NeoBK43NHA
07-04-2011, 09:29 AM
Đã sang tháng 4 rồi mà vẫn chưa có mưa. Buổi sáng ở Tây Bắc thật lạ. Mới chỉ có mấy tiếng đồng hồ mà như đã có ba mùa đi qua. Sáng sớm, trời đầy sương và lạnh. Mặt trời lên, không khí mát mẻ rồi ấm áp được một lúc thì gió nóng từ phía Tây tràn tới. Bỏ chiếc áo khoác ngoài, Phó Hiệu trưởng bảo tôi:
- Hiệu trưởng về rồi đấy. Mình đến thăm ông ấy xem có quà gì không?
- Ừ thì đi.
Chúng tôi vẫn nói năng, xưng hô tự nhiên và thân tình như vậy. Ở đất này với nhau hơn 25 năm rồi, chúng tôi chỉ khác nhau khi làm việc do chức vụ và trách nhiệm còn thì những khi ai đó nhà có việc, hoặc con cái đi học đại học, đi nhận công tác, khi liên hoan và cả trên đường đi công tác... giữa chúng tôi không có khoảng cách bởi tất cả đều coi nhau như anh em, như người nhà.
Hiệu trưởng Đặng Quang Việt đang ở nhà. Anh và mấy người nữa ngồi bên máy vi tính xem những bức ảnh anh chụp trong chuyến đi của đoàn cán bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo sang thăm và làm việc ở Malaysia. Khác với những lần trước tiếp chúng tôi, lần này anh nói nhiều và hồ hởi. Mọi người chăm chú nghe anh nói, có lẽ vì cách nói có duyên của anh và vì những điều mới mẻ mà anh mắt thấy tai nghe về đất nước Malaysia nơi có nền giáo dục khá phát triển. Tôi vừa nghe anh nói vừa ngắm căn nhà anh. Một căn nhà ba gian bé nhỏ, trang trí và bày biện thật đơn giản nhưng ngăn nắp. Gọi là ngắm căn nhà vậy thôi chứ tôi thì đã quá quen thuộc với nó. Tôi chợt nghĩ về ngày anh bất đắc dĩ phải làm nhà. Hôm ấy tôi bảo: “Trường sắp chuyển, xuống Sơn La hãy làm”. Anh nói: “Cái nhà cũ ọp ẹp lắm rồi, mình thì không sao, chỉ sợ bạn bè ở Hà Nội lên họ chê là tạm bợ quá”. Nhớ lại chuyện ấy, tôi không tập trung nghe anh nói được nữa. Tôi nghĩ miên man, nghĩ xa hơn về những ngày chúng tôi mới lên công tác ở mái trường Cao đẳng Sư phạm đầu tiên trên mảnh đất miền Tây này và nghĩ về anh.
Năm 1981, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội I, rời mảnh đất quê hương Văn Phúc, Văn Giang, Hưng Yên, lên nhận công tác ở Tây Bắc, anh Việt cũng như chúng tôi có thật lắm ước mơ nhưng cũng nhiều bỡ ngỡ. Trường Cao đẳng Sư phạm Tây Bắc lúc ấy có lẽ là một trường Cao đẳng sư phạm khó khăn vào bậc nhất trong cả nước. Toàn trường chỉ có nhà cấp bốn, đến nhà Hiệu bộ cũng chỉ là một căn nhà tuềnh toàng lợp giấy dầu, còn đời sống giáo viên, nếu có kể ra, cánh trẻ bây giờ chắc sẽ không tin. Ở thời điểm ấy, giáo viên hoàn thành nghĩa vụ với giáo dục Tây Bắc 5 năm là quý lắm rồi. Chẳng thế mà có không ít người, nói không ngoa, đếm từng ngày ở Tây Bắc, cuối năm thứ 3 đã viết đơn xin chuyển vùng. Nhưng bù lại, mọi người rất đoàn kết, sống nghĩa tình. Trường có một đội ngũ giáo viên rất mạnh về chuyên môn, chất lượng đào tạo rất tốt. Chẳng biết lúc ấy trong đầu anh có ý nghĩ sẽ chuyển vùng không nhưng chúng tôi thấy anh rất say mê với nghề. Có hôm hết giờ mà vẫn thấy anh giảng giải cho sinh viên, chúng tôi đã đùa anh, bảo: “Định dạy hết phần mình để chuồn về xuôi sớm hay sao thế?”. Anh chỉ cười, cái cười còn rất bẽn lẽn.
