Xem đầy đủ chức năng : [TD] Bí Mật Của Nicholas Flamel Bất Tử - Mechaeal Scott
Dạ Phong
05-11-2010, 08:57 PM
Bí mật của Nicholas Flamel bất tử
Michael Scott
Tập 1 - Nhà giả kim
http://i755.photobucket.com/albums/xx191/maianh_01/werr.jpg
Lời mở đầu
Tôi là một huyền thoại.
Cái chết không thể quật ngã tôi, bệnh tật không thể chạm vào tôi.
Hãy nhìn tôi là bạn sẽ nhận ra rằng rất khó đoán biết tuổi của tôi. Và đúng thế, tôi sinh ra vào năm 1330 duơng lịch tức là hơn sáu trăm bảy mưoi năm truớc.
Tôi đã từng đóng rất nhiều vai trong cuộc đời mình: một bác sĩ và một đầu bếp, một ngưòi bán sách và một ngưòi lính, một giáo viên ngôn ngữ và hóa học, cả một nhân viên văn phòng luật sư lẫn một tên ăn cắp.
Nhưng truớc khi nhập vào vai trò đó tôi là một nhà giả kim. Tôi là Nhà Giả Kim.
Tôi đuợc biết đến như Nhà Giả Kim vỉ đại nhất mọi thời đại, đuợc những ông vua và hoàng tử, những hoàng đế và chính Đức Giáo hoàng cất công tìm kiếm.
Tôi có thể biết những kim loại bỉnh thuờng thành vàng, tôi có thể biến những viên đá bình thuờng thành những viên đá quý. Hơn thế nữa: tôi đã khám phá ra bí mật của Sự sống Bất tử đuợc giấu kín trong một quyển sách chứa đầy ma thuật cổ đại.
Giờ đây vợ tôi là Perenelle đã bị bắt cóc và quyển sách đã bị đánh cắp. Mất đi quyển sách, cả tôi và cô ấy sẽ già đi. Chỉ trong một vòng tròn trăng, chúng tôi sẽ khô héo và sẽ chết.Và nếu như chúng tôi chết đi, những ma quỷ và thế lực hắc ám mà chúng tôi từ lâu đã luôn chiến đấu chống lại sẽ chiến thắng. Những giống loài Elder sẽ lại thống trị Trái Đất, và chúng sẽ quét sạch loài ngưòi trên hành tinh này.
Nhưng tôi sẽ không gục ngã mà không chiến đấu.
Vì tôi là Nicholas Flamel bất tử
Viết vào hôm nay, thứ Năm ngày 7 tháng Sáu tại San Francisso , thành phố mà tôi xem như là quê hương .
Nhờ mod sửa lại hộ tớ tên tác giả ở phần tên topic nhé, thanks mod nhiều :")
Dạ Phong
05-11-2010, 09:03 PM
Chương một
OK - bồ hãy nói cho mình nghe đi: tại sao ngưòi ta lại muốn mặc áo bành tô ở San Francisco giữa mùa hè nóng nực này?" Sophie Newman vừa nói vừa ấn những ngón tay của mình vào cặp tai nghe không dây Bluetooth.
Ở phía bên kia châu lục, cô bạn gái mê thời trang Elle của cô hỏi lại, " Đó là kiểu áo bành tô gì vậy?"
Chùi mạnh tay vào tấm vải tạp dề, Sophie buớc ra đằng sau quầy tính tiền cảu quán cà phê vắng vẻ đứng nhón chân bên cửa sổ, nơi cô nhìn thấy những ngưòi đàn ông nhô lên từ chiếc xe hơi đậu bên kia đuờng. "Những chiếc áo khoác len đen nặng nề dạy cộp. Ngay cả găng tay của họ cũng toàn màu đen. Cả mấy cặp kính râm nữa." Cô tì mặt mình vào tấm kính cửa. "Ngay cả trong thành phố này, thì chuyện này cũng trông thật kì quặc."
"Có lẽ họ là những ngưòi làm dịch vụ lễ tang, há?" Elle phán đoán, giọng nói của cô nghe rè rè qua chiếc điện thoại cầm tay. Sophie có thể nghe thấy những âm thanh ồn ào và ảm đạm của nhạc rock làm nền cho giọng nói của Elle - có thể là ban nhạc Lacrimosa hay Amorphis. Elle vốn chua bao giờ vuợt qua thể loại Goth ưa thích của mình.
"Có thể bồ nói đúng" , Sophie nói với vẻ hoài nghi. Cô đã tán gẫu một lát với bạn mình truớc khi hình ảnh chiếc xe hơi kì lạ làm cô vụt để ý. Đó là một chiếc xe dài bóng muợt, trong như xe cổ điển đen trắng. Khi chiếc xe luớt ngang qua cửa sổ, ánh mặt trời phản chiếu vào những ô cửa kính xe màu đen, rồi từ đó thoáng soi sáng phía bên trong quán cà phê với ánh sáng vàng lấp lánh và ấm áp làm cô chói mắt. Sophie vội chớp mắt để xua tan đi những đốm đen đang nhảy múa truớc mắt mình và cô nhìn thấy chiếc xe chạy về phía cuối của ngọn đồi rồi chậm rãi quay lại.Không hề ra tín hiệu, chiếc xe đỗ xịch ngay truớc cửa Tiệm Sách Nhỏ ngay phía bên kia đuờng.
"Có lẽ họ là mafia," Elle phỏng đóan với vẻ hồi hợp. "Ba của mình biết một tay vốn là mafia. Nhưng ông ta chạy một chiếc Prius," cô nói thêm.
"Chiếc này chắc chắn không phải là Prius," Sophie nói. Cô nhìn chiếc xe lần nữa với hai ngưòi đàn ông bó chặc mình trong những chiếc áo khoác, găng tay và mũ nặng nề đang đứng trên đuờng. Đôi mắt của họ giấu kín đằng sau những đôi kính đen to quá cỡ.
"Có thể họ bị lạnh", Elle lại nói. "Dạo này ở San Francisco trời có lạnh không?"
Sophie Newman liếc nhìn lên đồng hồ và chiếc nhiệt kế treo trên tuờng ngay phía quầy tính tiền đằng sau cô. "Bây giờ ở đây là 2 giờ 50 phút... với nhiệt độ là tám mưoi mốt," cô nói. "Tin mình đi, họ không lạnh đâu. Họ có thể chết ngốt mất. Mà, đợi đã," cô nói, đột ngột cắt ngang chính mình, "có điều gì đó đang xãy ra".
Cửa sau của chiếc xe hơi bật mở và một ngưòi đàn ông khác cao lớn hơn cả hai ngưòi đàn ông truớc đó, buớc ra khỏi xe một cách cứng nhắc khó nhọc. khi ông ta đóng cửa xe, ánh mặt trời khẽ chiếu sáng khuôn mặt ông ta và Sophie lờ mờ nhìn thấy khuôn mặt trắng xám xanh xao trông d8ầy vẻ bệnh hoạn. Cô điều chỉnh âm luợng của cặp tai nghe. "Nghe này. Bồ nên nhìn thấy caí gì vừa chui ra khỏi xe. Một ngưòi đàn ông to lớn với làn da xám ngóet. Xám xịt. Đó chính xác là những gì mình thấy, có lẽ họ có một làn da đặc thù nào đó."
"Mình từng xem một bộ phim tài liệu trên kênh National Graphic nói về những ngưòi không thể đi ra ngoài duới ánh sáng mặt trời..." Elle bắt đầu, nhưng Sophie không còn nghe bạn mình nói nữa.
Một ngưòi đàn ông thứ tư buớc ra khỏi xe.
Ông ta là một ngưòi nhỏ bé, trông hoạt bát hơn nhiều so với ba chiếc hữu. Ông mặc một bộ đồ lớn gọn gàng màu than chì trông hơi có vẻ lỗi thời nhưng Sophie có thể đoán chắc bộ đồ này đuợc may đo cho riêng ông. Mái tóc xám ánh kim của ông đuợc cột lại thành một chiếc đuôi ngựa đuợc ôm lấy khuôn mặt góc cạnh xuơng xẩu trong khi bộ râu hình tam giác màu đen điểm những sợi xám phủ lấy miệng và càm ông. Ông rời khỏi chiếc xe và tiến tới dưói mái vòm kẻ sọc che phủ phía trên những kệ sách bìa mềm màu sắc *** sỡ và lật qua lật lại nó trên tay mình. Một hột nút ngọc trai ở cổ tay áo sáng lóe lên duới ánh mặt trời.
"Họ đang tiến vào bên trong tiệm sách," Sophie nói vào chiếc điện thoại cầm tay của mình.
"Josh có đang làm việc ở đó không?" Elle vội hỏi ngay lập tức.
Sophie phốt lờ vẻ quan tâm đột ngột của bạn mỉnh. Chuyện cô bạn thân nhất đâm ra thích ngưòi em sinh đôi của cô nghe có vẻ lạ đời". Cô tắt máy, và gỡ cặp tai nghe ra và lơ đãng vuốt vuốt chiếc tai nghe nóng của mình trong khi mắt vẫn quan sát một cách thích thú ngưòi đàn ông nhỏ thó. Có một điều gì đó về ông ta... một điều gì đó thật kì quặc. Có lẽ ông ta là một nhà thiết kr61 thời trang, cô nghĩ, hay là một nhà sản xúat phim, hay là một nhà văn: cô để ý thấy nhiều nhà văn ăn mặc kỳ dị khác thuờng. Cô sẽ để cho ông ta một vài phút đi vào bên trong cửa tiệm, và rồi cô sẽ gọi cho đứa em sinh đôi của mình để yêu cầu cậu tuờng thuật về những gì đang xảy ra.
