Ðăng Nhập

Xem đầy đủ chức năng : 5 nguyên nhân chính học ngoại ngữ không có kết quả



hermit
04-03-2011, 10:38 PM
Bài này thấy trên nhiều web ko rõ nguồn chính xác của nó là ở đâu nên mình ko ghi nguôn. Ai chưa đọc bài này thì hãy đọc nó, rất có ích:

Cần phải hiểu rõ về những nguyên nhân tại sao học ngoại ngữ không có kết quả để khắc phục. Có 5 nguyên nhân chính:

1- Không thành công vì học ngoại ngữ không có mục đích rõ rệt

Việc học ngoại ngữ của một số anh chị em chỉ học theo phong trào chứ không có mục đích rõ rệt, nên nhất định không có kết quả. Nếu được tuyển chọn đi học ở nước ngoài theo dự án hay được học bổng thì chắc chắn họ sẽ học có kết quả. Mặt khác, hiện nay trong cơ chế thị trường, có một số thanh niên muốn đi làm cho công ty nước ngoài nên đã tích cực theo học hoặc tự học ngoại ngữ. Để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng, những người đó có mục tiêu rõ rệt, họ học rất “vào”, không chỉ hứng thú mà còn vì “miếng cơm manh áo nữa, mà họ phải học hết mình”, họ học chóng giỏi là vì thế. Lấy ngay kinh nghiệm bản thân tôi (Vũ Văn Chuyên) khi biết tôi được tuyển đi làm chuyên gia ở Ăng-gô-la (Angola), thế là tôi lăn lưng vào học tiếng Bồ Đào Nha, học chết thôi, học không kể ngày đêm, để khi sang Angola còn có thể hoàn thành nhiệm vụ được. Còn tôi (Phạm Văn Vĩnh ) khi biết rằng tôi sẽ sang Mông Cổ và Liên xô, dự Hội nghị quốc tế họp ở U-lan-ba-to (Mông Cổ), sau đó phải lưu lại ở Mat-xcơ-va để làm việc trong một khoảng thời gian nhất định (lại được biết ở Mông Cổ nhiều người lại thường hay sử dụng tiếng Nga), thế là khi đó tôi cắm cổ, chúi mũi vào ôn lại tiếng Nga để sang đó còn có đất dụng võ. Sau này, vì ít sử dụng tiếng Nga, nên không lưu loát bằng các tiếng Pháp, Anh, Đức, Bồ Đào Nha, Quốc tế ngữ Esperanto vì những tiếng này chúng tôi đã dạy và soạn nhiều sách xuất bản liên tục từ 1950 đến nay. Thế đấy! học ngoại ngữ mà có mục đích thì dễ “vào” biết bao nhiêu! Còn khi ít sử dụng, lại quên ngay. Văn ôn, võ luyện, quy luật đó vô cùng quan trọng trong việc học và sử dụng ngoại ngữ.

Mấy năm nay, có khá nhiều người đi học tiếng Đức, phần thì họ mong sang Đức vì có người nhà hỗ trợ để học tiếp đại học, phần thì mong muốn sang “Miền đất hứa” để vừa học vừa làm. Thực tế đâu có dễ dàng như vậy? Tuy nuôi “ảo vọng” nhưng vì có mục đích nên họ học “chết thôi”, còn nhưng anh chị em học cho biết chút ít tiếng Đức để đi theo diện “đoàn tụ gia đình” thì học mới uể oải làm sao? Trung tâm Ngoại ngữ và Tin học 19-5 chúng tôi được Bộ Giáo dục & Đào tạo cho phép hoạt động tư vấn tuyển sinh du học nước ngoài, nên chúng tôi đã phải đi nhiều nước. Trong dịp sang các bang nước úc để xem tình hình của sinh viên mà chúng tôi đã đưa họ sang đó để du học, xem họ học tập sinh sống ra sao. Khi đến làm việc tại Trường Đại học Anh văn Quyn-x-lend ( QCE ) thì ông Rô-be S-Mít (Robert Smith),Giám đốc QCE có chỉ cho chúng tôi một vài học viên cá biệt đang học tiếng Anh một cách rất uể oải, cầm chừng, đầu gần gục xuống bàn … Họ không có một chút khí thế học tập nào cả, chưa nói tới việc họ học hăng hái như những anh chị em khác. Sau hỏi kỹ giáo vụ và một số sinh viên khác thì biết rõ ngay là những anh chị em đó sang úc với mục đích chính là đi lao động, làm thêm là chính, chứ còn học ngoại ngữ là phụ, nên kết quả học tập chẳng đâu vào đâu. Thế đấy, làm việc gì cũng phải mục đích, nhưng học ngoại ngữ lại càng cần phải có mục đích rõ rệt.

