PDA

Xem đầy đủ chức năng : Tái Sanh Duyên - Mộng Bình Sơn



danthy
09-03-2006, 12:44 AM
Tình Sử Mạnh Lệ Quân

Hồi Thứ Nhất


Xuân tình phát dậy chốn Bồng Lai,
Thần tiên chịu nếm mùi trần tục.

Thời ấy, có tướng Mông Cổ là Hốt Tất Liệt võ nghệ siêu quần, tài năng bạt tụy lại thêm thao lượt toàn tài nên thường đem binh sang quấy nhiễu Trung Quốc. Vua Tống là Triệu La dốc hết lực lượng ra chống cự nhưng không tài nào đánh lui được quân địch.
Trong cơn nguy cấp ấy, nhờ có vì tôi trung tên Văn Thiên Tướng bảo phò chạy trốn đến vùng Phúc Kiến gầy dựng lại cơ nghiệp nên Triệu La ở ngôi được 23 năm. Về sau, Hốt Tất Liệt lại cử binh gia phạt một lần nữa, vua Tống phải chạy đến núi Cang Châu rồi thọ bịnh thăng hà.
Bấy giờ có Lục Tú Phu là tôi trung, liền tôn người con thứ ba là Bỉnh lên nối ngôi, đóng đô tại núi Nhai Sơn. Quân Mông Cổ hay tin cố tìm bắt, Lục Tú Phu phải phò vua vượt biển lánh nạn. Đế Bỉnh không chịu nổi cảnh sống bềnh bồng cực khổ nên bỏ mạng. Thế là Bỉnh làm vua chưa đầy một năm, lại rủi không con kế nghiệp nên nhà Tống đến đây đã tuyệt. Chúa Mông Cổ sang tức vị xưng hiệu là Nguyên trào Thế Tổ.
Lúc ấy trên thượng giới đang mở hội bàn đào. Ngọc Hoàng Thượng Đế triệu tập chư tiên, chư thần về dự yến ẩm, vui say cảnh nước nhược non bồng.
Chấp Phất Nữ Tiên Cô một mình đang lững thững trên đền Linh Tiêu xảy thấy Đông Đẩu Tinh Quân xuất hiện, đôi mắt sang như pha lê, mặt trăng rằm, râu dài suôn đuột, mình mặc khối vàng muôn phần đẹp đẽ. Nàng Tiên Cô liếc mắt nhìn Đông Đẩu Tinh Quân đầy vẻ tình tứ, miệng nở một nụ cười như hoa lài chớm nở. Đông Đẩu Tinh Quân cũng cảm thấy con tim rạo rực trước nhan sắc diễm kiều của Tiên Cô.
Thế là ngọn lửa ái tình bắt đầu bùng cháy…
Đông Đẩu Tinh Quân bước tới thỏ thẻ:
- Tiên Cô ôi! Nếu Tiên Cô có long tưởng đến tôi như vậy, hai ta hãy cùng nhau xuống phàm trần đầu thai, có dịp chung sống với nhau để đáp lại tiếng gọi của tình yêu, chẳng biết Tiên Cô nghĩ sao?
Chấp Phất Nữ long như nở hoa, mỉm miệng cười, đáp bằng giọng tình tứ:
- Nếu được như vậy thì hân hạnh cho bần đạo biết bao!
Rồi hai người nắm tay nhau trao câu ân ái, xảy có Phần Hương Nữ Tiên Cô đi trờ tới thấy vậy cảm thấy động lòng trần, lên tiếng nói:
- Hai người làm như vậy không sợ kẻ khác sanh lòng ghen ghét ư?
Hai nàng Tiên Cô này vốn là bạn chí thân, nên vừa dứt lời, Chấp Phất Nữ với tay nắm tay Phần Hương Nữ, thân mật nói:
- Chúng tôi định cùng nhau xuống phàm trần đầu thai kết duyên chồng vợ, vậy đạo hữu hãy xuống đó luôn thể để chị em ta cùng nhau nâng khăn sửa túi Đông Đẩu Tinh Quân không tiện hơn sao?
Phần Hương Nữ cũng đã để ý đến Đông Đẩu Tinh Quân từ lâu, nay nghe bạn mình nói vậy mừng rỡ đáp:
- Nếu chị có lòng tốt như vậy, em nguyện xuống đầu thai làm thứ nhất để cùng nhau chia chút ái ân.
Cả ba đều hiệp ý nên thích chí cười xòa, bỗng có một Tiên Cô từ phía sau bước tới thình lình vỗ vai Phần Hương Nữ nói lớn:
- Chốn Thiên đình đâu phải là chỗ trao ân tình tự? Nay ta quyết vào tâu với Ngọc Hoàng để người trị tội cho mà xem!
Cả ba nghe nói thất kinh quay lại nhìn, thì ra vì Tiên Cô ấy không ai xa lạ, chính là Bỉnh Khuê Tiên Nữ, người hầu giá đức Ngọc Hoàng.
Đông Đẩu Tinh Quân năn nỉ:
- Đạo hữu có thể nhẫn tâm thật vậy sao?
Lúc nãy giờ Bỉnh Khuê cố ý làm nghiêm để dọa ba người chơi, bây giờ trông thấy Đông Đẩu Tinh Quân quá sợ hãi, nàng cảm thấy thương hại liền cười xòa đáp:
- Nói chơi vậy thôi chứ bần đạo đã đem lòng thương mến ngài từ lâu, nhưng không dám thố lộ tâm tình, nay nếu ngài có thương tình, bần đạo cũng xin theo sau hai chị ấy để cùng hưởng ái ân nồng đượm, cho phỉ dạ ước ao bấy lâu nay.
Đông Đẩu Tinh Quân nghe nói như trút một gánh nặng ngàn cân, bèn đem ý định đầu thai xuống phàm trần tỏ lại cho Bỉnh Khuê nghe.
Bỉnh Khuê nói:
- Dầu sao hai chị cũng là người đến trước, bần đạo là kẻ đến sau, vậy xin nguyện xuống đó đứng vào hàng thứ ba trong cuộc tình duyên này vậy.
Chấp Phất Nữ và Phần Hương Nữ đồng thanh nói:
- Chúng tôi bao giờ dám định thấp cao.
Bỉnh Khuê lắc đầu:
- Giải quyết như vậy là đúng theo lẽ phải. Nhưng thôi! Chúng ta chớ nên phân định nhiều lời, e khi thấu đến tai Ngọc Hoàng, cuộc tình duyên của chúng ta tan vỡ mà còn bị quở phạt nặng nữa đấy.
Mọi người đều khen phải, rồi cùng nhau đằng vân giá võ xuống chốn hồng trần thực hiện theo tiếng gọi của con tim.
Sau đó Ngọc Hoàng ngự ra chánh điện, chư thần vào triều bái xong xuôi, bỗng có một vị thần bước ra quì tâu:
- Muôn tâu Ngọc Đế, hạ thần là Củ Soát Linh Quan vừa điều tra được một việc nên xin tâu lên cho Ngọc Đế đặng tường. Vừa rồi có Đông Đẩu Tinh Quân cùng Chấp Phất Nữ có đính ước với nhau định xuống phàm trần đầu thai kết phàm phu phụ, lại có Phần Hương Nữ và Bỉnh Khuê cũng xin theo xuống làm tiểu thiếp. Việc này quả là một việc dâm ô nên hạ thần không thể bỏ qua được.
Ngọc Đế nghe tâu, nổi giận phán:
- Bấy lâu nay, phàm tiên hạ giáng xuống hồng trần đều được hưởng phú quí vinh hoa, đến khi thâu hồi về thượng giới lại đặng thành chánh quả, nên nay trong hàng thần tiên lại sanh lòng tà vậy. Vậy từ nay kẻ nào muốn giáng trần phải chịu trăm đường cực khổ, nếu kẻ nào làm tròn trung, hiếu, tiết, nghĩa mới đặng thâu về thượng giới, bằng không phải bị đày xuống địa ngục chịu cực hình.
Phán đến đây, Ngọc Hoàng quay lại bảo Thái Bạch Tinh Quân đem sổ tra xét xem dưới phàm trần có kẻ nào tích đức tùng thiện đặng cho Đông Đẩu Tinh Quân cùng ba vị Tiên Cô đầu thai và bắt chịu trăm đường cực khổ.
Thái Bạch lật sổ xem xét hồi lâu rồi tâu:
- Hiện nay có vị Nguyên soái triều Nguyên tên Hoàng Phủ Kính trải mấy đời làm lành mà không con nối dõi, nhưng số trời đã định mười lăm năm sau Hoàng Phủ Kính phải bị tai họa trong ba năm, rồi nhà tan cửa nát, sau đó mới được đoàn viên hưởng phú quí.
Ngừng một lát, tra xét thêm rồi Thái Bạch tâu tiếp:
- Cũng trong triều Nguyên có quan Binh bộ Thượng thơ Mạnh Chiêu, tự là Sĩ Nguyên, và một nhà hàn nho tên Tô Tín Nhơn, cả hai cũng đã mấy đời tu nhơn tích đức không kém. Trước đây đã có ngọc chỉ sai Kim Đờng xuống đầu thai làm thế tử để lên ngôi cửu ngũ nhà Nguyên và Ngọc Nữ đầu thai làm Chánh cung Hoàng hậu, nhưng vì Kim Đồng đã đính ước với Chức Nữ nên Chức Nữ giáng sanh làm con gái họ Lưu hòng chiếm ngôi Hoàng hậu. Chẳng may Chức Nữ bạc phước không hưởng thọ lâu dài. Vậy nay xin Ngọc Đế hãy cho Ngọc Nữ xuống giữ lấy ngôi Hoàng hậu ấy.
Thái Bạch Tinh Quân tâu dứt lời Ngọc Đế truyền chỉ cho Đông Đẩu Tinh Quân phải xuống đầu thai làm con Hoàng Phủ Kính, Chấp Phất Nữ đầu thai làm con gái Mạnh Chiêu, lại phú cho tài cao học rộng đặng làm chánh thất Đông Đẩu Tinh Quân, nhưng cái duyên ấy phải bảy nổi ba chìm, hiệp ly, ly hiệp rồi sau mới đoàn tụ.
Còn Phần Hương Nữ làm con gái Lưu Tiệp, Bỉnh Khuê Nữ làm con gái Tô Tín Nhơn, để sau này nâng khăn sửa túi cho Đông Đẩu Tinh Quân, còn về Ngọc Nữ (chị của Đông Đẩu Tinh Quân), hiện nay ngày giờ gấp rút, cần phải cho cả hai chị em xuống đầu thai một lượt (song thai) cho kịp thời nối ngôi chánh hậu ấy.
Truyền phát dứt lời, Ngọc Hoàng di giá về cung.
Bây giờ xin nói việc trong triều vua Thế Tổ nhà Nguyên có một vị trung thần tên Hoàng Phủ Kính, tự là Đình Sơn, văn võ toàn tài, sức mạnh vô song, tướng mạo phương chi, dung nghi lẫm liệt, trán rộng, tai to, mắt sáng ngời, mặt đỏ, râu dài. Nguyên Hoàng Phủ Kính người huyện Giang Lăng, năm mười tám tuổi thi đõ Võ Trạng, qua năm mười chín tuổi lãnh binh đi chinh phạt Bắc Phiên, đến hai mươi tuổi đắc thắng hồi trào được Nguyên Thế Tổ phong làm chức Kinh dinh Binh mã Đại Nguyên soái.
Hoàng Phủ Kính có vợ là Doãn Thị, vợ chồng ăn ở với nhau ngót ba năm mà không con, nên vợ chồng thường đêm ngày cầu trời khẩn Phật trông mong đặng sanh quí tử.
Quả thật trời, Phật không bao giờ phụ người lành, nên Doãn Thị cầu khẩn chưa được ba tháng đã thọ thai. Nhưng lạ thay, Doãn Thị có mang trên mười tháng trời vẫn không thấy khai hoa nở nhụy. Vợ chồng thấy thế lấy làm lo ngại.
Thời gian cứ nặng nề trôi qua đúng một năm trời; hôm ấy vào ngày rằm tháng tám, bữa cơm chiều chưa xong, Doãn Thị nghe trong bụng quặn đau, bỏ vào phòng nằm yên.
Qua hết canh một, bỗng thấy nữ tì chạy ra báo với Hoàng Phủ Kính:
- Thưa lão gia bây giờ phu nhơn đau bụng rên la dữ lắm.
Hoàng Phủ Kính vội sai người đi rước mụ bà rồi bước vào phòng thăm vợ, Doãn Thị thấy chồng vào vội nói:
- Phu quân ôi! Tôi mới vừa nằm mộng thấy một điềm chiêm bao lạ lùng lắm. Khi tôi đang thiu thiu ngủ bỗng thấy ba người mão cao áo dài đến bảo rằng Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy nhà ta đã ba đời tích thiện, nên sai Ngọc Nữ và Đông Đẩu Tinh Quân xuống đầu thai. Ba người nói xong biến mất, lại thấy một vị Thần Quân và một nàng Tiên nữ đến níu áo tôi gọi bằng thân mẫu. Tôi giựt mình tỉnh dậy trong bụng đau thắt đến bây giờ.
Phu nhân nói dứt lời lại ôm bụng rên la. Hoàng Phủ Kính truyền cho mụ bà và tỳ nữ chăm lo săn sóc rồi bỏ ra nhà ngoài.
Phủ Kính vừa bước ra khỏi cửa phòng đã thấy hai tên gia nhơn chạy vào báo:
- Bẩm lão gia, không hiểu sao bỗng dưng trên mặt trăng tỏa ra một đạo hào quang chiếu thẳng xuống mái nhà mình, thật là một điềm lạ lùng!
Hoàng Phủ Kính nghe nói lấy làm lạ, lật đật chạy ra xem, thì quả nhiên đạo hào quang chiếu sáng khắp bốn phía nhà.
Ông ta nghĩ:
“Thế thì đứa trẻ sắp sanh đây chắc là quí tử”.
Còn đang suy nghĩ, bỗng thấy con tỳ nữ chạy ra bẩm:
- Phu nhơn vừa sanh đặng một vị tiểu thơ, mà trong lúc sanh mùi hương tỏa ra thơm nức mũi, căn phòng lại sáng rực lên.
Nghe nói sanh con gái, Hoàng Phủ Kính hơi bất bình, nhưng rồi lại nghĩ:
“Đã có điềm nguyệt hoa chiếu sáng thế này thì dù trai hay gái cũng không phải hạng tầm thường”.
Vì nghĩ vậy, lòng ông cũng cảm thấy dễ chịu; kế đó con tỳ nữ khác chạy ra bẩm:
- Phu nhơn sanh rồi nhưng vẫn còn đau bụng, mụ bà lại bảo phu nhơn còn sanh một vị công tử nữa.
Hoàng Phủ Kính nghe nói vội bước ra sân xem trăng, thì thấy ánh hào quang bây giờ đã phai mờ, ông ta lẩm bẩm:
“Đứa trai này tuy không được tốt bằng đứa gái kia, song cũng không phải hạng tầm thường”.
Tiếp theo đó lại có tin phu nhơn trổ sanh công tử rồi, Hoàng Phủ Kính bước thẳng vào phòng trông thấy Doãn Phu nhơn thân hình vẫn tráng kiện, hai đứa bé đứa nào cũng dễ thương và giống nhau như đúc, lòng ông như nở hoa, căn dặn vú phải hết lòng chăm nom cẩn thận.
Ngày giờ thắm thoát trôi qua, mới đây mà ăn lễ đầy tháng. Các quan trong triều rải rác đến chúc mừng rất đông. Hoàng Phủ Kính chọn tên cho hai trẻ, ông nghĩ nhớ lại lúc sanh tiểu thơ nguyệt hoa rực rỡ nên đặt Trưởng Hoa, còn lúc sanh công tử nguyệt hoa đã phai mờ nên đặt là Thiếu Hoa.
Tháng ngày như thoi đưa, thắm thoát đã năm năm qua, tiểu thơ và công tử mặt mũi xinh đẹp lạ thường, nhất là Trưởng Hoa dung nghi tề chỉnh, ăn nói đoan trang; Hoàng Phủ Kính quý như vàng ngọc, hằng ngày chăm lo truyền dạy văn chương, hai trẻ đã sẵn trí thông minh lại chăm học nên tiến bộ mau chóng.
Qua năm sau, vào khoảng giữa xuân, khi Hoàng Phủ Kính tấn triều, bỗng thấy quan Huỳnh môn quỳ tâu:
- Vừa rồi có quan Tuần phủ Vân Nam dâng biểu văn về cáo cấp rằng: Vua Thổ Phiên Ngột Tòng Đào đem binh sang cướp phá biên cương nên thượng tấu xin binh cứu viện.
Hoàng Phủ Kính đứng chầu, nghe nói liền bước ra quì tâu:
- Bệ hạ lên ngôi chưa được bao lâu mà Thổ Phiên đã khinh thường dám đem binh cướp phá biên thùy, nếu không kịp thời tảo thanh, chúng sẽ lộng hành nguy hiểm. Hạ thần tuy bất rài, song nếu bệ hạ phát binh, xin nguyện ra sức.
Nguyên Thế Tổ nghe tâu, mừng rỡ phong cho Hoàng Phủ Kính làm Đô đốc Vân Nam Đại Nguyên soái, thống lãnh hai muôn binh đi bình giặc Thổ Phiên.
Hoàng Phủ Kính lãnh chỉ lui về điểm binh mã, rần rộ kéo thẳng đến Vân Nam.
Đến nơi, quan Tuần Phủ Vân Nam là Trương Thiệi Hùng mở cửa thành binh tiếp. Hoàng Phủ Kính hỏi:
- Hành động quân giặc ra thế nào?
Trương Thiệu Hùng đáp:
- Trước đây bọn Thổ Phiên Ngột Tòng Đào thường đem binh đến cướp phá luôn luôn, nhưng từ ngày nghe tin Nguyên soái sẽ đem binh đến, chúng có phần kiêng nể nên rút binh đóng quân cách đây chừng năm mươi dặm.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Bọn Thổ Phiên có nhiều giống, nhưng chỉ có giống Ngột Tòng Đào này là dữ tợn hơn hết, nếu ta phá được toán quân này, tất nhiên bọn khác phải kinh sợ rút lui ngay.
Sáng sớm hôm sau, Nguyên soái Hoàng Phủ Kính thăng trướng, truyền cho phó tướng Phùng Nhựt Thăng lãnh năm ngàn quân kéo đến mai phục phía tả đồn giặc. Tham tướng Thi Tổ Vinh cũng lãnh năm ngàn quân kéo đến mai phục phía hữu, khi nào nghe tiếng pháo nổ là ùa ra vây đánh.
Hai tướng lãnh lịnh đi rồi, Nguyên soái lại khiến hai tướng Trương Phùng Đấu và Hồng Công Cử dẫn mỡi người hai ngàn quân kéo đến phía sau lưng dinh trại địch, chờ khi nào có tiếng pháo lịnh thì xua quân áp tới đốt phá cho hết lương thảo của chúng.
Bây giờ xin nói qua chúa Thổ Phiên có một vi Nguyên soái tên Xích Phong Bất Hoa, sức mạnh đánh muôn người, thường dùng cây phương thiên họa kích nặng ngàn cân, dưới trướng lại có hai viên đại tướng là Hàn Khởi và Hình Thăng thảy đều võ nghệ cao cường, thương pháp tinh thông, vì vậy chúa Thổ Phiên Ngột Tòng Đào nghe tin Hoàng Phủ Kính kéo binh đến liền rút quân cách năm mươi dặm truyền hạ trại rồi nói với chư tướng:
- Ta nghe đồn Hoàng Phủ Kính là tay kiện tướng của Nguyên trào, lâu nay chiến đấu vô cùng lão luyện, vậy nay hắn đến đây thế nào cũng cùng chúng ta quyết định, chư tướng phải cẩn thận lắm mới được.
Xích Phong Bất Hoa nói:
- Trước kia Hoàng Phủ Kính thắng được Bắc Phiên chẳng qua là dịp may mắn chứ có tài giỏi gì đâu? Để biết rõ tài cao thấp, tôi đề nghị ngày mai chúng ta kéo binh đến giao phong với hắn một trận cho biết.
Ngột Tòng Đào gật đầu khen phải rồi truyền quân sĩ chuẩn bị sẵn sàng để hôm sau ra binh.

Lời Bình:
- Người ta thường bảo sự ước vọng của con người vô cùng tận, hẽ đứng núi này thường trông núi nọ. Đã thành tiên tất nhiên không còn gì sung sướng hơn nữa, song lắm lúc vẫn còn thiếu hai chữ tình yêu. Thế thì “ái tình” quả là vị chúa tể oai quyền, nó chỉ huy cuộc sống, nó ngự trị trên mọi tâm hồn, nó có đủ quyền lực làm cho người ta phải sa đọa. Vì thế, chính Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng thông cảm mãnh lực của ái tình nên không trách cứ Đông Đẩu Tinh Quân hay một vì tiên nữ nào khác, ngài phải chọn lựa chỗ đầu thai xứng đáng cho mấy người để rồi bắt buộc họ phải sống một cuộc tình duyên đầy éo le, đó là một hình phạt, chú Ngọc Hoàng cũng không đủ sức để cấm hẳn không cho họ thực hiện theo tiếng gọi của con tim.
Tác giả Tái Sanh Duyên muốn nêu lên sức mạnh của ái tình đến thế, tưởng đã tuyệt bút rồi.


Hồi Thứ Hai

Hoàng Phủ Kính vẫy vùng Vân Nam trấn
Tần Thừa Ân dẫn mối Mạnh Tiểu thơ.