Sophie sắp sửa quay đi thì ngưòi đàn ông da xám ngoét xoay ngưòi lại và có vẻ như nhìn thẳng vào cô. Vì đang đứng dưói mái hiên tiệm sách, khuôn mặt ông ta mờ kuất trong bóng râm, và chỉ trong một khoảng khắc, đôi mắt ông có vẻ như đang lấp lánh.
Sophie biết rằng - cô chỉ biết - rằng không có cách nào khiến cho ngưòi đàn ông nhỏ ngưòi xám ngoét có thể nhìn thấy cô: cô đứng đối diện đằng sau một tấm kính sáng lấp lánh phản chíêu ánh mặt trời của buổi chiều. Cô có thể trở nên vô hình duới sự che chở của vùng tối ảm đạm đằng sau tấm kính.
Và rồi...
Và rồi trong một khoảnh khắc ngắn ngủi mắt họ gặp nhau, Sophie cảm thấy những sợi long li ti nơi mặt sau bàn tay và cánh tay mình nhói lên nhè nhẹ và có cảm giác như có một luồn khí lạnh chạy dọc phía đằng sau cổ và mắc kẹt trong những lọn tóc vàng loăn xoăn ôm lấy má cô. Sự va chạm của hai ánh mắt chỉ kéo dài ở một giây truớc khi ngưòi đàn ông nhỏ bé quay đi, nhưng Sophie có một ấn tuợng rất mạnh rằng ông ta nhìn thẳng vào cô.
Trong giây phút truớc khi ngưòi đàn ông xám ngoét và ba chiến hữu ăn mặc nặng nề của ông ta biến mất đằng sau cánh cửa tiệm sách, Sophie quyết định là cô không hề thích ông ta.
Mùi bạc hà cay.
Và trứng thối
"Tật ghê tởm". Josh Newman đứng ngay giữa hầm chứa đồ của tiệm sách và hít thở thật sâu. Những mùi đáng tởm này đến từ đâu mới được? Cậu nhìn xung quanh những chiếc kệ cao chất đầy sách và tự hỏi mình lẽ nào một vật gì đó đã bò vào phía sau những dãy kệ và chết ở trong đó? Cái gì đã gây ra một mùi hôi thối và khỏ ngửi như vậy? Chiếc hầm khá nhỏ và tù túng nên thuờng có mùi khô mốc. Không khí trong hầm trĩu nặng đủ loại mùi từ mùi của giấy cũ đến huơng vị dày đặc của bì da trộn lẫn với những chiếc mạng nhện dơ bẩn. Josh ưa thích mùi vị pha trộn đó; cậu luôn cho rằng mùi đó rất ấm áp và dễ chịu, như huơng vị quế và những huơng liệu thuờng làm cậu nhớ đến lễ Giáng Sinh.
Bạc hà nồng cay.
Sắc bén và đậm đặc, mùi bạc hà đâm thẳng vào bầu không khí cô đặc của hầm chứa. Đó là mùi của một loài kem đánh răng mới hay các loại thảo mộc mà chị của Josh phục vụ cho khách trong tiệm cà phê phía bên kia đuởng. Như một lá dao sắc, mùi huơng nồng cay xuyên qua lớp mùi dày đặc của da và giấy. Nó mạnh đến nổi làm cho xoang mũi của cậu kích thích dữ dội và cậu cảm giác như mình sẽ hắc xì hơi vào bất cứ lúc nào. Cậu nhanh chóng tháo cặp tai nghecủa chiếc Ipod ra khỏi tai. Hắc hơi với headphone dù sao cũng không phải là một điều hay lắm, nó làm tai bạn ù tai.
Trứng.
Hôi thối và ghê tởm, cậu nhận ra mùi lưu huỳnh có trong trứng thối. Nó phủ lêm mùi bạc hà một cách thô bạo và mãnh liệt... Tất cả tậht kinh khủng. Cậu có thể cảm nhận cái mùi hôi thối đang bò lên, luồn lách vào khắp lưõi, môi và da đầu của mình, và dính chặc vào đó. Josh luồn những ngón tay vào mớ tóc vàng xù xì và rùng mình. Đã đến lúc sửa chữa lại ống dẫn nuớc và hệ thống cống rãnh.
Bỏ mặc cho cặp tai nghe treo lủng lẳng trên vai, cậu cầm bút kiểm tra các cuốn sách, rồi nhìn các kệ sách thêm lần nữa: Toàn tập Dickens, ba tập, bìa da màu đỏ. Bây giờ cậu có thể tìm thấy nó ở nơi nào?
Josh đã làm việc trong tiệm sách trong suốt gần hai tháng và hiện cậu vẫn chưa có một ý tuởng về vị trí của các đồ vật. Ở đây không có hệ thống phân loại và sắp xếp... hoặc có thể đã có một hệ thống nào đó chỉ đuợc thấu hiểu bởi Nick và Perry Fleming, các chủ nhân của Tiệm sách nhỏ. Nick hay vợ của ông ấy có thể đặt tay lên bất kỳ cuốn sách nào ở phía trên lầu hay duới hầm chứa để rồi lấy ra cuốn sách cần thiết.
Một làn sóng của hưong bạc hà ngay lập tức theo sau bởi mùi trứng thối, lại xộc vào không khí thêm lần nữa. Josh ho sặc sụa đến chảy nuớc mắt. Không thể tin đuợc! Nhét chặc danh sách cần tra cứu vào một túi quần jeans và bộ tai nghe iPod vào túi bên kia, cậu bắt đầu di chuyển một cách có kế hoạch từ những chồng sách đến những chiếc thùng đóng kín dẫn lên cầu thang. Cậu không thể còn chịu đựng mùi hôi thối thêm một phút nào nữa ở dưói hầm chứa. Cậu chà xát lòng bàn tay lên mắt mình trong mùi hôi thối nồng nặc. Chộp lấy tay vịn cầu thang, cậu nhấc bổng thân mình tiến lên. Cậu cần một luồng không khí tuơi mát hay là cậu sẽ ngã vật. Nhưng rồi, thật kỳ quặc, càng đến gần đoạn đầu của cầu thang, mùi hôi thối càng trở nên mạnh mẽ.
Cậu thò đầu ra khỏi cánh cửa hầm chúa đồ và nhìn xung quanh.
Và trong giây phút đó, Josh newman nhận ra rằng thế giới sẽ không bao giờ như truớc nữa.
Dạ Phong
05-11-2010, 09:07 PM
Chương 2
Josh ló đầu ra rìa của hầm chứa, đôi mắt cậu cay xè bơỉ mùi lưu huỳnh và bạc hà. Ấn tưọng đầu tiên của cậu đó là tiệm sách thuờng ngày vốn vắng vẻ nay bỗng chen chúc ngưòi: năm ngưòi đàn ông đang đứng đối mặt với Nick Fleming, chủ tiệm.Bốn ngưòi trong số họ có vóc dáng to lớn khổng lồ. Ngưòi thú năm nhỏ con hơn và có vẻ bề ngoài nahm hiểm. Bỗng nhiên, Josh chợt nghỉ rất có thể cửa hàng đang bị cuớp.
Ông chủ cậu, Nick Fleming, đang đứng ngay giữa tiệm sách, mặt đối mặt với những kẻ lạ mặt. Trong ông có vẻ gì đó hơi khác biệt một chút so với một ngưòi bình thuờng. Với chiều cao và vóc dáng trung bình cùng khuôn mặt không có đuờng nét gì nổi bật, điểm khác thuớng nhất nơi ông đó chính là đôi mắt - một đôi mắt xanh xám đến nổi trông chúng gần như không màu. Mái tóc đen của ông đuợc cắt sát đầu và duờng như cằm ôngluôn nằm trong tình trạng lởm chởm, như thề ông không hề cạo râu trong suốt một vài ngày qua. Ông ăn mặc như thuờng ngày: quần jeans đen đơn giản, áo thun rộng in hình quảng cáo về một buổi hòa nhạc đã diễn ra cách đây hai mưoi lăm năm, và một đôi bốt cao bồi mòn vẹt. Ông đeo một chiếc đồng hồ điện tử rẻ tiền trên tay trái và một chiếc vòng bạc dày nặng bên cạnh hai chiếc vòng tình bạn sặc sỡ trên cổ tay phải.
Đứng đối diện với ông là ngưòi đàn ông nhỏ bé có làn da xám ngoét trong bộ trang phục đuợc cắt may một cách khéo léo.