2 – Không thành công vì học ngoại ngữ thiếu kiên trì

Một số không ít người thiếu kiên trì trong học tập ngoại ngữ. Những tháng đầu, năm đầu, nội dung học còn đơn giản, trí óc làm việc còn thuận lợi, tốc độ tiến bộ nhanh, nên ai học cũng thấy phấn khởi. Nhưng những ngày sau, tháng sau, năm sau, số lượng “từ” ngày càng nhiều lên, trí nhớ phải làm việc nhiều, nội dung ngữ pháp cũng phức tạp hơn, nên việc học ngoại ngữ đã trở thành khó khăn hơn. Nhiều bài tập không làm được. Vắng lớp một vài buổi thì hôm sau đến nghe ù ù, cạc cạc, chán vì không hiểu, tắc lưỡi, học buổi đực, buổi cái rồi đành nghỉ hẳn. Những người thiếu đức tính kiên trì đã không chịu tìm cách khắc phục những khó khăn, vất vả đó để vượt lên; họ đâm chán nản và bỏ cuộc. Thế là công dã tràng.
Nhà biên soạn Bách Khoa Toàn Thư đầu tiên của nước Pháp Đê-nít Đi-đơ-rô (Denis Diderot) (1713-1784), đã kiên trì suốt đời học thêm ngoại ngữ để có thể tham khảo các sách của nhiều nước khác nhau về nhiều lĩnh vực: toán học, thiên văn học, triết học, ngôn ngữ, pháp luật, văn học, nghệ thuật… Nhờ biết nhiều ngoại ngữ nên Diderot mới tham khảo được các tác phẩm khoa học, nghệ thuật, văn học của nhiều nước khác nhau. Nhờ có nhiều ngoại ngữ, nên Diderot mới có đủ khả năng đảm nhiệm vị trí Tổng Biên tập công trình Đại Bách Khoa Toàn Thư (Grande Encyclopédie) của nước Pháp.. Trong suốt 25 năm liền từ 1747 (34 tuổi) đến mãi năm 1772 (59 tuổi), nhờ kiên trì học tập và lao động trí tuệ nên từ 1751 đến 1772, trong suốt 21 năm trời đằng đẵng Diderot đã xuất bản được 21 tập Từ điển Bách khoa. Vậy, không kiên trì không thể nào liền trong 25 năm làm cùng một công việc trí tuệ vô cùng nặng nhọc như học ngoại ngữ và biên soạn Bách khoa toàn thư được. Xin xem thêm chương: ” Bài học rút ra từ Đi-đơ-rô ” cũng có trong cuốn này.

3 – Không thành công vì học ngoại ngữ không có phương pháp.

