũng bắt đầu bằng việc nghiêng mình trước họ, bất kể họ trẻ hay già, đẹp hay xấu.
    -Ông nhạo báng tôi đấy ư?
    -Tôi thổ lộ với ông những bí mật của tôi về sự quyến rũ, ông sẽ có làm như thế không thưa ngài tín đồ Tin lành?
    -Ông lợi dụng đẳng cấp của ông để hạ cố đến tôi và như thế là xúc phạm tôi – ông Béc nơ thét lên, thở hổn hển vì cảm thấy nhục nhã, ông coi khinh tôi bởi vì ông là một vị lãnh chúa thuộc tầng lớp cao sang, hoặc giả là gần như thế trong khi tôi chỉ thuộc tầng lớp thị dân tầm thường.
    -Ông không nhầm đấy chứ. Nếu ông chịu suy nghĩ một chút trước khi căm ghét tôi, ông sẽ thấy rằng tôi nói với ông là lời nói giữa hai người đàn ông với nhau hoàn toàn bình đẳng. Từ lâu tôi đã học được cách coi trọng con người chỉ ở một điều duy nhất là giá trị nhân bản. Giữa ông và tôi có một chỗ khác nhau: tôi có lợi thế hơn ông là đã biết thế nào là bị mất miếng ăn, là mất hết chỉ còn lại của cái duy nhất là một chút hơi tàn để sống. Còn ông, ông chưa biết cái đó, ông hãy tin là rồi ông sẽ biết. Còn về chuyện xúc phạm, ông chả làm điều đó đối với tôi là gì, tên cướp biển, tên kẻ cắp thân tàn ma dại…
    -Tốt thôi, tôi công nhận- Ông Béc nơ vừa nói vừa thở mạnh – Nhưng lúc này chính ông mới là người có thế lực và tôi phụ thuộc vào quyền lực của ông. Ông sắp làm gì tôi?
    -Ông không phải là một đối thủ dễ dãi, ông Béc nơ ạ. Nếu tôi tự nghe mình tôi sẽ thẳng thừng hất ông ra khỏi con đường tôi đang đi. Tôi sẽ bỏ mặc để cho ông chết rũ ở đây, hoặc giả… Ông biết các thủ đoạn của bọn cướp mà ông đã gộp tôi vào trong đó rồi chứ? Nhưng trong các nguyên tắc của tôi có một điều là tôi không bao giờ dành hết may mắn cho mỗi phía mình. Tôi thích sự sòng phẳng. Tôi là tay chơi mà. Tôi biết điều đó đôi khi bắt tôi phải trả bằng cái giá quá đắt. Tuy thế một lần nữa hãy xỉa bài ra. Chúng ta còn phải lênh đênh trên con tàu này hàng mấy tuần lễ nữa. Hãy thỏa thuận với nhau là khi đến đích, tôi và ông sẽ yêu cầu bà Angielic chọn lựa giữa hai chúng ta. Nếu bà ấy đi về phía ông, tôi đành bỏ cuộc…Tại sao lại bĩu môi tỏ vẻ hoài nghi? Hình như ông có vẻ như không mấy tin chắc vào thắng lợi của mình?
    -Từ thuở bà Eva, đàn bà luôn luôn bỏ mặc cho cái xấu lôi cuốn.
    -Hình như ông đánh giá thấp cái con người mà ông định lấy làm vợ đấy. Ông có còn tin vào sự cần thiết của các thứ vũ khí mà ông định dùng để chinh phục bà ấy không?...Ngay ở miền đất lạ mà chúng ta đang đi tới, sự kính trọng vẫn có giá… Bà Angielic cảm nhận được điều đó.
    Người chủ tàu nói bằng thứ giọng nhạo báng. Ông Béc nơ cảm thấy thật cơ cực. Những lời nói sâu cay của Rescator buộc ông ta phải tự thăm dò chính mình. Và ông ta cảm thấy sợ hãi khi phát hiện ra sự nghi ngờ chính mình, nghi ngờ Angielic, nghi ngờ giá trị của những phẩm chất mà ông ta sẽ đưa ra để đối chọi với cái thế lực đáng sợ của con người đang thách thức ông ta.
    -Ông có giữ lại tất cả những cái đó để thêm chút sức nặng trong cuộc chinh phục một người đàn bà không?
    -Có thể…nhưng ông cũng chẳng đến nỗi không may mắn như ông nghĩ đâu, ông Béc nơ ạ, bởi vì ông có những thứ vũ khí khác…
    -Những vũ khí khác nào? – Người tù hỏi với vẻ lo lắng đến nỗi làm Rescator thấy mủi lòng. Rescator quan sát người tù. Ông ta lại một lần nữa nghĩ là ông Béc nơ đang phạm phải sự khinh suất, vô cớ làm phức tạp thêm ván bài đã dẫn sâu vào tính toán quá nhiều cho riêng mình. Nhưng ông ta đã bao giờ biết cái gì là đích thực của Angielic, cái gì nàng nghĩ, cái gì nàng muốn, nếu như đối thủ của ông ta không giữ quyền tự do sử dụng những cơ may mà hắn ta có?
    Ông ta vừa cúi xuống vừa mỉm cười.
    -Này ông Béc nơ, ông cần biết rằng một người đàn ông đã bị thương mà còn tìm được cách húc vào cửa để kéo người yêu của mình ra khỏi sự cám dỗ ô nhục, một người đàn ông đã bị xiềng xích mà còn giữ được đủ…phải công nhận là đủ khí lực để kháng cự ngang với sức kháng cự của một con bò mộng, là một người đàn ông, theo ý tôi, có đủ mọi ưu thế để giữ chặt thói đỏng đảnh của đàn bà. Dấu ấn cơ bắp, đó là khả năng chủ yếu trong quyền lực của chúng ta đối với một người đàn bà… bất cứ loại đàn bà nào… Ông là một người đàn ông, ông Béc nơ ạ, một người đàn ông chính cống, một con đực tốt, vì thế nên tôi không chịu thua ông, tôi thú thật như vậy, tôi vui lòng chơi tiếp ván bài của ông.
    -Ông im mồm đi – nhà thương gia xứ La Rosen đột ngột hét lên trái với ý muốn của mình, và nhờ ảnh hưởng của cơn giận, ông ta đứng thẳng lên được. Ông ta kéo căng sợi dây xích tưởng đâu có thể giật đứt – Ông không biết rằng người ta đã viết: “ Thịt giống như cỏ và sự rực rỡ của nó giống như hoa đồng nội. Cỏ khô, hoa rụng khi ngọn gió Vĩnh cửu thổi qua…”
    -Có thể như vậy… Nhưng ông phải thừa nhận rằng chừng nào gió Vĩnh cửu chưa thổi qua, hoa vẫn còn khêu gợi sự ham muốn.
    -Nếu tôi là người theo đạo Thiên chúa – ông Béc nơ nói không e dè, tôi sẽ làm dấu thánh, bởi vì ông đã thuộc về ma quỷ rồi.
    Cánh cửa nặng nề đã đóng lại. Ông ta nghe bước chân con người đã quấy rầy mình xa dần, và âm vang giọng nói bằng tiếng Ả rập tắt hẳn. Một lúc sau, ông ta lết tới và ngã vật xuống ổ rơm. Suốt mấy ngày liền, ông ta dường như đang phải vượt qua một chặng đường gần giống với chặng đường đi tới cái chết. Ông ta đang bước vào một cuộc sống khác mà mọi giá trị xưa kia đều không còn chỗ đứng. Lúc bấy giờ ông ta còn lại cái gì?