Đột nhiên Josh nhận ra rằng tất cả bọn họ đều không nói gì cà... và vẫn có một điều gì đó đang xãy ra giữa bọn họ. Cả hai ngưòi đàn ông đều đứng im phăng phắc, cánh tay họ ép sát vào thân hình, cùi chỏ cũng ép sát, lòng bàn tay mở mộng huớng lên trên. Nick đứng ngay giữa tiệm sách trong klhi ngưòi đàn ông xám ngoét đứng ở sát cửa ra vào, và ba chiến hữu mặc áo choàng đen đứng tỏa rộng xung quanh ông ta. Thật lạ lùng, tất cả ngón tay của những ngưòi đàn ông đều co giật, nhảy múa, như thể họ đang gỏ nhịp một cách dữ dội, ngón tay cái cọ vào ngón trỏ, ngón út duỗi thẳng chạm vào ngón cái. Những dải khói xanh lá cây bao quanh lòng bàn tay của Fleming, rồi uốn xoắn thành những mẫu hoa văn nhỏ giọt xuống sàn nhà, nơi chúng vặn vẹo quằn quại như những con rắn lục. Những cụm khói vàng hôi hám cuộn tròn và nhỏ giọt xuống từ đôi găng tay của ngưòi đàn ông xám ngoét, và bắn vung vãi xuống sàn gỗ như một thứ chất lỏng bẩn thỉu.
Mùi hôi thối thoát ra khỏi đám khói, nung dày bầu không khí bằng mùi bạc hà và lưu huỳnh. Josh cảm thấy dạ dày quặn lên nôn nao và cậu nuốt nuớc bọt một cách khó nhọc. Mùi trứng thối xông lên làm cậu muốn ói mửa.
Bầu không khí giữa những ngưòi đàn ông mờ ảo xanh vàng và khi khói chạm đến đâu lập tức ngay chỗ đó phát ra những tiếng xèo xèo. Ngón tay của Fleming khẻ nhúc nhích, và một lọn khói dày màu xanh lá cây xuất hiện từ lòng bàn tay của ông. Ông thổi phù một hơi vào đó, và lọn khói bay cuộn vào không khí, xoắn vặn uốn éo trong khoảng không cao ngang đầu giữa hai ngưòi đàn ông. Nhửng ngón tay lùn mập mạp cửa nguời đàn ông xám ngoét cũng gõ nhịp điệu riêng của chúng, và rồi một quả bóng tròn bằng khói vàng truợt khỏi tay ông ta, trôi bồng bềnh vào giữa thinh không. Nó chạm vào cuộn khói xanh lá cây, và ngay lập tức bọc lấy quả bóng màu xanh đó. Một tiếng nổ lách táchkèm ánh sáng lóe lên... và cú nổ vô hình đẩy vọt hai ngưòi đàn ông băng ngang qua căn phòng, va thẳng vào những chiếc bàn chất đầy sách.Những bóng đèn nổ lốp bốp, huỳnh quang bắn tung tóe ra và một trận mưa bột thuỷ tinh rơi rào rào xuống sàn nhà. Hai khung cửa sổ nổ tung trong khi hơn một tá các ô cửa khác bị đập vở rơi loảng xoảng.
Nick Fleming khẽ truởng trên sàn nhà, gần sát với cửa hầm chứa nơi Josh đứng như hóa đá trên bậc cầu thang. Đôi mắt cậu mở to vì choáng váng và kinh hoàng. Khi Nick guợng để đứng lên, ông ấn cậu thụt lùi xuốngbậc cầu thang phía dưói. "Hãy ở dưói đó, dù cho bất kì chuyện gì xãy ra đi nữa, hãy ở dưói đó," ông thì thầm, giọng Anh của ông vang lên với trọng âm không rõ ràng. Ông duỗi thẵng người trong lúc quay đi và Josh nhìn thấy ông ngửa lòng bàn tay phải lên, đưa nó gần đến khuôn mặt và thổi vào đó. Rồi ông vuơn tay ném mạnh về phía giữa phòng như thể ông đang ném một quả banh.
Josh ruớn cổ lên để theo dõi cú ném. Nhưng không có chuyện gì xãy ra... Và rồi tuởng chừng như tất cả không khí đã bị hút sạch ra khỏi phòng. Những cuốn sách đột nhiên rách toạc trên những giá sách gần đó, đổ ập thành đống lộn xộn ngay chính giữa phòng. Những bức tranh đóng khung trên tuờng bị kéo lê xuống đất trong khi một tấm thảm len nặng trịch xoắn cuộn lên trên và cũng bị hút ra phía giữa phòng.
Rồi đống sách nổ tung.
Hai ngưòi đàn ông to lớn mặc áo choàng đen hứng trọn cú nổ. Josh nhìn thấy những cuốn sách, một số cuốn nặng và cứng, một số khác mềm và sắc cạnh, bay xung quanh họ như những con chim giận dữ. Cậu nhăn mặt vẻ thông cảm khi một ngưòi đàn ôngbị cuốn tự điển dày cộp bay thẳng vào giữa mặt, cuốn phăng chiếc mũ và kính râm... hé lộ ra một khuôn mặt có làn da xám xịt như xác chết với đôi mắt như những viên đá xám lấp lánh. Một kệ gỗ chất đầy tiểu thuyết lãng mạn bay vào mặt ngưòi đàn ông thứ hai, bẻ gãy chiếc kính râm rẻ tiền làm đôi. Josh khám phá ra rằng ngưòi đàn ông này cũng có đôi mắt lấp lánh như đá xám.
Và cậu đột nhiên nhận ra rằng đó đúng là những viên đá.
Cậu quay về phía Nick Fleming, đôi môi mấp máy một câu hỏi. Ông chủ cậu liếc nhìn Josh. "Ở nguyên dưói dó," ông ra lệnh. "Hắn ta mang bọn Golem đến đây." Fleming ngụp xuống né tránh khi ngưòi đàn ông xám ngoét ném ba luởi dao dài bằng khói lấp lánhnhư dát ngọc của năng luợng màu vàng băng ngang qua căn phòng. Chúng truợt qua các kệ sách và đâm xuyên qua sàn gỗ. Khi chúng đâm vào đâu, ở đó bắt đầu mụt nát. Những tấm bìa da vỡ răng rắc và nát vụn, giấy cháy đen thui, ván sàn và kệ gỗ khô queo và tan thành bột.
Fleming qu8n thêm một quả banh vô hình nữa về phía góc phòng. Josh Newman nhìn theo đuờng đi của cú vun tay. Khi quả banh vô hình bay xuyên qua bầu không khí, một tia nắng mặt trời chiếu vào đó, và cậu nhìn thấy quả banh sáng lên màu xanh lấp lánh như một quả cầu làm bằng ngọc lục bảo. Rồi nó thóat khỏi vùng sáng của tia nắng và biến mất trở lại. Lân này, khi quả banh chạm xuống sàn nhà, Tác động của nó còn dữ dội hơn. Không có âm thanh nào vang lên, nhưng cả tòa nhà run lên bần bật. Những chiếc bàn chứa các cuốn sách bìa mềm rẻ tiền tan rã thành đám vỏ bào và các trang giấy bay tung lên không trung như những vụn confetti kì quái. Hai ngưòi đàn ông mặt đồ đen - bọn Golem - bị ấn sát vào dãy kệ, nơi các cuốn sách đổ nhào xuống đầu họ. Trong khi đó, ngưòi đàn ông thứ ba - gã cao to nhất, bị ấn mạnh vào cánh cửa đến mứt bị hất bắn ra ngoài đuờng.
Và rồi trong không khí yên lặng đó vang lên tiếng vỗ bôm bốp của hai bàn tay bọc trong găng. "Ông đã sử dụng kỹ thuật đó một cách hoàn hảo, Nicholas." Ngưòi đàn ông xám ngoét nói tiếng Anh với một vẻ tò mò du duơng trong giọng nói.
"Tôi vẫn thuờng luyện tập, Josh à," Nick Fleming nói. Ông luớt đến cách cửa hầm đang hé mở, đẩy mạnh Josh Newman thụt sâu xuống bật cầu thang. "Tôi biết sẽ không sớm thì muộn thì ông cũng sẽ đuổi theo tôi."
"Chúng tôi đã tìm kiếm ông suốt một thời gian dài, Nicholas. Ông cất giữ một vật gì đó của tụi này. Và chúng tôi muốn láy lại nó."
Một mảnh khói vàng bay lên đụng trần nhà ngay trên đầu Fleming và Josh. Những mảnh vữa màu đen vỡ vụn và rơi xuống như những bông hoa tuyết.
"Tôi đã đốt nó," Fleming nói, "đốt từ rất lâu rồi." Ông đẩy Josh xuống sâu hơn, rồi đóng cánh cữa trượt lại, đóng kín cả hai đầu . "Đừng hỏi," ông nhắc Josh, đôi mắt xanh xám của ông lóe lên trên ánh sáng lờ mờ. "Không phải là ngay bây giờ." Ông dùng tay nắm Josh và kéo cậu vào ytong góc tối nhất của căn hầm chứa, rồi cầm la6y1mo6t5 chiếc kệ bằng cả hai tay, xoắn mạnh nó. Một tiếng "cách" vang lên, và chiếc kệ sách đu đưa, hé lộ những bậc thang phía đằng sau nó. "Đi nhanh lên ngay lập tức, nhanh và im lặng," ông cảnh báo. Ông đi theo Josh vào cữa và kéo chiếc kệ đóng lại sau lưng ông, vừa đúng lúc cánh cữa phòng chứa chảy tan ra thành một thứ chất lỏng màu đen chảy xuống các bậc thang với mùi hôi thối nồng nặc của lưu huỳnh.