Hôm sau, chúa Thổ Phiên Ngột Tòng Đào định đích thân dẫn binh ra trận, bỗng thấy Xích Phong Bất Hoa quì tâu:
- Hà tất chúa công phải thân chinh làm chi cho nhọc sức? Thiết tưởng một mình hạ thần cũng đủ sức tiêu diệt chúng rồi.
Ngột Tòng Đào nói:
- Cần phải có ta xuất trận tướng sĩ mới chịu hết lòng, Nguyên soái chớ nên khinh địch.
Ngột Tòng Đào nói rồi mang giáp lên ngựa kéo binh xông ra khỏi trại thì đã thấy quân Nguyên kéo đến sắp đặt hàng ngũ đâu ra đó chỉnh tề rồi.
Sau khi một tiếng pháo nổ vang, binh Nguyên bỗng rẽ ra làm hai, từ phía sau xông ra một viên đại tuớng, mình mặc chiến bào, cỡi con bạch mã, tay cầm giáo, bên tả đeo cung, bên hữu mang tên, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm. Phía sau lại có trương cây cờ lớn đề một hàng chữ “Võ Trạng nguyên Đô đốc Đại Nguyên soái Hoàng Phủ”.
Xích Phong Bất Hoa thấy thế giục ngựa lướt tới gằn giọng hỏi:
- Ngươi có phải là Hoàng Phủ Kính không?
Hoàng Phủ Kính gật đầu:
- Phải, còn ngươi là ai, xưng rõ tên họ trước khi dâng đầu cho ta.
Xích Phong Bất Hoa giận dữ vỡ ngực đáp:
- Xích Phong Bất Hoa Đại tướng là ta đây, tài cán ngươi bao nhiêu dám múa rìu qua mắt thợ.
Nói chưa kịp dứt lời, Xích Phong Bất Hoa đã vung kiếm đâm thẳng vào mặt Hoàng Phủ Kính, Hoàng Phủ Kính vung giáo đỡ vẹt ra rồi hai người đánh vùi với nhau chưa đầy vài hiệp đã nghe một tiếng pháo nổ vang. Bên tả Phùng Nhựt Thăng, bên hữu Thi Tổ Vinh xua quân đánh nhầu ra một lượt. Quân Phiên bị đánh bất thình lình, hoảng hốt bỏ chạy tán loạn.
Xích Phong Bất Hoa cảm thấy sức mình không thể cự nổi Hoàng Phủ Kính, lại thấy quân ình cả loạn nên đâm bậy một kích rồi quày ngựa chạy dài.
Lúc ấy, Ngột Tòng Đào lại hay tin lương thảo của mình bị quân Nguyên thiêu hủy hết, thất kinh quày ngựa bỏ chạy. Hoàng Phủ Kính xua quân đuổi theo đến mười dặm mới đánh trống đắc thắng thâu quân trở về.
Về đến trại, Nguyên soái Hoàng Phủ Kính truyền quân sĩ nấu cơm ăn no nê, đặng chờ cho trời tối đi đánh tiếp một trận nữa.
Hoàng hôn vừa phủ xuống, Hoàng Phủ Kính đã phân công cho Phùng Nhựt Thăng đem binh đánh vào phía tả, Thi Tổ Vinh đánh vào phía hữu, còn mình thì bản thân dẫn đại binh đánh thẳng vào đại dinh của Thổ Phiên.
Lịnh truyền ra, quân sĩ rần rộ kéo đi như vũ bão.
Khi Ngột Tòng Đào chạy về đến dinh trại kiểm điểm lại binh tuớng thì thấy chết mất một đại tướng là Hàn Khởi, còn binh mã hao mấy ngàn, quân bị thương không biết bao nhiêu mà kể.
Ngột Tòng Đào mười phần buồn bực, một mình chong ngọn đèn lo lập mưu kế để chống lại quân Nguyên. Qua đến canh ba, bỗng bên ngoài dinh nổ lên một tiếng pháo long trời, rồi quân Nguyên từ ba mặt la ó vang trời dậy đất đánh rốc vào một lượt.
Ngột Tòng Đào và Xích Phong Bất Hoa đều thất kinh, vội vã mang giáp lên ngựa xông ra.
Nhờ có ánh lửa soi sáng, Xích Phong Bất Hoa trông thấy Hoàng Phủ Kính đang đứng trong trận điều khiển quân sĩ, nên vội xông nhào tới. Tướng Nguyên là Trần Thượng Cử thấy vậy vội vung giáo đón Bất Hoa lại giao chiến.
Lúc bấy giờ hai cánh quân của Phùng Nhựt Thăng và Thi Tổ Vinh từ hai bên đánh vào rát quá, khiến Xích Phong Bất Hoa cảm thấy lính quýnh, bị Hoàng Phủ Kính lướt tới đâm một giáo trúng ngay yến hầu té nhào xuống ngựa chết tốt. Tướng Phiên Hình Thăng thấy vậy lòng nóng như lửa đốt vung đại đao xông vào, bị Trần Thượng Cử đâm một giáo thủng tới sau lưng rồi vít ra xa lắc. Hoàng Phủ Kính khiến quân cắt lấy thủ cấp hai tướng Phiên rồi đốc quân ùa vào chém giết binh Phiên thây nằm chật đất, máu chảy thành sông. Binh Thổ Phiên thất kinh hồn vía vỡ chạy, quân Nguyên rượt theo đến hai mươi dặm mới chịu trở lại.
Sau trận đại thắng, Hoàng Phủ Kính truyền mở tiệc khao thưởng, cho tướng sĩ nghỉ ba ngày để dưỡng sức rồi sẽ ra binh.
Trận ấy Ngột Tòng Đào chạy xa đến ba mươi dặm mới dừng chân; sau khi kiểm điểm đám tàn binh thì thấy quân mình hao hơn phân nửa, lại bị mất Nguyên soái Xích Phong Bất Hoa cùng rất nhiều đại tướng.
Ngột Tòng Đào rơi lụy than:
“Ta không ngờ Hoàng Phủ Kính tài giỏi đến thế. Ta đã thua tiếp hai trận, tinh thần binh tướng đã nhược, biết tính sao đây?”
Thừa tướng Cát Siêu Nhân tâu:
- Tôi còn sợ Hoàng Phủ Kính có thể thừa thắng đem quân nã ta nữa, mà hiện giờ binh tướng ta đã mất tinh thần rồi, làm thế nào có thể chống cự nổi. Chi bằng sai sứ đến cầu hòa, lập kế hoãn binh rồi ngày sau sẽ liệu.
Ngột Tòng Đào khen phải, viết một hàng thư đổ lỗi cho Xích Phong Bất Hoa, đoạn sai Thổ Kim Tinh mang đến dinh Nguyên xin hàng.
Thổ Kim Tinh lãnh thư đi thẳng đến dinh Nguyên xin vào ra mắt để dâng hàng thư, quân sĩ chạy vào báo, Hoàng Phủ Kính truyền cho vào. Thổ Kim Tinh vào khép nép quì bẩm:
- Chỉ vì Chúa công tôi nghe lời Xích Phong Bất Hoa nên mới đem binh xâm phạm Thiên triều, nay Xích Phong Bất Hoa tử trận, chúa công đã biết ăn năn tự hối nên sai tôi mang hàng thư kính dân lên Nguyên soái, mong Nguyên soái rộng lòng dung cho chúa tôi một phen, chúa tôi về nước sẽ mang lễ vật sang dâng nạp và đầu hàng.
Thổ Kim Tinh nói dứt lời, hai tay dâng bức hàng thư lên, Hoàng Phủ Kính tiếp lấy giở ra xem rồi gật đầu bảo:
- Được rồi, ta cũng lấy lòng quảng đại dung thứ cho chúa ngươi, nhưng ta hạn cho trong vòng một tháng phải mang đồ cống lẽ sang, bằng bê trễ ta sẽ cử binh sang gia phạt.
Thổ Kim Tinh bái tạ, lui về báo lại vớii Ngột Tòng Đào. Ngột Tòng Đào mừng rỡ vội truyền quân nhổ trại kéo về nước, Hoàng Phủ Kính cũng thâu binh hồi thành rồi viết biểu sai người mang về trào báo tiệp.
Độ nửa tháng sau đã thấy Ngột Tòng Đào sai Thổ Kim Tinh mang đồ cống lễ sang, Hoàng Phủ Kính liền sai Phùng Nhựt Thăng đưa Thổ Kim Tinh đến kinh cho tướng Phiên bái yến Thiên tử.
Thổ Kim Tinh vào triều bái tung hô rồi dâng lên nhiều ngọc ngà châu báu, vua Thế Tổ nhà Nguyên mừng rỡ phán:
- Đã hai lần Hoàng Phủ Kính bình phục được Thổ Phiên. Trẫm muốn triệu va rút quân về triều, chẳng hay các khanh nghĩ sao?
Hữu Thừa tướng Kỳ Thạnh Đức bước ra tâu:
- Bệ hạ mới lên ngôi cửu ngũ, lòng dân chưa được yên ổn cho lắm, vả lại chỗ Vân Nam là nơi trọng trấn, cần phải để cho Hoàng Phủ Kính trấn giữ luôn tại Vân Nam mới được.
Nguyên Thế Tổ khen phải rồi lập tức hạ chỉ phong cho Hoàng Phủ Kính làm Đô đốc Vân Nam Binh mã Đại Nguyên soái để trấn giữ mãi mãi ở Vân Nam.
Tiếp đặng thánh chỉ, Hoàng Phủ Kính sai Tổng binh Trần Thượng Cử đem bớt binh mã về kinh, đồng thời rước gia quyến ra Vân Nam.
Từ đó vị Nguyên soái họ Hoàng trấn thủ Vân Nam hết lòng dạy dỗ dân tình và siêng năng hết mực, đem lại thái bình cho dân trong tỉnh.
Nhân lúc nhàn hạ, ông lo dạy dỗ hai con. Ngày giờ thấm thoát thoi đưa, chẳng bao lâu Trưởng Hoa và Thiếu Hoa tuôi đang đôi mươi, hai chị em nhờ trí thông minh nên tuy tuổi còn nhỏ mà nghề văn nghiệp võ thảy đều lão luyện. Ngày kia hai chị em trò chuyện với nhau, Trưởng Hoa nói:
- Chị đây là gái, dù có giỏi văn thơ gẫm chẳng ích chi, nên chị muốn lo việc nữ công và theo thân phụ học thêm võ nghệ để giữ mình. Còn phần hiền đệ thì nên chăm lo đèn sách để sau này lập thân.
Thiếu Hoa nói:
- Chị nói vậy sao phải. Vả chăng chúng ta là con nhà võ tướng, trước khi thân phụ mới mười tám tuổi đã thi đỗ Trạng nguyên, thế thì em phải luyện võ nghệ để nối gót theo người chớ.
Trưởng Hoa suy gẫm rồi gật đầu khen phải. Sua đó hai chị em bày tỏ chí hướng mình cho Hòang Phủ Kính nghe. Hòang Phủ Kính thấy con mình có chí hiếu học nên mừng rỗ vô cùng bè nói với Trưởng Hoa:
- Tuy con là hạng quần thoa nhi nữ, song con có sức mạnh, lại có khiếu về võ thuật, nếu con dốc lòng luyện tập võ nghệ chắc mai sau sẽ trở nên một nữ tướng hữ dụng cho quốc gia đấy.
Rồi từ đấy hai chị em bắt đầu tập cỡi ngựa bắn cung và thao luyện võ nghệ, không một giờ phút nào xao lãng. Đến khi hai chị em lên mười lăm tuổi cả hai võ nghệ đều tinh thông. Bắn cung bá phát bá trúng, thương pháp xuất quỷ nhập thần.
Hòang Phủ Kính thường khoe với phu nhơn:
- Phải chi triều đình cho con gái vào thi thì chắc Trưởng Hoa Tiểu thơ của chúng ta đây đỗ Trạng nguyên đấy chớ chẳng phải chơi.
Dõan Phu nhơn nói:
- Nếu như lời giới thiệu của phu quân thì nhà ta hữu phước biết bao, nhưng hiện nay chúng nó đã trưởng thành mà việc nhơn duyên chưa định đôi nơi nào, thật tôi lấy làm lo lắng.
Hòang Phủ Kính nói:
- Việc ấy phu nhơn hãy an tâm, vì khi sanh Trưởng Hoa đã có điềm hào quang chói rạng, hương thơm ngào ngạt, tất nhiên tướng mạng nó sau này sẽ được đại phú, đại quí. Phàm trời đã sanh ra kỳ nữ bao giờ cũng đã định sẵn nhơn duyên rồi, ta chớ nên vội vã.
Phu nhơn nói:
- Việc con gái thì mười hai bến nước trong nhờ đục chịu, phó mặc cho trời đã đành, còn việc con trai thì phải liệu sao đây?
Hòang Phủ Kính nói:
- Tuy phước mạng công tử không sánh nổi với tiểu thơ song cũng không phải là hạng tầm thường, tôi đã để ý một nơi xứng đáng rồi.
Phu nhơn hỏi vội:
- Chẳng hay phu quân định chọn nơi nào cho con vậy?
Hòang Phủ Kính đáp:
- Quan Binh bộ Thượng thơ Mạnh Sĩ Nguyên có một người con gái tên Mạnh Lệ Quân, năm nay mới mười lăm tuổi, tài mạo kiêm tòan thật xứng đáng là dâu nhà ta.
Phu nhơn nghe nói lấy làm đẹp dạ, liền hối thúc:
- Nếu Mạnh Thượng thơ có con gái tài mạo như thế thì ta nên cậy người đến cầu thân kẻo lỡ cơ hội thì uổng lắm.
Hòang Phủ Kính khen phải, liền viết thư cậy quan Bố chánh là Tần Thừa Ân đến xin cầu hôn.
Xin nói qua Mạnh Sĩ Nguyên vốn người huyện Côn Minh tỉnh Vân Nam, lúc mười bảy tuổi đã thi đỗ Võ khoa Tấn sĩ, về sau được thăng đến chức Binh bộ Thượng thơ, vợ là Hàn thị đến năm bốn mươi tuổi mới sanh được hai người con. Người con trai lớn tên Mạnh Gia Linh và một người con gái nhỏ tên Mạnh Lệ Quân. Mạnh Gia Linh khi mới lên mười một tuổi cũng thi đổ Võ khoa Tấn sĩ, được bổ làm quan ở Hàn lâm viện, vợ y là Phương thị cũng con nhà võ tướng.
Vừa rồi bà thân mẫu của quan Binh bộ Mạnh Sĩ Nguyên qua đời, nên cả hai cha con đều cáo quan về thọ tang, có lẽ nay hạn tang đã mãn, nhưng hai cha con còn ở nhà chưa đến kinh.
Bây giờ xin nhắc lại lúc Hàn Phu nhơn mang thai Mạnh Lệ Quân đã đi tìm mướn được một người vú rất chân thật để khi sanh ra người ấy nuôi dưỡng.
Thuở ấy, tại huyện Côn Minh có nàng Đỗ thị, lúc nhỏ theo đòi nghiên bút và học tập nữ công, năm Đỗ thị lên mười lăm tuổi kết duyên với một kẻ hàn nho tên Tô Tín Nhơn, tự là Tiểu Tòan. Tô Tính Nhơn vốn chăm chỉ học hành, tháng ngày miệt mài kinh sử, nhưng số phận đen bạc nên không lập được công danh, chỉ trông cậy vào một tay Đỗ Thị hẩm hút cháo rau cho qua ngày tháng.
Năm Đỗ thị được hai mươi lăm tuổi thì có thai. Một đêm nằm mộng thấy người đàn bà mặc áo đỏ dắt theo một nàng tiên nữ đến bảo Đỗ thị:
- Tuy chồng ngươi cố công đèn sách song không có phần khoa danh, lại không được hưởng dương trường thọ. Nay ta đưa Bỉnh Khuê Nữ này đến đầu thai làm con gái nhà ngươi, để sau này ngươi được cậy nhờ sung sướng.
Đỗ thị tỉnh giấc chiêm bao sanh đặng một người con gái vô cùng xinh đẹp, đặt tên là Tô Yến Tuyết. Đỗ thị biết chắc sau này con mình thế nào cũng được vinh hoa phú quí nên cố sức nuôi dưỡng.
Qua năm sau Tô Tín Nhơn thọ bịnh qua đời; Đỗ thị quyết một lòng thủ tiết thờ chồng nên tìm nơi xin làm nhũ mẫu để có điều kiện dưỡng nuôi con trẻ.

Lời Bình:
Ngột Tòng Đào đã biết Hoàng Phủ Kính một tay lợi hại nên rút quân đóng dinh cố thủ, thế mà khi Hoàng Phủ Kính đem binh đến nơi lại không điều tra thám thính, để cho Hoàng Phủ Kính phục kích không hay, còn nghe lời Xích Phong Bất Hoa khinh thường Hoàng Phủ Kính thì đại bại là đáng lắm. Phàm việc binh gia, đã không tìm hiểu để biết tình hình giữa ta và địch, lại còn khinh địch thì không đời nào thắng nổi.
Các bà phu nhơn thời bấy giờ, khi đặt thai vào dạ đã phải lo đi tìm người vú nuôi, vì đó là một việc làm rất quan trọng. Chẳng những phải tìm một người có sức khỏe để có sữa tốt để cho con mình mau lớn mà thôi, còn phải lựa người tánh tình nhơn hậu, lễ phép đoan trang, vì đứa bé lớn khôn gần gũi bà vú nhiều nhất, nếu bà vú hư thân mất nết, tất nhiên con mình cũng thế, vì vậy tuyển chọn một người vú nuôi cũng khó khăn như tuyển một người vợ hiền vậy.
Nàng Đỗ thị quả là hạng đàn bà tảo tần, đủ sức cáng đáng việc tề gia nội trợ, có vậy bà mới có thể một tay làm nuôi ông chồng ăn học miệt mài kinh sử, nhưng không may chồng qua đời, tuổi nàng còn đang độ xuân xanh, mặc dầu nàng thủ tiết thờ chồng, nhưng đã dễ gì ở vậy được? Người ta thường bảo “gái không trai dỗ lâu buồn cũng xiêu”. Nàng Đỗ thị có đủ tài làm nuôi chồng ăn học tất nhiên nàng cũng đủ sức nuôi con chứ? Song nàng biết mình không thể sống trong hòan cảnh côn đơn này trong lúc con ong cái bướm bay dập dìu trước cửa như thế được.
Vì vậy việc nàng đi ở vú cho vị Binh bộ Thượng thơ họ Mạnh không phải nàng đi tìm miếng cơm manh áo mà chính nàng đi tìm chỗ dung thân để có điều kiện thủ tiết thờ chồng nuôi con. Thế thì Mạnh Sĩ Nguyên kính trọng nàng, lại truyền cho gia quyến không ai được khinh nàng là phải lắm.

Hồi Thứ Ba

Gái nên, nhiều kẻ muốn cầu hôn.
Họ Mạnh bày cuộc thi kén rể.

