songthu_245
04-03-2006, 11:00 PM
Chương 1
Thu Trân còn nhớ...
Một đêm phong vũ loạn cuồng. Ngoài trời gió thét mưa gào, chớp giăng, sấm nổ liên hồi; tưởng chừng như cả không gian chực sập đổ tan tành. Trong nhà mọi vật đều chao động, cơ hồ đang run rẩy trước cơn thịnh nộ của Thiên công.
Mặc dù được tổ mẫu ôm chặt trong lòng, nhưng Thu Trân không ngớt khóc thút thít và cứ dụi đầu vào nách bà, để tìm chỗ trốn an toàn.
Tổ mẫu đã dỗ dành mãi, lại "nhát ông kẹ", rồi viện đến mưa to gió lớn mà đe dọa, Thu Trân vẫn chưa chịu ngủ. Thế nhưng... thoạt nghe tổ mẫu bảo "cục cưng của nội đừng khóc nữa, mau ngủ đi, kẻo má vào đánh đòn bây giờ"; thì Thu Trân lập tức nín khe, vội đưa tay áo quẹt nhanh nước mắt và khép mi lại thật chặt ngay. Đồng thời, Thu Trân nghe lạnh buốt xương sống rùng mình, vì chợt hình dung đến nét mặt hầm hầm của má, với cái lối cú đầu sao mà nhức nhối tận óc, đau xé cả tâm can!
Nằm yên được một lúc không lâu, Thu Trân lại rón rén cựa mình, hỏi khẽ:
- Nội ơi! Tại sao má ưa đánh con quá vậy hở Nội?
- Ồ!... tại vì con hay nhõng nhẽo, cứng đầu...
Tự dưng tổ mẫu nghẹn lời. Bà phải hít một hơi dài, mới nói tiếp được, giọng run run:
- Từ rày con phải ngoan, ráng giỏi, đừng nhõng nhẽo... thì má sẽ không đánh đòn nữa.
- Vậy chớ em Xuân Châu cũng cứng đầu, cũng nhõng nhẽo, sao má không đánh, không la lần nào hết? lại cưng?... Thu Trân hậm hực hỏi chưa dứt câu, lại bật khóc.
Tổ mẫu sờ soạng bàn tay khô gầy trơ xương, âu yếm vỗ vỗ đầu Thu Trân, giải thích hơi ngập ngừng:
- Xuân Châu bé hơn con, còn khờ dại. Con thì... lớn rồi, đã hiểu biết nhiều... Con không nên làm má con nổi giận...
Thu Trân ngấm ngầm bất phục, đột nhiên ngừng khóc, nghinh mặt, tuôn một loạt ấm ức:
- Em Xuân Châu mà khờ dại thì cho con cùi đi! Nó kém con có một tuổi rưỡi, chớ còn bé cái gì? Mọi chuyện nó đều hơn con hết, bộ nội không thấy sao? Ăn, thì nó biết ăn ngon hơn, mặc cũng đẹp hơn. Nghịch ngợm, cứng đầu, lấn hiếp con thì nó lợi hại thập phần. Nhưng, bất luận em Xuân Châu có đắc tội như thế nào đi nữa, má cũng cứ cưng chiều như thường. Còn con, dầu chưa lầm lỗi gì, đã bị má cú đầu lia lịa, nẹt roi tơi bời!... Không biết tại sao mà kỳ cục thế, hở nội?
Tổ mẫu ngây người ra, chẳng nói năng gì. Gương mặt già nua hằn đượm vẻ u buồn, tâm tư như đang ẩn chứa điều gì rất thống khổ mà không tiện thốt nên lời.
Thu Trân giương mắt nhìn hồi lâu, vẫn chưa thấy tổ mẫu lên tiếng, bèn nhắc:
- Nội, cắt nghĩa cho con biết đi!
- Thì nội đã nói rồi đó, vì Xuân Châu là em, còn con là chị, mà em thì đáng được nuông chiều hơn chị...
Bà thở dài chép miệng:
- Thu Trân, hãy ghi nhớ lời nội dặn, gắng giữ gìn đừng phạm lỗi, mọi sự việc đều phải dễ dạy, để khỏi bị má đánh đòn...
Thình lình bà ngưng lại, không biết vì sực nhận ra đây là lời cũ, đã vừa dặn qua rồi; hay do cơn xúc động dâng lên tắt nghẽn cổ họng.
Thu Trân òa khóc, vừa tức tưởi:
- Con hiểu rồi, má ghét bỏ con, má không thích làm má của con, nên má chả bao giờ cho con một chút kẹo bánh hay một món đồ chơi nào hết.
- Thu Trân, nín đi, đừng khóc nữa! Má không cưng thì có nội cưng con!
Giọng bà khan đục và lệ nóng tuông trào ra đôi má cóp.
Theo sự hiểu biết ấu trĩ của Thu Trân thì khóc là việc của con nít, chớ sao bà già cũng khóc? Lấy làm kỳ, Thu Trân ngừng thút thít và bắt chước y hệt những cử chỉ của tổ mẫu đã dỗ dành mình mà dỗ dành lại tổ mẫu.
Vừa lau nước mắt cho bà, Thu Trân vừa hỏi nhỏ:
- Nội, sao nội cũng khóc vậy?
- Tại vì... ờ... tại vì nội chảy nước mắt. Mà thôi! hễ cháu cưng của nội không khóc, thì nội cũng không khóc.
- Nội à! Nội cưng con thật không?
- Thật chứ! Ngay từ lúc con lọt lòng mẹ, nội đã cưng con rồi.
- Nội có cưng em Xuân Châu không? Thu Trân hỏi đầy vẻ khẩn trương.
- Xuân Châu đã có má nó cưng rồi khỏi cần nội phải cưng nữa.
Thu Trân ôm chầm lấy tổ mẫu, hôn hít lung tung.
Ngay lúc ấy, chợt nghe từ gian phòng cách vách vọng sang tiếng gắt gỏng, cãi vã. Thu Trân hỏi:
- Nội, chuyện gì mà ba má con gây lộn vậy nội?
- Chắc là cãi nhau về chuyện của con.
- Ủa! Chuyện của con? Chuyện gì?
- Vì con nhõng nhẽo, má đánh đòn, ba con nóng ruột...
Thu Trân cao hứng, chồm lên:
- Nói vậy, tức là ba cũng cưng con?
- Con là con gái ruột của ba con, không cưng sao được.
Dù trí óc thơ dại, nhưng nghe qua câu nói ấy, Thu Trân tự dưng loáng thoáng thấy hoài nghi trố mắt trân trối nhìn tổ mẫu, như muốn hỏi điều gì. Thấy vậy, tổ mẫu không khỏi áy náy, liền kéo Thu Trân nằm xuống, vuốt tóc, vỗ lưng, bảo ngủ đi.
Đôi mắt Thu Trân cứ mở thao láo, một chập lại hỏi:
- Nội à, bộ con không phải là con ruột của má, hở nội?
Nội tổ hấp tấp gạt ngang:
- Thu Trân, chớ có nói... nói càn! Má con nghe được là giận lắm đấy!
Tuy là nạt nộ, song chẳng có chút gì hung dữ. Thu Trân phát giác giọng của bà run lên và thần sắc đầy hoang mang, nhưng không hiểu tại sao, cứ ấm ức tiếp:
- Má chả giống là má ruột của con chút nào hết. Má ruột thì sao độc ác, ghét bỏ con gái ruột như thế? Con thấy, em Xuân Châu mới là con ruột của má...
Tổ mẫu lại ngắt lời:
- Thu Trân! Đã bảo chớ có nói càn, đừng đoán bậy! Nếu muốn nội cưng, con hãy lặng thinh, ngủ đi.
Bà sửa gối và lấy mền đắp cho Thu Trân, đoạn bỏ mùng xuống. Cử chỉ, thái độ bà hết sức dịu dàng, thân thiết khiến Thu Trân vọt miệng nói:
- Nội! Nội mới là má ruột của con!
Bà vẫn tiếp tục tấn mùng, không đáp. Qua ánh đèn lờ mờ, Thu Trân thấy đôi mắt bà đẫm lệ.
Thu Trân lồm cồm ngồi dậy, bá cổ tổ mẫu, hỏi:
- Nội lại khóc nữa rồi, phải không? Sao nội bảo con đừng khóc mà nội khóc còn nhiều hơn con vậy?
Tổ mẫu lắc đầu:
- Đâu có... Nội đâu có khóc!
Bà gắng gượng cười, ghì chặt Thu Trân vào lòng, khẽ tiếng căn dặn:
- Thu Trân! Con ghi nhớ cho kỹ, trước mặt má, ngàn vạn lần con không nên nói như vừa rồi nghe!
Thu Trân bĩu môi, hậm hực:
- Tại sao không nên nói? Sự thật rõ ràng, con ngủ chung với nội, còn em Xuân Châu ngủ chung với má, như vậy không phải con là con ruột của nội sao?
Tổ mẫu chớp chớp mi long lanh lệ, ôn tồn khuyên:
- Ở đây, con nói vậy không sao, nhưng đừng bao giờ để má nghe thấy, má sẽ không bằng lòng lại đánh con đấy.
Thu Trân nghe nhắc đến "má đánh" bèn gật đầu. Tổ mẫu hôn vào má, vào trán Thu Trân và hai bà cháu cũng nằm xuống...
Ngoài trời vẫn tầm tã gió mưa. Nhưng bây giờ, nằm trong mền ấm, bên cạnh tổ mẫu, Thu Trân không còn sợ mưa gió nữa, mà âm thanh ào ạt liên miên của phong vũ lại trở thành điệu nhạc ru Thu Trân đi lần vào giấc ngủ.
Giữa lúc mơ màng, bỗng Thu Trân mường tượng nghe có người đến và tiếng nói quen thuộc của ba:
- Thưa mẹ, Thu Trân đã ngủ say rồi chứ?
- Nó mới ngủ chưa lâu.
- Chà! Trận bão này coi bộ dữ dội quá. Theo tin khí tượng của Đài phát thanh thì khuya này cường độ bão càng tăng. Nhưng không hề chi, mẹ đừng lo sợ, nhà chúng ta kiên cố, gió bão chả ăn thua gì, xin mẹ cứ vững bụng.
- Ồ! Mẹ không ngại giông bão đâu. Đã sống bảy mươi tuổi rồi, lẽ nào mẹ còn sợ chết. Nếu phải lo ngại chăng là...
Tiếng nói của bà trở nên thật khẽ, bị tiếng gió mưa át mất, Thu Trân nghe không được. Tiếp đó Thu Trân bỗng nghe ba thở dài. Rồi hai người im lặng một lúc khá lâu.
Chập sau, tổ mẫu mới lên tiếng:
- Theo mẹ nghĩ, con không cần cãi vã với nó, mà nên ôn hòa thuyết phục, cảm hóa là tốt hơn. Bởi vì con càng gay gắt với nó, thì càng bất lợi cho Thu Trân. Huống chi con lại thường không có mặt ở nhà, làm sao con che chở cho Thu Trân.
Giọng của ba trầm hẳn xuống, thật buồn:
- Con không đành lòng để Thu Trân phải chịu cảnh khắc nghiệt hiếp đáp, khổ sở. Hừ... thật chẳng ngờ! Nếu sớm biết thế nầy, con đã chẳng thèm...
Đoạn sau lời của ba, Thu Trân lại nghe không rõ. Tuy nhiên, chỉ bằng vào câu: "không đành lòng để Thu Trân phải chịu cảnh khắc nghiệt"... Thu Trân đã vạn phần cảm động, vì biết chắc là ba quả nhiên rất mực thương yêu mình.
Thu Trân vừa cao hứng, thích thú, nhưng cũng vừa thấm thía buồn tủi, đến không nhịn được, bật khóc rấm rức.
Ba vội khoát cửa mùng, ngồi xuống mép giường thò tay vuốt tóc và vỗ nhè nhẹ vào vai Thu Trân âu yếm:
- Thu Trân, sao con khóc? Bộ chiêm bao thấy cái gì hung dữ lắm hả? Đừng sợ, có ba có nội đây rồi, ngủ nữa đi con!
Thu Trân chẳng biết trả lời thế nào, mặc dù trong tâm tư muốn nói với ba thật nhiều, kể lể tất cả những gì ẩn ức bấy nhiêu lâu.
Thình lình Thu Trân nhổm dậy, lăn xả vào lòng ba mà khóc vùi...
Tính đúng ra thì Thu Trân đã sáu tuổi chín tháng, cái tuổi đáng lý phải được cắp sách đến trường.
Phụ thân thì sẵn sàng cho Thu Trân đi học. Nhưng mẫu thân lại ngăn cản bằng đủ thứ lý do và rằng "con gái không cần đi học quá sớm". Thực sự, điều chủ yếu mà mẫu thân "cần", là muốn Thu Trân phải ở nhà để coi chừng chơi với Xuân Châu.
Nguyên phụ thân Thu Trân chuyên nghề khai thác mua bán gỗ rừng, nên thường vắng nhà luôn. Nhân đó, mẫu thân Thu Trân đi đánh bài suốt ngày, lẫn cả thâu đêm. Mọi việc nội trợ đều khoán trắng cho thím Trương, người ở thuê. Và phần trông nom Xuân Châu, thì giao đứt cho Thu Trân. Nhiều lúc thím Trương bận tay, Thu Trân lại phải đem hết sức bé bỏng ra mà làm bất cứ việc gì do mẫu thân sai khiến.
Xuân Châu, chỉ kém Thu Trân một năm bốn tháng. Hai chị em vóc vạc suýt soát gần bằng nhau nhưng Xuân Châu có vẻ khôn ngoan, lanh lợi hơn Thu Trân một bực.
Cậy vào chỗ được mẹ nuông chiều, lúc nào Xuân Châu cũng lấn lướt Thu Trân mọi chuyện. Động một tí là Xuân Châu dọa "mét má", khiến Thu Trân sợ xanh mặt, việc gì cũng lẹ lẹ chịu lép ngay. Mà Xuân Châu đã từng mét má thật, lắm phen rồi. Hễ Xuân Châu dẫy nẩy, hay phụng phịu mách vài tiếng, là cầm bằng Thu Trân ăn đòn điêu đứng, chẳng được kêu oan hay ưng gì cả.
Được đằng chân lên đằng đầu, Xuân Châu cứ xách khóe gọi Thu Trân bằng mày tao và theo gương má, mặc tình lấn hiếp, đày ải Thu Trân như một kẻ tôi đòi...
Phải đợi đến lúc Xuân Châu đủ sáu tuổi, Thu Trân mới được tới trường.
Xuân Châu đòi đi học, tức thời má hoan hỉ đồng ý ngay và bắt Thu Trân cũng phải đi học, để... hầu hạ Xuân Châu. Từ việc ôm cặp, xách bình mực, che dù khi trời mưa, đến việc dẫn Xuân Châu đi đường, tránh xe cộ, cả đến việc canh chừng không để các trò khác gây gổ, ăn hiếp Xuân Châu... nhất nhất Thu Trân phải "chịu trách nhiệm", nếu thiếu sót là bị đòn. Mấy lần Xuân Châu, không thuộc bài, hoặc đùa giỡn trong lớp, bị thầy phạt, bị chúng bạn chê cười; khi về nhà, Xuân Châu khóc, đổ thừa hết cho Thu Trân, má đùng đùng nổi giận, đánh chửi Thu Trân tưng bừng!...
Mẹ bạc đãi, em hiếp đáp, dù là thống khổ lắm nhưng Thu Trân đều có thể chịu đựng được. Đến như việc cưỡng bách Thu Trân phải "ở lại" không được lên lớp, thì quả là một nỗi buồn đau vượt sức!
Cuối niên học, Xuân Châu kém quá, không được lên lớp, thế là má qui tội Thu Trân không trông nom em, bèn giáng cho một trận đòn nên thân rồi bắt buộc Thu Trân cũng ở lại học lớp cũ với em.
Ức lòng, Thu Trân tuyệt thực phản kháng, nhưng chẳng mảy may xiêu động chút tình thương nào của mẫu thân, lại bị đay nghiến:
- Mầy chết phứt đi, thành con quỉ đói, càng tốt! Đi học, là tao cho Xuân Châu đi học, chớ cái ngữ như mày thì học với hành gì mà chộn rộn. Đồ ôn toi, có giỏi cứ nhịn ăn thêm vài ngày nữa coi thử!
Rốt cuộc, cố nhiên phần thắng không thể nghiêng về một đứa bé. Thu Trân lại phải tiếp tục nhẫn nhục mọi bề, làm kẻ hầu hạ em, để còn được tiếp tục đến trường.
Thấy vậy, thím Trương thương tình, chỉ cho Thu Trân một cách: nhịn ăn quà, dành tiền lén mua thêm sách lớp trên, tự học được bài nào hay bài nấy.
Mặt khác, Thu Trân cũng nghĩ được biện pháp "vẹn toàn", là cứ thường xuyên "gà" cho Xuân Châu làm bài trúng, được điểm cao - ngõ hầu em có lên lớp thì chị mới khỏi bị ở lại oan uổng...
Thời gian chồng chất, hễ Thu Trân khôn lớn thêm được một phần nào, thì tổ mẫu lại già yếu hẳn đi mấy phần. Càng ngày bà nằm ở giường bệnh càng nhiều hơn là đi đứng ra khỏi phòng, thành thử chẳng thể nào chiếu cố, che chở cho Thu Trân được như dạo trước.
Cho đến năm Thu Trân lên mười một tuổi.
Vào một chiều đông giá rét, bịnh trạng tổ mẫu trở nên trầm trọng.
Thu Trân quì phục bên giường, khóc thút thít. Trong khi đó, thân mẫu và Xuân Châu đứng dang xa xa ngoài cửa buồng ngó vào, vì sợ đến gần bị truyền nhiễm. Họ đứng nhìn như thế một lát, rồi êm êm rút lui.
- Thu Trân, con đừng khóc! Nội đã già trên bảy mươi rồi, dẫu có chết cũng là sự thường...
Đột nhiên tổ mẫu hồi tỉnh. Nhưng chỉ nói được bấy nhiêu đã mòn hơi, phải ngừng lại. Bà run rẩy bàn tay gầy trơ xương vuốt tóc Thu Trân và ảo não bi thương, tiếp:
- Thu Trân! Nội tự biết sắp chết. Từng tuổi này, nội chết, là yên phần nội. Lẽ ra, nội đã theo ông bà từ mười năm trước rồi, nhưng vì nghĩ thương con cơ khổ mà nội nhắm mắt không đành. Phải chi nội được thấy con trưởng thành, được chứng kiến cái ngày con có chồng, nên gia nên thất, sống vui vẻ hạnh phúc, thì... Nội rất sung sướng mà chết, vĩnh viễn mãn nguyện mà chết.
Nghe qua lời tổ mẫu. Thu Trân càng thêm nát dạ tan lòng, liền bấu chặt cánh tay khô đét của bà và òa khóc to lên:
- Nội!... Nội ơi!... Nội không thể chết!... Con... con cần có nội!...
- Phải rồi, nội cũng chưa muốn chết, nội còn muốn thấy con khôn lớn nên người, nhưng...
Bà hít vào một hơi dài. Tiếng bà bỗng bớt run và rõ ràng hơn:
- Thu Trân! Nội không thể lừa dối con và tự dối gạt mình, Nội biết là chẳng còn sống được bao lâu nữa; có lẽ nội đêm nay, hay đến sáng mai, nội sẽ vĩnh biệt con...
Thu Trân lại khóc nức nở:
- Nội đừng nói vậy nội ơi! Con tin là nội sẽ khỏi bịnh và mạnh khỏe như thường. Ba con đã đi rước bác sĩ, sắp về tới rồi đó!
Tổ mẫu mấp máy môi nhưng thốt không thành tiếng. Bà thở hào hển.
Thu Trân chỉ đành biết khóc, chớ chẳng biết làm sao hay nói gì trước tình cảnh này.
Thở dốc một lúc, tổ mẫu chợt mở mắt ra và yếu ớt chỉ tay ra phía cửa buồng, bảo:
- Con đóng cửa, cài cẩn thận, rồi lại đây nghe nội nói chuyện nầy, đừng để má con biết.
Thu Trân rất đỗi khẩn trương, mau mau làm theo lời bà, đoạn đến quì sát bên giường.
Tổ mẫu cố nén mệt nhọc, hỏi:
- Thu Trân, con có hiểu vì lẽ gì mà má con không thương con hay không?
Thu Trân hoang mang lắc đầu.
Tố mẫu buồn bã:
- Suốt tám chín năm nay, nội nghe theo lời ba con, đã cố che giấu, không cho con biết một sự thật... Giờ đây, trước khi nhắm mắt lìa trần, nội thấy không thể che giấu con nữa, vì lúc nội chết rồi, con vẫn không được ai nói cho rõ sự thật thì nội làm sao yên dạ chốn suối vàng.
- Nội! Ấy là vụ gì, xin nội mau cho con biết?
- Thu Trân con! Người mà con vẫn kêu bằng má hiện tại, thật ra không phải là mẹ ruột của con đâu. Mẹ ruột của con đã mất vì bạo bịnh ngày từ ngày con mới tròn một tuổi. Má hiện tại của con chỉ là kế mẫu, nên sanh ra riêng tây, ích kỷ, chỉ biết yêu thương con gái ruột của y mà thôi.
Điều thắc mắc, hoài nghi trong lòng Thu Trân bấy nhiêu lâu, đến bây giờ mới được giải đáp to tướng. Tuy nhiên Thu Trân không cảm thấy đau xót, tiếc rẻ chút nào khi nghe nói người đàn bà ấy không phải là mẹ ruột của mình, mà chỉ lấy làm lạ một điều:
- Nhưng với dụng ý chi. Nội với ba phải giấu con sự thật đó?
- Dụng ý chánh yếu, hoàn toàn là thương con. Lúc mẹ ruột con mất, con còn quá nhỏ, chưa biết nói, chưa biết đi gì cả... Kế mẫu của con nguyên là em bà con bạn dì với mẹ ruột con, lúc ấy tỏ ra rất thương yêu con, thường bồng ẵm, chăm sóc con, như tình mẹ ruột vậy. Thấy thế, nội với ba con mới chọn y làm kế mẫu con, để cho con đừng bao giờ phải buồn khổ vì cảnh mất mẹ. Dịp mới rước kế mẫu con về, Ba con cẩn thận mời đông đủ quyến thuộc và thân hữu đến dự một tiệc rượu, để chánh thức yêu cầu họ về sau tuyệt đối chớ hé lộ cho con biết chuyện mẹ ruột, mẹ ghẻ làm gì, ngõ hầu giúp con đinh ninh vẫn có mẹ, mà không nảy sinh mặc cảm sầu não, không bị ảnh hưởng bất lợi trong cuộc đời.
Thấu rõ bấy nhiêu sự tình, Thu Trân cảm thấy tình thương của tổ mẫu và phụ thân đối với mình quá ư cao cả, vĩ đại. Thu Trân muốn la lên thật to lời ca tụng, sùng bái, nhưng không biết nên nói thế nào cho suôi câu, rốt lại chỉ khẩn thiết nhìn tổ mẫu, khẽ thốt:
- Nội đang mệt mà nói nhiều quá, không nên. Nội nằm yên, nghỉ cho khỏe cái đã...
- Ồ, không hề gì! nội hết mệt rồi, lại nghe tinh thần rất phấn chấn. A! Có lẽ Nội sắp khỏi bệnh cũng nên, chả cần uống thuốc làm chi.
Quả nhiên sắc diện bà đang trở nên hồng hào hằn lên; những nét mỏi mòn của bệnh hoạn, tử vong chợt tan biến hết.
Đây vốn là hiện tượng "hồi quang phản chiếu" ở người bệnh sắp chết. Nhưng Thu Trân đâu hiểu, lại mừng rỡ:
- Nội khỏe thật rồi! Hay quá! Để con rót nước nội uống nhé!
Tổ mẫu hớp vài ngụm nước, đoạn tiếp nối câu chuyện:
- Đấy, dụng ý buổi đầu của ba con hoàn toàn tốt đẹp như thế, lại được kế mẫu con nhiệt liệt tán thành. Nội cũng lấy làm bằng lòng, Nào ngờ... chỉ được một thời gian ngắn thôi, thì sự thể bắt đầu thay đổi hẳn. Từ ngày kế mẫu con hạ sinh bé Xuân Châu, tâm địa liền biến chuyển, trắng trợn quên đi lời hứa, chẳng những không còn coi con là con ruột nữa, lại đối xử khắc nghiệt, tàn tệ như người dưng kẻ lạ, như hạng tôi đòi!... Nội thật chẳng hiểu nổi, lòng dạ con người sao mà ích kỷ, bạc bẽo đến thế?
Thu Trân nghe tâm can đau nhói, tựa hồ bị mũi dao nhọn đâm thẳng vào, cứ khóc lóc nức nở, chẳng thốt nên lời.
Tổ mẫu run giọng, hỏi:
- Thu Trân! Con có oán hận ba con không?
Thu Trân vội đáp qua tiếng khóc:
- Không! Con không oán hận...
- Thế con có giận nội đã giấu gạt con không?
- Con chỉ hận số phần con, sao chẳng chết theo mẹ con từ thuở bé cho rồi!... Nội mười năm rồi, nội đã là mẹ ruột con; con không thể thiếu vắng nội, nếu nội có mệnh hệ nào, thì con quyết theo nội...
Gương mặt già nua co rúm lại. Bà đã khóc. Nhưng sức cùng lực kiệt, bà khóc không thành tiếng và cũng không còn nước mắt để chảy nữa. Hình thái này, trông càng thảm khổ vô vàn.
Ngay lúc ấy, bỗng có người gọi bên ngoài.
Thu Trân vội ra mở cửa buồng, thấy kế mẫu đang đưa người cô ruột của Thu Trân đến.
Lo lắng ra mặt, bà cô hỏi gấp:
- Thu Trân, bà nội ra sao?
Thu Trân mím môi không đáp, đôi mắt mở to mà lệ nóng trào tuông tầm tã.
Bà cô cuống quít, chạy vụt vào bên giường.
Kế mẫu Thu Trân vẫn đứng xa xa ngoài cửa, chẳng buồn đến gần để an ủi người bệnh một lời. Đã vậy, khi Xuân Châu bất thần xông vô, cốt xem tổ mẫu một chút cho thỏa tánh hiếu kỳ, cũng liền bị kế mẫu nghiến răng, lườm mắt, kéo xỉnh ra. Thu Trân bất bình cực độ, suýt chút nữa đã gào lên một câu nguyền rủa.
Chợt nghe tổ mẫu gọi. Thu Trân mau mau sà đến cạnh giường. Tổ mẫu vừa thở vừa ráng dặn dò:
- Thu Trân! Nội đã nói với cô của con rồi đấy. Giả sử kế mẫu con cứ hành hạ đến mức hết chịu nổi, con... con có thể trốn qua nhà cô còn mà ở... Cô con sẽ nuôi con, lo lắng tương lai cho con, sẽ coi con là con ruột... đừng sợ gì hết... hãy vững lòng, nghe con!...
Thu Trân không còn đè nén được nữa, khóc rống lên.
Bà cô ôm Thu Trân vào lòng, cũng nức nở.
Đồng hồ trên tường rời rạc buông ngân mười tiếng thê lương...
Chương 2
Kể từ ngày tổ mẫu từ trần, thân phận Thu Trân càng thêm điêu đứng, vì trong nhà đâu còn ai dám che chở, bênh vực Thu Trân nữa?
Mấy lúc sau này, việc kinh doanh tăng phần khó khăn, thân phụ Thu Trân phải vắng nhà càng nhiều hơn trước. Thế là kế mẫu chẳng còn chút úy kỵ nào, cứ thẳng tay hành hạ bạc đãi Thu Trân.
Phần Xuân Châu, chẳng những không biết thương chị, lại lấy làm hí hửng khi thấy Thu Trân bị mắng chửi, đánh đập. Gần như lần nào Thu Trân khóc thì cũng có Xuân Châu đứng dòm, cười thích thú.
Chỉ có thím Trương là người duy nhất thông cảm, tội nghiệp Thu Trân mà thôi.
Hằng ngày kế mẫu bắt Thu Trân phải quét sàn, hứng nước, tưới kiểng, lau bàn ghế và phụ lực với thím Trương trong mọi công việc bếp núc, giặt giũ. Nếu không làm thì... khỏi ăn cơm! May là thím Trương thương tình, đã làm thay Thu Trân các công việc nặng, nếu không có lẽ Thu Trân đã sút từng mảng xương ra mà chết mất rồi cũng nên.
Sau khi tổ mẫu chết, kế mẫu biết là Thu Trân đã hiểu rõ ẩn tình mẹ ghẻ con chồng, nên chẳng buồn giả nhân giả nghĩa phần nào như trước kia nữa, mà cứ oang oang sỉ vả:
- Ai nấy coi đó, cái con quỉ nhỏ này, tối ngày bản mặt cứ đầm đìa nước mắt, làm như sắp chết tới nơi! Tao còn lạ gì mầy, đồ ôn con, quỉ quyệt! Mầy muốn dùng khổ nhục kế để rêu rao với thiên hạ rằng tao là thứ mẹ ghẻ ác nghiệt chứ gì! Ừ, tao là mẹ ghẻ đấy. Mầy thử đầu thai tám kiếp, kiếm coi có người mẹ ghẻ nào biết thương yêu mày, hết dạ lo lắng tương lai cho mầy bằng tao không? Đồ quỉ sứ! Đồ ôn con! Đồ ăn hại!...
Chính vì cho rằng Thu Trân là "đồ ăn hại" nên đã năm lần bảy lượt rồi kế mẫu định bắt Thu Trân đi ở đợ, để lấy tiền đánh bài, vừa đỡ hao tốn cơm áo.
Nhưng thân phụ Thu Trân hoàn toàn không tán thành vụ này, ông có lý do vững vàng để chống đối, rằng Thu Trân coi vậy chớ đã nghiễm nhiên "có nơi có chốn" rồi, không thể trái tục lệ, đem đi ở nhà người dưng được.
Thu Trân tuy chẳng hiểu rõ mười mươi thế nào là "có nơi có chốn", song cũng đoán đại khái: Một người con gái mà "có nơi có chốn", tức đã có chồng.
Do đó, Thu Trân không khỏi kinh dị, hoang mang.
Cả kế mẫu cũng ngạc nhiên, chẳng tin, nên phụ thân Thu Trân phải giải thích tự sự:
- Hơn mười năm trước, tôi có người bạn chí thân, tên gọi Lương Minh Đăng. Bấy giờ, "bà xã" của cả hai người đều đang thọ thai. Anh Lương Minh Đăng đề nghị: Nếu mỗi nhà hạ sinh một nam một nữ, thì khi lớn lên, sẽ cho chúng kết duyên chồng vợ. Tôi đồng ý ngay. Và hai em cùng lập lời trọng thệ. Về sau, hai nhà quả nhiên sinh một nam một nữ thật, tức là giao ước kia đã trở thành cụ thể, tôi với anh Lương Minh Đăng đương nhiên là thông gia kể từ đó. Mẹ của Thu Trân đã sinh Thu Trân vào ngày rằm tháng Chín; còn chị Đăng sinh con trai vào ngày mười tám tháng chín, đặt tên là Lương Tường Phương. Quãng nửa năm sau, anh Minh Đăng có việc kinh doanh lớn ở Thượng Hải, phải đem cả gia quyến rời Đài Loan đến thượng hải cư ngụ Từ đó, hai nhà xa cách nhau, cả đến thư từ, tin tức của nhau cũng vắng bặt. Rồi liên tiếp hơn mười năm nay, vì mãi bận rộn với sinh kế, tôi cơ hồ quên bẵng đi vụ "chỉ phúc vi hôn" ấy đi. Bất ngờ, mới cách nay một tháng, tôi bỗng nhận được thư từ Thượng Hải, của anh Minh Đăng nhắc lại chuyện giao ước hôn nhân của đôi trẻ. Trong thư, anh ấy cho biết cậu Lương Tường Phương đang là một học sinh xuất sắc vừa đậu Tiểu học và bắt đầu lên Trung Học đệ nhất cấp. Anh Minh Đăng long trọng tái xác nhận Lương Tường Phương là rể của nhà họ Lâm chúng ta, cũng như thừa nhận Thu Trân là dâu của nhà họ Lương. Như thế, tức là Thu Trân đã "có nơi có chốn" hẳn hòi rồi, làm sao lại có thể đem nó đi ở thuê nhà người ta được? Giả thử một ngày nào đó, thình lình anh Minh Đăng tìm đến đây, hỏi tôi về đứa con dâu, thì tối biết ăn nói làm sao với người bạn tốt, vừa là thông gia ấy?