    o0o


    Chương 11



    Angielic trở lại khoang boong, nơi trú tạm của những người Tin lành, trong trạng thái gần như một kẻ mộng du. Nàng thấy mình tìm được chỗ ngồi trong cái góc của mình, mà không hề biết mình đã đi qua boong tàu tay bế Onorin, tụt xuống cầu thang, tự tìm lối qua sương mù dày đặc, tránh các vật chướng ngại: trục kéo buồm, chậu, bình đựng vật liệu xảm tàu và một số người trong đám thủy thủ đang cọ rửa tàu. Nàng không hề nhìn thấy bất cứ một thứ nào trong tất cả những thứ đó.
    Lúc này nàng ngồi im và cũng không biết mình đanh làm gì ở đây nữa.
    -Cô Angielic! Cô Angielic! Cô vừa ở đâu về đấy?
    Bộ mặt tinh ranh của bé Lorie hướng về phía nàng. Xeverin quàng cánh tay gầy guộc của nó vào vai nàng.
    -Trả lời chúng cháu đi cô.
    Bọn trẻ quây lấy nàng. Chúng nó đều ăn mặc tồi tàn, bằng những mảnh váy mà các bà mẹ xé ra để bọc cho con. Những khuôn mặt nhỏ bé trắng nhợt ra, mũi đỏ hồng lên.
    Do thói quen, nàng đưa tay vuốt ve chúng.
    -Các cháu có lạnh không?
    -Ồ! Không đâu – chúng trả lời nhanh nhẹn.
    Thằng bé Giê đêông Care giảng giải
    -Lão gù, cái ông lùn ở biển ấy, có nói rằng hôm nay không thể ấm hơn được đâu, trừ khi người ta đốt lửa trên tàu, bởi vì tàu đang đi gần vùng cực, nhưng không bao lâu nữa nó sẽ lại đi xuống phía nam.
    Nàng lắng tai nghe chúng nói mà không nghe được gì cả.
    Đám người lớn đứng cách ra và thỉnh thoảng đưa mắt nhìn nàng từ xa, vài người tỏ vẻ kinh sợ, vài người khác lại tỏ vẻ thương hại. Việc nàng vắng mặt suốt đêm có ý nghĩa gì! Than ôi! Sự trở về lạc lõng của nàng đã khẳng định những lời buộc tội người chủ tàu từ miệng ông Gabrien Béc nơ nói ra vào chiều tối hôm qua.
    “ Tên vô lại này nghĩ rằng nó có đủ mọi quyền hành đối với chúng ta…đối với phụ nữ chúng ta…Này anh em, chúng ta biết hiện giờ, không phải con tàu đang đi tới vùng đảo đâu…”
    Và vì Angielic không quay về , ông ta muốn đi tìm nàng. Trong cơn thịnh nộ đùng đùng ông ta định mở cửa đã bị chốt bên trong. Mặc dù bị thương ông ta vẫn tìm cách phá cánh cửa gỗ bằng một chiếc vồ. Một ổ khóa đã bật ra.Thấy không biết làm cách nào để ông ta im đi, ông Manigôn liền chấm dứt bằng cách cho ông ta một cái bạt tai. Gió lạnh buốt ùa vào khoang và các bà mẹ Tin lành cuống lên không biết làm thế nào để che chở cho lũ trẻ.
    Ngay lúc đó, tay trưởng khoang người E cốt hay người Đức gì đó xuất hiện, khạc ra một tràng tiếng chửi rủa cục cằn và ông Béc nơ bị ba người thủy thủ quây chặt lấy, lôi tuột vào bóng tối. Từ đó mọi người không gặp ông ta nữa.
    Hai người thợ đi tới, họ bình tĩnh sửa lại cánh cửa trước khi lại đóng vào. Tàu chồm lên dữ dội. Linh tính báo cho đám đàn bà và trẻ con biết rằng đêm tối đầy rẫy những nguy hiểm. Họ nép vào nhau, người nọ dựa sát vào người kia và lặng đi. Thế nhưng đám đàn ông vẫn còn bàn tán dài dòng về cách đối phó, ngộ nhỡ xảy ra chuyện rủi ro bất ngờ cho một trong hai người bạn đồng hành của họ, ông Béc nơ hoặc người đầy tớ gái của ông ta.
    Thấy Angielic ngồi một cách bình thường giữa đám trẻ con, Abighen và cô con gái ông chủ hiệu bánh mì vốn rất mến nàng quyết định đi tới:
    -Ông ta làm gì bà đấy? – Abighen khẽ hỏi.
    -Ông ta làm gì à? – Angielic đay lại – Ông ta là ai? Là hắn?
    -Ông ta…Rescator… ấy.
    Cái tên gây nên một tiếng kêu đường đột trong đầu Angielic. Nàng phải đưa bàn tay lên ôm thái dương và nhăn nhó vì đau.
    -Ông ta ư?..- Nàng nói. Nhưng ông ta hoàn toàn không làm gì tôi cả. Tại sao em lại hỏi tôi điều đó?
    Hai cô gái tội nghiệp im bặt và hết sức ngượng ngùng.
    Angielic thậm chí không cố tìm hiểu lí do khiến hai cô gái hoang mang.
    Một ý nghĩ duy nhất không ngừng trở lại trong đầu nàng:
    “ Mình đã tìm lại được chàng và chàng không nhận mình. Chàng không thừa nhận mình. Thế thì để làm gì bao mơ ước, bao nhiêu thở than, bao nhiêu hy vọng…Đúng hôm nay mình là người đàn bà góa”.
    Tiếp đó nàng rùng mình.
    “ Như thế là điên rồ…là không thể được …Mình vừa rơi vào một cơn ác mộng và mình sắp tỉnh lại”.
    Ông chủ tàu Manigon do sự thúc ép của bà vợ bước đến.
    -Bà Angielic…cần phải nói…ông Gabrien Béc nơ ở đâu?
    Sau khi nhìn người chủ tàu mà không hiểu gì cả, Angielic quả quyết:
    -Tôi chẳng biết gì về chuyện đó.
    Ông ta kể lại với nàng sự cố hồi đêm trong khi nàng không có mặt.
    -Có thể ông Béc nơ bị hai tên vô lại kia vứt xuống biển rồi – luật sư Care nói.
    -Ông điên đấy à?
    Nàng dần dần quay lại với thực tại. Như thế đấy, trong khi nàng ngủ lại suốt đêm qua ở chỗ Rescator, ông Béc nơ đã làm ầm ĩ lên trong khi định đến cứu nàng. Rescator phải ra tay kịp thời. Tại sao chẳng thấy ông ta nói một lời nào về chuyện đó? Mà quả thật hai người đã nói đến bao nhiêu chuyện.
    -Thế này nhé- Nàng nói – các ông nổi nóng lên cũng vô ích thôi, chỉ tổ làm bọn trẻ sợ hãi vì những lời đồn đoán chưa chắc đã đúng. Nếu quả nhiên có chuyện ông Béc nơ gây chuyện với đoàn thủy thủ và thuyền trưởng vào lúc cần phải có sự chú ý của thuyền trưởng đối với công việc duy nhất là điều khiển con tàu , tôi đồ rằng có lẽ ông ta bị nhốt vào một góc nào đó. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào họ cũng không thể đụng chạm đến sinh mạng của ông ta được. Về điều này thì tôi xin đảm bảo.
    -Than ôi! Đối với cái bọn vô lương tâm này, công lý là làm cho nhanh đi.- Ông luật sư nói với giọng buồn thảm – Và bà chẳng làm được gì trong chuyện đó đâu.
    -Ông này rõ ngớ ngẩn – Angielic kêu lên và chỉ muốn tát cho ông ta một cái.
    Tiếng kêu làm nàng cảm thấy dễ chịu. Nàng đưa mắt nhìn mọi người, hết người nọ đến người kia và tự nhủ dầu thế nào đi nữa thì rốt cục cuộc sống vẫn tiếp tục. Trong thứ ánh sáng yếu ớt từ các ô cửa thành tàu phải đóng lại vì lạnh, mọi người đều hướng về nàng bộ mặt khủng khiếp hàng ngày. Tất cả đều thế, không người nào không vướng víu vào những lo nghĩ riêng tư. Họ không để nàng rảnh rỗi để tự nàng làm nặng thêm tấn bi kịch của mình và tạo cho nó một tầm mức quá đáng.
    -Tóm lại là thế này bà Angielic ạ- ông Manigon lại nói tiếp- nếu bà cho rằng những việc làm của bọn cướp không có gì đáng lo ngại đối với bà thì càng hay. Nhưng về phía chúng tôi, chúng tôi rất lo cho số phận của ông Béc nơ, chúng tôi mong bà can thiệp kịp thời.
    -Tôi đi hỏi ngay – nàng vừa nói vừa đứng dậy.
    -Ở đây, mẹ, ở đây – Orrino hét lên khi tự thấy mình lại một lần nữa bị bỏ rơi hàng bao nhiêu lâu. Angielic đẩy con về phía sau và bước đi.
    Hầu như ngay lập tức nàng gặp Nicola Perot trên boong tàu. Anh ta đang ngồi trên một đống dây chão, miệng ngậm tẩu trong khi gã Anhđiêng, hai chân bắt chéo, đang tết cái đuôi tóc dài, đầu nghiêng sang một bên hệt như một cô gái đang chải tóc.
    Nàng hỏi qua về trường hợp ông Béc nơ. Anh ta trả lời.
    -Tôi có nghe nói rằng người ta đã xích ông ta lại vì không chịu phục tùng. Đức ông Rescator vừa đi xuống đó để hỏi ông ta.
    Vậy là nàng có thể báo với mọi người rằng ông bạn của họ không hề bị ném xuống biển.
    Người đầu bếp đi tới, vẫn với món bắp cải muối bắt buộc, thịt muối và cam, chanh ướp dành cho bọn trẻ con. Đám hành khách ồn ào đến ngồi quanh. Bữa ăn được coi như một cuộc giải trí, tiếp theo là cuộc đi dạo vào giữa trưa. Angielic nhận đĩa thức ăn đã bị Ororrino ăn bớt sau khi cô bé đã chén sạch suất của mình.
    -Mẹ không ăn à, mẹ?
    -Đừng có lúc nào cũng mẹ, mẹ - Angielic nói một cách cáu kỉnh – và trước hết là không được ăn vụng.
    Nàng dỏng tai lắng nghe những lời bàn tán xung quanh!
    -Này Lowgan, ông dám chắc là chúng ta sẽ không bao giờ đi đến đảo Cáp ve đó chứ?
    -Tôi đánh cuộc với ông chúng ta đang ở vùng phía bắc, rất xa về phía bắc.
    -Cứ theo hướng này chúng ta sẽ đi tới đâu?
    -Đến vùng đánh cá nhám và cá mập.
    -A! Chúng mình sắp được thấy cá mập- một đứa trẻ vừa kêu lên vừa vỗ tay.
    -Chúng mình sẽ bị đẩy vào đâu?
    -Ai mà biết được? Đến vùng đất mới hoặc giả nước Pháp – Mới ư? – Bà vợ ông chủ hiệu bánh mỳ kêu lên. Như vậy là chúng ta lại rơi vào tay bọn Thiên chúa giáo La mã.
    Giọng bà bắt đầu run lên.
    -Bây giờ thì chắc chắn rồi, tên vô lại ấy đã quyết định bán chúng ta.
    -Im đi đồ ngốc!
    Bà Manigon nhảy xổ vào.
    -Chỉ cần bà có lấy hai xu đầu óc là biết suy xét thôi, bà khắc hiểu là không một tên vô lại nào lại rước lấy tai họa bằng cách cho tàu đến dưới tường thành La Roossen, và bỏ lại đấy một chiếc neo để đi bán chúng ta ở tận bên kia Đại dương.
    Angielic nhìn bà Manigon với vẻ ngạc nhiên. Bà vợ ông chủ tàu ngồi chễm trệ đầy vẻ quyền uy trên một thùng úp sấp. Chiếc ghế xem ra không được thích hợp với tấm thân đẫy đà, nhưng bà ta vẫn có thể ngồi ăn không kém ngon lành bằng một chiếc thìa bạc và chiếc liễn đựng xúp rất sang trọng kiểu Đenphơ.
    “ Kể cũng lạ, gay go thế mà bà ta vẫn giấu được thìa lúc lên tàu” Angielic nghĩ một cách lơ đãng.
    Nhưng Manigon với bản tính trào lộng đã nói với vợ.
    -Em làm anh ngạc nhiên quá đấy Sara ạ! Điều em vừa nói nghe không có lí, bởi vì ông chủ của chiếc tàu này đã nghĩ rằng phải nịnh cái tật thích xài sang của em bằng cách tặng cho em chiếc liễn đựng súp này để làm em mất khả năng suy xét đi. Anh vẫn quen thấy em lập luận một cách nghiêm túc hơn nhiều.
    -Các lí lẽ của em có giá trị hơn các lí lẽ của anh. Một người đàn ông biết phân biệt một cách chắc chắn đẳng cấp, dòng dõi và biết trước tiên phải quan tâm đến ai, em không nói rằng đó là một người đàn ông đáng tin cậy, nhưng em nói, em khẳng định đó không phải là một đứa mất dạy.
    Bà ta nói thêm một cách mập mờ.
    -Còn bà, bà nghĩ thế nào về người đàn ông đó, bà Angielic?
    -Bà đang nói về ai đó? – Angielic hỏi.
    -Về…về ông ta đấy – đám đàn bà nhất loạt nói to- Ông chủ tàu Gunxboro…tên cướp đeo mặt nạ….rescator ấy mà. Bà Angielic bà biết ông ta, hãy nói xem ông ta là thế nào?
    Angielic nhìn thẳng vào họ. Có một cái gì không thật khi họ đặt ra cho nàng câu hỏi ấy! Đối với nàng!... Trong im lặng, giọng nói yếu ớt của Onorin chợt vang lên.
    -Con, con muốn có một chiếc gậy. Con muốn giết ông ấy, cái ông đen thui ấy.
    Ông Manigon nhún vai.
    -Vẫn đề ở chỗ biết ai như thế nào, mà biết nơi nào người đó đang đưa chúng ta đến. Bà có thể nói với chúng tôi về chỗ đó thưa bà Agielic ?
    -Sáng nay ông ta còn khẳng định với tôi rằng ông ta đang đưa chúng ta đến vùng Đảo. Con đường phía Bắc cũng có thể đi đến đó như con đường phía Nam.
    -Ai chà – ông chủ tàu thở dài – ông nghĩ thế nào, ông Lơ Gan.
    -Tôi cũng tin là có thể như thế… Một con đường người ta ít khi dùng, nhưng cứ đi xuôi xuống theo dọc bờ biển châu Mỹ, cuối cùng sẽ phải gặp biển Angti. Chắc là vị thuyền trưởng của chúng ta thích con đường ấy hơn, chuyện đó là bình thường.
    Tiếp đó là gã gù với đôi chân ngắn ngủn xuất hiện. Anh ta dùng tay ra hiệu cho mọi người biết đã đến lúc họ có thể ra ngoài đi dạo. Trong khoang chỉ còn mấy người đàn bà ở lại để dọn dẹp.
    Angielic lại đắm chìm vào suy nghĩ.
    -Tại sao mẹ ngủ, hả mẹ? – Onorin vừa hỏi vừa nhìn nàng úp mặt vào hai bàn tay.
    -Để yên cho mẹ nào.
    Angielic lại dần trở về với trạng thái sững sờ. Cảm giác mình vừa bị nện một cú vào gáy vẫn bám riết lấy nàng. Tuy vậy toàn bộ sự thật đang bắt đầu được dựng lại trong tâm trí nàng. Có điều đã xảy ra nhưng không điều gì xảy ra giống như nàng vẫn tưởng. Chồng nàng, người chồng nàng đã khóc hết nước mắt, không còn một bóng ma xa xôi, ở một nơi nào đó nàng không đi tới được của địa cầu, mà chỉ cách nàng có mấy bước chân. Khi nghĩ đến người ấy, nàng nói: Ông ta. Nàng không thể tự bắt mình gọi ông ta là Giô phray, chừng nào ông ta còn có vẻ khác với con người mà ngày xưa nàng đã gọi bằng cái tên ấy. Nhưng ngươi ấy giờ đây không còn là Rescator, con người xa lạ đầy bí ẩn đã có cái gì cuốn hút nàng.
    Người ấy không yêu nàng, không yêu nàng nữa!
    “ Nhưng, vậy thì ta đã làm gì để chàng không yêu ta nữa? Để chàng nghi ngờ ta? Ta có trách cứ chàng về những năm tháng ta không có chỗ đứng trong cuộc đời chàng đâu? Nỗi chia cách của hai ta, không ai muốn cả. Vậy thì tại sao không muốn xóa nó đi, quên nó đi? Nhưng một người đàn ông thường lập luận hoàn toàn khác, cần phải biết điều đó. Chính vì thế mới sinh ra lý do này, lý do khác, mới có chuyện vì Philip hay vì vua mà chàng không yêu ta nữa… Thế thì thậm chí còn tồi tệ hơn cả việc vì ta lạnh nhạt với chàng…”
    Một nỗi lo lắng ghê gớm bỗng tràn ngập tâm hồn nàng.
    “ Hay là ta đã già?... Chính nó. Ta đã đột ngột già đi trong mấy tuần lễ vừa qua vì đã lo lắng đến kiệt sức để sửa soạn cho cuộc trốn chạy khỏi La Roossen.”
    Nàng ngắm ngía bàn tay sần sùi, nứt nẻ của mình. Đúng là bàn tay của một người nội trợ. Chính cái đó đã làm vị công hầu thích khoái lạc khiếp sợ.
    Angielic chưa bao giờ gán cho sắc đẹp một tầm mức quan trọng quá đáng . Đúng như vậy, nàng săn sóc và giữ gìn sắc đẹp với tư cách một người đàn bà có năng khiếu thẩm mỹ. Nhưng chưa bao giờ nỗi lo lắng vì kém nhan sắc thoáng gợn trong tâm trí nàng. Món quà tặng của Chúa mà người ta đã thờ phụng ở nàng từ thuở còn bé tí, đối với nàng có vẻ như kéo dài mãi mãi, thậm chí còn lâu hơn cả cuộc đời nàng. Đây là lần đầu tiên, nàng đột nhiên cảm thấy món quà tặng ấy có thể bị tàn phá. Ý nghĩ ấy làm nàng đâm ra bối rối.
    -Abighen – nàng vừa nói vừa đuổi theo cô gái với vẻ mặt bồn chồn, em có gương không?
    Đúng là Abighen có 1 cái gương. Cô ta đưa cho Angiêlic. Nàng nhìn trân trối.
    “ Ta biết rõ là ta có một vài sợi tóc bạc, nhưng ta đội mũ trùm, chàng làm sao mà thấy được…trừ các buổi tối đầu tiên ta ở trên tàu Gunxbôrô , nhưng lúc đó tóc ta bị ướt, vì vậy không thể phân biệt nổi”.
    Đã xa rồi cái thời nàng có thể thong dong tự ngắm mình trong gương không phải để làm vừa lòng Rescator.
    Nàng lướt nhẹ một ngón tay lên gò má. Phải chăng đã có những vết nhăn? Không. Hai bầu má này hãy còn hơi hóp, nhưng cái nồng ấm của làn da đã tạo nên vẻ đường hoàng lẽ nào lại không phải là một trong những nét độc đáo trong nhan sắc của nàng mà người ta đã từng sủng ái ở Vecxay, và làm Môngtextăng phu nhân phát ghen?...
    Thế nhưng, biết người đàn ông có thể nghĩ về nàng ra làm sao nếu ông ta so sánh nàng với một hình ảnh thời niên thiếu “ ngày nay, ta đã quá từng trải…Cuộc sống làm ta phải già đi, không tránh khỏi”.
    -Mẹ, tìm cho con một chiếc gậy – Ônôrin vật nài- cái ông mặt nạ đen ấy là một con sói…con đi giết ông ấy.
    -Im nào…Abighen, em hãy nói thật với tôi nhé. Có thể coi tôi là một người đàn bà đẹp được không?
    Abighen vẫn đang ngồi lặng lẽ gấp quần áo. Cô gái không để lộ một chút gì tỏ ra mình lúng túng do cung cách cư xử của Angiêlic gây nên. Sau cả một đêm biền biệt khiến mọi người tưởng là nàng gặp chuyện không hay, nàng trở về và nói rằng không xẩy ra chuỵện gì cả, nhưng bây giờ lại hỏi mượn gương.
    -Bà là người đàn bà đẹp nhất mà em chưa từng thấy bao giờ - Cô gái trả lời bằng một thứ giọng bằng phẳng – và điều đó thì bà biết quá rõ đi rồi.
    -Thế mà tôi lại không biết đấy- Angiêlic thở dài và buông thõng hai cánh tay một cách chán chường.
    -Chứng cớ là tất cả mọi người đàn ông đều mê mẩn vì bà – Abighen nói tiếp – Họ, muốn có lời khuyên của bà, sự đồng tình của bà với những việc họ làm…họ muốn có một nụ cười của bà. Ít ra là thế, họ muốn bà chỉ thuộc về họ. Cái nhìn bà dành cho người khác làm họ đau khổ. Trước khi chúng ta rời La Rosen cha em vẫn thường nói rằng việc bà cùng đi sẽ là một tai họa khủng khiếp đối với linh hồn mọi người…Ông cụ đã giục ông Becnơ cưới bà trước khi chúng ta bắt đầu cuộc hành trình để khỏi xảy ra việc đám đàn ông cãi cọ nhau vì bà….
    Angiêlic chỉ nghe loáng thoáng câu chuyện mà vào một lúc khác chắc chắn nàng đã nổi cáu. Nàng trả lại chiếc gương.
    -Tôi sẽ phải làm món cao dán bằng cánh hoa huệ đỏ để giữ da…Thật không may, tôi lại bỏ hết mọi thứ cây cỏ ở La Rosen.
    -Con, con đi giết ông ấy- Ônôrin lầm bầm, lúc to lúc nhỏ.
    Đám hành khách đi theo ông Bécnơ trở về. Hai thủy thủ dìu ông ta. Họ đem người bị thương đến tận chỗ nằm. Ông ta có vẻ yếu mệt nhưng không ủ rũ, và lấy lại sức lực rất nhanh. Cặp mắt ông ta phóng ra những tia nhìn lấp lánh.
    -Thằng cha ấy là ma quỷ đội lốt người- ông ta tuyên bố với mọi người xung quanh sau khi các thủy thủ tàu Gunxbôrô đã quay đi, nó đối xử với tôi thật tồi tệ, nó tra tấn tôi…
    -Tra tấn ư?....Đối với một người đã bị thương!....Thật đê tiện!
    Hàng loạt những tiếng kêu than thốt lên.
    -Ông nói về Rescator ấy à? – Bà Manigon hỏi.
    -Thế bà còn muốn tôi nói về ai nữa – ông Béc nơ buột mồm- Cả đời tôi, tôi chưa hề dính dáng với một con người nào bỉ ổi đến như vậy. Tôi bị giam, bị xích cả hai chân ,hai tay và hắn tới, hắn hành hạ tôi, tra tấn tôi.
    -Có đúng là ông ta tra tấn ông không? – Angiêlic vừa hỏi vừa nhích đến gần ông Béc nơ, đôi mắt mở to vì tức giận.
    Cái ý nghĩ cho rằng Giôphrây từ nay đã trở nên con người có khả năng làm đủ mọi chuyện độc ác, khiến nàng hoàn toàn thất vọng.
    -Có đúng là ông ta tra tấn ông không?
    -Về mặt tinh thần ấy, tôi muốn nói như vậy! A, bà đứng ở đấy, để mà nhìn tôi như thế à?
    -Ông ta lại lên cơn sốt đấy –Abighen nói khẽ- Cần phải băng cho ông ấy.
    -Nhưng mà tôi đã được băng rồi. Ông già thầy thuốc Ả rập đã trở lại với đủ loại thuốc men. Ông ấy cởi xích cho tôi, đưa tôi lên…Không một ai có khả năng hơn ông ấy trong việc chữa lành bệnh một thân thể và làm dịu đi một linh hồn. Không, đừng có chạm vào tôi!- Ông ta nhắm mắt để không còn nhìn thấy Angiêlic nữa.
    -Để mặc tôi, tất cả các người. Tôi ngủ đây.
    Đám bạn bè giãn cả ra. Angiêlic vẫn ngồi trên chiếc ghế đẩu. Nàng tự thấy mình có trách nhiệm trước tình trạng của ông Bécnơ. Trước hết vì sự vắng mặt ngoài ý muốn của mình, nàng đã đẩy ông ta vào những hành động nguy hiểm. Vết thương lại tấy lên, lại rỉ máu, ông ta phải trải qua hàng bao nhiêu tiếng đồng hồ trong điều kiện độc hại dưới hầm tàu và tiếp đó là cái kết cục mà Rescator – chồng nàng – hình như đã gây ra. Họ có thể nói gì với nhau, giữa hai người đàn ông khác nhau đến thế? Ông Bécnơ không có tội gì đáng phải đau khổ- nàng nghĩ. Ông ta tiếp đón nàng, ông ta là bạn nàng, cố vấn của nàng, ông ta thận trọng bảo vệ nàng và nàng có thể nghỉ ngơi yên tĩnh trong nhà ông ta. Đấy là một con người nghiêm minh và chính trực, một con người mạnh mẽ về tinh thần. Chính vì nàng mà ông ta bị thương.
    Trong khi ngồi nhớ lại những khoảnh khắc thuộc về một cuộc sống khác Angiêlic không nhận thấy ông Bécnơ đã mở mắt. Ông ta nhìn nàng như một con người đang chìm trong ảo mộng. Lúc này đây, ông ta chẳng còn quan tâm gì đến số phận của riêng mình, đến việc họ đi đâu về đâu. Ông ta chỉ mong muốn có một điều: kéo Angiêlic ra khỏi vòng ảnh hưởng ma quái của Người kia.
    Toàn bộ con người ông ta đều bị nàng chiếm giữ. Sự tồn tại của ông ta từ đây thiếu vắng những gì mà cho đến lúc này vẫn tràn đầy: nghề nghiệp buôn bán, tình yêu đối với thành phố quê hương, khả năng bảo vệ niềm tin, cảm thấy sợ hãi khi nhìn thấy những con đường dẫn tới dục vọng.
    Một giọng nói vang lên, lặp đi lặp lại trong tâm trí ông ta.
    “ Thật khó mà làm dịu…nghiêng mình trước đàn bà…Đóng lên bà ta cái dấu của cơ bắp…”.
    Hai bên thái dương ông ta đau nhức…”Lúc này chỉ có thể có một khả năng ấy – ông ta tự nhủ, để tự giải thoát và tự ràng buộc mình”.
    Lời nói của Rescator nổi dậy như những cơn sốt tồi tệ đang thiêu đốt ông ta. Ông ta chỉ muốn lôi Angiêlic vào một góc tối, bắt nàng phải khuất phục bằng một hành động không hẳn do tình yêu, mà cái chính là để trả thù cái thế lực trong nàng đang chế ngự ông ta.
    Vì lúc này ông ta đã quá chậm để nghĩ đến việc ghé lại những bến bờ khoái lạc. Ông ta sẽ không bao giờ biết đến thú vui xác thịt, biết đến vẻ tươi cười phóng đãng của Người kia!...
    “Chúng ta là những con người tội lỗi- ông ta lặp lại – luôn luôn có ý thức về một sự trừng phạt nào đó. Đây là lí do mà tại sao ta sẽ không thể tự giải thoát…Hắn là con người tự do…và nàng cũng vầy…”.
    - Đột nhiên ông nhìn tôi như nhìn một kẻ thù – Angiêlic thì thầm- Có điều gì thế, Cò điều gì đã làm ông thay đổi đến thế hả ông Bécnơ?
    Nhà thương gia của xứ La Rosen buông ra một tiếng thở dài.
    - Đúng thế, tôi không còn là tôi nữa bà Angiêlic ạ. Tôi và bà phải cưới nhau….rất nhanh…đến mức nhanh nhất có thể được?
    Trước khi nàng có thể trả lời , ông ta đã gọi mục sư Bôke.
    -Ông mục sư! Đến đây, xin hãy nghe tôi. Phải làm lễ thành hôn cho chúng tôi, không còn chần chừ gì nữa.
    -Con phải kiên nhẫn một chút, ít ra là chờ lúc sức khỏe bình phục, con trai của ta ạ- ông mục sư già nói với vẻ bình tĩnh.
    -Không, tôi chỉ có thể bình phục khi mà việc đó đã được làm xong.
    -Lễ thành hôn phải hợp pháp, dù chúng ta đi đến đâu, ta có thể nhân danh Chúa ban phép lành cho các con, nhưng chỉ ngài thuyền trưởng mới có thể đại diện cho quyền lực thế gian. Phải yêu cầu ông ta đăng ký vào sổ tàu và phải được ông ta chấp nhận.
    -Ông ta sẽ chấp nhận – ông Bécnơ nói to với vẻ dữ tợn- Ông ta đã cho tôi biết rằng ông ta không chống đối việc chúng tôi chung sống với nhau.
    -Không thể thế được! – Angiêlic thét lên- Làm sao chỉ trong một giây ông ta có thể phân định được điều gì với điều gì trong trò chơi vũ hội giả trang ấy. Nhưng ở đây có một cái gì mất trí rồi! Ông ta biết rõ rằng tôi không thể lấy ông được…Tôi không thể, tôi không muốn.
    Nàng bỏ đi vì sợ để xẩy ra một cơn động kinh trước mặt mọi người.