Mạnh Sĩ Nguyên tìm được người vú nuôi là nàng Đỗ thị lòng mừng khắp khởi, vì ông ta thấy nàng là người tiết phụ lại thêm cử chỉ đoan trang nên truyền cho gia quyến ông không ai được tỏ vẻ khinh thường nàng, buộc mọi người trong nhà phải kêu nàng là Tô Đại nương.
Đêm hôm ấy Hàn Phu nhơn sắp lâm bồn, bỗng chiêm bao thấy một người đem đến cho nàng một nàng tiên vào bảo:
- Ta vâng lện Ngọc Đế đem Chấp Phất Nữ đến đầu thai làm con gái nhà ngươi, ngày sau sẽ hưởng phú quý vinh hoa.
Khi Hàn Phu nhơn tỉnh dậy, mùi hương bay ngào ngạt khắp gian phòng, sau đó sanh hạ được một nàng con gái mặt mày xinh đẹp như hoa nở. Mạnh Sĩ Nguyên nghe Hàn Phu nhơn thuật lại câu chuyện trong giấc mộng nên đặt tên con là Lệ Quân rồi giao cho Tô Đại nương nuôi dưỡng.
Ngày tháng trôi qua, nàng Mạnh Lệ Quân và Tô Yến Tuyết lên bốn tuổi, cả hai đều xinh đẹp khác thường, hai trẻ chơi với nhau như chị em ruột.
Hai nàng vừa lên năm tuổi đã được theo Mạnh Gia Linh cùng học tập, nhưng trong ba người chỉ có Mạnh Lệ Quân là thông minh hơn cả, nàng học đâu nhớ đó, lại còn có óc nghiên cứu nên nàng có thể biết cả những việc nàng chưa học đến. Mạnh Gia Linh tuy cố tâm học tập song không thông minh bằng Mạnh Lệ Quân, còn Tô Yến Tuyết thì đứng vào hàng thứ ba.
Khi Mạnh Lệ Quân lên bảy tuổi thì ngũ kinh tứ thư thảy đều làu thông, lại có tài thi phú hay xuất chúng. Tuy vậy nàng phải cái tật sợ đau, lại được phu nhơn quá cưng nên không xỏ lỗ tai.
Mạnh Sĩ Nguyên thấy vậy phàn nàn:
- Con gái mà không xỏ lỗ tai thì làm sao gả lấy chồng?
Hàn Phu nhơn đáp:
- Thôi, để khi sắp lấy chồng sẽ xỏ lỗ tai vậy.
Mãi đến năm mười ba tuổi mà ngày nào Mạnh Gia Linh làm văn cũng thua sút em gái mình, thậm chí văn bài của Mạnh Lệ Quân, Mạnh Sĩ Nguyên chấm duyệt không thể sử chữa được một chữ nào.
Mạnh Sĩ Nguyên tấm tắc khen:
- Phải chi triều đình cho con gái vào thi, chắc chắn Mạnh Lệ Quân nó sẽ chiếm bảng Trạng nguyên.
Ngòai việc học hành thi văn kinh sử, Mạnh Lệ Quân còn nghiên cứu qua y bốc, tướng số và rất chuyên cần việc nữ công nên việc bánh trái thêu thùa nàng thông thạo hơn ai hết.
Hàng ngày nàng lúc thúc trong huê viên cùng với mẹ con Tô Yến Tuyết, nàng ít hay trang điểm, nhưng nhan sắc xinh đẹp lạ thường. Còn Tô Yến Tuyết tuy tài mạo chẳng bằng Mạnh Lệ Quân song nghề văn thơ cũng giỏi, nhan sắc cũng tuyệt vời, so với người thường thì ít ai sánh kịp.
Hàn Phu nhơn lại nuôi một đứa tớ gái tên Vinh Lang đã siêng năng, khôn ngoan dễ dạy, tính tình lại lanh lợi ít kẻ bì, nên rất ý hiệp tâm đầu với Mạnh Tiểu Thơ. Vì vậy không bao giờ nàng rời xa nó một bước.
Mạnh Sĩ Nguyên thấy con gái mình đã học rộng tài cao lại thêm trí tuệ sâu sắc, am hiểu việc đời nên có việc chi khó đều hỏi ý kiến nàng, nàng góp ý kiến là giải quyết được ngay.
Lúc bấy giờ rất nhiều hạng vương tôn công tử đến cậy mai mối để đẹp duyên cùng Mạnh Lệ Quân, nhưng quan Binh bộ xét thấy con mình tài mạo tuyệt vời thật khó mà chọn cho được người xứng đôi vừa lứa, vì vậy lần hồi ông ta kiếm lời từ chối hết.
Lúc bấy giờ tại quận Côn Minh có một vì quan Hồ Lô tên Cố Hoằng Nghiệp là một Tấn sĩ xuất thân, năm nay tuổi độ năm mươi, ông cáo quan về hưu để nuôi đưỡng mẹ già. Ngày kia Cố Hoằng Nghiệp tìm đến Mạnh gia trang vào ra mắt Mạnh Sĩ Nguyên. Hai đàng chào hỏi xong vừa phân ngôi chủ khác mời ngồi thì bỗng gia đinh chạy vào báo:
- Có quan Tần Bố chánh đến nữa.
Mạnh Sĩ Nguyên đứng dậy xin lỗi Cố Hoằng Nghiệp rồi ra rước Tần Thừa Ân vào.
Sau khi chủ khách ba người an tọa, trà nước xong xuôi, Mạnh Sĩ Nguyên lên tiếng hỏi:
- Chẳng hay nhị vị đại nhơn đến viếng tôi có điều chi dạy bảo?
Tần Bố Chánh và Cố Hoằng Nghiệp đều đồng thanh nói:
- Chúng tôi đến đây chỉ vì việc hôn nhân của lịnh ái.
Mạnh Sĩ Nguyên hỏi:
- Chẳng hay nhị vị đại nhơn muốn xây dựng cuộc nhơn duyên của con gái tôi cho ai vậy?
Tần Thừa Ân lên tiếng trước:
- Tôi định làm mối lịnh ái cho con Hoàng Phủ Nguyên soái tên Hoàng Phủ Thiếu Hoa.
Cố Hoằng Nghiệp cũng nói:
- Còn tôi đây lại muốn cầu hơn cho cháu tôi là Lưu Khuê Bích, thứ tử của Nguyên Thành Hầu Lưu Tiệp.
Rồi ông ta tự giới thiệu:
- Chẳng phải tôi muốn khoe tài của cháu tôi chứ thật ra Lưu Khuê Bích năm nay mới mười sáu tuổi mà văn võ kiêm tòan, thường ngày đến cùng với Hoàng Phủ công tử, luận võ đàm văn, thi văn, dượt võ không khi nào chịu thua sút. Vả lại, cháu gái tôi nay làm Chánh cung Hoàng hậu đã nhiều lần định tâu cùng Thiên tử yêu cầu trọng dụng Lưu Khuê Bích nhưng chỉ vì anh nó là Lưu Khuê Quang đang trấn thủ tại Bắc thành Nhạn Môn Quan nên phu nhân chẳng nỡ xa, nên mới để ở nhà phục thị. Nếu lệnh ái đây mà gả cho họ Lưu, đã đựơc phú quí vinh hoa lại được gần gũi tiện bề đi lại, chớ như gả cho nhà Hoàng Phủ, mai sau phải về tận Hồ Quảng đường xa diệu vợi thật khó mà viếng thăm.
Tần Thừa Ân cười gằn và nói:
- Việc gả con lấy chồng cốt tìm nơi xứng đáng chứ có ai lại nghĩ đến việc xa gần?
Tuy lúc ấy Tần Thừa Ân không khoe tài Hoàng Phủ Thiếu Hoa, song Mạnh Sĩ Nguyên cũng nhận thấy cả hai người đều đáng mặt giai tế cả, thật khó mà từ chối bên nào, nên kiếm lời nói:
- Lão phu vốn thương yêu con gái lắm nên không nỡ ép con, vậy việc này cần hỏi ý kiến nó mới được, nếu nó ưng nơi nào thì tôi sẽ gả nơi ấy vậy.
Tần Thừa Ân và Cố Hoằng Nghiệp đều gật đầu khen phải và đồng nói:
- Đại nhơn nói như vậy phải lắm, vậy hãy vào hỏi ý kiến tiểu thơ xem sao.
Mạnh Sĩ Nguyên vội bước vào thuật lại sự việc cho phu nhơn và công tử nghe.
Hàn Phu nhơn hỏi:
- Theo phu quân thấy thì hai nhà ấy, nhà nào xứng hơn?
Mạnh Sĩ Nguyên đáp:
- Xét về môn đăng hộ đối thì hai nhà cũng ngang nhau, còn xét về tài mạo của hai vị công tử ấy cũng tùng tiệm với nhau, thật khó phân ai hơn ai kém.
Mạnh Gia Linh nói:
- Theo con thấy thì Lưu Tiệp vốn phường vô lọai xuất thân, ỷ thế lực công thần thường hay hiếp đáp kẻ dưới, còn nhà ta đây là dòng dõi trung lương không nên kết thân với những hạng người ấy. Nếu ta kết thân, không khéo người ta sẽ chê mình là kẻ xu phụ quyền thế. Chi bằng kết thân với Hoàng Phủ Kính là Trạng nguyên xuất thân, một nhà nhân đức biết kính trên nhường dưới, không hai hơn sao?
Mạnh Sĩ Nguyên nói:
- Chính ta cũng nghĩ như vậy, nhưng hai bên đến cầu hôn một lượt, nếu gả cho nhà Hoàng Phủ thì e mích dạ họ Lưu, thật chẳng biết nên liệu sao cho phải.
Mạnh Gia Linh suy nghĩ hồi lâu rồi đáp:
- Việc này quả nhiên khó liệu thật.
Hai cha con đang bối rối thì vợ của Mạnh Gia Linh là Phương thị đứng phía sau mỉm cười. Hàn Phu nhơn thấy thế hỏi:
- Việc chi con lại cười mà không nói?
Phương thị thưa:
- Con thấy xưa nay thiếu chi việc khó khăn hơn nữa mà còn giải quyết được thay, huống chi nay việc này cũng nhỏ mọn có gì là khó?
Hàn Phu nhơn lại hỏi:
- Thế thì theo ý con nên giải quyết bằng cách nào cho tiện?
Phương thị thưa:
- Cả hai bên đều là con nhà võ tướng cả, vậy ta hãy lập một cuộc thi tiễn, mời hai vị công tử đến huê viên tranh tài cao thấp. Ta chỉ cần đem một đồng tiền treo trên nhành liễu và cột nối một chiếc áo cẩm bào, đọan phát cho mỗi người ba mũi tên, phát thứ nhất buộc phải trúng nhành liễu, phát thứ hai thì phải trúng vào lỗ đồng tiền, và phát thứ ba phải trúng đích sợi dây treo áo cẩm bào. Nếu ai bắn được ba phát thì gả cho người ấy, tất nhiên không ai trách được.
Hàn Phu nhơn gật đầu đáp:
- Lời con nó đề nghị phải lắm, vậy phu quân hãy y theo đó mà làm.
Mạnh Sĩ Nguyên cười ha hả nói:
- Nếu ta kén rể bằng cách khó khăn như vậy thì biết bao giờ mới xong?
Phương thị thưa:
- Theo con nghĩ, người đã thạo nghề cung tiễn thì đối với việc ấy cũng không khó chi, hơn nữa tiểu thơ nhà ta bậc tài hoa cũng cần phải kén chọn anh hùng dường ấy mới xứng đáng chứ.
Hàn Phu nhơn cũng nói vào:
- Ý tôi cũng vậy, phu quân nên chấp thuận phương pháp ấy là phải – Mạnh Sĩ Nguyên nghe theo, trở ra tỏ ý cho Tần Thừa Ân và Cố Hoằng Nghiệp nghe. Cố Hoằng Nghiệp nghe qua mừng rỡ vô cùng vì lão ta thấy cháu mình rất thiện nghệ về nghề cung tên thế nào cũng sẽ đọat giải.
Cố Hoằng Nghiệp vui vẻ đáp:
- Đại nhơn nghĩ ra việc ấy quả là một sáng kiến hay. Vậy mai này hãy cho mời hai vị công tử đến xem sao.
Tần Thừa Ân nói:
- Tôi thiết tưởng việc lương duyên do trời kia đã sắp đặt sẵn rồi, nếu quả duyên vợ về ai thì người ấy sẽ bắn trúng, chớ không phải do việc giỏi dở mà được.
Mạnh Sĩ Nguyên nói:
- Nếu vậy để ngày mai tôi bày tiệc đặng mời nhị vị công tử đến.
Cố Hoằng Nghiệp lại nghĩ thầm:
“Nếu mai này cháu mình đọat giải thì chẳng nói làm chi, bằng thất bại thì còn gì là thể diện của ta?”.
Nghĩ đọan, ông ta lên tiếng nói:
- Nếu mai này rủi lão phu có bận việc gì, xin phép vắng mặt để một mình cháu nó hầu đại nhơn cũng được nhé!
Tần Thừa Ân cũng sợ Hoàng Phủ Thiếu Hoa bị thua sút thì thẹn lắm nên cũng nói:
- Ngày mai tôi cũng mắc chút việc quan không đến được, vậy xin phép đại nhơn để cho hai vị công tử đến đây cũng tiện.
Mạnh Sĩ Nguyên vâng lời, rồi cả hai cáo từ ra về.
Tần Thừa Ân ra khỏi phủ, không về nhà lại thẳng đến dinh Hoàng Phủ thuật rõ đầu đuôi câu chuyện cầu hôn nhà họ Mạnh cho Hoàng Phủ Kính nghe. Hoàng Phủ Kính nói:
- Nếu vậy để mai tôi đem tiện nhi nó sang nhà đại nhơn, đặng nhờ đại nhơn dẫn nó sang Mạnh phủ. Sau này cuộc lương duyên con trẻ đặng thành, tôi không bao giờ dám quên ơn của đại nhơn.
Tần Thừa Ân nói:
- Chẳng mấy khi Nguyên soái có việc cậy đến tôi, tôi đâu dám từ thác, song lúc nãy Cố Hoằng Nghiệp đã từ chối không đến, chỉ để một mình Lưu Khuê Bích đến thôi, hơn nữa mai mày tôi cũng có chút việc quan nên cũng xin cáo thối, để một mình công tử đi cũng tiện.
Hoàng Phủ Kính vâng lời, Tần Thừa Ân cáo từ ra về.
Hoàng Phủ Kính vào nhà trong thuật lại cho Doãn Thị Phu nhơn nghe và kêu Thiếu Hoa bảo:
- Ngày mai con qua bên ấy phải cố sức tranh tài cho kỳ được nhé.
Thiếu Hoa lấy làm bất bình nhưng vì thấy cha mình đã quyết không dám cãi, chỉ ngồi làm thinh.
Hoàng Phủ Kính thấy vậy nói khích:
- Tại sao con có vẻ không vui, chắc con cảm thấy tài mình không sánh nổi Lưu Khuê Bích phải không?
Thiếu Hoa thưa:
- Ngày nào con và Khuê Bích cũng thao dượt ngoài võ trường, tài lực ngang nhau có can chi mà con sợ, song nếu tỉ thí như vầy tất nhiên phải có người thua. Nếu con thua thì chẳng nói làm chi, bằng Khuê Bích thua con, tất nhiên tổn thương tình bằng hữu, chi bằng con nhượng cho Khuê Bích thì hay hơn.
Hoàng Phủ Kính cau mày nói:
- Nay việc đã hứa rồi, nếu con không đi thì nhục cho cha biết dường nào! Vả chăng ta đây đường đường một vị Nguyên soái mà đứa con không đủ tài bắn ba phát tên thì ôi thôi còn mặt mũi nào điều khiển ba quân nữa!
Trưởng Hoa Tiểu thơ vội xen vào góp ý:
- Nếu hiền đệ có vì tình bằng hữu thì ngày mai hiền đệ hãy nhường cho Khuê Bích bắn trước, nếu hắn bắn đích ba phát thì hãy nhường luôn đừng bắn nữa, bằng ngược lại hắn bắn trật thì tất nhiên hiền đệ phải bắn, đó là lối xử vẹn toạn vậy.
Thiếu Hoa thấy cha mình giận dữ, chị mình lại phân tỏ lý nên cực chẳng đã phải thuận tình.

Lời Bình:
- Thời xưa hễ sanh con trai thì mừng, trái lại dù sanh năm bảy đứa con gái vẫn xem như chưa có con, đến khi lớn lên con trai học giỏi là hữu phước, bằng con gái dù có học giỏi cũng xem như vô ích. Sở dĩ có quan niệm ấy là vì họ xem đàn bà chỉ là món đồ chơi của đàn ông, chỉ là bộ máy sinh sản để cho giống nòi được tồn tại mà thôi. Ôi! Nếu xem đàn bà như vậy thì biến họ thành những con thú vật. Ngay nay phái nữ cũng đứng ra lãnh trọng trách như đàn ông, có nhiều bà tài năng xuất chúng còn hơn cả đàn ông nữa là khác.
- Mạnh Sĩ Nguyên muốn kén rể nhưng đứng trước hai chàng công tử họ Hoàng Phủ và họ Lưu tài mạo tương đương, gia thế cũng tùng tiệm; khó mà giải quyết nổi nên định hỏi Mạnh Tiểu thơ, hễ nàng ưng ai thì gả cho người ấy, đó là thượng sách rồi, sau khi vào hỏi lại không hỏi ngay con mình mà lại hỏi vợ, nghe lời dâu bày ra việc thi kén chọn để cho mích lòng một trong hai người ấy.
Còn xét về Hoàng Phủ Thiếu Hoa, chàng đã thấy trước vấn đề là ra tỉ thí tất nhiên phải có kẻ thắng người bại, nếu chàng bị thất bại giữa tình trường thì con2 gì cay đắng hơn? Ngược lại Lưu Khuê Bích bị thua thì còn gì là tình bằng hữu? Nhưng khổ thay Hoàng Phủ Kính đường đường là một vị Nguyên soái chẳng lẽ để cho con mình rút lui có trật tự trước ba mũi tên sao? Bề nào Thiếu Hoa cũng phải đi tỉ thí, mà đã tỉ thí thì tất nhiên tình bằng hữu phải bị tổn thương. Thế thì có trách là trách sao cho người bày ra cuộc thi ấy. Làm như vậy chẳng khác nào gài cái bẫy để cho hai họ Hoàng, Lưu thù nghịch nhau vậy. Cho hay phàm làm con gái nếu không ưng người ta thì thôi chứ đừng nên làm mích lòng người, nguy hiểm!


Hồi Thứ Tư

Vì háo sắc, họ Lưu thất bại,
Bởi mến tài, Yến Tuyết tương tư.


Thật vậy, Lưu Tiệp vốn là một tên vô loại xuất thân, nhờ theo Nguyên Thế tổ lập quốc có công nên được làm đến chức Nguyên Thành Hầu.
Lưu Tiệp có cả thảy năm bà vợ, chánh thê là Cố Phu nhơn sanh đặng ba người con, hai trai một gái, vị trưởng tử Lưu Khuê Quang nhờ lập được chiến công nên triều đình sai đi trấn thủ Nhạn Môn Quan, còn thứ nữ Lưu Yến Châu kết duyên cùng Hoàng Tôn Thiết Mộc Nhi. Chỉ vì Thế tổ Đông cung tạ thế, nên mới lập Thiết Mộc Nhi lên làm thái tử.
Năm thứ hai mươi lăm, Thế tổ thăng hà, Thiết Mộc Nhi được hai mươi tuổi lên ngôi xưng hiệu là Thành Tôn Hoàng Đế, lập Lưu Yến Châu làm Hoàng hậu, Lưu Tiệp làm Quốc trượng.
Lúc bấy giờ Lưu Khuê Bích đã mười sáu tuổi còn vợ chồng Lưu Tiệp đã gần năm mươi. Lưu Tiệp còn một người con gái thứ tư con của thứ thiếp Ngô thị, tên Lưu Yến Ngọc, năm nay nàng được mười lăm tuổi; nàng mồ côi mẹ từ thuở mới lọt lòng, Lưu Tiệp giao cho người nhũ mẫu là Giang Tam Tẩu nuôi dưỡng ở quê nhà tại tỉnh Vân Nam.
Cũng cần giới thiệu qua Lưu Khuê Bích vốn là một chàng trai phong lưu tuấn nhã, cung thương, võ thuật đều lão thông, nhưng chỉ có tánh ham lêu lổng chơi bời, không được nên người đoan chánh. Vì vậy khi Cố Hoằng Nghiệp về thuật lại câu chuyện cầu hôn nhà họ Mạnh cần phải thi tiễn với công tử Thiếu Hoa để tranh tài cao hạ. Lưu Khuê Bích cau mày nói:
- Ông xanh kia sao quá trớ trêu, buộc ta phải đương đầu với Thiếu Hoa như vậy?
Rồi sắc mặt buồn dàu dàu trở vào phòng nằm thở vắn than dài, lòng đầy lo ngại.
Lại xin nói qua Mạnh Lệ Quân, nàng cùng Tô Yến Tuyết sống chung thương yêu nhau như chị em ruột. Vì vậy, hai nàng thường ao ước sau này cùng lấy được một chồng cho khỏi phải phân ly.
Hôm ấy, sau khi Mạnh Sĩ Nguyên ước định rồi trở vào bảo cùng phu nhơn, sáng mai phải đem các con lên lầu đặng xem hai chàng công tử tỉ thí cung tiễn. Tô Yến Tuyết nghe xong vội vã chạy báo tin cho Mạnh Lệ Quân hay, Mạnh Lệ Quân buồn bã nói:
- Phụ thân ta nghĩ vậy là lầm rồi! Nếu bày ra cuộc thi tất nhiên phải có kẻ thua, ta e về sau xảy ra điều không tốt!
Yến Tuyết nói:
- Việc này là do ý kiến của Phương thị, nhưng nay đã lỡ ước định rồi, dù muốn thay đổi ý kiến cũng không được, thôi chúng ta hãy chờ xem, chắc cũng không hại gì lắm đâu.
Sáng hôm sau, Hoàng Phủ Thiếu Hoa mặc áo kim bào, cỡi con bạch mã, dắt theo bốn tên gia tướng sang dinh họ Mạnh. Khi ra khỏi ngõ đã gặp Lưu Khuê Bích, hai người lễ phép chào nhau rồi kề ngựa vừa đi vừa chuyện trò ra vẻ thăm dò ý tứ.
Đến nơi, đã thấy Mạnh Gia Linh chờ sẵn bên ngoài rước vào nhà. Mạnh Sĩ Nguyên vui vẻ nói:
- Cha con tôi đây vốn nhà văn học, hôm nay được xem cái tài xạ tiễn của nhị vị công tử thật là vạn hạnh.
Hai vị công tử đồng thanh nói:
- Chúng tôi đâu dám múa rìu qua mắt thợ! Vả chăng, nghề cung mã của chúng tôi còn non nớt, nay vì vâng mạng phải đánh bạo đến đây, vậy nếu có sơ sót xin đại nhơn rộng tình dung thứ.
Mạnh Sĩ Nguyên mỉm cười đáp:
- Tài năng của nhị vị công tử đã được đồn đãi khắp nơi, hà tất phải khiêm nhường.
Dứt lời, Mạnh Sĩ Nguyên hối gia nhơn dọn tiệc lên đặng đãi hai người rồi mới ra thi thố.
Lưu Khuê Bích nghĩ thầm:
“Trước khi thi bắn, lòng ta lo lắng ăn uống sao ngon, chi bằng để bắn rồi sẽ ăn mới thú”.
Nghĩ đoạn, chàng nói:
- Nay chúng tôi phụng mạng đến đây thi bắn mà cuộc thi chưa xong, chúng tôi đâu dám ngồi dùng tiệc?
Thiếu Hoa cũng phụ họa:
- Xin đại nhơn hãy cho dự thi trước rồi sau hãy dùng tiệc cũng chẳng muộn.
Mạnh Sĩ Nguyên khen phải rồi sai gia đinh đi mời Hàn Phu nhơn lên lầu để xem mặt nhị vị công tử. Hàn Phu nhơn vội vã dắt Phương thị đi theo. Phương thị vào dắt Mạnh Lệ Quân, nhưng Mạnh Lệ Quân từ chối không chịu đi. Lúc ấy, Tô Yến Tuyết thấy thế nghĩ thầm:
“Ta cùng Mạnh Tiểu thơ đã ước mong lấy chung một chồng, thế thì ta cần phải đến xem mới được”.
Nghĩ vậy, nàng nói với Mạnh Lệ Quân:
- Nếu tiểu thơ ngại ngùng không đi thì để tôi đi thế cho.
Tô Yến Tuyết nói rồi vội bước theo Phương thị ra ngoài huê viên leo lên Xuân Minh lầu đứng sau rèm, còn bọn nữ tỳ thì đứng ngoài bao lơn trông xuống.
Mọi việc đâu đó sắp đặt xong xuôi, Mạnh Sĩ Nguyên và Mạnh Gia Linh mời hai vị công tử ra huê viên. Lúc đi ngang qua Xuân Minh lầu, trông thấy trên ấy bọn nữ tỳ đứng rất đông, hai người biết ngay trên ấy có Mạnh Tiểu thơ chờ xem mình, nên cả hai đều hết sức giữ gìn ý tứ.
Tên thơ đồng chỉ hai vị công tử và giới thiệu từng người một cho phu nhân xem. Tô Yến Tuyết hé rèm nhìn kỹ một hồi rồi nói với Phương thị:
- Hôm trước lão gia bảo hai công tử tài nghệ và dung mạo tương đương, nhưng cứ theo nhãn mục của tôi thì hai người cao thấp một trời một vực. Tuy Lưu công tử mặt trắng môi tươi, nhưng trông người ra dáng thô tục, sao bằng Hoàng Phủ công tử nét mặt trông nở nang, dung nghi tề chỉnh, quả người này về sau hưởng phú quí vinh hoa, nếu đặng đẹp duyên cùng tiểu thơ thì tốt biết chừng nào.
Phương thị nói:
- Nàng luận như vậy hạp ý ta lắm.
Lúc ấy ở dưới lầu, Mạnh Sĩ Nguyên đã mời hai công tử ra tài. Lưu Khuê Bích lên tiếng nhường cho Thiếu Hoa bắn trước, nhưng Thiếu Hoa tìm lời từ chối và quyết nhường cho Khuê Bích, khiến Khuê Bích không thối thác được, Khuê Bích cực chẳng đã phải chiều theo.
Trước khi bắn, Mạnh Sĩ Nguyên rót mời Khuê Bích uống ba chén rượu, Khuê Bích tiếp lãnh rồi bước vào trường thi lấy cung tên bắn ra phát thứ nhất.
Mũi tên vừa thoát khỏi cung đã nghe gia tướng vỗ tay rập lên và khen hay. Xem lại mũi tên trúng đích nhành liễu.
Lúc ấy Tô Yến Tuyết thấy Khuê Bích buông tên, nàng vái thầm:
“Vái trời cho Khuê Bích bắn trật hết ba phát, còn Thiếu Hoa thì bắn trúng hết cả ba”.
Khi thấy Khuê Bích bắn trúng phát thứ nhất, trong lòng nàng hồi hộp vô cùng. Nàng lật đật bước ra ngoài bao lơn đứng xem không nháy mắt.
Dưới trường, Lưu Khuê Bích bắn trúng phát thứ nhứt đã vững lòng, liền rút tên bánh tiếp phát thứ nhì trúng ngay lỗ đồng tiền.
Lưu Khuê Bích mừng rỡ nghĩ thầm:
“Thế là còn có một phát nữa, làm gì ta cũng đoạt giải”.
Trên lầu Tô Yến Tuyết thấy Lưu Khuê Bích bắn trúng hai phát, trong lòng thất kinh, nàng nghĩ thầm:
“Thôi thế nào rồi đây cuộc nhơn duyên của Mạnh Lệ Quân và ta sẽ dang dở”.
Trong cơn bối rối nàng không nghĩ đến phận mình, nên bước thẳng ra ngoài rèm nhìn trân xuống. Lúc ấy Khuê Bích đang vói rút mũi tên thứ ba chợt thấy trên lầu Tô Yến Tuyết xuất hiện, mày liễu mặt hoa vô cùng kiều diễm, chàng cảm thấy mê mẩn cả tâm hồn.
Khuê Bích lầm tưởng Mạnh Lệ Quân nên nghĩ thầm:
“Chắc Mạnh Tiểu thơ thấy ta bắn trúng đích hai phát nên nàng đẹp ý phải bước ra ngoài xem mà không biết mắc cỡ là gì”.
Nghĩ rồi, Lưu Khuê Bích vội rút bắn mũi tên thứ ba, chẳng dè lúc ấy vì quá mừng rỡ nên nôn nóng, tay chân mất tự nhiên, kéo cung không đúng; mũi tên bay vụt sang một bên, chiếc áo cẩm bào vẫn còn treo lủng lẳng trước mặt.
Khuê Bích biến sắc mặt, vội bước đến xin lỗi Mạnh Sĩ Nguyên. Mạnh Sĩ Nguyên tỏ lời an ủi. Sau đó ông lại rót mời Hoàng Phủ Thiếu Hoa uống ba chén rượu và mời vào thi.
Thiếu Hoa uống cạn ba chén rượu rồi bình tĩnh bước vào trường thi giương cung bắn. Cung kia vừa buông, đã thấy mũi tên đâm nhành liễu, hai bên gia tướng vỗ tay khen dậy lên. Rồi đến mũi thứ hai trúng ngay lỗ đồng tiền và mũi thứ ba trúng đích sợi dây treo áo cẩm bào, làm cho chiếc áo rơi xuống đất. Mọi người ó lên khen ngợi không ngớt lời.
Tiếng khen càng rầm rộ bao nhiêu thì Khuê Bích càng hổ thẹn và ghen ghét bấy nhiêu. Lưu Khuê Bích cảm thấy không còn mặt mũi nào đứng đó nhìn mọi người nữa nên vội xin cáo từ ngay.
Mạnh Sĩ Nguyên vỗ về mời chàng ở lại để dự tiệc, nhưng chàng chối quanh. Thiếu Hoa thấy thế vội chạy tới nắm tay Khuê Bích nói:
- Tài lực Lưu huynh có thua kém gì tôi đâu, nhưng sở dĩ Lưu huynh bắn trật phát thứ ba là vì sự rủi ro đó thôi, xin Lưu huynh hãy nán lại cùng tôi uống vài chén rượu rồi sẽ về.
Mạnh Gia Linh cũng bước tới mời mọc tỏ lời hơn thiệt nên Lưu Khuê Bích cực chẳng đã phải ráng chịu nhục ở lại.
Khi vào nhà, Thiếu Hoa tự tay nhắc ghế mời Mạnh Sĩ Nguyên ngồi giữa và thưa:
- Xin đại nhơn nhận cho hai lạy của tiểu tế.
Mạnh Sĩ Nguyên khoa tay nói:
- Nay tiện nữ được kết duyên với công tử thật đã quá phận rồi, lẽ nào tôi dám nhận lễ ấy?
Thiếu Hoa đáp:
- Đúng theo phép là phải vậy, mong đại nhơn vui lòng nhận cho.
Lưu Khuê Bích ngồi trơ trơ như tượng gỗ, lòng nghĩ thầm:
“Cha vợ chàng rễ, người ta đang thân thiện với nhau sao ta ngồi đây làm gì cho trơ trẽn lắm vậy”.
Nghĩ đến đây, vẻ mặt bỗng cau lại, chàng đứng phắt dậy bỏ ra ngoài không thèm đếm xỉa gì đến ai hết. Ra khỏi cửa, chàng gọi gia nhơn đem ngựa đến rồi tung mình lên ngựa ra roi phóng nước đại.
Trước cử chỉ ấy, cha con Mạnh Sĩ Nguyên và Thiếu Hoa không khỏi ngạc nhiên. Mạnh Sĩ Nguyên biến sắc mặt nói:
- Hiện nay thân phụ của va có quyền thế lắm, lại thêm Thiên tử đang quí mến Lưu Hoàng hậu, thế nào việc này cũng sanh chuyện lôi thôi. Vậy công tử hãy thưa cùng lịnh đường nên sớm lo liệu làm lễ cưới sớm chừng nào hay chừng nấy để tránh khỏi sự ghét ghen và tôi cũng được an ổn.
Mạnh Gia Linh cùng Thiếu Hoa đều khen phải rồi cả ba đều ăn uống chuyện trò thân mật đến tối mới xong.
Tiệc mãn, Hoàng Phủ Thiếu Hoa cáo từ rồi lên ngựa dắt bốn tên gia tướng ra về.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa về đến nhà thuật lại cho Hoàng Phủ Kính nghe. Hoàng Phủ Kính nổi giận mắng:
- Hắn cũng là con nhà võ tướng mà sử dụng không được ba mũi tên, lại còn giận dữ bỏ ra về, thật là kẻ mất dạy.
Trưởng Hoa tiểu thơ nói:
- Nếu Khuê Bích là kẻ không biết điều như vậy, con chắc sẽ sanh chuyện lôi thôi, xin phụ thân hãy y theo lời Mạnh Thượng thơ làm lễ cưới cho kịp thì hay hơn.
Hoàng Phủ Kính gật đầu khen phải rồi viết thơ sai người thông báo cho Tần Thừa Ân biết để cùng nhau lo liệu.