Nghe hết đầu đuôi câu chuyện như thế, Thu Trân và kế mẫu mới vỡ lẽ.
Mới mười một tuổi đầu mà đã có vị hôn phu. Tuy nhiên, vốn còn thơ ngây, Thu Trân lúc nghe chuyện chỉ thoáng một chút "mắc cở" rồi thôi, chớ chẳng có cảm nghĩ gì nhiều.
Khổ nỗi, kế mẫu lại vì vụ Thu Trân đã "có nơi có chốn" dường ấy mà càng coi Thu Trân như kẻ thù, cứ thừa những lúc phụ thân Thu Trân vắng nhà mà gia tăng mức hành hạ càng dữ dội. Ngoài sự làm lụng nặng nhọc và liên miên bị đánh chửi, Thu Trân còn bị bỏ đói đều đều. Thím Trương phải lén xúc cơm cá vào tô, đem vào một xó bếp cho Thu Trân ăn...
Thấm thoát, thêm ba năm thống khổ nữa, lại tiếp tục chồng chất lên vai gầy của Thu Trân.
Thu Trân mười bốn tuổi, cái bản chất "con nít" đã hoàn toàn biến mất.
Quãng đời thơ ấu, đáng lẽ đầy vui sướng, thắm tươi, Thu Trân chẳng hề được hưởng một ngày, mà đó là cả một chuỗi năm tháng đọa đầy. Bởi vậy, so với những cô gái mười bốn tuổi khắc, Thu Trân hiểu biết hơn thật nhiều, từ nhân tình thế thái, đến chí nhẫn nại, lẫn các công việc làm lụng trong nhà.
Thu Trân không còn nông nổi nữa. Trước mọi vấn dề, Thu Trân đều có sự xét suy, nhận thức cẩn thận. Chẳng để kế mẫu la ó, sai khiến, Thu Trân đã tự động chu toàn hết mọi việc nội trợ, cho kế mẫu vui lòng...
Có em Xuân Châu mười hai tuổi rưỡi của Thu Trân, xem chừng dã biết thương người phần nào, nên dần dần không còn lấn hiếp Thu Trân thái quá như trước nữa. Được vậy, phần lớn cũng do thái độ của Thu Trân. Biết rằng cô em dã quen với nếp sống nuông chiều từ bé, nên chẳng biết làm gì hết, dù chiếc khăn tay cũng không tự giặt lấy được. Thu Trân bèn sẵn sàng lo liệu, làm giúp Xuân Châu tất cả, bằng thân tình chị em, chẳng chút tị hiềm, không hề quản ngại khó nhọc. Chính thái độ ấy của Thu Trân đã cảm hóa dược Xuân Châu dần dần...
Mùa hè năm nay, hai chị em đều đậu Tiểu học. Kết quả khích lệ này của Xuân Châu, thật ra là nhờ ở Thu Trân cả. Có lẽ cũng hiểu như vậy, nên kế mẫu đâm ra cao hứng, cho phép Thu Trân tiếp tục học lên bực Trung học, để tiện đi đi về về và kèm bài vở cho Xuân Châu luôn.
Xuân Châu có cái tật lớn là thường hay đùa giỡn trong lớp, giữa giờ học. Và trò chơi Xuân Châu "khoái" nhứt là viết những mẫu thư vụn trộm, lời lẽ thật lý lắc, thừa lúc giáo sư ngó lơ một chút, liền ném sang các bạn nam sinh, để họ mở ra đọc, dòm nhau mà cười... chơi!
Một hôm, nhằm giờ Sử Địa, nhưng vì giáo sư phụ trách thường lệ lại vắng mặt vì bịnh, nên nhà trường đưa một vị khác tới dạy thay. Nghe đồn vị giáo sư dạy thay này rất khó tính, dễ nổi giận và khi đã nổi giận thì trừng phạt rất gắt môn sinh phạm lỗi. Bởi vậy, thoạt thấy vị này bước vào, lập tức cả lớp lấm lét, im phăng phắc.
Nhìn sắc diện ông, quả nhiên nghiêm mặt. Thu Trân phải ngầm đá vào chân Xuân Châu hai ba lượt, để nhắc chừng Xuân Châu đừng có "giỡn mặt" mà mang họa. Nhưng, không hiểu sao Xuân Châu cười hoài, nét cười đầy hóm hỉnh, trào lộng.
Giáo sư vốn cận thị nặng, mang cặp kính vừa dày vừa to.
Có lẽ Xuân Châu cho rằng ông này "cận" nặng quá cỡ như vậy, ắt mắt mũi lem hem, khó nhìn thấy các cử dộng của cô ta cũng nên.
Xuân Châu chẳng buồn lắng nghe giáo sư giảng bài, để lo trổ tài diễn trò chơi "ruột"; viết thư lén.
Hai chị em ngồi chung một bàn nên Thu Trân đã liếc thấy ngay việc làm "bất hợp pháp" của Xuân Châu, liền ngầm đá vào chân Xuân Châu một lần nữa.
Xuân Châu méo miệng nheo mắt ngó Thu Trân một cái, rồi cứ tiếp tục chơi như thường.
Viết xong mảnh giấy, Xuân Châu viên tròn lại, ném vù sang dẫy bàn nam sinh.
Nhưng... trò chơi phen này bị "tào" nặng: lúc hòn giấy ném đi, mấy nam sinh chưa kịp nhặt lấy thì đã bị giáo sư bắt gặp và tịch thu ngay.
Ông mở giấy ra xem. Đột nhiên ông tái hẳn sắc diện. Ông liền sải bước trở lên bục gỗ, cầm mảnh giấy giơ cao, lớn tiếng quát hỏi:
- Không người nào nói ra ai là chủ mảnh giấy nầy thì cả lớp đều bị phạt hết!
Xuân Châu lo sợ cuống cuồng, suýt bật khóc, vì xem chừng bất cứ bạn đồng học nào cũng có thể bất thần đứng dậy điểm mặt, tố cáo mình.
Thu Trân tuy không biết cô em đã viết những gì trên mảnh giấy quái ác kia, nhưng thấy tình trạng của Xuân Châu đáng thương quá, nên lòng tự ái ở người chị trỗi dậy và tự ý thức bổn phận phải bảo hộ em... Thu Trân không cần đo lường hậu quả sẽ ra sao, cũng quên hết sợ hãi, mà trước mắt chỉ có tình tỷ muội thủ túc, bèn mạnh dạn đứng lên, nói:
- Thưa thầy, mảnh giấy ấy là của em!
Cả lớp sửng sốt trố mắt ngó Thu Trân.
Xuân Châu hoàn toàn không ngờ, càng kinh ngạc hơn ai hết.
Vị giáo sư cười gằn, ra hiệu gọi Thu Trân lên bục gỗ, đưa ngay mảnh giấy, bảo hãy đọc lớn cho toàn lớp nghe.
Thu Trân không nhìn vào mảnh giấy, mà hướng về phía giáo sư, khổ não van cầu:
- Đồ mất dạy! Mau đọc to lên!
Sự sợ hãi đè nặng lớp học. Bầu không khí lặng trang, mọi người gần như không dám thở.
Thu Trân ràn rụa nước mắt, vừa nghe mặn chát cổ họng, nhưng không dám van xin nữa, phải đưa ánh mắt nhòa lệ nhìn vào những chữ nguệch ngoạc của em mình viết trên mảnh giấy và run run đọc.
- Trò tên gì? Mấy tuổi?
- Mười bốn tuổi? người ta cỡ tuổi trò, là đã đậu Sơ Trung hay ít ra, cũng đang học lớp tám, mà mới lẹt đẹt bò tới lớp sáu thế này. Đã ngu dốt, học hành chả ra gì, lại bày đặt ngỗ nghịch hư thân mất nết! Đồ bại hoại, không biết nhục!
Ông lớn tiếng mắng nhiếc một loạt, Thu Trân hổ thẹn đến đỏ bừng mặt mũi và toàn thân nóng ran, vừa run bần bật, như đang lên cơn sốt rét nặng.
Thuận tay, ông chụp cây thước bản, quật túi bụi vào lưng, vào chân Thu Trân và gầm thét.
o0o
- Chị hai!
Thu Trân tưởng mình chiêm bao. Suốt mười mấy năm trường, đây là lần thứ nhứt Thu Trân mới được nghe Xuân Châu gọi mình bằng "chị" và tỏ cử chỉ thân thiết thế này.
Thu Trân ngạc nhiên một sư ngạc nhiên đầy xúc dộng, một nỗi xúc động an ủi, thấm thía nghĩa tình.
Tất cả ê ẩm, đau đớn trên cơ thể, tất cả nhục nhằn, xót xa trong tâm hồn Thu Trân liền quên sạch, lại cảm thầy mình đang sung sướng, khoan khoái nhứt trần gian.
Thu Trân ôm chặt Xuân Châu, hiền hòa nở nụ cười, cười mà chan hòa nước mắt, cất giọng ôn hòa bảo:
- Xuân Châu, em đừng khóc, em đừng khóc, đừng lo gì hết, mau đứng dậy đi, thế nào thầy cũng tha cho chị mà.
Xuân Châu càng thêm thương tâm, khóc càng nhiều hơn, vừa nhè nhẹ rờ rẫm những vết tát tai còn hẳn đỏ trên hai má Thu Trân.
Chị em gục đầu vào nhau, lệ nóng đầm đìa, đôi quả tim nhịp chung một điệu gắn bó...
Kể từ ngày được Thu Trân đứng ra nhận "tội" chịu phạt thay cho mình, Xuân Châu biến đổi hoàn toàn: chẳng những hết sức khắng khít với Thu Trân: còn chăm chỉ, cố gắng học tập, trở thành một nữ sinh rất tốt.
Lúc nào Xuân Châu cũng quấn quít bên cạnh Thu Trân, hễ có món ngon vật lạ là nhứt định chờ Thu Trân cùng ăn. Gặp khi Thu Trân bị kế mẫu mắng chửi, hành hạ, thi Xuân Châu tận tình binh vực và đau xót cũng y như chính mình bị ngược đãi vậy. Bà mẹ dù tức giận đến gần chết đi được, song vì quá cưng yêu Xuân Châu, rốt cuộc đành phải nhượng bộ. Nhờ thế, Thu Trân đỡ khổ mấy phần. Cả đến những công việc bếp núc, giặt giũ trong nhà. Xuân Châu cũng luôn luôn trợ giúp cùng làm với Thu Trân, sẵn sàng giành lấy mà làm thay cho chị.
Kế mẫu Thu Trân vẫn vắng nhà đi đánh bài suốt ngày. Một buổi tối, bà ta thua hết tiền, về nhà sớm, hầm hầm đổ trút vào đầu Thu Trân tất cả thịnh nộ mặc dù Thu Trân chẳng có lỗi gì hết.
Bà ta đang hùng hổ đánh đập túi bụi, bất thần Xuân Châu nhẩy bổ vào che chở cho Thu Trân. Ngừng tay không kịp, bà ta lỡ đà quất trúng vào người Xuân Châu hai roi đích đáng.
Lần dầu tiên nếm mùi đòn vọt. Xuân Châu đau buốt thấu xương, rú lên thất thanh và khóc ngất.
Bà ta cũng la hoảng và vất ngay cây roi, ôm chầm lấy Xuân Châu, vuốt ve lia lịa, lộ vẻ khổ sở vô ngần.
Nhưng, thoắt cái bà đã quắc mắt nẩy lửa, nghiến răng ngó Thu Trân, cơ hồ muốn ăn tươi nuốt sống cô bé mới hả giận.
Trông sắc diện kế mẫu, trong cùng một thời gian mà có thể biểu hiện đúng mức hai trạng thái thương yêu và độc ác như vậy, tự dưng Thu Trân ngầm nẩy ý nghĩ ngộ nghĩnh: "Kế mẫu mà lên sân khấu, chắc sẽ là một kịch sĩ đặc sắc"...!
- Con quỉ chết bầm kia, mày đừng tưởng lợi dụng Xuân Châu binh vực được hoài mà lừng. Rồi tao sẽ xé xác mày ra cho mày biết. Mày có chịu cút ngay đi, hay còn đợi tao đập một trận nữa?
Xuân Châu vùng vẫy thoát khỏi bàn tay mẹ, vừa khóc vừa la:
- Má! Má muốn đánh chị hai con, thì đánh con chết trước đi!
- Xuân Châu con ăn nói gì kỳ cục vậy? Mấy lúc gần đây con cứ chống đối má hoài, là tại sao? Con... con biến đổi nhiều quá rồi!
- Con hỏi má, vì lẽ gì mà má cứ đánh chị hai con? Chị hai con làm chi nên tội?
Xuân Châu bỗng ngừng khóc, tiếng nói trở nên rắn rỏi, thái độ quật cường như con sơn dương khi chực húc người.
Vì lẽ gì cứ đánh Thu Trân? Làm sao bà trả lời cho trôi.
Xuân Châu nhìn mẹ chầm chập nói toạc ra:
- Có phải bữa nay má thua bài hết tiền, nên về nhà hành hạ chị hai con?
Bị vạch trúng tim đen, bà ta thẹn đỏ mặt đến nổi giận.
- Xuân Châu! Này... con... bộ con điên hả? Hùng hục về hùa với con quỉ bá vơ đó, hỗn láo chống lại mẹ ruột! Con có điên không?
Xuân Châu không ngán lại phản công:
- Chính má đã bức bách con điên thật rồi đây này. Từ rày mà má còn ngược đãi chị hai con nữa, là con nhứt định bỏ nhà con đi, rồi con nhảy xuống sông tự vận cho má coi!
Thu Trân cảm kích mãnh liệt, đến độ quên lửng đi nét đằng đằng sát khí của kế mẫu, nhảy a lại nắm tay Xuân Châu nghẹn ngào:
- Em... đừng... em đừng... như vậy.
Mọi khi, dù bị kế mẫu đánh đau cách mấy, Thu Trân vẫn cố cắn răng chịu đựng chớ không chảy một giọt lệ nào; nhưng giờ đây, lại chẳng dằn nổi cơn xúc động, nước mắt cứ tuôn trào và bật khóc nức nở.
Xuân Châu cũng òa lên khóc thật lớn.
Thím Trương nghe to tiếng, từ dưới bếp vội chạy lên. Chợt thấy chị em Thu Trân ôm nhau khắng khít, thím ngạc nhiên sững sờ, đứng ngây ra trố mắt nhìn. Đôi môi thím từ từ nhoẻn cười, vẻ mặt đầy hoan hỉ, mà lệ nóng đã đoanh tròng. Thím xoay qua kế mẫu Thu Trân, cất giọng thành khẩn.
- Bà chủ coi đó, thật là một hình ảnh đẹp! Năm nay cô hai, cô ba đều lớn khôn rồi, lại có học, nên đã biết yêu thương nhau, biết quí trọng tình chị em máu mủ. Tốt biết chừng nào! Từ rày bà chủ có thể yên tâm, chẳng những khỏi lo hai cô gây gổ nhau, mà còn vừa lòng về việc học hành của hai cô, chắc chắn sẽ càng tiến bộ hơn cho mà xem. Tôi nói, xin bà chủ đừng giận, dầu là người dưng đi nữa mà thấy cái cảnh này, ai cũng phải vui mừng.
Thím Trương càng nói, sắc diện kế mẫu Thu Trân càng khó coi: giận không xong, cười chẳng được.
Nhưng rồi bà ta vẫn hầm hầm điểm mặt Thu Trân bảo:
- Này, hãy liệu hồn, tao giao con Xuân Châu cho mày đấy, nó có bề nào thì tao lấy cái mạng của mày! Nghe chưa?
Dường như bà ta lo sợ sẽ có ngày Xuân Châu đâm đầu xuống sông tự tử thật.
Nhận thấy tình thế ở đây bất lợi, vì con gái cưng của mình đã đứng về "phe địch", lại đang có mặt thím Trương, bà vụt đứng phắt dậy, ngoe nguẩy bỏ vào buồng ngủ.
Thím Trương lấy ra hai chiếc khăn mặt cho chị em Thu Trân lau nước mắt. Thím ngó Xuân Châu, vừa đưa ngón tay cái lên, vừa cười khen:
- Cô ba! Bữa nay tôi phải nhìn nhận là cô ngon lành số dách. Cô đối với cô hai tốt lắm, đáng khen đáng phục lắm. Chắc cô cũng thừa hiểu, mặc dầu cô hai không phải do má cô sanh ra, nhưng hai chị em cô vẫn là ruột thịt thủ túc với nhau, vì cùng một huyết thống, chung một cha. Phen này ông chủ về, hay biết được chuyện hai chị em cô thương yêu nhau thân thiết như vầy, chắc sẽ cao hứng mà sống lâu thêm cả chục tuổi.
Xuân Châu cười thích chí, nhưng mắc cở, vội kéo Thu Trân chạy vô phòng tổ mẫu.
Trước kia Thu Trân ngủ chung với tổ mẫu, từ ngày tổ mẫu mất thì gian phòng này chỉ còn một mình Thu Trân ngủ.
Chừng nửa tháng qua, tối nào Xuân Châu cũng vào đây để học bài, làm bài chung với Thu Trân, rồi về buồng ngủ với má. Nhưng hôm nay, Xuân Châu đề nghị:
- Chị hai cho em ngủ chung với chị nhé!
Thu Trân khẽ khuyên:
- Không nên. Em làm vậy, má càng giận chị lại buồn em.
- Chị đừng lo. Đâu phải tại bữa nay cãi với má mà em tính ngủ ở đây, thật ra em đã muốn xin qua ngủ với chị từ lâu rồi...
Thấy Thu Trân chưa hiểu, Xuân Châu liền giải thích thêm:
- Hiện giờ em cũng đã lớn khôn rồi, cứ ngủ chung với má hoài chả nên. Mấy lúc ba đi vắng thì cũng còn được đi, nhưng những hôm ba ở nhà ba đâu có giường riêng, tự nhiên phải ngủ ở đó, hóa ra ba người một giường, chật chội, lại không tiện. Vì vậy, em muốn xin qua ngủ với chị luôn.
- Chị hiểu ý em rồi, nhưng... nếu ngay tối nay em qua đây ngủ, má có thể hiểu lầm. Tốt hơn, đợi khi ba về, em thưa rõ với má như thế, rồi sẽ tùy má quyết định...
Ngưng một chút, giọng Thu Trân trở nên tha thiết:
- Xuân Châu! Em hiểu cho chị, suốt mười bốn năm rồi, thân phận chị thiếu vắng hẳn tình mẹ, tâm hồn chị cô đơn, chị thèm khát tình thương biết chừng nào, nay được em ban cho nguồn thân ái, nồng nhiệt, thật là quý hóa vô vàn, chị cảm ơn em chẳng biết nói sao cho vừa. Chị còn cầu mong chị em mình được cận kề nhau từng phút từng giây chớ lẽ đâu đắn đo chuyện ngủ chung.
Nghe bấy nhiêu, nước mắt Xuân Châu rơi tầm tã, phải ngoảnh mặt sang một bên để che dấu đi.
Thu Trân vội kéo tay em, hỏi tại sao? Xuân Châu không trả lời, cứ thút thít khóc hoài.
Thu Trân chẳng biết an ủi em như thế nào hơn là cùng khóc theo. Hai chị em cứ ôm nhau mà khóc...
Hồi lâu, đột nhiên Xuân Châu thống thiết kêu hai tiếng "chị hai" rồi tức tưởi nói:
- Trong quá khứ, tâm hồn em cũng cô độc, trống rỗng. Em nào phải sinh ra để xem chị như cừu địch, hay để khinh bạc, chống đối chị, mà đó là do má uốn nắn nên cả. Xét kỹ ra, chẳng những má đã làm hại chị, đồng thời cũng làm hại em luôn. Sự phóng túng, sự nịch ái của má tạo cho em thành một kẻ ích kỷ, đố kỵ, ỷ lại, tàn nhẫn, hèn hạ... Trong quá khứ, đối với chị dù em tha hồ lấn hiếp, bạc đãi, nhưng kỳ thật thâm tâm em chẳng thỏa thích chút nào, vì luôn luôn cứ cảm thấy cô độc trống rỗng. Mãi đến mấy lúc gần đây, em mới biết được thế nào là hương vị vô giá của chân tình tỷ muội. Chị hai! chính chị đã ban cho em hương vị vô giá ấy, chính em phải cảm ơn chị mới đúng!
- Em đã tự trách hơi quá đáng rồi! Phải thành thật nhìn nhận, em đúng là con người có trí tuệ, đã biết phân định phải trái minh bạch. Chị lấy làm hãnh diện có được một em gái là hảo cô nương như em.
Xuân Châu vọt miệng thốt ngay, chẳng chút e dè:
- Nếu em được đúng như chị khen thì đó là nhờ ba chúng ta di truyền cho đức tính và lương tri. Em đã giống ba, giống chị.
Bằng vào lời lẽ ấy, hiển nhiên Xuân Châu mang ý oán hận mẹ ruột chẳng ít.
Thu Trân tuy như vậy, nhưng chỉ lặng thinh, không dám nói gì.
Xuân Châu lại tiếp:
- Con người ta khi chưa trải qua sự họa hay phúc, quyết không thể biết rõ mùi vị đắng cay hay ngọt bùi như thế nào. Chẳng hạn như em, nếu vừa rồi không bị hai roi của má, thì đâu đã hiểu cái mức đau khổ ra sao?... Chị hai! Nhớ lại trước kia, cứ mỗi lần chị bị đòn là em reo mừng, cười cợt, sao em thấy em tàn ác vô nhân tính quá. Em đã có tội nặng nề với chị, em không biết nên tự trách phạt cách nào mới vừa?
- Em! Chuyện đã qua, nên cho qua luôn, đừng nhắc tới!...
Thu Trân cố làm ra vẻ bình thường, gạt ngay lời Xuân Châu, nhưng vừa nói được bấy nhiêu, cổ họng đã nghèn nghẹn, phải gắng lắm mới tiếp nối được:
- Chỉ cần... điều quan trọng... là hiện tại chị em mình biết thương yêu nhau hết lòng... còn chuyện cũ, không nên...
Xuân Châu lại bật khóc, hỏi xen ngang:
- Chị hai! chị có hận em không?
Thu Trân ôm chầm lấy Xuân Châu, đáp qua tiếng nấc:
- Không! Chưa bao giờ chị hận em.
- Phải rồi! Em biết chị không bao giờ hận em... Bởi vì, nếu hận em thì chị đã chẳng thay em nhận tội chịu đòn điêu đứng trong lớp học hôm nọ. Chị hai! Em không ngờ có thứ tình thương vĩ đại như thế, chị đã sẵn sàng quên thân mình vì em! Trong khi má em thì lại... Trời ơi!...
Xuân Châu gục đầu nức nở.
Thu Trân lập tức khuyên:
- Em! Đã bảo bỏ chuyện đó đi! Chúng ta chỉ cần hết dạ trung thành với người, thì dù gặp phải bất cứ sự cừu oán nào cũng có thể hóa thành bạn... Má vốn chẳng có thù hận gì to tát đối với chị, chị tin má sẽ dần dần xét rõ ra mà thương chị.
Xuân Châu đưa tay quệt nước mắt trên má và trầm ngâm một lúc, bỗng hậm hực nói:
- Em nói thật, phải chi có ai đó cũng dùng roi, dùng gậy đập cho má một trận kịch liệt để bả biết trong lúc bả đánh chị là đã nhẫn tâm làm chị đau đớn đến bực nào...
Thu Trân lại mau mau ngắt lời và khuyên:
- Em đừng nói vậy. Cha mẹ dạy con, có quyền đánh đòn con, đó là lẽ thường xưa nay, phận làm con tuyệt đối không được ghi khắc thành mối hận trong lòng.
o0o
Được Xuân Châu hết lòng bênh vực, Thu Trân không đến đỗi bị kế mẫu bắt phải thôi học, mặc dù bà ta đã nhiều phen kiếm đủ cớ rắc rối.
Trong tình thương tỷ muội đậm đà, hai chị em Thu Trân học tập ngày càng tiến bộ, nên liên tiếp hai niên khóa liền đều được xếp vào hạng học sinh ưu tú, lên lớp dễ dàng.
Mùa thu năm ấy, chị em Thu Trân đang học lớp tám thì thời cuộc xảy ra một biến cố quan trọng. Theo lời giáo sư cho biết: ngày 13 tháng 8, binh đội quân phiệt Nhật bản tấn công Trung Hoa Dân Quốc, tức cuộc chiến Nhật Hoa đã nổ bùng.
Nghe tin thì nghe như vậy, nhưng Thu Trân chẳng có ý thức gì rõ rệt, vì đang ở lứa tuổi học trò, chưa từng hiểu biết bao nhiêu về quốc gia đại sự.
Huống chi, thuở ấy Đài Loan, nơi gia quyến Thu Trân sinh ngụ, vốn là thuộc địa của Nhật (từ năm 1895, Đài Loan thuộc Nhật, đến 1945, quân phiệt Nhật đầu hàng đồng minh và Đài Loan qui hoàn Trung Hoa Dân Quốc); lại cách xa đất liền nên chẳng bị ảnh hưởng trực tiếp của chiến tranh.
Chỉ thỉnh thoảng nhân nghe được lỏm bỏm vài ba lời, qua những cuộc luận đàm thế sự của một số giáo sư cùng nòi giống, Thu Trân cũng nao nao cảm thấy đau lòng, khi biết rằng tổ quốc mình đang lâm cơn khói lửa, điêu linh...
Chương 3
Mười bảy tuổi, Thu Trân tốt nghiệp Sơ Trung.
Vóc dáng phát triển đầy đặn, cơ thể nẩy nở kiều diễm và trí tuệ, tâm tình cũng tăng trưởng, kể chung Thu Trân đã "thành nhân chi mỹ", đã là một "đại cô nương".
Xuân Châu tuy kém một tuổi rưỡi nhưng thể chất nẩy nở sớm, cũng cao lớn suýt soát Thu Trân.
Cả hai đều xinh đẹp duyên dáng hơn người.
Càng lớn khôn, chị em càng thêm thân thiết gắn bó.
Có lẽ vì thấy Thu Trân không còn khờ dại gì nữa, nhất là lúc nào cũng có Xuân Châu bên cạnh nên kế mẫu đâm ra dễ dãi đôi phần và chẳng mấy khi giở đến trò gậy gộc đòn vọt như trước.
Song le, như thế chẳng phải là hảo ý, mà bên trong nụ cười của bà ta lại chứa đầy gươm đao. Bà ta đang rắp tâm cắt ngang đường học vấn của Thu Trân.
Mùa khai trường sắp đến. Trong khi chị em Thu Trân nôn nao, hí hửng chuẩn bị nhập học cấp Cao Trung thì, một hôm, nhân bữa cơm chiều, kế mẫu cố ý gợi chuyện, hỏi thân phụ Thu Trân:
- Gần đây người bạn thân của ông có liên lạc thư từ gì với ông không?
Thình lình bị hỏi, thân phụ Thu Trân không hiểu là vụ gì, phải hỏi lại:
- Bà muốn nói người bạn thân nào?
- Thì là vị bằng hữu sui gia của ông chớ còn ai nữa.
- À... anh Lương Minh Đăng! Hai năm nay chẳng được tin tức gì. Từ ngày xảy cuộc chiến tranh Trung Nhật, mọi sự đi lại thư từ đều gián đoạn.
Sáu năm trước, Thu Trân đã từng nghe đến danh tánh Lương Minh Đăng, nhưng không có cảm tưởng gì đặc biệt. Giờ đây, chợt nghe nhắc lại, không hiểu tại sao quả tim nàng đập loạn lên. Đồng thời đôi má nàng cũng tự dưng đỏ bừng.
Xuân Châu có vẻ nhớ ra ngay câu chuyện "chỉ phúc vi hôn" thuở nọ, liền ngó Thu Trân, nheo mắt mỉm cười.
Bà kế mẫu lại lên tiếng:
- Nhà họ Lương ấy đã tính định cư lâu dài tại Thượng Hải, bằng không thì mấy năm trước đã trở về Đài Loan rồi. Như thế, xem chừng người ta chẳng tha thiết gì đến vụ chỉ phúc vi hôn. Nay cuộc chiến Trung Nhật lại kéo dài không biết tới bao giờ mới kết thúc. Nếu cứ phải gián đoạn liên lạc, phải chờ đợi hàng chục năm nữa thì sao? Chẳng lẽ bắt con Thu Trân nhà này phải đóng vai Hòn Vọng Phu, trở thành gái già lỡ thời?
Lời lẽ của bà ta thật khôn khéo, khiến không ai lường được là hảo ý hay ác ý.
Thân phụ Thu Trân trầm ngâm chẳng nói gì.
Bà kế mẫu lại tiếp:
- Theo tôi thì "chỉ phúc vi hôn" là một lệ tục, không thể áp dụng ở thế kỷ hai mươi này được, bởi vì nó vừa vô lý vừa kém văn minh. Ai đời, chỉ căn cứ vào hai cái bụng chửa mà hứa hôn bừa. Lấy gì bảo đảm? Hai trẻ khi lớn lên, liệu có vừa ý nhau không? Ái chà!... đủ thứ vô lý. Chẳng hạn như hiện giờ, Thu Trân với cái cậu Lương Tường Phương gì đó, chẳng hề biết mặt mũi nhau ra sao cả chớ đừng nói là tư cách, tính tình. Hai bên xa cách hoàn toàn, không ai hiểu ai tí ti gì hết mà cứ coi như là vợ chồng, thật đáng tức cười. Huống chi, cậu Lương Tường Phương nay đã là chàng trai mười bảy tuổi, nếu đã chọn người yêu rồi và không thừa nhận Thu Trân là vị hôn thê nữa, thì sao? Hừ... ông làm cha mà định việc hôn nhân cho con gái một cách hồ đồ như vậy ư?
Bị vợ cho là hồ đồ ngay trước mặt con cái, thế mà thân phụ Thu Trân chẳng chút bất bình. Dường như ông tự cảm thấy cái tuổi năm mươi của mình có bổn phận phải nhịn nhục, càng nhiều càng tốt, đối với bà vợ mới ba mươi ngoài tuổi cho yên cửa yên nhà. Ông chỉ ôn tồn biện bạch:
- Hồi đó, tôi làm sao biết trước được là anh ấy dời nhà sang Thượng Hải? Nhưng mà... không hề chi. Dù sao anh Lương Minh Đăng cũng là một người bạn tốt, nhất định giữ chữ tín. Anh ấy vẫn giáo dục con cái rất nghiêm. Tôi tin anh ấy không khi nào quên vụ chỉ phúc vi hôn này, cũng không khi nào để cho cậu Phương tự ý chọn người yêu... Bà khéo lo thì thôi, tuổi con Thu Trân hãy còn nhỏ, dẫu có chờ đợi năm ba năm nữa sẽ thành hôn cũng đâu muộn.
Kế mẫu hất hàm, nghinh mặt:
- Tôi hỏi ông, lúc ông với người ta chỉ phúc vi hôn gì gì đó, ông có nhận được một chút tiền bạc, vật dụng nào của người ta, gọi là làm sính lễ không?
- Ồ! Cần gì vấn đề đó. Tôi với anh Minh Đăng đã là chỗ kết bái huynh đệ, chỉ một lời hứa với nhau cũng đủ rồi.
Kế mẫu cười lạt:
- Chiếu theo lời ông nói thì cuộc hôn nhân ấy chả có giá trị, không nghĩa lý gì hết. Đã không có người mai mối, giới thiệu, cũng không có sính lễ, tức chẳng một nghi thức nào ràng buộc, thật y như một trò đùa.
Thu Trân tuy không dám nói ra, song quả tình cũng cảm thấy việc hôn nhân trọng đại mà tính sơ sài như thế thật là bất ổn. Nàng chỉ tán thành phụ thân một điểm, là nàng hãy còn trẻ, dù năm ba năm nữa sẽ bàn tới việc hôn nhân cũng chẳng muộn. Đúng ra, nàng không hề nghĩ đến chuyện kết hôn gì cả, mà tâm nguyện của nàng là tiếp tục được học, tốt nghiệp cao trung, rồi lên đại học. Nàng muốn có sức học khá, để dễ tự lập, chớ không thích ỷ lại vào người khác.