  7. #7
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default





    Chương 12



    Nàng thức dậy như thoát khỏi một trận ốm. Vẫn khó chịu nhưng đồng thời cũng cảm thấy nhẹ nhõm. Nàng đã mơ thấy chàng ôm xiết mình trong đôi cánh tay trên bãi biển, vừa cười vừa hét lên: “Thế là em đây rồi! Rốt cuộc, tất nhiên là phải thế. Người đàn bà anh say đắm, chính là em”. Nàng nằm im một lúc để lắng nghe những âm vang của giấc mơ đang tắt dần. Và phải chăng cảnh ấy đã từng là điều có thật?
    Nàng lần tìm trong ký ức của mình để sống lại những phút giây đã trôi qua. Khi chàng ôm xiết nàng trong đôi cánh tay, chính cái ôm xiết chàng dành cho nàng, vợ chàng. Ở Candi cũng vậy, khi đôi mắt chăm chú của chàng sau tấm mặt nạ tìm đến an ủi nàng, chính là nàng mà chàng đang che chở, chính là nàng mà chàng đến để cứu ra khỏi nanh vuốt hiểm nguy của bọn người buôn đàn bà, bởi vì chàng đã biết đó chính là nàng.
    Lúc đó, chàng không khinh nàng đến thế, vì nàng là vợ chàng, cho dù sự thù oán do những hành vi không chung thủy của nàng mà chàng đã biết hoặc phỏng đoán.
    “ Nhưng lúc đó ta còn đẹp lắm” – nàng tự nhủ.
    Đúng vậy, thế còn trên bãi biển La rôsen?
    Nàng ngồi dậy, người đau mỏi như dần.
    “ Không việc gì ta phải chịu thế! Ta phải nói”.
    Nàng vuốt phẳng tấm áo dài khốn khổ của mình, ngắm nghía mãi màu vải tối và xỉn. Mặc dù có chút kỷ niệm về bãi biển và giấc mơ làm yên tâm, nàng vẫn còn thấy sợ. Ở nơi con người mà nàng muốn đến gần ấy, vẫn còn quá nhiều những cái nàng chưa biết, những vùng tối tăm nàng không nhìn thấy được.
    Nàng vẫn còn sợ chàng.
    “ Chàng đã thay đổi nhiều quá! Nói thế là không hay, nhưng…ta thích chàng vẫn thọt như ngày xưa. Trước hết ta có thể nhận ra chàng ngay từ hồi ở Candi kia và chàng không vin vào cớ đó để dồn ta về cái gọi là ta không có tình cảm, không có trái tim. Cứ như thể cái mặt nạ kia không gây ra một chút khó khăn nào ấy…Ta là một người đàn bà ta đâu phải là con chó của cảnh sát nhà Vua…như con Xoócbon”.
    Nàng bật cười vì sự so sánh khập khiễng ấy. Tiếp đó nỗi muộn phiền lại tràn ngập tâm hồn nàng. Trong tất cả những lời trách cứ của chàng, chỉ riêng việc hai đứa con là làm nàng tổn thương nhiều hơn cả.
    “ Trái tim ta rỉ máu ngày ngày về việc chúng mất đi, thế mà chàng tự cho mình cái quyền nghĩ rằng ta dửng dưng. Vậy là chàng nghĩ về ta xấu quá. Tóm lại là chàng chẳng bao giờ yêu ta”.
    Chứng đau một bên đầu của nàng nặng thêm và tất cả các dây thần kinh đều nhức nhối. Nàng cố bám lấy chút kỉ niệm về bãi biển, về con người mà vào buổi chiều đầu tiên trên tàu Gunxbôrô đã vừa nâng cằm nàng lên vừa nói bằng một kiểu cách không thể nào nhầm được. “ Đấy là cuộc chạy đua vượt truông, theo sau bọn cướp”. Lúc đó đúng thật là chàng, dù chàng đeo mặt nạ và giọng nói đã đổi khác.
    Sao mà ta đui mù đến thế, ngốc nghếch đến thế!”
    “ Ta bị ám ảnh bởi ý nghĩ là ngày mai tất cả sẽ bị bắt và phải trốn chạy bằng bất cứ giá nào”.
    Cùng lúc ấy, một ý nghĩ khác chợt hiện trong đầu và nàng giật mình.
    “ Chàng làm gì ở ngay cạnh :La Rôsen? Chàng có thể biết rằng ta đến đó tìm chàng không? Hay chỉ là tình cờ đã đưa chàng đến cái vũng ấy?”.
    Một lần nữa nàng quyết định.
    “ Ta nhất định phải gặp chàng, phải nói hết với nhau, cho dù ta có quấy rầy chàng đi chăng nữa. Không thể để mọi chuyện cứ thế này. Nếu không ta sẽ phát điên lên mất.
    “ Nếu cần ta sẽ tính toán với chàng về tất cả những năm tháng chàng đi biền biệt…”.
    “ Cần phải làm cho chàng hiểu về những gì nàng phải chịu đựng và nếu nàng lấy Philip, nếu nàng vươn lên tới tận triều đình chẳng qua là những canh bạc lớn nhằm kéo các con ra khỏi số phận nghèo hèn đấy thôi”. Nàng nói, nàng sẽ nói với chàng tất cả những gì còn chất chứa trong trái tim.
    Bên ngoài, bóng tối đã trùm lấp boong chính, “ con đường lớn” sâu hun hút nằm giữa thành tàu, lối đi và các hành lang. Những người Tin lành ngồi túm tụm họ mặc các bộ quần áo sẫm màu nên thật khó phân biệt được ai với ai trong bóng tối. Chỉ nghe những tiếng cầu nguyện rì rầm. Nhưng trên cao, trên khoảng trống trước lầu sau. tất cả các ô cửa kính đều sáng lấp lánh như ngọc. Angiêlic ngước nhìn lên, trông thấy chàng và tim nàng đập loạn xạ. Chàng đứng đó, trong những tia sáng cuối cùng của mặt trời, đeo mặt nạ đầy bí ẩn nhưng đúng là chàng, và niềm vui điên dại đáng lẽ phải đến từ sáng nay, đột nhiên tràn ngập tâm hồn Angiêlic, quét sạch mọi oán hận.
    Nàng lao lên cầu thang và chạy theo lối đi xuyên dọc con tàu không để ý gì đến đám bụi nước bắn tung tóe. Lần này nàng sẽ không ngừng lại bởi một cái nhìn nhạo báng hay một câu nói lạnh lùng. Chàng nhất định phải nghe nàng!...
    Thế nhưng, khi nàng đi đến khoảng trống trước cửa phòng, tất cả mọi ý định đều sụp đổ trước cảnh tượng đang bày ra trước mắt. Niềm vui bị xua tan và trong lòng nàng chỉ còn nỗi kinh hãi.
    Ônôrin đang có mặt ở đấy. Giống hệt như sáng nay, cô bé đã xuất hiện đúng lúc như một điềm gở. Đứng dưới chân Rescator bé tí tẹo nó ngước khuôn mặt tròn c au có nhìn ông với vẻ khiêu khích, trong khi nàng bực bội đút hai bàn tay nắm chặt vào túi tạp dề.
    -Con làm gì ở đây hả? – nàng hỏi, lạc cả giọng.
    Nghe tiếng nàng, Rescator quay lại.
    -Bà đến thật đúng lúc – ông nói- tôi đang ngẫm nghĩ về cái tính di truyền đáng lo nại của con người bé nhỏ này. Bà xem, nó đã lấy trộm của tôi số đá quý đáng giá tới hai nghìn livrơ đấy.
    -Lấy trộm? – Angiêlic lặp lại, nàng cảm thấy rụng rời.
    -Tôi trở về phòng, thấy nó đang mải chọn lựa trong cái tráp mà sáng nay tôi mở cho bà xem, mà nó nhìn thấy lúc nó vào ấy. Bị bắt tại trận, cô nàng xinh xắn không hề bày tỏ một chút hối tiếc nào lại còn tỏ cho tôi biết rằng sẽ không trả lại của cải cho tôi.
    Suốt cả ngày bị đè nặng bởi bao nhiêu dằn vặt, giờ đây, trước nỗi bất hạnh này, Angiêlic cảm thấy mình không thể xử sự một cách nhẹ nhàng được nữa. Nhục nhã cho mình, cho Ônôrin, nàng lao về phía con bé để lấy lại các thứ vừa bị đánh cắp. Vừa cố hết sức cạy tay con bé, nàng vừa nguyền rủa cuộc đời đen bạc. Định đến với tình yêu nàng lại phải vật lộn với một con ranh bất trị do mình sinh ra vì bị cưỡng hiếp. Con ranh con cứ sống trong khi các con mình lại chết. Con ranh con Ônôrin cái tì vết sờ sờ trước mắt con người mà nàng đang muốn giành lại. Đã thế nó còn táo tợn mà ăn trộm. Xưa nay nó chưa hề lấy bất cứ một cái gì kể cả những thứ để trong tủ ly.
    Cuối cùng nàng cũng tách được các ngón tay bé xíu để lấy ra hai viên kim cương, một viên màu hồng và một viên màu lam.
    -Mẹ ác lắm – Ônôrin hét lên.
    Tức tối vì thất bại, nó lùi lại đứng nhìn hai người. Ở một con người bé xíu đến như vậy, vẻ mặt điên dại của nó nom đến buồn cười.
    -Mẹ là một kẻ độc ác…con sẽ cho mẹ một trận….
    Có vẻ nó đang tìm một cách trả thù thật đặc sắc, cho thật hả cơn giận.
    -Con sẽ cho mẹ một cú làm mẹ bay về tận La Rôsen…Và sau đó mẹ sẽ phải đi bộ đến đây…
    Rescator cười phá lên.
    Không thể chịu nổi nữa, Angiêlic tát cho con bé một cái.
    Ônôrin bậm chặt môi, sau đó thét lên nghe chói tai. Nó quay cuồng một lúc, rồi như hóa điên nó đột nhiên lao thẳng về phía cầu thang dẫn tới lối đi, chạy dọc theo thành tàu nhỏ hẹp với tốc độ nhanh khủng khiếp vừa chạy vừa không ngừng la hét.
    -Giữ nó lại – Angiêlic gào lên, cảm thấy toàn thân tê liệt như trong một cơn ác mộng.
    Ônôrin vẫn chạy. Nó chạy đi để tránh khỏi nỗi ám ảnh bởi khoảng không gian nhỏ hẹp đầy những ván những buồm của con tàu từ mấy hôm nay đã gây cho nó nhiều đau khổ bất công.
    Sau dãy lan can lớn bằng gỗ bầu trời vẫn còn xanh. Chạy đến hết đường, nó trèo lên một đống dây nhợ cao chất ngất. Lên tới đỉnh không còn gì có thể ngăn cách nó với khoảng không. Tàu vẫn dập dềnh. Những người chứng kiến, lặng đi về việc xảy ra quá nhanh, họ hết sức hãi hùng khi thấy con bé ngã ra khỏi thành tàu.
    Tiếp theo là tiếng kêu điên dại của Angiêlic là tiếng la ó đáp lại của đám hành khách và của đoàn thủy thủ. Một thủy thủ từ trên lầu cột buồm lao theo như một mũi tên. Hai người khác nhào tới chỗ đặt con thuyền cứu hộ để cởi chiếc canô. Lơ Gan và một người dân chài khác là Giôrix lúc đó đang đứng gần cũng đến giúp. Mọi ngừoi chạy rối rít. Con tàu xoay tròn tại chỗ. Chỉ trong nháy mắt trên lan can mạn trái đã đầy chặt người, với những bộ mặt điên dại. Xêvêrin và Lôriê vừa khóc vừa gọi Ônôrin.
    Thuyền trưởng Giađông phải hét to trong loa, bảo họ tránh ra để hạ canô xuống.
    Angiêlic không nhìn thấy và cũng không nghe thấy gì nữa. Nàng đâm bổ ra hành lang một cách mù quáng và phải bíu chặt vào đó để khỏi đến lượt mình cũng té nhào xuống biển. Trước mắt nàng chấp chới bao nhiêu là đom đóm đủ mọi màu sắc. Cuối cùng nàng thấy nhô lên một cái chỏm bù xù cạnh đấy là một cái chỏm khác nhỏ hơn, màu xanh…Cái chỏm đen là của người thủy thủ đã lao xuống, còn cái chỏm xanh là Ônôrin đội mũ trùm.
    -Cậu ấy tóm được con bé rồi- Tiếng Rescator nói- chỉ cần chở canô đến đón thôi.
    Angiêlic vẫn còn vật vã điên cuồng, nhưng ông giữ chặt nàng bằng một cánh tay cứng như sắt. Trong tiếng kêu cót két của ròng rọc, chiếc thuyền con được nâng lên đung đưa trước khi hạ xuống bên mạn tàu.
    Giữa lúc đó lại một tiếng thét vang lên.
    -Chim báo bão!
    Như hiện ra từ bọt sóng, hai con chim khổng lồ bay thẳng vào, sà thấp xuống,. những đôi cánh trắng của chúng gần như che khuất đầu người thủy thủ và Ônôrin. Angiêlic gào thét như điên dại. Những cặp mỏ sắc nhọn sắp xé nát hai con mồi được dâng cho chúng.
    Một tiếng súng vang lên, Rescator bắn bằng khẩu súng của anh chàng người Mo Apdula- đang đứng bên cạnh. Với một sự chính xác đến kinh ngạc, ông quật đổ một trong hai con chim, nó xõa cánh, vãi máu rơi vật xuống ngọn sóng. Nicola Perot bắn tiếp bằng cây súng của anh chàng Anhđiêng.
    Con chim báo bão thứ hai trúng đạn, cố đập cánh để bay nhưng cuối cùng vẫn không thoát.
    Người thủy thủ bế Ônôrin đẩy con chim sang bên cạnh và bắt đầu bơi về phía chiếc canô đang đến gần. Chỉ một lát sau Angiêlic đã nhận từ tay anh ta một cái bọc nước chảy ròng ròng, đang sặc sụa thở phì phò.
    Nàng ôm chặt đứa con với hết thảy sự cuồng nhiệt. Trong khoảnh khắc hiểm nguy mà đối với nàng dường như dài vô tận, nàng đã tự nguyền rủa mình về tội đã làm con bé nổi giận.
    Tất cả sợ hãi và hối hận của Angiêlic biến thành nỗi thù oán đối với con người, bằng thái độ thiếu khoan dung của ông đã đẩy nàng, một bà mẹ đi tới chỗ làm con mình đau khổ tuyệt vọng.
    -Chính tại ông- nàng thét lên và quay về phía ông vẻ mặt bối rối vì giận dữ- Ông độc ác lắm, ông làm tôi dở điên dở dại để đến nỗi suýt mất đứa con gái. Tôi căm ghét ông, cho dù ông nấp sau mặt nạ đi nữa…Nếu ông trở thành một con người như thế thà ông chết đi còn hơn…
    Nàng chạy về phía cuối tàu, và như một con vật mang đầy thương tích, quay trở lại với cái góc vẫn dành cho mình trong khoang boong, bên cạnh khẩu đại bác để thay quần áo cho Ônôrin. Con bé giãy giụa chứng tỏ nó vẫn còn khỏe mạnh, nhưng có thể nó bị cảm vì dầm trong nước lạnh.
    Đám người di tản quây chặt xung quanh mẹ con nàng, người nào cũng đề ra một môn thuốc nhưng tất cả đều không áp dụng được vì thiếu phương tiện: nào là cho đỉa hút máu ở chân, nào là đắp mù tạt vào lưng.
    Ông thầy thuốc Anbe Parin đề nghị trích máu. Ông ta định rạch rái dái tai, nhưng vừa nhìn thấy con dao nhíp đưa đến gần Ônôrin đã hét toáng lên.
    -Thôi đi, nó sợ thế cũng là đủ lắm rồi- Angiêlic nói.
    Nàng chỉ đồng ý dùng một chút rượu rum mà họ vẫn được phát mỗi ngày một lần để xoa cho con bé ấm người. Rồi nàng bọc nó vào trong chăn. Má bắt đầu hồng trở lại, đôi mắt không còn nhớn nhác, Ônôrin cuối cùng đã nôn ra hết cả một bụng đầy nước mặn.
    -Con ngốc lắm- Angiêlic nói.
    Và đột nhiên nhìn thấy vầng trán bướng bỉnh ấy, vẻ ngộ nghĩnh trên khuôn mặt nhỏ bé bất khuất ấy, nỗi tức giận của nàng biến mất. Không, nàng sẽ không để mình đi đến chỗ điên dại, không một ai kể cả Giôphrây đờ Perắc, Gabrien Bécnơ và con bé ranh mà quỷ quái này có thể làm nàng mất trí. Nàng đã suýt phải trả giá quá đắt cho những giờ phút lầm lạc sáng nay. Chồng nàng đã sống lại nhưng không yêu nàng nữa. Và rồi sau đó, đứa con gái đã gây cho nàng một cơn choáng ghê gớm, nàng phải có một hệ thần kinh vững vàng lắm mới mong chịu đựng nổi.
    --------
    Cùng lúc nàng thấy mình vừa giận, vừa khâm phục đối với hành động của đứa con đã dám lao mình xuống nước vì không chịu nổi uất ức.
    -Tại sao con lại làm thế, con thân yêu bé bỏng của mẹ, tại sao mới được chứ?
    -Con muốn đi khỏi cái tàu bẩn thỉu này- Ônôrin trả lời bằng thứ giọng khàn khàn- con muốn đi xuống, ở đây mẹ ác lắm…
    Angiêlic biết rằng con bé có lý. Nàng nghĩ tới sự xuất hiện của Ônôrin vào sáng sớm hôm nay, trong căn buồng mà nàng và chồng nàng đang chạm trán với nhau.
    Con bé chỉ đến để tìm nàng, vì chẳng có ai, chẳng có lúc nào nó được chăm nom, chăm sóc. Cả đêm qua, hoảng hốt vì bão tố, nó mấy lần suýt tan xương hoặc rơi xuống biển vì cánh cửa khoang boong bật mở. Không một ai thèm biết con bé ra làm sao…Cuối cùng, nhờ nhìn thấy gã người Mo nó mới chập choạng vượt qua mọi vật cản và sương mù đến nhờ gã dẫn đường đi tới chỗ mẹ.
    Rồi sau đó Angiêlic bị cuốn vào cơn gió xoáy điên loạn của mình đã cáu gắt với con bé. Nàng chỉ còn nhờ cậy được chút nào ở những người khác trong việc chăm sóc Ônôrin: Abighen và các bạn Tin lành, Xêvêrin…Nhưng họ cũng không còn đầu óc nào nữa để mà lo đến con bé. Bầu không khí trên tàu Gunxbôrô làm tất cả mọi người đều khó chịu. Sau tuần lễ vượt biển đầu tiên, không một ai trong số họ còn nhận ra mình trong gương nữa.
    Tình yêu mến tha thiết, bị gạn lọc qua từng ngày, làm nổi rõ một sự thực hiển nhiên đã bị lãng quên. Dù muốn dù không họ vẫn phải công nhận rằng Ônôrin thậm chí cả Angiêlic đều không phải là người của họ.
    “ Con chỉ còn có mẹ mà thôi”.
    ---------
    Angiêlic tự thấy mình có tội vì đã để mình dấn quá sâu. Lẽ ra nàng phải nhớ ngay tới cái hồi còn ở tu viên Niơn, khi mà thảm họa còn đuổi kịp sau lưng. Cho dù điều gì đã xảy ra, đau khổ hay vui sướng chẳng lẽ nàng lại không biết rằng không có bất cứ cái gì là không có lối thoát? Vậy thì bây giờ hà cớ gì con vật ngu ngốc điên khùng này lại định húc đầu vào tường?
    “ Không, ta sẽ không ác nữa, nhưng con, Ônôrin ạ, con cũng đừng có ăn cắp nữa. Con phải biết rằng con đã làm một việc xấu là đi lấy những viên kim cương ấy”.
    -Con muốn để những viên ấy vào hộp châu báu của con- con bé nói như thể chỉ có vậy là đủ để cắt nghĩa tất cả.
    Đúng lúc đó con người tốt bụng Nicôla Perốt đi tới, quỳ xuống cạnh hai mẹ con. Gã Anhđiêng đi theo sau, bưng một bát sữa nóng đến cho đứa bé vừa thoát nạn.
    -Tôi có nhiệm vụ đến lấy tin tức về cô bé- có cái đầu sôi sùng sục – gã người Canada nói, đó là cái biệt danh mà mọi người sẽ không quên đặt cho cô bé vì những ý nghĩ kỳ quặc của nó. Tôi cũng còn phải cho cô bé uống cái thứ nước giải khát có pha vài giọt thuốc này để làm dịu cái đầu cô ta đi, nếu nó lại sôi lên. Quả thật, không có gì tốt hơn là nước lạnh để trị những tính xấu. Cô nghĩ thế nào về chuyện đó, cô nương? Cô lại bắt đầu lao xuống chứ?
    -Ồ! Không đâu, lạnh lắm và mặn nữa…
    Sự quan tâm của người râu xồm đội mũ trùm lông thú làm nó rất vui. Ngay lúc đó nó bỏ luôn bộ mặt khó đăm đăm mà nó quyết định dành cho bà mẹ. Nó ngoan ngoãn uống hết bát sữa được mang tới.
    -Con muốn gặp Vỏ - hạt dẻ - nó đòi.
    -Vỏ- Hạt dẻ?
    -Bởi vì chú ấy lấm chấm bên má và con thích chơi với chú ấy. Chú ấy đưa con lên cầu thang…và rồi thì dưới nước…
    -Nó nói về cậu Toócmini, người đảo Xitin – Nicôla Perốt nói- cái tay thủy thủ vừa vớt nó lên ấy mà.
    -Cô nương Ônôrin ạ, cô có thể khoe là có những hai tay thiện xạ thuộc quyền sử dụng của mình đấy. Đó là người đầy tớ hèn mọn của cô, một trong những tay đua vượt truông xuất sắc và đức ông Rescator.
    Angiêlic phải cố hết sức mới giữ cho mình khỏi run lên khi nghe nhắc đến cái tên tiếp theo đó.
    Ônôrin không còn đòi Vỏ- hạt dẻ nữa. Đôi mắt nó chớp chớp. Rồi nó chìm vào một giấc ngủ say sưa. Anh chàng Canada và người thủy thủ Anhđiêng, cả hai cùng quay về chỗ của họ với những bước chân hết sức khẽ khàng. Angiêlic còn thức hồi lâu nhìn đứa con đang thiếp ngủ.
    “ Thế là con bé đã lên ba”.
    “ Tại sao lại dám đòi hỏi cho riêng chúng ta khi mà con cái chúng ta bắt đầu cuộc sống?”- Nàng tự nhủ.
    Trái tim nàng vẫn còn chứa chất nỗi buồn đau. Sẽ phải mất nhiều ngày may ra mới nhận thức được cái điều mà cùng lúc vừa là hạnh phúc vừa là bất hạnh của nàng. Sự phát hiện diệu kỳ tiếp theo một sự đổ vỡ đến là ghê gớm.
    Thế nhưng khi ngả mình xuống cạnh đứa con và lớp sương mù đầu tiên của giấc ngủ đã ôm chụp lấy mình, nàng chỉ còn giữ lại của cái ngày lạ lùng và khủng khiếp ấy một tình cảm đầy hy vọng.
    “ Cùng lúc chúng ta vừa xa lại vừa gần. Chúng ta không ai có thể cứu nổi ai. Con tàu chở chúng ta đi trên đại dương bắt buộc chúng ta cứ phải đối mặt nhau. Thế rồi sao, ai mà biết được…?”.
    Trước khi ngủ nàng vẫn còn nghĩ: “Chàng muốn được chết bên cạnh ta. Vì sao?”.