Lời Bình:
- Các cô thiếu nữ khi xưa thường kén chồng bằng cách thi cung tiễn cũng là việc thường tình chứ không phải là việc lạ, song phải là con nhà có địa vị quyền thế tột đỉnh không ai có thể oán thù gì được mới có thể kén chọn bằng cách này, hơn nữa đã biết Lưu Tiệp là phường vô loại còn thừa nhận để cho con hắn được ứng thí thì quả là làm một việc gây thù kết hận.
Thật vậy, nếu Lưu Khuê Bích không phải là kẻ mất dạy thì rủi trật một phát tên cũng không lấy gì làm giận, nếu có giận chăng nữa, nên tự trách mình thì hơn, vì hằng ngày chàng cùng Thiếu Hoa thi cung dượt võ hai bên đều ngang nhau, Thiếu Hoa không thể khinh chàng được. Nay bắn bị sai lạc đó là một việc rủi ro, Thiếu Hoa không khi nào dám khinh chàng được, hay nói đúng hơn nếu Khuê Bích vẫn giữ vẻ bình tĩnh, Thiếu Hoa có thể tin rằng Khuê Bích đã nhượng cho Thiếu Hoa, thì Thiếu Hoa càng cảm ơn Khuê Bích nữa là khác. Đàng này Khuê Bích vùng vằng bỏ về, hầm hầm sắc giận làm cho Thiếu Hoa thấy rõ cái tâm trạng đê hèn, tức là mình đã hạ cái phẩm giá của mình vậy.
Lưu Khuê Bích đi cầu hôn cùng tiểu thơ họ Mạnh, song chưa biết Mạnh Lệ Quân ra sao thì đã chắc gì người mình sắp tranh giành đây là vừa ý? Hơn nữa đối với địa vị và tài mạo của chàng thì thiếu gì con gái đẹp trong dân gian yêu chuộng, hà tất phải lấy con gái nhà họ Mạnh mới được, để phải giận hờn thất vọng đến thế? Vì vậy cái bịnh tự ái lắm lúc làm cho người ta mù quáng và thường làm cho người ta đi đến chỗ mất tư cách, đáng khinh.


Hồi Thứ Năm

Nằm mộng, Yến Tuyết kết nhơn duyên,
Si tình, chàng Lưu lập ác kế.

Khi Hoàng Phủ Thiếu Hoa bắn đích ba phát, Tô Yến Tuyết lòng mừng khấp khởi vội bước lại nấp sau tấm bình phong để nghe ngóng. Mãi đến lúc Thiếu Hoa dự tiệc xong, từ tạ ra về nàng mới chạy đi tìm Mạnh Lệ Quân thuật lại đầu đuôi sự việc.
Mạnh Lệ Quân nghe qua chỉ ngồi lặng thinh hồi lâu rồi thở dài nói:
- Quả thật phần số của tôi không ra gì, chẳng biết cuộc lương duyên này biết bao giờ mới thành.
Tô Yến Tuyết nói:
- Chính lão gia cũng sợ Lưu Khuê Bích oán hận gây chuyện lôi thôi nên đã bảo công tử Thiếu Hoa nên gấp rút làm lễ cưới, hễ cưới xong thì chắc bình yên vô sự.
Nói rồi Tô Yến Tuyết trở về phòng thuật lại chuyện ấy cho Tô Đại Nương nghe và tỏ ý khen Thiếu Hoa, chê Lưu Khuê Bích.
Tô Đại Nương nói:
- Mẹ nghe con nói đến cuộc nhơn duyên của tiểu thơ, mẹ lại nghĩ đến phận con, thật mẹ buồn quá, vì mẹ chỉ có một mình con mong kén đặng rể hiền mới hả dạ, nhưng khổ nỗi mẹ đây chỉ là một mụ vú thì dù con có tài mạo cho lắm, người sang trọng cũng chẳng thèm đến cầu thân. Nay Lưu Khuê Bích phải lòng con quả là may mắn cho con, sao con lại chê bai?
Tô Yến Tuyết cười gằn nói:
- Con thiết nghĩ kẻ nào ưng Lưu Khuê Bích tức thì mất kiếp hồng nhan, thà bỏ đến chùa tu còn hơn.
Tô Đại Nương nghe nàng nói, mỉm cười rồi tắt đèn đi ngủ, chẳng dè Tô Yến Tuyết cùng Thiếu Hoa vốn có tiền duyên túc đế nên khi tắt đèn rồi nàng cảm thấy nao nao trong dạ không sao nhắm mắt được. Nàng tương tư về tài mạo của Thiếu Hoa, con tim nàng rung động đến độ tột cùng.
Mãi đến nửa đêm nàng mơ màng thấy mình bước ra khỏi phòng đi dạo chơi ngoài huê viên, xảy gặp Hoàng Phủ Thiếu Hoa.
Sau khi chào hỏi nhau, nàng đánh bạo hỏi:
- Công tử đi đâu đấy?
Thiếu Hoa đáp:
- Tôi có việc đi ngang qua đây, trông thấy vườn hoa tươi đẹp quá nên vào đây thưởng thức.
Nói đến đây, Thiếu Hoa liếc nhìn nàng bằng đôi mắt đầy tình tứ rồi tiếp:
- Khi mai tôi thấy cô nương đứng trên lầu xem bắn, trộm liếc dung nhan tôi đem lòng yêu mến, chẳng hay cô nương cùng Mạnh Tiểu thơ bà con thân thuộc như thế nào xin cho tôi biết.
Tô Yến Tuyết liền nói rõ họ tên cùng tiểu sử của mình cho Thiếu Hoa nghe. Thiếu Hoa cười nói:
- Xin lỗi cô nương, nếu cô nương chưa kết duyên với ai thì khi tôi kết duyên với Mạnh Tiểu thơ rồi, sẽ cưới cô nương về làm thứ nhất cho chị em được sum hiệp một nhà, chẳng biết cô nương nghĩ sao?
Tô Yến Tuyết lấy làm thích chí đáp ngay:
- Nếu được công tử đoái thương, tôi nguyện đợi chờ.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại nói:
- Cô nương đã như vậy thì sẵn đêm nay trăng sáng xin hãy chỉ trăng mà thề, tôi mới chắc nàng hết dạ thương tôi.
Thiếu Hoa nói rồi bước tới nắm tay Tô Yến Tuyết tỏ vẻ âu yếm. Yến Tuyết mắc cỡ quá giựt tay lại và nói:
- Công tử hãy thề trước đi, rồi tôi sẽ thề sau.
Thiếu Hoa liền quì xuống nhìn trăng long trọng thề:
- Tôi là Hoàng Phủ Thiếu Hoa được Tô Tiểu thơ yêu mến nguyện sẽ cùng nhau kết tóc se duyên, nếu ngày sau tôi phụ lời nguyền thì phải chết về nghiệp đao kiếm.
Thiếu Hoa thề xong, Tô Yến Tuyết cũng quì xuống tuyên thệ:
- Tôi Tô Yến Tuyết suốt đời nguyện sống chung cùng Hoàng Phủ Công tử, nếu tôi phụ ước sẽ bị trời tru đất diệt.
Dứt lời, Thiếu Hoa vội vàng đỡ nàng dậy nói:
- Miễn tiểu thơ một lòng chung thủy với tôi thì thôi cần gì phải thể thốt nặng lời?
Rồi chàng nắm tay nàng khẩn khiết:
- Nay nhơn trăng thanh gió mát lại thêm vắng vẻ xin mời nàng vào đây để hai ta được thỏa lòng hoài vọng.
Vừa nói Thiếu Hoa vừa kéo Tô Yến Tuyết vào nhà. Tô Yến Tuyết nghiêm sắc mặt bảo:
- Xin công tử chớ nghĩ lầm mà đánh giá tôi quá thấp hèn như vậy, sở dĩ tôi yêu công tử là vì tài mạo của công tử có một không hai trên đời, chớ thật ra tôi không phải là hạng con gái lăng loàn trắc nết như người khác đâu!
Hoàng Phủ Thiếu Hoa tỏ vẻ hối hận nhưng lại năn nỉ:
- Hai ta đã ước nguyện cùng nhau kết tóc lâu dài thì việc gì phải tiếc tình với nhau?
Tô Yến Tuyết lòng đã muốn xiêu nhưng sực nhớ đến danh tiết của phận gái, lòng nàng phân vân như đứng trước ngã ba đường, không biết nên đối xử với chàng sao cho phải. Đang khi bối rối, bỗng Mạnh Sĩ Nguyên từ trong nhà bước ra, nàng thất kinh vội tìm đường chạy trốn rủi vấp chân ngã quị xuống đất, giật mình thức dậy mới biết là điềm chiêm bao.
Qua giấc chiêm bao sống trong lý tưởng, nàng ngồi nhổm dậy vặn đèn sáng lên chống cằm suy nghĩ:
“Cứ theo điềm chiêm bao này thì chắc chắn ta cùng Hoàng Phủ Thiếu Hoa có tiền duyên rồi. Nhưng sao Mạnh Lão gia lại nỡ phá tan cuộc ái ân của ta đang nồng đượm?”
Càng luyến tiếc giấc mộng lành bao nhiêu, nàng cảm thấy yêu Thiếu Hoa bấy nhiêu. Nàng nhất quyết ở vậy chờ Thiếu Hoa, dù cho đời nàng có chìm nổi thế nào cũng không thay lòng đổi dạ.
Nói về Lưu Khuê Bích, khi chàng tức giận bỏ về, thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho Cố Phu nhân nghe và nói:
- Nếu con chẳng cưới đặng Mạnh Lệ Quân làm vợ thì con thề suốt đời không lấy ai hết.
Cố Phu nhơn nghe Khuê Bích nói vậy, đoán biết chàng ta quá giận nên nói sàm, bà cười nói:
- Con đừng nói vậy, chừng nào ngoài chợ hết bánh đa, trong dân gian mới hết con gái, huống chi trên đời này thiếu chi người tài mạo hơn Mạnh Lệ Quân? Thôi để mẹ đi tìm chỗ khác xứng đáng cho con.
Lưu Bích nghe mẹ nói lòng càng tức giận hơn nữa, liền bỏ vào phòng nằm thiêm thiếp. Chàng Khuê Bích vốn lòng gai dạ độc liền nghĩ ngay một kế, từ đó chàng giấu giếm mối hận sâu tận đáy lòng, ngoài mặt luôn luôn cười cười nói nói, ngày nào cũng đến rủ Hoàng Phủ Thiếu Hoa đến võ trường tập bắn, thái độ càng thân thiện hơn trước để thừa cơ hãm hại.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa tánh tình ngay thật, thấy Khuê Bích không thù hằn mình nên lòng mừng khấp khởi, thật lòng giao du với Khuê Bích không chút nghi ngờ.
Khi Hoàng Phủ Kính tin cho Tần Thừa Ân hay rồi, hai người chọn ngày mười tám tháng năm năm đó đem đồ sính lễ sang nhà họ Mạnh. Mạnh Sĩ Nguyên nhận lễ vật xong, sai con Vinh Lang bưng ra U Hương trao cho Mạnh Lệ Quân. Nàng trông thấy đồ sính lễ trong lòng cũng rộn lên nhưng lại nghĩ không biết duyên nợ của mình có được vuông tròn hay không, nên lòng đầy lo ngại.
Sau khi Lưu Khuê Bích giả dạng thân mật với Thiếu Hoa ít lâu, chàng thấy Thiếu Hoa với mình không chút nghi ngờ nên định ra độc thủ.
Khuê Bích nghĩ thầm:
“Khi ta giết chết Thiếu Hoa rồi, thế nào Mạnh Lệ Quân cũng cải giá, nhưng nếu nàng có bền lòng chặt dạ ở vậy thủ tiết, ta sẽ nhờ Lưu Hoàng hậu tâu lên Thánh thượng yêu cầu người ngự bút tứ hôn cho ta, thì nàng con gái họ Mạnh kia dù cứng đầu đến đâu cũng phải tân theo”.
Nghĩ đến đây, Khuê Bích cảm thấy sung sướng vô cùng, chàng bảo gia tướng sửa soạn cung tên cho sẵn sàng rồi tung mình lên ngựa sang rủ Thiếu Hoa đến võ trường tập bắn như thường lệ.
Sau cuộc tập bắn tại võ trường, Khuê Bích lại rủ Thiếu Hoa đến tửu lầu uống rượu, đoạn đưa Thiếu Hoa về đến tận nhà mới chia tay.
Hôm sau Khuê Bích lại đến rủ Thiếu Hoa đi săn đến chiều tối mới về.
Liên tiếp trong mấy ngày, Lưu Khuê Bích tỏ ra rất mật thiết với Thiếu Hoa khiến Thiếu Hoa có chút gì ngờ vực trong lòng cũng phải dẹp bỏ ngay.
Qua đến ngày thứ ba, Khuê Bích sai gia tướng cầm bức thơ sang mời Thiếu Hoa đi chơi thuyền để uống rượu và xem phong cảnh tại Côn Minh trì; nhưng Hoàng Phủ Thiếu Hoa nhận được thơ vội đem đến cho Hoàng Phủ Kính xem chứ không dám tự tiện, vì chàng là con nhà gia giáo, lẽ đâu đi chơi xa lại không cho cha mẹ biết.

Lời Bình:
- Xét ra Tô Yến Tuyết cũng là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, nếu nàng không đẹp sao Lưu Khuê Bích vừa thoáng thấy đã mê mẩn tâm thần đến nỗi bủn rủn tay chân trương cung bắn không được nữa, nhưng nếu Khuê Bích biết rõ nàng là con của một người vú thì chưa chắc gì Khuê Bích muốn. Vì vậy Tô Đại Nương một kẻ già đời thấy rõ quyền thế, địavị nó làm cho tăng giá trị con người, bằng ngược lại, những kẻ không có địa vị trong tay sẽ bị người đời khinh khi không coi ra gì cả. Ba ta muốn con mình có được một người chồng như Khuê Bích đã là hạnh phúc lắm rồi, nhưng Tô Yến Tuyết lại đạp lên cả xã hội quyền thế, nàng không thấy mình con một mụ vú là mất giá trị; nàng chỉ quan niệm giá trị con người ở chỗ tài mạo mà thôi, vì vậy nàng có quyền yêu người lý tưởng của nàng, còn việc người ta có thích nàng hay không, nàng không cần biết đến.
- Lưu Khuê Bích đang giận dữ Hoàng Phủ Thiếu Hoa, thế mà bỗng dưng lại quá thân thiện với Thiếu Hoa mà Thiếu Hoa không một chút nghi ngờ thì quả là ngây ngô hết cỡ. Phàm ở đời việc gì bỗng nhiên có một hiện tượng khác tất nhiên phải có nguyên nhân. Đến nỗi Hoàng Phủ Kính đã lăn lộn nhiều trên đường đời mà cũng không thấy được hành động xảo trá của Lưu Khuê Bích, thật đáng chê.

Hồi Thứ Sáu

Lưu Khuê Bích mưu hại bạn hiền,
Nàng Yến Ngọc ra tay cứu nạn.


Hoàng Phủ Kính xem qua bức thơ của Lưu Khuê Bích rồi nghĩ thầm:
“Quê nhà của Lưu Khuê Bích ở tại Côn Minh là nơi thắng cảnh nên ý lấy tình thân thiết mời con ta đến chơi, vậy ta cũng cần phải cho đi để khỏi có việc xích mích về sau”.
Nghĩ đoạn, ông ta gật đầu cho phép Thiếu Hoa đi Côn Minh, Thiếu Hoa mừng lắm, vội viết thơ phúc đáp ngay rồi giao cho tên gia tướng họ Lưu mang về, hẹn chắc hôm sau sẽ đến.
Lưu Khuê Bích tiếp được phúc thơ, lòng khấp khởi, sai gia tướng dọn dẹp một chiếc thuyền và đi kêu hai đứa kỹ nữ đẹp đặng chúng phục rượu cho Thiếu Hoa thật say để có cơ hội ám hại.
Sáng hôm sau, bình minh vừa hiện, Thiếu Hoa đã thấy một tên gia tướng của Khuê Bích đến rước chàng, nên chàng vội vã sắm sửa dắt hai tên gia tướng ra đi gấp để đáp lại tấm thịnh tình của Khuê Bích.
Tên gia tướng của Khuê Bích dắt ba thầy trò của Thiếu Hoa xuống mé hồ Côn Minh; ở đó đã chuẩn bị sẵn một con thuyền. Khuê Bích bước ra lễ phép mời Thiếu Hoa xuống thuyền rồi cùng nhau tâm tình rất nên tương đắc.
Một lát sau đã thấy hai đứa kỹ nữ bưng mâm rượu thịt lên, Khuê Bích rót rượu niềm nở mời Thiếu Hoa và bảo hai con kỹ nữ đờn ca, tiếng nhạc khoan réo rắt trông như cảnh bồng lai, nhưng Thiếu Hoa lại không thích, chỉ uống chút đỉnh thôi.
Khuê Bích thấy vậy vội hối gia tướng mở dây thả thuyền trôi trên mặt hồ, cảnh trời nước một màu xanh biếc, con thuyền từ từ lướt qua đầu gành cuối bãi đập vào mắt Thiếu Hoa biết bao cảnh đẹp thần tiên. Khuê Bích đinh ninh thế nào Thiếu Hoa cũng phải say đắm và dùng nhiều rượu nhưng Thiếu Hoa chỉ uống rượu cầm chừng vui chơi đến trưa, chàng đứng dậy xin cáo từ.
Khuê Bích nắm tay Thiếu Hoa giả vờ rưng rưng nước mắt nói:
- Chẳng mấy khi Hoàng huynh sang đây chơi, sao lại vội ra về?
Thiếu Hoa cực chẳng đã phải nán lại đến khi mặt trời khuất bóng thì xin cáo từ một lần nữa, nhưng lần này Khuê Bích quyết tình giữ lại, chàng nói:
- Hoàng huynh đến đây chơi với đệ chưa được thỏa mãn mà đã ra về thật không gì buồn cho bằng. Thôi bây giờ xin mời Hoàng huynh quá bộ lên huê viên đặng bày thêm tiệc khác, chúng ta cùng hưởng lạc, ở đó phong cảnh rất hữu tình, đệ tin chắc sẽ vừa lòng Hoàng huynh đấy.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:
- Điều ấy thật tình tôi không thể chiều ý Lưu huynh được, vì nếu đêm nay tôi không về chắc song thân tôi nóng lòng trông đợi.
Lưu Khuê Bích cười mơn trớn nói:
- Điều ấy xin Hoàng huynh chớ ngại, vì lịnh đường đã biết Hoàng huynh đến đây chơi với đệ mà không thấy về tất nhiên người biết tôi cầm ở lại rồi. Vả chăng, hai ta kết bạn với nhau đã mấy năm chờ mãi đến hôm nay Hoàng huynh mới sang đây thì phải ở lại tâm tình trong đêm nay cho thỏa lòng mong mỏi chứ.
Dứt lời Khuê Bích không đợi Thiếu Hoa đáp, vội cho phép hai kỹ nữ về rồi nắm tay Thiếu Hoa bước ra khỏi thuyền lên bờ đi thẳng về huê viên.
Huê viên này chiếm một khu đất vô cùng rộng rải; trong ấy có đủ kỳ hoa dị thảo, lầu các đình đài, non bộ, hồ sen, mười phần xinh đẹp, Hoàng Phủ Thiếu Hoa vốn lòng chân thật nên bằng lòng ở lại và khen ngợi chẳng cùng.
Lưu Khuê Bích đưa tay chỉ về phía hữu nói:
- Trong huê viên chỉ có Tiểu Xuân đình là thanh tịnh hơn hết, đêm nay chúng ta ở đó đàm đạo chơi.
Thiếu Hoa gật đầu:
- Thế thì hay lắm, chúng ta hãy đi.
Khuê Bích mừng thầm, dắt Thiếu Hoa vào Tiểu Xuân đình ngồi đàm đạo việc binh thơ.
Chỉ mấy phút sau đã thấy gia tuớng bưng mâm rượu thịt lên, toàn là cao lương mỹ vị.
Thiếu Hoa nói:
- Chúng ta mới vừa dùng tiệc sao còn bày tiệc nữa làm gì?
Khuê Bích nói:
- Chúng ta chỉ ngồi không trò chuyện thì buồn lắm, cần phải có ăn uống mới thêm phần thích thú.
Vứa nói, Khuê Bích vừa dắt Thiếu Hoa vào bàn tiệc, rót rượu mời mọc, còn hai tên gia tướng của Thiếu Hoa là Tào Tín và Ngô Tường thì đứng hầu một bên.
Ngờ đâu đêm ấy bà ngoại của Khuê Bích là Tiền thị qua đời, Cố Hoằng Nghiệp sai người đến báo cho Cố Phu nhơn hay, Cố Phu nhơn lật đật sai nữ tỳ ra Tiểu Xuân đình kêu Khuê Bích vào cùng đi hộ tang.
Khuê Bích hay tin vội khiến gia tướng ở đó hầu Thiếu Hoa, chàng lập tức đi vào hầu Cố Phu nhơn.
Đến nơi, thấy Lưu Yến Ngọc cùng Giang Tam Tẩu đang xếp đặt đồ hành lý, Cố Phu nhơn liền nói rõ cái chết của Tiền thì cho Khuê Bích nghe và bảo chàng phải sửa soạn cùng đi với bà qua hộ tang.
Lưu Khuê Bích giựt mình nghĩ thầm:
“Đêm nay ta quyết phóng hỏa đốt Tiểu Xuân đình giết chết Thiếu Hoa mà sự việc xảy ra bất ngời như vậy biết làm sao đây?”.
Nghĩ đoạn, Khuê Bích vòng tay thưa:
- Nếu con theo thân mẫu đi thì việc nhà lấy ai coi sóc?
Phu nhơn nói:
- Việc đi phục tang cho ngoại con vô cùng quan trọng, vệc nhà con chớ lo, vì đã có em con và Giang Tam Tẩu đảm nhiệm, còn ngoài huê viên đã có Giang Tấn Hỉ, mẹ con ta chỉ đi độ và ngày rồi về, không hại chi đâu.
Lưu Khuê Bích cực chẳng đã phải vâng lời, nhưng lại nghĩ thầm:
“Thế nào đêm nay cũng phải giết cho được Thiếu Hoa, bây giờ ta mắc đi thì trách nhiệm này phải giao cho Giang Tấn Hỉ mới được”.
Nghĩ rồi, bước ra ngoài cho người gọi Giang Tấn Hỉ.
Giang Tấn Hỉ là con ruột của Giang Tam Tẩu tuổi độ mười sáu, tính tình ngay thẳng, trung hậu, hắn là kẻ tôi tới tâm phúc của Lưu gia, khi nghe Khuê Bích gọi vội chạy đến bẩm:
- Chẳng hay công tử đòi tôi dạy việc chi?
Lưu Khuê Bích nhìn bốn bên thấy vắng bóng người liền kề tai hắn nói rõ ý định mình rồi bảo hắn nội đêm nay phải đốt cháy Tiểu Xuân đình giết chết cho kỳ được Thiếu Hoa, mai sau duyên nợ thành rồi sẽ trọng thưởng.
Giang Tấn Hỉ nghe nói giật mình nghĩ thầm:
“Đêm hôm qua ta nằm chiêm bao thấy một ông già đến mách bảo ta chớ nên hại người để ngày sau ta được hưởng phúc lớn, ta lấy làm lạ vì xét ra ta có thù hiềm với ai đâu mà toan ám hại người? Bây giờ ta mới biết công tử Khuê Bích bảo ta làm việc sát nhơn”.
Nghĩ rồi, Giang Tấn Hỉ đáp:
- Nếu công tử bảo việc gì khác tôi không khi nào từ thác, song việc này tôi không dám, vì Hoàng Nguyên soái có quyền tiền trảm hậu tấu, nếu người hay được thì tánh mạng tôi còn gì?
Khuê Bích cười gằn nói:
- Ngươi nghĩ như thế là lầm rồi. Ngươi nên biết rằng cha ta là một vị Quốc trượng, làm sao Hoàng Phủ Kính dám xâm phạm đến? Ngươi cứ việc bạo dạn hành động đi, nếu mai sau Hoàng Phủ Kính hay được cứ việc tuyên bố rằng Thiếu Hoa say rượu đạp đổ đèn nên lửa bắt cháy Tiểu Xuân đình mới thọ hại, chớ không can chi đâu.
Thấy Khuê Bích cố tình ép buộc nên Tấn Hỉ phải vâng lời. Khuê Bích mừng rỡ bảo Tấn Hỉ phóng hoả xong phải cho người qua báo tin cho chàng hay.
Lưu Khuê Bích sắp đặt mưu kế xong xuôi liền theo Cố Phu nhơn sang ngoại gia để phục tang cho Tổ mẫu.
Nói về Lưu Yến Ngọc, em Lưu Khuê Bích là một cô gái dung nhan diễm lẹ, thuở bé theo đòi nghiên bút và trau dồi nữ công, hằng ngày hú hí với bà nhũ mẫu Giang Tam Tẩu và con đầy tớ Phi Diễn ở tại Hiển Vân các. Con đầy tớ Phi Diễn này tánh tình rất sâu hiểm, hắn biết Cố Phu nhơn ít yêu mến Lưu Yến Ngọc nên có việc gì là chạy đi méc nói thêm nói bớt nên nàng ghê sợ nó lắm.
Tối hôm ấy khi Cố Phu nhơn đi rồi, Lưu Yến Ngọc gạt con Phi Diễn cho hắn đi ngủ rồi kề tai nói nhỏ với Giang Tam Tẩu:
- Trưa hôm qua con nằm chiêm bao thấy một người đàn bà xưng là Ngô Huệ Nương, thân mẫu của con. Người cho biết rằng chỉ vì bạc phước không thể sống nuôi con được nên phải để con lại cho Cố Phu nhơn nuôi, nhưng nay tuổi con đã trưởn thành. Cố Phu nhơn lại không nghĩ gì đến chuyện lương duyên vì vậy người hiện hồn lên mách bảo cho con biết: nội đêm nay sẽ có quí nhơn đến tại Tiểu Xuân đình, anh con lại cố tâm phóng hỏa thiêu chết người ấy. Người khuyên con hãy cùng nhũ mẫu đến đó ra tay cứu nạn rồi kết nghĩa đá vàng với người ấy để sau này được hưởng vinh hoa phú quí và cứu cả nhà ta nữa.
Nàng lại kể tiếp:
- Lúc ấy con muốn hỏi xem quí nhơn ấy là ai, nhưng bà ta đã xô con một cái, con giựt mình thức dậy mới biết là chiêm bao.
Giang Tam Tẩu nói:
- Chiêm bao mộng mị cũng không đáng tin lắm, có lẽ tiểu thơ mơ tưởng đến thân mẫu thuở xưa nên mới mơ tưởng như vậy chứ gì?
Lưu Yến Ngọc nói:
- Lúc con mới sanh được vài tháng thì mẹ con qua đời, làm sao con biết được mặt người mà hòng mơ tưởng. Chắc việc này cũng có duyên cớ chi đây.
Giang Tam Tẩu hỏi:
- Vậy tiểu thơ hãy tả hình dạng người ấy xem có giống thân mẫu của tiểu thơ khi trước không?
Lưu Yến Ngọc nói:
- Người đàn bà ấy hình vóc mảnh khảnh, độ hai mươi hai, hai mươi ba tuổi là cùng, mặt tròn, da trắng.
- Cứ như lời ấy thì quả nhiên thân mẫu của tiểu thơ báo mộng rồi. Vậy để tôi hỏi Giang Tấn Hỉ xem đêm nay có ai ở Tiểu Xuân đình không.
Giang Tấn Hỉ vốn người chí hiếu, nên khi nhận lời Lưu Khuê Bích rồi, vội chạy đi tìm mẹ để bày tỏ sự tình. Khi hai mẹ con gặp nhau, Giang Tấn Hỉ liền thuật rõ điềm chiêm bao của mình cùng lời xui bảo của Khuê Bích cho mẹ nghe, rồi lại nói:
- Thưa mẹ, con có thù oán gì với Hoàng Phủ Thiếu Hoa đâu, sao nỡ đang tâm hại người.
Bấy giờ Giang Tam Tẩu mới biết chắc Lưu Yến Ngọc có tiền duyên với Thiếu Hoa, bèn thuật lại điềm mộng của tiểu thơ cho Giang Tấn Hỉ nghe và nói:
- Căn cứ theo điềm mộng của tiểu thơ thì Hoàng Phủ Công tử sau này sẽ đặng phú quí. Vậy ta phải lập kế cứu người mới được.
Giang Tấn Hỉ suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Bây giờ muốn công việc được lưỡng toàn, để tôi gạt hai tên gia tướng của công tử ra ngoài uống rựu rồi thân mẫu dắt tiểu thơ vào đó đính ước kết duyên và bảo công tử lẻn ra cửa sau trốn về, chừng ấy tôi sẽ phóng hỏa đốt Tiểu Xuân đình làm cớ. Nếu sau này Lưu Công tử có tra xét thì thân mẫu nhớ dặn Hoàng Phủ Công tử bảo rằng trong cơn nguy cấp nhờ có thần nhân cứu thoát đem bỏ giữa đồng. Có vậy Lưu Công tử mới khỏi nghi ngờ chúng ta.
Giang Tam Tẩu khen là diệu kế, vội vã vào nhà thuật lại cho Lưu Yến Ngọc hay.
Lưu Yến Ngọc nói:
- Tại sao gia huynh tôi lòng dạ lại độc ác đến thế cơ? Con nguời ác nhơn như vậy thế nào cũng bị tai họa.