Nãy giờ, thấy phụ mẫu kém hòa hợp về chuyện của mình, Thu Trân chẳng an tâm, nàng lựa lời góp ý:
- Thưa ba má, xin ba má đừng bận tâm tới vụ đó làm chi bởi vì hiện tại điều cần ích nhất cho con là học tập, còn chuyện gì khác, xin thủng thẳng sẽ bàn sau ạ.
- Sao lại thủng thẳng? Con gái đã mười bảy, mười tám tuổi rồi, đâu phải còn nhỏ. Xưa nay, hễ con trai lớn thì phải cưới vợ, con gái lớn phải lấy chồng, lẽ đương nhiên như vậy. Nếu có chỗ xứng đáng, đàng hoàng, thì cô nên ưng người ta phứt cho xong, còn hơn bám mãi vào nhà này, thêm nặng gánh, nghe chưa?
Nghe qua lời kế mẫu, Thu Trân không khỏi đau xót, buồn tủi, vì rõ ràng bà ta coi nàng là một kẻ ăn bám, chỉ muốn gả phứt đi cho rồi.
Nàng toan nói mấy tiếng phản kháng, nhưng không dám, đành nuốt nghẹn, cúi đầu lặng thinh.
Nhưng Xuân Châu lại lên tiếng:
- Má! Sao má nói vậy? Chị hai ở nhà này là lẽ tự nhiên, chớ sao gọi là gánh nặng?
Kế mẫu lạnh lùng:
- Hừ, con gái lớn rồi mà lúc nào cũng dàu dàu cái bản mặt như đưa ma. Như thế, không phải có bất mãn, ta thán vì không được ăn ngon, không được mặc đẹp dó sao? Ai mà lo cho nổi. Tốt hơn nên đi lấy chồng, có bên chồng nó lo cho.
Thu Trân làm gan mở miệng:
- Thưa má, có lẽ má đã hiểu oan cho con rồi. Con chẳng bao giờ mơ tưởng ăn ngon mặc đẹp chi hết. Con chỉ mong có sách vở học, là đủ lắm rồi.
- Nhưng con gái không cần học cao. Bổn phận của phụ nữ là săn sóc chồng, dạy con. Người con gái nào lớn lên cũng phải lấy chồng, sinh con, thử hỏi cứ lo đọc cho đầy bụng sách vở kinh luân để làm gì, có phải là uổng tiền ăn học không? Nói thật đấy, ngay như con Xuân Châu, vài ba năm nữa, cũng cần kiếm chỗ gả chồng như thường.
Xuân Châu nhún vai, lắc đầu:
- Khỏi có chuyện đó! Con cho má hay, nếu không lên tới đại học thì dù má có chặt đầu con, thì cũng đừng hòng bắt con lấy chồng.
Được Xuân Châu nói lên thay cho lời của chính mình muốn nói, Thu Trân lấy làm hả dạ. Nào ngờ kế mẫu chẳng lý gì đến Xuân Châu, mà quay sang thân phụ nàng, hí hửng kể:
- Sáng nay, bà Tư ở nhà bên cạnh có đến nói chuyện với tôi về con Thu Trân. Bà ấy làm mai một chỗ rất xứng đáng, đàng trai là một người Nhật rất giàu, đang làm chủ nhiều cửa tiệm lớn; lại có địa vị cao trong xã hội đương thời... vừa rồi, vợ ông ta bị tai nạn hàng không, chết tan xác, nên ông ta muốn tục huyền, để có người phụ lực trông nom sự nghiệp.
Phụ thân Thu Trân hỏi:
- Đã lớn tuổi chưa? Đời vợ trước còn để lại đứa con nào không?
- Ba mươi tám tuổi. Dường như chỉ có đứa con trai bốn tuổi. Con Thu Trân nhà mình mà lấy được người chồng Nhật như thế là vô cùng vinh hạnh, rất có lợi cho nhà mình.
Thu Trân không ngờ câu chuyện lại đi đến chiều hướng như thế này.
Kế mẫu quan niệm có một ông chồng ngoại nhân dường ấy là vinh hạnh. Nhưng Thu Trân lại cho là điều sỉ nhục.
Nàng cắn chặt răng, nén tức giận, cố lấy giọng bình tĩnh:
- Thưa má, con hy vọng học đến tốt nghiệp Cao Trung xong, sẽ tính vấn đề hôn nhân.
Kế mẫu quắc mắt:
- Cô chê người ta lớn tuổi chớ gì? Cô ghen với đời vợ trước của người ta, phải không?
Thu Trân uất ức đến run cả tay chân lẫn tiếng nói:
- Không! Con không... không hề có ý đó.
Thấy Thu Trân sắp khóc, phụ thân nàng không đành lòng, liền can thiệp:
- Thu Trân mới mười bảy tuổi, lại còn đang đi học, đã có kinh nghiệm gì mà tự dưng về nuôi con nhà người ta đã bốn, năm tuổi. Không tiện đâu. Chuyện ấy hãy gác lại, thủng thẳng sẽ bàn sau.
Kế mẫu giở giọng đanh đá ngay:
- Ông nói vậy mà nói được ư? Thế hồi đó, lúc ông lấy tôi thì sao? Tôi mới mười chín tuổi, ông lớn hơn tôi những mười sáu tuổi, mà ông cũng chả giàu có gì, thế sao tôi vẫn ưng về làm vợ ông, lo nuôi cả con ông cho tới ngày giờ này? Bây giờ tôi đã cậy cục tìm được cho con Thu Trân gặp chỗ xứng đáng dường ấy, sao ông lại ngăn cản? Bộ ông cho là tôi làm hại nó chăng?
Tình thương cha trỗi dậy, Thu Trân chẳng nhịn được, nghiêm trang ngó kế mẫu, nói bằng giọng cương quyết:
- Thưa má, được má quan hoài đến việc tương lai đời con, con rất cảm kích. Thật ra, con không chê người ta lớn tuổi hay gì gì hết, mà chỉ nghĩ hơi khác má một điểm, nói ra xin má bỏ qua cho, là con không thích có chồng ngoại nhân, thế thôi.
Như bị tạt vào mặt gáo nước lạnh, kế mẫu Thu Trân nổi hung, vỗ bàn đánh "rầm" một cái, khiến chén dĩa ngã nghiêng, vừa chồm lên, la ó:
- Người ta tu chín kiếp, cầu có chồng ngoại quốc, giàu có, cho sướng cái thân, còn không được. Còn mày, mày là cái thá gì mà bày đặt chê bai? Nói! Nói cho trôi, mày là cái thá gì mà chê người ta, hả?
Thân phụ Thu Trân giận tái mặt, chân tay run lẩy bẩy, nhưng hình như không muốn chuyện bất hòa thêm rùm beng, ông gắng gượng ôn tồn khuyên:
- Bà làm gì mà dữ vậy? Bề nào cũng đang bữa cơm, hãy ăn xong cho vui vẻ cái đã, rồi chuyện đâu còn có đó, sẽ bàn thêm sau, muộn màng gì!
- Không có cái gì phải bàn thêm nữa hết. Nó là con. Tôi đã khổ cực nuôi nó từ nhỏ tới lớn, tôi có quyền định đoạt việc dựng vợ gả chồng cho nó. Nếu nó cãi lời thì mau mau cút khỏi nhà này, đừng có ăn hột cơm nào của tôi nữa.
Thu Trân ứa nước mắt, vì cố nén nhịn uất hận. Nếu không kịp nghĩ thương cha già, nàng đã đứng phắt dậy, sẵn sàng cho kế mẫu biết là nàng chấp nhận thoát ly gia đình và nàng sẽ ra đi lập tức. Nàng sợ gì; cùng lắm thì nàng đến ở với bà cô như tổ mẫu nàng đã dặn dò lúc lâm chung, chớ có bơ vơ đâu. Tuy nhiên, bấy lâu này nàng không đủ can đảm làm thế, vì không muốn gây cảnh thương tâm trầm trọng cho thân phụ.
Xuân Châu chẳng kiên nhẫn được nữa:
- Má! Không phải con có ý chống đối má, nhưng... con nghe sao kỳ quá. Theo con nghĩ thì mỗi người có một ý thích, không thể cưỡng bách vô lý được. Nếu má thực tâm thương yêu, lo lắng cho chị hai con, thì má cũng nên để cho chị hai con được bày tỏ ý kiến với chớ? Trái lại, má cứ khăng khăng ép buộc, là tại sao? Má cho việc lấy chồng ngoại quốc là vinh dự, nhưng tụi con không nghĩ như má. Riêng con, xin nói thật, con cũng phản đối, một ngàn, một vạn lần phản đối!...
Bị Xuân Châu dồn cho một hồi, bà ta vừa giận vừa thẹn, cơ hồ phát run. Nhưng Xuân Châu quả nhiên lợi hại, chẳng đợi bà ta kịp phản ứng, đã bồi thêm một đòn đúng vào chỗ yếu của bà ta:
- Má! Má khỏi nổi nóng, con hiểu ý má rồi, má sợ chị em tụi con ăn hại, hết cơm hết gạo nhà này đi, phải không? Được rồi, không sao đâu, tụi con đã có cách cho vừa bụng má!... Chị hai, chúng ta đi thôi! Chúng ta xin vô công xưởng, làm thuê dù dở gì cũng không đến nỗi chết đói!
Vừa nói, Xuân Châu vừa đặt chén đũa xuống, nắm tay Thu Trân kéo đứng dậy.
Kế mẫu Thu Trân không còn đủ sức giận dữ nữa, mà tự dưng ôm mặt khóc ròng.
Phụ thân Thu Trân lộ vẻ khoan khoái. Nhưng ông ta vẫn muốn cho yên cửa yên nhà, bèn ngăn giữ Xuân Châu lại và giả bộ trách mắng.
- Xuân Châu! Mới mười mấy tuổi đầu mà con đã bắt chước ai, ăn nói vô lễ. Má của con chỉ nói thế chứ đã ép buộc gì chị hai con đâu, sao con lại phản đối lăng nhăng quá vậy? Có mau xin lỗi má con hay không hả?
Xuân Châu lãnh hội ngay dụng ý của thân phụ, liền tuân lời, đến bên thân mẫu, tuy xin lỗi nhưng vẫn còn câu thòng đe dọa:
- Má! Con đã có lỗi, xin má nguyên lượng cho. Có điều, từ này về sau, yêu cầu má để yên cho chị hai với con cùng đi học, đến tốt nghiệp Cao Trung; nếu không thì... bất cứ lúc nào tụi con cũng có thể rời khỏi nhà mà tự do liệu lấy.
Bà ta không nói năng gì, cứ khóc, chứng tỏ đã... chịu thua.
Cảm thấy thương hại, Thu Trân nảy ý gỡ thể diện phần nào cho bà ta, nàng bước đến xin lỗi.
Nào ngờ bà ta bỗng ngẩng phắt dậy, vung tay tận lực giáng cho Thu Trân một cái tát như sấm sét.
Đau đớn thì Thu Trân có thể chịu đựng nổi, nhưng sự buồn tủi lại dâng lên, khiến nàng không còn làm cách nào hơn là chạy vụt vào buồng, nằm vật xuống giường, úp mặt vào gối, khóc nức nở.
Không biết đã trải qua bao lâu, đột nhiên Xuân Châu đến ngồi ở mép giường, âu yếm vỗ vỗ vai Thu Trân:
- Chị hai! Đừng buồn! Gặp hoàn cảnh này, chị ráng nhẫn nhịn cho xong...
Thu Trân choàng dậy, ôm chầm lấy Xuân Châu, đầy cảm kích:
- Em! Chị không biết nói sao cho vừa với lòng tốt của em đối với chị. Em đã vì chị mà dám đắc tội với má thì chị dù có nhẫn nhịn một chút, nào đáng gì.
Tự dưng Xuân Châu cũng đầm đìa nước mắt, nghẹn ngào:
- Chỉ hận là em còn nhỏ tuổi, nếu khôn lớn hơn, em nhất định không thể chấp nhận cái lối sinh hoạt nghẹt thở ở trong cái nhà này. Tất cả đều do má gây nên. Má càng thiên vị, cưng chìu em mà ngược đãi chị, khiến em càng xấu hổ, khổ sở! Thật chả hiểu nổi, trong nhà này có đông đảo gì cho cam, má đâu có năm bảy người con mà cứ đem dạ hẹp hòi đối xử với chị, sao chẳng lấy tình thương tạo yên vui chung?
- Có lẽ do má với chị không hạp tuổi. Mà thôi em ạ! Miễn có em bên cạnh, một người em gái thiện lương, nhân từ bác ái, một tâm hồn vĩ đại... là vô vàn an ủi cho chị rồi.
- Chị hai đừng nói vậy. Sở dĩ ngày nay em tương đối biết đạo lý làm người là đều nhờ chị cả. Chính chị mới vĩ đại, đã cảm hóa em...
Xuân Châu bỗng đổi buồn làm vui, đưa tay xoa lên má Thu Trân, nhoẻn miệng cười:
- Mặc dù bữa nay chị bị bả tặng cho cái tát trời giáng, nhưng kể ra chúng ta đại thắng lợi. Cái vụ bả lập tâm bán đứng chị cho ông phú thương ngoại nhân, cầm bằng như hư bột hư đường mà vãn sớm rồi; không còn phải lo ngại gì nữa. Ngoài ra, từ nay chị có quyền yên chí lớn, sẽ tiếp tục lên Cao Trung, học với em như thường.
- Xuân Châu! Cho tới ngày giờ này chị vẫn còn được cấp sách đến trường và trong những tháng năm sắp tới, chị lại được tiếp nối cuộc đời một nữ sinh, đều nhờ ơn em.
- Nhưng ngày giờ này em trở nên một nữ sinh tốt, là hoàn toàn nhờ ơn chị.
Hai chị em cùng cười mà nhìn nhau, trong khi lệ nóng vẫn chan hoà.
Thu Trân và Xuân Châu lại tiến thêm một quãng nữa trên đường học vấn, vừa trải qua niên khóa thứ nhất cấp Cao Trung, tức học xong lớp mười.
Thành tích về mọi môn học Xuân Châu đều theo gần bằng chị, cuối năm Thu Trân đứng hạng năm còn Xuân Châu đứng hạng bảy.
Thu Trân rất mừng cho em và cực lực khuyến khích:
- Niên học tới, lên lớp Mười một, em gắng lên tí nữa, hy vọng sẽ vượt qua chị đấy. Ráng nhé!
Xuân Châu bật cười, thật chân thành:
- Trừ phi chị cố ý xao lãng học, còn thì, bất luận như thế nào, em cũng vô phương qua mặt chị nổi.
Nhằm lúc thím Trương bệnh, xin nghỉ việc, kế mẫu Thu Trân nhất định không chịu thuê người làm mới, mà dồn tất cả gia vụ vào Thu Trân, bắt nàng phải chu toàn mọi công việc lớn nhỏ trong nhà.
May là nhà chẳng đông người. Thu Trân lại cũng khôn lớn rồi nên liệu lý các việc đâu vào đấy, không đến nỗi cực nhọc thái quá.
Gặp dịp nghỉ hè, hằng ngày Thu Trân làm xong hết công tác nội trợ, vẫn còn dư thì giờ để đọc sách, ôn tập bài vở và thêu thùa may vá. Gia dĩ, lúc nào cũng có Xuân Châu trợ lực, công việc càng chóng tươm tất.
Kế mẫu vẫn đi đánh bài suốt ngày, thành thử không rảnh để làm khó dễ gì Thu Trân. Đúng ra thì tự Thu Trân cũng chẳng có sơ xuất gì cho bà ta kiếm chuyện được. Mỗi khi bà ta từ sòng bài về đến nhà, là Thu Trân dâng trà tận tay, dọn cơm tận miệng và cả đến nước nôi tắm rửa, nàng cũng lo sẵn. Như vậy, so ra còn hơn thuê đầy tớ nhiều, bà ta còn đòi chi hơn...
Chiều nay, thân phụ Thu Trân từ phố trở về nhà với dáng điệu vội vàng, đầy hoan hỉ.
Ông lấy trong túi ra một phong thư, đựng một bức thư khá dài và bốn tấm ảnh, tươi cười bảo:
- Thu Trân, con lại đây xem thử cậu thiếu niên trong ảnh này, có anh tuấn không nào?
Thu Trân ngơ ngác như con nai vàng. Đầu óc nàng không khỏi suy đoán, phải chăng "anh chàng" Tường Phương của nhà họ Lương từ Thượng Hải gởi ảnh tới?
Tự nhiên nàng nóng mặt, đỏ bừng đôi má, rồi không dám bước tới xem ảnh nữa.
Xuân Châu đã nhanh chân sấn lại, cầm lấy tấm ảnh, ngắm nghía một hồi, bỗng vỗ tay nhảy choi choi như con chim sẻ, hỏi:
- Ba, đây là ảnh của Tường Phương, anh rể của con, phải không ba?
Phụ thân nàng gật đầu. Nhiều năm nay, nàng nhận thấy đây có lẽ là lần ông cao hứng nhất. Ông cười như hoa nở:
- Phải rồi! Tiểu nha đầu, mau đem lại cho chị con coi đi!
Xuân Châu nhăn mặt nheo mắt ngó Thu Trân một cái, vừa cầm tấm ảnh mang qua, nhưng khi Thu Trân mới vừa chìa tay ra, chưa kịp tiếp lấy, thì Xuân Châu bất thần rụt lại và ngoẹo đầu, cười khanh khách:
- Chị hai! Không được vội... bồ! Úi chu choa! Trông ảnh mà còn thế này, nếu là con người thật thì phong lưu anh tuấn biết chừng nào. Đúng là một mỹ nam tử. Chị phải hứa đãi em một chầu kem thì em mới cho xem.
Thu Trân bị em làm cho lỡ bộ, còn trêu ghẹo thêm, đâm ra thẹn chín người, đến hai vành tai cũng bừng đỏ. Nàng không biết đối đáp ra sao cho xuôi, chỉ có nước nhìn em gái mà cười trừ.
Phụ thân nàng cũng cười rộ, vừa la Xuân Châu:
- Tiểu nha đầu! Giỡn gì mà giỡn lãng vậy nè! Có mau đưa ảnh cho chị con hay không? Rồi ba đãi ăn kem, mặc sức mà ăn.
Xuân Châu lại làm bộ bước chậm chậm một hồi, mới đặt bức ảnh vào tay Thu Trân. Nàng phải "làm gan" cầm ảnh lên xem.
Đây là ảnh bán thân một thiếu niên mặc âu phục, đầu hớt cao, mặt mũi khôi ngô, tề chỉnh, mi thanh mục tú, vừa phong lưu tiêu sái, vừa hiên ngang khí khái.
Nói cho công bình thì bất luận người con gái nào cũng mong có người chồng anh tuấn cả, cố nhiên tâm lý Thu Trân không vượt ngoài thông lệ ấy. Cho nên, khi xem bức ảnh này, nàng không khỏi ngấm ngầm vui mừng. Nàng không ngờ vị hôn phu do việc "chỉ phúc vi hôn" lại là một chàng trai khí độ bất phàm như thế này.
Tuy nhiên, theo với nỗi vui mừng nàng lại cảm thấy man mác hoài nghi, buồn buồn, vì chợt nghĩ:
- Một thiếu niên anh tuấn có học như chàng lại có thể dễ dàng tán thành cuộc hứa hôn mơ hồ, mù mờ của cha mẹ. Đành rằng phụ mẫu chàng phải giữ đúng lời giao kết, nhưng phần chàng, liệu có thực tâm tuân theo hôn ước chăng? Néu chàng chẳng tán thành hay chỉ miễn cưỡng tuân theo, thì sao? Chàng đang sống ở một dô thị hoa lệ như Thượng Hải, lại là một sinh viên tuấn tú, dễ gì chẳng giao du với ít nhiều bạn gái cùng lứa tuổi, thiếu chi người đẹp và sang giàu? Nếu chàng đã có người yêu thì sao?
Thu Trân mãi thầm tự vấn đến quên lửng đi Xuân Châu hiện diện bên cạnh, đang chú mục nhìn nàng, trong khi nàng cứ sững sờ ngắm bức ảnh.
Xuân Châu bật cười ha ha, gọi lớn:
- Ba ơi! Ba coi chị hai con xem xong vị như ý lang quân rồi đâm ra tương tư, không chịu rời mắt khỏi tấm ảnh.
Thu Trân như sực tỉnh cơn mộng, hấp tấp đặt bức ảnh lên mặt bàn và nguýt Xuân Châu một cái để chữa thẹn.
Ngay lúc ấy, thình lình bà kế mẫu xuất hiện, hỏi:
- Chuyện gì mà Xuân Châu cười thích thú quá vậy?
Xuân Châu vốn ngay thẳng thật tình, liền lấy bức ảnh đưa cho bà ta và tươi cười khoe:
- Má! Đây là anh Lương Tường Phương, vị hôn phu của chị hai con, má xem, thật đẹp trai, có vẻ người lớn ghê chưa?
Bà ta coi ảnh một hồi, sắc diện dửng dưng chợt quay sang ông chồng, cất giọng lạnh lùng:
- Cái này là gì? Hình của ai vậy?
- Hôm nay tôi ra văn phòng công ty, nhận được thư của anh Minh Đăng từ Thượng Hải gởi đến, trong thư có kèm theo bốn tấm ảnh, chụp một kiểu, tức là ảnh này. Anh Minh Đăng cho biết đây là con trai anh ấy, cậu Lương Tường Phương năm vừa rồi đã tốt nghiệp Cao Trung, đang theo Đại Học Luật, năm thứ nhất. Anh Minh Đăng ngỏ ý muốn tôi cũng gởi ảnh của con Thu Trân đến cho anh ấy và gia đình biết mặt nhất là để đôi trẻ nhận thức diện mục nhau. Sau đó, sẽ cho phép hai đứa nó thường xuyên liên lạc thư từ, đặng tìm hiểu tánh ý nhau, xây dựng tình cảm dần dần.
Nói tới đây, ông càng rạng rỡ nét mặt, bật cười ha hả một loạt, lại tiếp:
- Tôi đã biết chắc mà, ai chớ anh Minh Đăng thì tín nghĩa chắc nịch, đã hứa cái gì là nhất định giữ lời. Anh ấy làm việc đều có phương pháp kế hoạch chu đáo, cứ từng bước, từng bước tiến hành không thất bại bao giờ!
Thu Trân xem chừng kế mẫu càng lúc càng lộ nét bất bình. Bà ta chỉ cười lạt chớ chẳng thèm nói một tiếng.
Phụ thân nàng đang cao hứng, không buồn để ý đến nét bất bình của bà ta, cứ thao thao:
- Về cái vụ người thương gia ngoại quốc cầu hôn Thu Trân năm ngoái, may là Xuân Châu ngăn cản được, nếu không thì không biết bây giờ tôi lấy lời lẽ nào mà giải thích cho trôi với anh Minh Đăng.
- Hả? Ông nói cái gì? Bộ ông cho rằng cái vụ hứa hôn kẻ chân trời người góc biển này là chắc chắn lắm sao? Hừ, nếu thực tâm giữ lời, sao người ta không thân hành đến đây, mà cứ mãi ngàn trùng đâu đâu, cả chục năm mới gởi một lá thư? Còn vị phú thương Nhật ấy, ai mà cần cưới con gái cưng của ông? Người ta đã có vợ khác rồi, vừa trẻ đẹp, hiền thục vừa giàu có. Ha ha... bộ muốn làm một bà chủ dễ lắm sao? Đi lạy người ta chưa chắc đã được.
Bầu không khí vui vẻ đang tràn đầy trong nhà bỗng trở nên u ám, nghẹt thở vì lời lẽ của bà ta.
Ánh mắt thân phụ Thu Trân long lên. Nhưng ông kịp nén cơn giận, cho đúng truyền thống "vui cửa vui nhà", nên chẳng nói gì hết, mà cứ rít liên tiếp hết hơi thuốc này tới hơi thuốc khác, nhả khói mù mịt.
Xuân Châu bực tức ra mặt, toan lên tiếng. Thu Trân vội láy mắt ra hiệu khuyên ngăn. Xuân châu không nói được, phải cắn chặt vành môi và mắt rơm rớm lệ.
May thay giữa cơn căng thẳng ấy, chợt có một bà hàng xóm đến rủ kế mẫu Thu Trân đi gầy sòng.
Nghe nói tới đánh bài, bà ta tươi rói ngay sắc diện và hăng hái đi liền.
Đợi bà vợ trẻ đi khuất dạng rồi thân phụ Thu Trân vung tay ném mạnh mẩu tàn thuốc, thở dài, dàu dàu:
- Không biết trái tim của bả bằng đá hay gỗ?
Xuân Châu lắc đầu, giọng chán nản:
- Chắc là bằng đất sét! Thật không tưởng tượng nổi!... Nếu không có bà khách kêu má đi đánh bài, chắc phen này thế nào má cũng đánh con vì hồi nãy, con nhịn hết kham, suýt tí nữa là đã nói hỗn rồi.
- Xuân Châu! Con thì nhân từ, lương ái, còn má con thì hẹp lượng, khắc nghiệt, ba thật không ngờ người đàn bà như thế lại sinh ra đứa con gái như con.
- Bởi vì con là con gái của ba!
Xuân Châu quả là một thiếu nữ thẳng thắn, hồn nhiên, đang buồn bỗng nhớ đến một chuyện, liền tười cười liến thoắng:
- Ba! Thôi đừng nhắc tới chuyện chán như cơm nguội đó nữa. Bây giờ tía con mình bàn về vụ chụp hình chị hai con, để gởi cho bác Đăng...
- Để ba viết thư hồi đáp, lấy mấy tấm ảnh của Thu Trân gởi kèm theo. Đơn giản như thế thôi có gì mà phải bàn tính?
- Ơ! Ba thiệt là lẩm cẩm! Hai năm nay chị hai con đâu có chụp hình, chẳng lẽ ba lấy hình cũ ba bốn năm trước mà gởi cho người ta? Chị hai con hiện giờ cao lớn như vậy, xinh đẹp như vậy, ba lại nhè lấy hình cũ gởi đi, không khéo người ta tưởng là một tiểu nha đầu nào, thì "kẹt" quá. Anh rể của con sẽ... khóc ròng đấy.
Ngẫu nhiên Xuân Châu đã nói trúng phóc tâm trạng Thu Trân. Vì mắc cở, Thu Trân không tiện đưa ý kiến, chớ thật ra nàng vốn đang băn khoăn điều đó, chẳng lẽ gởi ảnh cũ mấy năm trước cho vị hôn phu, coi "kỳ" quá.
Được Xuân Châu đề nghị hộ như thế, nàng vừa khoan khoái, vừa cảm động, nhưng chẳng biết nói sao cho ổn, chỉ đưa mắt hàm ý biết ơn nhìn em gái.
Phụ thân nàng kêu "ủa" một tiếng:
- Đúng! Có con tiểu nha đầu này nhắc, ba mới nhớ. Hay lắm! Bây giờ hai con mau vào thay đổi y phục, nhất là Thu Trân, hãy trang điểm cho đàng hoàng, rồi ba dẫn đi chụp hình ngay.
Thu Trân vô cùng hứng khởi, vì đã lâu lắm rồi, mới được cùng đi với ba ra phố. Nàng vội kéo tay Xuân Châu:
- Đi, em! Em phải theo "hộ tống" chị chứ!
Xuân Châu bỗng lắc đầu:
- Em khỏi cần đi. Em phải ở nhà, coi chừng nhà chứ.
Người cha già nua như bừng trẻ hẳn lại:
- Ấy! Xuân Châu cũng phải đi mới được. Ba phải cho chụp sẵn hình con, để mai kia mốt nọ có ai cầu hôn con, ba sẽ có hình mà dùng liền chứ. Nhà khỏi coi chừng cứ khóa cửa lại là xong.
Xuân Châu đi theo chị, vừa ửng hồng sắc diện quay lại nũng nịu:
- Con hỏng chụp hình đâu. Con hỏng thích nghe ai nói tới chuyện cầu hôn đâu!
- Cái gì cũng không chịu hết, nhưng chắc chắn là chịu ăn kem! Ban nãy con đã chẳng đòi Thu Trân đãi con một chầu kem là gì? Được rồi, hãy cùng đi, chụp hình xong, ba sẽ mời hai con đi ăn kem, rồi đi xem xi nê luôn. Chịu chứ?
- Ha ha! Hoan nghênh bốn tay! Vạn tuế ba!
Xuân Châu vỗ tay reo hò và kéo Thu Trân vào buồng thật nhanh.
Thân phụ Thu Trân bỗng gọi:
- Thu Trân! Con lấy tấm ảnh của Tường Phương mà cất giữ đi chứ!
Thu Trân còn đang ngập ngừng e thẹn thì Xuân Châu đã chạy trở lại bàn, lấy bức ảnh, dúi vào tận tay chị, rồi lại đưa nhau về buồng thay đổi y trang...
Chương 4
Thời tiết đã dịu mát dần. Mùa nghỉ hè sắp dứt, chỉ còn không đầy một tuần nữa là tựu trường.
Thế nhưng, bức ảnh Thu Trân đã gởi đi hơn hai tháng rồi, mà chẳng có tin tức gì, vẫn chưa thấy thư hồi âm của Lương Tường Phương.
Trưa nay, sau khi sắp soạn giấy bút, chị em Thu Trân, Xuân Châu cùng ngồi trong phòng xem lại một số bài vở.
Dù đã vào tiết sơ thu, nhưng ve sầu vẫn còn kêu rỉ rả ngoài vườn, khiến người đang có tâm sự như Thu Trân càng não lòng.
Đôi mắt tuy có vẻ chăm chú nhìn vào trong sách, song thật ra nàng chẳng đọc được chữ nào...
Xuân Châu bỗng ngẩng lên, ngó Thu Trân:
- Chị hai! Nghe em nói này! Chị đừng thở vắn than dài nữa nhé!
Thu Trân vội phủ nhận:
- Chị đâu có thở dài hồi nào!
- Em nghe rõ ràng chị mới vừa thở dài thườn thượt đấy mà bảo là không!
Ngừng một chút, Xuân Châu lại tiếp, giọng đầy quan thiết, dỗ dành:
- Chị hai, chị nên phấn khởi, tươi vui lên! Theo em nghĩ, thì anh Tường Phương sở dĩ chậm gởi thư hồi âm, không phải vì không tán thành cuộc hôn nhân mà hẳn là có nguyên nhân bất khả kháng. Chị cũng hiểu giữa thời buổi chiến loạn hiện nay, đường giao thông trở ngại, cố nhiên thư từ, bưu kiện bị nghẽn đọng, chậm trễ, do đó có khi anh Tường Phương đã gởi thư cho chị từ lâu rồi, mà thư chưa tới đấy thôi.
Thu Trân chỉ gật đầu chớ không nói gì.
Xuân Châu an ủi, khích lệ thêm.
- Chẳng những Trung Nhật dấy động can qua, mà khắp Châu Á cũng lâm chiến và cả Châu âu càng rối ren binh lửa. Giữa thời loạn này, nếu còn may mắn được yên ổn mà học tập thì điều quan trọng nhất của giới trẻ chúng ta là gắng sức học, nên cố gác mọi sự chi phối khác qua một bên, để nhất tâm lo đèn sách. Em tin tưởng ở tinh thần quật cường của chị, sẽ không vì lẽ gì mà tiêu cực trong việc học hành.
- Lời em rất đúng, chị hoàn toàn tán thành. Trẻ tuổi như em mà đã có trình độ nhận thức như vậy, thật đáng bội phục. Em đừng lo, về "chuyện ấy". Bất quá chị chỉ nghĩ phớt qua rồi thôi, chứ không bận tâm lắm đâu.
- Chị nói vậy chớ cả tháng nay thần thái chị sa sút thấy rõ, lúc nào chị cũng trầm ngâm, tư lự, em biết mà!
Xuân Châu bỗng tròn mắt nhìn Thu Trân và bật cười, cố tạo không khí vui vẻ:
- Giả sử anh Tường Phương không gởi thư cho chị luôn thì, ha ha... niên học sắp tới này nhất định em sẽ vượt qua mặt chị cho mà xem. Coi chừng đấy nha... bồ tèo!