    o0o


    Chương 13



    -Tôi nghĩ rằng chúng ta đồng ý với nhau – Giôphrây đờ Perắc vừa nói vừa nhặt lên từng tờ một những mảnh bản đồ bằng giấy da ông bày cả ra và chặn lên trên bằng bốn hòn cuội khá nặng, lấp lánh thứ ánh sáng của một loại nhựa đục. – Chuyến hành trình này đối với anh thế là có hiệu quả rồi đấy, dầu không cập bến, anh vẫn tìm được người hùn vốn mà anh định đi tìm ở châu Âu. Vì cái mỏ quặng chỉ có chứa bạc anh phát hiện ra ở vùng Thượng- Mitxixipi ấy, theo tôi hình như chỉ cần nghiền và rửa thôi là đã đủ để làm giàu quặng, cho nên thật bõ công nếu tôi cùng đi đến đó với anh và đảm đương trách nhiệm về tài chính cho cả cuộc thám hiểm. Tự anh không có đủ vốn liếng cần thiết, cũng không đủ kiến thức để khai thác. Anh hãy đưa tôi đến đó, tôi đề nghị với anh như vậy, để đền bù cho sự phát hiện của anh, tôi sẽ mang về cho anh số vàng anh cần và làm cho nó sinh lợi. Chúng ta sẽ đánh giá triển vọng sau một cuộc khảo sát tại chỗ và xây dựng các hợp đồng làm ăn với nhau.
    Ngồi trước mặt ông, khuôn mặt điềm tĩnh của Nicôla Perốt ánh lên vẻ thích thú.
    -Ngài nói đúng, thưa ngài Bá tước. Khi biết ngài sắp dong buồm sang châu Âu và tôi yêu cầu ngài cho tôi được đi nhờ trên tàu là tôi đã nuôi sẵn trong đâu một ý định nho nhỏ. Ngài nổi tiếng là một nhà bác học lớn, nói chính xác là một nhà bác học lớn thuộc ngành mỏ. Và giờ đây tôi đã mang về, không chỉ là vốn liếng cần thiết mà còn cả kiến thức khoa học vô giá của ngài. Như vậy tức là ngài đã trả công xứng đáng cho anh chàng chạy vượt truông khốn khổ dốt đặc cán mai rồi đấy ạ. Bởi vì như ngài đã biết đấy, tôi đã được đẻ ra trên bờ biển Xanh- Lôrăng và ở đây trình độ văn hóa còn xa mới bằng được bên châu Âu.
    Giôphrây đờ Perắc ném cho anh ta một cái nhìn bè bạn.
    -Đừng nuôi quá nhiều ảo tưởng về sự phong phú trí tuệ của Cựu lục địa anh bạn ạ. Tôi đánh giá đúng mà, nó không dài hơn một nửa cái đuôi con chó sói đồng cỏ ở vùng anh đâu. Trong các cánh rừng Huron và Irô ở Canada đầy rẫy các bạn bè của tôi. Các ông vua chuyên chế và đám triều thần hèn hạ của họ, tôi coi chỉ là bọn dã man.
    Anh chàng Canada bĩu môi tỏ vẻ chưa tin, nói cho thật đúng là anh ta vẫn cảm thấy vô cùng thích thú với ý nghĩ được biết Pari mà xưa kia anh ta đã có lần thấy, với những người đi dạo lăng quăng ngoài đường, đầu đội mũ lông thú, chân dận ủng bằng da hải cẩu giữa các cỗ xe ngựa vàng chóe. Ở đây số phận con người được quyết định hoàn toàn khác, và vốn quen với cách nhìn thực tế anh ta tự cho rằng như thế là ưu việt.
    -Như vậy tức là anh không đòi hỏi ở tôi quá nhiều- bà tước nói tiếp, luôn luôn bắt kịp ý nghĩ của người đối thoại về cái vai chẳng lấy gì làm hay ho mà tôi bắt anh phải đóng. Quả thật việc đó xảy ra hoàn toàn ngoài ý muốn, bản thân tôi bị đẩy vào những sự kiện…không hề biết trước. Nghiêm khắc mà nói, lúc đó lẽ ra anh đã có thể xuống tàu…
    -Bến bờ ấy xem ra chẳng có một chút hiếu khách nào đâu. Vì ngài tỏ ra quan tâm đến những dự kiến của tôi, nên tôi cũng chẳng hề hối tiếc vì phải quay lại, không được đặt chân lên đất mẹ của tất cả dân Xanh Lôrăng chúng tôi…Có thể sau tất cả những biến cố ấy, tôi chẳng còn có quan hệ với bất cứ ai ở cái vùng đất quê xa xôi ấy nữa. Biết đâu ở đấy người ta chẳng lột tôi đến đồng xu cuối cùng. Dân châu Âu xem ra cũng chẳng phải là những tấm gương về đức hạnh đâu…Kìa cái bọn Tin lành ấy lại bắt đầu đập vỡ tai chúng ta với các bài thánh vịnh của họ - anh chàng Canada nói to- Thọat đầu họ chỉ có quyền hát vào buổi tối, nhưng bây giờ thì mỗi ngày những ba lần, như thể họ định trừ tà cho con tàu bằng cách niệm thần chú nhiều hơn ấy.
    -Quả thật có thể đó là ý định của họ.
    -Một bọn người buồn tẻ và tự mâu thuẫn với mình. Tôi hy vọng rằng khi ngài cho chúng tôi những người bạn đồng hành để đi khai trương mỏ ở nơi cách xa hàng nghìn dặm trong vùng Irô thì những người đó không phải là bọn họ chứ?...
    Anh ta tỏ ra lo lắng khi thấy ngài bá tước im lặng hồi lâu. Nhưng sau đó ông ta lắc đầu.
    -Không- cuối cùng ông ta nói- chắc chắn không?
    Nicôla Perốt định đặt ra một câu hỏi khác.
    “ Lúc đó ngài sẽ làm gì với họ?”.
    Anh ta cảm thấy người đối thoại với mình có vẻ căng thẳng và vẻ mặt đột nhiên trở nên xa vắng.
    Đúng là những tiếng hát thánh vịnh ấy, được gió biển đưa tới, hòa cùng nhịp sóng bất tận, có một cái gì xoáy sâu vào tâm hồn, gây nên một nỗi buồn thảm và một cảm giác bất an. “ Một khi họ được dạy dỗ như thế từ lúc hãy còn bé tí, chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu như họ không giống với mọi người”. Perốt nghĩ.
    Anh ta lục lọi trong các túi áo để tìm cái tẩu. Nhưng rồi lại không tìm nữa.
    -đối với đám lính mới kỳ cục mà ngài vừa mộ được đó mà, thưa đức ông, tôi không thể nào quen được. Không kể là sự có mặt của đám đàn bà con gái làm căng thẳng đầu óc của đoàn thủy thủ. Họ đã bất bình về việc đã không cập bến Tây Ban nha, nơi họ hằng mong đợi nay lại phải quay về với món chiến lợi phẩm của ngài.
    Anh chàng người Canada lại thở dài. Giôphrây đờ Perắc hầu như không nghe anh ta nói, nhưng đột nhiên ông ta nhìn xoáy vào anh ta.
    -Như vậy là anh báo trước với tôi một thảm họa à, Perốt?
    -Không phải, thưa bá tước. Chẳng có gì là thảm họa cả, nhưng khi người ta một mình lang thang suốt đời trong rừng như tôi, ngừoi ta biết rõ nhiều chuyện, ngài biết…
    -Tôi biết.
    -Nói thẳng ra, thưa bá tước, tôi không bao giờ hiều nổi là tại sao ngài ăn ý được với những người Quây cơ ở Bôxtơn trong khi ngài có thể liên hệ với những người khác hẳn với họ như tôi chẳng hạn. Theo ý tôi trên trái đất chỉ có hai loại người: một loại như họ và một loại khác họ. Khi ta ăn ý với bên này thì không ăn ý với bên kia…trừ ngài ra, tại sao vậy?
    -Những người Quây cơ ở Bôxtơn rất có khả năng trong nghề nghiệp của họ: buôn bán hoặc đóng tàu. Tôi yêu cầu họ đóng cho tôi một chiếc tàu và tôi trả tiền cho họ. Nếu có gì làm anh ngạc nhiên trong việc này trước hết là họ tin tôi, một kẻ đi từ phương đông tới, với một chiếc tàu Xêbéc ọp ẹp tơi tả vì bão tố và các trận đánh nhau với bọn cướp biển. Tôi không bao giờ quên được việc một người Quây cơ làm nghề buôn bán thực phẩm bình thường ở Plimút đã bỏ ra nhiều tuần lễ để dẫn đến cho tôi đứa con trai. Bởi vì tôi nghĩ rằng chẳng có gì bắt buộc ông ta làm việc đó cho tôi cả.
    Bá tước đứng dậy và túm lấy bộ râu xồm của anh chàng Canada với vẻ thân tình.
    -Hãy tin tôi, Perốt, cần phải dốc hết sức lực để tạo ra một thế giới mới. Những gã râu xồm như anh là chúa dâm đãng và khó gần, cứng rắn đến bất nhân nhưng có sức mạnh để liên kết lại. Còn những người kia – những người mà anh gọi là của tôi ấy- chẳng có gì tỏ ra là như vậy cả.
    Ông hất hàm về phía cửa sổ, tỏ ý nói về những người hát thánh vịnh mà họ không nhìn thấy.
    -Những người ấy không phải là dân Anh. Với những người Anh mọi việc đều rõ ràng. Họ đi là đi, họ đến ở nơi khác là ở nơi khác. Chúng ta những người Pháp, chúng ta mắc phải cái thói gàn dở là luôn luôn nói suông: muốn đi chết đi được nhưng cùng lúc đó lại muốn ở lại. Từ chối việc thần phục nhà Vua nhưng lại mong mỏi được là đầy tớ hạng sang nhất của nhà Vua. Tôi biết họ mà, không dễ liên kết lợi ích với họ đâu. Họ khước từ một vụ làm ăn mà chỉ có trời mới biết họ tính toán ra làm sao. Thế nhưng làm việc chỉ vì vinh quang của Chúa thì họ không khước từ. Họ quý trọng đến từng đồng chinh…nhưng họ không muốn nói to lên như thế.
    Giôphrây đờ Perắc đi đi lại lại, có vẻ sốt ruột. Sự yên tĩnh quen thuộc vẫn thường có vào lúc ông cúi xuống tấm bản đồ đã bị mất đi kể từ khi những âm thanh buồn thảm của đám người Tin lành tụ tập trên boong tàu cất lên.
    Anh chàng Anhđiêng tốt bụng cảm thấy ngay rằng ông chủ không còn quan tâm đến mình nữa. Ông đang chú ý tới đám người chẳng mấy hấp dẫn nhưng đành phải hốt cả lên tàu. Ông nghĩ về họ và nghĩ về triển vọng của cái mỏ mà anh chạy ròng trong rừng kia đem đến cho, cả hai đều làm cho đâu óc ông căng thẳng như nhau.
    Hơi mếch lòng vì bị đẩy xuống hàng sau, anh ta đứng dậy và cáo từ.



    Chương 14



    Giôphrây đờ Perắc không chịu nổi nữa. Ông muốn bày tỏ với những người mà ông đã mất quyền kiểm soát một sự bực bội khi suốt ngày vang lên những tiếng cầu kinh chậm chạp, hòa hợp một cách đáng ngạc nhiên với nhịp điệu và vẻ trang trọng của biển. “Perốt có lý, mấy người Tin lành quá lạm dụng, nhưng cấm họ ư? Ta không thể…”
    Và cuối cùng thì ông phải tự thú nhận là chính mình cũng bị cuốn hút bởi những tiếng hát vọng tới từ một thế giới khác, đóng kín, khó thâm nhập, và cũng như mọi điều bí ẩn của tự nhiên tiếng hát ấy gợi một cái gì kỳ thú. Những tiếng hát ấy cũng đến với ông hiên lên trước mặt ông hình ảnh Angiêlic, người đàn bà đã từng là vợ ông mà bây giờ ông không còn cảm nhận ra nổi, bởi vì ông không sao hiểu được tình cảm, tư tưởng của nàng. Sự tiêm nhiễm môi trường Tin lành đã để lại dấu ấn quá rõ bất chấp nhân cách mạnh mẽ ngày nào của nàng, hay đó chỉ là một bộ mặt mới và một trò đóng kịch? Để che giấu cái gì vậy? Một người đàn bà đỏm dáng khêu gợi hay….tình tứ? Tình từ với lão Gabrien Bécnơ ấy ư? Câu hỏi luôn luôn trở lại và thật đáng ngạc nhiên là mỗi lần tức giận đến tối tăm mặt mũi là một lần ý nghĩ duy nhất ấy lại làm ông đau nhói. Lúc đó ông cố hết sức để lãnh đạm, bằng cách so sánh người đàn bà mình đã yêu với người đàn bà vừa tìm thấy.
    Có gì phải ngạc nhiên khi gặp lại một người đàn bà đã bỏ, đã không yêu từ nhiều năm rồi, và thấy người đó khác đi? Chỉ cần coi như đó là một trong những người tình cũ là xong.
    Vậy thì tại sao cứ băn khoăn và cứ thích đào sâu mãi vào tất cả những gì liên quan đến nàng?
    Khi những tiếng hát của người Tin lành cất lên trong bầu trời ban mai nhợt nhạt hay ánh hoàng hôn trong vắt và lạnh giá, ông phải tự kìm chế không chạy ngay lập tức ra hành lang trông xuống boong tàu để nhìn xem có nàng trong số những người ấy hay không?
    Lần này nữa, ông đeo mặt nạ vào với ý định đi ra nhưng rồi ông lại đổi ý.
    Hay ho gì mà tự hành hạ mình như thế? Vâng, ông nhận ra nàng. Và rồi sao nữa? Nàng sẽ vẫn ngồi hơi tách ra, đứa con gái trên đầu gối, giống hệt mọi người đàn bà khác với chiếc áo khoác ngắn màu đen và mũ chụp trắng nom như những bà góa. Nàng sẽ vẫn hơi cúi khuôn mặt nhìn nghiêng xuống với vẻ duyên dáng đặc biệt quý tộc. Và rồi thỉnh thoảng rất nhanh nàng sẽ quay đầu về phía hành lang phía lầu sau như nàng đang mong đợi- hoặc lo ngại nhìn thấy ông.
    Ông bước đến cạnh bàn và cầm lấy một trong những mẩu quặng chì có bạc.
    Đầu óc ông dãn ra dần dần trong lúc ông nhấc thử đánh giá trọng lương của mẩu quặng.
    Tim lại được nghề nghiệp, thế là đã nhiều lắm rồi. Lại những viễn cảnh những năm tháng, lại lao động trên một vùng đất chưa hề có vết chân người mà nhiệm vụ của ông là tìm ra tính chất, thăm dò trữ lượng khả năng và quyền sử dụng các của cải ấy với quy mô lớn.
    Trước phiên toà nhóm họp để xử tội ông, và chính tại đó, ông đã có thể thấy sự vô nghĩa, dốt nát, thèm khát, cuồng tín hèn nhát, đạo đức giả, hám danh. Giôphrây đờ Perắc trong khi nghe tuyên đọc bản án buộc mình phải chết trên giàn thiêu vì tội phù thủy,. trước hết bị choáng váng bởi cái kết luận lôgic của một tấm thảm kịch mà ông đã dần dần phát hiện ra.
    Ông đã đào sâu vào hết thảy các dữ kiện trong suốt những ngày dài đằng đẵng ở trong tù. Và nếu ông thèm muốn một cách dữ dội khả năng được sống, bất chấp thân mình nát gãy vì bị tra tấn, thật ra chẳng phải vì sợ chết, mà bởi vì sự nổi dậy của ý muốn được nhìn thấy sự kết thúc của thời đại mình trước khi có thể sử dụng năng lực của mình đang vì sai lầm đã đi lạc vào một con đường không lối thoát.
    Tiếng gào của ông trên thềm Nhà thờ Đức bà không để đòi hỏi sự khoan dung mà để đòi công lý. Ông không hướng tới một chúa trời mà mình vẫn thường phạm giới luật mà ông hướng tới một đấng tiên tri, toàn năng “ Người không có quyền bỏ tôi, bởi vì tôi không chống lại người…”
    Thế nhưng lúc đó ông tin chắc mình sắp chết.
    Quá đỗi kinh ngạc vì thấy mình còn sống ở một nơi nào đấy bên bờ sông Xen, cách xa những tiếng gào hú của đám dân đen, ông hiểu được là sự thần kỳ đóng một vai trò quan trọng như thế nào.
    Đó là một ván bài khó chơi, nhưng đã không lưu lại với ông một kỷ niệm xấu. Tự để mình bị cuốn đi trong nước sông lạnh giá, trong khi bọn lính chịu trách nhiệm canh gác ngáy ầm ầm, ông bơi về phía một chiếc thuyền giấu trong lau sậy, tháo thuyền ra, để nó chở mình trôi theo dòng. Ông có bị ngất đi ít lâu sau đó tỉnh lại, ông cởi bỏ áo tù thay bằng chiếc áo vải thô của người dân quê tìm thấy trên thuyền.
    Rồi ông bắt đầu lết về phía Pari theo dọc những con đường tuyết phủ, khốn khổ, đói khát vì không dám mò vào các trang trại, chỉ có thể đứng vững nổi nhờ một ý nghĩ duy nhất: “Ta sống và ta sẽ thóat nạn…”
    Cái chân thọt lúc đó của ông thật là kỳ quặc. Có đôi lần ông quay người mà không nhận ra rằng chân lúc đó đang xoay ngược và kéo lê như một chiếc bàn trượt. Bằng mấy đoạn cây kiếm được ở một hàng rào ông tự làm lấy một đôi nạng thô sơ. Mỗi lần nhấc chân lên để bước, là một lần đau không sao chịu nổi. Suốt chặng đường đầu tiên, ông phải cố hết sức ghìm nén để không rú lên như một kẻ bị ma ám. Lũ quạ đậu trên các cây táo trụi lá nhìn ông đi qua như nhìn một sinh vật quái gở què quặt sắp ngã quỵ. Rồi dần dần, cảm giác đau đớn bị tê đi và ông thậm chí có thể bước nhanh. Thức ăn của ông chỉ là mấy quả táo đã đóng băng nhặt trong hố, một mẩu củ cải bị chiếc xe đẩy đánh rơi. Mấy ông thầy tu mà ông ghé lại xin nương náu đều sẵn lòng từ thiện nhưng họ luôn luôn nuôi trong đầu ý nghĩ phải đưa kẻ tật nguyền đến trại hủi bên cạnh, thành ra ông phải bỏ đi. Đi tập tễnh trên đường như vậy ông rất sợ một vài người dân quê hiếm hoi bắt gặp, vì họ có thể nhận ra ông qua bộ quần áo rách tươm bết máu, và chiếc khăn mùi soa che mặt.
    Có một hôm hầu như không bước nổi nữa, ông mới thu hết can đảm để xem lại cái chân khốn nạn của mình. Đau đớn vô cùng, nhưng rồi ông vẫn cởi được lớp vải cứng quèo của chiếc ủng, để lộ ra một vết thương há hốc ở phía sau đầu gối. Nhìn kỹ vết thương ông thấy có 2 sợi trăng trắng nổi lên, vì bị cọ xát nhiều lần trong các cuộc tra tấn cả hai đều đã giập nát. Trong cơn tuyệt vọng ông dùng một con dao nhíp nhặt được trên đường cắt đi cả hai, thực ra đó là những sợi gân nhưng ông cứ nghĩ là thứ của thừa làm vướng víu. Chân ông bỗng trở nên tê dại. Hơn lúc nào hết, ông khó chịu vô cùng và không thể điều khiển nổi cái chân ấy nữa, nhưng cuối cùng lại đi được tốt hơn nữa.
    Cái tháp chuông của Pari đã xuất hiện trước mặt Giôphrây đờ Perắc đi vòng thành phố như kế hoạch đã định trước. Khi đến được ngôi nhà thờ nhỏ trong khu rừng Vanhxen lần đầu tiên ông nghĩ tới chiến thắng.
    Ngôi nhà thờ khiêm tốn nhờ giấu mình trong rừng mà thoát được con dấu niêm phong của nhà Vua, thuộc tất cả những tài sản đã một thời rực rỡ huy hoàng của vị bá tước vùng Tuludơ. Ông vừa đưa tay vuốt ve một viên đá vừa nghĩ: “Mày vẫn còn thuộc về ta, mày sẽ phục vụ ta.”.
    Cái nhà thờ nhỏ ấy quả thật được việc. Tất cả đều đã được bí mật chuẩn bị từ trước. Những tay thợ được trả tiền hậu hĩnh đã tạo nên cả một kỳ công: nhờ con đường hầm sâu dưới mặt đất, ông có thể đi lọt vào bên trong thành phố Pari, và theo một cái giếng leo lên đúng giữa dinh cơ đã bị tịch thu của mình là biệt thự Bôtrây. Trong ngôi nhà thờ riêng của gia đình có một cái hốc bí mật. Ông lấy ra được cả một gia tài gồm có vàng và đồ trang sức mà nhờ linh cảm ông đã kịp cất giấu vào đó. Ôm chặt chiếc tráp vào ngực, ông lại một lần nữa chứng kiến cái cảm giác của một con người đang trên đường thoát ra khỏi địa ngục. Với số của cải ấy, ông không còn là kẻ bị tước hết vũ khí nữa. Bằng một viên kim cương ông sẽ kiếm được một chiếc xe, hai mẩu vàng sẽ kiếm được một con ngựa…Bằng một túi tiền căng phồng những kẻ hôm qua còn từ chối ông, hôm nay có thể thu xếp cho ông một chỗ ngồi bên cạnh và ông có thể trốn thóat, rời bỏ vương quốc này.
    Nhưng cùng lúc ấy ông lại cảm thấy cái chết đang bíu chặt lấy mình. Chưa bao giờ ông thấy cái chết đến gần mình như lúc ông vừa quỵ xuống trên những viên đã lát, vừa nghe tiếng đập trái tim mình đang lịm dần.
    Biết rằng không thể lại bắt đầu thoát ra ngoài bằng cái giếng, ông cảm thấy mình mấy hết ý chí. Đi gọi ông lão giữ nhà Paxcalu để nhờ giúp đỡ ư? Nhưng ông lão đã trở nên lẩn thẩn, thấy ông xuất hiện qúa đường đột không khéo lại ngỡ là ma hiện hồn, ông lão sẽ bỏ chạy và có thể làm náo động mọi người chung quanh.
    Tìm đâu ra một cánh tay sẵn sàng cứu giúp bây giờ? Hình ảnh đó gợi lên một cánh tay gầy gò đã từng cứu giúp ông trên con đường khốn khổ khốn nạn, đó chính là ông thầy tu bé nhỏ của Hội truyền giáo mà người ta đã chọn để rửa tội cho ông trong những giây phút cuối cùng.
    Vẫn còn có những con người mà ta không thể mua được dù bằng ngọc hay vàng. Cái sự thật đó, vị đại công hầu Tuludơ vốn thích quan sát người đời, đã thấy và chấp nhận cùng với những kẻ vụ lợi chiếm số đông trong nhân loại. Vẫn còn có những con người được Chúa đặt vào đó ngọn lửa thánh thần. Ông thầy tu truyền giáo là một trong những con người như thế. Vì dù thế nào đi nữa, cũng còn cần phải có một nơi nương tựa cho những kẻ khốn cùng.
    Thu góp chút sức lực cuối cùng ông ra khỏi biệt thự Bôtrây bằng lối cửa vườn cam mà ông biết chỗ để chìa khóa, và chỉ ít lâu sau đã có thể gõ cửa tu viện của hội Truyền giáo ở gần nhà. Ông chuẩn bị sẵn một câu để nói với cha Ăng toan, một câu nửa đùa nửa thật vẫn được dùng ở chốn tu hành: “ Xin cha hãy giúp con, bởi vì Chúa không muốn con chết…mà con thì lại ở gần cái chết lắm rồi”. Nhưng không một câu nói nào có thể bật ra khỏi cổ họng đã rách nát của ông.
    Từ nhiều ngày rồi ông nhận thấy mình đã trở thành một người câm.
    Giôphrây đờ Perắc ngẩng đầu lên và cảm thấy dưới chân mình sự chuyển động của sàn tàu, một nụ cười chợt hiện ra trên môi ông “ cha Ăngtoan! Có thể là người bạn tốt nhất của ta. Một con người chắc chắn là tận tụy nhất, vô tư nhất!”.
    Ông bá tước đờ Perắc, lãnh chúa vùng Akiten, kẻ nắm giữ một trong những tài sản lớn nhất của vương quốc Pháp, giờ đây đành phó thác thân mình trong bàn tay gầy gò, yếu ớt thò ra ngoài chiếc áo thầy tu đã sờn rách. Vị linh mục không chỉ săn sóc , che dấu ông, mà còn nảy ra một ý nghĩ – có thể gọi là thiên tài- là thế chỗ, thế tên một người tù khổ sai trong đám tù bị xiềng xích được chở xuống Macxây mà ông có trách nhiệm phải đi cùng. Người tù ấy làm chỉ điểm cho cảnh sát đã bị các bạn tù hắn giết chết. Cha Ăngtoan trước đó ít lâu đã được cử làm linh mục tuyên úy cho đoàn tàu galê khốn khổ đã tiến hành việc thay thế đó.
    Giôphrây đờ Perắc được vứt vào ổ rơm của một chiếc xe, không hề vấp phải sự chống đối của đám bạn đồng hành tội nghiệp, cảm thấy sung sướng vì đã tìm ra được lối thoát dễ dàng đến như vậy. Những tên lính gác đần độn và thô bỉ không hỏi han gì về con mồi mà chúng có trách nhiệm áp giải. Trong khi đó cha Angtoan dấu kín trong bọc hành lý nhỏ của mình, cùng với các đồ xách tay dùng cho việc làm lễ, chiếc tráp đựng cả một gia tài của ông bá tước.
    -Con người tuyệt vời!
    Đến Macxây hai người tìm được Cuxi Ba, người nô lệ da đen lúc đó cũng đang bị tù khổ sai ở đoàn tàu galê. Cha tuyên úy còn tự mình dắt anh ta đến chỗ ông chủ đang nằm.
    Việc trốn chạy của hai người có phần dễ dàng vì Giôphrây đờ Perắc lúc đó gần như liệt nửa người phía dưới, được ủy ban tuyển dụng người cho đoàn tàu galê coi là “vô dụng” và nhờ đó, ông đã không bị lôi vào toán tù chèo thuyền ra biển đầu tiên.
    Cùng với người đày tớ ẩn náu trong một khu phố lớn dành cho người phương Đông, tuy được tự do nhưng vẫn bị đe dọa chừng nào họ còn ở trên đất Pháp một thời gian để tìm dịp đáp tàu.
    Chính vì vậy ông mới gửi một lá thư cho ngài Múpti Apđen Mecrát, nhà bác học Ả rập mà ông có quan hệ thư tín từ lâu để trao đổi những phát minh về hóa học. Đáp lại niềm hy vọng ấy nhà bác học theo đạo Hồi đã gửi thư cho ông từ thành phố Feđờ ( thủ đô cũ của Marốc) cấm thành nổi tiếng của vùng Magrép. Lá thư trả lời tỏ ra xứng đáng với sự cao quý của những đầu óc có học vấn mà đối với những người ấy thì ranh giới duy nhất được vạch ra giữa con người với con người là ranh giới ngăn cách giữa ngu đần và thông minh giữa dốt nát và hiểu biết.
    Giữa một đêm không trăng, anh chàng da đen khổng lồ Cuxi Ba cõng ông chủ tàn tật trên vai, vượt qua những tảng đá lởm chởm lần xuống một cái vũng nhỏ ở vùng Xanh- Trôpê. Những người Ả rập mặc áo choàng trắng đợi họ ở đấy, buồm đã căng sẵn. Trong vùng ấy vẫn thường có một số loại khách quen lui tới để tìm các cô gái đẹp xứ Prôvăngxơ có mái tóc nhạt màu và cặp mắt huyền.. Chuyến đi trót lọt: một kỷ nguyên mới đã mở ra đối với con người được kéo ra khỏi giàn lửa. Tình bạn thắm thiết với Apđen Mecrát, vết thương được chữa lành nhờ bàn tay khéo léo của con người ấy, những liên hệ của ông với Mulai Ismail sau khi đã gửi cho nhà Vua vàng khai thác được ở Xu đăng, nhận chức đại sứ của Mulai Ismail bên cạnh Đại quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ, việc buôn bán bạc đã đưa ông trở thành một trong những tên tuổi lớn của cái tay tướng cướp Địa Trung Hải. Một loạt thí nghiệm lý thú, đầy hứng khởi, vô số kiến thứ được bổ sung từng ngày cho cái trí tuệ ham hiểu biết của ông. Chắc chắn là không, không hối tiếc một chút nào về tất cả những gì ông bỏ lại phía sau! Không thua thiệt, cũng không hề thất bại! Tất cả những gì phải chịu đựng, phải nhận lãnh đối với ông đều thú vị và đáng để mà sống, đáng để sống lại, đáng với cả tương lai chưa nhìn thấy ở phía trước. Con người có phẩm giá là con người ung dung tự tại trong gian nguy, cũng như trong thảm họa.
    Trái tim ông khá là bền chắc. Ít có điều gì làm cho trái tim người đàn ông không thể bình phục. Trái tim người đàn bà mỏng manh hơn, kể cả khi họ dũng cảm đương đầu với những va đập và sợ hãi. Cái chết của một tình yêu, hoặc giả một đứa con có thể làm u ám đi mãi mãi niềm vui sống của họ. Quả là loại sinh vật kỳ lạ, những người đàn bà vừa dễ bị tổn thương, vừa độc ác…Độc ác khi họ dối trá, độc ác cả khi họ thành thực. Giống như Angiêlic hôm qua khi nàng ném thẳng vào mặt ông: “ Tôi căm ghét ông!....Thà ông chết đi còn hơn…”