Lời Bình:
Hoàng Phủ Thiếu Hoa là chàng trai chí hiếu, mỗi khi đi đâu phải xin phép cha mẹ, khi về phải đúng thời gian đã định và phải trình diện trước mặt song thân, thế mà trước lời đường mật của Lưu Khuê Bích chàng phải bóp bụng ở lại. Thế là lời nói của kẻ gian có mãnh lực phi thường.
Khuê Bích hay tin bà ngoại mình chết mà không muốn đi phục tang, quyết ở nhà giết chết cho được Thiếu Hoa thì quả là con người không chút đau lòng, trái lại không cưới được vợ lại đau đớn hận thù đến thế, thật đáng buồn cười.
Đọc đến hồi này ta nhớ lại việc Tôn Quyền giả kế gả em mình cho Lưu Bị để âm mưu sát hại nhưng âm mưu đã kông thành lại phải gả thật em mình cho Lưu Bị. Ở đây Lưu Khuê Bích âm mưu giết chết Hoàng Phủ Thiếu Hoa không được mà em mình lại phải lòng kẻ thù, cho nên ở đời lòng dạ nham hiểm đã không làm gì người ta được, lại làm lợi cho người nữa là khác.


Hồi Thứ Bảy

Giang Tấn Hỉ phóng hỏa Tiểu Xuân đình
Hoàng Phủ Thiếu Hoa thoát thân đào tẩu.

Giang Tấn Hỉ bước vào Tiểu Xuân đình, trông thấy Công tử Thiếu Hoa đang ngồi dưới đèn, hai bên có hai tên gia tướng đứng hầu. Chàng bước tới mời hai tên gia tướng ra ngoài uống rượu. Hai người tỏ lời từ chối, Thiếu Hoa vội nói:
- Người đã có lòng mời thì chúng bây hãy đi đi, bây giờ ta cũng đã buồn ngủ rồi, không cần phải hầu hạ nữa.
Tào Tín và Ngô Tường thấy tiểu chủ mình cho phép, mừng rỡ nối gót theo Giang Tấn Hỉ ra khỏi Tiểu Xuân Đình. Giang Tấn Hỉ dắt đến một gian nhà nhỏ rồi gọi tên đầu bếp bưng rượu thịt lên đoạn mời hai người nữa ngồi ăn uống.
Rượu được vài tuần, Giang Tấn Hỉ đứng dậy nói:
- Hôm nay Cố Phu nhơn và Lưu Công tử đi vắng, vậy tôi xin phép đi tuần huê viên một tý rồi trở lại ngay, xin cư vị cứ ngồi đây ăn uống tự nhiên.
Nói rồi, Giang Tấn Hỉ bước vào nhà trong tin cho mẹ hay. Giang Tam Tẩu bước lại nói nhỏ với Lưu Yến Ngọc:
- Bây giờ tiểu thơ hãy theo tôi ra Tiểu Xuân đình đặng kết thân cùng Hoàng Phủ Công tử.
Lưu Yến Ngọc nghe nói mắc cỡ quá, đôi má nàng đỏ gay, nói:
- Chẳng lẽ mình là con gái lại đi tỏ lời cầu duyên như vậy coi sao được?
Giang Tam Tẩu thở dài đáp:
- Vẫn biết vậy, song Cố Phu nhơn và Lưu Công tử không ai đề cập đến cuộc lương duyên của tiểu thơ cả, mà nay tiểu thơ còn nệ hà như vậy sao được. Huống chi việc này là tiểu thơ vâng mạng của mẫu thân đã báo mộng chứ có phải lăng loàn trắc nết chi đâu mà ngại?
Lưu Yến Ngọc bất đắc dĩ phải nghe theo, cùng Giang Tam Tẩu thẳng đến Tiểu Xuân đình.
Lúc ấy, Hoàng Phủ Thiếu Hoa đang nằm một mình trong phòng bỗng thấy ngoài cửa có hai người đàn bà đi vào, mỗi người trên tay cầm một cây đèn sáp.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa ngồi phắt dậy hỏi:
- Lưu công tử đã đi vắng rồi, hai người là đàn bà tại sao đến đây làm gì?
Lưu Yến Ngọc nghe hỏi giật lùi một bước đứng yên lặng không dám bước tới cũng không thốt lên lời. Giang Tam Tẩu vội nắm tay Yến Ngọc dắt tới nói:
- Tiểu thơ cứ việc bước vào, có tôi đây không can chi đâu mà ngại.
Lưu Yến Ngọc bước vào một cách miễn cưỡng vẻ mặt sượng sùng, nàng đứng bên cạnh bàn cúi mặt làm thinh. Thấy vậy, Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại nghi là một việc dâm tà nên gằn giọng hỏi:
- Ở đời phàm nam nữ tất hữu biệt, tại sao đêm hôm tăm tối, hai người đàn bà con gái lại dám đường đột đến đây?
Giang Tam Tẩu nghiêm giọng nói:
- Chỉ vì công tử chưa rõ! Nguyên tiểu thơ đây là thứ nữ của Lưu Quốc trượng, linh muội của Lưu Công tử, năm nay mới mười lăm tuổi còn tôi đây là nhũ mẫu của tiểu thơ tên Giang Tam Tẩy, mẹ của Giang Tấn Hỉ, có việc cơ mật nên mới đến đây.
Thiếu Hoa nghe nói có việc cơ mật lấy làm lạ, im lặng lắng tai nghe. Giang Tam Tẩu thuật lại hết đầu đuôi: việc thân mãu của Lưu Yến Ngọc báo mộng, bảo phải đến đính ước kết hôn, cùng việc Lưu Khuê Bích âm mưu phóng hỏa đốt Tiểu Xuân đình ám hại.
Thiếu Hoa nghe rõ đầu đuôi liền đứng dậy chào Lưu Yến Ngọc nói:
- Té ra tiểu thơ đến đây cứu tôi mà tôi không biết, xin cam thất lễ, vậy xin mời tiểu thơ ngồi cho tôi phân tỏ đôi lời.
Giang Tam Tẩu kéo ghế cho Yến Ngọc ngồi, Thiếu Hoa cũng ngồi xuống nói:
- Nhân vì tôi kết thân với nhà họ Mạnh nên xúc phạm đến lịnh huynh. Trong hoàn cảnh trái ngang này làm sao tôi có thể kết hôn cùng tiểu thơ được.
Lưu Yến Ngọc nói:
- Vì tôi vâng lời theo mẫu thân báo mộng nên đến đây, nếu công tử đã đính hôn cùng Mạnh thị rồi thì tôi cam làm thứ thất.
Thiếu Hoa nói:
- Tiểu thơ nói vậy sao phải. Vả chăng lịnh tỷ đang làm Chánh cung Hoàng hậu thì bao giờ Quốc trượng lại gả tiểu thơ cho tôi đặng làm thứ thất sao? Hơn nữa lịnh huynh đang cố tâm ám hại tôi thì bao giờ người lại bằng lòng? Xin tiểu thơ nghĩ lại.
Lưu Yến Ngọc cúi mặt thở dài than:
- Tôi quả là kẻ vô duyên xấu phận, nay tôi vâng lời thân mẫu đến đính ước cùng công tử, nếu không thành nguyện ở vậy thủ tiết chứ không hề vầy duyên cùng ai nữa.
Nói đến đây nàng chỉ ngọn đèn tiếp:
- Có ngọn đèn đây chứng kiến cho tấm lòng tôi, nếu sau này tôi có thay lòng đổi dạ thì trời tru đất diệt.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa thấy Lưu Yến Ngọc quyết tình gắn bó với mình liền đứng dậy long trọng tuyên thệ:
- Tôi đây là Hoàng Phủ Thiếu Hoa, nếu có phụ lời của tiểu thơ xin quỷ thần soi xét.
Sau đó hai người trao quạt đổi khăn làm vật kỷ niệm, bỗng Giang Tấn Hỉ chạy vào nói:
- Bây giờ đã quá canh hai rồi, xin công tử hãy ra cửa sau trồn về cho mau.
Thiếu Hoa nói:
- Ta về thì yên cho phần ta rồi, nhưng về sau Khuê Bích hay được thì chắc ngươi không thể nào thoát khỏi tai nạn.
Tấn Hỉ nói:
- Việc ấy công tử chớ lo, tôi đã dự phòng rồi. Công tử về bên ấy cứ bảo rằng trong khi ngủ ở Tiểu Xuân đình bỗng thấy lửa cháy, may đâu có thần nhân cứu khỏi đem ra bỏ giữa đồng nên mới toàn mạng.
Thiếu Hoa nói:
- Nếu vậy ngươi hãy kêu giùm hai tên gia tướng ta và đặng chúng cùng về với ta luôn thể.
- Công tử làm như vậy thì lậu sự ra còn gì? Công tử cứ việc về trước đi rồi sáng ngày hai người ấy về sau chớ có hại chi đâu.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa gật đầu khen phải, vội vã bước ra ngoài Tiểu Xuân đình. Lưu Yến Ngọc, Giang Tam Tẩu cùng Tấn Hỉ ba người bước theo tiễn đưa chàng ra tận cửa vườn sau rồi mới trở lại.
Thoát khỏi huê viên, Thiếu Hoa đi được một hồi lâu bỗng nghe phía sau có tiếng gọi:
- Ai đó? Có phải Hoàng Phủ Công tử không?
Thiếu Hoa giật mình quay lại trông thấy một chú tiểu tăng, chàng hỏi:
- Tại sao người lại biết tôi?
Tên tiểu tăng mỉm cười đáp:
- Tôi vâng mệnh sự phụ tôi đến đây chờ tiếp công tử, xin công tử hãy ghé vào dùng trà.
Thiếu Hoa đoán chắc sư phụ tên tiểu tăng này không phải là hạng tầm thường, chàng lên tiếng hỏi:
- Chẳng hay sư phụ người pháp danh là gì?
Tiểu tăng đáp:
- Sư phụ tôi chính là Thanh Tu Trưởng lão ở tại chùa Huyên Giác gần nơi đây.
Dứt lời tiểu tăng quay đi, Thiếu Hoa nối gót theo sau, vừa đến cửa chùa đã thấy Trưởng lão bước nhanh nghinh tiếp.
Thanh Tu Trưởng lão nói:
- Tôi mừng cho quí nhơn thoát khỏi hỏa tai, lại gặp được mối lương duyên đẹp.
Thiếu Hoa nghe Trưởng lão nói trúng đích sự việc, chàng giựt mình nhưng giả vời nói:
- Nào tôi có bị tai nạn gì đâu, và cũng không gặp lương duyên nào cả.
Thanh Tu Trưởng lão cười ha hả:
- Công tử lại phải giấu ta làm gì? Vì ta đã thấu hiểu các việc quá khứ vị lai kia mà. Nếu công tử không tin, cứ việc ở lại đây chờ xem ngọn lửa bên Lưu viên rồi mới biết lời của Lưu tiểu thơ là chân thật.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa thấy Trưởng lão hiểu biết tâm sự của mình nên mới chịu thiệt. Trưởng lão hối tiểu tăng dâng trà lên và thong thả nói:
- Công tử cùng Lưu Tiểu thơ vốn có tiền duyên, nên cuộc nhơn duyên nầy về sau thế nào cũng sum hiệp, nhưng công tử phải bị lâm nạn lớn trong vòng ba năm đến nỗi tan nhà nát cửa, cốt nhục phân ly. Tuy vậy ta khuyên công tử chớ nên ưu phiền, phải bền chí làm tròn hai chữ hiếu trung thì sẽ có trời phù hộ. Đó chính là việc thiên cơ vô cùng bí nhiệm, xin công tử chớ nên tiết lậu.
Thiếu Hoa nghe nói thất kinh hỏi phăng:
- Chẳng hay nạn ấy có hại chi đến tánh mạng không, thưa sư phụ?
Thanh Tu Trưởng lão đáp:
- Công tử là bậc quí nhơn, nên dù có tai nạn chi cũng không hại đến tánh mạng. Miễn là chịu đựng cam khổ qua ba năm rồi thì một nhà sum hiệp hưởng phú quí vinh hoa.
Nói rồi, Trưởng lão bảo tiểu tăng đem cờ ra để cùng Thiếu Hoa chơi vài ván đặng chờ xem ngọn lửa bên vườn hoa họ Lưu.
Bây giờ xin nói việc Giang Tấn Hỉ, khi tiễn đưa Hoàng Phủ Thiếu Hoa thoát ra cửa sau về rồi, liền trở vào đem bổi chất đầy xung quanh Tiểu Xuân đình, đợi đến canh ba khi trời nổi gió mới đốt cháy. Lửa gặp bổi khô, gió mạnh nên chỉ trong nháy mắt ngọn lửa bốc cao tột trời. Giang Tấn Hỉ vờ vừa chạy vừa la:
- Lửa cháy! Lửa cháy! Hoàng Công tử uống rượu say đạp đổ ngọn đèn, bắt lửa cháy nhà rồi! Bớ người ta! Đến cứu! Đến cứu!
Tào Tính và Ngô Tường ở ngoài huê viên đang uống rượu nghe la bài hải, lật đật chạy ra hỏi Giang Tấn Hỉ:
- Có thấy công tử tôi chạy ra không?
Tấn Hỉ đáp:
- Chưa, chưa thấy!
Hai người nghe nói thất kinh áp vào kêu réo Thiếu Hoa om sòm mà không nghe tiếng đáp lại, chỉ thấy ngọn lửa bốc cao đốt cháy cây gỗ nổ bôm bốp. Cả hai đều giậm chân khóc rống lên.
Lúc ấy Tấn Phòng Quan hay tin trong vườn Quốc trượng lửa cháy liền đem binh vào tiếp chữa. Tào Tín và Ngô Tường vội nói với Tấn Phòng Quan:
- Hoàng Phủ Công tử tôi đang ngủ trong ấy mà thình lình bốc cháy, hãy mau mau tưới tắt lửa và tìm kiếm tử thi.
Tấn Phòng Quan nghe nói thất kinh:
- Trời ơi! Lại có Hoàng Phủ Công tử trong ấy sao?
Nói rồi đốc thúc quân sĩ, một mặt tưới nước vào như mưa, một mặt quăng câu liêm, câu móc vào giựt sập Tiểu Xuân đình tìm kiếm không sót chỗ nào mà vẫn không thấy tử thi đâu cả.
Tấn Phòng Quan nói:
- Trong đó không có tử thi nào cả, chắc là Hoàng Phủ Công tử đã hay được chạy thoát rồi.
Tào Tín và Ngô Tường không biết sao phải đốt đuốc đặng chạy đêm về báo tin, nhưng rủi cửa thành chưa mở nên phải ngồi chờ đến khuya mới qua được. Còn Giang Tấn Hỉ đợi cho ngọn lửa tàn, giao công việc nhà cho gia tướng rồi tung mình lên ngựa phi nhanh qua nhà họ Cố đặng tin cho Khuê Bích hay.
Lưu Khuê Bích hay tin nửa mừng nửa sợ. Mừng là vì giết được người tình địch thỏa lòng ghen ghét, nhưng sợ là sợ rồi đây Hoàng Phủ Kính sẽ bắt phải đền mạng. Chàng vội vã cùng Giang Tấn Hỉ ra về.
Đến nơi, Lưu Khuê Bích hay tin không tìm được thi thể của Thiếu Hoa thì thất kinh sợ rằng Thiếu Hoa đã thoát khỏi.
Giang Tấn Hỉ biết ý vội nói:
- Xung quanh Tiểu Xuân đình tôi chất bổi nhiều lắm và nổi lửa đốt lên một lượt, tưởng Thiếu Hoa không tài nào thoát khỏi đặng đâu.
Lưu Khuê Bích nghe nói mới an tâm, tỏ lời khen ngợi Giang Tấn Hỉ không ngớt.

Lời Bình:
Người ta thường bải “trâu tìm cột chớ mấy thuở cột tìm trâu”? Thế mà Lưu Yến Ngọc đi tìm Hoàng Phủ Thiếu Hoa để kết duyên thật là hiếm có trên đời.
Ta nên biết rằng, trai tài gái sắc xứng đôi vừa lứa một khi họ gặp nhau thế tất không nhiều thì ít họ cũng có chút ít cảm tình, hay ít ra họ cũng để ý nhau. Nếu trong hoàn cảnh ấy mà một trong hai người không dám mạnh dạn nói lên nỗi lòng của mình thì đôi lứa ấy sẽ uớc duyên với nhau ngay.
Có nhiều người hiểu rõ tâm lý biết được cái nhược điểm ấy cho nên họ thường bạ đâu tỏ tâm trạng mình đó rồi trai gái xằng bậy hóa ra tên Sở Khanh đáng trách. Có người quá chính chuyên sợ tổn thương đến danh dự của mình thậm chí đã thầm yêu nhau tha thiết mà không dám tỏ tâm trạng cho nhau biết để đến khi hối hận là cuộc tình duyên đã dang dở hay gặp nghịch cảnh mất rồi.
Ai cũng phải thừa nhận rằng cuộc tình duyên không nên xây dựng một cách sỗ sàng, nhưng một khi đã thật tình yêu rồi cũng không nên quá rụt rè và khi lương duyên đã thành tựu rồi cũng chớ nên quá đòi hỏi để thỏa mãn vể thể chất, bởi có thể biến thành cuộc tình duyên thấp hèn không bền lâu.