Lời nói đùa ngẫu nhiên của em gái lại có tác dụng như tiếng chuông đánh thức Thu Trân, khiến nàng không khỏi ngấm ngầm tự thẹn. Quả nhiên nàng đã lao chao tinh thần cả tháng nay vì vấn đề tình ái. Nàng cũng tự hiểu, như thế là không nên, là có vẻ như vô lý nữa, vì giữa nàng với Tường Phương, thực ra, đã có gì cụ thể đâu? Tuy nhiên, lý thì nói vậy, chứ về tình, nàng không thể phủ nhận là mình đã yêu chàng. Chưa giáp mặt trực tiếp bao giờ, chưa nói thẳng với nhau một lời nào, mà đã yêu, tại sao? Nàng cũng không biết tại sao nữa!
Nàng từng đọc của một nhà văn nào đó, viết rằng: "Tình yêu là tình yêu. Đừng hỏi tại sao. Yêu là yêu, không tại sao cả". Đến bây giờ nàng mới thấy thấm thía. Quả đúng như thế và nàng không thể cưỡng lại con tim mình!
Có điều, nàng đã quá phiền não về "chuyện ấy", có thể ảnh hưởng không tốt đến việc học vấn, Xuân Châu đã nhắc nhở không sai. Nàng liền cố rạng tươi nét mặt và cười lớn.
- Được rồi, chúng ta thi đua nhé, chị hy vọng em sẽ học vượt qua mặt chị, nhưng phải là vượt qua một cách oanh liệt, chớ không phải vì chị học thụt lùi. Mà chị nhất định sẽ không thụt lùi. Em muốn thắng chẳng dễ dàng đâu!
- Vậy thì ngoéo tay đi!
Hai chị em cùng cười.
Thu Trân thu gọn lại sách vở, định xuống bếp, thình lình ngoài cổng vọng vào những tiếng chuông xe đạp: "kính koong! Kính koong!..."
- A! Người phát thư!
Xuân Châu la toáng lên và tông cửa, ba chân bốn cẳng chạy ào ra.
Thu Trân nghe tim đập thình thịch. Nàng bừng lóe hy vọng, những muốn chạy vội theo em. Nhưng tự dưng ửng hồng đôi má, chẳng những mắc cở không dám tiếng ra cổng mà nàng lại rảo bước đi xuống nhà bếp, vừa lẩm bẩm viện lý do, để tự dối mình:
- Hổm rày bác phát thư đã ghé năm lần bảy lượt rồi chớ có mới lạ gì mà Xuân Châu mừng dữ vậy kìa. Hôm nay, chắc ba lại có thư nữa...
Vào tới bếp, nàng đang loay hoay sửa soạn vo gạo. Bất ngờ Xuân Châu vừa chạy vô, vừa múa tay lung tung và reo hò:
- Chị hai! Chị hai ơi! Có thư rồi! Có thư của anh Tường Phương!
Thu Trân mừng cuống, song ráng làm tỉnh:
- Nói gạt hoài! Chị không tin!
- Đây nè! Ai nói gạt chị làm chi. Ha ha! Em đã bảo sao là đúng vậy, anh Tường Phương nhất định phải gởi thư cho chị mà!
Xuân Châu áp phong thư vào ngực Thu Trân, vừa kéo tay chị lên, thúc hối:
- Lẹ lẹ mở ra coi đi chị hai, em sốt ruột quá rồi.
Thu Trân cầm lấy phong thư, cố giữ cho tay đừng run và gắng tỏ vẻ chậm rãi, đưa thư ra trước mắt, xem ngay góc trên phong bì, quả nhiên người gởi là Lương Tường Phương.
Nàng nghe rộn lên trong lòng một cảm giác ngất ngây.
Xuân Châu lại giục:
- Trời ơi! Mau mở ra coi liền đi! Coi lẹ đi, để em vo gạo cho!
- Gấp gì, hãy để chị vo gạo bắc nồi cơm lên rồi sẽ xem.
- Trời đất! Gan dữ vậy a? Chị còn cà rịch cà tàng là em la làng lên bây giờ. Xem ngay đi!
- Má sắp tan sòng. Má về, thấy em nấu cơm thì chị bị mắng...
- Ăn nhằm gì. Chị cứ việc đọc thư đi. Muốn chắc ăn thì chị ngồi kế bên bếp lửa mà xem thư, để mặc em canh chừng nồi cơm, em chả coi lén đâu. Nào, có chịu nghe lời mở thư ra xem hay không thì bảo?
Xuân Châu kéo chị lại gần bếp và giả vờ phùng mang trợn mắt đe dọa cưỡng bách.
Thu Trân bật cười:
- Được rồi, "cung kính bất như phụng mạng" xin xem ngay đây.
Nàng xé phong bì, rút bức thư ra, nhận thấy một xấp giấy khá dày, có đến bốn năm tờ, được xếp thẳng thớm, chỉnh tề.
Chẳng còn đè nén được nữa, tay nàng phát run. Đây là lần đầu tiên trong đời, nàng tiếp đọc bức thư của một chàng trai, mà lại là chàng trai sẽ trở thành chồng nàng trong tương lai.
Hồi hộp quá, nàng nhắm mắt lại, hít vào một hơi dài và thở ra thật chậm rãi, để an định tâm thần.
Thấy vậy, Xuân Châu cười khúc khích.
- Sao đó? Bộ trước khi xem thư của "chàng" chị phải cầu đảo thiên địa ư?
Thu Trân nguýt mắt, nạt em một tiếng, Xuân Châu lại cười hì hì...
Bức thư quả nhiên rất dài. Thu Trân muốn đọc thật kỹ, từng chữ một, nhưng ánh mắt cứ liếc thật nhanh, để rồi chẳng nhớ mình đã đọc những gì.
Ngồi trong bếp, đọc thư của vị hôn phu, Thu Trân nghe một thi vị đặc biệt. Dù không nhớ rõ thư viết những gì, nhưng nàng biết chắc là chữ chàng rất đẹp, khoáng đạt ngang tàng và chàng hành văn rất lưu loát, mà chân thành, chan chứa tình ý ngọt ngào...
Ngay lúc ấy, bỗng có chuông reo gọi cửa.
Thu Trân buột miệng:
- Má về đấy.
Nàng hấp tấp cho thư vào phong bì và cất nhanh vô túi, Xuân Châu mau mắn:
- Để em ra mở cửa.
Thu Trân lập tức bắt tay vào việc thái thịt, xắt cải.
Chẳng bao lâu Xuân Châu trở vô, cười dài:
- Bữa nay má tươi rói mặt mày, dòm qua là biết ngay má được bạc, chắc khá lắm. Em hỏi xin tiền "lì xì" má cho liền, lại còn thưởng chị một phần nữa. Ngon lành chưa? Không chừng mặt trời sắp mọc về hướng tây cũng nên. Hi hữu! hi hữu!
- Suỵt!... Em đừng nói lớn quá, má nghe thấy thì nguy đấy!
Suốt mười tám năm trường, Thu Trân mới được kế mẫu cho tiền lần thứ nhất. Bấy lâu nay, mọi khoản chi dụng quà bánh, linh tinh, đều do phụ thân nàng cho riêng một cách dấu lén, hoặc được Xuân Châu chia xẻ, chớ kế mẫu chưa hề ban phát nàng một đồng nào cả. Giờ đây, bỗng nhiên được hưởng cái ân huệ ngoài sức tưởng tượng này, Thu Trân cao hứng quá, đâm ra nghĩ ngợi vẩn vơ: "Đây có lẽ nhờ cái may mắn từ bức thư của Tường Phương xui khiến"... Nghĩ vậy, nàng càng thêm cao hứng thập phần, tự dưng ôm chầm lấy Xuân Châu mà hôn lia lịa:
- Oái! Chị đừng tưởng em là... tác giả bức thư chứ!
- Đồ quỉ! Nói ẩu hoài! Người ta cao hứng vì được má thưởng tiền, chớ bộ...
- Chị che mắt ai chớ khỏi che mắt em đi! Em dư biết tại sao chị cao hứng rồi! Tại vì...
Thu Trân vội bụm miệng em, nói lảng sang chuyện khác:
- Ý chết! Mãi lo giỡn không lo nấu nướng gì hết. Nào, lại đây xắt cải giúp chị đi.
Trong lúc xắt cải, Xuân Châu khe khẽ đưa ý kiến:
- Chị hai, theo em nghĩ thì mình không nên cho má biết vụ bức thư của anh Tường Phương làm gì. Đợi vài ngày nữa, ba về, chỉ nói riêng với ba thôi, đặng ba mừng. Nhưng, bất luận lúc nào có mặt má, chị cũng đừng để lộ vẻ khác thường đồng thời nhớ dặn ba, chớ có cao hứng nói má nghe. Bởi vì, bụng má vốn hẹp hòi kỳ cục, hễ biết chuyện là đố kỵ chịu không nổi đấy.
Thu Trân vừa cảm kích sự chu đáo của em, vừa nghe dâng lên niềm mỉa mai chua xót trong lòng. Nàng liên tưởng đến thân phận của đứa con mồ côi mẹ. Nếu còn má ruột thì gặp trường hợp hoan hỉ này, nàng có quyền đem khoe với má ngay, chớ việc gì phải sợ sệt, che giấu? Có khi nào người làm mẹ lại đi đố kỵ với hạnh phúc của con gái mình?
Nàng siết chặt tay Xuân Châu đẻ tỏ dạ cảm tạ, nhưng vẫn không nén được chuỗi thở dài.
Xuân Châu hồn nhiên:
- Chả có gì phải lo ra. Kể từ hôm nay, coi như hạnh phúc đã mỗi ngày một tiến gần lại chị rồi đấy. Chỉ cần, trong tương lai, khi sống cuộc đời cam mật, an vui, xin chị đừng quên em là được.
- Dù ở hoàn cảnh nào, vĩnh viễn chị không thể quên được đứa em yêu quí nhất của chị. Còn sống trên đời một ngày, là chị còn cố gắng báo đáp lòng tốt vĩ đại mà em đã dành cho chị hôm nay.
- Chị nói vậy là coi em như người dưng rồi. Chị em ruột thịt chúng ta với nhau, đương nhiên phải có bổn phận, chăm sóc, chiếu cố lẫn nhau vô điều kiện. Đã là tình cốt nhục, là bổn phận, thì đâu thể có chuyện báo đáp? A ha! Chị hai của em bữa nay mãi tập trung hết tâm trí vào bức thư kia nên đâm ra... nói lộn rồi! Đáng bị phạt cái gì đây?
Thu Trân biện bạch:
- Ý chị muốn nói là cầu mong trong tương lai nếu chị được hạnh phúc, thì em cũng hạnh phúc, hoặc ngược lại, hễ em sung sướng chị cũng sung sướng, chị em mình tuy hai mà như một.
Xuân Châu nhìn chị gật gù mỉm cười. Bỗng nhiên Xuân Châu trầm mặc, không nói, dường như đang có ý nghĩ gì.
Thu Trân cũng không nói thêm, mà lanh tay lo nấu nướng, hoàn tất bữa ăn chiều.
Tối đến, cơm nước, dọn rửa chén bát xong, Thu Trân ngồi dưới đèn tại bàn học trong phòng riêng.
Ngoài cửa sổ, gió thu mát rượi thổi không ngừng.
Tối nay Thu Trân cảm thấy thơ thới, dễ chịu vô cùng, như mọc cánh, lâng lâng bay lên cõi tiên. Trong cảnh trạng này mà bình tĩnh từ từ đọc từng dòng thư hoa gấm của vị hôn phu mới gởi đến thì quả là một thi vị ngọt ngào, tuyệt diệu nhất cho cuộc đời người con gái chớm biết yêu.
Bây giờ, nàng có thể xem kỹ từng chữ, từng câu. Đọc xong một đoạn, nàng lại nhìn ngắm bức ảnh của chàng lộng dưới tấm kính mặt bàn và tưởng chừng như đang cùng chàng trò chuyện vậy.
Bức thư dài đến gần năm trang giấy mà nàng xem đi xem lại những bốn lượt, vẫn còn muốn xem nữa. Cơ hồ nàng đã thuộc lòng gần trọn bức thư.
Nàng bừng khởi hứng thú, muốn viết thư hồi đáp chàng ngay.
Giờ này mà viết thư thì đúng là thời khắc lý tưởng.
Thế nhưng, ngồi hàng nửa giờ trước trang giấy trinh nguyên, nàng vẫn chưa bắt đầu được chữ nào mặc dù trong tâm trí nàng đang có vô số những ngôn từ, ý tứ muốn bày tỏ.
Viết thư không phải là việc mới lạ, khó khăn đối với nàng. Tuy nhiên, viết... thư tình thì nàng chưa từng biết. Đây chẳng là thư tình, còn là gì? Sao mà nàng thấy... gian nan rắc rối quá!
Đắn đo tới lui mãi, nàng chọn một lối thoát:
- Tốt hơn hết, mình nên căn cứ vào cách trong thư anh ấy mà phúc đáp, cho dễ...
Và nàng hạ bút:
[i]
"Tường Phương mến,
Thu Trân xin dùng lối xưng hô thẳng bằng danh tánh với nhau, để tránh khách sáo và cũng đúng theo ý Tường Phương đã muốn, nhé.
Đọc thư của Tường Phương, điều khiến Thu Trân cảm động nhất là sự chân thành, thẳng thắn.
Đúng vậy, Tường Phương đã rất thành thật khi cho biết rằng buổi đầu hoàn toàn ngỡ ngàng, bất mãn về cuộc đính ước hôn nhân của chúng ta, chớ chẳng có mỹ cảm gì với Thu Trân hết.
Đó là sự thật. Chính Thu Trân cũng thế.
Dạo nọ, thoạt nghe ba Thu Trân cho hay vụ "chỉ phúc vi hôn". Thu Trân chẳng nói ra song không khỏi ngấm ngầm phản đối, vì lẽ nó có vẻ mù mờ, vô lý quá. Giới tuổi trẻ chúng ta, lại có đôi phần học vấn, ở thế kỷ hai mươi này, chắc ai cũng cho đó là hủ tục, không thể dễ dàng chấp nhận, phải thế không?
Tuy nhiên, theo Tường Phương cho biết thì... lúc nhận được ảnh của Thu Trân, vừa xem qua, tự nhiên Tường Phương cảm thấy ngây ngất và nghe xao xuyến tận đáy lòng, rồi Tường Phương không tài nào quên Thu Trân được nữa. Tường Phương đã tạm gọi trạng thái cách cảm giao ái như thế là một loại "tiếng sét ái tình" kỳ diệu. Và Tường Phương chẳng những không còn mảy may phiền trách nhị vị thân phụ chúng ta về cái hủ tục chỉ phúc vi hôn, lạ đâm ra biết ơn vì đã nhờ đó mà chúng ta mới có được người yêu như ý ngày nay.
Tới đây, thêm lần nữa Thu Trân lại xin thú thật, cũng đã cùng trường hợp với Tường Phương. Vâng, tâm tình Thu Trân chẳng khác Tường Phương chút nào, từ phút giây đầu tiên nhìn thấy Tường Phương qua bức ảnh, bỗng dưng Thu Trân có cảm tưởng như cuộc đời chúng mình đã được buột chặt, gắn liền vào nhau tự bao giờ rồi. Kỳ diệu thật! Nói thành thật, là Thu Trân đã yêu...
Tường Phương ơi!
Như thế, xét ra, chúng ta có phải là hạng người quá tùy thuộc diện mạo, vóc dáng bề ngoài chăng?
Thu Trân tự gẫm không đến nỗi vậy và càng tin rằng Tường Phương cũng vậy. Bởi vì thẳng thắn mà nói mặc dù Thu Trân cũng khả dĩ gọi là "không xấu", nhưng đâu phải trong thực tế ngoài đời Tường Phương chẳng từng quen biết bạn gái còn đẹp hơn Thu Trân nhiều, phải không?
Âu là chúng ta có duyên nợ với nhau cũng nên. Nếu chẳng hợp duyên thì đâu dễ đã phát sinh rung cảm giống hệt nhau, mặc dù ở cách xa nhau ngàn trùng? Nếu chẳng hợp duyên, sao tư tưởng hai ta hoàn toàn hoà đồng nhau? Ví như ý kiến của Tường Phương đã nêu ra, về vấn đề "cái nết đánh chết cái đẹp", thì thật hết sức phù hợp với quan niệm của Thu Trân, nội tâm con người mới là quý, còn bề ngoài, tuy không hẳn là không cần nhưng đâu phải là điều chính yếu.
Vâng! Thu Trân lại xin hoàn toàn đồng ý với Tường Phương, là chúng ta nên luôn luôn đứng trên căn bản ấy, với lòng chân thành đúng mức mà vun sới cho mối tình chúng ta ngày càng thắm sắc đượm hương...
Vậy, xin thú nhận, Thu Trân tuy cũng bằng tuổi Tường Phương, song thật ra chỉ là một cô gái mười tám còn quá kém cỏi. Trong khi phải chờ thêm hơn một năm nữa, nếu cố gắng đều đặn, Thu Trân mới có thể tốt nghiệp Cao Trung, còn Tường Phương lại đang nghiễm nhiên là một sinh viện đại học rồi. Thu Trân thỉnh cầu Tường Phương vui lòng đóng vai hướng đạo cho Thu Trân. Xin Tường Phương thường xuyên biên thư chỉ giáo những điều hay lẽ phải, các kinh nghiệm học vấn cho Thu Trân. Được như thế, sẽ vô vàn quý báu cho Thu Trân và phần Thu Trân, nguyện sẽ không bao giờ phụ lòng chiếu cố của Tường Phương.
Viết tới đây, Thu Trân cảm thấy chúng mình càng trở nên thân thiết, gần gũi hơn mấy phần và nghe như không thể thiếu vắng nhau được, vĩnh viễn không thể thiếu vắng nhau!
Tường Phương ơi! Trong thư, đã mấy lần Tường Phương nhắc đến nghịch cảnh mồ côi mẹ của Thu Trân và ngỏ ý muốn giúp đỡ Thu Trân về vật chất, tiền bạc... Thu Trân vô cùng cảm kích lòng chiếu cố rất minh bạch của Tường Phương. Nhưng xin Tường Phương đừng quá lo cho Thu Trân điều ấy lúc nầy. Đến bao giờ Thu Trân không còn đủ nghị lực phấn đấu tự lực, chừng đó xin sẽ báo cho Tường Phương hay.
Dù sao Thu Trân cũng cố phấn đấu. Càng gặp khó khăn gian khổ, Thu Trân càng quyết chí phấn đầu kiên cường hơn, chớ không đầu hàng, không qui. ngã trước nghịch cảnh đâu.
Thu Trân thiển nghĩ, khi chúng ta bắt đầu làm con người, là đã bắt đầu đối diện với một cuộc phấn đấu trường kỳ, ví chẳng nhiều thì ít, mấy ai trong đời mà chẳng gặp nghịch cảnh như thế này hoặc như thế nọ...
Tường Phương mến,
Chúng mình viết thư cho nhau, theo lệ thường đáng lý nên dùng những hoa ngôn mỹ từ cho thật êm ái, tình tứ, cho đầy mộng với thơ... Thế mà nãy giờ Thu Trân cứ nói toàn chuyện khô khan như một bài toán lý hóa, xem có đáng chán không?
Kìa! Tường Phương đang tươi cười và trả lời là "không" vì Tường Phương không phải là hạng thiếu niên thích tô chuốt vẽ vời giả tạo và cũng hiểu cho Thu Trân vốn vụng về, chân phương, chẳng quen ngồi dệt những vần thư tình chải chuốt.
Thu Trân kính chúc ba má và bửu quyến Tường Phương khang an vạn phúc.
Đặc biệt siết chặt tay Tường Phương, cầu mong Tường Phương luôn vui, khỏe, tiến bộ mọi mặt.
Tha thiết...
Lâm Thu Trân" [i/]
Trong lúc Thu Trân cắm cúi đọc thư rồi viết thư, Xuân Châu rất tinh tế, đã cố ý không mảy may chi phối chị, mà đi ngủ thật sớm.
Khi Thu Trân hoàn tất bức thư, dán kín phong bì xong thì đã hơn một giờ khuya. Nàng thu xếp lại bàn viết, rồi tắt đèn, rón rén lên giường, thật khẽ, để Xuân Châu khỏi giật mình thức giấc.
Tờ mờ sáng hôm sau, Thu Trân vừa mở mắt tỉnh ngủ, đã thấy Xuân Châu đứng tựa thành giường, gần cửa sổ, cặp mắt đăm đăm nhìn vào khoảng không ngơ ngẩn xuất thần.
Thu Trân ngồi dậy, vừa thu gọn gối mền, vừa hỏi:
- Em dậy sớm thế? Đang suy tưởng gì đó?
Xuân Châu chùi người lên giường, quàng cổ, dựa đầu vào ngực Thu Trân, thỏ thẻ:
- Em đang nghĩ về lời chị nói với em hồi chiều qua.
- Ủa! Lời nói nào?
- Chị nói, chị em mình tuy hai mà như một...
- A, nhớ ra rồi! Đúng vậy, rồi sao?
- Là "một", nghĩa là liên quan gắn bó nhau, là không thể rời nhau... Như vậy, em thấy khó quá bởi vì rồi đây chị sẽ kết hôn với anh Tường Phương, tất nhiên phải về sống chung với anh ấy, chừng đó, chúng ta sao khỏi phân ly, thì làm thế nào là "một" được? Trừ phi...
- Trừ phi làm sao? Em nói nốt đi nào?
- Trừ phi em với chị hai cùng kết hôn với anh Tường Phương!
Thu Trân không ngờ Xuân Châu lại nói như vậy. Nàng ngạc nhiên, há miệng mà chẳng biết đối đáp thế nào cho phải.
Xuân Châu rần đỏ mặt, nhưng vẫn hỏi:
- Chị em ruột có thể kết hôn chung một chồng hay không?
Thu Trân bật cười, khẽ vỗ đầu em gái:
- Em cũng yêu anh Tường Phương ư?
- Không phải em yêu anh ấy, mà là yêu chị...
Xuân Châu trả lời chắc nịch và chăm chú ngó Thu Trân, ngây thơ tiếp:
- Đã muốn chị em chúng mình vĩnh viễn là một, mãi mãi không chia lìa nhau, thì làm cách nào được, nếu không cùng kết hôn chung một chồng? Đâu chị thử cho biết xem có biện pháp nào khác không?
- Trừ cách đó, dường như chả còn biện pháp thứ hai nào hay hơn.
Thu Trân rất hiểu tâm tình thuần khiết của Xuân Châu, sở dĩ có ý nghĩ như thế, chỉ vì quá yêu thương chị. Nhưng thấy vẻ ngớ ngẩn của em, nàng không nhịn được, bật cười to lên một hồi dài.
Xuân Châu trố mắt:
- Sao chị lại cười? Bộ cách ấy không được sao?
Thu Trân cố nín cười, ôn nhu đáp:
- Kể ra thì không phải là không được, nhưng vì em đặt vấn đề hơi bất ngờ nên chị tức cười.
Xuân Châu ôm chặt lấy chị:
- Chị em chúng mình đã ở chung một phòng ngủ chung một giường, suốt bốn năm năm nay; lúc nào cũng thương yêu quan hoài cho nhau, luôn luôn chẳng rời nhau, đúng là gắn liền nhau như một... Em lo sợ, đến một ngày nào đó, anh Tường Phương sẽ về đây, cưới chị, mang đi, tức đoạt mất phần sống thân thiết nhất của em, thì... em làm sao chịu nổi?
Thu Trân cảm động:
- Em đừng lo, chị em mình sẽ không bao giờ xa lìa nhau đâu.
- Chị có bằng lòng cho em xuất giá chung một lượt với chị không?
- Phần chị thì sẵn sàng bằng lòng, nhưng chừng đó cũng cần hỏi qua ý kiến Tường Phương xem có bằng lòng hay không chứ.
- Chỉ cần chị chấp thuận là đủ, còn anh ấy có bằng lòng hay không, chẳng thành vấn đề với em, miễn sao em được mãi mãi chung sống bên chị, là em toại nguyện...
Thu Trân chẳng thốt nên lời cứ hôn mãi lên tóc em...
Đã khai trường, chị em Thu Trân lại tiếp tục trở lại nếp sinh hoạt của nữ sinh.
Đúng ra, nếp sinh hoạt của hai nữ sinh Thu Trân, Xuân Châu không được thoải mái, bình thường như phần dông bạn đồng học khác. Vì lẽ kế mẫu Thu Trân vẫn một mực không thuê người giúp việc, nên hằng ngày nàng phải dậy thật sớm để lo bữa ăn điểm tâm cho cả nhà và nấu sẵn bữa cơm trưa, rồi mới đến trường. Lúc đi học, nàng phải xách theo một ga-mên cơm, để tan học buổi trưa hai chị em cùng ở lại trường ăn với nhau. Hết buổi học chiều, nàng phải về nhà càng nhanh càng tốt, ngõ hầu kịp nấu bữa cơm tối. Và, sau đó, lại phải rửa chén dĩa, quét dọn trong nhà, ngoài sân, giặt quần áo... rồi mới được rảnh rang vào phòng học bài, làm bài.
Xuân Châu vì khắng khít bên chị, việc gì cũng làm tiếp, nên chịu ảnh hưởng chung chẳng ít.
Đi học trong hoàn cảnh như thế, dù Thu Trân có cố gắng đến mấy, vẫn không đạt nổi thành quả ưu hạng, mà chỉ đứng được khoảng hạng mười trở xuống, mười lăm trở lên thôi.
Tuy nhiên, nàng chẳng bao giờ kêu khổ, không khi nào nản chí. Nàng tự an ủi: còn được đi học, đã là vinh hạnh lắm rồi.
Một lần, ngẫu nhiên mà nàng với Xuân Châu bỗng nghe lỏm được cuộc đàm thoại của ba má trong buồng.
Thân phụ nàng nói:
- Bà nên kiếm mướn một người giúp việc, kẻo Thu Trân vừa đi học vừa làm hết các gia vụ, bất tiện quá.
- Tôi đã bảo tôi không thích mướn người làm.
- Gì mà không thích? Có người làm thì đỡ biết bao. Bà nên biết, chẳng riêng một mình còn Thu Trân phải cực khổ, mà đến con Xuân Châu cũng bị chi phối việc học hành rất nhiều. Càng lên lớp cao, đáng lý chúng nó phải có nhiều thì giờ để học, mới khá được chứ. Bà không quan tâm gì tới sự học vấn của con bà sao?
- Ối! Mặc xác nó! Ai bảo nó làm tài khôn, hùa về phe với con Thu Trân, chống đối lại tôi, thì cho nó chết luôn còn được. Con quỉ nha đầu đó chả là con tôi nữa rồi. Nó đã muốn khốn nạn, tôi cũng chả hơi đâu thương xót cho mệt.
Xuân Châu nghe qua, đã toan xông vào chất vấn bà ta một hồi, nhưng Thu Trân kịp ngăn lại và kéo em về phòng, rưng rưng nước mắt nói:
- Chỉ vì chị mà làm hại em, khiến má hận em như thế. Xuân Châu, chị thật có lỗi với em.
Xuân Châu hầm hầm sắc mặt, hậm hực lên tiếng:
- Được! Rõ ràng bả đã phủi sạch tình mẫu tử. Từ rày em cũng chả coi bả là mẹ ruột nữa.
- Em đừng nói vậy. Chị không muốn vì chị mà tình thâm mẫu tử giữa em với má phải băng hoại. Chị đã đau cái đau của kẻ thiếu lòng từ ái của mẹ ruột, chị không thể để em cũng mất đi tình mẹ!
Tới đây, Thu Trân không dằn được tiếng khóc thút thít, vừa ráng nói thêm:
- Chị thấy từ rày chúng ta nên giảm hẳn đi việc thân mật, cận kề, má thấy vậy sẽ không giận em nữa và lại thương chiều em như thường. Thà chị cam chịu tịch mịch khổ sở, chớ chị không đành lòng để em phải khổ lây vì chị.
Xuân Châu òa khóc, ôm chầm Thu Trân, tức tưởi:
- Không!... Chúng ta là huyết thống của ba, là chị em ruột thịt, thì vui sướng cùng nhau chia xớt, khổ sở cùng nhau gánh chịu. Em không muốn có sự khác biệt nào hết. Em không ham được má tư vị trong khi chị lại bị bạc đãi. Em nhất định không xa rời chị. Má muốn ghét bỏ em thế nào tùy ý.
Hai chị em gục đầu vào nhau mà khóc, lệ nóng chan hòa, cơ hồ không còn phân biệt được là dòng lệ của ai nữa...
Vài hôm sau, nhằm buổi chiều chủ nhật.
Kế mẫu Thu Trân vẫn đi đánh bài, vắng nhà. Thừa dịp, thân phụ nàng lấy tiền riêng, cho chị em nàng mỗi người một ngàn đồng và buồn bã bảo:
- Dạo này thời tiết trở lạnh rồi, hai con đem theo, ăn trưa ở trường, cơm cá hôm nào cũng nguội lạnh cả, chẳng ngon lành gì, lại mất vệ sinh. Hãy giữ số tiền này để mỗi bữa trưa, hai chị em dắt nhau ra quán cơm nào gần trường, mua thêm một vài món ăn nóng mà dùng.
- Ba!... Trưa nào tụi con cũng hâm nóng cơm canh lại, rồi mới ăn đâu có sao, ba đừng lo...
Thu Trân vội lên tiếng... nói dối, để an ủi ba. Giọng nàng như lạc hẳn đi vì cảm động. Nhìn mái tóc đã bạc quá nhiều của ba mà lòng nàng đau thắt. Cả đời ông đã vất vả tìm sự sống cho gia đình, để rồi đến khi tuổi cao chồng chất, vẫn còn khổ tâm vì cảnh nhà.
Nàng cố giấu đi vẻ bi thương, nói tiếp:
- Vì vậy, tụi con đâu cần tiền làm chi, ba thường đi ra ngoài nên cất để mà chi dùng.
Xuân Châu phụ họa:
- Chị hai nói phải đấy, ba cất tiền lại đi, tụi con không lấy đâu.
Phụ thân nàng rưng rưng nước mắt, phải vội quay mặt đi cho hai con đừng trông thấy.
Ông ho khan mấy tiếng để giọng nói đỡ nghẹn ngào:
- Dầu không có con trai nhưng có được hai đứa con gái như các con, chẳng những xinh đẹp, thông tuệ, lại ngoan ngoãn, hiền hậu, ba rất vui lòng. Có điều, trong gia đình không may có người đàn bà đanh đá, ác nghiệt, thật ba hết sức khổ tâm... Ba cũng hổ thẹn vì không...
Ông lại ho khan, kỳ thật ông đã khóc.
Thu Trân thấy, chỉ lúc tổ mẫu mất, thân phụ mới khóc và lâu lắm rồi, đến bây giờ lại khóc.
Tự dưng hai chị em nàng cũng khóc theo.
Một lúc khá lâu, đột nhiên Xuân Châu ngẩng bộ mặt đầy nước mắt lên, tươi cười nói lớn:
- Ba! Chị hai! Bữa nay đáng lẽ là dịp vui mới phải chứ sao chúng ta lại tự chuốc lấy phiền não làm gì. Ba! Đang chiều chủ nhật, ba dẫn tụi con đi chơi đi.
- Xuân Châu nói phải. Nào, hai con vào sửa soạn, rồi ba dắt đi xi nê. Nhưng mà, hãy lấy cất số tiền của ba cho cái đã.
Ông vuốt tóc hai con và đổi buồn làm vui.
Xuân Châu liếng thoắng:
- Chị hai! Tụi mình vâng lời, cho ba hài lòng. Mau vô thay đồ kẻo ba chờ...
Trọn chiều chủ nhật ấy, ba cha con lại được tận hưởng những giờ đậm đà, thoải mái, mãi đến tối mới trở về nhà.
Vừa về tới cửa, Xuân Châu đã chạy lại mở hộp thơ ra, lục lạo theo thói quen, bỗng reo lên:
- A ha! Lại có thư của anh Tường Phương.
- Đâu nào? Mau đem lại cho chị con đi!
Vừa giục Xuân Châu, phụ thân vừa hỏi Thu Trân:
- Hổm rày con với Tường Phương vẫn thường thư từ cho nhau chứ? Tình cảm tiến triển tốt đẹp chứ?