Anh mới công tác được hai năm, lãnh đạo nhà trường đã nhận thấy những năng lực sẵn có của anh và cử anh đi học sau đại học. Trở lại trường sau khi đã được trang bị thêm những kiến thức về chuyên môn, anh bắt đầu đảm nhiệm công việc quản lý: làm Phó Trưởng khoa Toán - Lý từ năm 1986 đến năm 1990 rồi làm Trưởng Khoa. Đến năm 1995, anh được đề bạt làm Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, được bầu làm Phó Bí thư Đảng uỷ. Ở cương vị Phó Hiệu trưởng, anh là một Hiệu phó trẻ nhất trong số cán bộ quản lý cấp trường lúc bấy giờ.
Thời gian từ năm 1996 đến năm 2001 là một giai đoạn đã in dấu sâu đậm trong tâm trí chúng tôi và nhất là của anh. Đấy là giai đoạn nhà trường được sự quan tâm lớn của Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của nhân dân Tây Bắc nhưng cũng là giai đoạn đầy cam go, thử thách. Xu hướng phát triển lên đại học đã rõ nhưng để hoàn thành nhiệm vụ với tư cách một trường đại học đa ngành thì chẳng dễ dàng chút nào, nếu không nói là khó khăn chồng chất.
Năm 2001, Chính phủ quyết định thành lập Trường Đại học Tây Bắc trên cơ sở Trường Cao đẳng Sư phạm Tây Bắc và bổ nhiệm anh làm Hiệu trưởng. Mọi người đều hân hoan phấn khởi. Anh cũng vui nhưng vui ít, lo nhiều. Gương mặt anh có vẻ già đi và ưu tư hẳn.
Thực tình, khi anh được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường Đại học Tây Bắc, chúng tôi rất băn khoăn không biết anh sẽ xoay xở ra sao trước một thực tế đầy khó khăn: cở sở vật chất của trường cũ đã nghèo lại xuống cấp nghiêm trọng, trường mới thì chưa khởi công; thêm vào đấy, đội ngũ giảng viên lại rất thiếu so với yêu cầu của một trường đại học có nhiều ngành. Một loạt những vấn đề trọng yếu phải lo: phòng ốc, đường xá, học liệu... và vấn đề then chốt là đội ngũ giảng viên và đội ngũ cán bộ quản lý. Hàng trăm câu hỏi được đặt ra mà câu hỏi thường trực của anh là: bắt đầu từ đâu và làm thế nào? Bản thân anh còn có một nhiệm vụ rất nặng nề mà những người công tác ở Tây Bắc khó khăn, xa xôi như chúng tôi rất ít có khả năng vượt qua được là hoàn thành luận án Tiến sĩ. Trưởng Phòng Tổng hợp đã có lần nói với tôi: “Mình ái ngại cho ông ấy! Vất vả đấy!”. Thế nhưng, chỉ một năm sau tình hình đã khác. Năng động, nhạy cảm và có tầm nhìn chiến lược cùng với sự khéo léo phát huy trí tuệ tập thể, Tiến sĩ Đặng Quang Việt đã nhanh chóng thực hiện những giải pháp phát triển nhà trường mà tôi đoán là anh phải nghiền ngẫm từ lâu rồi. Vận dụng và tận dụng kinh nghiệm của những thế hệ tiền nhiệm, biết cách khắc phục những điểm còn hạn chế, khó khăn trong thực tế, anh mạnh dạn sắp xếp và kiện toàn lại tổ chức của nhà trường, củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ, kiên trì sự đổi mới nhằm chấm dứt những mặt còn trì trệ. Anh động viên, tạo điều kiện và yêu cầu bắt buộc những cán bộ giảng dạy có khả năng nghiên cứu đi học nâng cao trình độ ở bậc Tiến sĩ và đề nghị các trường đại học trọng điểm giúp đỡ đào tạo Thạc sĩ. Chỉ một năm sau, khá nhiều phương diện đã có bước chuyển biến rõ rệt. Cũng năm ấy, anh được nhận danh hiệu Nhà giáo Ưu tú. Hôm nhận phần thưởng cao quý đó, anh tâm sự: “Nhiều thế hệ trước tôi, nhiều đồng nghiệp cùng tôi đã gắn bó với mái trường này xứng đáng là Nhà giáo Ưu tú. Các anh tin tôi, quý tôi mà cho tôi nhận trước. Tôi nghĩ, còn có nhiều người nữa phải được nhận danh hiệu này. Chúng ta không kể công nhưng rõ ràng là chúng ta đã cống hiến sức lực cho sự nghiệp giáo dục Tây Bắc. Các anh cũng rất xứng đáng được nhận danh hiệu ấy”. Nghe anh nói, những mặc cảm về thiệt thòi trong chúng tôi cũng vơi đi. Chúng tôi nghĩ: những đóng góp của mình tuy nhỏ bé nhưng rất đáng trân trọng và không phải không có ai biết đến.
