ĐÁP ÁN
Câu "Tà tà bóng ngả về tây" của thi hào Nguyễn Du cần được đổi lại ra sao để tăng thêm giá trị ngữ pháp ?
"Về tây" cần được đổi lại vì:
1/ Cụ Nguyễn Du dụng ngữ "Tà tà" rất súc tích:
_ Tà tà ( tt ): ( Bóng mặt trời, mặt trăng ) hơi xiên và chếch, thấp dần xuống về phía tây khi sắp hết ngày hoặc đêm.
Trải bao thỏ lặn ác tà. ( Kiều )
Trời hôm xế bóng tà tà. ( Nhị độ mai )
_ Tà tà ( pht ): Thong thả, không vội vàng, từ từ.
Có đêm ra đứng đàng tây,
Nom lên lại thấy bóng mây tà tà. ( Ca dao )
Như thế, theo định nghĩa, trong "tà tà" đã sẵn có "về tây".
Tuy vẫn có thể lập lại "về tây" nhưng nó bị câu thúc ở thế đơn điệu và phí đi hai từ chủ yếu.
Hai từ chủ yếu này phát xuất từ đâu ?
2/ Từ ngữ đồng nghĩa và tương đương với "tà tà" :
_ Đủng-đỉnh ( pht ): Khoan thai, ung dung, thong thả.
Đợi chàng chẳng thấy chàng đâu,
Bóng trăng đủng đỉnh ra màu khơi trêu. ( Ca dao )
_ Đủng-đỉnh ( dt ): Tên khoa học Caryota mitis, thuộc họ hóa Pagometalopic - 2ZK ( Xét theo quả và bột ở sát gốc ).
Cây thường mọc ở chân núi đá vôi, thung lũng ẩm hay ven rừng, cao từ 2 tới 10 mét, có nhiều sợi và bẹ lá.
Lá dùng làm áo tơi, nón hoặc trang hoàng khi có tiệc tùng, dài từ 1,5 tới 3 mét, có nhiều lá chét mọc cách, dai, cuống chung to khía rãnh, phiến hình thoi.
Cụm hoa dày đặc, quả hình cầu nhẵn và đen.
Thân ở sát gốc có ít bột, ăn được.
Đủng đỉnh còn được gọi là đùng-đình.
Tóm lại, "tà tà" tương quan chặt chẽ với "đùng đình" qua các định nghĩa và phân tích trên.
Khi bóng mặt trời ngả về tây thì bóng cây đùng đình cũng ngả theo.
Đùng đình giữ vai trò trung gian, điều hợp và chủ động của điệp khúc ngữ pháp hoàn chỉnh vì thế nó tránh được nét đơn điệu khô cứng của "về tây".
"Đùng đình" thanh tân như một kiều nữ ngữ pháp.
Câu thơ trên được đổi là :
Tà tà bóng ngả đùng-đình.