- Dạ có... Dạ, cám ơn ba!...
Thu Trân còn nhớ...
Một đêm phong vũ loạn cuồng. Ngoài trời gió thét mưa gào, chớp giăng, sấm nổ liên hồi; tưởng chừng như cả không gian chực sập đổ tan tành. Trong nhà mọi vật đều chao động, cơ hồ đang run rẩy trước cơn thịnh nộ của Thiên công.
Mặc dù được tổ mẫu ôm chặt trong lòng, nhưng Thu Trân không ngớt khóc thút thít và cứ dụi đầu vào nách bà, để tìm chỗ trốn an toàn.
Tổ mẫu đã dỗ dành mãi, lại "nhát ông kẹ", rồi viện đến mưa to gió lớn mà đe dọa, Thu Trân vẫn chưa chịu ngủ. Thế nhưng... thoạt nghe tổ mẫu bảo "cục cưng của nội đừng khóc nữa, mau ngủ đi, kẻo má vào đánh đòn bây giờ"; thì Thu Trân lập tức nín khe, vội đưa tay áo quẹt nhanh nước mắt và khép mi lại thật chặt ngay. Đồng thời, Thu Trân nghe lạnh buốt xương sống rùng mình, vì chợt hình dung đến nét mặt hầm hầm của má, với cái lối cú đầu sao mà nhức nhối tận óc, đau xé cả tâm can!
Nằm yên được một lúc không lâu, Thu Trân lại rón rén cựa mình, hỏi khẽ:
- Nội ơi! Tại sao má ưa đánh con quá vậy hở Nội?
- Ồ!... tại vì con hay nhõng nhẽo, cứng đầu...
Tự dưng tổ mẫu nghẹn lời. Bà phải hít một hơi dài, mới nói tiếp được, giọng run run:
- Từ rày con phải ngoan, ráng giỏi, đừng nhõng nhẽo... thì má sẽ không đánh đòn nữa.
- Vậy chớ em Xuân Châu cũng cứng đầu, cũng nhõng nhẽo, sao má không đánh, không la lần nào hết? lại cưng?... Thu Trân hậm hực hỏi chưa dứt câu, lại bật khóc.
Tổ mẫu sờ soạng bàn tay khô gầy trơ xương, âu yếm vỗ vỗ đầu Thu Trân, giải thích hơi ngập ngừng:
- Xuân Châu bé hơn con, còn khờ dại. Con thì... lớn rồi, đã hiểu biết nhiều... Con không nên làm má con nổi giận...
Thu Trân ngấm ngầm bất phục, đột nhiên ngừng khóc, nghinh mặt, tuôn một loạt ấm ức:
- Em Xuân Châu mà khờ dại thì cho con cùi đi! Nó kém con có một tuổi rưỡi, chớ còn bé cái gì? Mọi chuyện nó đều hơn con hết, bộ nội không thấy sao? Ăn, thì nó biết ăn ngon hơn, mặc cũng đẹp hơn. Nghịch ngợm, cứng đầu, lấn hiếp con thì nó lợi hại thập phần. Nhưng, bất luận em Xuân Châu có đắc tội như thế nào đi nữa, má cũng cứ cưng chiều như thường. Còn con, dầu chưa lầm lỗi gì, đã bị má cú đầu lia lịa, nẹt roi tơi bời!... Không biết tại sao mà kỳ cục thế, hở nội?
Tổ mẫu ngây người ra, chẳng nói năng gì. Gương mặt già nua hằn đượm vẻ u buồn, tâm tư như đang ẩn chứa điều gì rất thống khổ mà không tiện thốt nên lời.
Thu Trân giương mắt nhìn hồi lâu, vẫn chưa thấy tổ mẫu lên tiếng, bèn nhắc:
- Nội, cắt nghĩa cho con biết đi!
- Thì nội đã nói rồi đó, vì Xuân Châu là em, còn con là chị, mà em thì đáng được nuông chiều hơn chị...
Bà thở dài chép miệng:
- Thu Trân, hãy ghi nhớ lời nội dặn, gắng giữ gìn đừng phạm lỗi, mọi sự việc đều phải dễ dạy, để khỏi bị má đánh đòn...
Thình lình bà ngưng lại, không biết vì sực nhận ra đây là lời cũ, đã vừa dặn qua rồi; hay do cơn xúc động dâng lên tắt nghẽn cổ họng.
Thu Trân òa khóc, vừa tức tưởi:
- Con hiểu rồi, má ghét bỏ con, má không thích làm má của con, nên má chả bao giờ cho con một chút kẹo bánh hay một món đồ chơi nào hết.
- Thu Trân, nín đi, đừng khóc nữa! Má không cưng thì có nội cưng con!
Giọng bà khan đục và lệ nóng tuông trào ra đôi má cóp.
Theo sự hiểu biết ấu trĩ của Thu Trân thì khóc là việc của con nít, chớ sao bà già cũng khóc? Lấy làm kỳ, Thu Trân ngừng thút thít và bắt chước y hệt những cử chỉ của tổ mẫu đã dỗ dành mình mà dỗ dành lại tổ mẫu.
Vừa lau nước mắt cho bà, Thu Trân vừa hỏi nhỏ:
- Nội, sao nội cũng khóc vậy?
- Tại vì... ờ... tại vì nội chảy nước mắt. Mà thôi! hễ cháu cưng của nội không khóc, thì nội cũng không khóc.
- Nội à! Nội cưng con thật không?
- Thật chứ! Ngay từ lúc con lọt lòng mẹ, nội đã cưng con rồi.
- Nội có cưng em Xuân Châu không? Thu Trân hỏi đầy vẻ khẩn trương.
- Xuân Châu đã có má nó cưng rồi khỏi cần nội phải cưng nữa.
Thu Trân ôm chầm lấy tổ mẫu, hôn hít lung tung.
Ngay lúc ấy, chợt nghe từ gian phòng cách vách vọng sang tiếng gắt gỏng, cãi vã. Thu Trân hỏi:
- Nội, chuyện gì mà ba má con gây lộn vậy nội?
- Chắc là cãi nhau về chuyện của con.
- Ủa! Chuyện của con? Chuyện gì?
- Vì con nhõng nhẽo, má đánh đòn, ba con nóng ruột...
Thu Trân cao hứng, chồm lên:
- Nói vậy, tức là ba cũng cưng con?
- Con là con gái ruột của ba con, không cưng sao được.
Dù trí óc thơ dại, nhưng nghe qua câu nói ấy, Thu Trân tự dưng loáng thoáng thấy hoài nghi trố mắt trân trối nhìn tổ mẫu, như muốn hỏi điều gì. Thấy vậy, tổ mẫu không khỏi áy náy, liền kéo Thu Trân nằm xuống, vuốt tóc, vỗ lưng, bảo ngủ đi.
Đôi mắt Thu Trân cứ mở thao láo, một chập lại hỏi:
- Nội à, bộ con không phải là con ruột của má, hở nội?
Nội tổ hấp tấp gạt ngang:
- Thu Trân, chớ có nói... nói càn! Má con nghe được là giận lắm đấy!
Tuy là nạt nộ, song chẳng có chút gì hung dữ. Thu Trân phát giác giọng của bà run lên và thần sắc đầy hoang mang, nhưng không hiểu tại sao, cứ ấm ức tiếp:
- Má chả giống là má ruột của con chút nào hết. Má ruột thì sao độc ác, ghét bỏ con gái ruột như thế? Con thấy, em Xuân Châu mới là con ruột của má...
Tổ mẫu lại ngắt lời:
- Thu Trân! Đã bảo chớ có nói càn, đừng đoán bậy! Nếu muốn nội cưng, con hãy lặng thinh, ngủ đi.
Bà sửa gối và lấy mền đắp cho Thu Trân, đoạn bỏ mùng xuống. Cử chỉ, thái độ bà hết sức dịu dàng, thân thiết khiến Thu Trân vọt miệng nói:
- Nội! Nội mới là má ruột của con!
Bà vẫn tiếp tục tấn mùng, không đáp. Qua ánh đèn lờ mờ, Thu Trân thấy đôi mắt bà đẫm lệ.
Thu Trân lồm cồm ngồi dậy, bá cổ tổ mẫu, hỏi:
- Nội lại khóc nữa rồi, phải không? Sao nội bảo con đừng khóc mà nội khóc còn nhiều hơn con vậy?
Tổ mẫu lắc đầu:
- Đâu có... Nội đâu có khóc!
Bà gắng gượng cười, ghì chặt Thu Trân vào lòng, khẽ tiếng căn dặn:
- Thu Trân! Con ghi nhớ cho kỹ, trước mặt má, ngàn vạn lần con không nên nói như vừa rồi nghe!
Thu Trân bĩu môi, hậm hực:
- Tại sao không nên nói? Sự thật rõ ràng, con ngủ chung với nội, còn em Xuân Châu ngủ chung với má, như vậy không phải con là con ruột của nội sao?
Tổ mẫu chớp chớp mi long lanh lệ, ôn tồn khuyên:
- Ở đây, con nói vậy không sao, nhưng đừng bao giờ để má nghe thấy, má sẽ không bằng lòng lại đánh con đấy.
Thu Trân nghe nhắc đến "má đánh" bèn gật đầu. Tổ mẫu hôn vào má, vào trán Thu Trân và hai bà cháu cũng nằm xuống...
Ngoài trời vẫn tầm tã gió mưa. Nhưng bây giờ, nằm trong mền ấm, bên cạnh tổ mẫu, Thu Trân không còn sợ mưa gió nữa, mà âm thanh ào ạt liên miên của phong vũ lại trở thành điệu nhạc ru Thu Trân đi lần vào giấc ngủ.
Giữa lúc mơ màng, bỗng Thu Trân mường tượng nghe có người đến và tiếng nói quen thuộc của ba:
- Thưa mẹ, Thu Trân đã ngủ say rồi chứ?
- Nó mới ngủ chưa lâu.
- Chà! Trận bão này coi bộ dữ dội quá. Theo tin khí tượng của Đài phát thanh thì khuya này cường độ bão càng tăng. Nhưng không hề chi, mẹ đừng lo sợ, nhà chúng ta kiên cố, gió bão chả ăn thua gì, xin mẹ cứ vững bụng.
- Ồ! Mẹ không ngại giông bão đâu. Đã sống bảy mươi tuổi rồi, lẽ nào mẹ còn sợ chết. Nếu phải lo ngại chăng là...
Tiếng nói của bà trở nên thật khẽ, bị tiếng gió mưa át mất, Thu Trân nghe không được. Tiếp đó Thu Trân bỗng nghe ba thở dài. Rồi hai người im lặng một lúc khá lâu.
Chập sau, tổ mẫu mới lên tiếng:
- Theo mẹ nghĩ, con không cần cãi vã với nó, mà nên ôn hòa thuyết phục, cảm hóa là tốt hơn. Bởi vì con càng gay gắt với nó, thì càng bất lợi cho Thu Trân. Huống chi con lại thường không có mặt ở nhà, làm sao con che chở cho Thu Trân.
Giọng của ba trầm hẳn xuống, thật buồn:
- Con không đành lòng để Thu Trân phải chịu cảnh khắc nghiệt hiếp đáp, khổ sở. Hừ... thật chẳng ngờ! Nếu sớm biết thế nầy, con đã chẳng thèm...
Đoạn sau lời của ba, Thu Trân lại nghe không rõ. Tuy nhiên, chỉ bằng vào câu: "không đành lòng để Thu Trân phải chịu cảnh khắc nghiệt"... Thu Trân đã vạn phần cảm động, vì biết chắc là ba quả nhiên rất mực thương yêu mình.
Thu Trân vừa cao hứng, thích thú, nhưng cũng vừa thấm thía buồn tủi, đến không nhịn được, bật khóc rấm rức.
Ba vội khoát cửa mùng, ngồi xuống mép giường thò tay vuốt tóc và vỗ nhè nhẹ vào vai Thu Trân âu yếm:
- Thu Trân, sao con khóc? Bộ chiêm bao thấy cái gì hung dữ lắm hả? Đừng sợ, có ba có nội đây rồi, ngủ nữa đi con!
Thu Trân chẳng biết trả lời thế nào, mặc dù trong tâm tư muốn nói với ba thật nhiều, kể lể tất cả những gì ẩn ức bấy nhiêu lâu.
Thình lình Thu Trân nhổm dậy, lăn xả vào lòng ba mà khóc vùi...
Tính đúng ra thì Thu Trân đã sáu tuổi chín tháng, cái tuổi đáng lý phải được cắp sách đến trường.
Phụ thân thì sẵn sàng cho Thu Trân đi học. Nhưng mẫu thân lại ngăn cản bằng đủ thứ lý do và rằng "con gái không cần đi học quá sớm". Thực sự, điều chủ yếu mà mẫu thân "cần", là muốn Thu Trân phải ở nhà để coi chừng chơi với Xuân Châu.
Nguyên phụ thân Thu Trân chuyên nghề khai thác mua bán gỗ rừng, nên thường vắng nhà luôn. Nhân đó, mẫu thân Thu Trân đi đánh bài suốt ngày, lẫn cả thâu đêm. Mọi việc nội trợ đều khoán trắng cho thím Trương, người ở thuê. Và phần trông nom Xuân Châu, thì giao đứt cho Thu Trân. Nhiều lúc thím Trương bận tay, Thu Trân lại phải đem hết sức bé bỏng ra mà làm bất cứ việc gì do mẫu thân sai khiến.
Xuân Châu, chỉ kém Thu Trân một năm bốn tháng. Hai chị em vóc vạc suýt soát gần bằng nhau nhưng Xuân Châu có vẻ khôn ngoan, lanh lợi hơn Thu Trân một bực.
Cậy vào chỗ được mẹ nuông chiều, lúc nào Xuân Châu cũng lấn lướt Thu Trân mọi chuyện. Động một tí là Xuân Châu dọa "mét má", khiến Thu Trân sợ xanh mặt, việc gì cũng lẹ lẹ chịu lép ngay. Mà Xuân Châu đã từng mét má thật, lắm phen rồi. Hễ Xuân Châu dẫy nẩy, hay phụng phịu mách vài tiếng, là cầm bằng Thu Trân ăn đòn điêu đứng, chẳng được kêu oan hay ưng gì cả.
Được đằng chân lên đằng đầu, Xuân Châu cứ xách khóe gọi Thu Trân bằng mày tao và theo gương má, mặc tình lấn hiếp, đày ải Thu Trân như một kẻ tôi đòi...
Phải đợi đến lúc Xuân Châu đủ sáu tuổi, Thu Trân mới được tới trường.
Xuân Châu đòi đi học, tức thời má hoan hỉ đồng ý ngay và bắt Thu Trân cũng phải đi học, để... hầu hạ Xuân Châu. Từ việc ôm cặp, xách bình mực, che dù khi trời mưa, đến việc dẫn Xuân Châu đi đường, tránh xe cộ, cả đến việc canh chừng không để các trò khác gây gổ, ăn hiếp Xuân Châu... nhất nhất Thu Trân phải "chịu trách nhiệm", nếu thiếu sót là bị đòn. Mấy lần Xuân Châu, không thuộc bài, hoặc đùa giỡn trong lớp, bị thầy phạt, bị chúng bạn chê cười; khi về nhà, Xuân Châu khóc, đổ thừa hết cho Thu Trân, má đùng đùng nổi giận, đánh chửi Thu Trân tưng bừng!...
Mẹ bạc đãi, em hiếp đáp, dù là thống khổ lắm nhưng Thu Trân đều có thể chịu đựng được. Đến như việc cưỡng bách Thu Trân phải "ở lại" không được lên lớp, thì quả là một nỗi buồn đau vượt sức!
Cuối niên học, Xuân Châu kém quá, không được lên lớp, thế là má qui tội Thu Trân không trông nom em, bèn giáng cho một trận đòn nên thân rồi bắt buộc Thu Trân cũng ở lại học lớp cũ với em.
Ức lòng, Thu Trân tuyệt thực phản kháng, nhưng chẳng mảy may xiêu động chút tình thương nào của mẫu thân, lại bị đay nghiến:
- Mầy chết phứt đi, thành con quỉ đói, càng tốt! Đi học, là tao cho Xuân Châu đi học, chớ cái ngữ như mày thì học với hành gì mà chộn rộn. Đồ ôn toi, có giỏi cứ nhịn ăn thêm vài ngày nữa coi thử!
Rốt cuộc, cố nhiên phần thắng không thể nghiêng về một đứa bé. Thu Trân lại phải tiếp tục nhẫn nhục mọi bề, làm kẻ hầu hạ em, để còn được tiếp tục đến trường.
Thấy vậy, thím Trương thương tình, chỉ cho Thu Trân một cách: nhịn ăn quà, dành tiền lén mua thêm sách lớp trên, tự học được bài nào hay bài nấy.
Mặt khác, Thu Trân cũng nghĩ được biện pháp "vẹn toàn", là cứ thường xuyên "gà" cho Xuân Châu làm bài trúng, được điểm cao - ngõ hầu em có lên lớp thì chị mới khỏi bị ở lại oan uổng...
Thời gian chồng chất, hễ Thu Trân khôn lớn thêm được một phần nào, thì tổ mẫu lại già yếu hẳn đi mấy phần. Càng ngày bà nằm ở giường bệnh càng nhiều hơn là đi đứng ra khỏi phòng, thành thử chẳng thể nào chiếu cố, che chở cho Thu Trân được như dạo trước.
Cho đến năm Thu Trân lên mười một tuổi.
Vào một chiều đông giá rét, bịnh trạng tổ mẫu trở nên trầm trọng.
Thu Trân quì phục bên giường, khóc thút thít. Trong khi đó, thân mẫu và Xuân Châu đứng dang xa xa ngoài cửa buồng ngó vào, vì sợ đến gần bị truyền nhiễm. Họ đứng nhìn như thế một lát, rồi êm êm rút lui.
- Thu Trân, con đừng khóc! Nội đã già trên bảy mươi rồi, dẫu có chết cũng là sự thường...
Đột nhiên tổ mẫu hồi tỉnh. Nhưng chỉ nói được bấy nhiêu đã mòn hơi, phải ngừng lại. Bà run rẩy bàn tay gầy trơ xương vuốt tóc Thu Trân và ảo não bi thương, tiếp:
- Thu Trân! Nội tự biết sắp chết. Từng tuổi này, nội chết, là yên phần nội. Lẽ ra, nội đã theo ông bà từ mười năm trước rồi, nhưng vì nghĩ thương con cơ khổ mà nội nhắm mắt không đành. Phải chi nội được thấy con trưởng thành, được chứng kiến cái ngày con có chồng, nên gia nên thất, sống vui vẻ hạnh phúc, thì... Nội rất sung sướng mà chết, vĩnh viễn mãn nguyện mà chết.
Nghe qua lời tổ mẫu. Thu Trân càng thêm nát dạ tan lòng, liền bấu chặt cánh tay khô đét của bà và òa khóc to lên:
- Nội!... Nội ơi!... Nội không thể chết!... Con... con cần có nội!...
- Phải rồi, nội cũng chưa muốn chết, nội còn muốn thấy con khôn lớn nên người, nhưng...
Bà hít vào một hơi dài. Tiếng bà bỗng bớt run và rõ ràng hơn:
- Thu Trân! Nội không thể lừa dối con và tự dối gạt mình, Nội biết là chẳng còn sống được bao lâu nữa; có lẽ nội đêm nay, hay đến sáng mai, nội sẽ vĩnh biệt con...
Thu Trân lại khóc nức nở:
- Nội đừng nói vậy nội ơi! Con tin là nội sẽ khỏi bịnh và mạnh khỏe như thường. Ba con đã đi rước bác sĩ, sắp về tới rồi đó!
Tổ mẫu mấp máy môi nhưng thốt không thành tiếng. Bà thở hào hển.
Thu Trân chỉ đành biết khóc, chớ chẳng biết làm sao hay nói gì trước tình cảnh này.
Thở dốc một lúc, tổ mẫu chợt mở mắt ra và yếu ớt chỉ tay ra phía cửa buồng, bảo:
- Con đóng cửa, cài cẩn thận, rồi lại đây nghe nội nói chuyện nầy, đừng để má con biết.
Thu Trân rất đỗi khẩn trương, mau mau làm theo lời bà, đoạn đến quì sát bên giường.
Tổ mẫu cố nén mệt nhọc, hỏi:
- Thu Trân, con có hiểu vì lẽ gì mà má con không thương con hay không?
Thu Trân hoang mang lắc đầu.
Tố mẫu buồn bã:
- Suốt tám chín năm nay, nội nghe theo lời ba con, đã cố che giấu, không cho con biết một sự thật... Giờ đây, trước khi nhắm mắt lìa trần, nội thấy không thể che giấu con nữa, vì lúc nội chết rồi, con vẫn không được ai nói cho rõ sự thật thì nội làm sao yên dạ chốn suối vàng.
- Nội! Ấy là vụ gì, xin nội mau cho con biết?
- Thu Trân con! Người mà con vẫn kêu bằng má hiện tại, thật ra không phải là mẹ ruột của con đâu. Mẹ ruột của con đã mất vì bạo bịnh ngày từ ngày con mới tròn một tuổi. Má hiện tại của con chỉ là kế mẫu, nên sanh ra riêng tây, ích kỷ, chỉ biết yêu thương con gái ruột của y mà thôi.
Điều thắc mắc, hoài nghi trong lòng Thu Trân bấy nhiêu lâu, đến bây giờ mới được giải đáp to tướng. Tuy nhiên Thu Trân không cảm thấy đau xót, tiếc rẻ chút nào khi nghe nói người đàn bà ấy không phải là mẹ ruột của mình, mà chỉ lấy làm lạ một điều:
- Nhưng với dụng ý chi. Nội với ba phải giấu con sự thật đó?
- Dụng ý chánh yếu, hoàn toàn là thương con. Lúc mẹ ruột con mất, con còn quá nhỏ, chưa biết nói, chưa biết đi gì cả... Kế mẫu của con nguyên là em bà con bạn dì với mẹ ruột con, lúc ấy tỏ ra rất thương yêu con, thường bồng ẵm, chăm sóc con, như tình mẹ ruột vậy. Thấy thế, nội với ba con mới chọn y làm kế mẫu con, để cho con đừng bao giờ phải buồn khổ vì cảnh mất mẹ. Dịp mới rước kế mẫu con về, Ba con cẩn thận mời đông đủ quyến thuộc và thân hữu đến dự một tiệc rượu, để chánh thức yêu cầu họ về sau tuyệt đối chớ hé lộ cho con biết chuyện mẹ ruột, mẹ ghẻ làm gì, ngõ hầu giúp con đinh ninh vẫn có mẹ, mà không nảy sinh mặc cảm sầu não, không bị ảnh hưởng bất lợi trong cuộc đời.
Thấu rõ bấy nhiêu sự tình, Thu Trân cảm thấy tình thương của tổ mẫu và phụ thân đối với mình quá ư cao cả, vĩ đại. Thu Trân muốn la lên thật to lời ca tụng, sùng bái, nhưng không biết nên nói thế nào cho suôi câu, rốt lại chỉ khẩn thiết nhìn tổ mẫu, khẽ thốt:
- Nội đang mệt mà nói nhiều quá, không nên. Nội nằm yên, nghỉ cho khỏe cái đã...
- Ồ, không hề gì! nội hết mệt rồi, lại nghe tinh thần rất phấn chấn. A! Có lẽ Nội sắp khỏi bệnh cũng nên, chả cần uống thuốc làm chi.
Quả nhiên sắc diện bà đang trở nên hồng hào hằn lên; những nét mỏi mòn của bệnh hoạn, tử vong chợt tan biến hết.
Đây vốn là hiện tượng "hồi quang phản chiếu" ở người bệnh sắp chết. Nhưng Thu Trân đâu hiểu, lại mừng rỡ:
- Nội khỏe thật rồi! Hay quá! Để con rót nước nội uống nhé!
Tổ mẫu hớp vài ngụm nước, đoạn tiếp nối câu chuyện:
- Đấy, dụng ý buổi đầu của ba con hoàn toàn tốt đẹp như thế, lại được kế mẫu con nhiệt liệt tán thành. Nội cũng lấy làm bằng lòng, Nào ngờ... chỉ được một thời gian ngắn thôi, thì sự thể bắt đầu thay đổi hẳn. Từ ngày kế mẫu con hạ sinh bé Xuân Châu, tâm địa liền biến chuyển, trắng trợn quên đi lời hứa, chẳng những không còn coi con là con ruột nữa, lại đối xử khắc nghiệt, tàn tệ như người dưng kẻ lạ, như hạng tôi đòi!... Nội thật chẳng hiểu nổi, lòng dạ con người sao mà ích kỷ, bạc bẽo đến thế?
Thu Trân nghe tâm can đau nhói, tựa hồ bị mũi dao nhọn đâm thẳng vào, cứ khóc lóc nức nở, chẳng thốt nên lời.
Tổ mẫu run giọng, hỏi:
- Thu Trân! Con có oán hận ba con không?
Thu Trân vội đáp qua tiếng khóc:
- Không! Con không oán hận...
- Thế con có giận nội đã giấu gạt con không?
- Con chỉ hận số phần con, sao chẳng chết theo mẹ con từ thuở bé cho rồi!... Nội mười năm rồi, nội đã là mẹ ruột con; con không thể thiếu vắng nội, nếu nội có mệnh hệ nào, thì con quyết theo nội...
Gương mặt già nua co rúm lại. Bà đã khóc. Nhưng sức cùng lực kiệt, bà khóc không thành tiếng và cũng không còn nước mắt để chảy nữa. Hình thái này, trông càng thảm khổ vô vàn.
Ngay lúc ấy, bỗng có người gọi bên ngoài.
Thu Trân vội ra mở cửa buồng, thấy kế mẫu đang đưa người cô ruột của Thu Trân đến.
Lo lắng ra mặt, bà cô hỏi gấp:
- Thu Trân, bà nội ra sao?
Thu Trân mím môi không đáp, đôi mắt mở to mà lệ nóng trào tuông tầm tã.
Bà cô cuống quít, chạy vụt vào bên giường.
Kế mẫu Thu Trân vẫn đứng xa xa ngoài cửa, chẳng buồn đến gần để an ủi người bệnh một lời. Đã vậy, khi Xuân Châu bất thần xông vô, cốt xem tổ mẫu một chút cho thỏa tánh hiếu kỳ, cũng liền bị kế mẫu nghiến răng, lườm mắt, kéo xỉnh ra. Thu Trân bất bình cực độ, suýt chút nữa đã gào lên một câu nguyền rủa.
Chợt nghe tổ mẫu gọi. Thu Trân mau mau sà đến cạnh giường. Tổ mẫu vừa thở vừa ráng dặn dò:
- Thu Trân! Nội đã nói với cô của con rồi đấy. Giả sử kế mẫu con cứ hành hạ đến mức hết chịu nổi, con... con có thể trốn qua nhà cô còn mà ở... Cô con sẽ nuôi con, lo lắng tương lai cho con, sẽ coi con là con ruột... đừng sợ gì hết... hãy vững lòng, nghe con!...
Thu Trân không còn đè nén được nữa, khóc rống lên.
Bà cô ôm Thu Trân vào lòng, cũng nức nở.
Đồng hồ trên tường rời rạc buông ngân mười tiếng thê lương...
Chương 2
Kể từ ngày tổ mẫu từ trần, thân phận Thu Trân càng thêm điêu đứng, vì trong nhà đâu còn ai dám che chở, bênh vực Thu Trân nữa?
Mấy lúc sau này, việc kinh doanh tăng phần khó khăn, thân phụ Thu Trân phải vắng nhà càng nhiều hơn trước. Thế là kế mẫu chẳng còn chút úy kỵ nào, cứ thẳng tay hành hạ bạc đãi Thu Trân.
Phần Xuân Châu, chẳng những không biết thương chị, lại lấy làm hí hửng khi thấy Thu Trân bị mắng chửi, đánh đập. Gần như lần nào Thu Trân khóc thì cũng có Xuân Châu đứng dòm, cười thích thú.
Chỉ có thím Trương là người duy nhất thông cảm, tội nghiệp Thu Trân mà thôi.
Hằng ngày kế mẫu bắt Thu Trân phải quét sàn, hứng nước, tưới kiểng, lau bàn ghế và phụ lực với thím Trương trong mọi công việc bếp núc, giặt giũ. Nếu không làm thì... khỏi ăn cơm! May là thím Trương thương tình, đã làm thay Thu Trân các công việc nặng, nếu không có lẽ Thu Trân đã sút từng mảng xương ra mà chết mất rồi cũng nên.
Sau khi tổ mẫu chết, kế mẫu biết là Thu Trân đã hiểu rõ ẩn tình mẹ ghẻ con chồng, nên chẳng buồn giả nhân giả nghĩa phần nào như trước kia nữa, mà cứ oang oang sỉ vả:
- Ai nấy coi đó, cái con quỉ nhỏ này, tối ngày bản mặt cứ đầm đìa nước mắt, làm như sắp chết tới nơi! Tao còn lạ gì mầy, đồ ôn con, quỉ quyệt! Mầy muốn dùng khổ nhục kế để rêu rao với thiên hạ rằng tao là thứ mẹ ghẻ ác nghiệt chứ gì! Ừ, tao là mẹ ghẻ đấy. Mầy thử đầu thai tám kiếp, kiếm coi có người mẹ ghẻ nào biết thương yêu mày, hết dạ lo lắng tương lai cho mầy bằng tao không? Đồ quỉ sứ! Đồ ôn con! Đồ ăn hại!...
Chính vì cho rằng Thu Trân là "đồ ăn hại" nên đã năm lần bảy lượt rồi kế mẫu định bắt Thu Trân đi ở đợ, để lấy tiền đánh bài, vừa đỡ hao tốn cơm áo.
Nhưng thân phụ Thu Trân hoàn toàn không tán thành vụ này, ông có lý do vững vàng để chống đối, rằng Thu Trân coi vậy chớ đã nghiễm nhiên "có nơi có chốn" rồi, không thể trái tục lệ, đem đi ở nhà người dưng được.
Thu Trân tuy chẳng hiểu rõ mười mươi thế nào là "có nơi có chốn", song cũng đoán đại khái: Một người con gái mà "có nơi có chốn", tức đã có chồng.
Do đó, Thu Trân không khỏi kinh dị, hoang mang.
Cả kế mẫu cũng ngạc nhiên, chẳng tin, nên phụ thân Thu Trân phải giải thích tự sự:
- Hơn mười năm trước, tôi có người bạn chí thân, tên gọi Lương Minh Đăng. Bấy giờ, "bà xã" của cả hai người đều đang thọ thai. Anh Lương Minh Đăng đề nghị: Nếu mỗi nhà hạ sinh một nam một nữ, thì khi lớn lên, sẽ cho chúng kết duyên chồng vợ. Tôi đồng ý ngay. Và hai em cùng lập lời trọng thệ. Về sau, hai nhà quả nhiên sinh một nam một nữ thật, tức là giao ước kia đã trở thành cụ thể, tôi với anh Lương Minh Đăng đương nhiên là thông gia kể từ đó. Mẹ của Thu Trân đã sinh Thu Trân vào ngày rằm tháng Chín; còn chị Đăng sinh con trai vào ngày mười tám tháng chín, đặt tên là Lương Tường Phương. Quãng nửa năm sau, anh Minh Đăng có việc kinh doanh lớn ở Thượng Hải, phải đem cả gia quyến rời Đài Loan đến thượng hải cư ngụ Từ đó, hai nhà xa cách nhau, cả đến thư từ, tin tức của nhau cũng vắng bặt. Rồi liên tiếp hơn mười năm nay, vì mãi bận rộn với sinh kế, tôi cơ hồ quên bẵng đi vụ "chỉ phúc vi hôn" ấy đi. Bất ngờ, mới cách nay một tháng, tôi bỗng nhận được thư từ Thượng Hải, của anh Minh Đăng nhắc lại chuyện giao ước hôn nhân của đôi trẻ. Trong thư, anh ấy cho biết cậu Lương Tường Phương đang là một học sinh xuất sắc vừa đậu Tiểu học và bắt đầu lên Trung Học đệ nhất cấp. Anh Minh Đăng long trọng tái xác nhận Lương Tường Phương là rể của nhà họ Lâm chúng ta, cũng như thừa nhận Thu Trân là dâu của nhà họ Lương. Như thế, tức là Thu Trân đã "có nơi có chốn" hẳn hòi rồi, làm sao lại có thể đem nó đi ở thuê nhà người ta được? Giả thử một ngày nào đó, thình lình anh Minh Đăng tìm đến đây, hỏi tôi về đứa con dâu, thì tối biết ăn nói làm sao với người bạn tốt, vừa là thông gia ấy?