"Đi lên phía trên." Giong nói cùa Nick Fleming ấm áp sát ngay bên tai Josh. "Lối đi sẽ dẫn lên cữa tiệm bỏ không sát ngay tiệm chúng ta. Chúng ta phải đi nhanh lên. Chỉ sau vài giây là Dee đã có thể biết được chuyện gì đang xãy ra."
Josh Newman gật đầu. Cậu biết cửa tiệm bỏ không đó. Tiệm giặt tẩy vẫn bỏ không suốt mùa hè. Hàng trăm câu hỏi nhảy nhót trong đầu cậu và không có câu trả lời nào thoáng qua trong óc có thể làm cậu hài lỏng khi mà phần lớn chúng đều chứa đựng một từ kinh khủng: ma thuật. Cậu đã chứng kiến hai người đàn ông thảy những quả banh chứa đầy năng lượng vào nhau. Cậu đã nhìn thấy sự tàn phá mà những năng lượng đó gây ra.
Josh nhận thấy cậu vừa chứng kiến sức mạnh của ma thuật.
Nhưng tất nhiên, ai cũng biết rằng ma thuật đơn giản là không hề và không thể tồn tại trên cõi đời này
Dạ Phong
05-11-2010, 09:09 PM
Chương ba
Cái thứ mùi kinh tởm này từ đâu đến vậy cà?
Sophie Newman ngập ngừng khi cô chuẩn bị đeo bộ tai nghe bluetooth vào tai mình. Cô hít thở thật sâu với hai cánh mũi nở rộng.Một mùi kinh khủng vừa ập tới. Cô đóng máy điện thoại và nhét cặp tai nghe vào túi quần, rồi đứng tì người vào sát trên miệng một lọ trà xanh mở nắp và hít vào thật sâu.
Cô đã làm việc cho tiệm Tách cà phê kể từ kì nghĩ hè vừa qua. Công việc cũng tàm tạm, không có gì đặc biệt. Phần lớn khách hàng dễ thương, một vài người bất lịch sự và một vài người khá thô lỗ. Thế nhưng thời gian làm việc khá thoải mái, tiền thù lao hậu hĩnh, tiền "bo" còn tốt hơn là một điều kiện tuyệt vời nữa đó là ngay bên cạnh phía bên kia đường đối diện với tiệm cà phê chính là tiệm sách mà Josh, cậu em trai sinh đôi của cô, đang làm việc. Dù cả hai vừa mới tròn 15 tuổi, họ đã bắt đầu để dành tiền mua xe hơi. Cả hai đều cho rằng vụ tậu xe này sẽ là khoảng hia năm - nếu như chúng nhịn không mua CD, DVD, đĩa game, quần aó hay giày mà mua sắm vốn là điểm yếu của Sophie.
Thường thì cùng làm việc với Sophie có thêm hai người nữa nhưng một người xin về nhà nghỉ ngơi trong khi Bernice, chủ tiệm, vừa tranh thủ giờ ăn trưa để mua một lốc trà và cà phê tươi. Bà hứa sẽ trở lại trong vòng một tiếng đồng hồ. Dù sao,nói gì thì nói, Sophie biết thời gian đó sẽ kéo dài gấp đôi.
Suốt mùa hè, Sophie đã dần quen với nhiều mùi vị lạ khác nhau từ những loại trà và cà phê khác nhau nhập từ nước ngoài được bày bán trong tiệm. Cô có thể phân biệt được sự khác nhau giữa trà Bá tước Xám và trà Darjeeling đến từ Ấn Độ, hay giữa cà phê Java và cà phê Kenja. Cô thích ngửi mùi cà phê dù không thích mùi vị đắng của nó. Nhưng cô đặc biệt thích trà. Chỉ trong vòng vài tuần qua, cô đã lần lượt nếm tất cà các loại trà, nhất là những loại trà thảo mộc vói vị trái cây và mùi thơm lạ lùng.
Thế nhưng lúc này đây có một mùi kin tởm đang tràn vào.
Gần như mùi trứng thối.
Sophie cầm một hộp trà lên gần khuôn mặt và hít thật sâu. Mùi trà Assam nồng đậm xông lên làm cổ họng cô se lại: mùi hôi thối kia không hề đến từ đây.
"Cháu nên uống thay vì ngửi nó".
Tiếng nói của Perry Fleming khiến Sophie quay lại. Perry Fleming là một người phụ nữ cao thanh nhã ở trong bất kì độ tuổi nào trong khoảng từ sau mươi đến sáu mươi. Rõ ràng là bà đã từng rất đẹp và cho đến bây giờ bà vẫn còn rất quyến rũ. Đôi mắt bà sáng ngời màu xan lá cây và là đôi mắt đẹp nhất mà Sophie từng trong thấy, và cô đã tự hỏi mình là liệu trong khoảng một thời gian dài có phải Perry Fleming đeo kính áp tròng màu xanh lá cây hay không. Trước đây, mái tóc của Perry có màu đen huyền nhưng bây giờ nó được cắt ngắn hơn với nhiều dải bạt cột thành một chiếc đuôi ngựa nằm dọc theo chiều của xương sống. Bà có một hàm răng rất đẹp với những chiếc răng nhỏ đều tăm tắp và xung quang đuôi mắt của bà đã xuất hiện những "vết chân thời gian" nhỏ li ti. Perry luôn ăn mặc kiểu cách và lịch lãm hơn chồng bà. VÀ hôm nay bà mặt một chiếc áo đầm không có tay màu xanh bạc hà hơp với màu mắt của bà. Sophie đoán rằng có lẻ chiếc áo được may bằng vải lụa mềm.
"Cháu chỉ nghỉ là mùi của nó rất kì lạ", Sophi nói. Cô hít những lá trà thêm lần nữa. "Mùi cũng hay đấy chứ", cô nói thêm, "thế mà vừa mới đây thôi, cháu đã nghỉ mùi của nó gióng như là....như là.... như là mùi trứng thối vậy".
Sophie nhìn Perry Fleming khi bà nói. Cô bé giật mình khi nhìn thấy đôi mắt màu xanh lá cây sáng ngời cùa Perry chơt mở to và bà xoay người nhìn qua phía bên kia của con đường... ngay vừa khi những ô kín nhò cuả tiệm sách vở vụn và có hai ô cửa nộ thành bụi. Những cuộn khói màu vàng và màu xanh lá cây bò ngoằn ngoèo trên mặt đường và không khí sặc mùi trứng thối. Sophie ngửi thấy một mùi lạ khác, một thứ mùi sắc bén và nồng nàn của bạc hà.
Đôi môi của Perry mấp máy, và bà khẽ thì thầm, "Ồ, không... không phải bây giờ... không phải ở đây".
"Bà Fleming... Perry?".
Người đàn bà quay về phía Sophie. Đôi mắt bà mở lớn đầy vẻ kinh hoàng và tiếng Anh trôi chảy hằng ngày của bà bây giờ vang lên với những trọng âm lạ lẫm đến lạc giọng. "Hãy ở đây, dù cho bất kì chuyện gì xãy ra, hãy cứ ngồi đây và ngồi thấp xuống".
Sophie định mở miệng hỏi thì cô chợt nghe lõ tai mình nổ "bốp". Cô nuốt nước bọt một cách khó nhọc... Rồi cách cửa tiệm sách bật mở, và một trong những người đàn ông mà Sophie vừa trông thấy hồi nãy bị hất văng ra ngoài đường. Giờ đây hắn đả bị bay mất mũ và kính nên Sophe thoáng nhìn thấy làn da nhờn nhợt giống da xát chết cùng với đôi mắt lạnh băng bằng đá cẩm thạch của hắn ta. Người đàn ông bò lết trên lề đường giây lát, rồi ông ta đưa tay lên che mặt khỏi ánh sáng mặt trời.
Và Sophie cảm thấy một cái gì đó lạnh lẽo và rắn chắc nhói lên trong dạ dày.
Lớp da trên tay của người đàn ông bắt đầu động đậy. Nó tan chảy một cách chậm rãi thành một thứ chất lỏng sền sệt chảy xuống tay áo của ông ta. Dường như những ngón tay cũng bắt dầu tan chảy. Những giọt chất lỏng nhểu bê bết xuống mặt đường.
"Golem", Perry hổn hển. "Lạy trời, ông ta đã tạo ra bọt Golem".
"Gollums?" Sophie hỏi, miệng cô đặc quánh và khô đắng, lưỡi cô dột nhiên như phình lớn ra trong miệng. "Gollum, trong chúa tễ những chiếc nhẫn?".
Perry tiến lại gần cửa ra vào. "không, Golem", bà nói một cách lơ đãng, "Đó là những gã đàn ông làm bằng dất sét".