Năm năm làm Hiệu trưởng, anh cùng với tập thể Ban Giám hiệu, tập thể cán bộ giáo viên đã tạo cho nhà trường một gương mặt có thể nói là hoàn toàn mới. Chỉ nhìn vào số cán bộ giảng dạy từ 157 người lên 270 người, số sinh viên từ 800 người lên 8000 người với rất nhiều ngành, nhiều hệ, bạn khó có thể hình dung ra một núi công việc mà tập thể lãnh đạo, tập thể cán bộ giáo viên nhà trường phải làm mà anh là người phải đứng mũi chịu sào và cảm nhận được những khó khăn mà anh và các đồng chí, đồng nghiệp phải trải qua. Gian khổ nhưng anh và chúng tôi rất vui và rất tự hào, tự hào nhất là số sinh viên đại học khoá đầu tiên ra trường, có em ở lại Tây Bắc, có em về đồng bằng Bắc bộ, em nào cũng có việc làm. Chúng tôi càng tự hào về đóng góp của mình và vai trò thủ lĩnh của anh. Điều mừng vui nhất là mỗi buổi chiều, sau giờ làm việc, ở các sân thể thao luôn đầy ắp tiếng cười và dường như tất cả chúng tôi, từ người đã xấp xỉ tuổi 60 đến những cán bộ trẻ măng 21 - 22 tuổi, ai cũng biết chơi một môn thể thao và có thể sống tạm ổn bằng nghề nghiệp và thu nhập chính đáng của mình. Song chúng tôi vẫn nghĩ điều quan trọng nhất là anh đã điều hành cả một bộ máy nhà trường vận hành trơn tru, nhịp nhàng, hiệu quả, chuẩn bị được những tiền đề thật khả quan và lạc quan cho những bước phát triển về sau.
Năm 2005 và 2006 là những năm bộn bề công việc, mọi người bận rộn quanh năm. Nhà trường sau năm năm xây dựng đã vững vàng hơn nhiều và đủ sức đảm nhận nhiệm vụ của mình nhưng chúng tôi không thể bằng lòng với thực tại. Đại học Tây Bắc cần phải được phát triển nhanh và vững chắc. Là Hiệu trưởng, Bí thư Đảng uỷ, Tiến sĩ Đặng Quang Việt có rất ít thời gian cho riêng mình. Liên tiếp các hội thảo, các hội nghị, ngoài trường có, trong trường có nhằm tìm ra những giải pháp tốt nhất để xây dựng và phát triển nhà trường đã chiếm dụng rất nhiều thời gian và sức lực của anh. Táo bạo, quyết đoán nhưng dân chủ, anh đề xuất và thực hiện một loạt các biện pháp để nâng cao hiệu quả của tất cả các nguồn lực. Trong số các biện pháp ấy có một biện pháp mà mọi người, khi nhận thức ra luôn cảm ơn anh là việc anh quyết định thành lập nhanh Trung tâm Tin học - Ngoại ngữ và yêu cầu bắt buộc tất cả các cán bộ giảng dạy phải nâng cao trình độ về ngoại ngữ và tin học. Anh nói: phải học để không bị lạc hậu, ở Tây Bắc lại càng phải học. Điều hành các hội nghị, anh thường nói ít và rất chú ý lắng nghe. Tôi thầm cảm phục tư duy toán học sắc sảo và chính xác của anh và đặc biệt là nghệ thuật gợi mở để tạo nên không khí dân chủ, bình đẳng, để khai thác và tổng hợp trí tuệ tập thể. Anh chạy đôn, chạy đáo, gặp gỡ và tranh thủ sự ủng hộ của Bộ chủ quản, của các trường đại học, tham dự hội nghị với 6 tỉnh, với các bộ nhằm đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường. Kết quả mà tập thể nhà trường có được trong đó có phần đóng góp rất to lớn của anh: hàng trăm tỉ đồng cho xây dựng cơ bản, cho thiết bị dạy học, quý giá nhất là sự đỡ đầu của 7 trường đại học lớn đã mang tới cho toàn trường một không khí mới. Ai cũng nhận thấy tuy còn nhiều khó khăn gian khổ nhưng thật vui, thật nhiều tin tưởng và hi vọng.