Nghe hết đầu đuôi câu chuyện như thế, Thu Trân và kế mẫu mới vỡ lẽ.
Mới mười một tuổi đầu mà đã có vị hôn phu. Tuy nhiên, vốn còn thơ ngây, Thu Trân lúc nghe chuyện chỉ thoáng một chút "mắc cở" rồi thôi, chớ chẳng có cảm nghĩ gì nhiều.
Khổ nỗi, kế mẫu lại vì vụ Thu Trân đã "có nơi có chốn" dường ấy mà càng coi Thu Trân như kẻ thù, cứ thừa những lúc phụ thân Thu Trân vắng nhà mà gia tăng mức hành hạ càng dữ dội. Ngoài sự làm lụng nặng nhọc và liên miên bị đánh chửi, Thu Trân còn bị bỏ đói đều đều. Thím Trương phải lén xúc cơm cá vào tô, đem vào một xó bếp cho Thu Trân ăn...
Thấm thoát, thêm ba năm thống khổ nữa, lại tiếp tục chồng chất lên vai gầy của Thu Trân.
Thu Trân mười bốn tuổi, cái bản chất "con nít" đã hoàn toàn biến mất.
Quãng đời thơ ấu, đáng lẽ đầy vui sướng, thắm tươi, Thu Trân chẳng hề được hưởng một ngày, mà đó là cả một chuỗi năm tháng đọa đầy. Bởi vậy, so với những cô gái mười bốn tuổi khắc, Thu Trân hiểu biết hơn thật nhiều, từ nhân tình thế thái, đến chí nhẫn nại, lẫn các công việc làm lụng trong nhà.
Thu Trân không còn nông nổi nữa. Trước mọi vấn dề, Thu Trân đều có sự xét suy, nhận thức cẩn thận. Chẳng để kế mẫu la ó, sai khiến, Thu Trân đã tự động chu toàn hết mọi việc nội trợ, cho kế mẫu vui lòng...
Có em Xuân Châu mười hai tuổi rưỡi của Thu Trân, xem chừng dã biết thương người phần nào, nên dần dần không còn lấn hiếp Thu Trân thái quá như trước nữa. Được vậy, phần lớn cũng do thái độ của Thu Trân. Biết rằng cô em dã quen với nếp sống nuông chiều từ bé, nên chẳng biết làm gì hết, dù chiếc khăn tay cũng không tự giặt lấy được. Thu Trân bèn sẵn sàng lo liệu, làm giúp Xuân Châu tất cả, bằng thân tình chị em, chẳng chút tị hiềm, không hề quản ngại khó nhọc. Chính thái độ ấy của Thu Trân đã cảm hóa dược Xuân Châu dần dần...
Mùa hè năm nay, hai chị em đều đậu Tiểu học. Kết quả khích lệ này của Xuân Châu, thật ra là nhờ ở Thu Trân cả. Có lẽ cũng hiểu như vậy, nên kế mẫu đâm ra cao hứng, cho phép Thu Trân tiếp tục học lên bực Trung học, để tiện đi đi về về và kèm bài vở cho Xuân Châu luôn.
Xuân Châu có cái tật lớn là thường hay đùa giỡn trong lớp, giữa giờ học. Và trò chơi Xuân Châu "khoái" nhứt là viết những mẫu thư vụn trộm, lời lẽ thật lý lắc, thừa lúc giáo sư ngó lơ một chút, liền ném sang các bạn nam sinh, để họ mở ra đọc, dòm nhau mà cười... chơi!
Một hôm, nhằm giờ Sử Địa, nhưng vì giáo sư phụ trách thường lệ lại vắng mặt vì bịnh, nên nhà trường đưa một vị khác tới dạy thay. Nghe đồn vị giáo sư dạy thay này rất khó tính, dễ nổi giận và khi đã nổi giận thì trừng phạt rất gắt môn sinh phạm lỗi. Bởi vậy, thoạt thấy vị này bước vào, lập tức cả lớp lấm lét, im phăng phắc.
Nhìn sắc diện ông, quả nhiên nghiêm mặt. Thu Trân phải ngầm đá vào chân Xuân Châu hai ba lượt, để nhắc chừng Xuân Châu đừng có "giỡn mặt" mà mang họa. Nhưng, không hiểu sao Xuân Châu cười hoài, nét cười đầy hóm hỉnh, trào lộng.
Giáo sư vốn cận thị nặng, mang cặp kính vừa dày vừa to.
Có lẽ Xuân Châu cho rằng ông này "cận" nặng quá cỡ như vậy, ắt mắt mũi lem hem, khó nhìn thấy các cử dộng của cô ta cũng nên.
Xuân Châu chẳng buồn lắng nghe giáo sư giảng bài, để lo trổ tài diễn trò chơi "ruột"; viết thư lén.
Hai chị em ngồi chung một bàn nên Thu Trân đã liếc thấy ngay việc làm "bất hợp pháp" của Xuân Châu, liền ngầm đá vào chân Xuân Châu một lần nữa.
Xuân Châu méo miệng nheo mắt ngó Thu Trân một cái, rồi cứ tiếp tục chơi như thường.
Viết xong mảnh giấy, Xuân Châu viên tròn lại, ném vù sang dẫy bàn nam sinh.
Nhưng... trò chơi phen này bị "tào" nặng: lúc hòn giấy ném đi, mấy nam sinh chưa kịp nhặt lấy thì đã bị giáo sư bắt gặp và tịch thu ngay.
Ông mở giấy ra xem. Đột nhiên ông tái hẳn sắc diện. Ông liền sải bước trở lên bục gỗ, cầm mảnh giấy giơ cao, lớn tiếng quát hỏi:
- Không người nào nói ra ai là chủ mảnh giấy nầy thì cả lớp đều bị phạt hết!
Xuân Châu lo sợ cuống cuồng, suýt bật khóc, vì xem chừng bất cứ bạn đồng học nào cũng có thể bất thần đứng dậy điểm mặt, tố cáo mình.
Thu Trân tuy không biết cô em đã viết những gì trên mảnh giấy quái ác kia, nhưng thấy tình trạng của Xuân Châu đáng thương quá, nên lòng tự ái ở người chị trỗi dậy và tự ý thức bổn phận phải bảo hộ em... Thu Trân không cần đo lường hậu quả sẽ ra sao, cũng quên hết sợ hãi, mà trước mắt chỉ có tình tỷ muội thủ túc, bèn mạnh dạn đứng lên, nói:
- Thưa thầy, mảnh giấy ấy là của em!
Cả lớp sửng sốt trố mắt ngó Thu Trân.
Xuân Châu hoàn toàn không ngờ, càng kinh ngạc hơn ai hết.
Vị giáo sư cười gằn, ra hiệu gọi Thu Trân lên bục gỗ, đưa ngay mảnh giấy, bảo hãy đọc lớn cho toàn lớp nghe.
Thu Trân không nhìn vào mảnh giấy, mà hướng về phía giáo sư, khổ não van cầu:
- Đồ mất dạy! Mau đọc to lên!
Sự sợ hãi đè nặng lớp học. Bầu không khí lặng trang, mọi người gần như không dám thở.
Thu Trân ràn rụa nước mắt, vừa nghe mặn chát cổ họng, nhưng không dám van xin nữa, phải đưa ánh mắt nhòa lệ nhìn vào những chữ nguệch ngoạc của em mình viết trên mảnh giấy và run run đọc.
- Trò tên gì? Mấy tuổi?
- Mười bốn tuổi? người ta cỡ tuổi trò, là đã đậu Sơ Trung hay ít ra, cũng đang học lớp tám, mà mới lẹt đẹt bò tới lớp sáu thế này. Đã ngu dốt, học hành chả ra gì, lại bày đặt ngỗ nghịch hư thân mất nết! Đồ bại hoại, không biết nhục!
Ông lớn tiếng mắng nhiếc một loạt, Thu Trân hổ thẹn đến đỏ bừng mặt mũi và toàn thân nóng ran, vừa run bần bật, như đang lên cơn sốt rét nặng.
Thuận tay, ông chụp cây thước bản, quật túi bụi vào lưng, vào chân Thu Trân và gầm thét.
o0o
- Chị hai!
Thu Trân tưởng mình chiêm bao. Suốt mười mấy năm trường, đây là lần thứ nhứt Thu Trân mới được nghe Xuân Châu gọi mình bằng "chị" và tỏ cử chỉ thân thiết thế này.
Thu Trân ngạc nhiên một sư ngạc nhiên đầy xúc dộng, một nỗi xúc động an ủi, thấm thía nghĩa tình.
Tất cả ê ẩm, đau đớn trên cơ thể, tất cả nhục nhằn, xót xa trong tâm hồn Thu Trân liền quên sạch, lại cảm thầy mình đang sung sướng, khoan khoái nhứt trần gian.
Thu Trân ôm chặt Xuân Châu, hiền hòa nở nụ cười, cười mà chan hòa nước mắt, cất giọng ôn hòa bảo:
- Xuân Châu, em đừng khóc, em đừng khóc, đừng lo gì hết, mau đứng dậy đi, thế nào thầy cũng tha cho chị mà.
Xuân Châu càng thêm thương tâm, khóc càng nhiều hơn, vừa nhè nhẹ rờ rẫm những vết tát tai còn hẳn đỏ trên hai má Thu Trân.
Chị em gục đầu vào nhau, lệ nóng đầm đìa, đôi quả tim nhịp chung một điệu gắn bó...
Kể từ ngày được Thu Trân đứng ra nhận "tội" chịu phạt thay cho mình, Xuân Châu biến đổi hoàn toàn: chẳng những hết sức khắng khít với Thu Trân: còn chăm chỉ, cố gắng học tập, trở thành một nữ sinh rất tốt.
Lúc nào Xuân Châu cũng quấn quít bên cạnh Thu Trân, hễ có món ngon vật lạ là nhứt định chờ Thu Trân cùng ăn. Gặp khi Thu Trân bị kế mẫu mắng chửi, hành hạ, thi Xuân Châu tận tình binh vực và đau xót cũng y như chính mình bị ngược đãi vậy. Bà mẹ dù tức giận đến gần chết đi được, song vì quá cưng yêu Xuân Châu, rốt cuộc đành phải nhượng bộ. Nhờ thế, Thu Trân đỡ khổ mấy phần. Cả đến những công việc bếp núc, giặt giũ trong nhà. Xuân Châu cũng luôn luôn trợ giúp cùng làm với Thu Trân, sẵn sàng giành lấy mà làm thay cho chị.
Kế mẫu Thu Trân vẫn vắng nhà đi đánh bài suốt ngày. Một buổi tối, bà ta thua hết tiền, về nhà sớm, hầm hầm đổ trút vào đầu Thu Trân tất cả thịnh nộ mặc dù Thu Trân chẳng có lỗi gì hết.
Bà ta đang hùng hổ đánh đập túi bụi, bất thần Xuân Châu nhẩy bổ vào che chở cho Thu Trân. Ngừng tay không kịp, bà ta lỡ đà quất trúng vào người Xuân Châu hai roi đích đáng.
Lần dầu tiên nếm mùi đòn vọt. Xuân Châu đau buốt thấu xương, rú lên thất thanh và khóc ngất.
Bà ta cũng la hoảng và vất ngay cây roi, ôm chầm lấy Xuân Châu, vuốt ve lia lịa, lộ vẻ khổ sở vô ngần.
Nhưng, thoắt cái bà đã quắc mắt nẩy lửa, nghiến răng ngó Thu Trân, cơ hồ muốn ăn tươi nuốt sống cô bé mới hả giận.
Trông sắc diện kế mẫu, trong cùng một thời gian mà có thể biểu hiện đúng mức hai trạng thái thương yêu và độc ác như vậy, tự dưng Thu Trân ngầm nẩy ý nghĩ ngộ nghĩnh: "Kế mẫu mà lên sân khấu, chắc sẽ là một kịch sĩ đặc sắc"...!
- Con quỉ chết bầm kia, mày đừng tưởng lợi dụng Xuân Châu binh vực được hoài mà lừng. Rồi tao sẽ xé xác mày ra cho mày biết. Mày có chịu cút ngay đi, hay còn đợi tao đập một trận nữa?
Xuân Châu vùng vẫy thoát khỏi bàn tay mẹ, vừa khóc vừa la:
- Má! Má muốn đánh chị hai con, thì đánh con chết trước đi!
- Xuân Châu con ăn nói gì kỳ cục vậy? Mấy lúc gần đây con cứ chống đối má hoài, là tại sao? Con... con biến đổi nhiều quá rồi!
- Con hỏi má, vì lẽ gì mà má cứ đánh chị hai con? Chị hai con làm chi nên tội?
Xuân Châu bỗng ngừng khóc, tiếng nói trở nên rắn rỏi, thái độ quật cường như con sơn dương khi chực húc người.
Vì lẽ gì cứ đánh Thu Trân? Làm sao bà trả lời cho trôi.
Xuân Châu nhìn mẹ chầm chập nói toạc ra:
- Có phải bữa nay má thua bài hết tiền, nên về nhà hành hạ chị hai con?
Bị vạch trúng tim đen, bà ta thẹn đỏ mặt đến nổi giận.
- Xuân Châu! Này... con... bộ con điên hả? Hùng hục về hùa với con quỉ bá vơ đó, hỗn láo chống lại mẹ ruột! Con có điên không?
Xuân Châu không ngán lại phản công:
- Chính má đã bức bách con điên thật rồi đây này. Từ rày mà má còn ngược đãi chị hai con nữa, là con nhứt định bỏ nhà con đi, rồi con nhảy xuống sông tự vận cho má coi!
Thu Trân cảm kích mãnh liệt, đến độ quên lửng đi nét đằng đằng sát khí của kế mẫu, nhảy a lại nắm tay Xuân Châu nghẹn ngào:
- Em... đừng... em đừng... như vậy.
Mọi khi, dù bị kế mẫu đánh đau cách mấy, Thu Trân vẫn cố cắn răng chịu đựng chớ không chảy một giọt lệ nào; nhưng giờ đây, lại chẳng dằn nổi cơn xúc động, nước mắt cứ tuôn trào và bật khóc nức nở.
Xuân Châu cũng òa lên khóc thật lớn.
Thím Trương nghe to tiếng, từ dưới bếp vội chạy lên. Chợt thấy chị em Thu Trân ôm nhau khắng khít, thím ngạc nhiên sững sờ, đứng ngây ra trố mắt nhìn. Đôi môi thím từ từ nhoẻn cười, vẻ mặt đầy hoan hỉ, mà lệ nóng đã đoanh tròng. Thím xoay qua kế mẫu Thu Trân, cất giọng thành khẩn.
- Bà chủ coi đó, thật là một hình ảnh đẹp! Năm nay cô hai, cô ba đều lớn khôn rồi, lại có học, nên đã biết yêu thương nhau, biết quí trọng tình chị em máu mủ. Tốt biết chừng nào! Từ rày bà chủ có thể yên tâm, chẳng những khỏi lo hai cô gây gổ nhau, mà còn vừa lòng về việc học hành của hai cô, chắc chắn sẽ càng tiến bộ hơn cho mà xem. Tôi nói, xin bà chủ đừng giận, dầu là người dưng đi nữa mà thấy cái cảnh này, ai cũng phải vui mừng.
Thím Trương càng nói, sắc diện kế mẫu Thu Trân càng khó coi: giận không xong, cười chẳng được.
Nhưng rồi bà ta vẫn hầm hầm điểm mặt Thu Trân bảo:
- Này, hãy liệu hồn, tao giao con Xuân Châu cho mày đấy, nó có bề nào thì tao lấy cái mạng của mày! Nghe chưa?
Dường như bà ta lo sợ sẽ có ngày Xuân Châu đâm đầu xuống sông tự tử thật.
Nhận thấy tình thế ở đây bất lợi, vì con gái cưng của mình đã đứng về "phe địch", lại đang có mặt thím Trương, bà vụt đứng phắt dậy, ngoe nguẩy bỏ vào buồng ngủ.
Thím Trương lấy ra hai chiếc khăn mặt cho chị em Thu Trân lau nước mắt. Thím ngó Xuân Châu, vừa đưa ngón tay cái lên, vừa cười khen:
- Cô ba! Bữa nay tôi phải nhìn nhận là cô ngon lành số dách. Cô đối với cô hai tốt lắm, đáng khen đáng phục lắm. Chắc cô cũng thừa hiểu, mặc dầu cô hai không phải do má cô sanh ra, nhưng hai chị em cô vẫn là ruột thịt thủ túc với nhau, vì cùng một huyết thống, chung một cha. Phen này ông chủ về, hay biết được chuyện hai chị em cô thương yêu nhau thân thiết như vầy, chắc sẽ cao hứng mà sống lâu thêm cả chục tuổi.
Xuân Châu cười thích chí, nhưng mắc cở, vội kéo Thu Trân chạy vô phòng tổ mẫu.
Trước kia Thu Trân ngủ chung với tổ mẫu, từ ngày tổ mẫu mất thì gian phòng này chỉ còn một mình Thu Trân ngủ.
Chừng nửa tháng qua, tối nào Xuân Châu cũng vào đây để học bài, làm bài chung với Thu Trân, rồi về buồng ngủ với má. Nhưng hôm nay, Xuân Châu đề nghị:
- Chị hai cho em ngủ chung với chị nhé!
Thu Trân khẽ khuyên:
- Không nên. Em làm vậy, má càng giận chị lại buồn em.
- Chị đừng lo. Đâu phải tại bữa nay cãi với má mà em tính ngủ ở đây, thật ra em đã muốn xin qua ngủ với chị từ lâu rồi...
Thấy Thu Trân chưa hiểu, Xuân Châu liền giải thích thêm:
- Hiện giờ em cũng đã lớn khôn rồi, cứ ngủ chung với má hoài chả nên. Mấy lúc ba đi vắng thì cũng còn được đi, nhưng những hôm ba ở nhà ba đâu có giường riêng, tự nhiên phải ngủ ở đó, hóa ra ba người một giường, chật chội, lại không tiện. Vì vậy, em muốn xin qua ngủ với chị luôn.
- Chị hiểu ý em rồi, nhưng... nếu ngay tối nay em qua đây ngủ, má có thể hiểu lầm. Tốt hơn, đợi khi ba về, em thưa rõ với má như thế, rồi sẽ tùy má quyết định...
Ngưng một chút, giọng Thu Trân trở nên tha thiết:
- Xuân Châu! Em hiểu cho chị, suốt mười bốn năm rồi, thân phận chị thiếu vắng hẳn tình mẹ, tâm hồn chị cô đơn, chị thèm khát tình thương biết chừng nào, nay được em ban cho nguồn thân ái, nồng nhiệt, thật là quý hóa vô vàn, chị cảm ơn em chẳng biết nói sao cho vừa. Chị còn cầu mong chị em mình được cận kề nhau từng phút từng giây chớ lẽ đâu đắn đo chuyện ngủ chung.
Nghe bấy nhiêu, nước mắt Xuân Châu rơi tầm tã, phải ngoảnh mặt sang một bên để che dấu đi.
Thu Trân vội kéo tay em, hỏi tại sao? Xuân Châu không trả lời, cứ thút thít khóc hoài.
Thu Trân chẳng biết an ủi em như thế nào hơn là cùng khóc theo. Hai chị em cứ ôm nhau mà khóc...
Hồi lâu, đột nhiên Xuân Châu thống thiết kêu hai tiếng "chị hai" rồi tức tưởi nói:
- Trong quá khứ, tâm hồn em cũng cô độc, trống rỗng. Em nào phải sinh ra để xem chị như cừu địch, hay để khinh bạc, chống đối chị, mà đó là do má uốn nắn nên cả. Xét kỹ ra, chẳng những má đã làm hại chị, đồng thời cũng làm hại em luôn. Sự phóng túng, sự nịch ái của má tạo cho em thành một kẻ ích kỷ, đố kỵ, ỷ lại, tàn nhẫn, hèn hạ... Trong quá khứ, đối với chị dù em tha hồ lấn hiếp, bạc đãi, nhưng kỳ thật thâm tâm em chẳng thỏa thích chút nào, vì luôn luôn cứ cảm thấy cô độc trống rỗng. Mãi đến mấy lúc gần đây, em mới biết được thế nào là hương vị vô giá của chân tình tỷ muội. Chị hai! chính chị đã ban cho em hương vị vô giá ấy, chính em phải cảm ơn chị mới đúng!
- Em đã tự trách hơi quá đáng rồi! Phải thành thật nhìn nhận, em đúng là con người có trí tuệ, đã biết phân định phải trái minh bạch. Chị lấy làm hãnh diện có được một em gái là hảo cô nương như em.
Xuân Châu vọt miệng thốt ngay, chẳng chút e dè:
- Nếu em được đúng như chị khen thì đó là nhờ ba chúng ta di truyền cho đức tính và lương tri. Em đã giống ba, giống chị.
Bằng vào lời lẽ ấy, hiển nhiên Xuân Châu mang ý oán hận mẹ ruột chẳng ít.
Thu Trân tuy như vậy, nhưng chỉ lặng thinh, không dám nói gì.
Xuân Châu lại tiếp:
- Con người ta khi chưa trải qua sự họa hay phúc, quyết không thể biết rõ mùi vị đắng cay hay ngọt bùi như thế nào. Chẳng hạn như em, nếu vừa rồi không bị hai roi của má, thì đâu đã hiểu cái mức đau khổ ra sao?... Chị hai! Nhớ lại trước kia, cứ mỗi lần chị bị đòn là em reo mừng, cười cợt, sao em thấy em tàn ác vô nhân tính quá. Em đã có tội nặng nề với chị, em không biết nên tự trách phạt cách nào mới vừa?
- Em! Chuyện đã qua, nên cho qua luôn, đừng nhắc tới!...
Thu Trân cố làm ra vẻ bình thường, gạt ngay lời Xuân Châu, nhưng vừa nói được bấy nhiêu, cổ họng đã nghèn nghẹn, phải gắng lắm mới tiếp nối được:
- Chỉ cần... điều quan trọng... là hiện tại chị em mình biết thương yêu nhau hết lòng... còn chuyện cũ, không nên...
Xuân Châu lại bật khóc, hỏi xen ngang:
- Chị hai! chị có hận em không?
Thu Trân ôm chầm lấy Xuân Châu, đáp qua tiếng nấc:
- Không! Chưa bao giờ chị hận em.
- Phải rồi! Em biết chị không bao giờ hận em... Bởi vì, nếu hận em thì chị đã chẳng thay em nhận tội chịu đòn điêu đứng trong lớp học hôm nọ. Chị hai! Em không ngờ có thứ tình thương vĩ đại như thế, chị đã sẵn sàng quên thân mình vì em! Trong khi má em thì lại... Trời ơi!...
Xuân Châu gục đầu nức nở.
Thu Trân lập tức khuyên:
- Em! Đã bảo bỏ chuyện đó đi! Chúng ta chỉ cần hết dạ trung thành với người, thì dù gặp phải bất cứ sự cừu oán nào cũng có thể hóa thành bạn... Má vốn chẳng có thù hận gì to tát đối với chị, chị tin má sẽ dần dần xét rõ ra mà thương chị.
Xuân Châu đưa tay quệt nước mắt trên má và trầm ngâm một lúc, bỗng hậm hực nói:
- Em nói thật, phải chi có ai đó cũng dùng roi, dùng gậy đập cho má một trận kịch liệt để bả biết trong lúc bả đánh chị là đã nhẫn tâm làm chị đau đớn đến bực nào...
Thu Trân lại mau mau ngắt lời và khuyên:
- Em đừng nói vậy. Cha mẹ dạy con, có quyền đánh đòn con, đó là lẽ thường xưa nay, phận làm con tuyệt đối không được ghi khắc thành mối hận trong lòng.
o0o
Được Xuân Châu hết lòng bênh vực, Thu Trân không đến đỗi bị kế mẫu bắt phải thôi học, mặc dù bà ta đã nhiều phen kiếm đủ cớ rắc rối.
Trong tình thương tỷ muội đậm đà, hai chị em Thu Trân học tập ngày càng tiến bộ, nên liên tiếp hai niên khóa liền đều được xếp vào hạng học sinh ưu tú, lên lớp dễ dàng.
Mùa thu năm ấy, chị em Thu Trân đang học lớp tám thì thời cuộc xảy ra một biến cố quan trọng. Theo lời giáo sư cho biết: ngày 13 tháng 8, binh đội quân phiệt Nhật bản tấn công Trung Hoa Dân Quốc, tức cuộc chiến Nhật Hoa đã nổ bùng.
Nghe tin thì nghe như vậy, nhưng Thu Trân chẳng có ý thức gì rõ rệt, vì đang ở lứa tuổi học trò, chưa từng hiểu biết bao nhiêu về quốc gia đại sự.
Huống chi, thuở ấy Đài Loan, nơi gia quyến Thu Trân sinh ngụ, vốn là thuộc địa của Nhật (từ năm 1895, Đài Loan thuộc Nhật, đến 1945, quân phiệt Nhật đầu hàng đồng minh và Đài Loan qui hoàn Trung Hoa Dân Quốc); lại cách xa đất liền nên chẳng bị ảnh hưởng trực tiếp của chiến tranh.
Chỉ thỉnh thoảng nhân nghe được lỏm bỏm vài ba lời, qua những cuộc luận đàm thế sự của một số giáo sư cùng nòi giống, Thu Trân cũng nao nao cảm thấy đau lòng, khi biết rằng tổ quốc mình đang lâm cơn khói lửa, điêu linh...
Chương 3
Mười bảy tuổi, Thu Trân tốt nghiệp Sơ Trung.
Vóc dáng phát triển đầy đặn, cơ thể nẩy nở kiều diễm và trí tuệ, tâm tình cũng tăng trưởng, kể chung Thu Trân đã "thành nhân chi mỹ", đã là một "đại cô nương".
Xuân Châu tuy kém một tuổi rưỡi nhưng thể chất nẩy nở sớm, cũng cao lớn suýt soát Thu Trân.
Cả hai đều xinh đẹp duyên dáng hơn người.
Càng lớn khôn, chị em càng thêm thân thiết gắn bó.
Có lẽ vì thấy Thu Trân không còn khờ dại gì nữa, nhất là lúc nào cũng có Xuân Châu bên cạnh nên kế mẫu đâm ra dễ dãi đôi phần và chẳng mấy khi giở đến trò gậy gộc đòn vọt như trước.
Song le, như thế chẳng phải là hảo ý, mà bên trong nụ cười của bà ta lại chứa đầy gươm đao. Bà ta đang rắp tâm cắt ngang đường học vấn của Thu Trân.
Mùa khai trường sắp đến. Trong khi chị em Thu Trân nôn nao, hí hửng chuẩn bị nhập học cấp Cao Trung thì, một hôm, nhân bữa cơm chiều, kế mẫu cố ý gợi chuyện, hỏi thân phụ Thu Trân:
- Gần đây người bạn thân của ông có liên lạc thư từ gì với ông không?
Thình lình bị hỏi, thân phụ Thu Trân không hiểu là vụ gì, phải hỏi lại:
- Bà muốn nói người bạn thân nào?
- Thì là vị bằng hữu sui gia của ông chớ còn ai nữa.
- À... anh Lương Minh Đăng! Hai năm nay chẳng được tin tức gì. Từ ngày xảy cuộc chiến tranh Trung Nhật, mọi sự đi lại thư từ đều gián đoạn.
Sáu năm trước, Thu Trân đã từng nghe đến danh tánh Lương Minh Đăng, nhưng không có cảm tưởng gì đặc biệt. Giờ đây, chợt nghe nhắc lại, không hiểu tại sao quả tim nàng đập loạn lên. Đồng thời đôi má nàng cũng tự dưng đỏ bừng.
Xuân Châu có vẻ nhớ ra ngay câu chuyện "chỉ phúc vi hôn" thuở nọ, liền ngó Thu Trân, nheo mắt mỉm cười.
Bà kế mẫu lại lên tiếng:
- Nhà họ Lương ấy đã tính định cư lâu dài tại Thượng Hải, bằng không thì mấy năm trước đã trở về Đài Loan rồi. Như thế, xem chừng người ta chẳng tha thiết gì đến vụ chỉ phúc vi hôn. Nay cuộc chiến Trung Nhật lại kéo dài không biết tới bao giờ mới kết thúc. Nếu cứ phải gián đoạn liên lạc, phải chờ đợi hàng chục năm nữa thì sao? Chẳng lẽ bắt con Thu Trân nhà này phải đóng vai Hòn Vọng Phu, trở thành gái già lỡ thời?
Lời lẽ của bà ta thật khôn khéo, khiến không ai lường được là hảo ý hay ác ý.
Thân phụ Thu Trân trầm ngâm chẳng nói gì.
Bà kế mẫu lại tiếp:
- Theo tôi thì "chỉ phúc vi hôn" là một lệ tục, không thể áp dụng ở thế kỷ hai mươi này được, bởi vì nó vừa vô lý vừa kém văn minh. Ai đời, chỉ căn cứ vào hai cái bụng chửa mà hứa hôn bừa. Lấy gì bảo đảm? Hai trẻ khi lớn lên, liệu có vừa ý nhau không? Ái chà!... đủ thứ vô lý. Chẳng hạn như hiện giờ, Thu Trân với cái cậu Lương Tường Phương gì đó, chẳng hề biết mặt mũi nhau ra sao cả chớ đừng nói là tư cách, tính tình. Hai bên xa cách hoàn toàn, không ai hiểu ai tí ti gì hết mà cứ coi như là vợ chồng, thật đáng tức cười. Huống chi, cậu Lương Tường Phương nay đã là chàng trai mười bảy tuổi, nếu đã chọn người yêu rồi và không thừa nhận Thu Trân là vị hôn thê nữa, thì sao? Hừ... ông làm cha mà định việc hôn nhân cho con gái một cách hồ đồ như vậy ư?
Bị vợ cho là hồ đồ ngay trước mặt con cái, thế mà thân phụ Thu Trân chẳng chút bất bình. Dường như ông tự cảm thấy cái tuổi năm mươi của mình có bổn phận phải nhịn nhục, càng nhiều càng tốt, đối với bà vợ mới ba mươi ngoài tuổi cho yên cửa yên nhà. Ông chỉ ôn tồn biện bạch:
- Hồi đó, tôi làm sao biết trước được là anh ấy dời nhà sang Thượng Hải? Nhưng mà... không hề chi. Dù sao anh Lương Minh Đăng cũng là một người bạn tốt, nhất định giữ chữ tín. Anh ấy vẫn giáo dục con cái rất nghiêm. Tôi tin anh ấy không khi nào quên vụ chỉ phúc vi hôn này, cũng không khi nào để cho cậu Phương tự ý chọn người yêu... Bà khéo lo thì thôi, tuổi con Thu Trân hãy còn nhỏ, dẫu có chờ đợi năm ba năm nữa sẽ thành hôn cũng đâu muộn.
Kế mẫu hất hàm, nghinh mặt:
- Tôi hỏi ông, lúc ông với người ta chỉ phúc vi hôn gì gì đó, ông có nhận được một chút tiền bạc, vật dụng nào của người ta, gọi là làm sính lễ không?
- Ồ! Cần gì vấn đề đó. Tôi với anh Minh Đăng đã là chỗ kết bái huynh đệ, chỉ một lời hứa với nhau cũng đủ rồi.
Kế mẫu cười lạt:
- Chiếu theo lời ông nói thì cuộc hôn nhân ấy chả có giá trị, không nghĩa lý gì hết. Đã không có người mai mối, giới thiệu, cũng không có sính lễ, tức chẳng một nghi thức nào ràng buộc, thật y như một trò đùa.
Thu Trân tuy không dám nói ra, song quả tình cũng cảm thấy việc hôn nhân trọng đại mà tính sơ sài như thế thật là bất ổn. Nàng chỉ tán thành phụ thân một điểm, là nàng hãy còn trẻ, dù năm ba năm nữa sẽ bàn tới việc hôn nhân cũng chẳng muộn. Đúng ra, nàng không hề nghĩ đến chuyện kết hôn gì cả, mà tâm nguyện của nàng là tiếp tục được học, tốt nghiệp cao trung, rồi lên đại học. Nàng muốn có sức học khá, để dễ tự lập, chớ không thích ỷ lại vào người khác.