Cái tên đó nghe chừng như vô nghĩa đối với bà, nhưng bà nhìn ra ngoài với vẻ mặt pha trộn giữa sự kinh hoàng và bối rối khi sinh vật kia - gã Golem - đang bò lết trên đường cố thoát khỏi ánh nắng thiêu đốt để vào ẩn náu dưới bóng râm của mái hiên. Như một con ống sên khổng lồ, hắn để lại một vết bùn dài ở phía đằng sau và vết bùn lập tức khô lại dưới ánh mặt trời khắc nghiệt. Sophie kịp nhìn thấy khuôn mặt của hắn trước khi hắn lảo đảo lết vào trong tiệm sách. Thân thể của hắn tan chảy như sáp ong và là da xám ngoét bây giờ như được bao phủ bởi một lớp màng với những vết rạn nứt đau đớn. Nó gợi cho Sophie nhớ đến mặt đất nứt nẻ và rạn vỡ của vùng sa mạc khô cằn.
Perry chạy ào ra phía con đường. Sopie nhìn thấy bà mở tung sợi dây buột tóc và để cho mái tóc bà buông xõa. Nhưng thay vì nằm ép sát vào thắt lưng của Perry, mái tóc bà bây giờ bao phủ lấy bà, hệt như nó được thổi tung bởi một làn gió nhẹ. Thế nhưng thực tế lúc đó không hề có một ngọn gió nào.
Sophie thoáng ngần ngừ, rồi cô chụp lấy cây chổi chạy băng qua đường tiếp sau lưng Perry. Josh đang làm việc ở trong tiệm sách!
Dạ Phong
05-11-2010, 09:15 PM
Chương ba (tiếp theo)
Cảnh tượng bên trong tiệm sách thật hỗn loạn.
Những kệ sách vốn rất ngăn nắp trước đây cùng với những chiếc bàn ngay ngắn nay bị xô đẩy và quăng quật thành từng đống lộn xộn trên sàng nhà. Các giá sách bị xé nát, những kệ gỗ gãy làm đôi, tranh ảnh treo tường và bản đồ bị quăng xuống sàn nhà. Mùi hôi thối của những vật bị phá hủy tràn ngập căn phòng: giấy và gỗ khô queo và mục rữa, thậm chí cả trần nhà cũng bắt đầu tan nát, lớp vữa thạch cao rơi lả tả để lộ những chiếc dầm nhà bằng gỗ cùng mạng lưới dây điện bên trong.
Người đàn ộng nhỏ bé xám ngoét đứng ngay giữa phòng. Ông ta chùi vội lớp bụi trên cánh tay của chiếc áo choàng trong khi gã Golem còn lại đang mò mẫm ở tầng hầm. Gã Golem thứ ba, thương tích đầy mình và vẫn còn tan rửa bởi ánh mặt trời gay gắt đứng dựa lưng loạng choạng vào một kệ sách gãy đổ. Trên bàn tay tàn phế của hắn, những giọt bùn vẫn tiếp tục nhỏ giọt theo hình xoắn ốc.
Người đàn ông xám ngoét quay về phía Perry khi bà và Sophie xông thẳng vào tiệm sách. Ông ta khẽ nghiệng người cúi chào. " À, xin chào bà Perenelle. Tôi đang tự hỏi không biết bà ở nơi nào".
"Nicholas đâu rồi?" Perry hỏi. Bà đọc thành Nichola. Sopie nhìn thấy một làn sống điện lăn tăn chạy dọc theo tóc bà , lóe lên màu xanh da trời và trắng bạc.
"Dưới cầu thang, tôi tin là như vậy. Những sinh vật của tôi đang tiềm kiếm ông ta".
Giữ chặt cây chổi trong cả hai tay, Sophie lướt nhẹ băng qua Perry và đảo qua phía bên kia của căn phòng. Josh. Bây giờ em đang ở đâu? Cô không hề biết chuyện gì đang xãy ra và thật sự không quan tâm. Tất cả những gì cô cần đó chính là tìm ra cậu em trai mình.
"Trông bà vẫn đáng yêu như dạo nào", người đàn ông xám ngoét nói, mắt ông ta dán chặt vào Perry. "BÀ không hề già đi, dù chỉ là một ngày". Ông ta cúi chào một lần nữa, một cử chỉ tán tỉnh lỗi thời xưa cũ mà ông ta thể hiện không chút cố gắng. "Được nhìn thấy bà luôn luôn là niềm vui đối với tôi".
"Tôi ước gì mình cũng có thể nói như vậy đối vói anh, Dee ạ". Perry tiến sâu hơn vào căn phòng, mắt bà lục soát từ bên sang bên kia căn phòng. "Tôi nhận ra mùi hôi thối của anh".
Dee nhắm mắt lại và hít thở thật sâu. "Tôi thích mùi của lưu huỳnh hơn. Nó nghe rất...." ông ta ngừng lại, "rất kịch tính". VÀ rồi đôi mắt xám ông ta mở lớn và nụ cuời dần tắt lịm. " Chúng tôi đến đây vì Cuốn sách, Perenelle. Và chớ có nói rằng bà đã hủy nó rồi", ông ta nói tiếp. "Vẻ khỏe mạnh và tươi trẻ của bà chính là một bằng chứng cho thấy sự tồn tại của nó".
Quyển sách nào nhỉ, Sophie tự hỏi, đưa mắt liếc nhanh căn phòng. Cửa tiệm chất đầy những quyển sách.
"Chúng tôi là những người canh gác - bảo vệ cuốn sách đó", Perry nói và một vẻ gì đó trong giọng của bà khiến Sophie quay sang nhìn nơi bà đang đứng. Miệng và mắt cô mở to vì kinh hoàng. Một màn sương mỏng lấp lánh ánh bạc đang bao phủ lấy Perry Fleming, tỏa ra từ làn da của bà một lớp tơ mỏng. Xanh xao và trong suốt, những sợi tở cứ dần dày và cứng lên xung quanh bàn tay Perry, y hệt như bà đang dệt những chiếc găng tya bằng kim loại. "Ông sẽ không bao giờ có được nó",Perry nói đanh thép.
"Chúng tôi sẽ lấy nó", Dee nói. "Tụi này sẽ tích lũy nhiều thứ quý giá khác trong nhiều năm qua. Chỉ còn có mỗi Cuốn sách đó mà thôi. Bây giờ, bà hãy ngừng việc tự làm khó cho mình và nói cho tôi biết chỗ của nó...."
"KHông bao giờ".
"Tôi biết là bà sẽ nói như vậy", Dee trả lời, và rồi một gã Golem to lớn tiến sát ngay bên cạnh Berry. "Con người thật dễ đoán trước".
Nick Fleming và Josh mở cánh cửa của tiệm giặt ủi khi họ nhìn thấy Perry và Sophie đi theo ngay sát bà và cả hai chạy băng vào tiệm sách. Nick chụp lấy một vật gì đó khi ông luồn tay vào dưới vạt áo. Từ một túi vải nhỏ đơn giản treo quành quanh cổ, ông lấy ra một vật trông giống như một cuốn sách màu đồng.
Josh mở chốt cửa, kéo mạnh cửa ra vào và Nick chạy thoát ra đường. Vừa chạy, những ngón tay ông vừa vội vã lướt qua rìa những trang sách như thể đang tìm kiếm một điều gì đó. Josh thoáng trông thấy những mẫu hoa văn lộng lẫy và những hình vẽ hình học trong những trang sách dày màu vàng khi cậu theo Nick chạy vào tiệm sách.
Nick và Josh chạy vào ngay đúng lúc tên Golem to lớn chạm vào Perry.
Và nổ tung.
Một thứ bột lổn nhổn sạn tràn ngập thinh không và chiếc áo choàng nặng nề màu đen bị quăng mạnh xuống nền nhà. Chỉ trong giây phút, một cơn gió lốc tràn tới, thổi cuộn tung lớp bụi và cuốn chúng đi xa.
Nhưng sự có mặt thình lình của Nick và Josh ở trong căn phòng làm cho Perry mất tậm trung. Bà hơi xoay người lại... và chớp lấy giây phút xao lãng đó, Dee giơ tay trái lên ngang mắt và ném một quả banh pha lê nhỏ gọn ra giữa phòng.
Tất cả diễn ra hệt như mặt trời đang nổ tung ngay giữa căn phòng.
Ánh sáng thay đổi một cách kì lạ. Những tia sáng chói lòa sắc nhọn bao phủ toàn bộ căn phòng, và đi cùng với làn sóng ánh sáng chói lòa đó là mùi hôi thối đến ngạt thở: mùi tóc cháy và mùi thức ăn cháy khét, mùi kim loại và lá cây nấu chảy pha trộn với mùi dầu diesel cay xè gay gắt.
Josh thoáng nhìn thấy chị gáy mình ngay khi Dee vừa ném quả banh ra. Cậu được che phủ một phần đằng sau Nick và Perry, mà cả hai giờ đây đang cúi sát xuống nền nhà bởi thứ ánh sáng chói lòa. Những hình ảnh trước mắt Josh giờ đây như là những hình đen trắng trong một chiếc kính vạn hoa khi ánh sáng chói lòa quét ngang đôi mắt cậu. Cậu trông thấy Nick thả cuốn sách màu đồng xuống sàn nhà... cùng vói hai bóng đen bao quang lấy Perry và cậu mơ hồ nghe thấy tiếng thét của bà... Cậu cũng trông thấy Dee chộp lấy cuốn sách với những âm thanh đắc thắng trông khi Nick đang mò mẫm loạng choạng trên sàn nhà.