Nhiều người chưa biết cách học ngoại ngữ, họ chưa tìm ra phương pháp học tốt nhất, thích hợp với điều kiện và tâm sinh lý của cùng lứa tuổi. Thanh niên tiếp thu nhanh, nhưng không kiên trì. Người lớn tuổi, tiếp thu chậm, nhất là những người chưa biết một ngoại ngữ nào học rất vất vả. Chúng tôi (Phạm Văn Vĩnh) khi dạy tiếng Đức cho một số bà vợ của các ông chồng trước đây đã đi lao động ở Cộng hòa Dân chủ Đức, nhưng nay một số các ông chồng đó đã tìm cách ở lại được bên Đức. Nay các bà muốn học chút ít tiếng Đức để khi đoàn tụ gia đình đỡ bỡ ngỡ trong những ngày đầu mới sang Đức. Quả thực là “dạy các bà đó khó khăn và vất vả hơn kéo xe bò”, dù rằng họ có thời gian, nhưng vì các bà đó chưa tiếp cận với ngoại ngữ, nên dậy khó ơi là khó!. Còn với những thanh niên có họ hàng, bà con ở bên Đức bảo lãnh cho họ sang thì họ học rất chăm và tích cực. Phần muốn học để sang đó du học tự túc, phần muốn thành thạo tiếng Đức, để nếu có điều kiện lao động thêm để “cứu nước, cứu nhà” như họ tuyên bố, (nhưng thực chất là cứu bản thân họ trước đã). Họ học có bài bản, ham học sâu hơn, nên ngoài giáo trình đang học là Themen neu, chúng tôi (Phạm Văn Vĩnh và TS ngữ văn Nguyễn Quang) còn viết thêm nhiều giáo trình phụ để họ tham khảo như: “300 trang mẫu câu và từ vựng tiếng Đức” hoặc “Tiếng Đức cấp tốc dành cho người mới học và tự học” hoặc “Luyện dịch tiếng Đức qua các bài song ngữ”, hoặc “Ngữ pháp cơ bản tiếng Đức”… giúp cho họ hiểu sâu hơn về tiếng Đức.
Muốn học tốt ngoại ngữ, không thể lao đầu vào học vẹt được, vì học từng từ riêng biệt thì rất khó thuộc, chưa kể khi ghép vào thành câu rất ngô nghê vì chưa nắm được ngữ pháp.

Cần phải học một cách toàn diện. Song song với học từ còn cần phải học ngữ pháp, đồng thời tập phân tích các bài khoá về nội dung, văn phong, bút pháp. Lúc đầu làm việc đó rất ngại vì khó quá sức mình, chưa kể việc đó rất khô khan. Nhưng hãy cứ cố tự bắt mình phải “húc đầu” vào khó khăn đó, lúc đầu thực hiện rất chậm. sau nhanh dần. Lúc đầu khó khăn rất nhiều, nhưng sau người học dần dần thấy dễ, nhanh, thú vị và thành thói quen và nếp tốt.

Bạn đang đọc cuốn sách này đây, chính là bạn đã ý thức được học ngoại ngữ phải có phương pháp đấy! Nào là: học qua từ điển, học theo truyền hình, học qua băng hình, băng cát sét, học bằng các đĩa CD, học hàm thụ, học từ xa học theo sách tự học, học tại chức…( sẽ xem ở các chương sau ) Rồi chúng ta sẽ cùng nhau trao đổi kỹ các phương pháp đó và thực hành trong điều kiện, hoàn cảnh riêng của ta.

“Không đi, sao tới đích được? Không bắt tay vào việc, sao biết được khó dễ và làm sao có kết quả tốt được? ” Nhà bác học La-voa-di-ê ( Lavoisier ) đã từng nói: ” Không có cái gì tự tạo ra ” ( Rien ne se crée ) Vậy, ngoại ngữ không phải từ trên trời rơi xuống, mà dù có từ trên trời rơi xuống, nhưng ta có hứng lấy nó hoặc có nhặt nó lên không đã? Hãy tự thành thật trả lời đi rồi xông ngay vào học một cách khoa học và đều đặn ngay từ giờ phút này đi, đừng rụt rè hoặc trù chừ nữa.