Nãy giờ, thấy phụ mẫu kém hòa hợp về chuyện của mình, Thu Trân chẳng an tâm, nàng lựa lời góp ý:
- Thưa ba má, xin ba má đừng bận tâm tới vụ đó làm chi bởi vì hiện tại điều cần ích nhất cho con là học tập, còn chuyện gì khác, xin thủng thẳng sẽ bàn sau ạ.
- Sao lại thủng thẳng? Con gái đã mười bảy, mười tám tuổi rồi, đâu phải còn nhỏ. Xưa nay, hễ con trai lớn thì phải cưới vợ, con gái lớn phải lấy chồng, lẽ đương nhiên như vậy. Nếu có chỗ xứng đáng, đàng hoàng, thì cô nên ưng người ta phứt cho xong, còn hơn bám mãi vào nhà này, thêm nặng gánh, nghe chưa?
Nghe qua lời kế mẫu, Thu Trân không khỏi đau xót, buồn tủi, vì rõ ràng bà ta coi nàng là một kẻ ăn bám, chỉ muốn gả phứt đi cho rồi.
Nàng toan nói mấy tiếng phản kháng, nhưng không dám, đành nuốt nghẹn, cúi đầu lặng thinh.
Nhưng Xuân Châu lại lên tiếng:
- Má! Sao má nói vậy? Chị hai ở nhà này là lẽ tự nhiên, chớ sao gọi là gánh nặng?
Kế mẫu lạnh lùng:
- Hừ, con gái lớn rồi mà lúc nào cũng dàu dàu cái bản mặt như đưa ma. Như thế, không phải có bất mãn, ta thán vì không được ăn ngon, không được mặc đẹp dó sao? Ai mà lo cho nổi. Tốt hơn nên đi lấy chồng, có bên chồng nó lo cho.
Thu Trân làm gan mở miệng:
- Thưa má, có lẽ má đã hiểu oan cho con rồi. Con chẳng bao giờ mơ tưởng ăn ngon mặc đẹp chi hết. Con chỉ mong có sách vở học, là đủ lắm rồi.
- Nhưng con gái không cần học cao. Bổn phận của phụ nữ là săn sóc chồng, dạy con. Người con gái nào lớn lên cũng phải lấy chồng, sinh con, thử hỏi cứ lo đọc cho đầy bụng sách vở kinh luân để làm gì, có phải là uổng tiền ăn học không? Nói thật đấy, ngay như con Xuân Châu, vài ba năm nữa, cũng cần kiếm chỗ gả chồng như thường.
Xuân Châu nhún vai, lắc đầu:
- Khỏi có chuyện đó! Con cho má hay, nếu không lên tới đại học thì dù má có chặt đầu con, thì cũng đừng hòng bắt con lấy chồng.
Được Xuân Châu nói lên thay cho lời của chính mình muốn nói, Thu Trân lấy làm hả dạ. Nào ngờ kế mẫu chẳng lý gì đến Xuân Châu, mà quay sang thân phụ nàng, hí hửng kể:
- Sáng nay, bà Tư ở nhà bên cạnh có đến nói chuyện với tôi về con Thu Trân. Bà ấy làm mai một chỗ rất xứng đáng, đàng trai là một người Nhật rất giàu, đang làm chủ nhiều cửa tiệm lớn; lại có địa vị cao trong xã hội đương thời... vừa rồi, vợ ông ta bị tai nạn hàng không, chết tan xác, nên ông ta muốn tục huyền, để có người phụ lực trông nom sự nghiệp.
Phụ thân Thu Trân hỏi:
- Đã lớn tuổi chưa? Đời vợ trước còn để lại đứa con nào không?
- Ba mươi tám tuổi. Dường như chỉ có đứa con trai bốn tuổi. Con Thu Trân nhà mình mà lấy được người chồng Nhật như thế là vô cùng vinh hạnh, rất có lợi cho nhà mình.
Thu Trân không ngờ câu chuyện lại đi đến chiều hướng như thế này.
Kế mẫu quan niệm có một ông chồng ngoại nhân dường ấy là vinh hạnh. Nhưng Thu Trân lại cho là điều sỉ nhục.
Nàng cắn chặt răng, nén tức giận, cố lấy giọng bình tĩnh:
- Thưa má, con hy vọng học đến tốt nghiệp Cao Trung xong, sẽ tính vấn đề hôn nhân.
Kế mẫu quắc mắt:
- Cô chê người ta lớn tuổi chớ gì? Cô ghen với đời vợ trước của người ta, phải không?
Thu Trân uất ức đến run cả tay chân lẫn tiếng nói:
- Không! Con không... không hề có ý đó.
Thấy Thu Trân sắp khóc, phụ thân nàng không đành lòng, liền can thiệp:
- Thu Trân mới mười bảy tuổi, lại còn đang đi học, đã có kinh nghiệm gì mà tự dưng về nuôi con nhà người ta đã bốn, năm tuổi. Không tiện đâu. Chuyện ấy hãy gác lại, thủng thẳng sẽ bàn sau.
Kế mẫu giở giọng đanh đá ngay:
- Ông nói vậy mà nói được ư? Thế hồi đó, lúc ông lấy tôi thì sao? Tôi mới mười chín tuổi, ông lớn hơn tôi những mười sáu tuổi, mà ông cũng chả giàu có gì, thế sao tôi vẫn ưng về làm vợ ông, lo nuôi cả con ông cho tới ngày giờ này? Bây giờ tôi đã cậy cục tìm được cho con Thu Trân gặp chỗ xứng đáng dường ấy, sao ông lại ngăn cản? Bộ ông cho là tôi làm hại nó chăng?
Tình thương cha trỗi dậy, Thu Trân chẳng nhịn được, nghiêm trang ngó kế mẫu, nói bằng giọng cương quyết:
- Thưa má, được má quan hoài đến việc tương lai đời con, con rất cảm kích. Thật ra, con không chê người ta lớn tuổi hay gì gì hết, mà chỉ nghĩ hơi khác má một điểm, nói ra xin má bỏ qua cho, là con không thích có chồng ngoại nhân, thế thôi.
Như bị tạt vào mặt gáo nước lạnh, kế mẫu Thu Trân nổi hung, vỗ bàn đánh "rầm" một cái, khiến chén dĩa ngã nghiêng, vừa chồm lên, la ó:
- Người ta tu chín kiếp, cầu có chồng ngoại quốc, giàu có, cho sướng cái thân, còn không được. Còn mày, mày là cái thá gì mà bày đặt chê bai? Nói! Nói cho trôi, mày là cái thá gì mà chê người ta, hả?
Thân phụ Thu Trân giận tái mặt, chân tay run lẩy bẩy, nhưng hình như không muốn chuyện bất hòa thêm rùm beng, ông gắng gượng ôn tồn khuyên:
- Bà làm gì mà dữ vậy? Bề nào cũng đang bữa cơm, hãy ăn xong cho vui vẻ cái đã, rồi chuyện đâu còn có đó, sẽ bàn thêm sau, muộn màng gì!
- Không có cái gì phải bàn thêm nữa hết. Nó là con. Tôi đã khổ cực nuôi nó từ nhỏ tới lớn, tôi có quyền định đoạt việc dựng vợ gả chồng cho nó. Nếu nó cãi lời thì mau mau cút khỏi nhà này, đừng có ăn hột cơm nào của tôi nữa.
Thu Trân ứa nước mắt, vì cố nén nhịn uất hận. Nếu không kịp nghĩ thương cha già, nàng đã đứng phắt dậy, sẵn sàng cho kế mẫu biết là nàng chấp nhận thoát ly gia đình và nàng sẽ ra đi lập tức. Nàng sợ gì; cùng lắm thì nàng đến ở với bà cô như tổ mẫu nàng đã dặn dò lúc lâm chung, chớ có bơ vơ đâu. Tuy nhiên, bấy lâu này nàng không đủ can đảm làm thế, vì không muốn gây cảnh thương tâm trầm trọng cho thân phụ.
Xuân Châu chẳng kiên nhẫn được nữa:
- Má! Không phải con có ý chống đối má, nhưng... con nghe sao kỳ quá. Theo con nghĩ thì mỗi người có một ý thích, không thể cưỡng bách vô lý được. Nếu má thực tâm thương yêu, lo lắng cho chị hai con, thì má cũng nên để cho chị hai con được bày tỏ ý kiến với chớ? Trái lại, má cứ khăng khăng ép buộc, là tại sao? Má cho việc lấy chồng ngoại quốc là vinh dự, nhưng tụi con không nghĩ như má. Riêng con, xin nói thật, con cũng phản đối, một ngàn, một vạn lần phản đối!...
Bị Xuân Châu dồn cho một hồi, bà ta vừa giận vừa thẹn, cơ hồ phát run. Nhưng Xuân Châu quả nhiên lợi hại, chẳng đợi bà ta kịp phản ứng, đã bồi thêm một đòn đúng vào chỗ yếu của bà ta:
- Má! Má khỏi nổi nóng, con hiểu ý má rồi, má sợ chị em tụi con ăn hại, hết cơm hết gạo nhà này đi, phải không? Được rồi, không sao đâu, tụi con đã có cách cho vừa bụng má!... Chị hai, chúng ta đi thôi! Chúng ta xin vô công xưởng, làm thuê dù dở gì cũng không đến nỗi chết đói!
Vừa nói, Xuân Châu vừa đặt chén đũa xuống, nắm tay Thu Trân kéo đứng dậy.
Kế mẫu Thu Trân không còn đủ sức giận dữ nữa, mà tự dưng ôm mặt khóc ròng.
Phụ thân Thu Trân lộ vẻ khoan khoái. Nhưng ông ta vẫn muốn cho yên cửa yên nhà, bèn ngăn giữ Xuân Châu lại và giả bộ trách mắng.
- Xuân Châu! Mới mười mấy tuổi đầu mà con đã bắt chước ai, ăn nói vô lễ. Má của con chỉ nói thế chứ đã ép buộc gì chị hai con đâu, sao con lại phản đối lăng nhăng quá vậy? Có mau xin lỗi má con hay không hả?
Xuân Châu lãnh hội ngay dụng ý của thân phụ, liền tuân lời, đến bên thân mẫu, tuy xin lỗi nhưng vẫn còn câu thòng đe dọa:
- Má! Con đã có lỗi, xin má nguyên lượng cho. Có điều, từ này về sau, yêu cầu má để yên cho chị hai với con cùng đi học, đến tốt nghiệp Cao Trung; nếu không thì... bất cứ lúc nào tụi con cũng có thể rời khỏi nhà mà tự do liệu lấy.
Bà ta không nói năng gì, cứ khóc, chứng tỏ đã... chịu thua.
Cảm thấy thương hại, Thu Trân nảy ý gỡ thể diện phần nào cho bà ta, nàng bước đến xin lỗi.
Nào ngờ bà ta bỗng ngẩng phắt dậy, vung tay tận lực giáng cho Thu Trân một cái tát như sấm sét.
Đau đớn thì Thu Trân có thể chịu đựng nổi, nhưng sự buồn tủi lại dâng lên, khiến nàng không còn làm cách nào hơn là chạy vụt vào buồng, nằm vật xuống giường, úp mặt vào gối, khóc nức nở.
Không biết đã trải qua bao lâu, đột nhiên Xuân Châu đến ngồi ở mép giường, âu yếm vỗ vỗ vai Thu Trân:
- Chị hai! Đừng buồn! Gặp hoàn cảnh này, chị ráng nhẫn nhịn cho xong...
Thu Trân choàng dậy, ôm chầm lấy Xuân Châu, đầy cảm kích:
- Em! Chị không biết nói sao cho vừa với lòng tốt của em đối với chị. Em đã vì chị mà dám đắc tội với má thì chị dù có nhẫn nhịn một chút, nào đáng gì.
Tự dưng Xuân Châu cũng đầm đìa nước mắt, nghẹn ngào:
- Chỉ hận là em còn nhỏ tuổi, nếu khôn lớn hơn, em nhất định không thể chấp nhận cái lối sinh hoạt nghẹt thở ở trong cái nhà này. Tất cả đều do má gây nên. Má càng thiên vị, cưng chìu em mà ngược đãi chị, khiến em càng xấu hổ, khổ sở! Thật chả hiểu nổi, trong nhà này có đông đảo gì cho cam, má đâu có năm bảy người con mà cứ đem dạ hẹp hòi đối xử với chị, sao chẳng lấy tình thương tạo yên vui chung?
- Có lẽ do má với chị không hạp tuổi. Mà thôi em ạ! Miễn có em bên cạnh, một người em gái thiện lương, nhân từ bác ái, một tâm hồn vĩ đại... là vô vàn an ủi cho chị rồi.
- Chị hai đừng nói vậy. Sở dĩ ngày nay em tương đối biết đạo lý làm người là đều nhờ chị cả. Chính chị mới vĩ đại, đã cảm hóa em...
Xuân Châu bỗng đổi buồn làm vui, đưa tay xoa lên má Thu Trân, nhoẻn miệng cười:
- Mặc dù bữa nay chị bị bả tặng cho cái tát trời giáng, nhưng kể ra chúng ta đại thắng lợi. Cái vụ bả lập tâm bán đứng chị cho ông phú thương ngoại nhân, cầm bằng như hư bột hư đường mà vãn sớm rồi; không còn phải lo ngại gì nữa. Ngoài ra, từ nay chị có quyền yên chí lớn, sẽ tiếp tục lên Cao Trung, học với em như thường.
- Xuân Châu! Cho tới ngày giờ này chị vẫn còn được cấp sách đến trường và trong những tháng năm sắp tới, chị lại được tiếp nối cuộc đời một nữ sinh, đều nhờ ơn em.
- Nhưng ngày giờ này em trở nên một nữ sinh tốt, là hoàn toàn nhờ ơn chị.
Hai chị em cùng cười mà nhìn nhau, trong khi lệ nóng vẫn chan hoà.
Thu Trân và Xuân Châu lại tiến thêm một quãng nữa trên đường học vấn, vừa trải qua niên khóa thứ nhất cấp Cao Trung, tức học xong lớp mười.
Thành tích về mọi môn học Xuân Châu đều theo gần bằng chị, cuối năm Thu Trân đứng hạng năm còn Xuân Châu đứng hạng bảy.
Thu Trân rất mừng cho em và cực lực khuyến khích:
- Niên học tới, lên lớp Mười một, em gắng lên tí nữa, hy vọng sẽ vượt qua chị đấy. Ráng nhé!
Xuân Châu bật cười, thật chân thành:
- Trừ phi chị cố ý xao lãng học, còn thì, bất luận như thế nào, em cũng vô phương qua mặt chị nổi.
Nhằm lúc thím Trương bệnh, xin nghỉ việc, kế mẫu Thu Trân nhất định không chịu thuê người làm mới, mà dồn tất cả gia vụ vào Thu Trân, bắt nàng phải chu toàn mọi công việc lớn nhỏ trong nhà.
May là nhà chẳng đông người. Thu Trân lại cũng khôn lớn rồi nên liệu lý các việc đâu vào đấy, không đến nỗi cực nhọc thái quá.
Gặp dịp nghỉ hè, hằng ngày Thu Trân làm xong hết công tác nội trợ, vẫn còn dư thì giờ để đọc sách, ôn tập bài vở và thêu thùa may vá. Gia dĩ, lúc nào cũng có Xuân Châu trợ lực, công việc càng chóng tươm tất.
Kế mẫu vẫn đi đánh bài suốt ngày, thành thử không rảnh để làm khó dễ gì Thu Trân. Đúng ra thì tự Thu Trân cũng chẳng có sơ xuất gì cho bà ta kiếm chuyện được. Mỗi khi bà ta từ sòng bài về đến nhà, là Thu Trân dâng trà tận tay, dọn cơm tận miệng và cả đến nước nôi tắm rửa, nàng cũng lo sẵn. Như vậy, so ra còn hơn thuê đầy tớ nhiều, bà ta còn đòi chi hơn...
Chiều nay, thân phụ Thu Trân từ phố trở về nhà với dáng điệu vội vàng, đầy hoan hỉ.
Ông lấy trong túi ra một phong thư, đựng một bức thư khá dài và bốn tấm ảnh, tươi cười bảo:
- Thu Trân, con lại đây xem thử cậu thiếu niên trong ảnh này, có anh tuấn không nào?
Thu Trân ngơ ngác như con nai vàng. Đầu óc nàng không khỏi suy đoán, phải chăng "anh chàng" Tường Phương của nhà họ Lương từ Thượng Hải gởi ảnh tới?
Tự nhiên nàng nóng mặt, đỏ bừng đôi má, rồi không dám bước tới xem ảnh nữa.
Xuân Châu đã nhanh chân sấn lại, cầm lấy tấm ảnh, ngắm nghía một hồi, bỗng vỗ tay nhảy choi choi như con chim sẻ, hỏi:
- Ba, đây là ảnh của Tường Phương, anh rể của con, phải không ba?
Phụ thân nàng gật đầu. Nhiều năm nay, nàng nhận thấy đây có lẽ là lần ông cao hứng nhất. Ông cười như hoa nở:
- Phải rồi! Tiểu nha đầu, mau đem lại cho chị con coi đi!
Xuân Châu nhăn mặt nheo mắt ngó Thu Trân một cái, vừa cầm tấm ảnh mang qua, nhưng khi Thu Trân mới vừa chìa tay ra, chưa kịp tiếp lấy, thì Xuân Châu bất thần rụt lại và ngoẹo đầu, cười khanh khách:
- Chị hai! Không được vội... bồ! Úi chu choa! Trông ảnh mà còn thế này, nếu là con người thật thì phong lưu anh tuấn biết chừng nào. Đúng là một mỹ nam tử. Chị phải hứa đãi em một chầu kem thì em mới cho xem.
Thu Trân bị em làm cho lỡ bộ, còn trêu ghẹo thêm, đâm ra thẹn chín người, đến hai vành tai cũng bừng đỏ. Nàng không biết đối đáp ra sao cho xuôi, chỉ có nước nhìn em gái mà cười trừ.
Phụ thân nàng cũng cười rộ, vừa la Xuân Châu:
- Tiểu nha đầu! Giỡn gì mà giỡn lãng vậy nè! Có mau đưa ảnh cho chị con hay không? Rồi ba đãi ăn kem, mặc sức mà ăn.
Xuân Châu lại làm bộ bước chậm chậm một hồi, mới đặt bức ảnh vào tay Thu Trân. Nàng phải "làm gan" cầm ảnh lên xem.
Đây là ảnh bán thân một thiếu niên mặc âu phục, đầu hớt cao, mặt mũi khôi ngô, tề chỉnh, mi thanh mục tú, vừa phong lưu tiêu sái, vừa hiên ngang khí khái.
Nói cho công bình thì bất luận người con gái nào cũng mong có người chồng anh tuấn cả, cố nhiên tâm lý Thu Trân không vượt ngoài thông lệ ấy. Cho nên, khi xem bức ảnh này, nàng không khỏi ngấm ngầm vui mừng. Nàng không ngờ vị hôn phu do việc "chỉ phúc vi hôn" lại là một chàng trai khí độ bất phàm như thế này.
Tuy nhiên, theo với nỗi vui mừng nàng lại cảm thấy man mác hoài nghi, buồn buồn, vì chợt nghĩ:
- Một thiếu niên anh tuấn có học như chàng lại có thể dễ dàng tán thành cuộc hứa hôn mơ hồ, mù mờ của cha mẹ. Đành rằng phụ mẫu chàng phải giữ đúng lời giao kết, nhưng phần chàng, liệu có thực tâm tuân theo hôn ước chăng? Néu chàng chẳng tán thành hay chỉ miễn cưỡng tuân theo, thì sao? Chàng đang sống ở một dô thị hoa lệ như Thượng Hải, lại là một sinh viên tuấn tú, dễ gì chẳng giao du với ít nhiều bạn gái cùng lứa tuổi, thiếu chi người đẹp và sang giàu? Nếu chàng đã có người yêu thì sao?
Thu Trân mãi thầm tự vấn đến quên lửng đi Xuân Châu hiện diện bên cạnh, đang chú mục nhìn nàng, trong khi nàng cứ sững sờ ngắm bức ảnh.
Xuân Châu bật cười ha ha, gọi lớn:
- Ba ơi! Ba coi chị hai con xem xong vị như ý lang quân rồi đâm ra tương tư, không chịu rời mắt khỏi tấm ảnh.
Thu Trân như sực tỉnh cơn mộng, hấp tấp đặt bức ảnh lên mặt bàn và nguýt Xuân Châu một cái để chữa thẹn.
Ngay lúc ấy, thình lình bà kế mẫu xuất hiện, hỏi:
- Chuyện gì mà Xuân Châu cười thích thú quá vậy?
Xuân Châu vốn ngay thẳng thật tình, liền lấy bức ảnh đưa cho bà ta và tươi cười khoe:
- Má! Đây là anh Lương Tường Phương, vị hôn phu của chị hai con, má xem, thật đẹp trai, có vẻ người lớn ghê chưa?
Bà ta coi ảnh một hồi, sắc diện dửng dưng chợt quay sang ông chồng, cất giọng lạnh lùng:
- Cái này là gì? Hình của ai vậy?
- Hôm nay tôi ra văn phòng công ty, nhận được thư của anh Minh Đăng từ Thượng Hải gởi đến, trong thư có kèm theo bốn tấm ảnh, chụp một kiểu, tức là ảnh này. Anh Minh Đăng cho biết đây là con trai anh ấy, cậu Lương Tường Phương năm vừa rồi đã tốt nghiệp Cao Trung, đang theo Đại Học Luật, năm thứ nhất. Anh Minh Đăng ngỏ ý muốn tôi cũng gởi ảnh của con Thu Trân đến cho anh ấy và gia đình biết mặt nhất là để đôi trẻ nhận thức diện mục nhau. Sau đó, sẽ cho phép hai đứa nó thường xuyên liên lạc thư từ, đặng tìm hiểu tánh ý nhau, xây dựng tình cảm dần dần.
Nói tới đây, ông càng rạng rỡ nét mặt, bật cười ha hả một loạt, lại tiếp:
- Tôi đã biết chắc mà, ai chớ anh Minh Đăng thì tín nghĩa chắc nịch, đã hứa cái gì là nhất định giữ lời. Anh ấy làm việc đều có phương pháp kế hoạch chu đáo, cứ từng bước, từng bước tiến hành không thất bại bao giờ!
Thu Trân xem chừng kế mẫu càng lúc càng lộ nét bất bình. Bà ta chỉ cười lạt chớ chẳng thèm nói một tiếng.
Phụ thân nàng đang cao hứng, không buồn để ý đến nét bất bình của bà ta, cứ thao thao:
- Về cái vụ người thương gia ngoại quốc cầu hôn Thu Trân năm ngoái, may là Xuân Châu ngăn cản được, nếu không thì không biết bây giờ tôi lấy lời lẽ nào mà giải thích cho trôi với anh Minh Đăng.
- Hả? Ông nói cái gì? Bộ ông cho rằng cái vụ hứa hôn kẻ chân trời người góc biển này là chắc chắn lắm sao? Hừ, nếu thực tâm giữ lời, sao người ta không thân hành đến đây, mà cứ mãi ngàn trùng đâu đâu, cả chục năm mới gởi một lá thư? Còn vị phú thương Nhật ấy, ai mà cần cưới con gái cưng của ông? Người ta đã có vợ khác rồi, vừa trẻ đẹp, hiền thục vừa giàu có. Ha ha... bộ muốn làm một bà chủ dễ lắm sao? Đi lạy người ta chưa chắc đã được.
Bầu không khí vui vẻ đang tràn đầy trong nhà bỗng trở nên u ám, nghẹt thở vì lời lẽ của bà ta.
Ánh mắt thân phụ Thu Trân long lên. Nhưng ông kịp nén cơn giận, cho đúng truyền thống "vui cửa vui nhà", nên chẳng nói gì hết, mà cứ rít liên tiếp hết hơi thuốc này tới hơi thuốc khác, nhả khói mù mịt.
Xuân Châu bực tức ra mặt, toan lên tiếng. Thu Trân vội láy mắt ra hiệu khuyên ngăn. Xuân châu không nói được, phải cắn chặt vành môi và mắt rơm rớm lệ.
May thay giữa cơn căng thẳng ấy, chợt có một bà hàng xóm đến rủ kế mẫu Thu Trân đi gầy sòng.
Nghe nói tới đánh bài, bà ta tươi rói ngay sắc diện và hăng hái đi liền.
Đợi bà vợ trẻ đi khuất dạng rồi thân phụ Thu Trân vung tay ném mạnh mẩu tàn thuốc, thở dài, dàu dàu:
- Không biết trái tim của bả bằng đá hay gỗ?
Xuân Châu lắc đầu, giọng chán nản:
- Chắc là bằng đất sét! Thật không tưởng tượng nổi!... Nếu không có bà khách kêu má đi đánh bài, chắc phen này thế nào má cũng đánh con vì hồi nãy, con nhịn hết kham, suýt tí nữa là đã nói hỗn rồi.
- Xuân Châu! Con thì nhân từ, lương ái, còn má con thì hẹp lượng, khắc nghiệt, ba thật không ngờ người đàn bà như thế lại sinh ra đứa con gái như con.
- Bởi vì con là con gái của ba!
Xuân Châu quả là một thiếu nữ thẳng thắn, hồn nhiên, đang buồn bỗng nhớ đến một chuyện, liền tười cười liến thoắng:
- Ba! Thôi đừng nhắc tới chuyện chán như cơm nguội đó nữa. Bây giờ tía con mình bàn về vụ chụp hình chị hai con, để gởi cho bác Đăng...
- Để ba viết thư hồi đáp, lấy mấy tấm ảnh của Thu Trân gởi kèm theo. Đơn giản như thế thôi có gì mà phải bàn tính?
- Ơ! Ba thiệt là lẩm cẩm! Hai năm nay chị hai con đâu có chụp hình, chẳng lẽ ba lấy hình cũ ba bốn năm trước mà gởi cho người ta? Chị hai con hiện giờ cao lớn như vậy, xinh đẹp như vậy, ba lại nhè lấy hình cũ gởi đi, không khéo người ta tưởng là một tiểu nha đầu nào, thì "kẹt" quá. Anh rể của con sẽ... khóc ròng đấy.
Ngẫu nhiên Xuân Châu đã nói trúng phóc tâm trạng Thu Trân. Vì mắc cở, Thu Trân không tiện đưa ý kiến, chớ thật ra nàng vốn đang băn khoăn điều đó, chẳng lẽ gởi ảnh cũ mấy năm trước cho vị hôn phu, coi "kỳ" quá.
Được Xuân Châu đề nghị hộ như thế, nàng vừa khoan khoái, vừa cảm động, nhưng chẳng biết nói sao cho ổn, chỉ đưa mắt hàm ý biết ơn nhìn em gái.
Phụ thân nàng kêu "ủa" một tiếng:
- Đúng! Có con tiểu nha đầu này nhắc, ba mới nhớ. Hay lắm! Bây giờ hai con mau vào thay đổi y phục, nhất là Thu Trân, hãy trang điểm cho đàng hoàng, rồi ba dẫn đi chụp hình ngay.
Thu Trân vô cùng hứng khởi, vì đã lâu lắm rồi, mới được cùng đi với ba ra phố. Nàng vội kéo tay Xuân Châu:
- Đi, em! Em phải theo "hộ tống" chị chứ!
Xuân Châu bỗng lắc đầu:
- Em khỏi cần đi. Em phải ở nhà, coi chừng nhà chứ.
Người cha già nua như bừng trẻ hẳn lại:
- Ấy! Xuân Châu cũng phải đi mới được. Ba phải cho chụp sẵn hình con, để mai kia mốt nọ có ai cầu hôn con, ba sẽ có hình mà dùng liền chứ. Nhà khỏi coi chừng cứ khóa cửa lại là xong.
Xuân Châu đi theo chị, vừa ửng hồng sắc diện quay lại nũng nịu:
- Con hỏng chụp hình đâu. Con hỏng thích nghe ai nói tới chuyện cầu hôn đâu!
- Cái gì cũng không chịu hết, nhưng chắc chắn là chịu ăn kem! Ban nãy con đã chẳng đòi Thu Trân đãi con một chầu kem là gì? Được rồi, hãy cùng đi, chụp hình xong, ba sẽ mời hai con đi ăn kem, rồi đi xem xi nê luôn. Chịu chứ?
- Ha ha! Hoan nghênh bốn tay! Vạn tuế ba!
Xuân Châu vỗ tay reo hò và kéo Thu Trân vào buồng thật nhanh.
Thân phụ Thu Trân bỗng gọi:
- Thu Trân! Con lấy tấm ảnh của Tường Phương mà cất giữ đi chứ!
Thu Trân còn đang ngập ngừng e thẹn thì Xuân Châu đã chạy trở lại bàn, lấy bức ảnh, dúi vào tận tay chị, rồi lại đưa nhau về buồng thay đổi y trang...
Chương 4
Thời tiết đã dịu mát dần. Mùa nghỉ hè sắp dứt, chỉ còn không đầy một tuần nữa là tựu trường.
Thế nhưng, bức ảnh Thu Trân đã gởi đi hơn hai tháng rồi, mà chẳng có tin tức gì, vẫn chưa thấy thư hồi âm của Lương Tường Phương.
Trưa nay, sau khi sắp soạn giấy bút, chị em Thu Trân, Xuân Châu cùng ngồi trong phòng xem lại một số bài vở.
Dù đã vào tiết sơ thu, nhưng ve sầu vẫn còn kêu rỉ rả ngoài vườn, khiến người đang có tâm sự như Thu Trân càng não lòng.
Đôi mắt tuy có vẻ chăm chú nhìn vào trong sách, song thật ra nàng chẳng đọc được chữ nào...
Xuân Châu bỗng ngẩng lên, ngó Thu Trân:
- Chị hai! Nghe em nói này! Chị đừng thở vắn than dài nữa nhé!
Thu Trân vội phủ nhận:
- Chị đâu có thở dài hồi nào!
- Em nghe rõ ràng chị mới vừa thở dài thườn thượt đấy mà bảo là không!
Ngừng một chút, Xuân Châu lại tiếp, giọng đầy quan thiết, dỗ dành:
- Chị hai, chị nên phấn khởi, tươi vui lên! Theo em nghĩ, thì anh Tường Phương sở dĩ chậm gởi thư hồi âm, không phải vì không tán thành cuộc hôn nhân mà hẳn là có nguyên nhân bất khả kháng. Chị cũng hiểu giữa thời buổi chiến loạn hiện nay, đường giao thông trở ngại, cố nhiên thư từ, bưu kiện bị nghẽn đọng, chậm trễ, do đó có khi anh Tường Phương đã gởi thư cho chị từ lâu rồi, mà thư chưa tới đấy thôi.
Thu Trân chỉ gật đầu chớ không nói gì.
Xuân Châu an ủi, khích lệ thêm.
- Chẳng những Trung Nhật dấy động can qua, mà khắp Châu Á cũng lâm chiến và cả Châu âu càng rối ren binh lửa. Giữa thời loạn này, nếu còn may mắn được yên ổn mà học tập thì điều quan trọng nhất của giới trẻ chúng ta là gắng sức học, nên cố gác mọi sự chi phối khác qua một bên, để nhất tâm lo đèn sách. Em tin tưởng ở tinh thần quật cường của chị, sẽ không vì lẽ gì mà tiêu cực trong việc học hành.
- Lời em rất đúng, chị hoàn toàn tán thành. Trẻ tuổi như em mà đã có trình độ nhận thức như vậy, thật đáng bội phục. Em đừng lo, về "chuyện ấy". Bất quá chị chỉ nghĩ phớt qua rồi thôi, chứ không bận tâm lắm đâu.
- Chị nói vậy chớ cả tháng nay thần thái chị sa sút thấy rõ, lúc nào chị cũng trầm ngâm, tư lự, em biết mà!
Xuân Châu bỗng tròn mắt nhìn Thu Trân và bật cười, cố tạo không khí vui vẻ:
- Giả sử anh Tường Phương không gởi thư cho chị luôn thì, ha ha... niên học sắp tới này nhất định em sẽ vượt qua mặt chị cho mà xem. Coi chừng đấy nha... bồ tèo!