  8. #8
    Miss You Baby Kienfa's Avatar
    Tham gia ngày
    Mar 2005
    Bài gởi
    14,420
    Blog Đã Viết
    95

    Default




    Chương 15



    Chỉ tại con bé có bộ tóc đỏ hoe. Một con người nhỏ bé đặc biệt, nhìn đại thể có những đường nét và nụ cười giống mẹ. Miệng rộng hơn và kém hoàn hảo hơn, nhưng khuôn mặt rất giống, trừ màu tóc và đôi mắt đen- nhỏ và xếch về phía thái dương, trong khi đôi mắt mẹ nó mênh mông và trong vắt như nước suối. Với sự khám phá đó ông tin chắc rằng còn bé là con của Angiêlic.
    Nó sinh ra từ máu thịt nàng và từ máu thịt của một kẻ khác. Từ cái ôm quặp của một người đàn ông mà Angiêlic vừa đón nhận trong đôi cánh tay nàng, vừa tỏ tình thiết tha với đôi mắt lóe đi, đờ đẫn. Một vẻ mặt như thế nàng đã cho ông thấy, nhưng nàng thì không biết, trong buổi tối đầu tiên trên tàu Gunxbôrô.
    Nấp sau một tấm màn ông đã nhìn thấy nàng thức giấc và cúi xuống con. Nỗi ghen tức làm gan ruột ông quặn đau, bởi vì ông vừa phát hiện ra rằng trong ánh sáng mờ nhạt của buổi hừng đông, nàng đẹp hơn là ông tưởng. Ông tự hỏi nàng đang tìm lại vẻ mặt của gã tình nhân nào được phản chiếu trên khuôn mặt đứa con đang thiếp ngủ kia. Ngay lúc nảy ra ý định tiến thằng về phía nàng và cởi bỏ mặt nạ của mình ra, ông đột nhiên đứng im như tê liệt trước bức tường thành ngăn cách hai người.
    Ông nghe nàng nói thì thầm những lời âu yếm và hết sức nồng nhiệt với đứa con. Chưa bao giờ nàng bày tỏ một thái độ như thế với Phlôrimông, đứa con trai của nàng và của ông. Ông bỏ đi để không nổi nóng lên.
    --------------------
    Tay vẫn cầm cung lục phân, Giôphrây đờ Perắc vừa bước ra khỏi đài chỉ huy vừa đeo mặt nạ. Ngay lúc đó ông chợt thấy những người Tin lành đang tản ra xa sau khi kết thúc một cuộc họp tôn giáo. Ông nhìn họ, cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm xen lẫn với thất vọng. Rồi kéo áo choàng sát vào mình, ông leo lên tầng thượng để điểm lại mọi sinh họat của tàu, đúng lúc thái độ của gã người Mo làm ông chú ý. Gã đầy tớ quê xứ tận nước Marốc mà đã mười mấy năm nay nhất cử nhất động đều căn đúng như ông chủ, hình như không nhận thấy sự có mặt của ông.
    Đứng tựa vào lan can bằng gỗ thiếp vàng trước cửa kính của căn phòng vắng người, gã nhìn về phía trước bằng đôi mắt to của loài thú ăn đêm. Mặc dù gã có vẻ uể oải, Giôphrây đờ Perắc theo thói quen, vẫn phỏng đoán rằng đó chẳng qua chỉ là những rối loạn nội tâm của một giống người vừa thụ động lại vừa nồng nhiệt, rằng gã là nạn nhân của một xúc cảm quá mạnh. Nom gã giống như một con vật sắp nhảy chồm lên phía trước và đôi môi dày màu hoa cà run run trên khuôn mặt vàng xẫm.
    Đột nhiên nhận ra rằng ông chủ đang nhìn mình, gã cụp mắt xuống một cách xảo trá và lấy lại ngay lập tức vẻ trơ lì vốn có từ những năm tháng trẻ trung, khi gã được rèn luyện nghiêm khắc để làm người vệ sĩ cho Quốc vương Mulai Ismail. Một trong những người đẹp trai nhất và thiện xạ nhất của đội quân cấm vệ của nhà vua Ma rốc lúc bấy giờ, gã được đem tặng cho đại pháp sư Giéppha en khanđum, cái tước hiệu mà quốc vương đặt cho Perắc để biểu thị tình thân hữu của Người.
    Từ đó, Apđula theo ông đi khắp bốn biển. Mỗi ngày mấy lần gã pha cà phê cho ông chủ. Gã ngủ trước cửa buồng hay dưới chân giường ông. Gã theo ông chủ không rời nửa bước và đã bao nhiêu lần hết trận mạc đến bão tố, âm mưu gã đều có dịp cứu mạng đại pháp sư.
    -Tôi đi theo ngài, thưa ông chủ - gã nói.
    Nhưng gã có vẻ không thoải mái, vì qua kinh nghiệm đã biết cái nhìn của Giéppha en khanđum (nghĩa là con ma) có khả năng đoán được các ý nghĩ của mình.
    Rất chính xác đôi mắt của ông chủ chậm chạp lướt theo đúng cái hương mà đôi mắt của gã cũng vừa lướt tới và dừng lại. Liệu ông chủ có nhìn thấy cái mà gã nhìn không, và cái đó đang làm nửa thân mình về phía dưới của gã nóng lên rừng rực mặc dù xung quanh trời rất lạnh.
    -Anh có vẻ nôn nóng tới việc chúng ta đi tới đó, có phải không Apđula?- Bá tước hỏi.
    -Đó hoặc đây thì cũng thế thôi – Apđula lầm bầm một cách buồn bã: La ** ha ** la la, môhamed rossoui ** la…
    Kéo từ trong vạt áo ra một cái túi nhỏ đựng thứ bột trắng, gã nhúng đầu ngón tay trỏ vào thứ bột đó và quệt lên mặt, lên má. Perắc nhìn gã.
    -Lấy đâu ra những câu hát thê thảm ấy hả, anh bạn già, và tại sao lại phải làm trò hóa trang thế này?
    Hàm răng gã người Mo ánh lên trong một cái cười đột ngột.
    -Ồ thưa đức ông, ngài đối xử với tôi quá tốt, coi tôi như một kẻ ngang hàng, nhờ thánh Ala phù hộ tôi để tôi không làm phật lòng ngài và nếu tôi phải chết, tôi cầu xin Người ban cho tôi ân huệ được chết bởi tay ngài. Bởi vì Người đã viết trong kinh Côran “ Khi ông chủ chặt đầu người nô lệ, kẻ đó sẽ được kên Thiên đàng của các Tín đồ…”.
    Và cố bình tâm lại, Apđula bước theo ông chủ mà gã hết sức sùng kính. Nhưng đáng lẽ lên tầng thượng Perắc lại tụt xuống vài nấc và đi vào lối chạy suốt thân tàu, tiến lên về phía boong trước.
    Apđula run rẩy toàn thân. Thế là lại một lần nữa ông chủ đóan được ý nghĩ của gã. Gã bước theo với một tâm trạng lẫn lộn lo âu và nỗi khiếp sợ có tính chất định mệnh. Bởi vì gã biết rằng cái chết của gã sắp đến gần.