"Ông đã thua, Nicholas", Dee rít lên khe khẻ, "như là ông vẫn luôn luôn thua cuộc. Bây giờ, tôi sẽ lấy đi những thứ mà ông quý nhất: bà vợ yêu quý Perenelle và cuốn sách của ông".
Josh cử động trước cả khi cậu kịp nhận thấy điều đó. Cậu tiến thẳng đến chỗ của Dee và chụp lấy người đàn ông nhỏ bé đó trong nỗi ngạc nhiên cao độ, Dù chỉ mới mười lăm, Josh đã rất cao sao với tuổi: cậu đủ cao để làm tiền vệ bóng đá. Cậu đánh Dee gụt xuống sàn nhà, văng cả cuốn sách ra ngoài trong hơi thở hào hển. JOsh cảm thấy chiếc bìa cứng bằng kim loại của cuốn sách ngay dưới những ngón tay minh và cậu chộp lấy nó - vừa đúng khi cậu bị nhấc bổng lên khỏi nền nhà và bị quăng mạnh về phía góc phòng. Cậu đã đè lên trên một đống sách. Những đóm đen và tia sáng màu cầu vòng nhảy múa tán loạn mỗi khi cậu chớp mắt.
Hình dáng xám ngoét của Dee hiện ra lù lù sát gần hơn trước mắt cậu, rồi bàn tay đeo găng của ông ta chạm đến cuốn sách đang nằm đó. "Đây là cuốn sách của ta".
Josh giữ chặt cuốn sách, nhưng Dee lấy nó ra khỏi tay cậu một cách đơn giản.
"Ông. Hãy. Để. Em. Tôi. Yên". Sophie Newman dùng chiếc chổi đánh mạnh sáu lần vào lưng Dee, mỗi nhát tương ứng với mỗi chữ trong câu nói.
Dee trố mắt nhìn cô. Một tay cầm chặt cuốn sách, một tay còn lại của ông ta đỡ lấy chiếc chổi. Miệng ông ta lẩm bẩm một từ gì đó, và ngay lập tức cây chổi khô queo rồi vỡ vùn thành bột nhão trong tay Sophie. "Mi thật may mắn vì ta đang ở trong tâm trạng vui vẻ hôm nay", ông ta thì thầm, "còn nếu không thì ta sẽ làm như vậy với chính mi". Rồi Dee và hai tên Golem còn lại biến ra khỏi tiệm sách bị tàn phá xác xơ, mang theo Perry Fleming và đóng sầm cánh cửa ra vào. Một khoảng im lặng dài dằng dặt trôi qua và rồi chiếc kệ sách nguyên vẹn còn lại đổ ầm xuống sàn nhà.
Bồ Công Anh
05-11-2010, 11:26 PM
Nàng ơi, cách dòng :( Ta choáng
Dạ Phong
06-11-2010, 08:12 AM
ta cũng đã cố gắng cách dòng, nhưng ... ta lười >"<
Dạ Phong
14-11-2010, 06:39 AM
Nick Fleming và Josh mở cánh cửa của tiệm giặt ủi khi họ nhìn thấy Perry và Sophie đi theo ngay sát bà và cả hai chạy băng vào tiệm sách. Nick chụp lấy một vật gì đó khi ông luồn tay vào dưới vạt áo. Từ một túi vải nhỏ đơn giản treo quành quanh cổ, ông lấy ra một vật trông giống như một cuốn sách màu đồng.
Josh mở chốt cửa, kéo mạnh cửa ra vào và Nick chạy thoát ra đường. Vừa chạy, những ngón tay ông vừa vội vã lướt qua rìa những trang sách như thể đang tìm kiếm một điều gì đó. Josh thoáng trông thấy những mẫu hoa văn lộng lẫy và những hình vẽ hình học trong những trang sách dày màu vàng khi cậu theo Nick chạy vào tiệm sách.
Nick và Josh chạy vào ngay đúng lúc tên Golem to lớn chạm vào Perry.
Và nổ tung.
Một thứ bột lổn nhổn sạn tràn ngập thinh không và chiếc áo choàng nặng nề màu đen bị quăng mạnh xuống nền nhà. Chỉ trong giây phút, một cơn gió lốc tràn tới, thổi cuộn tung lớp bụi và cuốn chúng đi xa.
Nhưng sự có mặt thình lình của Nick và Josh ở trong căn phòng làm cho Perry mất tậm trung. Bà hơi xoay người lại... và chớp lấy giây phút xao lãng đó, Dee giơ tay trái lên ngang mắt và ném một quả banh pha lê nhỏ gọn ra giữa phòng.
Tất cả diễn ra hệt như mặt trời đang nổ tung ngay giữa căn phòng.
Ánh sáng thay đổi một cách kì lạ. Những tia sáng chói lòa sắc nhọn bao phủ toàn bộ căn phòng, và đi cùng với làn sóng ánh sáng chói lòa đó là mùi hôi thối đến ngạt thở: mùi tóc cháy và mùi thức ăn cháy khét, mùi kim loại và lá cây nấu chảy pha trộn với mùi dầu diesel cay xè gay gắt.
Josh thoáng nhìn thấy chị gáy mình ngay khi Dee vừa ném quả banh ra. Cậu được che phủ một phần đằng sau Nick và Perry, mà cả hai giờ đây đang cúi sát xuống nền nhà bởi thứ ánh sáng chói lòa. Những hình ảnh trước mắt Josh giờ đây như là những hình đen trắng trong một chiếc kính vạn hoa khi ánh sáng chói lòa quét ngang đôi mắt cậu. Cậu trông thấy Nick thả cuốn sách màu đồng xuống sàn nhà... cùng vói hai bóng đen bao quang lấy Perry và cậu mơ hồ nghe thấy tiếng thét của bà... Cậu cũng trông thấy Dee chộp lấy cuốn sách với những âm thanh đắc thắng trông khi Nick đang mò mẫm loạng choạng trên sàn nhà.
"Ông đã thua, Nicholas", Dee rít lên khe khẻ, "như là ông vẫn luôn luôn thua cuộc. Bây giờ, tôi sẽ lấy đi những thứ mà ông quý nhất: bà vợ yêu quý Perenelle và cuốn sách của ông".
Josh cử động trước cả khi cậu kịp nhận thấy điều đó. Cậu tiến thẳng đến chỗ của Dee và chụp lấy người đàn ông nhỏ bé đó trong nỗi ngạc nhiên cao độ, Dù chỉ mới mười lăm, Josh đã rất cao sao với tuổi: cậu đủ cao để làm tiền vệ bóng đá. Cậu đánh Dee gụt xuống sàn nhà, văng cả cuốn sách ra ngoài trong hơi thở hào hển. JOsh cảm thấy chiếc bìa cứng bằng kim loại của cuốn sách ngay dưới những ngón tay minh và cậu chộp lấy nó - vừa đúng khi cậu bị nhấc bổng lên khỏi nền nhà và bị quăng mạnh về phía góc phòng. Cậu đã đè lên trên một đống sách. Những đóm đen và tia sáng màu cầu vòng nhảy múa tán loạn mỗi khi cậu chớp mắt.
Hình dáng xám ngoét của Dee hiện ra lù lù sát gần hơn trước mắt cậu, rồi bàn tay đeo găng của ông ta chạm đến cuốn sách đang nằm đó. "Đây là cuốn sách của ta".
Josh giữ chặt cuốn sách, nhưng Dee lấy nó ra khỏi tay cậu một cách đơn giản.
"Ông. Hãy. Để. Em. Tôi. Yên". Sophie Newman dùng chiếc chổi đánh mạnh sáu lần vào lưng Dee, mỗi nhát tương ứng với mỗi chữ trong câu nói.
Dee trố mắt nhìn cô. Một tay cầm chặt cuốn sách, một tay còn lại của ông ta đỡ lấy chiếc chổi. Miệng ông ta lẩm bẩm một từ gì đó, và ngay lập tức cây chổi khô queo rồi vỡ vùn thành bột nhão trong tay Sophie. "Mi thật may mắn vì ta đang ở trong tâm trạng vui vẻ hôm nay", ông ta thì thầm, "còn nếu không thì ta sẽ làm như vậy với chính mi". Rồi Dee và hai tên Golem còn lại biến ra khỏi tiệm sách bị tàn phá xác xơ, mang theo Perry Fleming và đóng sầm cánh cửa ra vào. Một khoảng im lặng dài dằng dặt trôi qua và rồi chiếc kệ sách nguyên vẹn còn lại đổ ầm xuống sàn nhà.
Dạ Phong
14-11-2010, 06:42 AM
Chương 4
"Theo cháu thì chúng ta không thể bàn đến chuyện liên lạc với cảnh sát được". Sophie Newman đứng dựa vào giá sách lung lay và lấy hai tay ôm lấy thân mình, cố gắng kiềm chế không run lên bần bật. Cô ngạc nhiên khi nghe giọng mình vang lên đầy vẻ bình thĩnh và hợp lý. "Chúng ta phải nói với họ là Pery vừa mới bị bắt cóc..."