Lời nói đùa ngẫu nhiên của em gái lại có tác dụng như tiếng chuông đánh thức Thu Trân, khiến nàng không khỏi ngấm ngầm tự thẹn. Quả nhiên nàng đã lao chao tinh thần cả tháng nay vì vấn đề tình ái. Nàng cũng tự hiểu, như thế là không nên, là có vẻ như vô lý nữa, vì giữa nàng với Tường Phương, thực ra, đã có gì cụ thể đâu? Tuy nhiên, lý thì nói vậy, chứ về tình, nàng không thể phủ nhận là mình đã yêu chàng. Chưa giáp mặt trực tiếp bao giờ, chưa nói thẳng với nhau một lời nào, mà đã yêu, tại sao? Nàng cũng không biết tại sao nữa!
Nàng từng đọc của một nhà văn nào đó, viết rằng: "Tình yêu là tình yêu. Đừng hỏi tại sao. Yêu là yêu, không tại sao cả". Đến bây giờ nàng mới thấy thấm thía. Quả đúng như thế và nàng không thể cưỡng lại con tim mình!
Có điều, nàng đã quá phiền não về "chuyện ấy", có thể ảnh hưởng không tốt đến việc học vấn, Xuân Châu đã nhắc nhở không sai. Nàng liền cố rạng tươi nét mặt và cười lớn.
- Được rồi, chúng ta thi đua nhé, chị hy vọng em sẽ học vượt qua mặt chị, nhưng phải là vượt qua một cách oanh liệt, chớ không phải vì chị học thụt lùi. Mà chị nhất định sẽ không thụt lùi. Em muốn thắng chẳng dễ dàng đâu!
- Vậy thì ngoéo tay đi!
Hai chị em cùng cười.
Thu Trân thu gọn lại sách vở, định xuống bếp, thình lình ngoài cổng vọng vào những tiếng chuông xe đạp: "kính koong! Kính koong!..."
- A! Người phát thư!
Xuân Châu la toáng lên và tông cửa, ba chân bốn cẳng chạy ào ra.
Thu Trân nghe tim đập thình thịch. Nàng bừng lóe hy vọng, những muốn chạy vội theo em. Nhưng tự dưng ửng hồng đôi má, chẳng những mắc cở không dám tiếng ra cổng mà nàng lại rảo bước đi xuống nhà bếp, vừa lẩm bẩm viện lý do, để tự dối mình:
- Hổm rày bác phát thư đã ghé năm lần bảy lượt rồi chớ có mới lạ gì mà Xuân Châu mừng dữ vậy kìa. Hôm nay, chắc ba lại có thư nữa...
Vào tới bếp, nàng đang loay hoay sửa soạn vo gạo. Bất ngờ Xuân Châu vừa chạy vô, vừa múa tay lung tung và reo hò:
- Chị hai! Chị hai ơi! Có thư rồi! Có thư của anh Tường Phương!
Thu Trân mừng cuống, song ráng làm tỉnh:
- Nói gạt hoài! Chị không tin!
- Đây nè! Ai nói gạt chị làm chi. Ha ha! Em đã bảo sao là đúng vậy, anh Tường Phương nhất định phải gởi thư cho chị mà!
Xuân Châu áp phong thư vào ngực Thu Trân, vừa kéo tay chị lên, thúc hối:
- Lẹ lẹ mở ra coi đi chị hai, em sốt ruột quá rồi.
Thu Trân cầm lấy phong thư, cố giữ cho tay đừng run và gắng tỏ vẻ chậm rãi, đưa thư ra trước mắt, xem ngay góc trên phong bì, quả nhiên người gởi là Lương Tường Phương.
Nàng nghe rộn lên trong lòng một cảm giác ngất ngây.
Xuân Châu lại giục:
- Trời ơi! Mau mở ra coi liền đi! Coi lẹ đi, để em vo gạo cho!
- Gấp gì, hãy để chị vo gạo bắc nồi cơm lên rồi sẽ xem.
- Trời đất! Gan dữ vậy a? Chị còn cà rịch cà tàng là em la làng lên bây giờ. Xem ngay đi!
- Má sắp tan sòng. Má về, thấy em nấu cơm thì chị bị mắng...
- Ăn nhằm gì. Chị cứ việc đọc thư đi. Muốn chắc ăn thì chị ngồi kế bên bếp lửa mà xem thư, để mặc em canh chừng nồi cơm, em chả coi lén đâu. Nào, có chịu nghe lời mở thư ra xem hay không thì bảo?
Xuân Châu kéo chị lại gần bếp và giả vờ phùng mang trợn mắt đe dọa cưỡng bách.
Thu Trân bật cười:
- Được rồi, "cung kính bất như phụng mạng" xin xem ngay đây.
Nàng xé phong bì, rút bức thư ra, nhận thấy một xấp giấy khá dày, có đến bốn năm tờ, được xếp thẳng thớm, chỉnh tề.
Chẳng còn đè nén được nữa, tay nàng phát run. Đây là lần đầu tiên trong đời, nàng tiếp đọc bức thư của một chàng trai, mà lại là chàng trai sẽ trở thành chồng nàng trong tương lai.
Hồi hộp quá, nàng nhắm mắt lại, hít vào một hơi dài và thở ra thật chậm rãi, để an định tâm thần.
Thấy vậy, Xuân Châu cười khúc khích.
- Sao đó? Bộ trước khi xem thư của "chàng" chị phải cầu đảo thiên địa ư?
Thu Trân nguýt mắt, nạt em một tiếng, Xuân Châu lại cười hì hì...
Bức thư quả nhiên rất dài. Thu Trân muốn đọc thật kỹ, từng chữ một, nhưng ánh mắt cứ liếc thật nhanh, để rồi chẳng nhớ mình đã đọc những gì.
Ngồi trong bếp, đọc thư của vị hôn phu, Thu Trân nghe một thi vị đặc biệt. Dù không nhớ rõ thư viết những gì, nhưng nàng biết chắc là chữ chàng rất đẹp, khoáng đạt ngang tàng và chàng hành văn rất lưu loát, mà chân thành, chan chứa tình ý ngọt ngào...
Ngay lúc ấy, bỗng có chuông reo gọi cửa.
Thu Trân buột miệng:
- Má về đấy.
Nàng hấp tấp cho thư vào phong bì và cất nhanh vô túi, Xuân Châu mau mắn:
- Để em ra mở cửa.
Thu Trân lập tức bắt tay vào việc thái thịt, xắt cải.
Chẳng bao lâu Xuân Châu trở vô, cười dài:
- Bữa nay má tươi rói mặt mày, dòm qua là biết ngay má được bạc, chắc khá lắm. Em hỏi xin tiền "lì xì" má cho liền, lại còn thưởng chị một phần nữa. Ngon lành chưa? Không chừng mặt trời sắp mọc về hướng tây cũng nên. Hi hữu! hi hữu!
- Suỵt!... Em đừng nói lớn quá, má nghe thấy thì nguy đấy!
Suốt mười tám năm trường, Thu Trân mới được kế mẫu cho tiền lần thứ nhất. Bấy lâu nay, mọi khoản chi dụng quà bánh, linh tinh, đều do phụ thân nàng cho riêng một cách dấu lén, hoặc được Xuân Châu chia xẻ, chớ kế mẫu chưa hề ban phát nàng một đồng nào cả. Giờ đây, bỗng nhiên được hưởng cái ân huệ ngoài sức tưởng tượng này, Thu Trân cao hứng quá, đâm ra nghĩ ngợi vẩn vơ: "Đây có lẽ nhờ cái may mắn từ bức thư của Tường Phương xui khiến"... Nghĩ vậy, nàng càng thêm cao hứng thập phần, tự dưng ôm chầm lấy Xuân Châu mà hôn lia lịa:
- Oái! Chị đừng tưởng em là... tác giả bức thư chứ!
- Đồ quỉ! Nói ẩu hoài! Người ta cao hứng vì được má thưởng tiền, chớ bộ...
- Chị che mắt ai chớ khỏi che mắt em đi! Em dư biết tại sao chị cao hứng rồi! Tại vì...
Thu Trân vội bụm miệng em, nói lảng sang chuyện khác:
- Ý chết! Mãi lo giỡn không lo nấu nướng gì hết. Nào, lại đây xắt cải giúp chị đi.
Trong lúc xắt cải, Xuân Châu khe khẽ đưa ý kiến:
- Chị hai, theo em nghĩ thì mình không nên cho má biết vụ bức thư của anh Tường Phương làm gì. Đợi vài ngày nữa, ba về, chỉ nói riêng với ba thôi, đặng ba mừng. Nhưng, bất luận lúc nào có mặt má, chị cũng đừng để lộ vẻ khác thường đồng thời nhớ dặn ba, chớ có cao hứng nói má nghe. Bởi vì, bụng má vốn hẹp hòi kỳ cục, hễ biết chuyện là đố kỵ chịu không nổi đấy.
Thu Trân vừa cảm kích sự chu đáo của em, vừa nghe dâng lên niềm mỉa mai chua xót trong lòng. Nàng liên tưởng đến thân phận của đứa con mồ côi mẹ. Nếu còn má ruột thì gặp trường hợp hoan hỉ này, nàng có quyền đem khoe với má ngay, chớ việc gì phải sợ sệt, che giấu? Có khi nào người làm mẹ lại đi đố kỵ với hạnh phúc của con gái mình?
Nàng siết chặt tay Xuân Châu đẻ tỏ dạ cảm tạ, nhưng vẫn không nén được chuỗi thở dài.
Xuân Châu hồn nhiên:
- Chả có gì phải lo ra. Kể từ hôm nay, coi như hạnh phúc đã mỗi ngày một tiến gần lại chị rồi đấy. Chỉ cần, trong tương lai, khi sống cuộc đời cam mật, an vui, xin chị đừng quên em là được.
- Dù ở hoàn cảnh nào, vĩnh viễn chị không thể quên được đứa em yêu quí nhất của chị. Còn sống trên đời một ngày, là chị còn cố gắng báo đáp lòng tốt vĩ đại mà em đã dành cho chị hôm nay.
- Chị nói vậy là coi em như người dưng rồi. Chị em ruột thịt chúng ta với nhau, đương nhiên phải có bổn phận, chăm sóc, chiếu cố lẫn nhau vô điều kiện. Đã là tình cốt nhục, là bổn phận, thì đâu thể có chuyện báo đáp? A ha! Chị hai của em bữa nay mãi tập trung hết tâm trí vào bức thư kia nên đâm ra... nói lộn rồi! Đáng bị phạt cái gì đây?
Thu Trân biện bạch:
- Ý chị muốn nói là cầu mong trong tương lai nếu chị được hạnh phúc, thì em cũng hạnh phúc, hoặc ngược lại, hễ em sung sướng chị cũng sung sướng, chị em mình tuy hai mà như một.
Xuân Châu nhìn chị gật gù mỉm cười. Bỗng nhiên Xuân Châu trầm mặc, không nói, dường như đang có ý nghĩ gì.
Thu Trân cũng không nói thêm, mà lanh tay lo nấu nướng, hoàn tất bữa ăn chiều.
Tối đến, cơm nước, dọn rửa chén bát xong, Thu Trân ngồi dưới đèn tại bàn học trong phòng riêng.
Ngoài cửa sổ, gió thu mát rượi thổi không ngừng.
Tối nay Thu Trân cảm thấy thơ thới, dễ chịu vô cùng, như mọc cánh, lâng lâng bay lên cõi tiên. Trong cảnh trạng này mà bình tĩnh từ từ đọc từng dòng thư hoa gấm của vị hôn phu mới gởi đến thì quả là một thi vị ngọt ngào, tuyệt diệu nhất cho cuộc đời người con gái chớm biết yêu.
Bây giờ, nàng có thể xem kỹ từng chữ, từng câu. Đọc xong một đoạn, nàng lại nhìn ngắm bức ảnh của chàng lộng dưới tấm kính mặt bàn và tưởng chừng như đang cùng chàng trò chuyện vậy.
Bức thư dài đến gần năm trang giấy mà nàng xem đi xem lại những bốn lượt, vẫn còn muốn xem nữa. Cơ hồ nàng đã thuộc lòng gần trọn bức thư.
Nàng bừng khởi hứng thú, muốn viết thư hồi đáp chàng ngay.
Giờ này mà viết thư thì đúng là thời khắc lý tưởng.
Thế nhưng, ngồi hàng nửa giờ trước trang giấy trinh nguyên, nàng vẫn chưa bắt đầu được chữ nào mặc dù trong tâm trí nàng đang có vô số những ngôn từ, ý tứ muốn bày tỏ.
Viết thư không phải là việc mới lạ, khó khăn đối với nàng. Tuy nhiên, viết... thư tình thì nàng chưa từng biết. Đây chẳng là thư tình, còn là gì? Sao mà nàng thấy... gian nan rắc rối quá!
Đắn đo tới lui mãi, nàng chọn một lối thoát:
- Tốt hơn hết, mình nên căn cứ vào cách trong thư anh ấy mà phúc đáp, cho dễ...
Và nàng hạ bút:
[i]
"Tường Phương mến,
Thu Trân xin dùng lối xưng hô thẳng bằng danh tánh với nhau, để tránh khách sáo và cũng đúng theo ý Tường Phương đã muốn, nhé.
Đọc thư của Tường Phương, điều khiến Thu Trân cảm động nhất là sự chân thành, thẳng thắn.
Đúng vậy, Tường Phương đã rất thành thật khi cho biết rằng buổi đầu hoàn toàn ngỡ ngàng, bất mãn về cuộc đính ước hôn nhân của chúng ta, chớ chẳng có mỹ cảm gì với Thu Trân hết.
Đó là sự thật. Chính Thu Trân cũng thế.
Dạo nọ, thoạt nghe ba Thu Trân cho hay vụ "chỉ phúc vi hôn". Thu Trân chẳng nói ra song không khỏi ngấm ngầm phản đối, vì lẽ nó có vẻ mù mờ, vô lý quá. Giới tuổi trẻ chúng ta, lại có đôi phần học vấn, ở thế kỷ hai mươi này, chắc ai cũng cho đó là hủ tục, không thể dễ dàng chấp nhận, phải thế không?
Tuy nhiên, theo Tường Phương cho biết thì... lúc nhận được ảnh của Thu Trân, vừa xem qua, tự nhiên Tường Phương cảm thấy ngây ngất và nghe xao xuyến tận đáy lòng, rồi Tường Phương không tài nào quên Thu Trân được nữa. Tường Phương đã tạm gọi trạng thái cách cảm giao ái như thế là một loại "tiếng sét ái tình" kỳ diệu. Và Tường Phương chẳng những không còn mảy may phiền trách nhị vị thân phụ chúng ta về cái hủ tục chỉ phúc vi hôn, lạ đâm ra biết ơn vì đã nhờ đó mà chúng ta mới có được người yêu như ý ngày nay.
Tới đây, thêm lần nữa Thu Trân lại xin thú thật, cũng đã cùng trường hợp với Tường Phương. Vâng, tâm tình Thu Trân chẳng khác Tường Phương chút nào, từ phút giây đầu tiên nhìn thấy Tường Phương qua bức ảnh, bỗng dưng Thu Trân có cảm tưởng như cuộc đời chúng mình đã được buột chặt, gắn liền vào nhau tự bao giờ rồi. Kỳ diệu thật! Nói thành thật, là Thu Trân đã yêu...
Tường Phương ơi!
Như thế, xét ra, chúng ta có phải là hạng người quá tùy thuộc diện mạo, vóc dáng bề ngoài chăng?
Thu Trân tự gẫm không đến nỗi vậy và càng tin rằng Tường Phương cũng vậy. Bởi vì thẳng thắn mà nói mặc dù Thu Trân cũng khả dĩ gọi là "không xấu", nhưng đâu phải trong thực tế ngoài đời Tường Phương chẳng từng quen biết bạn gái còn đẹp hơn Thu Trân nhiều, phải không?
Âu là chúng ta có duyên nợ với nhau cũng nên. Nếu chẳng hợp duyên thì đâu dễ đã phát sinh rung cảm giống hệt nhau, mặc dù ở cách xa nhau ngàn trùng? Nếu chẳng hợp duyên, sao tư tưởng hai ta hoàn toàn hoà đồng nhau? Ví như ý kiến của Tường Phương đã nêu ra, về vấn đề "cái nết đánh chết cái đẹp", thì thật hết sức phù hợp với quan niệm của Thu Trân, nội tâm con người mới là quý, còn bề ngoài, tuy không hẳn là không cần nhưng đâu phải là điều chính yếu.
Vâng! Thu Trân lại xin hoàn toàn đồng ý với Tường Phương, là chúng ta nên luôn luôn đứng trên căn bản ấy, với lòng chân thành đúng mức mà vun sới cho mối tình chúng ta ngày càng thắm sắc đượm hương...
Vậy, xin thú nhận, Thu Trân tuy cũng bằng tuổi Tường Phương, song thật ra chỉ là một cô gái mười tám còn quá kém cỏi. Trong khi phải chờ thêm hơn một năm nữa, nếu cố gắng đều đặn, Thu Trân mới có thể tốt nghiệp Cao Trung, còn Tường Phương lại đang nghiễm nhiên là một sinh viện đại học rồi. Thu Trân thỉnh cầu Tường Phương vui lòng đóng vai hướng đạo cho Thu Trân. Xin Tường Phương thường xuyên biên thư chỉ giáo những điều hay lẽ phải, các kinh nghiệm học vấn cho Thu Trân. Được như thế, sẽ vô vàn quý báu cho Thu Trân và phần Thu Trân, nguyện sẽ không bao giờ phụ lòng chiếu cố của Tường Phương.
Viết tới đây, Thu Trân cảm thấy chúng mình càng trở nên thân thiết, gần gũi hơn mấy phần và nghe như không thể thiếu vắng nhau được, vĩnh viễn không thể thiếu vắng nhau!
Tường Phương ơi! Trong thư, đã mấy lần Tường Phương nhắc đến nghịch cảnh mồ côi mẹ của Thu Trân và ngỏ ý muốn giúp đỡ Thu Trân về vật chất, tiền bạc... Thu Trân vô cùng cảm kích lòng chiếu cố rất minh bạch của Tường Phương. Nhưng xin Tường Phương đừng quá lo cho Thu Trân điều ấy lúc nầy. Đến bao giờ Thu Trân không còn đủ nghị lực phấn đấu tự lực, chừng đó xin sẽ báo cho Tường Phương hay.
Dù sao Thu Trân cũng cố phấn đấu. Càng gặp khó khăn gian khổ, Thu Trân càng quyết chí phấn đầu kiên cường hơn, chớ không đầu hàng, không qui. ngã trước nghịch cảnh đâu.
Thu Trân thiển nghĩ, khi chúng ta bắt đầu làm con người, là đã bắt đầu đối diện với một cuộc phấn đấu trường kỳ, ví chẳng nhiều thì ít, mấy ai trong đời mà chẳng gặp nghịch cảnh như thế này hoặc như thế nọ...
Tường Phương mến,
Chúng mình viết thư cho nhau, theo lệ thường đáng lý nên dùng những hoa ngôn mỹ từ cho thật êm ái, tình tứ, cho đầy mộng với thơ... Thế mà nãy giờ Thu Trân cứ nói toàn chuyện khô khan như một bài toán lý hóa, xem có đáng chán không?
Kìa! Tường Phương đang tươi cười và trả lời là "không" vì Tường Phương không phải là hạng thiếu niên thích tô chuốt vẽ vời giả tạo và cũng hiểu cho Thu Trân vốn vụng về, chân phương, chẳng quen ngồi dệt những vần thư tình chải chuốt.
Thu Trân kính chúc ba má và bửu quyến Tường Phương khang an vạn phúc.
Đặc biệt siết chặt tay Tường Phương, cầu mong Tường Phương luôn vui, khỏe, tiến bộ mọi mặt.
Tha thiết...
Lâm Thu Trân" [i/]
Trong lúc Thu Trân cắm cúi đọc thư rồi viết thư, Xuân Châu rất tinh tế, đã cố ý không mảy may chi phối chị, mà đi ngủ thật sớm.
Khi Thu Trân hoàn tất bức thư, dán kín phong bì xong thì đã hơn một giờ khuya. Nàng thu xếp lại bàn viết, rồi tắt đèn, rón rén lên giường, thật khẽ, để Xuân Châu khỏi giật mình thức giấc.
Tờ mờ sáng hôm sau, Thu Trân vừa mở mắt tỉnh ngủ, đã thấy Xuân Châu đứng tựa thành giường, gần cửa sổ, cặp mắt đăm đăm nhìn vào khoảng không ngơ ngẩn xuất thần.
Thu Trân ngồi dậy, vừa thu gọn gối mền, vừa hỏi:
- Em dậy sớm thế? Đang suy tưởng gì đó?
Xuân Châu chùi người lên giường, quàng cổ, dựa đầu vào ngực Thu Trân, thỏ thẻ:
- Em đang nghĩ về lời chị nói với em hồi chiều qua.
- Ủa! Lời nói nào?
- Chị nói, chị em mình tuy hai mà như một...
- A, nhớ ra rồi! Đúng vậy, rồi sao?
- Là "một", nghĩa là liên quan gắn bó nhau, là không thể rời nhau... Như vậy, em thấy khó quá bởi vì rồi đây chị sẽ kết hôn với anh Tường Phương, tất nhiên phải về sống chung với anh ấy, chừng đó, chúng ta sao khỏi phân ly, thì làm thế nào là "một" được? Trừ phi...
- Trừ phi làm sao? Em nói nốt đi nào?
- Trừ phi em với chị hai cùng kết hôn với anh Tường Phương!
Thu Trân không ngờ Xuân Châu lại nói như vậy. Nàng ngạc nhiên, há miệng mà chẳng biết đối đáp thế nào cho phải.
Xuân Châu rần đỏ mặt, nhưng vẫn hỏi:
- Chị em ruột có thể kết hôn chung một chồng hay không?
Thu Trân bật cười, khẽ vỗ đầu em gái:
- Em cũng yêu anh Tường Phương ư?
- Không phải em yêu anh ấy, mà là yêu chị...
Xuân Châu trả lời chắc nịch và chăm chú ngó Thu Trân, ngây thơ tiếp:
- Đã muốn chị em chúng mình vĩnh viễn là một, mãi mãi không chia lìa nhau, thì làm cách nào được, nếu không cùng kết hôn chung một chồng? Đâu chị thử cho biết xem có biện pháp nào khác không?
- Trừ cách đó, dường như chả còn biện pháp thứ hai nào hay hơn.
Thu Trân rất hiểu tâm tình thuần khiết của Xuân Châu, sở dĩ có ý nghĩ như thế, chỉ vì quá yêu thương chị. Nhưng thấy vẻ ngớ ngẩn của em, nàng không nhịn được, bật cười to lên một hồi dài.
Xuân Châu trố mắt:
- Sao chị lại cười? Bộ cách ấy không được sao?
Thu Trân cố nín cười, ôn nhu đáp:
- Kể ra thì không phải là không được, nhưng vì em đặt vấn đề hơi bất ngờ nên chị tức cười.
Xuân Châu ôm chặt lấy chị:
- Chị em chúng mình đã ở chung một phòng ngủ chung một giường, suốt bốn năm năm nay; lúc nào cũng thương yêu quan hoài cho nhau, luôn luôn chẳng rời nhau, đúng là gắn liền nhau như một... Em lo sợ, đến một ngày nào đó, anh Tường Phương sẽ về đây, cưới chị, mang đi, tức đoạt mất phần sống thân thiết nhất của em, thì... em làm sao chịu nổi?
Thu Trân cảm động:
- Em đừng lo, chị em mình sẽ không bao giờ xa lìa nhau đâu.
- Chị có bằng lòng cho em xuất giá chung một lượt với chị không?
- Phần chị thì sẵn sàng bằng lòng, nhưng chừng đó cũng cần hỏi qua ý kiến Tường Phương xem có bằng lòng hay không chứ.
- Chỉ cần chị chấp thuận là đủ, còn anh ấy có bằng lòng hay không, chẳng thành vấn đề với em, miễn sao em được mãi mãi chung sống bên chị, là em toại nguyện...
Thu Trân chẳng thốt nên lời cứ hôn mãi lên tóc em...
Đã khai trường, chị em Thu Trân lại tiếp tục trở lại nếp sinh hoạt của nữ sinh.
Đúng ra, nếp sinh hoạt của hai nữ sinh Thu Trân, Xuân Châu không được thoải mái, bình thường như phần dông bạn đồng học khác. Vì lẽ kế mẫu Thu Trân vẫn một mực không thuê người giúp việc, nên hằng ngày nàng phải dậy thật sớm để lo bữa ăn điểm tâm cho cả nhà và nấu sẵn bữa cơm trưa, rồi mới đến trường. Lúc đi học, nàng phải xách theo một ga-mên cơm, để tan học buổi trưa hai chị em cùng ở lại trường ăn với nhau. Hết buổi học chiều, nàng phải về nhà càng nhanh càng tốt, ngõ hầu kịp nấu bữa cơm tối. Và, sau đó, lại phải rửa chén dĩa, quét dọn trong nhà, ngoài sân, giặt quần áo... rồi mới được rảnh rang vào phòng học bài, làm bài.
Xuân Châu vì khắng khít bên chị, việc gì cũng làm tiếp, nên chịu ảnh hưởng chung chẳng ít.
Đi học trong hoàn cảnh như thế, dù Thu Trân có cố gắng đến mấy, vẫn không đạt nổi thành quả ưu hạng, mà chỉ đứng được khoảng hạng mười trở xuống, mười lăm trở lên thôi.
Tuy nhiên, nàng chẳng bao giờ kêu khổ, không khi nào nản chí. Nàng tự an ủi: còn được đi học, đã là vinh hạnh lắm rồi.
Một lần, ngẫu nhiên mà nàng với Xuân Châu bỗng nghe lỏm được cuộc đàm thoại của ba má trong buồng.
Thân phụ nàng nói:
- Bà nên kiếm mướn một người giúp việc, kẻo Thu Trân vừa đi học vừa làm hết các gia vụ, bất tiện quá.
- Tôi đã bảo tôi không thích mướn người làm.
- Gì mà không thích? Có người làm thì đỡ biết bao. Bà nên biết, chẳng riêng một mình còn Thu Trân phải cực khổ, mà đến con Xuân Châu cũng bị chi phối việc học hành rất nhiều. Càng lên lớp cao, đáng lý chúng nó phải có nhiều thì giờ để học, mới khá được chứ. Bà không quan tâm gì tới sự học vấn của con bà sao?
- Ối! Mặc xác nó! Ai bảo nó làm tài khôn, hùa về phe với con Thu Trân, chống đối lại tôi, thì cho nó chết luôn còn được. Con quỉ nha đầu đó chả là con tôi nữa rồi. Nó đã muốn khốn nạn, tôi cũng chả hơi đâu thương xót cho mệt.
Xuân Châu nghe qua, đã toan xông vào chất vấn bà ta một hồi, nhưng Thu Trân kịp ngăn lại và kéo em về phòng, rưng rưng nước mắt nói:
- Chỉ vì chị mà làm hại em, khiến má hận em như thế. Xuân Châu, chị thật có lỗi với em.
Xuân Châu hầm hầm sắc mặt, hậm hực lên tiếng:
- Được! Rõ ràng bả đã phủi sạch tình mẫu tử. Từ rày em cũng chả coi bả là mẹ ruột nữa.
- Em đừng nói vậy. Chị không muốn vì chị mà tình thâm mẫu tử giữa em với má phải băng hoại. Chị đã đau cái đau của kẻ thiếu lòng từ ái của mẹ ruột, chị không thể để em cũng mất đi tình mẹ!
Tới đây, Thu Trân không dằn được tiếng khóc thút thít, vừa ráng nói thêm:
- Chị thấy từ rày chúng ta nên giảm hẳn đi việc thân mật, cận kề, má thấy vậy sẽ không giận em nữa và lại thương chiều em như thường. Thà chị cam chịu tịch mịch khổ sở, chớ chị không đành lòng để em phải khổ lây vì chị.
Xuân Châu òa khóc, ôm chầm Thu Trân, tức tưởi:
- Không!... Chúng ta là huyết thống của ba, là chị em ruột thịt, thì vui sướng cùng nhau chia xớt, khổ sở cùng nhau gánh chịu. Em không muốn có sự khác biệt nào hết. Em không ham được má tư vị trong khi chị lại bị bạc đãi. Em nhất định không xa rời chị. Má muốn ghét bỏ em thế nào tùy ý.
Hai chị em gục đầu vào nhau mà khóc, lệ nóng chan hòa, cơ hồ không còn phân biệt được là dòng lệ của ai nữa...
Vài hôm sau, nhằm buổi chiều chủ nhật.
Kế mẫu Thu Trân vẫn đi đánh bài, vắng nhà. Thừa dịp, thân phụ nàng lấy tiền riêng, cho chị em nàng mỗi người một ngàn đồng và buồn bã bảo:
- Dạo này thời tiết trở lạnh rồi, hai con đem theo, ăn trưa ở trường, cơm cá hôm nào cũng nguội lạnh cả, chẳng ngon lành gì, lại mất vệ sinh. Hãy giữ số tiền này để mỗi bữa trưa, hai chị em dắt nhau ra quán cơm nào gần trường, mua thêm một vài món ăn nóng mà dùng.
- Ba!... Trưa nào tụi con cũng hâm nóng cơm canh lại, rồi mới ăn đâu có sao, ba đừng lo...
Thu Trân vội lên tiếng... nói dối, để an ủi ba. Giọng nàng như lạc hẳn đi vì cảm động. Nhìn mái tóc đã bạc quá nhiều của ba mà lòng nàng đau thắt. Cả đời ông đã vất vả tìm sự sống cho gia đình, để rồi đến khi tuổi cao chồng chất, vẫn còn khổ tâm vì cảnh nhà.
Nàng cố giấu đi vẻ bi thương, nói tiếp:
- Vì vậy, tụi con đâu cần tiền làm chi, ba thường đi ra ngoài nên cất để mà chi dùng.
Xuân Châu phụ họa:
- Chị hai nói phải đấy, ba cất tiền lại đi, tụi con không lấy đâu.
Phụ thân nàng rưng rưng nước mắt, phải vội quay mặt đi cho hai con đừng trông thấy.
Ông ho khan mấy tiếng để giọng nói đỡ nghẹn ngào:
- Dầu không có con trai nhưng có được hai đứa con gái như các con, chẳng những xinh đẹp, thông tuệ, lại ngoan ngoãn, hiền hậu, ba rất vui lòng. Có điều, trong gia đình không may có người đàn bà đanh đá, ác nghiệt, thật ba hết sức khổ tâm... Ba cũng hổ thẹn vì không...
Ông lại ho khan, kỳ thật ông đã khóc.
Thu Trân thấy, chỉ lúc tổ mẫu mất, thân phụ mới khóc và lâu lắm rồi, đến bây giờ lại khóc.
Tự dưng hai chị em nàng cũng khóc theo.
Một lúc khá lâu, đột nhiên Xuân Châu ngẩng bộ mặt đầy nước mắt lên, tươi cười nói lớn:
- Ba! Chị hai! Bữa nay đáng lẽ là dịp vui mới phải chứ sao chúng ta lại tự chuốc lấy phiền não làm gì. Ba! Đang chiều chủ nhật, ba dẫn tụi con đi chơi đi.
- Xuân Châu nói phải. Nào, hai con vào sửa soạn, rồi ba dắt đi xi nê. Nhưng mà, hãy lấy cất số tiền của ba cho cái đã.
Ông vuốt tóc hai con và đổi buồn làm vui.
Xuân Châu liếng thoắng:
- Chị hai! Tụi mình vâng lời, cho ba hài lòng. Mau vô thay đồ kẻo ba chờ...
Trọn chiều chủ nhật ấy, ba cha con lại được tận hưởng những giờ đậm đà, thoải mái, mãi đến tối mới trở về nhà.
Vừa về tới cửa, Xuân Châu đã chạy lại mở hộp thơ ra, lục lạo theo thói quen, bỗng reo lên:
- A ha! Lại có thư của anh Tường Phương.
- Đâu nào? Mau đem lại cho chị con đi!
Vừa giục Xuân Châu, phụ thân vừa hỏi Thu Trân:
- Hổm rày con với Tường Phương vẫn thường thư từ cho nhau chứ? Tình cảm tiến triển tốt đẹp chứ?
- Dạ có... Dạ, cám ơn ba!...