Mặc dù rất bận rộn, Tiến sĩ Đặng Quang Việt vẫn dành một thời gian không nhỏ để giảng dạy cho sinh viên. Theo anh, đấy là trách nhiệm nhưng cái chính là để có nhiều hơn cơ hội trao đổi và tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em. Một lần sau giờ giảng, các sinh viên vây quanh anh, hỏi thêm về bài học. Anh dừng lại khá lâu, giải thích thật cặn kẽ, tỉ mỉ. Đồng nghiệp và sinh viên kính trọng anh, khâm phục anh về tài năng sư phạm và học vấn sâu rộng, đặc biệt là kết quả luận án Tiến sĩ của anh đã tạo được cầu nối và mở ra khả năng vận dụng giữa Toán học Cao cấp ở đại học sư¬ phạm và Toán học Phổ thông. Nhiều lần anh nhắc chúng tôi: “Phải đẩy mạnh cuộc vận động Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm. Học trò Tây Bắc rất thuần hậu, khao khát tri thức và không phụ công thầy. Các em tin tưởng mình, tìm đến mình, kính yêu mình như cha, chú, không được để các em thiệt thòi. Không làm được như vậy thì mấy mươi năm ở Tây Bắc cũng uổng phí đi thôi”. Chúng tôi vẫn nghĩ thế nhưng nghe anh nói và nhìn thấy anh bên học trò, tôi mới thực sự thấm thía.
Năm 2006, Tiến sĩ Đặng Quang Việt lại có một vinh dự lớn - anh được nhận Huân chương Lao động hạng Ba do Nhà nước trao tặng. Hôm nhận Huân chương anh nói: “Tấm huân chương này Nhà nước tặng cho tôi để ghi nhận thành tích của tôi nhưng công lao to lớn để có được nó thuộc về các đồng nghiệp của tôi, các học trò của tôi”. Sống với anh, làm việc với anh, tôi tin vào tấm lòng thành thực nói nên lời ấy của anh.
Mải vui câu chuyện, trưa đến lúc nào không biết. Anh mời chúng tôi ở lại dùng cơm. Tôi cảm ơn nhưng xin phép để khi khác. Vợ anh đang lúi húi dưới bếp, thấy vậy, chị đon đả chạy lên:
- Các bác, các chú ở lại mời cơm với nhà em đã!
Tôi trêu:
- Nhà em là ông ấy hay cả nhà?
- Cả nhà chứ! Nhà em bảo ăn cơm mà không có cả nhà có khác gì đi ăn cơm hàng xóm.
- Nhà bé tẹo thế này chúng tôi ở lại ngồi vào đâu? Chúng tôi đều là hàng xóm cả, hẳn nào ông ấy không mời.
Anh cười, chống chế:
- Tôi bảo chỉ có canh cua, các vị ấy chê.
Anh tiễn chúng tôi ra tới đường. Trời vẫn oi ả. Tây Bắc đang mùa khô hạn. Đất và người đang khao khát những cơn mưa. Bây giờ mà có mưa thì thật quý giá. Mưa sẽ làm mát dịu bầu trời, mưa làm ra ngô, ra lúa và còn làm ra cả điện nữa. Đông Bắc đã có mưa nhưng trời Tây Bắc vẫn như một cô nàng khó tính và đỏng đảnh. Những đám mây chỉ hiện ra như để trêu ngươi con người rồi lại tan đi đâu mất. Chợt có tiếng sấm từ xa vọng lại. Gương mặt anh vừa cười rạng rỡ bỗng trở nên trầm ngâm. Tôi đọc được nỗi lo toan của anh trong dáng vẻ trầm ngâm ấy: kế hoạch chuyển trường đã xây dựng xong, dù đã tính toán đến từng chi tiết nhưng vẫn lo, thế mà con đường vào trường vẫn chưa thi công, nhà kí túc sinh viên vẫn chưa nghiệm thu được, mưa đến sớm thì tiến độ sẽ chậm mất... và nhất là vấn đề nhà ở cho giáo viên. Phải an cư mới lạc nghiệp, người trẻ thì còn đỡ, những người đã hai, ba mươi năm gắn bó với Tây Bắc, với mái trường này, đã cống hiến cả tuổi xuân và vất vả gần như cả cuộc đời thì phải tính sao đây? Thấy anh trầm ngâm, tôi nói: “Lãnh đạo nghĩ gì thế? Lo vừa thôi! Nhà quản lí là phải biết làm việc và nghỉ ngơi đấy”. Anh cười hỏi lại: “Thế à?”. Nghe cách hỏi của anh, tôi đoán anh đang nghĩ: Nói thế thì đúng rồi, đúng như một chân lí nhưng có phải lúc nào cũng thực hiện được đâu.
Lại một tiếng sấm nữa vọng đến. Chúng tôi cùng nhìn lên bầu trời. Tầm mắt chúng tôi không vượt ra khỏi màu xanh của rừng cây lát. Một mùa đông khắc nghiệt và gió Lào thổi choáng váng những quả đồi quanh trường vẫn không ngăn được sự hồi sinh của rừng cây đến kì trổ lộc với những chiếc lá non mỡ màng, bóng nhẫy.