"Perry chưa gặp nghuy hiểm gì đâu". Nick Fleming ngồi trên bậc thấp của một chiếc thang ngắn. Ông đang đưa tay ôm lấy đầu và hít thở sâu, thỉnh thoảng lại ho khúc khắc để làm sạch phổi mình khỏi đám bụi và vụn gỗ. "Nhưng cháu nói đúng, chúng ta sẽ không tìm đến cảnh sát". Ông cố nở nụ cười nhợt nhạt. "Chú không biết chắc về những gì chúng nên nói với cảnh sát để làm cho họ nắm bắt được tình hình và tin lời chúng ta".
"Cháu cũng không chắc là ngay chúng ta có thể hiểu và tin được", Josh nói. Cậu đang ngồi trên chiếc ghế còn nguyên vẹn duy nhất còn lại trong tiệm sách. Dù không bị gãy một chiếc xương nào, cả người cậu trầy xước và thâm tím và cậu biết rằng những vết bầm này sẽ trở nên thâm tím một cách tệ hại chỉ trong vài ngày tới. Lần gần đây nhất mà cậu cảm thấy "nỗi đau thâm tím" đó là khi cậu bị một hậu vệ của đội đá banh qua mặt. Thực sự, cảm giác rất đau đớn. Ít ra thì anh chàng hậu vệ va vào cậu, cậu biết ngay là điều gì đang xãy ra. Một cảm giác rất mạnh!
"Chú nghỉ rất có thể là gá đã bị rò rỉ và tràn vào cửa tiệm". và tất cả những gì mà chúng ta đã trải qua và chứng kiến không có gì ngoài một chuỗi những ảo giác cả". Ông ngừng lại, lần lượt liếc nhìn phản ứng cuả Sophie và Josh.
Cặp chị em sinh đôi ngẩn đầu lên và nhìn ông. Nét mặt của chúng biểu lộ sự nghi ngờ.
Nhưng đôi mắt xanh sáng vẫn còn mở to vì choáng váng. "Không thỏa đáng", cuối cùng thì Josh nói.
"Rất không thỏa đáng", Sophie đồng tình.
Nick nhún vai. "Thực sự, đó là một giải thích khá ổn thỏa. Nó giải thích những mùi hôi, vụ nổ trong cửa tiệm và bất cư... bất cứ chuyện khác thường kì lạ nào mà hai đưa nghỉ rằng mình đã trong thấy", ông kết thúc câu nói một cách vội vã.
Người lớn, Sophie đã đưa ra kết luật từ lâu, họ thật tệ khi cố tìm cách bịa đặc ra những lí do nghe có vẻ thỏa đáng để che phủ một sự thật kinh khủng nào đó. "Tụi cháu đã không hề tưởng tượng ra những thứ đó",cô nói một cách rắn rỏi. " Tụi cháu không tưởng tượng ra bọn Golem".
"Bọn gì?" Josh hỏi.
"Mẫy gã đàn ông to lớn chính là Golem; bọn họ được làm bằng bùn đất", chị gái cậu nói. "Perry đã nói với chị".
"Ồ, bà ấy đã nói thật sao?" Flamel thì thào. Ông nhìn tiệm sách tan hoang và khẽ lắc đầu. Chỉ trong vòng bốn phút, tất cả đã biến thành rác rưởi. "Chú rất ngạc nhiên vì hắn đã mang bọn Golem đến đây. Thường thì bọn Golem rất dễ bị tan rã ở những nơi có khí hậu ấm áp. Nhưng bọn họ phục vụ cho mục đích của hắn ta. Hắn đã lấy được caí mà hắn muốn và quyết đi tìm".
"Cuốn sách?" Sophie hỏi. Cô đã thoáng thấy cuốn sách nơi tay Josh trước khi gã đàn ông nhỏ thó lấy nó đi. Mặc dù cô đang đứng trong một cửa tiệm chất đầy sách, và cha của em cô có cả một thư viện đầy sách cổ, cuốn sách đó trông khác hẳn những cuốn cô từng trông thấy. Nó trông như được bọc bởi một lớp kim loại mờ.
Fleming gật đầu. "Hắn ta đã tìm kiếm nó suốt một thời gian dài", ông nói thì thầm, đôi mắt xanh xao không màu của ông ánh lên nét trống vắng xa xôi, "một thời gian rất dài".
Josh chậm chạp đứng lên, lưng và vai cậu đau nhừ. Cầu chìa ra hai trang sách nhàu nát về phía Nick. "Ồ, thật sự là ông ta đã không lấy được toàn bộ cuốn sách. Khi ông ta giật cuốn sách ra khỏi tay cháu, cháu nghĩ̉ là cháu phải giữ lại một cái gì đó".
Fleming đón lấy những trang giấy từ tay Josh với một tiếng reo khe khẽ. Cúi sát xuống nền nhà, ông phủi sạch những cuốn sách bị xé rách cùng các kệ gỗ gãy vụn rẫ và đặt hai trang giấy sát cạnh nhau trên mặt sàn. Những ngón tay dài của ông run lên nhè nhẹ khi ông vuốt ve nhẹ nhàng lên bề mặt những trang giấy. Cặp sinh đôi quỳ xuống sàn nhà ngay bên cạnh ông, đôi mắt chúng dán chặt vào hai trang giấy... và chúng cố gắng nắm bắt những gì đang diễn ra ngay trước mắt mình.
"Và tất nhiên là chúng không hề tưởng tượng ra cái này", Sophie thì thầm, cô dùng ngón tay trỏ sờ lên trang sách.
Mỗi trang sách dày có chiều rộng khoảng 16 cm và chiều dài khoảng 24 cm và có vẻ như được làm bằng da nén. Những thớ sợi và gân lá vẫn hiện rõ ràng trên bề mặt giấy và cả hai trang đều đầy ắp những chữ viết gai góc , nhiều góc cạnh. Chữ cái đầu tiên trên phía góc trái ở trên cùng với mỗi trang được tô điểm đẹp đẽ bằng mực đỏ và vàng óng ánh trong khi các chữ còn lại được viết bằng một loại mực đen hơi ánh đỏ.
Và những dòng chữ rõ ràng là đang chuyển động.
Dạ Phong
14-11-2010, 06:44 AM
Sophie và Josh trố mắt nhìn những con chữ đang "bò" trên trang giấy như những con bọ hung nho nhỏ, liên tục tạo ra những ý nghĩa khác nhau. Chúng chuyển động từ những câu bằng tiếng Latin hay tiếng Anh cổ sang những biểu tượng của thời cổ đại nhưng không phải là biểu tượng của người Ai Cập hay Celtic Ogham.
Fleming thở dài. "Không, tụi cháu đâu có tưởng tượng ra những chuyện này", ông nói. Ông thò tay vào phía cổ áo và lôi ra một cặp kính kêp mũi được treo trên một sợi dây màu đen. Đây là một cặp kính không có gọng đã lỗi thời được thiết kế để người đeo đặt thẳng lên trên mũi. Nick dùng chiếc kính như một "vũ khí phóng đại" khi ông đặt nó dò theo những dòng chữ đang uốn éo nhảy múa. "AHA!", ông nói.
"Có tin tốt lành hì sao?"Josh hỏi.
"Quá tuyệ vời. Vậy là hắn ta đã bỏ sót phần Hiệu triệu Cuối cùng". Ông siết chặc bờ vai bầm tím của Josh khiến cậu nhăn nhó vì đau. "Nếu như cháu đã muốn lấy đi hai trang giấy từ cuốn sách thì cháu không thể chọn hai trang nào tuyệt vời như hai trang này". Nụ cười rộng mở dần tắt trên khuôn mặt ông. "Và khi Dee phát hiện ra sự mất mát, hắn ta sẽ trở lại, và chú dám cá chắc rằng lần trở lại này hắn sẽ không chỉ mang theo những gã Golem không đâu".
"Gã đàn ông xám ngoét đó là ai?" Sophie hỏi. "Pery cũng gọi ông ta là Dee".
Thu lượm những trang sách, Nick đứng lên. Sophie quay sang nhìn ông và cô nhận ra rằng ông đột nhiên trông già nua và mệt mỏi, mệt mỏi đến mức không thể tin được. "Người đàn ông xám ngoét đó là tiến sĩ John Dee, một trong những người đàn ông đầy quyền lực và nguy hiểm nhất thế giới".
"Cháu chưa bao giờ nghe nói vê ông ta", Josh nói.
"Có một điều luôn tồn tại trong thế giới hiện đại này nhưng chẳng có ai biết đến, đó chính là quyền năng thực sự. Dee là một nhà giả kim, một pháp sư, một phù thủy và là một thầy đồng gọi hồn, và tất cả những thứ đó đều rất khác nhau".
"Ma thuật?" Sophie hỏi.
"Em nghĩ rằng những cái đó không phỉa là ma thuật", Josh nói một cách mỉa mai và rồi cậu bỗng nhiên thấy mình thật ngu ngốc, sau những gì cậu đã trãi nghiệm và chứng kiến.
"Quả là cháu đã vừa chiến đấu chống lại những sinh vật tao ra từ ma thuật: Golem là những người đàn ông được làm bằng bùn và đất ướt. Chúng được "thổi hồn" thành sinh vật sống với chỉ bằng một từ duy nhất của thần chú năng lượng ma thuật. Trong thế kỉ này, chú dám cá chắc rằng có chưa tới một nửa tá người có dịp nhìn thấy một Golem, không kể đến những ai có dịp chạm trán chúng và sống sót".