Hồi Thứ Tám

Hoàng Nguyên soái nổi giận tra gia tướng.
Giang Tấn Hỉ bí mật tở chơn tình

Nhắc lại Thiếu Hoa cùng hai tên gia tướng xin phép qua bên Côn Minh trì chơi thuyền cùng Lưu Khuê Bích, vợ chồng Hoàng Phủ Kính đợi mãi đến chiều tối vẫn không thấy con mình về. Doãn Phu nhơn lấy làm lo lắng hỏi chồng.
- Lạ thật. Không biết Thiếu Hoa có đi chơi thế nào đến bây giờ vẫn không thấy tăm dạng?
Hoàng Phủ Kính vẫn bình tĩnh nói:
- Phu nhơn khéo lo, tôi biết chắc thế nào Thiếu Hoa qua bên ấy cũng bị Lưu Khuê Bích cầm giữ lại không cho về, vì không mấy khi Thiếu Hoa nó qua bên ấy mà cuộc giao du của hai trẻ quá thân thiết làm sao cáo từ được?
Suốt đêm ấy Doãn Phu nhơn lo ngại nên thao thức mãi không ngủ được. Trời vừa rựng sáng, trông thấy Trưởng Hoa Tiểu thơ bước vào phòng. Doãn Phu nhơn vội hỏi:
- Bây giờ trời đã sáng rồi sao không thấy em con về?
Trưởng Hoa Tiểu thơ nói:
- Không biết chừng Lưu Khuê Bích cầm lại dùng cơm sớm mai rồi mới cho về chăng?
Tiểu thơn nói vừa dứt lời bỗng thấy Tào Tín và Ngô Tường từ ngoài ngõ hơ hải chạy vào quì mọp xuống đất vừa lạy vừa khóc đồng thanh bẩm:
- Nguy tai rồi lão gia ôi! Tánh mạng của Hoàng Phủ Công tử thật khó bảo toàn.
Vợ chồng Hoàng Phủ Kính nghe nói thất kinh quát hỏi:
- Tại sao tánh mạng công tử lại khó bảo toàn? Hãy nói mau!
Tào Tín và Ngô Tường gạt nước mắt đem hết sự việc kể lại đầu đuôi cho vợ chồng Hoàng Phủ Kính nghe. Doãn Phu nhơn nghe nói vùng khóc rống lên rồi lớn tiếng mắng hai tên gia tướng:
- Tại sao công tử bay chết thiêu mà chúng bay lại còn sống chạy về đây được? Thế thì cái chết của công tử nếu chúng bay không nhúng tay cũng biết trước nên mới thoát thân được.
Tào Tín và Ngô Tường nghe phu nhơn buộc tội, chúng sợ hãi run rẩy đáp:
- Bẩm phu nhơn, khi Tiểu Xuân đình bị phát hỏa thì hai tôi đang uống rượu ở ngoài nên không hề chi.
Hoàng Phủ Kính nghe nói nổi giận lôi đình vỗ ghế nạt lớn:
- Công tử ở trong phòng sao chúng bay không ở trong đó hầu hạ lại ra ngoài uống rượu, vậy thì đem hai đứa bay theo làm gì?
Hai tên gia tướng sợ hãi khép nép thưa:
- Bẩm Nguyên soái, chỉ vì công tử dạy chúng tôi mới dám. Lúc ấy, có một tên gia nhơn của Lưu gia tên Giang Tấn Hỉ đến mời chúng tôi ra ngoài uống rượu, chúng tôi cố ý từ chối, nhưng công tử thấy hắn có lòng tử tế nên công tử bảo chúng tôi cứ việc đi, chẳng dè khi ra ngoài được một lát thì thấy Tiểu Xuân đình phát hỏa. Không biết tai họa tự đâu đem đến chứ chẳng phải do chúng tôi ham ăn uống mà ra, xin Nguyên soái lượng xét cho.
Trưởng Hoa Tiểu thơ xen vào hỏi:
- Lưu Công tử đã có việc đi vắng, sao em ta lại không về còn ở lại làm gì?
- Thưa tiểu thơ, lúc Lưu Công tử ra đi, công tử tôi cũng tỏ ý muốn cáo từ nhưng Lưu Công tử cầm lại chẳng cho về.
Trưởng Hoa Tiểu thơ hừ một tiếng tỏ vẻ hằn học:
- Thế thì quả nhiên Lưu Khuê Bích đã đem lòng oán hận về việc thi bắn lúc trước cho nên lập mưu ám hại em ta đặng tranh cướp Mạnh thị. Nếu không phải vậy thì phàm chủ nhà đã đi vắng còn cầm khách ở lại làm gì?
Trưởng Hoa Tiểu thơ luận lẽ ấy, cả nhà ai cũng cho là phải. Trưởng Hoa lại lên tiếng hỏi tiếp hai tên gia tướng:
- Chúng bay có biết ai là người coi giữ cái huê viên ấy không? Và lúc ngọn lửa cất cháy có ai cứu chữa không?
Tào Tín và Ngô Tuờng đồng thưa:
- Người giữ vườn là Giang Tấn Hỉ và cũng chính tên ấy vào mời chúng tôi đi uống rượu, hắn trạc độ mười sáu mười bảy tuổi, còn trong khi phát hỏa thì có Tấn Phòng Quan đem binh đến cứu chữa…
Trưởng Hoa lại hỏi:
- Trong lúc quan đến cứu chữa có tìm thấy thi hài không?
- Dạ thưa tiểu thơ lúc ấy chúng tôi có bảo Tấn Phòng Quan đốc quân tìm kiếm nhưng không tìm thấy thi hài nào cả.
Trưởng Hoa ra chiều suy nghĩ rồi quay lại nói với song thân:
- Thế thì con tin chắc em con chưa chết, vì cứ như dung mạo của em con không phải là kẻ yểu tướng, hơn nữa không tìm thấy thi hài tất nhiên em con trốn thoát được rồi.
Tiểu thơ lại gạn hỏi hai tên gia tướng xem lúc Tấn Hỉ đến mời đi uống rượu với thái độ ra sao. Hai tên gia tướng kể lại sự việc Tấn Hỉ mời chúng ra ngoài rồi kêu hai người nữa cùng bắt chén, đoạn hắn bỏ ra huê viên lấy cớ đi tuần phòng, rồi trong lúc phát hỏa hắn lại tri hô lên trước nhất.
Trưởng Hoa cau mày nói:
- Nếu vậy thì thế nào tên Giang Tấn Hỉ ấy cũng có nhúng tay vào vụ này. Chắc là Lưu Khuê Bích bảo Tấn Hỉ rủ hai đứa này ra ngoài chờ cho Thiếu Hoa ngủ say rồi ám hại.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Lời con đoán có lý lắm. Vậy bây giờ ta phải lập tức bắt Giang Tấn Hỉ về đây tra vấn trước đã rồi sau sẽ hỏi Lưu Khuê Bích.
Dứt lời, Hoàng Phủ Kính tung mình lên ngựa tuốt sang Lưu phủ.
Lúc ấy Lưu Khuê Bích đang ngồi trong phòng, bỗng nghe gia đinh chạy vào báo:
- Có Hoàng Phủ Nguyên soái đến.
Khuê Bích lật đậy chạy ra nghinh tiếp, chàng trông thấy Nguyên soái hầm hầm sắc giận, một cái nhìn Nguyên soái cũng đủ làm cho Khuê Bích khiếp đảm lo âu.
Hoàng Phủ Kính gằn giọng hỏi:
- Đêm hôm qua vì cớ gì bên này phát hỏa? Còn con tôi bây giờ hiện ở đâu?
Lưu Khuê Bích đáp:
- Thưa, việc ấy tôi không được rõ, vì đêm hôm qua tôi mắc đi sang nhà cậu tôi hộ tang cho bà ngoại. Lúc ấy lịnh lang ngủ tại Tiểu Xuân đình không biết lý do gì bị hỏa tai. Mãi đến khi gia nhơn tin cho tôi chạy về thì tòa nhà ấy đã biến thành đống tro. Vả lại trong lúc ấy có Tấn Phòng Quan đem binh đến cứu chữa, nhưng tìm bới không thấy thi hài, chắc có lẽ lịnh lang chạy khỏi rồi cũng nên.
Hoàng Phủ Kính xoe tròn đôi mắt nhìn thẳng vào mặt Khuê Bích nói:
- Nếu bảo rằng con ta thoát khỏi, sao đến bây giờ không thấy nó về? Hãy dắt ta vào đó khám xét xem nào.
Lưu Khuê Bích vội vàng đưa Hoàng Phủ Kính ra Tiểu Xuân đình.
Đến nơi, Hoàng Phủ Kính truyền quân bới tìm thật kỹ, nhưng không tìm thấy chi hết. Lúc ấy gia tướng nhà họ Lưu cũng ra đứng vây xem thật đông. Tào Tín và Ngô Tường chỉ Giang Tấn Hỉ nói với Hoàng Phủ Kính:
- Thưa Nguyên soái, đêm hôm qua chính tên này ép mời chúng tôi uống rượu đây.
Hoàng Phủ Kính liền kêu Tấn Hỉ đến. Tấn Hỉ nhận thấy mình là ân nhân của Thiếu Hoa nên không chút ngại ngùng, chàng ung dung bước tới quì xuống.
Hoàng Phủ Kính quát hỏi:
- Ngươi tên họ gì? Có phải ngươi là kẻ coi giữ cái huê viên này không?
Giang Tấn Hỉ bình tĩnh bẩm:
- Bẩm Nguyên soái, tôi tên Giang Tấn Hỉ và chính tôi có nhiệm vụ trông coi cái huê viên này.
Hoàng Phủ Kính gằn từng tiếng:
- Đêm hôm qua ngươi ép hai tên gia tướng của ta uống rượu rồi ngươi lại bỏ đi đâu?
Giang Tấn Hỉ đáp:
- Vì đêm qua Cố Phu nhơn và Lưu Công tử đi vắng nên tôi phải đi tuần huê viên.
- Hừ! Nếu ngươi tuần phòng cẩn mật như vậy tất nhiên việc phát hỏa này vì duyên cớ gì ngươi phải biết rõ chứ?
Giang Tấn Hỉ đáp:
- Lúc ấy tôi đang đi tuần bên ngoài, thình lình thấy lửa dậy vội tri hô lên chứ vì duyên cớ gì thật tình tôi không biết.
Hoàng Phủ Kính nghe hắn chối quanh giận quá nạt lớn:
- Ngươi bảo ngươi mắc việc không thể uống rượu được thì việc gì lại ép người ta uống? Có phải là ngươi dùng kế điệu hổ ly sơn để ám hại con ta không? Chắc chắn việc phóng hỏa do tay ngươi rồi chứ còn chối cãi gì nữa.
Dứt lời, Hoàng Phủ Kính hô quân áp lại bắt Giang Tấn Hỉ đem tra vấn. Tấn Hỉ liền quì mọp xuống lạy thưa:
- Việc mời uống rượu ấy cũng vì tôi có lòng quí trọng hai người, còn việc xảy ra hỏa tai thật tình tôi không biết xin Nguyên soái lượng xét cho.
Lưu Khuê Bích thấy thế sợ Hoàng Phủ Kính đem Tấn Hỉ về tra khảo lậu sự nên bước ra nói:
- Xưa nay Giang Tấn Hỉ vốn kẻ lương thiện, tôi chắc hắn không bao giờ làm chuyện ác nhơn vậy đâu. Nếu Nguyên soái làm vậy oan cho nó tội nghiệp.
Hoàng Phủ Kính nhìn Khuê Bích nghiêm sắc mặt nói:
- Còn công tử mắc đi hộ tang sao cầm con tôi lại làm gì? Tôi chắc việc này do công tử chủ mưu ám hại con tôi.
Lưu Khuê Bích thản nhiên đáp:
- Việc cầm bạn ở lại chơi cũng là việc thường tình. Vả lại, tôi có ngờ đâu lịnh lang lại say rượu đạp đổ đèn làm cháy mất một tòa nhà của tôi. Phải chi tôi biết trước như thế thì tôi cầm cọng làm gì. Nay Nguyên soái bắt gia nhơn của tôi đem về tra vấn, tôi e trái đạo lý chăng?
Hoàng Phủ Kính nghe Khuê Bích nói lý lại càng nghi ngờ hơn nữa, lớn tiếng nói:
- Công tử nói rằng công tử có lòng tử tế mời con tôi ở lại, nhưng nghiệm theo lẽ thì không thể tin được.
Dứt lời Hoàng Phủ Kính ra lệnh áp giải Giang Tấn Hỉ về phủ.
Quân sĩ được lệnh áp tới trói Giang Tấn Hĩ dẫn đi lập tức. Lúc ấy, Giang Tấn Hỉ tưởng Hoàng Phủ Thiếu Hoa đã về đến nhà rồi, còn việc Hoàng Phủ Kính làm như vậy lả để cho Lưu Khuê Bích khỏi nghi ngờ mình nên không sợ sệt gì cả, lại giả vờ kêu lên:
- Lưu Công tử ôi! Hãy cứu tôi với.
Lúc ấy Lưu Khuê Bích cũng muốn cứu nhưng không biết làm sao, đành đứng trơ trơ như tượng gỗ.
Về đến phủ, Hoàng Phủ Kính thuật lại cho Doãn Phu nhơn và Trưởng Hoa Tiểu thơ nghe. Trưởng Hoa bấm trán suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Nếu không tìm thấy thi hài, thì chắc chắn là em con thoát thân rồi, xin phụ thân hãy an tâm.
Hoàng Phủ Kính thở dài nói:
- Nếu nó thoát được thân sao mãi đến bây giờ không thấy về? Thật ta lo ngại quá! Thôi, để ta đem Giang Tấn Hỉ tra hỏi xem sao.
Dứt lời, Hoàng Phủ Kính truyền quân bày đồ hình cụ ra rồi cho giải Giang Tấn Hỉ vào. Giang Tấn Hỉ đến nơi thấy vậy tưởng Nguyên soái giả vờ để che mắt Lưu Khuê Bích nên chàng vẫn bình tĩnh. Hoàng Phủ Kính lên tiếng hỏi:
- Ta thấy ngươi còn nhỏ tuổi nên chắc việc này chẳng phải do tay ngươi, vậy kẻ nào chủ mưu hãy khai mau.
Giang Tấn Hỉ tưởng Nguyên soái giả cách hỏi vậy thôi, nên chàng đáp ngay không cần nghĩ:
- Bẩm Nguyên soái, việc này do công tử say rượu đạp đổ đèn nên lửa bắt cháy chứ không ai âm mưu ám hại cả, xin Nguyên soái xét lại.
Nguyên soái nghe nói nổi giận nạt lớn:
- Ta thấy ngươi còn nhỏ nên không nỡ gia hình, sao ngươi dám đem lời xảo trá dối ta. Hừ, nếu ngươi không thú thật chớ trách ta sao độc ác!
Bấy giờ Giang Tấn Hỉ có ý giận thầm, hắn nghĩ:
“Tại sao công tử đã thoát thân về được rồi lại còn muốn làm khổ ta như vậy?”
Nghĩ đoạn, Giang Tấn Hỉ vội thưa:
- Bẩm Nguyên soái hãy cho tôi nói một đôi lời.
Hoàng Phủ Kính nghe Tấn Hỉ nói như vậy liều truyền quân sĩ bước ra ngoài hết và bảo:
- Ngươi có điều chi hãy nói đi.
Giang Tấn Hỉ nhìn bốn bên thấy vắng người liền bước đến gần Hoàng Phủ Kính nói nhỏ:
- Bẩm Nguyên soái, cho tôi xin hỏi Nguyên soái một lời. Chẳng hay Nguyên soái giả vờ làm như vậy hay Hoàng Phủ Công tử chưa về?
Hoàng Phủ Kính lấy làm ngạc nhiên:
- Nào! Ta có thấy con ta về bao giờ đâu!
Giang Tấn Hỉ thất kinh nói:
- Trời ơi! Té ra công tử chưa về sao? Thế thì lạ lùng thật!
- Ngươi nói gì vậy, ta không hiểu gì cả. Hãy nói thật ra cho ta biết, chớ nên giấu giếm.
Giang Tấn Hỉ liều quì xuống thuật đầu đuôi mọi việc cho Hoàng Phủ Kính nghe, Hoàng Phủ Kính nghe xong nửa mừng, nửa sợ, nói:
- Nếu vậy thì ngươi là ân nhân của con ta rồi, ta cần phải hậu tạ ngươi mới được, song không biết tại sao mãi đến bây giờ không thấy con ta về?
Giang Tấn Hỉ ra chiều suy nghĩ rồi nói:
- Không biết chừng công tử bị việc chi cản trở dọc đường chăng, nhưng tôi tin chắc sớm tối gì công tử cũng về, xin Nguyên soái chớ lo.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Thôi được, bây giờ ngươi hãy ở lại đây uống rượu chơi, chờ con ta về sẽ nói chuyện.
Giang Tấn Hỉ nói:
- Xin đa tạ tấm lòng đoái thương của Nguyên soái, song bây giờ nếu tôi uống rượu ở đây tất nhiên Lưu Công tử sẽ đem lòng nghi kỵ và làm khó dễ tôi.
Giang Tấn Hỉ vừa nói dứt lời bỗng có quân chạy vào báo:
- Bẩm Nguyên soái, công tử đã về!
Hoàng Phủ Kính nghe nói mừng rỡ vô cùng.
Xin nhắc lại việc Thiếu Hoa ghé vào chùa với Thanh Tu Trưởng lão đánh cờ đặng chờ xem lửa cháy trong vườn họ Lưu. Quả nhiên vào lối canh ba bỗng thấy trong huê viên lửa dậy hừng hực trời. Bấy giờ chàng mới tin Lưu Khuê Bích có lòng hại mình. Sáng hôm sau Thanh Tu cầm Thiếu Hoa ở lại dùng cơm mai rồi mới cho về, nên mới trễ nải như vậy.
Khi Hoàng Phủ Thiếu Hoa bước vô nhà, Giang Tấn Hie liền chạy tới vái lạy và hỏi:
- Tại sao mãi đến bây giờ công tử mới về?
Thiếu Hoa lật đật giơ tay đỡ Giang Tấn Hỉ dậy và nói:
- Người là ân nhân cứu mạng của tôi, xin chớ thủ lễ quá vậy, xin mời người ngồi đây tôi sẽ nói chuyện.
Nói rồi Hoàng Phủ Thiếu Hoa đi thẳng ra sau hậu đường, ai nấy đều mừng rỡ xúm lại hỏi lăng xăng.
Thiếu Hoa thuật lại đầu đuôi mọi việc cho cả nhà nghe, duy có việc Thanh Tu Trưởng lão mách cho biết gia đình họ Hoàng Phủ phải chịu tai họa trong ba năm nhà tan cửa nát, cốt nhục phân ly, chàng không nói ra vì sợ song thân phiền muộn.
Thiếu Hoa còn kể lại việc đính hôn với Lưu Yến Ngọc cho song thân nghe, nhưng chàng căn dặn không nên tiết lậu, sợ Lưu Khuê Bích biết được có hại cho em gái, và Mạnh Lệ Quân hay được cũng sanh lòng ghen tương.
Hoàng Phủ Kính gật đầu khen:
- Con nói phải lắm.
Rồi ông lấy ra mười lượng vàng trao cho Giang Tấn Hỉ, và nói:
- Ta thưởng cho ngươi mười lượng vàng này để đáp lại tấm lòng tốt của ngươi, nếu mai sau ngươi có cần gì cứ việc qua đây ta sẽ giúp đỡ cho.
Giang Tấn Hỉ tỏ lời từ chối:
- Tôi xin đội ơn Nguyên soái, nhưng việc ấy có chi lâm trọng, tôi không dám nhận lấy số tiền thưởng quá to tát như vậy đâu.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Ngươi đã là kẻ cứu mạng của con ta, đáng lẽ ta phải thâu dùng mới phải, chứ mười lượng vàng này có thấm vào đâu. Nhưng ngặt vì ngươi hiện đang ở với họ Lưu, nếu họ Lưu đối đãi tử tế với ngươi thì thôi, bằng không thì hãy qua đây ta sẽ trọng đãi.
Giang Tấn Hỉ nghe nói, mừng rỡ tiếp lãnh số vàng rồi thưa:
- Mẹ con tôi ở nhà họ Lưu từ lúc tôi mới lên chín tuổi, được cả nhà thừa nhận mẹ con tôi là người tâm phúc, nay vì Lưu Công tử lập tâm độc ác tôi phải làm như thế cũng đã bất nghĩa lắm rồi, lẽ nào lại bỏ đó sang đây sao phải. Nhưng tôi chỉ xin công tử một điều là nếu ai có hỏi hãy nói rằng trong khi đang ngủ xay thấy lửa dậy rồi có một thần nhân hiện ra cứu đem bỏ giữa đồng, sáng ngày hôm sau mới hỏi thăm đường về nhà. Nếu công tử thố lộ chơn tình thì chẳng những liên lụy đến tiểu thơ mà thôi, tánh mạng của mẹ con tôi cũng khó bảo toàn.
Cha con Hoàng Phủ Kính nhận lời rồi sai người đưa Tấn Hỉ ra về.
Khi Giang Tấn Hỉ về rồi, Hoàng Phủ Kính kêu Tào Tín và Ngô Tường chỉ vào mặt mắng:
- Hai đứa bay toàn là kẻ tham ăn tham uống rủi chút nữa là con ta chết mất rồi! Thế thì ta còn dùng hai đứa bay sao được.
Tào Tín và Ngô Tường thất kinh quì lại cầu van. Thiếu Hoa thấy vậy thương tình bước tới thưa:
- Xin phụ thân hãy dung cho nó, vì việc này do con bảo chứ chúng nó không dám tự tiện bỏ ra ngoài.
Hoàng Phủ Kính bằng lòng tha thứ nhưng lại nói:
- Chúng bay mới lầm lỡ lần đầu ta cũng thương tình tha cho, nếu lần sau có vậy nữa ta sẽ trị tội nặng.
Hai tên gia tướng mừng rỡ lạy tạ lui ra.
Nói về Lưu Yến Ngọc và Giang Tam Tẩu khi hay tin Hoàng Phủ Kính bắt Giang Tấn Hỉ về, trong lòng lo ngại không yên. Hai người không biết Hoàng Phủ Thiếu Hoa có về đến nhà hay không, nếu có về nhà tại sao Hoàng Phủ Nguyên soái lại bắt Giang Tấn Hỉ?
Ngày sau, Giang Tam Tẩu giả vờ đến khóc lóc với Lưu Khuê Bích:
- Hôm qua Hoàng Phủ Nguyên soái bắt con tôi sang bên đó tra vấn, tôi sợ con tôi bị đòn bọng chịu không nổi khai bậy ra thì biết làm sao?
Trong lúc hai người đang bàn luận, bỗng thấy Giang Tấn Hỉ về; dọc đường Tấn Hỉ đã lấy đất và lọ bôi mặt cho lem luốc trông như người bị khảo tra nhừ tử vậy. Hắn vừa bước vào nhà vừa đi cà nhắc trông bộ thảm thương, Giang Tam Tẩu vừa thấy con, giả vờ kinh hãi chạy ra hỏi:
- Con ôi! Hình như con bị tra khảo nhiều lắm phải không?
Giang Tấn Hỉ thổn thức thưa:
- Khổ lắm mẹ ôi! Hoàng Phủ Nguyên soái bắt con về cột chặt cứng rồi lấy kềm kẹp đau đứt ruột. Nguyên soái buộc con phải khai việc do Lưu Công tử thù hằn về vấn đề lương duyên của Mạnh thị nên phóng hỏa ám hại Hoàng Phủ Công tử. Con nhất định chối từ thì bọn gia tướng lại ra tay kềm kẹp dữ dội, may thay lúc đó có Hoàng Phủ Công tử về, con mới thoát nạn.
Lưu Khuê Bích nghe nói, thất kinh hỏi:
- Ngươi bảo Hoàng Phủ Thiếu Hoa thoát khỏi về đặng được rồi à?
- Vâng, sự thật là như vậy. Tôi nghe Hoàng Phủ Công tử thuật lại rằng: trong cơn lửa dậy mười phần nguy cấp bỗng đâu có một vị thần hiện ra cứu người rồi bay vụt lên không trung, đem bỏ giữa đồng. Vì trời tối mà ở đó đường sá lại lạ lùng nên người đợi đến sáng mới hỏi thăm đường về. Trên đường về, Hoàng Công tử đi quanh lộn mãi đến trưa mới đến nơi.
Lưu Khuê Bích nghe qua, thở dài căm tức vì đã hại người tình địch không được, lại thiếu mất một tòa nhà xinh đẹp trong huê viên.