Thuận Châu, tháng Tư - 2007
Kỷ niệm K49 ĐHSP Lý ĐH Tây Bắc 2008
- Hiệu trưởng về rồi đấy. Mình đến thăm ông ấy xem có quà gì không?
- Ừ thì đi.
Chúng tôi vẫn nói năng, xưng hô tự nhiên và thân tình như vậy. Ở đất này với nhau hơn 25 năm rồi, chúng tôi chỉ khác nhau khi làm việc do chức vụ và trách nhiệm còn thì những khi ai đó nhà có việc, hoặc con cái đi học đại học, đi nhận công tác, khi liên hoan và cả trên đường đi công tác... giữa chúng tôi không có khoảng cách bởi tất cả đều coi nhau như anh em, như người nhà.
Hiệu trưởng Đặng Quang Việt đang ở nhà. Anh và mấy người nữa ngồi bên máy vi tính xem những bức ảnh anh chụp trong chuyến đi của đoàn cán bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo sang thăm và làm việc ở Malaysia. Khác với những lần trước tiếp chúng tôi, lần này anh nói nhiều và hồ hởi. Mọi người chăm chú nghe anh nói, có lẽ vì cách nói có duyên của anh và vì những điều mới mẻ mà anh mắt thấy tai nghe về đất nước Malaysia nơi có nền giáo dục khá phát triển. Tôi vừa nghe anh nói vừa ngắm căn nhà anh. Một căn nhà ba gian bé nhỏ, trang trí và bày biện thật đơn giản nhưng ngăn nắp. Gọi là ngắm căn nhà vậy thôi chứ tôi thì đã quá quen thuộc với nó. Tôi chợt nghĩ về ngày anh bất đắc dĩ phải làm nhà. Hôm ấy tôi bảo: “Trường sắp chuyển, xuống Sơn La hãy làm”. Anh nói: “Cái nhà cũ ọp ẹp lắm rồi, mình thì không sao, chỉ sợ bạn bè ở Hà Nội lên họ chê là tạm bợ quá”. Nhớ lại chuyện ấy, tôi không tập trung nghe anh nói được nữa. Tôi nghĩ miên man, nghĩ xa hơn về những ngày chúng tôi mới lên công tác ở mái trường Cao đẳng Sư phạm đầu tiên trên mảnh đất miền Tây này và nghĩ về anh.
Năm 1981, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội I, rời mảnh đất quê hương Văn Phúc, Văn Giang, Hưng Yên, lên nhận công tác ở Tây Bắc, anh Việt cũng như chúng tôi có thật lắm ước mơ nhưng cũng nhiều bỡ ngỡ. Trường Cao đẳng Sư phạm Tây Bắc lúc ấy có lẽ là một trường Cao đẳng sư phạm khó khăn vào bậc nhất trong cả nước. Toàn trường chỉ có nhà cấp bốn, đến nhà Hiệu bộ cũng chỉ là một căn nhà tuềnh toàng lợp giấy dầu, còn đời sống giáo viên, nếu có kể ra, cánh trẻ bây giờ chắc sẽ không tin. Ở thời điểm ấy, giáo viên hoàn thành nghĩa vụ với giáo dục Tây Bắc 5 năm là quý lắm rồi. Chẳng thế mà có không ít người, nói không ngoa, đếm từng ngày ở Tây Bắc, cuối năm thứ 3 đã viết đơn xin chuyển vùng. Nhưng bù lại, mọi người rất đoàn kết, sống nghĩa tình. Trường có một đội ngũ giáo viên rất mạnh về chuyên môn, chất lượng đào tạo rất tốt. Chẳng biết lúc ấy trong đầu anh có ý nghĩ sẽ chuyển vùng không nhưng chúng tôi thấy anh rất say mê với nghề. Có hôm hết giờ mà vẫn thấy anh giảng giải cho sinh viên, chúng tôi đã đùa anh, bảo: “Định dạy hết phần mình để chuồn về xuôi sớm hay sao thế?”. Anh chỉ cười, cái cười còn rất bẽn lẽn.
Anh mới công tác được hai năm, lãnh đạo nhà trường đã nhận thấy những năng lực sẵn có của anh và cử anh đi học sau đại học. Trở lại trường sau khi đã được trang bị thêm những kiến thức về chuyên môn, anh bắt đầu đảm nhiệm công việc quản lý: làm Phó Trưởng khoa Toán - Lý từ năm 1986 đến năm 1990 rồi làm Trưởng Khoa. Đến năm 1995, anh được đề bạt làm Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, được bầu làm Phó Bí thư Đảng uỷ. Ở cương vị Phó Hiệu trưởng, anh là một Hiệu phó trẻ nhất trong số cán bộ quản lý cấp trường lúc bấy giờ.