    o0o


    Chương 16



    Trên boong tàu, đám đàn bà Tin lành đang giặt giũ. Nhìn những chiếc mũ chụp trắng của họ, như những con chim hải âu tụ tập trên một khoảng bãi biển hẹp. Khi đến gần họ, Rescator bắt đầu phân phát hào phóng những cái ngả mũ chào dành cho bà Manigôn, bà Mecxơlô, bà Ana, cô gái già-nhà toán học mà ông coi là có học thức uyên bác, cô gái hiền dịu Abighen mặt đang đỏ dừ lên, cho cả các cô gái không dám nhìn mình, và tỏ vẻ thân mật với tất cả những người khách trọ.
    Sau đó ông ta đứng im lại chỗ, đối mặt với cây cột buồm lớn và bắt đầu thao tác trên cung lục phân.
    Rất nhanh ông đoán nàng đang ở phía sau mình.
    Ông quay lại.
    Angiêlic tái người đi dưới cái sức mạnh mà nàng đang phải chịu đựng.
    -Chiều hôm qua tôi đã nói ông những câu kinh khủng – nàng nói- Tôi lo sợ cho con gái tôi quá nên dã không còn tự chủ được. Tôi muốn ông tha lỗi cho tôi.
    Ông trả lời sau một cái nghiêng mình.
    -Tôi cảm ơn bà về cái cử chỉ lịch sự không cần thiết đó. Đạo lý buộc bà phải làm thế, cho dù không xóa đi được những lời bà đã nói, thì vẫn không thể nghi ngờ một chút nào về sự thành thực của nó. Bà hãy tin là tôi hiểu điều đó.
    Nàng ném về phía ông ta một cái nhìn khó hiểu pha trộn đau khổ và tức giận.
    -Ông chẳng hiểu một chút gì về tất cả những cái đó – nàng nói khẽ
    Rồi nàng cụp mi xuống có vẻ như buồn chán vô cùng.
    “ Nàng không còn giữ mình như ngày xưa – ông nghĩ- Nàng nhìn ra xung quanh một cách nhớn nhác, như thể đang sợ hãi. Vì sao nàng phải chơi cái trò sụp mi ấy? Đạo đức giả, đang xúc động và phải thú nhận là thế, hay tính khiêm nhường của người phụ nữ Tin lành?...Ít ra cũng có một điều ta thấy được ở nàng, ấy là cái sức sống mãnh liệt là sự khỏe khoắn chiếu rọi ra từ nàng như ánh mặt trời mùa hạ. Và quả thật, rõ ràng nàng có đôi cánh tay rất đẹp”.
    Dưới cái nhìn gay gắt của ông Angiêlic cảm thấy vô cùng đau khổ.
    Nàng muốn phản bác những lời ông nói, nhưng không phải lúc, không phải nơi để nói. Các bà đang giặt giũ nhìn họ, những người trong đám thủy thủ cũng không rời mắt khỏi ông chủ, mỗi khi ông có mặt trên boong.
    Sáng nay đã có lúc nàng muốn đến gần để nói với ông. Nàng vẫn chưa thoát ra khỏi một tình cảm vừa ngạo mạn vừa sợ hãi. Chính là cái sợ hãi đã làm nàng đứng đực ra trước mặt ông và xoa vuốt một cách ngượng nghịu đôi cánh tay đỏ bừng lên dưới ánh mặt trời.
    -Con gái bà khỏe mạnh rồi chứ? – Ông hỏi thêm.
    Nàng gật đầu xác nhận và quyết định quay về với chậu quần áo đang giặt dở.
    Cuộc đời là thế đấy! Phải giặt quần áo. Và kệ thây nó nếu như việc đó làm ngài đờ Perắc khiếp sợ. Angiêlic tự nhủ với vẻ uất ức. Nhìn thấy thế chắc ông sẽ hiểu rằng nàng vẫn thường bị buộc vào các công việc nặng nhọc chứ không phải ăn rồi lo nhảy nhót trong cung Vua, rằng nếu muốn bảo toàn nguyên vẹn và hoàn chỉnh một người đàn bà trước mọi thủ đoạn, cám dỗ thì chỉ còn một cách là người đàn bà đó tự trang bị cho mình chút tật xấu để làm cái mộc bảo vệ.
    Ông làm cho nàng hiểu rằng hai người đã trở nên xa lạ đối với nhau. Thậm chí có thể đến một ngày nào đó họ trở thành thù địch. Nàng bắt đầu thấy ghét thái độ ban ơn một cách lạnh lùng và ý muốn của ông hạ cố đến nàng. Nếu họ gặp nhau trên đất liền nàng đã không ngần ngại tạo ra một khoảng cách lớn giữa hai người, để chứng tỏ với ông ta rằng nàng không phải là người đàn bà cứ bám nhằng nhẵng khi người ta đã đẩy đi.
    May mắn thay – nàng vừa tự nhủ vừa cầm bàn chải chà xát một cách dữ dội lên quần áo – hai người cùng ở trên một chiếc tàu và không thể thoát khỏi nhau được.
    Tình thế của nàng lúc này là hoàn toàn hạnh phúc và hoàn toàn đau khổ bởi vì, dù sao thì chàng cũng ở đó, bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Và được nhìn chàng, nói chuyện với chàng đã là một thần kỳ rồi. Và rồi những thần kỳ khác sẽ đến.
    Nàng ngẩng đầu lên và nhìn thấy lưng chàng, đôi vai rộng của chàng dưới lần áo chẽn nhung, thân mình chàng được chiếc thắt lưng da bó chặt, cái bao khẩu súng ngắn có tay cầm bằng bạc đeo bên sườn.
    Chính là chàng! Ôi mới đau khổ làm sao khi cảm thấy chàng vừa gần lại vừa xa.
    “ Ấy thế mà chính trên trái tim ấy ta đã gục đầu nằm ngủ, chính trong đôi cánh tay ấy ta đã trở thành người đàn bà. Ở Candi, khi nhận ra ta, chàng đã ôm vai ta, nói với ta bằng thứ giọng dịu dàng đến mê hồn. Nhưng ở Canđi ta hãy còn là kẻ khác. Ta đã có thể gây ra điều gì tồi tệ cho cuộc đời ta? Đức vua đã làm gì ta? Cái ông Vua mà chàng buộc tội ta là nhân tình nhân ngãi, lấy cớ để ghét bỏ ta, ruồng rẫy ta. Và trong lúc ta chiến đấu chống lại nhà Vua thì chàng ôm những người đàn bà khác trong tay chàng. Ta đã từng biết tiếng tăm của chàng ở Địa trung hải, ta không là gì trong quá khứ của chàng. Bây giờ ta cản trở chàng. Chàng cũng muốn thà ta chết đi, chết trong sa mạc, chết vì rắn độc cắn. Nhưng ta không muốn chết! Ta cũng không muốn chết như chàng. Vì ta và chàng giống nhau. Ta và chàng đã là vợ chồng. Đã gắn bó với nhau dù sung sướng hay hoạn nạn, kể cả những khi xa cách nhau. Không thể có chuyện điều đó biến mất được. Và không thể có chuyện tình yêu của chúng ta phải chết khi cả hai đều sống”.
    Đôi mắt nàng cháy rực nhìn ông chằm chằm, mỗi một cử chỉ của ông đều khêu gợi nhục cảm đến mức làm nàng run lên.
    ---------------
    Bà xát đến nổi cả bọt lên kìa- bà Macxen Care ngồi giặt bên cạnh nói lầm bầm- Cứ như là giặt bằng xà phòng ấy!...
    Angiêlic chẳng hề nghe thấy gì cả.
    Nàng thấy ông giơ cái cung lục phân lên, quay khuôn mặt nhìn nghiêng đeo mặt nạ hướng về phía chân trời, nói gì đó với người thủy thủ trưởng. Rồi ông quay lại, đi về phía mấy người đàn bà và chào họ, cũng với vẻ duyên dáng xưa kia vẫn dành cho các phu nhân trong Triều định, quét xuống đất những chiếc lông chim gài trên mũ. Ông trò chuyện với Abighen. Vì quá xa nên Angiêlic không thể chộp được những lời họ trao qua đổi lại với nhau theo gió bay tới.
    Ông nhìn thẳng vào mắt cô gái lúc đó đang ánh lên dưới cái nhìn chăm chú của người đàn ông, điều đó ít có đối với cô.
    “Nếu chàng động vào cô bé ta sẽ rú lên” Angiêlic nghĩ. Rescator cầm tay Abighen và Angiêlic rùng mình, như thể nàng đang cảm thấy da thịt mình tiếp xúc với ngón tay ông.
    Ông kéo Abighen về phía đầu con tàu và chỉ cho cô ta một vật gì đó ở xa, một ngọn sóng lừng lững trắng lóa lên trong ánh sáng mặt trời, những tảng băng mà không ai nghĩ là còn có ở vùng này khi thời tiết đang đột ngột ấm lên.
    Rồi đứng chống nạnh với vẻ ngang tàng, một nụ cười nở trên đôi môi hãy còn săn chắc và hấp dẫn lộ ra ở rìa phía dưới mặt nạ, ông chăm chú lắng nghe người đối thoại với mình trò chuyện.
    Angiêlic có thể đoán được là Abighen đã dần dần cảm thấy yên tâm như thế nào. Trước hết vì sợ hãi trước những ưu thế nổi bật của con người đáng ngại ấy, cô ta đã để lộ vẻ đẹp của tâm hồn mình. Được an ủi, khơi gợi, khích lệ đánh trúng những gì tốt đẹp nhất của bản thân, cô ta sẽ sống động hẳn lên, và cái duyên dáng của sự thông minh được che giấu bởi một nền giáo dục khắc nghiệt sẽ hiện ra trên khuôn mặt hiền dịu của cô ta. Cô ta sẽ nói tới những gì hay ho, tuyệt diệu và sẽ thấy ánh phản chiếu của những điều đó hiện lên trong đôi mắt thích thú đang nhìn thẳng vào mắt mình.
    Chỉ một lần tiếp xúc đơn giản như vậy với ông, cô ta sẽ còn giữ mãi kỷ niệm được sống một khoảnh khắc trong thứ ánh sáng hoàn toàn khác so với các bạn đồng hành.
    Cứ như thế, kẻ chinh phục chắc chắn sẽ tìm được con đường đi tới trái tim người đàn bà.
    “ Chàng định kiếm chác gì trong việc tấn công vào Abighen ngay trước mặt ta? Làm ta nổi ghen lên? Chứng tỏ với ta rằng chàng đã ngãng ra? Ngầm nói với ta rằng ai có tự do của người nấy? Còn với Abighen thì sao?...A! Chàng phải biết rằng chàng vượt lên mọi luật lệ của con người và của thánh thần, và đặc biệt là lề luật của hôn nhân. Này, chàng phải biết rằng các lề luật ấy vẫn tồn tại. Ta là vợ chàng và ta vẫn cứ là vợ chàng. Ta sẽ đeo đuổi chàng đến cùng…”.
    Rescator chào từ biệt Abighen. Ông rời sàn tàu theo cầu thang bên phải.
    Bà Care huých cùi tay vào Angiêlic và ngoảnh về phía nàng thầm thì.
    -Từ năm lên mười sáu tuổi tôi đã mơ ước được một tay cướp như lão kia chinh phục tôi và mang tôi qua biển đến một hòn đảo kỳ lạ.
    -Bà ấy à? – Angiêlic hỏi, vẻ sửng sốt.
    Bà vợ ông luật sư nháy mắt một cách vui vẻ. Trông bà ta như một con kiến đen vô duyên. Đầu óc búi cao theo kiểu người tỉnh Angumoa, lúc nào cũng vống lên tận đỉnh đầu nom cứng đờ đờ. Hình như chính chiều cao của cái búi tóc ấy làm thân mình bà ta càng lép kẹp, tuy không phải vì thế mà không đẻ nổi những mười một đứa con. Nhấp nháy đôi mắt sau cặp mắt kính tròn, bà ta xác nhận.
    -Đúng, tôi chứ còn ai nữa. Tôi lúc nào cũng mơ tưởng. Tôi còn nghĩ đến tên cướp ấy nhiều lần trong những giấc mơ. Khi gặp một tên cướp ở đây, chỉ cách mình có mấy bước chân, tôi cảm thấy người tôi cứ thế nào ấy. Nhìn cách ăn mặc sang trọng của lão, rồi cả cái mặt nạ nữa, tôi phát rùng mình lên.
    -Này các bà xinh đẹp cuả tôi ơi, tôi sẽ nói cho các bà biết lão ấy ở đâu- Bà Manigôn nói bằng thứ giọng mới mẻ chứa đựng một cái gì quan trọng- Bà Angiêlic đừng phật lòng nhé, tôi đang tự hỏi không chừng tôi còn biết lão ấy trước bà cơ đấy.
    -Kể cũng ngạc nhiên – Angiêlic nói như rít qua kẽ răng.
    -Thế hả, thế bà biết những gì nào? – Một số bà khác xúm đến hỏi: Lão người Tây ban nha à? Ý à? Hay Thổ Nhĩ Kỳ?...
    -Hoàn toàn không phải thế. Lão ta cùng quê xứ với chúng mình thôi. – Người đàn bà lắm mồm buông ra một câu đầy vẻ đắc thắng.
    -Với chúng mình? Ở La Rôsen ấy à?
    -Làm gì có chuyện ở La Rôsen? – Bà Manigôn vừa nói vừa nhún đôi vai nần nẫn – tôi nói với chúng ta tức là với tôi ấy.
    -Ở Angulêm à? Mấy bà La Rôsen cùng một lúc kêu lên với vẻ phẫn nộ và hoài nghi.
    -Không hoàn toàn như vậy, xa hơn một chút về phía nam Tác bơ…hay Tuludơ gì đó, có lẽ là Tuludơ thì đúng hơn- bà ta miễn cưỡng nói thêm, nhưng dù sao lão cũng là một lãnh chúa của xứ Akiten, một tay Gaxcônhơ –bà ta thầm thì vẻ hãnh diện lấp lánh trong đôi mắt đen thụt sâu vào giữa hai lớp mỡ dày.
    Angiêlic cảm thấy cổ họng mình thắt nghẹn lại. Phải chăng chỉ nàng có thể ôm hôn người đàn bà to béo ấy. Nàng tự mắng mình vô lí, bỗng dưng nhậy cảm với những điều chẳng đáng gì. Mà quả thật có đáng gì những phút giây chợt nhớ trên vùng giáp ranh của biển sương mù vào những buổi chiều giá lạnh, khi ta trông thấy lóe lên ánh sáng giống hệt ánh sáng rạng đông lấp lánh xà cừ. Nhưng chẳng qua cũng như những bông hoa đã héo được áp đầu rễ vào một chút đất bụi quê hương.
    -Tôi đã thấy như thế nào à? – bà vợ ông chủ tàu tiếp tục nói- một hôm gặp tôi trên boong, lão ta nói: Thưa bà Manigôn, bà có giọng nói của người Angulêm”. Từ đó, mới dẫn đến chuyện quê hương.
    Bà Mecxơlô, vợ ông chủ xưởng giầy vốn hiếu kỳ không muốn tỏ vẻ quá thích thú.
    -Bà bạn ơi, vẫn còn có những chuyện bà chưa nói là tại sao lão ta mang mặt nạ. tại sao lão ta không thích các cuộc gặp gỡ, tại sao lão ta đi lang thang xa xứ suốt bao nhiêu năm rồi.
    -Mọi người đều không thể sống ở quê hương.Đầu óc thích phiêu lưu thổi lão ta đến nơi nào lão ta muốn.
    -Đầu óc kẻ cướp mà, tất nhiên phải thế.
    Họ nhìn Angiêlic qua khóe mắt. Người đàn bà bướng bỉnh không chịu cho họ biết những chỉ dẫn đầy đủ về con tàu Gunxbôrô và ông chủ của nó, ngày càng tỏ ra đáng ngờ hơn. Bị đẩy lên một chiếc tàu không treo cờ, không biết đi đâu họ nghĩ rằng họ có quyền được giải thích.
    Angiêlic vẫn tỏ vẻ kín bưng, như thể nàng không nghe gì cả.
    Các bà bỏ đi để phơi một lô dây quần áo vừa giặt xong. Họ phải lợi dụng những giờ phút cuối cùng còn có nắng, nếu không chỉ lát nữa là cái lạnh của đêm phương Bắc sẽ bién chiếc áo sơ mi ướt thành tấm áo giáp sắt.
    -Ôi ngóng qua!- Cô Bécti Mecxơlô vừa kêu to, vừa cởi áo chẽn ra.
    Và vì chiếc mũ chụp đã bị lệch sang một bên cô ta cũng cất đi nốt, làm xõa tung cả một mái tóc vàng.
    -Tại vì chúng ta đang ở đầu múi trái đất, quá gần mặt trời nên mới nóng ghê thế. Nó sắp sửa quay chính chúng ta mất!
    Cô ta cười ré lên. Đôi vú xinh xắn cao và nhọn, cùng với hai bờ vai hãy còn mảnh khảnh nhưng tròn và rắn chắc hiện lên sau chiếc áo sơ mi ngắn tay.
    Angiêlic ngồi gần đó hãy còn đắm chìm trong suy nghĩ liền ngẩng lên nhìn cô gái.
    “ Năm ta mười bảy tuổi chắc cũng giống con bé” – nàng nghĩ.
    Một trong những cô bạn của Bécti liền bắt chước ngay. Cô này cũng cởi áo chẽn và cởi luôn cả chiếc áo nịt bằng len mặc trong. Tuy không đẹp bằng con gái nhà Mecxơlô nhưng cô này mũm mĩm và nom đã ra dáng đàn bà. Chiếc áo sơ mi mở cổ quá rộng để hở cả bộ ngực.
    -Tớ lạnh – Cô bé reo lên- Ồ thế này thì vừa bị châm ,vừa được mặt trời ve vuốt. Thật là tuyệt!
    Một vài người lớn gượng cười để che đậy sự ngượng ngùng cũng như sự thích thú của họ.
    Angiêlic bắt gặp cái nhìn bối rối của Xêvêrin. Còn bé hơn những đứa khác, cô gái nhà Béc nơ đang cảm thấy bị choáng trước cung cách quá đáng của mấy cô kia. Nó biểu lộ sự phản kháng bằng cách xiết chặt quanh vai tấm khăn quàng đen.
    Qua cử chỉ ấy, Angiêlic biết rằng cô bé đang cảm thấy không bình thường. Angiêlic quay lại và nhận ra gã người Mo.
    Apdula đứng tựa vào cây súng khảm bạc, nhìn các cô gái trẻ với vẻ mặt rõ ràng đã báo trước một điều gì. Chưa bao giờ gã để mình bị thu hút bởi một quang cảnh thú vị đến thế.
    Đám thủy thủ có nước da bánh mật và nét mặt bặm trơn bắt đầu đi theo dọc các dây néo và tiến đến gần với một vẻ lãnh đạm giả vờ.
    Một tiếng còi của gã gù rít lên đưa họ trở về vị trí. Anh ta ném cho đám đàn bà con gái một cái nhìn hằn học rồi bỏ đi sau khi đã khạc nhổ về phía họ.
    Apdula là người đàn ông duy nhất vẫn ở tại chỗ. Khuôn mặt như tượng thần châu Phi đầy vẻ độc đoán của gã quay về với trái quả dục vọng, cô gái đồng trinh tóc vàng mà gã thèm khát từ mấy hôm nay, nỗi thèm khát đã bị mất đi từ lâu bởi cuộc sống gò bó trên biển.
    Hiểu rằng ngoài mình ra không còn ai là người lớn giữa cái đám mái choai khờ khạo này nữa, Angiêlic đành phải ra tay.
    -Cháu hãy mặc áo vào Bécti- nàng nói một cách khô khan, và cả cháu nữa, Rasen, các cháu điên cả rồi hay sao mà dám cởi áo ra trên boong như thế.
    -Nhưng mà trời nóng lắm- Bécti kêu lên và mở to cặp mắt mênh mông đầy vẻ ngây thơ- Chúng cháu chịu lạnh mãi rồi, tội gì mà không tận dụng cơ hội này hả cô.
    -Chuyện đâu phải là thế. Các cháu khêu gợi sự chú ý của đàn ông và như thế là nguy hiểm đấy.
    -Đàn ông à? Nhưng đàn ông nào mới được cơ chứ?- Cô bé phản kháng ngay lập tức khi vừa nghe câu nói khẩn cấp đó. Ồ, anh ta à- Cô ta nói như thể chỉ nhìn thấy có mỗi mình Apđula - Ồ, không phải anh ta!
    Cô ta cười phá lên, những tiếng cười lảnh lót nối tiếp nhau như một tiếng chuông nhỏ.
    -Cháu biết anh ta thích cháu mà. Chiều nào anh ta cũng tới khi mọi người tụ tập trên boong, và lần nào có thể được là anh ta đến gần cháu. Anh ta cho cháu những thứ quà tặng nho nhỏ: chiếc vòng cổ bằng hạt cườm, một đồng tiền nhỏ bằng bạc. Cháu nghĩ rằng anh ta coi cháu là nữ thần, cháu thích thế.
    -Cháu, cháu nhầm rồi. Anh ta coi cháu là đàn bà, có nghĩa là…
    Nàng ngưng lại để khỏi làm Xêvêrin và các cô gái còn trẻ hơn lo ngại. Những đứa trẻ hết sức hồn nhiên cho đến lúc đó vẫn được nuôi dưỡng bằng kinh Thánh và được bảo vệ bởi các bức tường dày của những tổ ấm Tin lành.
    -Mặc áo vào đi, Bécti- nàng vẫn nằn nì- Hãy tin cô, khi nào cháu từng trải hơn cháu sẽ hiểu ý nghĩa của sự thích thú ấy, và cháu sẽ đỏ mặt lên vì hạnh kiểm của mình.
    Béc ti không cần đợi đến lúc từng trải hơn mới đỏ bừng đến tận chân tóc. Bị chạm nọc khuôn mặt duyên dáng của cô ta biến dạng đi. Cô ta nói cùng với một cái bĩu môi độc ác.
    -Cô nói thế bởi vì cô ghen chứ gì…Bởi vì anh ta nhìn tôi mà không nhìn cô…ít ra thì cũng có một lần cô không phải là người đẹp nhất. Cô Angiêlic ạ, sắp đến lúc tôi sẽ là người đẹp nhất, ngay cả đối với con mắt của những người đàn ông khác hôm nay đang bái phục cô…Đấy, cô hãy nhìn xem tôi đã làm gì đối với những lời răn dạy của cô.