Lời Bình:
Trong thời gian phong kiến, bọn cường hào luôn có tư tưởng và hành động hà hiếp kẻ khác, chúng muốn gì được nấy, không ai có thể ngăn cản được, nếu ai cả gan nghịch lại, tất nhiên sẽ bị chúng dùng quyền lực làm cho điêu đứng, ta nhà nát cửa. Nhân vật Hoàng Phủ Kính này cũng đường đường là một vị Nguyên soái có quyền tiền trảm hậu tấy, nhưng so với Lưu Tiệp làm chức Quốc trượng trong triều, tất nhiên phải bị lép vế. Vì vậy phải bị nạn cá lớn ăn hiếp cá bé. Vì lẽ ấy Lưu Khuê Bích mới dám nói lý trong khi Hoàng Phủ Kính đến bắt Giang Tấn Hỉ.
Nhân vật Thanh Tu Trưởng lão trong hồi này quả không phải là người phàm tục mà là người trên thượng giới sai xuống cầm chân Thiếu Hoa trong một buổi để cho chàng về chậm mới sanh ra việc Hoàng Phủ Kính đến Lưu phủ và gây thêm sự mâu thuẫn về sau.
Chữ “trung” trong thời phong kiến thật quả máy móc và hẹp hòi, làm tôi phải trung với chủ vô điều kiện; không cần biết chủ ấy là vị hôn quân hay minh quân, chủ bảo chết thì phải chết, có thể nói là triệt để trung thành. Ở đây Giang Tấn Hỉ làm tôi cho họ Lưu thì dù cho họ Lưu có gian ác đến đâu cũng vẫn phải trung thành, cho nên tuy hành động cứu người của Tấn Hỉ là nhân đạo, song như thế là trái với lòng trung với Lưu gia nên chàng phải giấu nhẹm. Nhưng ở đời đã làm việc thiện mà phải lén lút thì thật là khổ tâm.


Hồi Thứ Chín

Nghe lời con, Quốc trượng thi độc kế
Giữ lòng trung, Nguyên soái quyết ra binh.

Lưu Khuê Bích ngồi bấm trán suy nghĩ một hồi lâu rồi cho phép Giang Tấn Hỉ vào nhà an nghỉ.
Tấn Hỉ vào trong đem hết mọi việc thuật lại cho mẹ nghe. Giang Tấn Hỉ liền đến Tiểu Vân các nói cho Lưu Yến Ngọc biết, cả hai mừng rỡ vô cùng.
Trong lúc ấy, bên nhà họ Mạnh có tên gia nhơn tên Mạnh Minh hay tin Hoàng Phủ Thiếu Hoa bị nạn hỏa tai bên Tiểu Xuân đình, nhưng hắn kông biết rõ sống chết thế nào, liền phi báo cho Mạnh Sĩ Nguyên hay, Mạnh Sĩ Nguyên vừa nghe qua đã biết ngay việc ấy do Lưu Khuê Bích âm mưu hãm hại rồi. Cả nhà: Hàn Phu nhơn, Mạnh Gia Linh, Tô Đại Nương, Mạnh Lệ Quân, Tô Yến Tuyết thảy đều thất kinh.
Tô Yến Tuyết nói:
- Việc này chắc chắn Lưu Khuê Bích hận việc tranh hôn nên âm mưu ám hại đây.
Hàn Phu nhơn cũng nói:
- Nếu quả hiền tế ta bị hại rồi thì cuộc nhơn duyên đại sự của con ta bị dang dở còn chi.
Mạnh Lệ Quân ngồi lặng thinh không thốt nên nửa lời song trong lòng tái tê đau đớn khôn xiết.
Tô Yến Tuyết lại tiếp:
- Tôi xem tướng mạo của Hoàng Phủ Công tử không phải là hạng yểu tướng, chắc không can chi đâu.
Hàn Phu nhơn thở dài nói:
- Lưu Khuê Bích thì cố tâm ám hại, còn hiền tế ta thì bất ngờ, làm sao tránh khỏi tai nạn?
Mạnh Sĩ Nguyên nói:
- Thôi, các ngươi đừng luận bàn nhiều chuyện, để ta sang nhà Hoàng Phủ hỏi thăm thì rõ ngay.
Nói dứt lời, lão mặc áo lên ngựa ra đi. Đến nơi, Mạnh Sĩ Nguyên cho người vào thông báo, Hoàng Phủ Kính lật đật chạy ra nghinh tiếp vào nhà.
Mạnh Sĩ Nguyên hỏi:
- Chẳng hay lịnh lang vì cớ chi mà phải ở đêm bên nhà họ Lưu đến nỗi phải lâm hỏa hoạn? Việc phát hỏa ấy đầu đuôi ra thể nào, còn lịnh lang hiện giờ ở đâu?
Hoàng Phủ Kính bèn tỏ hết đầu đuôi cho Mạnh Sĩ Nguyên nghe, nhưng Hoàng Phủ Kính chỉ nói dối y theo lời Giang Tấn Hỉ đã xin, còn việc Thiếu Hoa đính ước với Yến Ngọc cũng giấu nhẹm.
Mạnh Sĩ Nguyên ngồi suy nghĩ một hồi rồi nói:
- Tôi tin chắc sự việc này do Lưu Khuê Bích hận thù về việc tranh hôn mà gây ra. Thế thì từ nay chúng ta cần phải đề phòng hắn mới được.
Hoàng Phủ Kính gật đầu đáp:
- Đại nhơn luận như vậy rất chí lý, chính tôi cũng nghĩ vậy.
Hai người trà nước vãn hồi lâu, Mạnh Sĩ Nguyên đứng dậy cáo từ ra về. Ông ta đi nhanh về thuật lại đầu đuôi cho cả nhà nghe. Ai nấy đều mừng rỡ vô cùng. Trong nét mặt hớn hở của mọi người, chỉ có Tô Yến Tuyết là vui mừng hơn hết. Nàng vội vã chạy vào phòng nói cho Mạnh Lệ Quân hay và bảo:
- Tiểu Thơ thấy lời tôi đoán có trúng không? Tôi chỉ nhìn qua tướng mạo của Hoàng Phủ Công tử là đủ biết, dù người có gặp tai nạn bằng trời cũng không chết đâu mà!
Mạnh Lệ Quân buồn bã đáp:
- Thù oán đã gây nên rồi, tôi chắc Lưu Khuê Bích sẽ còn gây ra nhiều chuyện nữa chứ không phải vậy thôi đâu!
Tô Yến Tuyết nói:
- Hôm nay âm mưu Khuê Bích đã bại lộ tất nhiên Hoàng Phủ Công tử thấy rõ bộ mặt phản bạn của hắn rồi, chắc người sẽ tuyệt giao và hết sức đề phòng thì Khuê Bích làm gì được?
Mạnh Lệ Quân nói:
- Hiện nay nhà họ Lưu đang có thế lực, không khi nào chịu buông tha, nhưng chị cũng hy vọng người lành sẽ có Trời Phật phù hộ thôi.
Hôm ấy nội nhà Hoàng Phủ ai nấy đều hậm hực tên Lưu Khuê Bích lòng người dạ thú. Hoàng Phủ Kính định sáng hôm sau viết biểu đem về triều dâng lên Thiên tử để người trừng trị hành vi ác độc ấy. Nhưng Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại can:
- Xin thân phụ chớ nên phiền lòng, con nguyện từ nay tuyệt giao với Lưu Khuê Bích thì chắc hắn không làm gì con được đâu. Nếu thân phụ tâu lên Thiên tử, tất làm hại bọn Giang Tấn Hỉ và kết thêm oán cừu với Lưu Tiệp không nên.
Hoàng Phủ Kính nghe con nói hữu lý nên đành nuốt hận bỏ qua.
Bây giờ tại Lưu phủ, Lưu Khuê Bích nằm gác tay lên trán nghĩ thầm:
“Ai ngờ đâu Hoàng Phủ Thiếu Hoa không chết mà ta lại bị cháy mất một tòa nhà xinh đẹp. Còn bảo rằng hắn có thần nhân cứu mạng thì phi lý. Hay là Giang Tấn Hỉ tiết lộ ra nên hắn mới thoát đặng chăng?”
Rồi Khuê Bích lại nghĩ:
“Nay Hoàng Phủ Kính đã biết rõ ta âm mưu hai con lão rồi, nếu lão tâu lên Thiên tử trong lúc cha ta chưa biết rõ đầu đuôi thì biết lấy ai bênh vực cho ta? Chi bằng ta viết hơ tỏ cho thân phụ ta biết trước, xin người tìm cách hại Hoàng Phủ Kính để cướp mối lương duyên Mạnh thị về ta thì hay hơn cả. Hơn nữa phụ thân ta yêu mến ta lắm, lẽ nào người lại bác bỏ lời cầu xin của ta?”
Nghĩ đoạn, Lưu Khuê Bích lấy bút mực viết một phong thơ rồi gọi tên gia tướng Du Nhị vào bảo:
- Ta cho ngươi ba chục lạng bạc đây, ngươi hãy cấp tốc đem bức thơ này đến tại kinh trao cho Quốc trượng nhé!
Du Nhị được số bạc khổng lồ, hắn mừng quá vâng dạ rốt rít, Khuê Bích lại cho Du Nhị biết rõ những lời lẽ trong thơ và dạy những câu trả lời phòng khi Quốc trượng có hỏi thì ứng đáp cho phù hợp với lời lẽ láo khoét của chàng.
Du Nhị lãnh thơ lui ra tung mình lên ngựa đi ngay. Chẳng bao lâu hắn đến kinh thành, tìm đến dinh Lưu Tiệp.
Lúc bấy giờ Lưu Tiệp có một người hầu thiếp mến yêu tên Ngô Thục Nương. Người hầu thiếp này nguyên là của một vị môn sanh xuất tiền mua về rồi đem tặng cho Lưu Tiệp. Nàng có sắc đẹp vô cùng quyến rũ, lại có óc thông minh về toán học. Ở với Lưu Tiệp nàng sanh được một đứa con trai chưa đầy một tuổi, đặt tên là Lưu Quí.
Hôm ấy Lưu Tiệp đang bồng Lưu Quí nựng nịu, bỗng thấy con nữ tỳ chạy vào bẩm:
- Có một người ở Vân Nam mang thơ đến xin vào ra mắt.
Lưu Tiệp liền trao con cho Ngô Thục Nương rồi cho đòi vào.
Du Nhị vào đến nơi cúi lạy, Lưu Tiệp nhanh miệng hỏi:
- Cả nhà ta có được mạnh giỏi không?
- Bẩm lão gia, cả nhà đều được bình yên cả, nay công tử sai mang thơi đến dâng cho lão gia.
Vừa nói, Du Nhị vừa giơ hai tay dâng thơ lên. Lưu Tiệp tiếp lấy thơ bóc ra xem ngay.
Xem xong, Lưu Tiệp đứng phắt dậy cười gằn nói:
- Được rồi, nếu ta không trừ được bọn Hoàng Phủ Kính và Mạnh Sĩ Nguyên thì không phải là tay Quốc trượng.
Ngô Thục Nương thấy Lưu Tiệp có vẻ hằn học, vội hỏi:
- Trong thơ nói gì trong ấy mà lão gia lại giận dữ đến thế?
Lưu Tiệp liền trao bức thơ cho Ngô Thục Nương và nói:
- Nàng hãy đọc hết bức thơ này thì hiểu rõ nguyên nhân.
Lúc ấy mấy người hầu thiếp của Lưu Tiệp đều xúm lại xem thơ. Ngô Thục Nương xem xong ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu, đoạn nở một nụ cười nói với Lưu Tiệp:
- Những lời lẽ trong thơ này tôi e không thật, lão gia chớ nên bận tâm là gì vô ích, vì nếu cứ kể thao tước phẩm của Hoàng Phủ Kính thì đối với lão gia có thấm vào đâu. Hơn nữa hiện nay quyền thế của lão gia đệ nhất trong triều há Mạnh Sĩ Nguyên lại không biết sao? Vả lại, công tử nhà ta tài mạo kiêm toàn, nếu công tử cùng Thiếu Hoa cả hai đều bắn trúng cả ba phát thì lẽ nào họ Mạnh lại không gả con cho Lưu Công tử mà lại gả con cho Hoàng Phủ Công tử? (Nguyên vì trong thơ Khuê Bích nói dối rằng mình cũng bắn trúng ba phát như Thiếu Hoa mà Mạnh Sĩ Nguyên lại không gả cho mình).
Nói đến đây, Ngô Thục Nương mỉm cười rồi tiếp:
- Theo tôi đoán thì thế nào Thiếu Hoa cũng bắn trúng ba phát tên còn công tử nhà ta thì bắn không trúng. Nay công tử vì quá say mê nhan sắc của Mạnh thị nên gởi bức thơ này đặng khiến lão gia tức giận làm hại nhà Hoàng Phủ. Còn việc phát nhơn ta đem về tra khảo lại càng nói dối hơn nữa, vì nhà ta là một nhà hầu tước, mà dù nhà thường dân đi nữa Hoàng Phủ Kính cũng phải giữ theo pháp luật chứ có đâu con mình vô sự mà lại vu cáo cho người ta âm mưu hãm hại bao giờ? Thế thì lời lẽ trong bức thư này từ đầu chí cuối đều vô lý, xin lão gia chớ tin.
Lưu Tiệp gật đầu đáp:
- Nàng nói cũng có lý lắm đấy, nhưng con ta yêu Mạnh Lệ Quân sao Hoàng Phủ Kính lại không nhường nhịn, còn cho con mình đến tranh hôn, có phải hắn khinh ta không? Nhất định ta phải làm cho hắn nát cửa tan nhà, nếu không, chính con ta nó khinh ta là hèn nhát chứ đừng nói ai hết.
Nói rồi, Lưu Tiệp vội viết thư trả lời cho Khuê Bích biết và hứa sẽ trả thù cho con.
Tuy Lưu Tiệp là kẻ gian thần nhưng bản tánh của Lưu Tiệp không giống những gian thần khác, gia sản lão dinh dư nên không cần ăn hối lộ của ai. Ngoài cái bản chất độc ác, lão còn có tánh háo thắng nên hễ thấy ai a dua nịnh bợ thì lão bên vực triệt để, cho nên trong triều kẻ xe phụ, khiến thế lực lão càng to lớn hơn, một tiếng hô của lão rất nhiều kẻ hưởng ứng. Hôm nay lão quyết hại Hoàng Phủ Kính thì Hoàng Phủ Kính khó mà tránh khỏi.
Cách vài hôm, khi Thiên tử lâm triều, các quan triều kiến tung hô xong rồi, bỗng có quan Huỳnh môn bước ra quì tâu:
- Vừa rồi có quan Tuần phủ Sơn Đông là Bánh Như Trạch và quan Tổng binh ải Đăng Châu là Ân Diện Tiên dâng biểu văn về cáo cấp rằng có tướng Phiên tên là Ô Tất Khải kéo ba muôn binh đến cướp phá biên cương, quân ta đối định bị thua luôn mấy trận vì Ô Tất Khải sức mạnh phi thường, lại có tên quân sư tên Thần Võ Đạo nhơn có nhiều phép lạ.
Vua Thành Tôn nghe tâu, thất kinh nói:
- Trẫm cũng thấy trước bọn giặc này vô cùng lợi hại nên năm trước trẫm đã truyền chỉ cho quan Tuần phủ Sơn Đông chế tạo thêm chiến thuyền và binh khí đủ loại để phòng bị, thế mà nay vẫn bị thảm bại là ý gì?
Rồi vua truyền đòi Thượng biểu quan vào hỏi:
- Chẳng hay quân giặc tài lực ra thế nào, khanh hãy tường thuật tỉ mỉ lại xem.
Thượng biểu quan vội quì tâu:
- Tên tướng soái của giặc là Ô Tất Khải trạc độ tam tuần, mình cao chín thước, sức mạnh địch nổi muôn người, hắn dùng cặp ngân chùy ước đặng ngàn cân, lại có tên quân sư là Thần Võ Đạo nhơn cũng dềnh dàng lớn vóc, ra trận trường dùng gươm, đặc biệt là hắn biết hô phong hoán võ, phép thuật dị kỳ, quân ta không tài nào chống nổi nên mới dâng biểu về cáo cấp xin binh cứu viện.
Vua Thành Tôn thở dài than:
- Như vậy biết liệu làm sao bây giờ?
Thế là Lưu Tiệp vớ được cơ hội may, lão thầm nghĩ:
“Bọn giặc đã có phát thuật như vậy thì ai mà đánh chúng cho lại? Thôi, để ta tiến cử Hoàng Phủ Kính đi chinh phạt. Thế nào hắn cũng bị thảm hại. Chừng ấy ta sẽ tìm cách hại hết gia quyến hắn là xong”.
Nghĩ rồi Lưu Tiệp bước ra quì tâu:
- Nay bệ hạ mới lên ngôi, lòng người vẫn chưa định, cần phải sai danh tướng đi dẹp cho yên, nếu chậm trễ các chỗ khác sẽ bắt trước dấy loạn thì nguy.
Vua Thành Tôn gật đầu nói:
- Chính trẫm cũng ngại như vậy, song bọn giặc này lợi hại lắm, biết ai đâu mà đương đầu nổi?
Lưu Tiệp tâu:
- Hạ thần biết có một vị đại thần đủ sức đánh lui giặc này, nếu bệ hạ bằng lòng giáng chỉ cho người ấy đem binh đi đánh dẹp, nhất định sẽ thành công.
Vua Thành Tôn nóng lòng hỏi vội:
- Chẳng hay Quốc trượng tiến cử người nào?
Lưu Tiệp tâu:
- Hạ thần xin tiến cử Hoàng Phủ Kính hiện làm Vân Nam Tổng đốc Đại Nguyên soái. Người ấy quả là một tay lão luyện về việc chiến chinh. Bệ hạ chỉ cần phát cho vài muôn binh là quân giặc sẽ bị phá tan ngay.
Vua Thành Tôn nghe tâu, mừng rỡ phán:
- Ý khanh rất hợp ý trẫm, Hoàng Phủ Nguyên soái quả thật là một danh tướng, nếu sai người đi thì chắc sẽ thành công.
Dứt lời, vua Thành Tôn vội viết chiếu phong cho Hoàng Phủ Kính làm Chinh Đông Đại Nguyên soái, lại được quyền tiền trảm hậu tấu, lãnh hai muôn binh qua Sơn Đông dẹp giặc.
Viết xong, vua sai một viên quan lãnh chiếu và ấn Nguyên soái cùng ấn tiên phong đem ra Vân Nam cho Hoàng Phủ Kính. Đoạn vua bãi chầu về cung, còn Lưu Tiệp về phủ viết một bức mật thơ sai người đem ra Sơn Đông cho Bành Như Trạch biết rằng Hoàng Phủ Kính là kẻ thù với mình, chờ cho Hoàng Phủ Kính ra binh thất bại sẽ viết biểu về trào vu cáo rằng Hoàng Phủ Kính tạo phản để hại cho hết dòng họ hoàng Phủ Kính mới thỏa lòng căm hận.
Khi Khâm sai lãnh chiếu đi đến Vân Nam, Hoàng Phủ Kính vội vã ra nghinh tiếp. Đọc xong chiếu, Hoàng Phủ Kính hỏi Khâm sai:
- Hiện nay trong triều rất nhiều võ tướng ở không, sao Thiên tử không sai đi dẹp giặc còn ta đang trấn ải quan sao lại chiếu triệu sai đi?
Khâm sai đáp:
- Vì có Lưu Quốc trượng tiến cử nên triều đình mới sai Nguyên soái đi.
Hoàng Phủ Kính nghe qua cười khẩy nói:
- Thế thì Quốc trượng tử tế với tôi đấy chứ. Nhưng ta là võ quan còn sợ chi việc chinh chiến?
Sau đó, Hoàng Phủ Kính truyền dọ tiệc thết đãi Khâm sai. Rượu được vài tuần, Nguyên soái hỏi:
- Bọn Phiên tặc sang quấy nhiễu biên cương với lực lượng ra thế nào mà quân ta phải thua luôn mấy trận liền?
Khâm sai bèn kể lại việc lợi hại của địch quân, nào là Ô Tất Khải sức mạnh phi thưòng, nào là Thần Võ Đạo nhơn thuật phá kỳ dị vân vân.
Tiệc mãn, Khâm sai cáo từ lui ra qua quán dịch, còn Hoàng Phủ Kính thì trở vào hậu đường. Doãn Phu nhơn nói:
- Việc này rõ ràng là Lưu Tiệp nó lập kế báo thù cho con, ta biết liệu sao đây?
Hoàng Phủ Kính thở dài than:
- Nếu ngày trước ta tâu cùng Thiên tử thì làm sao có xảy ra việc như ngày nay!
Doãn Phu nhơn đề nghị:
- Bây giờ cứ việc dâng biểu lên Thiên tử tỏ bày mọi việc cho Thiên tử biết rõ rằng hắn binh con, muốn lập kế hãm hại lão thần cho rõ mặt gian thần hắn ta.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Bây giờ đã có chiếu chỉ mà ta còn tâu lên việc ấy, không khéo triều đình sẽ cho ta là kẻ tham sanh húy tử nên tìm cớ thối thác. Vả lại, năm xưa giặc Thổ Phiên dữ tợn như thế mà ta còn phá tan được thay, huống chi nay bọn giặc nầy, há ta lại sợ sao?
Doãn Phu nhơn nói:
- Phu quân chỉ giỏi về võ nghệ binh pháp chứ làm sao trừ được yêu thuật?
Hoàng Phủ Kính đáp:
- Phu nhơn hãy an tâm, với oai linh của Thiên tử thì tưởng có yêu thuật gì cũng không thắng nổi đâu.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa thấy thế vội bước ra thưa:
- Xin phụ thân hãy cho con theo với, vì con tưởng lúc ra trận, con cũng có thể giúp phụ thân một tay đắc lực.
Hoàng Phủ Kính lắc đầu đáp:
- Việc chinh chiến không phải là việc chơi đâu! Ta đây thọ ơn vua lộc nước nên phải xông pha vào chốn hiểm nguy, còn các con cần phải thu xếp gia sản trở về quê hương phụng sự mẫu thân, giữ tròn câu hiếu đạo, chớ nên tham lam hai chữ công danh mà sa vào tay gian thần Lưu Tiệp.
Doãn Phu nhơn nói:
- Hành động của đấng tu mi, bổn phận thiếp không có quyền cản trở, nhưng còn việc nhơn duyên của hai trẻ chưa thành, biết liệu sao?
Hoàng Phủ Kính nói:
- Phu nhơn nên biết rằng, cứ theo tướng mạo của con gái ta thì làm gì sau này cũng được đại quí, chúng ta chớ nên vội vàng mà uổng cho đời nó, còn con trai của ta cũng còn đang độ thiếu niên, chờ tôi đi chinh chiến về hãy xây dựng cũng chẳng muộn. Tôi đi đây có muộn lắm cũng hai năm, bằng mau lắm cũng một năm thì về, lúc ấy sẽ làm lễ cưới cho nó cùng tiểu thơ họ Mạnh.
Doãn Phu nhơn cúi đầu vâng mạng.
Hôm sau, Hoàng Phủ Kính lo sửa soạn quân mã rồi định đến ngày mồng tám đưa gia quyến theo đường thủy trở về quê hương, qua ngày mười hai sẽ kéo binh sang Sơn Đông dẹp giặc.
Hoàng Phủ Kính trù liệu vừa xong, bỗng nghe gia đinh vào báo:
- Có Mạnh Sĩ Nguyên đến viếng.
Hoàng Phủ Kính vội vã ra nghinh tiếp vào. Mạnh Sĩ Nguyên nói:
- Tôi không dè Lưu Tiệp nó đem lòng độc hiểm âm mưu trả thù cho con hắn nên mới tiến cử Nguyên soái đi dẹp giặc lần này, chẳng hay Nguyên soái nghĩ sao?
Hoàng Phủ Kính mỉm cười đáp:
- Việc này chính tôi cũng thừa hiểu Lưu Tiệp cố tình hại tôi, song tôi đã thọ hưởng ơn vua lộc nước bấy lâu, tất nhiên phải đem thân ra gánh vác. Tôi đã định ngày mười hai tháng tám này khởi binh, còn gia quyến thì đến ngày mùng tám này tôi đưa về quê hương. Tôi định sang đại nhơn, chẳng dè đại nhơn lại sang đây, xin đại nhơn cho phép tôi thưa một việc.
Mạnh Sĩ Nguyên nói:
- Chúng ta đây coi như người nhà cả rồi, Nguyên soái có việc gì cứ nói tự nhiên.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Tôi thấy lịnh ái và tiện nhi cũng còn niên thiếu, vậy xin đợi vài năm, chờ tôi dẹp giặc về sẽ tính làm lễ cưới, chẳng hay đại nhơn nghĩ sao?
Mạnh Sĩ Nguyên đáp:
- Hôm nay Nguyên soái bận lo việc nước thì việc nhỏ mọn ấy đợi đến bao giờ lại không được; nhưng tôi nghe nói quân giặc này có phép thuật vô cùng lợi hại nên tôi lấy làm lo lắm.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Tôi chỉ dốc một lòng trung và cậy nhờ đến oai linh của Thánh thuợng thì tưởng yêu thuật cũng không làm gì nổi. Nhưng nói cho cùng, tôi có bề nào đi nữa thì cũng là tròn bổn phẩn của một kẻ tôi trung đối với quốc gia vậy.
Mạnh Sĩ Nguyên nói:
- Nguyên soái đã có lòng trung như vậy, chắc trời kia cũng phò cho chóng thành công. Vậy nay tôi xin tiến cử cho Nguyên soái một người đại tướng để trợ lực cùng Nguyên soái ngoài trận mạc, chẳng biết Nguyên soái có bằng lòng dung nạp không?
Nguyên soái hỏi:
- Chẳng hay người ấy là ai vậy?
- Thưa người ấy vốn là biểu đệ của tôi, quê ở Giang Nam trên Vệ Hoán tự là Trấn Tôn, năm nay va tuổi độ bốn mươi, võ nghệ cao cường, hiện làm quan Tổng binh tại tình này.
Hoàng Phủ Kính mừng rỡ nói:
- À, tôi nghe danh người ấy đã lâu, nếu được đại nhơn tiến cử, tôi xin trọng dụng.
Sau đó Mạnh Sĩ Nguyên cáo từ ra về. Hoàng Phủ Kính tiễn chân ra tận ngoài thành mới trở lại.