Thời gian từ năm 1996 đến năm 2001 là một giai đoạn đã in dấu sâu đậm trong tâm trí chúng tôi và nhất là của anh. Đấy là giai đoạn nhà trường được sự quan tâm lớn của Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của nhân dân Tây Bắc nhưng cũng là giai đoạn đầy cam go, thử thách. Xu hướng phát triển lên đại học đã rõ nhưng để hoàn thành nhiệm vụ với tư cách một trường đại học đa ngành thì chẳng dễ dàng chút nào, nếu không nói là khó khăn chồng chất.
Năm 2001, Chính phủ quyết định thành lập Trường Đại học Tây Bắc trên cơ sở Trường Cao đẳng Sư phạm Tây Bắc và bổ nhiệm anh làm Hiệu trưởng. Mọi người đều hân hoan phấn khởi. Anh cũng vui nhưng vui ít, lo nhiều. Gương mặt anh có vẻ già đi và ưu tư hẳn.
Thực tình, khi anh được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường Đại học Tây Bắc, chúng tôi rất băn khoăn không biết anh sẽ xoay xở ra sao trước một thực tế đầy khó khăn: cở sở vật chất của trường cũ đã nghèo lại xuống cấp nghiêm trọng, trường mới thì chưa khởi công; thêm vào đấy, đội ngũ giảng viên lại rất thiếu so với yêu cầu của một trường đại học có nhiều ngành. Một loạt những vấn đề trọng yếu phải lo: phòng ốc, đường xá, học liệu... và vấn đề then chốt là đội ngũ giảng viên và đội ngũ cán bộ quản lý. Hàng trăm câu hỏi được đặt ra mà câu hỏi thường trực của anh là: bắt đầu từ đâu và làm thế nào? Bản thân anh còn có một nhiệm vụ rất nặng nề mà những người công tác ở Tây Bắc khó khăn, xa xôi như chúng tôi rất ít có khả năng vượt qua được là hoàn thành luận án Tiến sĩ. Trưởng Phòng Tổng hợp đã có lần nói với tôi: “Mình ái ngại cho ông ấy! Vất vả đấy!”. Thế nhưng, chỉ một năm sau tình hình đã khác. Năng động, nhạy cảm và có tầm nhìn chiến lược cùng với sự khéo léo phát huy trí tuệ tập thể, Tiến sĩ Đặng Quang Việt đã nhanh chóng thực hiện những giải pháp phát triển nhà trường mà tôi đoán là anh phải nghiền ngẫm từ lâu rồi. Vận dụng và tận dụng kinh nghiệm của những thế hệ tiền nhiệm, biết cách khắc phục những điểm còn hạn chế, khó khăn trong thực tế, anh mạnh dạn sắp xếp và kiện toàn lại tổ chức của nhà trường, củng cố và nâng cao chất lượng đội ngũ, kiên trì sự đổi mới nhằm chấm dứt những mặt còn trì trệ. Anh động viên, tạo điều kiện và yêu cầu bắt buộc những cán bộ giảng dạy có khả năng nghiên cứu đi học nâng cao trình độ ở bậc Tiến sĩ và đề nghị các trường đại học trọng điểm giúp đỡ đào tạo Thạc sĩ. Chỉ một năm sau, khá nhiều phương diện đã có bước chuyển biến rõ rệt. Cũng năm ấy, anh được nhận danh hiệu Nhà giáo Ưu tú. Hôm nhận phần thưởng cao quý đó, anh tâm sự: “Nhiều thế hệ trước tôi, nhiều đồng nghiệp cùng tôi đã gắn bó với mái trường này xứng đáng là Nhà giáo Ưu tú. Các anh tin tôi, quý tôi mà cho tôi nhận trước. Tôi nghĩ, còn có nhiều người nữa phải được nhận danh hiệu này. Chúng ta không kể công nhưng rõ ràng là chúng ta đã cống hiến sức lực cho sự nghiệp giáo dục Tây Bắc. Các anh cũng rất xứng đáng được nhận danh hiệu ấy”. Nghe anh nói, những mặc cảm về thiệt thòi trong chúng tôi cũng vơi đi. Chúng tôi nghĩ: những đóng góp của mình tuy nhỏ bé nhưng rất đáng trân trọng và không phải không có ai biết đến.