4- Không thành công vì học ngoại ngữ mà không thực hành, không tạo ra được môi trường đối thoại

Có một số người lớn tuổi đã học theo phương pháp ghi nhớ máy móc không phù hợp với lứa tuổi của họ. Nhiều đồng chí cán bộ văn hoá, khoa học chỉ học để đoc sách hoặc tự dịch tài liệu, nên khả năng “nói”, “nghe”, “giao tiếp”… thì lại kém hẳn vì không thực hành, không tạo ra môi trường đối thoại. Họ học mất rất nhiều thời gian nhưng hiệu quả lại chẳng được bao nhiêu.

Dù không có môi trường đối thoại cũng phải tìm mọi biện pháp để đối thoại bằng tiếng nước ngoài mà mình đang học. Chẳng hạn trường hợp của học giả Tiền Chung Thư. Tiền Chung Thư sinh năm 1910, người huyện Vô Tích, tỉnh Giang Tô (Trung Quốc). Tốt nghiệp ngành ngoại giao trường Đại học Thanh Hoa (TQ), ông tiếp tục theo học tại Paris và tại trường Đại học Oxford (Anh). Từ 1953, Tiền Chung Thư là Phó Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Khoa học Trung quốc.

Về cổ văn, ông tinh thông Hán ngữ. Về ngoại ngữ, ông tinh thông 8 thứ tiếng: Anh, Pháp, Đức, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, La Tinh. Trước đây, Trung Quốc chưa “mở cửa”, giao lưu quốc tế bị hạn chế nên thế giới chưa biết tới. Nhưng sau khi đổi mới, đến năm 1979, trong một Hội nghị học thuật gồm nhiều nước, Tiền Chung Thư đã tỏ rõ tài năng đối thoại của ông. Tiền Chung Thư đã trình bày những luận văn nghiên cứu sâu sắc bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Lại trong một Hội nghị về Hán học ở Italia các học giả Tây phương vô cùng ngạc nhiên khi nghe Tiền Chung Thư trích dẫn các tác phẩm của nhiều tác giả cổ điển (auteurs classiques) và hiện đại của nước ý một cách tinh tường, sâu rộng và sắc sảo nữa. Tương tự, tại nhiều Hội nghị học thuật quốc tế ở Paris, London, New York… Tiền Chung Thư cũng đã tạo ra môi trường đối thoại và đã thu hút mọi người bằng kiến thức uyên thâm, kiến giải tuyệt vời.

Dĩ nhiên đó chỉ là gương sáng để chúng ta phấn đấu noi theo mà thôi! Nhưng hiện nay, Tổ quốc ta đã “mở cửa”, đẩy mạnh du lịch; khách nước ngoài vào Việt Nam cũng đã nhiều và “Tây ba lô” đến cũng lắm. Họ hay hỏi thăm các đường phố và vào các quán bình dân hoặc quán “cơm bụi”, sao ta không tranh thủ chỉ đường hoặc tự nguyện dẫn họ đến phố họ hỏi và nhân lúc dẫn đường cho họ, ta thực hành vốn ngoại ngữ ít ỏi của ta! Vừa được tiếng là nhân dân Việt Nam rất “hữu nghị, mến khách” vừa được thực hành tiếng nước ngoài. Đừng rụt rè nữa cứ xông lên, nói tiếng nước ngoài thử xem sao? Có mất gì đâu! Tại khu vực phường Bách khoa, hoặc ở khu vực Quận Thanh Xuân đều có “Khoa tiếng Việt cho người nước ngoài ” ( TT 19-5 cũng được Bộ GDĐT cho phép mở Khoa tiếng Việt cho người nước ngoài, hiện nay do GS Bùi Phụng phụ trách), sinh viên nước ngoài học tại đó, rất hay ra phố ăn quà, mua sắm, tản bộ, tranh thủ lúc đó ta làm quen với họ để thực hành “kỹ năng nói” của ta. Nhiều thanh niên còn kết bạn với họ, thậm chí rủ họ lên.. Nhật Tân để cụng ly và ăn “mộc tồn” nữa! Có người mạnh dạn dạy họ thực hành nói tiếng Việt, ngược lại, họ lại dạy lại người hướng dẫn tiếng nước ngoài bằng chính bản ngữ của họ. Tiện cả đôi đường. Bao nhiêu là biện pháp, chỉ tại ta không sáng tạo ra thôi! Nếu thực sự yêu thích ngoại ngữ thì thiếu gì cách và thiếu gì điều kiện để học cho tốt, phải không các bạn ham thích ngoại ngữ của chúng tôi ơi?