Lời Bình:
- Xin độc giả hãy cùng tôi đi sâu vào tâm trạng của hai chàng công tử họ Lưu và họ Hoàng. Sự thật hai người này tài mạo tương đương. Đứng về phương diện tướng số mà bình phẩm như Tô Yến Tuyết thì có thể nói Hoàng Phủ Thiếu Hoa quí tướng hơn, chứ kỳ thật Khuê Bích vẫn đẹp trai không thua kém Thiếu Hoa, còn võ nghệ và tài thao lược Thiếu Hoa chưa chắc đã hơn Khuê Bích. Hai người có khác biệt nhau là ở chỗ tâm trạng mà thôi. Khuê Bích thì mang một tấm lòng tà vạy, còn Thiếu Hoa lại ngay thẳng hiền lương.
Cũng vì bản tánh của Khuê Bích như vậy nên khi đến nhà họ Mạnh tỉ thí tranh hôn, chàng ta qua say đắm nên bị run rẩy bắn hỏng mất một mũi tên, còn Thiếu Hoa vẫn bình thản, được hay không cũng không cần, trong lòng luôn luôn an nhiên tự tại, nên bình tĩnh bắn trúng đích cả ba phát.
Đến khi Lưu Khuê Bích bị thất bại lại mang một nỗi lòng ghen ghét, ngồi đứng không an, ăn không ngon, nằm không ngủ, lo lập mưu kế sát hại cho kỳ được Thiếu Hoa. Trong lúc ấy Thiếu Hoa vẫn thật lòng thân thiện với Khuê Bích không biết lo sợ là gì. Khuê Bích bày ra cảnh trăng than gió mát có kỹ nữ hát ca để cho Thiếu Hoa say đắm, nhưng chàng lại không thích khiến Khuê Bích phải thất vọng. Cuối cùng Khuê Bích cố sát hại tại Tiểu Xuân đình thì bỗng dưng có người cứu thoát.
Giết không được Thiếu Hoa, Khuê Bích lại càng đau khổ hơn nữa. Thế thì tâm trạng của kẻ vạy bao giờ cũng đau khổ tức tối; còn người ngay, trong lòng lúc nào cũng được thư thái, không biết buồn giận là gì

Hồi Thứ Mười

Hoàng Phủ Nguyên soái xua binh đánh Sa Môn
Thần Võ Đạo nhơn giúp Phiên hóa yêu pháp.

Khi Mạnh Sĩ Nguyên về rồi, Hoàng Phủ Kính sai người đi triệu Vệ Hoán đến.
Vệ Hoán quả là một dõng tướng, mình cao tám thước, mặt trắng, mắt sáng như sao băng, đầu hùm râu vắn, nói tiếnt như chuông. Khi được Hoàng Phủ Kính triệu thỉnh thì hăng hái đến ngay.
Hoàng Phủ Kính ra tận ngoài thành nghinh tiếp vào trà nước rất trọng thể. Để dò xét tài năng của Vệ Hoán, Nguyên soái liền hỏi qua việc binh pháp, Vệ Hoán đáp thông suốt như nước chảy, lại tỏ ra một người trunh thành đảm lược. Đáp xong, Vệ Hoán bước xuống thềm, rút gươm múa một hồi: Hoàng Phủ Kính khen ngợi chẳng cùng.
Đêm hôm ấy, hai vị lão tướng ngồi uống rượu trong dinh, trò chuyện rất tương đắc; sáng hôm sau, cùng ra đấu trường thao luyện quân sĩ. Doãn Phu nhơn thấy có người tài năng giúp chồng mình, lòng mừng vô hạn.
Thao luyện quân sĩ đã thuần thục, Hoàng Phủ Kính liền viết chiếu sai người đem về kinh dâng cho Thiên tử, tâu rõ hạn kỳ xuất binh.
Thời gian qua nhanh như tên bay, chẳng bao lâu đã đến ngày mùng tám tháng tám, Hoàng Phủ Kính truyền bày một tiệc đặng vợ chồng tiễn biệt nhau.
Hoàng Phủ Kính căn dặn Doãn Phu nhơn:
- Về quê hương, phu nhơn phải lo nhắc nhở hai trẻ nó luyện tập võ nghệ đừng lêu lỏng chơi bời, cũng đừng ham công danh phú quí mà chuốc lấy tai họa về sau.
Phu nhơn nói:
- Đó là bổn phận của thiếp, xin phu quân chớ nhọc lòng lo lắng. Nay thiếp xin cầu chúc phu quân ra đi sớm đặng thành công để chóng trở về.
Hoàng Phủ Kính mỉm cười tự tất:
- Ta đi phen này chẳng bao lâu sẽ đắc thắng khải hoàn, xin phu nhơn chớ lo, miễn sao ở nhà lo tròn nhiệm vụ tề gia thì tôi mới an tâm.
Sau đó, Hoàng Phủ Kính đưa Doãn Phu nhơn cùng tất cả gia quyến xuống thuyền, các quan lớn nhỏ trong thành cũng đến đưa đón rất đông đảo, người ta thấy còn có cả cha con Mạnh Sĩ Nguyên nữa.
Qua đến ngày mười hai tháng tám, Hoàng Phủ Kính phong cho Vệ Hoán làm Tiên phong rồi tế cờ, phát pháo truyền lịnh tấn binh, rần rộ nhắm Sơn Đông tấn phát.
Đoàn quân tiến như vũ bão, nhưng phải ngót chín ngày mới tới Đăng Châu. Quan Tuần phủ Sơn Đông Bành Như Trạch cùng quan Tổng binh Ân Diệu Tiên mở cửa thành ra nghinh tiếp vào dinh, dọn bày yến tiệc thiết đãi. Trong tiệc rượu, Hoàng Phủ Kính lên tiếng hỏi Ân Diệu Tiên:
- Chẳng hay tình hình quân giặc ra thế nào?
Ân Diệu Tiên đáp:
- Quân giặc có một Nguyên soái tên là Ô Tất Khải lực địch muôn người, lại có nghề lặn dưới nước rất tài tình, và có thể ở dưới đáy biển suốt đêm mà không hề gì cả. Bên cạnh va, còn một tên quân sư tên Thần Võ Đạo nhơn, người này biết hô phong hoán võ dậy lửa, tuôn mưa, mười phần lợi hại. Lâu nay chúng đến quấy nhiễu tung hoành dọc ngang không biết sợ ai cả, nhưng cách mười ngày nay chúng hay tin Nguyên soái sắp kéo đại binh đến nên rút quân đóng trên một chiếc cù lao ngoài khơi, tên là cù lao Sa Môn, chỗ đó là nơi tích thảo đồn lương và tàng trữ binh khí, nếu Nguyên soái có đến đó giáp chiến, cần phải cẩn thận lắm mới được, chẳng biết ý Nguyên soái đợi chúng kéo binh đến sẽ giao phong, hay là độ binh vượt biển đến cù lao ấy phá tan sào huyệt của chúng?
Hoàng Phủ Kính đáp:
- Ta muốn độ binh qua đó đánh thì hay hơn, vì để chúng sang đây mới giao phong thế nào cũng tổn hại bá tánh.
Ân Diệu Tiên gật đầu nói:
- Nguyên soái định lẽ ấy rất phải, nhưng chúng nó có yêu pháp quá lợi hại, tôi e giao chiến trên mặt biển tấn thối bất tiện chăng.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Tôi đã dốc lòng vì nước, lại nhờ có hồng phước của Thánh thượng, há lại sợ yêu thuật của chúng sao?
Mọi người nghe Hoàng Phủ Kính nói, đều rập lên khen phải.
Sáng hôm sau, bình minh vừa ló dạng, Hoàng Phủ Kính đã cho quân xuống thuyền chèo thẳng ra cù lao Sa Môn. Khi gần đến nơi, Nguyên soái lại truyền quân neo thuyền lại làm thủy trại nghỉ binh chờ đi dọ xem địa thế rồi sáng hôm sau giao chiến.
Khi giặc trông thấy Hoàng Nguyên soái đến, chúng vội vã chạy về báo cho Ô Tất Khải hay.
Ô Tất Khải ngửa mặt lên trời cười ngất nói:
- Chắc bọn này đã tận số rồi nên mới kéo ra tận nơi đây nạp mạng.
Rồi Ô Tất Khải sai quân đi báo cho Thần Võ Đại nhơn hay để chuẩn bị tấn công đối phương.
Sáng hôm ấy, sau khi Hoàng Phủ Kính thăng trướng, định đích thân kéo binh ra trận, bỗng Tiên phong Vệ Hoán bước tới thưa:
- Nguyên soái đã cho tôi lãnh ấn Tiên phong thì xin hãy cho tôi ra đánh trận đầu.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Muốn cho ba quân đầy đủ nhuệ khí, trận đầu này chúng ta nhất định phải thủ thắng, tôi chỉ sợ tướng quân không đủ sức lãnh trách nhiệm trọng đại ấy chăng?
Vệ Hoán thưa:
- Đó chẳng qua là bổn phận của tướng Tiên phong, chừng nào tôi ra đó mà không thắng nổi, Nguyên soái sẽ xuất chiến cũng chẳng muộn.
Hoàng Phủ Kính y lời, Vệ Hoán liền hạ lịnh cho ba quân nhổ neo chèo thuyền xông tới.
Quân sỉ chạy vào phi báo. Ô Tất Khải lên tiếng hỏi chư tướng:
- Nay quân giặc đến khiêu chiến, có ai dám ra binh lập công không?
Ô Tất Khải nói dứt lời, xảy thấy tướng Tiên phong là Miêu Thành Long ứng tiếng thưa:
- Tôi xin xuất trận cho.
Ô Tất Khải y lời, Miêu Thành Long vung đại đao hô quân sĩ xuống thuyền giục trống phất cờ xuất trận.
Hai bên vừa gặp nhau, Miêu Thành Long đứng trước mũi thuyền chỉ đối phương nạt lớn:
- Tướng Nguyên tên họ là chi, hãy xưng ra cho mau rồi chịu chết.
Vệ Hoán trỗi giọng như chuông đồng, nói:
- Ta là Tiên phong Vệ Hoán, bộ hạ của Hoàng Phủ Nguyên soái đây, còn ngươi tên họ là chi hãy nói cho mau để ta còn ra tay thủ đoạn.
Miêu Thành Long nói:
- Ta cũng là chánh ấn Tiên phong, bộ hạ của Ô Nguyên soái tên Miêu Thành Long đây.
Thành Long vừa dứt lời đã thấy Vệ Hoán phóng giáo triển thần lực đâm ngay vào giữa mặt đối phương. Miêu Thành Long cử đao đỡ vẹt ra rồi chém thẳng vào đầu Vệ Hoán. Hai người đánh vùi với nhau chừng ba mươi hiệp, Miêu Thành Long nhắm thế cự không nổi, liền quày thuyền chạy dài. Vệ Hoán không để lỡ cơ hội, liền tung mình bật một cái nhảy phóng qua bên thuyền Thành Long đâm một giáo thủng từ trước ngực ra đến sau lưng. Quân sĩ Vệ Hoán thấy vậy hô rập lên một tiếng rồi ập tới chém giết tơi bời.
Quân Phiên thấy chủ mình chết rồi, không dám chống cự, chúng hè nhau quăng binh khí quì xuống một lượt xin hàng.
Vệ Hoán thâu phục rồi truyền quân chèo thuyền thúc trống đắc thắng trở về, vào ra mắt Hoàng Phủ Nguyên soái dâng thủ cấp Miêu Thành Long lên để ghi công. Hoàng Phủ Kính mừng rỡ khen ngợi chẳng cùng.
Ô Tất Khải hay tin Miêu Thành Long tử trận, tức giận muôn phần, liền hạ lịnh cho quân sĩ sửa soạn chiến thuyền đặng sáng ngày xuất trận, quyết kịch chiến một trận để rửa thù cho Tiên Phong.
Ngày sau, quân Nguyên trông thấy chiến thuyền của Ô Tất Khải kéo tới, liền chạy vào phi báo cho Hoàng Phủ Kính hay. Hoàng Phủ Kính lập tức phân binh dàn ra đối địch.
Thuyền lướt tới còn cách thuyền địch vài mươi trượng, đã thấy Ô Tất Khải đứng trước mũi thuyền, mình cao chín thước mặt đỏ gay như huyết dụ, tóc dựng đứng, râu vểnh ngược, hai tay cầm cặp ngân chùy to tướng, đứng dưới cây đại kỳ giống hệt như Hỏa Đức Tinh Quân giáng trần vậy. Ô Tất Khải trố mắt nhìn Hoàng Phủ Kính, trông thấy đối phương mình cao tám thước, mặt trắng, môi son tay cầm phương thiên họa kích tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm, phía sau cũng có cây đại kỳ đề bảy chữ: “Võ Trạng nguyên Hoàng Phủ Nguyên soái”.
Hoàng Phủ Kính nhìn thẳng vào mặt đối phương quát lớn:
- Tặc tướng, ngươi có phải là Ô Tất Khải không?
Ô Tất Khải gật đầu:
- Phải! Còn ngươi có phải là Hoàng Phủ Kính không?
Hoàng Phủ Kính nói:
- Đã biết danh ta sao không xếp giáp qui hàng để bảo toàn tánh mạng?
Ô Tất Khải ngửa mặt lên trời cười ngất:
- Dầu ngươi có ba đầu sáu tay cũng không thể đối địch với ta nổi, hãy rút binh về đi, kẻo ta ra tay thì không còn ăn năn kịp nữa đấy.
Hoàng Phủ Kính nổi giận xung thiên, giơ kích đâm nhào tới, Ô Tất Khải cũng cử chùy rước đánh. Hai nguời đánh vùi với nhau, kích đâm qua, chùy đỡ lại, như hai con rồng đang quần trên mặt biển. Lúc ấy viên phó tướng của Ô Tất Khải vội chèo nhanh thuyền tới nhảy lên trợ chiến cùng chủ soái mình. Bên này Vệ Hoán thấy thế liền lướt tới vung giáo ngăn đánh. Chỉ được mười hiệp, Vệ Hoán hét lên một tiếng như sấm nổ, đâm viên phó tướng té nhào xuống biển chết tốt.
Còn Hoàng Phủ Kính đánh với Ô Tất Khải đặng bốn mươi hiệp, Ô Tất Khải đuối sức bị Hoàng Phủ Kính đâm trúng một kích nhầm vai tả, đau quá hoảng kinh. Ô Tất Khải hét lên một tiếng thất thanh rồi quày thuyền chạy như dông. Hoàng Phủ Kính đốc quân rượt theo mội hồi rồi mới thâu binh trở lại.
Về đến nơi, Hoàng Phủ Kính nói với Vệ Hoán:
- Cứ theo lực lượng của địch quân như vầy cũng dễ phá.
Vệ Hoán nói:
- Tôi còn ngại tên quân sư của hắn có yêu thuật, khó mà thắng đặng.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Đến lúc giao chiến ta mới thấy rõ lợi hại của đối phương chứ tiếng đồn đãi của người ta đã chắc gì đúng sự thật.
Vệ Hoán khen phải rồi lui thuyền về nghỉ ngơi.
Nói về Ô Tất Khải thất trận, chạy về lấy thuốc băng bó vết thương nhưng vì Hoàng Phủ Kính đâm quá mạnh nên vết thương sâu gần một tấc, đau nhức vô cùng. Trong lúc đang bối rối, bỗng có quân vào báo:
- Có quân sư đến.
Ô Tất Khải mừng rỡ gắng gượng chổi dậy, hối quân chèo thuyền ra tiếp rước.
Ô Tất Khải nói với Thần Võ Đạo nhơn:
- Tôi định tới tiếp kiến Quân sư mà Quân sư lại quá bộ đến đây, thật là may mắn.
Thần Võ Đạo nhơn nói:
- Tôi nhe Nguyên soái giao phong với quân Nguyên bị thất trận, lấy làm lạ nên đến đây hỏi thử lực lượng địch quân ra thế nào?
Ô Tất Khải đem hết việc thất bại liên tiếp hai trận kể lại đầu đuôi cho Thần Võ Đạo nhơn nghe. Thần Võ Đạo nhơn cười gằn nói:
- Được rồi, nếu bọn Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán lợi hại như vậy thì mai đây bần đạo sẽ ra trận bắt quách cho rồi.
Nói dứt lời, Thần Võ Đạo nhơn thò tay vào hồ lô lấy ra một hoàn linh đơn nhai nhỏ đắp vào chỗ vết thương Ô Tất Khải, chỉ trong khoảnh khắc vết thương lành hẳn.
Ô Tất Khải mừng rỡ, tạ ơn Quân sư rối rít rồi hối quân bày tiệc khoản đãi.
Sáng hôm sau Thần Võ Đạo nhơn và Ô Tất Khải kéo quân vượt thuyền đến khiêu chiến. Hoàng Phủ Kính nghe báo liền dàn quân ra đối địch.
Đứng xa xa, Hoàng Phủ Kính đã trông thấy bên chiến thuyền địch có một vị đạo nhơn đứng trước mũi thuyền, mặt xám mày tro, đầu chít khăn đỏ; mặc áo đạo bào, tay cầm thanh bửu kiếm, Hoàng phủ Kính biết ngay là quân sư của đối phương tên là Thần Võ Đạo nhơn nên truyền cho ba quân tướng sĩ phải đề phòng cẩn mật.
Vừa trông thấy Hoàng Phủ Kính, Thần Võ Đạo nhơn lướt thuyền tới hỏi lớn:
- Hoàng Phủ Kính, ngươi chưa từng nghe tiếng pháp thuật của ta lợi hại thế nào, sao dám đến đây tung hoành như vậy? Ta khuyên ngươi hãy xép giáp qui hàng để ta khỏi ra tay nhọc sức.
Hoàng Phủ Kính nghe nói lửa giận phừng lên tím mặt, liền trợn mắt quát:
- Loài yêu đạo chớ buông lời vô lễ. Ta vâng mạng Thiên triều đến lấy thủ cấp mi đây.
Thần Võ Đạo nhơn buông một chuỗi cười đầy vẻ ngạo mạn:
- Tên thất phu kia, cái chết đã kề bên mà còn dám lớn lối nữa hay sao?
Dứt lời, Thần Võ Đạo nhơn giơ cây bửu kiếm chỉ thẳng về phía chiến thuyền Hoàng Phủ Kính, miệng đọc thần chú lâm râm, tức thì bao nhiêu chiến thuyền của quân Nguyên đều bị dồi lên dập xuống như một cơn dông khủng khiếp vậy, khiến bao nhiêu quân sĩ đứng trên thuyền kẻ ngã qua người nhào lại, xây xẩm mặt mày, ói mửa liên miên, Hoàng Phủ Kính và Vệ Hoán vẫn hết sức bình sanh cố đứng cho thật vững, nhưng tâm thần vẫn thấy mờ mệt, đôi mắt hoa lên.
Nguyên soái nhìn Tiên phong Vệ Hoán thở dài than:
- Nếu vậy thì rõ ràng trời đã hại ta.
Than vừa dứt lời, xảy thấy Thần Võ Đạo nhơn giơ tay vẫy một cái tức thì một luồng kình phong thổi tới hốt Hoàng Phủ Kính hổng chân bay vụt lên không rồi sa xuống thuyền địch, Đạo nhơn liền hô quân trói lại. Quân Nguyên thấy chúa soái mình bị bắt, hoảng kinh khóc rống lên, Vệ Hoán gượng đứng vững lại toan hô quân rút lui thì ngọn gió thứ hai đã ùn ùn thổi tới cuốn lôi Vệ Hoãn mất.
Quân Nguyên lúc bấy giờ như con rắn không đầu, chúng hè nhau chèo thuyền bỏ chảy, giặc rượt theo chém giết, lớp chết, lớp bị rơi xuống nước không biết bao nhiêu mà kể.

Lời Bình:
- Lưu Tiệp tiến cử Hoàng Phủ Kính đi dẹp giặc là cố đưa Hoàng Phủ Kính đi vào chỗ chết để thỏa mãn lòng ganh ghét của y, song nếu Hoàng Phủ Kính đủ tài đẩy lui quân giặc thì Lưu Tiệp đã không thực hiện được âm mưu hiểm độc, trái lại Lưu Tiệp đã tạo điều kiện cho Hoàng Phủ Kính lập đặng công thêm. Thế thì sự thất bại của Hoàng Phủ Kính đây phần lớn là do mình không đủ tài, chớ đừng quá trách Lưu Tiệp.
- Lúc mới xuất quân, Hoàng Phủ Kính càng biết đối phương rất lợi hại, nhưng khi ra đến Đăng Châu lại quyết vượt biển ra đảo Sa Môn để phá sào huyệt địch chỉ vì hoàng Phủ Kính không muốn cho dân chúng bị liên lụy vì chiến tranh. Đi đánh giặc mà biết thương dân chúng như vậy thật là ít có.
- Lắm người không ai tránh khỏi cái chết, nhưng xét ra cái chết của Hoàng Phủ Kính trong lúc này là phải lẽ, vì nếu Hoàng Phủ Kính chết đi, tất nhiên tên gian thần Lưu Tiệp không còn lý do gì để sàm tấu nữa. Thế thì ở đời có nhiều cái chết may, và ngược lại, cũng có nhiều cái sống rủi.