    Cô ta quay ngoắt về phía Apđula và tặng gã một nụ cười với hai hàm răng lấp lánh, đẹp như ngọc.
    Gã người Mo run hết cả người. Cặp mắt gã sáng lóe lên, trong khi đôi môi mấp máy một cách khó hiểu như để đáp lại nụ cười ấy.
    -Ôi con bé thật ngu ngốc! – Angiêlic kêu lên một cách giận dữ- Thôi ngay cái trò lếu láo ấy đi, nếu không cô sẽ mách bố cháu.
    Lời đe dọa tỏ ra có hiệu quả. Ông Mecxơlô không đùa bỡn với chuyện gia phong và thường hay bắt bẻ cô con gái rượu nhà mình. Vì thế cô gái đành phải miễn cưỡng cầm lấy chiếc áo chẽn. Rasen nhanh nhẩu hơn đã mặc ngay áo vào khi nghe những lời nhắc nhở đầu tiên của Angiêlic. Cũng như tất cả các cô gái trong cái cộng đồng nhỏ bé này, cô gái có một niềm tin sâu sắc ở người đầy tớ gái nhà ông Béc nơ. Sự hỗn láo đường đột của Bécti cứ như Rasen nghĩ- là một hành động phạm thượng, có hại đối với lũ trẻ.
    Nhưng Bécti chưa hết cơn ghen, vẫn không muốn thú nhận thất bại
    -A! Tôi biết vì sao cô cay độc như vậy rồi- cô ta đay lại – Ông chủ tàu không thèm thí cho cô một cái nhìn chứ gì…Ấy thế mà mọi người đều biết rằng cô ngủ cả đêm trong buồng ông ta đấy…Nhưng hôm nay ông ta lại thích tán tỉnh Abighen cơ.
    Cô ta cười phá lên như điên.
    -Ông ta không thích! …Mẹ gái già khô đét! Ông ta tìm được cái quái gì ở mẹ ấy?
    Hai hoặc ba cô bạn của Bécti phì cười theo một cách đê tiện.
    Angiêlic thở dài với vẻ nhẫn nhục.
    -Thật tội nghiệp, sự dại dột ở lứa tuổi các cháu quả là không tưởng tượng nổi. Các cháu không hiểu một chút gì về những cái xảy ra xung quanh mình và các cháu lẫn lộn lung tung trong những lời nói dông dài. Nếu không đủ khả năng tự phán xét mình, ít ra cũng nên học ở Abighen, một cô gái vừa đẹp vừa hấp dẫn. Các cháu có biết rằng khi Abighen cởi mũ, mái tóc cô ta xõa xuống đến tận sườn không? Các cháu, không bao giờ có một mái tóc đẹp như thế, kể cả cháu, Bécti ạ. Và còn hơn thế nữa, Abighen có một tâm hồn và trái tim cao cả. Trong lúc đó thì sự ngu ngốc của các cháu có nguy cơ làm chán ngán những người tình bị cuốn hút bởi sự trẻ trung của các cháu.
    Cảm thấy nhục nhã mấy cô gái lắm mồm đành đứng im thin thít. Họ chưa hẳn đã tin nhưng lúc đó không còn lí lẽ Bécti vừa uể oải mặc áo, vừa nhìn gã người Mo vẫn đứng nguyên tại chỗ nom như một pho tượng u ám trong chiếc áo choàng trắng đang phấp phới bay theo chiều gió.
    Angiêlic liền ném về phía gã một câu nói như ra lệnh bằng tiếng Ả rập.
    -Anh làm gì đó hả? Đi đi, chỗ của anh là bên cạnh ông chủ của anh cơ mà.
    Gã giật mình như vừa tỉnh giấc mộng, đôi mắt kinh ngạc nhìn người đàn bà đang nói bằng tiếng của mình. Sau đó dưới cái nhìn bởi đôi mắt xanh của Angiêlic nỗi sợ hãi lộ ra trên mặt gã, va gã trả lời như một đứa bé biết mình có lỗi.
    -Ông chủ tôi còn ở đây. Tôi chờ để đi theo khi ông ấy đi xa.
    Ngay lúc đó Angiêlic thấy Rescator bị Lơ Gan và ba người bạn của ông chặn lại ở chân cầu thang. Họ đang đứng đó nói chuyện với nhau.
    -Tốt. Này anh bạn, chúng tôi đi đây- nàng nói. Ta đi thôi các cháu.
    Nàng bỏ đi và kéo theo các cô gái.
    -Cái lão da đến ấy- Xêvêrin thì thầm với vẻ sợ hãi- Cô Angiêlic ạ, cô có để ý không? Lão ta nhìn Bécti như muốn nuốt tươi chị ấy cô ạ.
    Bốn người trong đám Tin lành tiến đến chỗ Rescator ngay khi ông vừa xuống hết cầu thang boong mũi. Một sự kiện hiếm có. Kể từ ngày xuất phát ở Larôsen, chưa một người Tin lành nào tìm cách đến gần và trò chuyện với ông.
    Kẻ hải hồ, không gốc rễ không tổ quốc, ngoài vòng cương tỏa ông làm sao có thể gây được mối thiện cảm ở những người tử tế ấy.
    Ngoài cuộc nói chuyện với ông Gabrien Bécnơ ông chưa hề có cuộc trao đổi nào với họ. Vì không được giải bầy, sự căng thẳng cứ ngày một tăng lên đối với những con người xa lạ đa nghi và hay dòm dỏ, họ dần dần trở thành thù nghịch đối với ông.
    Chính vì thế khi Lơ Gan và các bạn của ông này đến gần, Rescator đứng yên giữ thế thủ.
    Họ đứng trước mặt ông, mũ úp vào bụng đầu cắt ngắn và được chăm chút cẩn thận. Tất cả những khốn khổ vừa trải qua với chiếc sơ mi duy nhất khoác trên người cũng không đẩy được họ đi tới chỗ thích nghi với dáng vẻ tả tơi, rách nát vốn rất quen thuộc trong đám thủy thủ. Với những người này, dù có tặng họ một cặp kéo và một chiếc dao cạo cực sắc đi nữa, râu ria đầu tóc của họ vẫn cứ bù xù. Bởi vì họ phần đông là dân Địa trung hải và theo đạo Thiên chúa.
    Những ý nghĩ ấy làm Rescator mỉm cười trong khi mấy người kia vẫn giữ vẻ mặt lạnh tanh.
    -Thưa Đức ông- cuối cùng Lơ gan nói - thời gian thì gấp gáp trong khi chúng tôi lại ngồi không. Chúng tôi đến để xin ngài làm ơn nhận chúng tôi vào đoàn thủy thủ: Ngài đã biết nghề nghiệp của tôi là hoa tiêu rồi đấy, qua việc chúng ta đưa tàu qua eo biển hẹp. Trước đó tôi đã làm nghề hàng hải mười năm, là một thủy thủ có tay nghề. Tôi và những người bạn này sẽ có ích cho ngài, vì chúng tôi biết trong đoàn thủy thủ của ngài có hai người bị thương ở La rôsen và họ chưa thể trở lại làm việc được. Chúng tôi sẽ thay họ, các bạn tôi đây, và tôi.
    Ông này giới thiệu các bạn mình: Brêa, thợ mộc đóng tàu, Sarông, người cộng tác với ông ta trong họat động đánh cá ở La rôsen, đồng thời cũng là một thủy thủ, Marenguanh, con rể ông ta câm như một con chuột chũi nhưng không điếc, đã có thời gian chạy việc vặt trên tàu buôn trước khi làm nghề đánh cá và tôm rồng.
    -Chúng tôi biết biển và chân tay chúng tôi ngứa ngáy muốn làm việc.
    Lơ Gan có một cái nhìn thẳng. Giôphrây đờ Perắc vẫn còn nhớ như in khi ông ta đưa tàu qua luồng lạch khó khăn của eo biển Brơtông. Nếu một mối liên hệ giữa con tàu và những người Tin lành có thể được tạo lập thì chính Lơ gan đã đề ra.
    Thế nhưng ông ta vẫn ngần ngại trước khi gọi người thủy thủ trưởng để yêu cầu anh ta nhận thêm người mới.
    Nhưng lão gù dị dạng, còn lâu mới chia sẻ nỗi nghi ngờ với ông chủ, đã tỏ ra hết sức vui lòng. Một cái nhăn mặt giống như một nụ cười làm cái miệng bị chém hoác ra để lộ mấy chiếc răng sâu. Gã biết rõ là gã thiếu người. Sau khi có mấy người phải lên bờ ở Tây ban nha, số còn lại là vừa khẳm. Năm người bị thương ở La rôsen làm tình thế thật rắc rối. Có thể nói họ đang điều hành con tàu chỉ với một nửa số người cần phải có.
    -Các vị tình nguyện thế là tốt lắm – Rescator nói với bốn người La Rôsen- Các vị biết tiếng Anh chứ?
    Họ biết vừa đủ để hiểu các mệnh lệnh của gã gù. Ông ta giao mấy người cho gã rồi trở lại cầu thang đi lên lầu sau.
    ----------------
    Đứng tựa lan can bằng gỗ thiếp vàng, ông cũng chẳng quay đi để tránh những vệt sáng rọi tới từ khoang boong, nơi trú đỗ của những người Tin lành vừa đột ngột chìm vào đêm tối.
    Angiêlic ở đấy, giữa những con người mà ông cảm thấy thù nghịch. Phải chăng nàng đang cùng với họ chống lại ông? Hoặc ngược lại nàng cũng như ông, đơn độc giữa hai thế giới? Không ở bên này, không ở kia. Bóng tối thình lình bao phủ con tàu. Người ta đã đốt đuốc đốt đèn lên, Apđula quỳ mọp cạnh chiếc bình đất nung, đang thổi hồng rực các hòn than, với sự thận trọng của người nguyên thủy thức canh ngọn lửa vĩnh cửu.
    Nỗi buồn phương Bắc và những lo âu giữa các ranh giới phân cách địa cầu đang đè nặng lên trái tim kẻ giang hồ bốn biển, cũng như tất cả mọi người đi biển trên thế giới này, những kẻ táo tợn đang đi theo sự dẫn đường của những ngôi sao bất động và mò mẫm trên mặt biển lúc này đã trở nên mù mịt.
    Không còn sợ băng giá, không một dấu hiệu bào báo trước sẽ có bão. Nhưng tâm trí Giôphrây đờ Perắc vẫn chìm trong lo âu và phiền muộn. Lần đầu tiên trong cuộc đời đi biển của ông, con tàu không còn thuộc về ông nữa. Một ranh giới chia cách làm đôi. Các thuộc hạ của ông không được thoải mái, bởi họ cảm thấy ông chủ của họ đang lo lắng. Ông không còn khả năng để làm họ yên lòng.
    Trọng lượng của tất cả những con người ấy mà ông phải gánh là quá nặng và ông đang cảm thấy chán ngán.
    Ông đã biết những ngã ba của cuộc đời những giờ phút đi xong một chặng đường và đến đó phải chọn một hướng mới, bắt đầu lại từ đầu tất cả. Với ông, trong sự làm lại từ đầu, chỉ có tiếp tục, trên một con đường đã vạch và các viễn cảnh tự nó hiện ra từ từ trước mặt ông. Nhưng một đôi lúc, ông buộc phải dứt bỏ những hình hài của một cuộc sống cũ giống như con rắn lột bỏ lớp da cũ, vứt lại những mảnh vụn đầy lưu luyến những bạn bè thân thiết.
    Lần này, ông sẽ phải trả Apđula về với sa mạc, bởi vì gã không chịu nổi các cánh rừng phương Bắc. Vậy là Giađông sẽ đưa gã trở lại với những chân trời vàng rực của Địa trung hải, và cả vị đạo sĩ già Apden Mecrat nữa. Apđula người hầu cận luôn luôn cảnh giác, đã cứu mạng ông biết bao nhiêu lần. Đối với cái thói quen của ông chủ, gã tôn trọng không kém gì các nghi lễ thiêng liêng. “ Liệu ta có tìm được một người Môhicân để pha cà phê cho ta không nhỉ? Không, chắc chắn là không. Dầu sao ta cũng cứ phải để anh đi anh bạn ạ, để anh trở thành một ông già Ả rập”. Còn Apđen Mecrát, nghĩ đến ông lão, ông nhớ tới căn phòng được thửa riêng cho ông lão ngay dưới lầu sau, với đầy đủ mọi tiện nghi có thể có được.
    Thân hình gầy gò của ông lão, suy mòn vì sống khắc khổ, lọt thỏm vào giữa đống lông thú, ở đấy ông lão viết suốt ngày không biết mệt.
    Vào tuổi bảy mươi, nỗi khao khát hiểu biết của ông lão vẫn còn luôn luôn sắc nhọn như hồi nào, ông lão gần như van vỉ ông bạn Perắc để được đi theo nhằm tìm hiểu Tân lục địa, khi ông rời Địa trung hải. Vị đạo sĩ thông thái rất thích thú với việc làm một chuyến đi vòng quanh địa cầu để đổi mới các suy ngẫm. Mở rộng trí óc là việc tương đối hiếm ở một người theo đạo Hồi. Apđen mecrát hoàn toàn xứng đáng với sự khâm phục cuồng nhiệt của một người như Mulai Ismail, vị chúa tể của ông lão.
    Trong lâu đài tráng lệ nguy nga của mình lúc bấy giờ, Apđen Mecrát được coi là nhà thông thái hàng đầu, là vị thánh được tất cả mọi người ở Feđờ hết lòng ngưỡng mộ. Từ Salê, Giôphrây đờ Perắc đến đấy bằng kiệu. Ông lại về nằm dưới chân người bạn Ả rập của mình, không thể tưởng tượng nổi là mình còn sống sót sau cuộc hành trình hiểm nghèo và thấy mình một tín đồ Cơ đốc giáo kẻ bất trung bị phỉ nhổ lại ở giữa kinh thành Magrep bí ẩn. Nằm liệt giường, đầu óc ngán ngẩm vì nỗi đau thân xác phải chịu đựng, và mệt mỏi vì cuộc hành trình ông chỉ còn trông cậy vào sự nâng giấc và khuyên nhủ của những người xung quanh mà chính anh chàng da đen trung thành Cuxi Ba cũng đang sợ hãi vì thấy mình ở cùng với họ. “ Những người kia, bọn dã man hết” anh ta vừa nói vừa đảo cặp mắt trắng dã.
    Tuy nhiên, Apđen Mecrát, bạn ông, đúng là một người tốt. Ông đã gặp ông lão ở Grơnát, Tây Ban Nha. Ông nhớ lại bóng dáng gày gò của vị học sĩ Ả rập, được ủ trong chiếc áo dài màu tuyết và vầng trán hói trên cặp kính gọng sắt, tạo cho ông lão dáng vẻ của một con cú làm trò.
    -Tôi không thể tưởng tượng nổi là tôi lại ở trước mặt ngài và ở Feđờ - Giôphrây đờ Perắc nói thì thầm. Mặc dù cố hết sức ông cũng không thể phát lên được một âm thanh nào- Tôi nghĩ rằng chúng ta chỉ có thể gặp nhau ngoài bờ biển, gặp bí mật thôi. Vương triều Môrôcô đã mất thanh danh bất khả xâm phạm rồi hay quyền lực của các ngài đã sang tay các vị quốc vương không còn coi tín đồ thiên chúa giáo lọt vào đây chỉ có thể làm nô lệ hoặc chết? Những vinh dự mà mọi người dành cho tôi cho phép tôi tin rằng tôi sẽ không phải là nô lệ, mà cũng không phải chết. Ảo tưởng ấy liêu có còn kéo dài được hay không?
    -Chúng ta hãy cứ hy vọng thế, ông bạn thân mến của tôi ạ. Quả thật trường hợp của ông là ngoại lệ, vì ông có sự bảo hộ huyền bí mà tôi đã thu được trong canh bạc giữ ông lại vì mục đích khoa học. Nhưng để không làm mất đi niềm hi vọng mà người ta đặt vào ông, trước hết ông phải nhanh chóng trở thành người khỏe mạnh. Tôi đảm đương việc chữa chạy cho ông. Tôi cần phải nói thêm rằng đây là vấn đề sống hoặc chết đối với ông cũng như đối với tôi, bởi vì, có thể phải trả giá cho sự thất bại bằng chính cái đầu của mình.
    Mặc dù Perắc rất muốn biết rõ hơn lí do dẫn đến sự lo sợ đó, ông vẫn phải đợi đến cho đến lúc gần như đã lành hẳn mới có quyền được giải thích thêm.
    Còn lúc này, trách nhiệm của ông, Perắc là chữa lành bệnh, và ông đã dấn thân vào việc đó với một nghị lực bền bỉ, vốn là nền tảng tính cách của ông.
    Ông dũng cảm chịu đựng tất cả mọi săn sóc, chữa trị và tập luyện mà người bạn nhiệt tình đòi hỏi. Thích thú vì được lấy mình ra làm vật thí nghiệm khoa học, ông thêm bền gan mỗi khi có nguy cơ bị nỗi đau khổ và bấn loạn làm chán nản.
    Thọat đầu Apđen Mecrát cúi nhìn xuống vết thương với bộ mặt u ám, dần dần nó sáng lên trước cảnh tượng có ít nhiều hứa hẹn.
    -Lạy thánh Ala phù hộ - ông lão kêu lên- Vết thương ở chân trái của ông, cái vết thương nặng nhất ấy đã mở miệng ra rồi.
    -Nó mở từ mấy tháng nay rồi.
    -Vậy là thánh Ala phù hộ đấy- ông lão lặp lại- không những ngay từ bây giờ tôi có thể đảm bảo chữa lành mà tôi còn thấy trước rằng nhờ thế ông sẽ thoát khỏi cảnh tàn tật đã gây trở ngại cho cả một thời trai trẻ của ông…Ông không còn nhớ là hồi ở Grơnát, sau khi khám chân cho ông tôi đã nói răng giá mà tôi được săn sóc ông từ lúc ông hãy còn nhỏ, ông sẽ không bao giờ bị thọt sao?...
    Và ông lão đã cắt nghĩa cho ông hiểu rằng các thầy thuốc châu Âu chỉ tấn công vào mỗi một lớp vỏ ngoài của vết thương, rằng họ nhìn vết thương một cách hấp tấp, tức là chỉ thấy hiện tượng liền da rất nhanh ở mặt ngoài. Quan trọng gì đâu nếu sau lớp màng mỏng manh ấy mà thiên nhiên tự nó đã tìm cách dệt nên càng nhanh càng totó ấy, vẫn còn lại các hang hốc, thịt rách nát, thối rữa, nguyên nhân của sự teo đi và biến dạng không thể nào chữa khỏi. Các thầy thuốc A rập với sự trợ giúp của khoa học cổ đại do các pháp sư truyền lại, những người chữa bệnh của châu Phi, những người ướp xác Ai cập tính toán từng yếu tố một cho cái nhịp độ riêng của sự liền da. Vết thương càng sâu, càng phải biết cách hãm nó lại và chớ có vội vàng làm cho nó khỏi.
    Hoàn toàn vừa ý với những kết quả ban đầu Apđen mecrát còn cho ông biết rằng vì không gặp các nhà giải phẫu ông đã được lợi. Các dây chằng bị đứt gẫy, rách nát tự nó đã liền lại một cách hoàn hảo. Nhờ trời, ông đã tránh được tai biến khủng khiếp của chứng họai thư – tai biến duy nhất thực sự nguy hiểm đối với những cuộc điều trị kéo dài như thế. Mecrát chỉ hoàn thành nốt cái công trình khá hấp dẫn của ngài Ôbanh- tên đao phủ của nhà Vua nước Pháp tạo ra, và may thay còn được tiếp tục bởi muôn ngàn khổ nhục trong cuộc chạy trốn.
    Apđen mecrát làm tỉ mỉ công việc của mình như một người thợ kim hoàn ả rập. Ông lão nói: “Chẳng mấy chốc mà dáng đi của ông bắt các ông hoàng ngạo nghễ nhất của Tây ban nha phải kính nể…”.
    Quá mệt mỏi Giôphrây đờ Perắc không hỏi gì nhiều. Cũng may nhà thông thái Ả rập có một bộ óc hết sức tinh tế, đã hiểu được người bệnh của mình cho dầu có những hàng rào của hai nền văn minh ngăn cách họ. Cả hai đều cố gắng xích lại gần nhau. Vị đạo sĩ nói thông thạo tiếng Pháp và Tây ban nha. Còn vị bá tước Tuludơ có sẵn những kiến thức cần thiết về thế giới Ả rập mà ông hoàn thiện rất nhanh.
    Bao nhiêu thời gian đã lặng lẽ trôi đi như thế trong tòa lâu đài ở Magrep? Cho đến tận bây giờ ông cũng không biết. Nhiều tuần lễ? Nhiều tháng? Một năm?...Ông không tính nữa. Thời gian phụ thuộc vào bước đi của ông.
    Không một tiếng động nhỏ lọt đựoc vào tòa lâu đài đóng kín, nơi chỉ có những người giúp việc được dạy dỗ cẩn thận lướt đi một cách lặng lẽ. Thế giới xung quanh dường như không còn nữa. Dĩ vãng vừa qua với bóng tối và lạnh lẽo của ngục thất, mùi hôi thối của Pari hay nhà tù khổ sai mờ nhạt đi trong tâm khảm nhà quý tộc nước Pháp, đến nỗi nó chỉ còn xuất hiện dưới dạng một cái gì thô bỉ huyễn hoặc sinh ra từ những cơn ác mộng của người ốm.
    Hiện thực rõ ràng nhất là khoảng trời màu xanh đen, hương thơm của hoa hồng ngaò ngạt trong ánh sáng ban ngày, dịu dàng lúc hoàng hôn, hòa quyện với hương thơm của hoa trúc đào, và thỉnh thoảng của hoa nhài nữa.
    Ông vẫn đang sống!