Năm năm làm Hiệu trưởng, anh cùng với tập thể Ban Giám hiệu, tập thể cán bộ giáo viên đã tạo cho nhà trường một gương mặt có thể nói là hoàn toàn mới. Chỉ nhìn vào số cán bộ giảng dạy từ 157 người lên 270 người, số sinh viên từ 800 người lên 8000 người với rất nhiều ngành, nhiều hệ, bạn khó có thể hình dung ra một núi công việc mà tập thể lãnh đạo, tập thể cán bộ giáo viên nhà trường phải làm mà anh là người phải đứng mũi chịu sào và cảm nhận được những khó khăn mà anh và các đồng chí, đồng nghiệp phải trải qua. Gian khổ nhưng anh và chúng tôi rất vui và rất tự hào, tự hào nhất là số sinh viên đại học khoá đầu tiên ra trường, có em ở lại Tây Bắc, có em về đồng bằng Bắc bộ, em nào cũng có việc làm. Chúng tôi càng tự hào về đóng góp của mình và vai trò thủ lĩnh của anh. Điều mừng vui nhất là mỗi buổi chiều, sau giờ làm việc, ở các sân thể thao luôn đầy ắp tiếng cười và dường như tất cả chúng tôi, từ người đã xấp xỉ tuổi 60 đến những cán bộ trẻ măng 21 - 22 tuổi, ai cũng biết chơi một môn thể thao và có thể sống tạm ổn bằng nghề nghiệp và thu nhập chính đáng của mình. Song chúng tôi vẫn nghĩ điều quan trọng nhất là anh đã điều hành cả một bộ máy nhà trường vận hành trơn tru, nhịp nhàng, hiệu quả, chuẩn bị được những tiền đề thật khả quan và lạc quan cho những bước phát triển về sau.
Năm 2005 và 2006 là những năm bộn bề công việc, mọi người bận rộn quanh năm. Nhà trường sau năm năm xây dựng đã vững vàng hơn nhiều và đủ sức đảm nhận nhiệm vụ của mình nhưng chúng tôi không thể bằng lòng với thực tại. Đại học Tây Bắc cần phải được phát triển nhanh và vững chắc. Là Hiệu trưởng, Bí thư Đảng uỷ, Tiến sĩ Đặng Quang Việt có rất ít thời gian cho riêng mình. Liên tiếp các hội thảo, các hội nghị, ngoài trường có, trong trường có nhằm tìm ra những giải pháp tốt nhất để xây dựng và phát triển nhà trường đã chiếm dụng rất nhiều thời gian và sức lực của anh. Táo bạo, quyết đoán nhưng dân chủ, anh đề xuất và thực hiện một loạt các biện pháp để nâng cao hiệu quả của tất cả các nguồn lực. Trong số các biện pháp ấy có một biện pháp mà mọi người, khi nhận thức ra luôn cảm ơn anh là việc anh quyết định thành lập nhanh Trung tâm Tin học - Ngoại ngữ và yêu cầu bắt buộc tất cả các cán bộ giảng dạy phải nâng cao trình độ về ngoại ngữ và tin học. Anh nói: phải học để không bị lạc hậu, ở Tây Bắc lại càng phải học. Điều hành các hội nghị, anh thường nói ít và rất chú ý lắng nghe. Tôi thầm cảm phục tư duy toán học sắc sảo và chính xác của anh và đặc biệt là nghệ thuật gợi mở để tạo nên không khí dân chủ, bình đẳng, để khai thác và tổng hợp trí tuệ tập thể. Anh chạy đôn, chạy đáo, gặp gỡ và tranh thủ sự ủng hộ của Bộ chủ quản, của các trường đại học, tham dự hội nghị với 6 tỉnh, với các bộ nhằm đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường. Kết quả mà tập thể nhà trường có được trong đó có phần đóng góp rất to lớn của anh: hàng trăm tỉ đồng cho xây dựng cơ bản, cho thiết bị dạy học, quý giá nhất là sự đỡ đầu của 7 trường đại học lớn đã mang tới cho toàn trường một không khí mới. Ai cũng nhận thấy tuy còn nhiều khó khăn gian khổ nhưng thật vui, thật nhiều tin tưởng và hi vọng.