5 – Không thành công vì không chịu tự học là chính

Học ngoại ngữ, phải tự học là chính. Không cứ học ngoại ngữ, mà học bất cứ môn gì, cũng phải tự học là chính. Nhưng với học ngoại ngữ thì khâu tự học quan trọng vô cùng. Cố GS. Tạ Quang Bửu, nhà toán học xuất sắc, nhà hoạt động khoa học và giáo dục, nhà bách khoa toàn năng, học vấn uyên thâm, phát triển toàn diện, nhân hậu, một trí thức thông minh tuyệt vời mà vẫn luôn luôn tự học để theo kịp thời đại. GS Tạ Quang Bửu, một trí thức Xã Hội Chủ Nghĩa có tầm cỡ Quốc tế, trung thực, nhân hậu, sống thanh bạch trong sáng luôn luôn là một tấm gương sáng chói về tự học, trong đó có cả nghị lực tự họ ngoại ngữ nữa… Thầy Bửu tinh thông nhiều ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đức, Trung quốc, Hy Lạp cổ, La Tinh, Nga, Ba lan… Những tiếng Anh, Pháp được đào tạo cơ bản, các tiếng khác còn lại đều do tự học. Một gương “hiếu học” ít ai sánh được! Năm 1963, nhà toán học Ba lan Mikusinsky gửi cho thầy một kết quả nghiên cứu mới của mình, Thầy Bửu đọc thẳng bằng tiếng Ba lan, sau đó thuyết trình về toán tử Mikusinsky cho các thầy giáo dạy toán ở các trường Đại học Hà Nội.

Giáo sư Hà Văn Tấn người xã Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, quê hương của đại văn hào Nguyễn Du và được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khi mới 20 tuổi. Muốn trụ được ở vị trí mới khi còn trẻ, ông phải lao vào tự học thêm là tất yếu. Thế là ông cho rằng, muốn tự học có hiệu quả thì chỉ có đọc sách. Mà muốn đọc sách thì phải nắm vững ngôn ngữ. Từ nhận thức đó, ông say mê học thêm cả Việt ngữ, lẫn một số ngoại ngữ. Ngoài tiếng Anh, tiếng Pháp ông đã được học ở phổ thông và đại học, ông còn tự học các ngôn ngữ Nga, Đức, Nhật, Pháp. Cách học của ông là dùng từ điển để dịch thẳng thông qua dịch dần nắm bắt hiện tượng ngữ pháp. Cách học này quả là vất vả, chỉ dành cho những người có chí. Bên Hung-ga-ri, Nhà ngôn ngữ học trẻ tuổi Daby đã có cách học sáng tạo như vậy.

Giáo sư Lê Khả Kế (sinh ngày 15-6-1918, mất ngày 24-7-2000) tốt nghiệp trường Đại học Nông nghiệp Đông dương, chứ đâu có học về ngoại ngữ? Là chủ nhiêm Khoa Hoá-Sinh-Địa trường Đại học Sư phạm Hà Nội và trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1955-1963), nhưng vì nhu cầu công tác, GS Lê Khả Kế đã tự học ngoại ngữ rất chăm và đều đặn nên mới có trình độ cao về ngoại ngữ để sau này được tín nhiệm chuyển

hermit
05-03-2011, 12:12 AM
Trong thời đại ngày nay. biết ngoại ngữ gần như là tất yếu. Những ai có vốn tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Trung kha khá, khả năng kiếm được việc làm sẽ lớn hơn và có cơ hội để giao tiếp với toàn thế giới. Mặc dù trở thành người biết nhiều ngoại ngữ là không dễ, song mạnh dạn thử sức trong lĩnh vực này là không bao giờ thừa cả.