    o0o



    Chương 17



    Cuối cùng đã đến lúc Alphen Mecrat nói về thế lực của những người bảo trợ đủ sức giữ ông, một người Thiên chúa giáo lọt vào giữa lòng thế giới Hồi giáo, trong một cái vòng đã được yểm trấn mà không một thế lực xấu xa nào có thể động đến. Qua những điều được vị thầy thuốc tiết lộ, ông biết rằng ván bài coi như đã thắng, và việc ông khỏi bệnh chỉ còn chờ ngày một ngày hai.
    Ông thầy thuốc Ả rập lúc ấy mới bắt đầu nói với ông về những cuộc chiến tranh, những cuộc phản loạn đẫm máu trên vương quốc Marôcô. Ông vô cùng kinh ngạc khi biết rằng ngay thành phố Feđờ cũng luôn luôn xảy ra những cuộc tàn sát kinh khủng. Ngay ở đây, chỉ cần trèo lên bức tường của lâu đài là đã có thể nhìn thấy các giá treo cổ và các cây thập tự được dựng gần như thường xuyên, chỉ có “khách hàng” là thay đổi mà thôi. Những biến động đưa tới sự suy tàn của triều đại Mulai acsy để rồi người em ông ta là Mulai Ismail cướp lấy quyền lực với sự tàn bạo của một con diều hâu trẻ. Ngay từ bây giờ Mulai Ismail đã là ông chủ rồi. Ông ta muốn dung nạp các họat động của nhà bác học lớn theo đạo Thiên chúa.
    Ông ta, hay đúng hơn là kẻ đại diện và hướng dẫn hành động của con người ngấp nghé ngôi vua này từ thuở ông ta hãy là một chú bé con: Vị thái giám của ông ta, Đại hoạn quan Osman Feraji.
    Ngự trị ngất ngưởng trên đỉnh cao quyền lực lúc đó hãy còn chao đảo, Osman Ferại một người da đen xuất thân từ nô lệ có gốc gác Ả rập, con người đầy tài trí mưu mẹo, biết rằng chuyện nòi giống của mình sẽ còn là mối lo dai dẳng nếu ông ta không tự biến mình thành một nhân vật không ai thay thế được.
    Ông ta đeo đuổi vô vàn những ý định khác nhau với sự khéo léo và chính xác của con nhện trong tấm lưới. Con nhện khi thì rung lắc một sợi tơ, khi thì văng mình ra và gút vào một sợi khác cho đến khi quây chặt con mồi và biến nó thành bất lực.
    Vị thái giám đen khôn ngoan để mắt đến mọi thủ đoạn của các hoàng tử và thần dân, bao gồm cả A rập, Becbe và Mo. Tất cả đều không biết gì về kinh tế, lại thận trọng, ghét nghề buôn bán, bị kiệt quệ do chiến tranh và do sự hoang phí. Trong lúc đó thì ngược lại, ông ta tinh vi và thành thạo buôn bán, quen điều khiển các tổ chức buôn bán kinh tế phức tạp nhất.
    Các cuộc chinh phạt của Ismail thu vào tay vị tân vương những vùng đất nổi tiếng ở hai bờ sông Nigiê, nơi ngày xưa các nô lệ của hoàng hậu Saba đã khai thác vàng. Thế lực của triều đại mới từ nay vươn tới tận các vùng rừng rậm của bờ biển Epixơ, nơi người ta vẫn còn thấy những người da đen trần truồng dưới bóng rợp của những cây gòn đại thụ, đãi vàng bằng nước suối và tìm vàng trong đá đã nghiền nát hay ở tận dưới đáy giếng sâu đến chín, mười mét.
    Osman Feraji nhìn thấy ở đó một con át chủ bài để đặt quyền lực dưới sự kiểm soát của mình, bởi vì chính cái đó đã làm nguy hại sự thống trị của vị quốc vương tiền nhiệm, do trước hết họ không biết một chút gì về việc cải cách tài chính. Quốc vương hiện tại cũng chẳng biết gì hơn, nhưng nếu các vùng mỏ cướp đọat được bằng lưỡi gươm của ông ta phát đạt như vào thời vua Sôlômông và hoàng hậu Saba, Osman có thể đảm bảo cho khả năng trị vì của ông ta được bền lâu.
    Osman Feraji cũng đã gặp thất bại đầu tiên khi những người được ông ta cử đến phía nam quay về, báo cho ông ta thái độ lừng khừng và tỏ ra không bằng lòng của các bộ lạc da đen. Họ không quan tâm đến vàng mà chỉ dùng vàng để dâng cúng thần linh của họ, làm một vài thứ đồ trang sức, loại y phục duy nhất dành cho đàn bà của họ. Nếu có ai tìm cách làm họ thay đổi ý định sẽ bị họ đầu độc ngay.
    Thế nhưng lại chỉ có những người ấy biết các bí mật của vàng. Dùng vũ lực bắt ép họ sẽ bỏ phế các mỏ, không khai thác gì nữa. Đấy là những phương sách cuối cùng của những kẻ bại trận.
    Giữa lúc đại hoạn quan đang hết sức lo lắng về chuyện đó, các điệp viên của ông ta đã chặn được lá thư của Giôphây đờ Perắc gửi cho vị đạo sĩ ở Feđờ.
    -Nếu ông ta là kẻ dị giáo trong đám bạn bè tôi, tôi bảo vệ ông cũng hơi khó đấy- Apden Mecrat cắt nghĩa- bởi vì một làn sóng cố chấp đang ào ạt nổi lên khắp Marốc, Mulai Ismail đang tự chứng tỏ ông ta là lưỡi gươm của Mahômét (tức là thích giết người). May sao mà trong thư ông có nói bóng gió về những việc làm trước đây của chúng ta liên quan đến các kim loại quý. Như vậy là lá thư rơi thật đúng chỗ.
    Những tinh tú được Osman Feraji hỏi đã báo trước với ông ta rằng Perắc là một sứ giả của Định mệnh. Nếu ông ta biết rằng uy quyền của vị tiên vương được xây dựng bởi sự vun đắp của mình sẽ lâu dài và cường thịnh thì các vì sao cho ông ta biết trong sự cường thịnh ấy, có một pháp sư, tuy xa lạ, khốn khổ đóng một vai trò quan trọng , vì cũng như vua Salômông, ông này nắm giữ những kiến thức thuộc về sự bí mật của Trái đất. Được ông ta hỏi, Apden Mecrát đã xác nhận những lời tiên tri ấy. Nhà bác học Thiên chúa giáo bạn của ông lão là người lão luyện nhất thời nay về các kỹ thuật làm ra vàng.
    Những chỉ lệnh của chính Mulai Ismail được ban ra lập tức nhằm bảo đảm cho con người bị săn đuổi trên quê hương nước Pháp của ông, được hưởng một số phận may mắn.
    -Con người ông từ nay dành cho đạo Hồi- Ông lão thầy thuốc Ả rập nói tiếp- Khi nào tôi báo cho ông biết là việc chữa bệnh đã xong ông sẽ đi sang Xuđăng cùng với một số người tùy tùng, và cả binh đội nếu ông thấy là cần thiết. Tất cả sẽ thuộc quyền ông. Để đổi lại ông phải làm sao để thật nhanh chóng đem về một số nén vàng cho ngài Đại hoạn quan.
    ----------------
    Giôphây đờ Perắc trầm ngâm suy nghĩ. Rõ ràng ông không còn một lựa chọn nào khác ngoài việc nhận phục vụ cho Vị quốc vương Hồi giáo và vị Thái giám của ông ta.Những đề nghị đó làm thỏa mãn mọi mong muốn của ông, mong muốn của nhà bác học cũng như của người lữ hành. Những nơi ông sẽ tới chính là quê cha đất tổ của Cuaxi Ba. Anh ta vẫn thường nhắc tới và ông cũng đã từng mơ ước từ lâu.
    -Tôi sẽ chấp nhận- cuối cùng ông nói- Tôi sẽ chấp nhận một cách sung sướng, một cách nhiệt tình nếu biết chắc chắn rằng ông ta sẽ không đòi hỏi gì thêm là tôi phải làm ra vẻ người Mo. Tôi không lạ gì thói cố chấp của những người thuộc phía ngài cũng như thuộc phía tôi. Chính vì cái đó mà suốt hơn mười thế kỷ, Thập giá và trăng lưỡi liềm ( thập giá là biểu tượng của đạo Cơ đốc, trăng lưỡi liềm là biểu tượng đạo Hồi) phải lao vào cuộc thánh chiến. Về phía tôi, tôi luôn luôn tôn trọng quyền của mỗi một con người tự chon lấy đấng sáng thế của mình để tôn thờ. Tôi mong rằng ông ta cũng có chung một cái nhìn như thế.
    -Tôi hiểu ý ông. Quả thật nếu chuyện chỉ liên quan đến Mulai Ismail, các mong muốn của ông ít có cơ may được chấp nhận. Chắc chắn ông ta thích tạo thêm một kẻ tôi tớ của thánh Ala trên thế gian này hơn là vàng để cất trong tráp. Thế nhưng Osman Feraji lại có những tham vọng khác. Trước hết cần phải phục vụ ông ta. Ông ta sẽ không đòi hỏi thêm bất cứ cái gì nữa đâu.
    Và ông già nhỏ bé dịu dàng nói tiếp:
    -Tất nhiên tôi sẽ đi cùng với ông. Tôi sẽ săn sóc sức khỏe vô cùng qúy giá của ông, giúp đỡ ông trong công việc và có thể tôi cũng sẽ không thừa trong việc giúp ông tránh khỏi một số khó khăn trắc trở nào đấy. Đất nước tôi khác đất nước ông, tôi không thể bỏ mặc ông được.
    Những năm tiếp theo đã chứng kiến việc nhà qúy tộc Pháp rong ruổi trên những miền đất nóng bỏng của Xuđăng và những nơi còn tăm tối hơn nhưng không kém phần nguy hiểm là vùng rừng rậm Ghinê và Xứ sở của loài voi.
    Công việc tìm tòi và khai thác vàng làm phức tạp thêm nhiệm vụ của nhà thám hiểm. Ông phải thâm nhập và những bộ tộc chưa từng biết. Ở đây các khẩu súng của đội bảo vệ xung quanh ông, làm cho người ta nổi giận hơn là tin tưởng. Ông biết cách chinh phục từng bộ lạc một chỉ bằng mối liên hệ duy nhất có thể tồn tại giữa ông và những con người man rợ trần truồng ấy: lòng mến chuộng sâu sắc đối với đất và những bí ẩn của đất. Khi ông nhận ra niềm say mê truyền kiếp từ bao đời, bắt buộc người da đen ở vùng này phải liều mình chui xuống lòng đất để thỉnh thoảng kiếm được vài mẩu vàng đem về cúng bái vật của họ là bức tượng đẽo bằng gỗ, ông cảm thấy họ thực sự là người anh em của ông.
    Ông đã ở một mình hàng nhiều tháng trời trong rừng rậm, nơi mà cả một số người của vùng sa mạc Sahara cùng đi với ông sợ hãi không dám ở, Cuaxi Ba cũng dừng lại ở bìa rừng. Ông chỉ còn mang theo Apđula, chàng trai có niềm tin nồng nhiệt và dứt khoát rằng vị đạo sĩ da trắng có “barakia” tức là bùa mê. Đội bảo vệ chủ yếu được dùng vào việc áp tải các chuyến xe chở vàng về phía bắc.
    Apden Mecrát cuối cùng đã khuyến khích ông quay về vì Đại hoạn qua Osman Feraji vô cùng thích thú trước kết quả mà vị đạo sĩ da trắng thu được, đã chuyển đạt lời yêu cầu của Mulai Ismail muốn được tiếp họ ở Mikennê, thủ đô của Vương quốc. Vào lúc đó, vị quốc vương đã thiết lập quyền cai trị một cách vững vàng. Những lợi ích thu được do quyền lực của mình làm ông ta hiểu được tường tận các vùng đất xa xôi ấy. Bản thân ông ta được một bà mẹ người da đen đẻ ra, và hiện nay ngôi chính thất của ông ta cũng là một cô gái Xuđăng. Nhiều chiến binh ưu tú được chọn lọc ở Xuđăng, ở Nigiê và vùng thượng sông Nin là nòng cốt của một đội quân hoàn toàn tận tụy với ông ta.
    Tiếp the sau những ngôi nhà đỏ quạch, man rợ dọc bờ sông Nigiê, là thành phố Mikennê, náo nhiệt, giàu có và đẹp đẽ, những khu vườn kỳ lạ, phô bày một cảnh tượng văn minh.
    Thói xa hoa của người Ả rập là Giôphây đờ Perắc thích thú. Bản thân ông đi vào thành phố cùng với đoàn hộ tống ăn mặc sang trọng nhất mang vũ khí tốt nhất mua được của người Bồ Đào Nha ở vùng bờ biển hoặc của người Ai cập trong nội địa, đã gây được một ấn tượng mãnh mẽ đối với Mulai Ismail.
    Một vị quốc vương hay ghen tị có thể sẽ bắt ông trả giá đắt cho cái thói ngông nghênh của mình. Mà điều đó thì bá tước Perắc đã có kinh nghiệm ở dưới một bầu trời khác, với vua Luy thứ 14 rồi. “ Vẫn chưa đủ lý do để ta phải từ bỏ ý thích của mình” ông nghĩ. Và trong lúc đi ngang qua thành phố trên con ngựa ô, mặc áo khoác lên trắng thêu ngân tuyến, ông chỉ ném một cái nhìn lãnh đạm về phía những người nô lệ thiên chúa giáo khốn khổ, đang oằn mình dưới trận mưa roi của bọn cấm vệ, những chiến binh ưu tú của vị Thống lĩnh các tín đồ. Mulai Ismail đón tiếp ông rất trọng thể. Từ lâu đã biết tiếng nhà bác học theo đạo Thiên chúa ông ta cảm thấy vinh dự được con người lỗi lạc ấy phục vụ mình mà không phải làm nhục bằng cưỡng bức hay tra tấn. Osman Feraji không dự cuộc diện kiến.Nhưng ông đã được mách bảo từ trước. Vị quốc vương tránh đề cập đến trước mặt khách vấn đề cốt tử của ngài là kéo về cho đạo Hồi một con người đại tài mà số phận bắt phải sinh ra ở một nơi lầm lạc.
    Ba ngày yến tiệc đủ để thắt chặt tình hữu nghĩ của hai người. Khi tiệc tan Mulai Ismail nói với Giôphây đờ Perắc rằng ông ta định cử ông làm sứ thần ở Công xtăng ti nốp, bên cạnh Đại quốc vương Thổ nhĩ kỳ. Thấy Giôphây đờ Perắc từ chối một cách khéo léo ông ta tỏ vẻ không bằng lòng.
    Cho dù đến nay ông ta vẫn còn là chư hầu của Đại quốc vương Thổ nhĩ kỳ và Ngài đã bắt đầu hỏi đến vị đạo sĩ da trắng. Ngài cũng muốn nắm được sự thần kỳ của việc tạo ra vàng.
    -Những kẻ hủ lậu ấy, những đức chân tín cuồng nhiệt ấy cho rằng tôi giam ngài vào một cái tháp và ở đấy ngài tạo ra vàng bằng phân lạc đà- Mulai Ismail vừa cười phá lên vừa phanh áo khóac ra tỏ vẻ khinh bỉ.
    Để quốc vương yên tâm Giổphây đờ Perắc nói rằng ông sẽ vẫn trung thành với sự nghiệp của ông ta,và rằng sẽ không nhận bất cứ một lời đề nghị nào có hại đối với vị chúa tể nước Ma rốc.
    Ít lâu sau ông đến Angiê. Sau ba năm làm một cuộc hành trình vĩ đại trong rừng rậm châu Phi, người cựu tử tù, tên tội phạm được cứu thoát một cách thần kỳ khỏi lò thiêu của đức vua nước Pháp, tự thấy mình thân thể lành lặn và được đổi mới, tâm hồn khoáng đạt vô cùng trên các bến bờ Địa Trung Hải.
    Trong ngần ấy năm tháng rồi qua, liệu ông có nghĩ nhiều đến Angiêlic người vợ của mình không? Số phận của vợ con có làm ông bận tâm quá không? Nói dúng ra ông rất hiểu tâm địa đàn bà, bất kể loại đàn bà nào. Cho dù họ có chửi mắng ông và thề thốt rằng họ là người có niềm tin vững chắc nhất thế giới đi nữa, thì họ vẫn chẳng bỏ cả đời người cho tiếc hận và cho những giọt nước mắt đau thương. Còn ông là kẻ nam nhi và thiên tính của ông là luôn luôn sống mãnh liệt. Hơn thế nữa, ông đã có một nhiệm vụ duy nhất được phân định là phải sống, nhiệm vụ đó lúc nào cũng đè nặng lên con người ông. Giổphây đờ Perắc nhớ lại những giờ phút mà nỗi đau thân xác đã tới độ dập tắt luôn cả ngọn lửa tinh thần. Lúc đó, chỉ còn ý thức được có mỗi một cái vòng vây chết chóc đang xiết chặt quanh mình: đói, khát, bệnh tật, sự hành hạ của những kẻ chống lại mình do đó phải tìm cách trốn thoát. Những lúc như vậy ông đã tự đẩy con người mình đi hơi xa.
    Một buổi tối ở Fedờ khi Giổphây đờ Perắc từ một cuộc cưỡi ngựa dạo chơi trên sa mạc trở về căn buồng dành cho mình trong lâu đài của Apden Mecrát ông hết sức ngạc nhiên khi nhìn thấy qua ánh trăng mờ ảo một cô gái trẻ đang đợi mình trên đệm. Cô ta có đôi mắt đep, hiền dịu và hơi ngơ ngác như mắt nai, đôi môi đỏ thắm màu hoa lựu hiện lên sau lớp mạng mỏng, và bộ quần áo trong suốt để lộ một thân hình hoàn hảo.
    Đã lâu rồi không nghĩ đến thú vui xác thịt người thầy giáo cũ của các lớp học tình ái của xứ Lăngơ6đốc lại cho rằng đây chỉ là trò đùa nghịch của cô hầu gái và định đuổi cô ta đi. Nhưng cô gái thì biết rõ trách nhiệm của cô là được ngài pháp sư sai đến để giải sầu cho vị khách từ nay có thể hiến dâng đàn bà sức lực tràn đầy đã lấy lại được hoàn toàn nhờ sự săn sóc của ngài.
    Thọat đầu ông mỉm cười với cô ta. Ông nhìn cô ta cởi móc tấm mạng, trút bỏ xiêm y với sự đơn giản thành thạo của một kẻ có nghề, rồi cô ta làm duyên và ngả và lòng ông một cách hết sức tự nhiên. Thế rồi các mạch máu lại căng lên đập nhanh và mãnh liệt, ông lại tìm thấy trong mình nỗi thèm khát đàn bà.
    Cũng giống như chiếc bánh cuốn hút ông khi ông sắp chết đói, dòng suối cuốn hút ông khi ông sắp chết khát, ôm chặt trong lòng mình tấm thân thoang thoảng mùi hương long não và hoa nhài, đêm ấy ông tự thấy mình đã sống lại hoàn toàn.
    Cũng chính trong đêm ấy, kỉ niệm về Angiêlic lần đầu tiên trở lại với ông mạnh mẽ và đau nhói đến mức làm ông không thể ngủ tiếp được.
    Cô gái vẫn nằm ngủ bình yên, hơi thở nhẹ tưởng chừng không nghe thấy.
    Ông nằm duỗi dài trên tấm nệm và nhớ lại. Lần cuối cùng ông ôm ấp một người đàn bà, người đó là nàng. Angiêlic, vợ của ông, nàng tiên nhỏ vùng đầm lầy Poatu của ông, thần tượng có đôi mắt xanh của ông.
    Suốt cả đêm ông chìm đắm vào những kỉ niệm. Ông tự hỏi mình về số phận của nàng. Không có gì phải lo lắng. Ông biết nàng đã trở về với gia đình, không đến nỗi cô đơn hoặc thiếu thốn. Trước đó không lâu ông đã giao cho Môlin, người chung vốn làm ăn với mình ngày xưa ở Poatu, chịu trách nhiệm cung cấp tiền nong cho người vợ trẻ trong trường hợp mình gặp tai họa. Chắc nàng phải ẩn náu ở quê nhà cùng với hai con – ông tự nhủ.
    Đột nhiên ông cảm thấy mình không còn đủ kiên nhẫn để chịu đựng cái vực thẳm im lìm và sự tan vỡ rơi xuống giữa hai người. Một ham muốn nhục thể mãnh liệt dựng ông dậy trên giường. Ông quờ quạng tìm kiếm quanh mình một phương cách ma quái nào đó có thể vượt qua được sự vây hẵm của sự tàn phá, và trở lại những tháng ngaỳ qua, với những đêm dài ông đã bế nàng trong tay mình.
    Khi lấy vợ ở Poa tu ông đã ba mươi tuổi, đã khá chán chường với các cuộc phiêu lưu tình ái, ông không chờ đợi sự kiện ấy, bản khế ước hôn nhân ấy, đem lại cho mình một cái gì của buổi ban đầu.Ông đã sửng sốt vì sắc đẹp của nàng, lại càng sửng sốt hơn khi khám phá ra nàng hãy còn trinh. Trước ông, nàng chưa hề biết đến một người đàn ông nào khác. Cô gái đẹp rực rỡ ấy đã đón nhận niềm vui xác thịt đầu tiên với sự ngạc nhiên và kinh hãi như một con hoẵng non hoang dã, điều đó đã trở thành một kỷ niệm đẹp đẽ nhất trong tình yêu của ông.
    Từ đó trở đi những ngườiđàn bà khác đã không tồn tại với ông, những người đàn bà của hiện tại, của quá khứ. Phải khó khăn lắm ông mới nhớ lại được họ tên và khuôn mặt của những người ấy.
    Ông biết tình yêu, biết khoái lạc. Ông còn biết những cái gì khác nữa không thể nói thành lời mà một người đàn ông có được với một người đàn bà. Những mối dây liên hệ đã bện chặt hai khối óc, hai trái tim. Ông đã được chứng kiến những đổi thay trong con mắt nhìn của nàng, thân thể và cử chỉ của nàng. Ba năm, ông ôm nàng trong cánh tay mình. Nàng sinh cho ông một đứa con trai, nàng có mang đứa thứ hai. Liệu đứa con ấy có được sinh ra không?
    Từ đó ông không lúc nào không cần đến nàng. Đối với ông không còn ai hơn nàng. Và bây giờ ông đã mất nàng.
    Ngày hôm sau thấy ông có vẻ rầu rĩ, Apden Mecrát hỏi han rất cặn kẽ. Ông lão nói rằng nếu những trò tiêu khiển như vậy đem lại cho người bệnh sự thoải mái, không gây nên thất vọng và lo âu thì khoa y học có thể dùng nó để chữa bệnh. Giổphây đờ Perắc cố làm yên lòng người thầy thuốc của mình nhưng ông không thổ lộ nỗi đau của mình. Mặc dù giữa hai người có sự tương hợp nhưng họ vẫn không thể hiểu nhau. Tình cảm sâu sắc là điều hiếm có đối với người theo đạo Hồi. Họ coi đàn bà chỉ là đồ chơi, không có ích lợi gì khác ngoài nhục dục, và không chừng ông lão còn cho thay bằng một người đàn bà khác cũng nên.
    Giổphây đờ Perắc cố xua đuổi nỗi ám ảnh. Ông luôn luôn tự biết tách mình đúng lúc khỏi sự cám dỗ, coi đó như là sự mềm yếu, không để sức mạnh tình yêu cản bước mình trên con đường tự do và sự nghiệp.Liệu ông có còn được gặp lại Angiêlic vói hai bàn tay mịn màng, với nụ cười lấp lánh phô hai hàm răng trắng như ngọc đã từng làm ông mê mẩn hay không?
    Ông có thể làm gì được? Chạy đến với nàng ư? Không nói đến chuyện tù tội, chả lẽ ông không biết rằng mặc dù được quan tâm rất chu đáo, ông làm gì có tự do để thoát ra khỏi sự giám hộ của những con người đầy quyền lực là quốc vương Mulai Ismail và vị thái giám của ông ta, những người đang nắm vận mệnh của ông trong tay.
    Ông đã vượt qua được thử thách, thời gian, lòng kiên nhẫn sẽ cho phép ông đến một ngày nào đó, tìm lại được người vợ mà ông chưa bao giờ quên- ông tự nhủ với mình như vậy.
    Khi trở về biển Địa Trung hải việc làm đầu tiên của ông là gửi một bức thư về Macxây để hỏi thăm về tin tức người vợ, hoặc giả tìm tung tích nàng và hai đứa con. Sau khi suy đi tính lại kỹ càng, ông quyết định không để lộ mình với các bạn cũ hay những người cùng giới quý tộc trong vương triều nước Pháp. Đã lâu lắm rồi có lẽ những người ấy đã quên ông.
    Ông chỉ gửi thư cho cha Ăngtoan, linh mục tuyên úy trên đoàn tàu Galê hoàng gia, yêu cầu ông này trở lại Pari tìm luật sư Đêgê. Chàng trai tháo vát và thông minh, khá dũng cảm bảo vệ ông trước phiên tòa đã chiếm được lòng tin của ông.
    Trong lúc chờ đợi ông phải đi đến Côngxtăngtinốp. Trước hết ông tìm một người thợ thủ công người Tây ban nha ở Bon, thửa một số mặt nạ bằng da mịn và cứng để che giấu bộ mặt của mình. Ông không muốn để mình bị nhận dạng. Do tình cờ có thể đưa ông đến chỗ chạm trán với người của Đức hoàng thượng nước Pháp cũng như các đại diện của vô số bà con anh em thuộc tầng lớp dòng dõi trong đám quý tộc nước ngoài. Chỉ riêng trong các Hiệp sĩ xứ Mantơ ông đã có những hai người bà con. Địa trung hải, đại đấu trường của các cuộc giao tranh chống những kẻ phản đạo, thu hút bao nhiêu là tước hiệu của châu Âu. Dưới ngọn cờ Bácbari, tình thế của ngài cựu lãnh chúa Tuludơ lúc này quả thật trớ trêu. Bị những người Thiên chúa giáo săn đuổi, ông hòa nhập vào thế giới đạo Hồi, lực lượng chống đối đã hơn một thế kỷ nay, bằng trò chơi cân bằng của họ, đánh dấu sự tiến bộ thụt lùi của việc truyền bá đạo Thiên chúa. Do sự sa sút tinh thần của thế lực này, những người Thổ thuộc đế quốc Ôtôman đã đáp lại bằng cách tràn ngập các nước cho đến lúc đó vẫn là đạo gốc. Xécbi, Anbani,Hy lạp. Từ đấy, chỉ vài năm sau nữa, họ sẽ đến gõ cánh cổng vàng của thành Viên- thiên chúa giáo. Các hiệp sĩ Thánh Giăng của Giêdudalem lần lượt mất đảo Crete, rồi đảo Rốt, chỉ còn giữ được mỗi mẩu đảo Mantơ.
    Nhưng, Giổphây đờ Perắc vẫn đến bên cạnh đại quốc vương Thổ Nhĩ kì. Không một phút đắn đo nào làm hỏng được ý định của ông. Quả thật vấn đề không phải là ông mang sự giúp đỡ của người Thiên chúa giáo đến cho kẻ thù. Ông có một chủ định khác ở trong đầu.
    Sau các cuộc tiếp kiến với Quốc vương của các quốc vương và các cố vấn trong hội đồng của nhà vua, ông đóng đại bản doanh ở Candi, trong một tòa lâu đài nằm ở ngoại vi thành phố. Trong khi chờ mở tiệc tại đấy, ông được thông báo rằng có thư từ Pháp gửi sang. Các nỗi bận tâm biến đi trong chốc lát. Ông bỏ các quan khách để chạy đến trước mặt gã đầy tớ người ả rập “ Đi tới đây! Vào nhanh lên, nói đi!”
    Gã đầy tớ trao cho ông một lá thư của cha Ăng toan.Nhà tu hành kể vắn tắt bằng lối hành văn cố tỏ ra ý khách quan, kết quả của cuộc điều tra mà ông ta đã tiến hành ở Pari. Qua luật sư Đêgê cha biết rằng cựu nữ bá tước đờ Perắc, vợ góa của một nhà quý tộc mà tất cả mọi người đều nghĩ rằng đã chết thiêu ở quảng trường Grevơ đã tái giá với một người anh em họ của nàng là hầu tước Plexi beli. Nàng đã có một đứa con trai với ngươi chồng ấy, đang sống trong Triều đình ở điện Vecxây, nơi nàng được hưởng điạ vị tôn kính.
    Ông vò nát tờ giấy trong tay.
    Trước hết là đừng nghĩ đến chuyện đó nữa! Không thể được!...Rồi buộc phải công nhận từ từ cái sự thật hiển nhiên đó., ông phát hiện ra như nhìn thấy qua một tấm màn rách rằng mình đã ngây thơ biết bao khi không hình dung được sớm hơn một kết cục như thế. Hẳn là không còn gì tự nhiên hơn. Chẳng lẽ một góa phụ trẻ đẹp sắc sảo như vậy lại chôn vùi đời mình trong một lâu đài cổ tỉnh lẻ để dệt thảm như nàng Penelope à?
    Cầu cạnh, nịnh bợ, lấy chồng, xênh xang ảo não ở Triều đình nước Pháp số phận nàng là như thế mà. Sao không nghĩ đến điều đó sớm hơn? Sao không sửa soạn trước để đón cú sốc này? Sao còn đau khổ nhiều đến thế? Tình yêu làm con người ta ngớ ngẩn. Tình yêu làm con người ta mù lòa. Và điều đó chỉ có nhà bác học, bá tước đờ Perăc là không biết mà thôi.
    Phải chăng là vì ông đã quá quen hơi bén tiếng nên mới không bao giờ thoát ra được khỏi ảnh hưởng của nàng? Cuộc sống và đàn bà là những thứ luôn luôn dao động.Đáng lẽ ra ông phải biết thế. Một con người bị ruồng bỏ, và từ đấy chẳng còn một chút quyền lực gì nữa, há còn đòi hỏi sự trung thành của những kỉ niệm này sao? Thế là người đàn bà ông yêu, vợ ông , sự nghiệp của ông, của cải của ông nay dâng cả cho người khác.
    Cúi gập người xuống, ngồi im như hóa đá, Giổphây đờ Perắc nắm chặt lá thư trong lòng bàn tay như thể muốn xiết chặt những ngón tay quanh cái cổ trắng ngần của Angiêlic.
    Sau đó ông phá lên cười. Nhưng tiếng cười lại tắc nghẹn trong cổ ông và làm ông nghẹt thở. Bởi vì từ cái ngày bị vỡ giọng, ông không thể cười một cách dễ dàng như trước nữa. Riêng vết thương đó là Apden Mecrát không chữa nổi. Ồng lão chỉ có thể làm cho giọng nói của ông dễ nghe hơn một chút mà thôi. Không cười được nữa, không hát được nữa ông có cảm tưởng như mình bị giam trong một chiếc cùm sắt.
    Tiếng hát làm nỗi đau trong tâm hồn được phóng thoát. Thế là bây giờ ,và những năm tháng sau này nữa, lồng ngực ông sẽ dồn ứ những tiếng gào thét không thể thốt ra.



Trang 1/3 123 cuốicuối

Thread Information

Users Browsing this Thread

Hiện đang có 1 tv xem bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • Bạn không được quyền đăng bài
  • Bạn không được quyền trả lời bài viết
  • Bạn không được quyền kèm dữ liệu trong bài viết
  • Bạn không được quyền sửa bài
  •