Mặc dù rất bận rộn, Tiến sĩ Đặng Quang Việt vẫn dành một thời gian không nhỏ để giảng dạy cho sinh viên. Theo anh, đấy là trách nhiệm nhưng cái chính là để có nhiều hơn cơ hội trao đổi và tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em. Một lần sau giờ giảng, các sinh viên vây quanh anh, hỏi thêm về bài học. Anh dừng lại khá lâu, giải thích thật cặn kẽ, tỉ mỉ. Đồng nghiệp và sinh viên kính trọng anh, khâm phục anh về tài năng sư phạm và học vấn sâu rộng, đặc biệt là kết quả luận án Tiến sĩ của anh đã tạo được cầu nối và mở ra khả năng vận dụng giữa Toán học Cao cấp ở đại học sư¬ phạm và Toán học Phổ thông. Nhiều lần anh nhắc chúng tôi: “Phải đẩy mạnh cuộc vận động Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm. Học trò Tây Bắc rất thuần hậu, khao khát tri thức và không phụ công thầy. Các em tin tưởng mình, tìm đến mình, kính yêu mình như cha, chú, không được để các em thiệt thòi. Không làm được như vậy thì mấy mươi năm ở Tây Bắc cũng uổng phí đi thôi”. Chúng tôi vẫn nghĩ thế nhưng nghe anh nói và nhìn thấy anh bên học trò, tôi mới thực sự thấm thía.
Năm 2006, Tiến sĩ Đặng Quang Việt lại có một vinh dự lớn - anh được nhận Huân chương Lao động hạng Ba do Nhà nước trao tặng. Hôm nhận Huân chương anh nói: “Tấm huân chương này Nhà nước tặng cho tôi để ghi nhận thành tích của tôi nhưng công lao to lớn để có được nó thuộc về các đồng nghiệp của tôi, các học trò của tôi”. Sống với anh, làm việc với anh, tôi tin vào tấm lòng thành thực nói nên lời ấy của anh.
Mải vui câu chuyện, trưa đến lúc nào không biết. Anh mời chúng tôi ở lại dùng cơm. Tôi cảm ơn nhưng xin phép để khi khác. Vợ anh đang lúi húi dưới bếp, thấy vậy, chị đon đả chạy lên:
- Các bác, các chú ở lại mời cơm với nhà em đã!
Tôi trêu:
- Nhà em là ông ấy hay cả nhà?
- Cả nhà chứ! Nhà em bảo ăn cơm mà không có cả nhà có khác gì đi ăn cơm hàng xóm.
- Nhà bé tẹo thế này chúng tôi ở lại ngồi vào đâu? Chúng tôi đều là hàng xóm cả, hẳn nào ông ấy không mời.
Anh cười, chống chế:
- Tôi bảo chỉ có canh cua, các vị ấy chê.
Anh tiễn chúng tôi ra tới đường. Trời vẫn oi ả. Tây Bắc đang mùa khô hạn. Đất và người đang khao khát những cơn mưa. Bây giờ mà có mưa thì thật quý giá. Mưa sẽ làm mát dịu bầu trời, mưa làm ra ngô, ra lúa và còn làm ra cả điện nữa. Đông Bắc đã có mưa nhưng trời Tây Bắc vẫn như một cô nàng khó tính và đỏng đảnh. Những đám mây chỉ hiện ra như để trêu ngươi con người rồi lại tan đi đâu mất. Chợt có tiếng sấm từ xa vọng lại. Gương mặt anh vừa cười rạng rỡ bỗng trở nên trầm ngâm. Tôi đọc được nỗi lo toan của anh trong dáng vẻ trầm ngâm ấy: kế hoạch chuyển trường đã xây dựng xong, dù đã tính toán đến từng chi tiết nhưng vẫn lo, thế mà con đường vào trường vẫn chưa thi công, nhà kí túc sinh viên vẫn chưa nghiệm thu được, mưa đến sớm thì tiến độ sẽ chậm mất... và nhất là vấn đề nhà ở cho giáo viên. Phải an cư mới lạc nghiệp, người trẻ thì còn đỡ, những người đã hai, ba mươi năm gắn bó với Tây Bắc, với mái trường này, đã cống hiến cả tuổi xuân và vất vả gần như cả cuộc đời thì phải tính sao đây? Thấy anh trầm ngâm, tôi nói: “Lãnh đạo nghĩ gì thế? Lo vừa thôi! Nhà quản lí là phải biết làm việc và nghỉ ngơi đấy”. Anh cười hỏi lại: “Thế à?”. Nghe cách hỏi của anh, tôi đoán anh đang nghĩ: Nói thế thì đúng rồi, đúng như một chân lí nhưng có phải lúc nào cũng thực hiện được đâu.
Lại một tiếng sấm nữa vọng đến. Chúng tôi cùng nhìn lên bầu trời. Tầm mắt chúng tôi không vượt ra khỏi màu xanh của rừng cây lát. Một mùa đông khắc nghiệt và gió Lào thổi choáng váng những quả đồi quanh trường vẫn không ngăn được sự hồi sinh của rừng cây đến kì trổ lộc với những chiếc lá non mỡ màng, bóng nhẫy.
Thuận Châu, tháng Tư - 2007
Kỷ niệm K49 ĐHSP Lý ĐH Tây Bắc 2008