Muốn học tốt ngoại ngữ, người học phải biết hội tụ một số yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng là tính kiên nhẫn, cẩn thậnvà nuôi dưỡng động cơ. Học ngoại ngữ là một chặng đường dài, trên đó thường xuyên xuất hiện những khúc ngoặt dễ làm người học nản lòng. Cho nên học ngoại ngữ như thế nào? Cần phải làm gì để đạt kết quả tốt nhất? ...là nhữug câu hỏi mà để trả lời người ta cần đến lời khuyên của cả các chuyên gia về phương pháp dạy, học lẫn các chuyên gia tâm lý học. Có thể tạm thời đưa ra 5 loại trừ ngại và ý kiển của các chuyên gia trong hai lĩnh vực, phương pháp học và tâm lý học.

1 ) Tư tưởng "cả thèm chóng chán"

Có nhiều người học ngoại ngữ từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông. Nhưng những năm tháng ấy hay khiến người ta liên tưởng đến cuốn sách giáo khoa dày cộp và tẻ nhạt với một mớ kiến thức ngữ pháp vô cùng rắc rối. Sau một thời gian, vì những lý do khác nhau, nhiều người quay lại với chuyện học ngoại ngữ ở những trường có tiếng tăm hẳn hoi. Nhưng rồi họ phải nhai đi nhai lại những đề tài cũ và nhồi vào đầu các quy tắc ngữ pháp cũ rích. Không có gì tẻ nhạt hơn. Nhiều người bỏ học, sau đó lên dây cót tinh thần và lại bắt đầu khóa học mới. Nhưng thường là thời gian tham gia khóa học sau ngắn hơn khóa học trước. Khi xuất hiện các hình thức học qua băng đĩa, qua Internet, nhiều người hào hứng lao vào với hy vọng mọi thứ sẽ dễ dàng hơn. Nhưng thất bại vẫn hoàn thất bại. Họ không sao gò mình vào việc làm bài tập ở nhà và những công việc đòi hỏi phải kiên trì, bền bỉ. Họ tự hỏi: Tại sao mình không gặp được một phương pháp phù hợp giúp mình có động lực mạnh mẽ để học tốt? Phải chăng học ngoại ngữ luôn là công việc tẻ nhạt như thế này?

Những người dạy ngoại ngữ không nghĩ như vậy. Theo họ, học ngoại ngữ không phải là mộtcông việc tẻ nhạt, song cũng không thể coi nó là một trò chơi hấp dẫn từ đầu đến cuối. Ngữ pháp cần được giải thích kỹ càng và bài tập thực hành cần phải làm thường xuyên, liên tục. Những việc làm này rất khó hấp dẫn người học. Tất nhiên, nhiều trường ngoại ngữ áp dụng phương pháp kết hợp học ngữ pháp với hội thoại dựa trên một số trò chơi. Chẳng hạn học ngoại ngữ thông qua việc nấu nướng các món ăn dân tộc, tổ chức gặp gỡ các nhân vật tên tuổi. Nhưng bất cứ trường nào, dù chuyên nghiệp đến đâu cũng không thể nghĩ ra một phép mầu để trong vòng hai tuần biến một người bình thường thành người sử dụng thành thạo một ngoại ngữ. Người học rất cần thử sức mình bằng tự học. Ngoài ra cũng nên tìm một giáo viên có nhiều kinh nghiệm để có thể bày tỏ nguyện vọng của mình. Con đường ấy xem ra có vẻ dễ đi.

Trong vấn đề này, nhà tâm lý học có thể có ý kiến riêng. Nhưng tìm cho mình phương pháp học tốt nhất, phù hợp với tính cách con người mình, là việc nên làm. Tuy nhiên điều quan trọng là người học đừnh bao giờ ảo tưởng vào một phương pháp siêu việt, nhờ đó ngôn ngữ nước ngòai tự động chảy vào đầu mình. Những yếu tố như kiên nhẫn, cố gắng liên tục, duy trì tính kỷ luật cao, bao giờ cũng rất cần thiết. Nếu người học mắc bệnh "cả thèm chóng chán" thì không khi nào anh ta có thể đạt tới mục tiêu đề ra. Ai đó đã nói câu:"Đối với nữ diễn viên bale tồi thì cái gấu váy cũng là vật cản". Câu nói này cũng có thể đúng với người học ngọai ngữ .Một khi anh ta không dám khắc phục một khó khăn nhỏ mà chỉ lo bới lông tìm vết trong những nguyên nhân vụn vặt, thất bại là điều không tránh khỏi. Cho nên quan trọng nhất là xem lại động cơ của mình và tạo ra hứng thú học hành.
2,3,4... bình thường nên ko post:ham:

5) Sốt ruột vì không thấy mình tiến bộ

Khi học ngoại ngữ được một thời gian, nhiều người thường có nhận xét là giai đoạn đầu khá dễ dàng, sau đó cứ như mình đứng yên tại chỗ, hiệu quả không lớn so với thời gian và công sức bỏ ra. Họ thấy mình không đủ từ ngữ để thể hiện điều mình muốn nói, trình độ các cuộc đàm thoại không được nâng lên là mấy. Khi rời sách giáo khoa chuyển sang đọc báo chí, họ lại càng hoang mang hơn vì không hiểu được những gì đang đọc, động đến từ nào cũng phải tra từ điển. Họ tìm nguyên nhân ở người dạy vì cho rằng thầy cô đã giảm tốc độ, suốt ngày quanh đi quẩn lại với những bài tập đã làm. Nhiệt tình của người học giảm dần, đến nỗi mất hứng hoàn toàn. Cuối cùng, họ đổ tại năng khiếu ngoại ngữ của bản thân mình.

Theo ý kiến của các chuyên gia, học ngoại ngữ độ hai năm đã thấy sốt ruột thì đó là một sai lầm. Ðể nắm được một ngoại ngữ ở trình độ đọc báo khá thoải mái hoặc hiểu các đoạn đối thoại trong phim, người học cần nhiều thời gian hơn thế. Ðừng vội đổ lỗi cho năng khiếu ngoại ngư của mình. Ðơn giản học ngoại ngữ là một quá trình dài hơi. Nếu ai đó cho rằng nhịp độ học quá chậm thì hãy yêu cầu đẩy nhanh nó lên. Ðừng gói gọn việc học trong những giờ trên trên lớp và đừng vội từ bỏ việc đọc những cái ngoài sách giáo khoa. Làm được như vậy, kết quả mong muốn sẽ xuất hiện.

Nhà tâm lý học cho rằng cách khắc phục tình trạng này là người học không nên đặt ra cho mình "mức xà" quá cao. Trong việc học ngoại ngữ, chủ nghĩa cầu toàn là cái cần khắc phục. Sự chăm chỉ và ý chí sắt đá cần thiết hơn bao giờ hết. Ngoài ra ở giai đoạn đầu học tập sự tiến bộ thường là nhanh nhất. còn sau đó với thời gian chậm dần. Bạn đừng tập trung quá nhiêu vào hiệu quả. Bạn đừng đau khổ vì không hiểu được kiệt tác của Gớt hay Sếchpia bằng nguyên bản. Cái gì cũng cần phải có thời gian!