"Có phải Dee đã 'thổi hồn' vào những sinh vật này và mang chúng hòa nhập vào cuộc sống quanh ta?" Sophie hỏi. "Nhưng bằng cách nào mới được?".
"Tạo ra Golem khá dễ dàng; còn câu thần chú thì xưa như trái đất. Đem sức sống đến với chúng thì khó hơn và điều khiển được chúng là một việc không thể". Ông thở dài. "Nhưng điều đó không đúng với tiến sĩ John Dee".
"Ông ta là ai?" Sophie thắc mắc.
"Tiến sĩ John Dee chính là thầy Phù thủy Hoàng gia dưới triều đại Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất ở Anh quốc".
Sophie cười đến mức cả người cô khe run lên, và cô có dám chắc mình có nên tin lời của Nick hay không. "Nhưng triều đại đó đã cách đây hàng thế kỷ, còn người đàn ông xám ngoét kia trông chưa đến năm mươi tuổi kia mà".
Nick Fleming bò trên sàn nhà, lướt tay qua những cuốn sách cho đến khi ông tìm thấy cuốn sách mà ông muốn tìm. Nước Anh Trong thời đại của Elizabeth. Ông mở nó ra: trên trang sách đối diện với tấm hình chủa Nữ hoàng Elizabeth đệ Nhất là hình ảnh người đàn ông có nét mặt sắc cạnh ăn mặc lỗi thời với một bộ râu hình tam giác. Dù trang phục có khác nhau, nhưng chẳng còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là người đàn ông xám ngoét mà họ vừa đối mặt.
Sophie cầm lấy cuốn sách từ tay Nick. "Sách cho biết rằng Dee sinh năm 1527", cô nói thì thầm. "Có nghỉa là đến lúc này đây ông ta đã gần năm trăm tuổi rồi".
Josh đến đứng bên cạnh chị gái. Câu nhìn chăm chú vào tấm hình, và rồi nhìn quanh tiệm sách. Nếu cậu hít thở thật sâu, cậu vẫn có thể cảm nhận được mùi vị kỳ dị của... ma thuật. "Dee biết chú", cậu nói, "ông ta biết chú rất rõ", cậu nói thêm.
Fleming đi vòng quanh tiệm sách, nhặt láy những cuốn sách cũ xưa và lại quăng chúng rơi trên sàn nhà. "Ồ, hắn biết chú mà", ông nói. "Hắn cũng biết cả Perry. Hắn biết tụi chú từ rất lâu rồi... rất lâu rồi". Ông nhìn hai đứa trẻ, đôi mắt gần như không màu của ông bây giờ trông tăm tối và lo lắng. "Bây giờ thì hai đứa cháu đã vào cuộc, thật đáng tiếc. Giai đoạn của những lời nói dối và sự lẫn tránh đã qua rồi. Nếu hai cháu muốn sống sót, hai cháu sẽ cần phỉa biết sự thật..."
Josh và Sophie đưa mắt nhìn nhau. Tự nhiên cả hai cô cậu bé đều thốt lên cụm từ, "Nếu hai cháu muốn sống sót..."
"Tên thật của chú là Nicholas Famel. Chú sinh ra tại Pháp vào năm 1330. Tên thật của Perry là Perenelle: cô ấy lớn hơn chú mười tuổi. Nhưng đừng bao giờ nói với cô ấy là chú đã nói điều này nhé", ông nói một cách vội vàng.
Josh cảm thấy bụng mình co thắt và sôi lên ùng ục. Cậu sắp nói không thể được và cười phá lên và cảm thấy bị quấy rầy vì câu chuyện hoang đường của Nick. Nhưng cậu bị thâm tím đầy mình và bị quăng mạnh ngang qua căn phòng bởi... bởi cái gì? Cậu nhớ lại rằng một tên Golem đã tiến đến cạnh Perry - Perenelle - và lập tức hắn bị tan rã bởi sức mạnh từ bà.
"Chú là... là gì?" Sophie hỏi câu hỏi đã nằm sẵn trên môi hai đứa. "Chú và cô Perenelle là gì?".
Nick mỉm cười, nhưng nụ cười trông lạnh lẽo không một chút hài hước và trong khoảnh khắc, ông có nụ cười lành lạnh giống như Dee. "Chúng tôi là huyền thoại", ông nói đơn giản. "Đã có một thời - rất lâu rồi - cô chú là những người giản dị, nhưng rồi chú mua một cuốn sách, Cuốn sách của Pháp sư Abraham, thường được gọi là Codex (Bộ luật chép tay). Từ giây phút đó, mọi chuyện thây đổi. Perenelle thay đổi. Chú thay đổi. Chú trở thành Nhà Giả kim.
Chú trở thành Nhà Giả kim vĩ đại nhất mọi thời đại, và được rất nhiều vua chúa, hoàng tử, hoàng đế và ngay cả Đức Giáo hoàng tìm kiếm. Chú khám phá ra bí mật của hòn đá của nhà triết giacho6n giấu sâu kin trong cuốn sách ma thuật cổ xưa đó. Chú học được cách biến những kim loại thông thường thành vàng, biến những viên đá thông thường thành những viên đá quý. Nhưng hơn tất cả, trên tất cả, chú đã tìm ra công thức pha chế giữa dược thảo và những câu thần chú để từ đó tránh xa khỏi bệnh tật và cái chết. Perenelle và chú trở thành những kẻ bất tử". Ông cầm những trang sách bị xé trên tay. "Bây giờ tất cả những gì còn lại của Codex là hai trang giấy này. Dee và những kẻ như hắn đã lùng sục Cuốn sách của Pháp sư Abraham trong nhiều thế kỷ. Giờ đây bọn họ đã có nó. Và có cả Perenelle nửa", ông nói thêm một cách cay đắng.
"Nhưng chú đã nói là Cuốn sách sẽ không hiểu quả nếu thiếu đi nhựng trang giấy này mà", Josh nhắc ông một cách nhanh chóng.
"Đúng như vậy. Có nhiều thứ trong cuốn sách làm cho Dee phải săn lùng nó trong nhiều thế kỷ, nhưng những trang giấy này mới chính giá trị sống còn", Nick đồng ý. "Dee sẽ sớm trở lại để láy hai trang giấy".
"Vẫn còn một điều gì khác nữa, phải không chú?" Sophie vội hỏi. "Một điều gì đó khác". Cô biết rằng Nick vẫn giữ lại một cái gì đó thay vì nói hết tất cả. Người lớn hay làm như vậy. Cha mẹ của cô đã "nhịn" đến hàng tháng trời trước khi nói cho Josh và cô biết rằng cả hai đứa sẽ được trải qua kỳ nghỉ hè ở San Francisco.
Nick liếc nhìn cô với tia nhìn sắc bén và một lần nửa ánh nhìn ấy gợi cô nhớ đến tia mắt lạnh lùng của Dee trước đó: có một cái gì đó thật lạnh lẽo và tàn nhẫn ở trong đó. "Đúng, vẫn còn thêm một điều nữa", ông nói ngập ngừng. "Không có cuốn sách, cả chú và cô Perenelle sẽ già đi. Công thức của sự bất tử phải được pha chế trong mỗi tháng. Chỉ sau một vòng tròn trăng, cả chú và cô đều sẽ héo hắt và chết". Và nếu tụi chú chết đi, thì bọn quỷ dữ mà bọn chú đã chóng lại trong rất nhiều năm sẽ chiến thắng. Giống loài Elder sẽ ngự trị và chiếm hữu trái đất này thêm lần nữa".
Dạ Phong
14-11-2010, 06:46 AM
"Giống loài Elder?" Josh hỏi, giọng nói của cậu nghe vút cao và rạn vỡ. Cậu khó nhọc nuốt bọt, nghe tim mình đập thình thịch trong lòng ngực . Bỗng nhiên, một buổi chiều thứ Năm bình thường bỗng trở nên kỳ lạ và khủng khiếp với những kết kục tàn khốc. Cậu đã từng chơi rất nhiều game trên máy vi tính, đọc nhiều sách tiểu thuyết kỳ ảo và trong tất cả những thứ đó, Elder luôn có nghĩa là một giống loài cổ xưa và nguy hiểm. "Elder, có phải là già không?".
"Rất già", Flamel gậ́t đầu.
"Ý của chú là còn rất nhiều kẻ giống như Dee hay như chú?" Josh hỏi, và cậu khẽ nhăn mặt khi bị Sophie đá vào hai ống quyển.
Flamel quay nhìn về phía Josh, đôi mắt không màu của ông bây giờ vụt tối sầm vì giận dữ. "Có nhiều kẻ giống như Dee, đúng, và nhiều kẻ giống như ta, nhưng Dee và ta không giống nhau", Flamel nói thêm đầy cay đắng. "Chúng ta đã chọn lựa những con đường khác nhau, và hướng đi của Dee đã đưa hắn ta đến những nẻo đường thật tăm tối. Hắn cũng bất tử, mặc dù ta không biết bằng cách nào mà hắn giữ được tuổi trẻ. Nhưng cả hai chúng ta đều là người". Ông quay về phía hộc đựng tiền đang nằm mở nắm trên sàn nhà và bắt đầu lấy tiền ra. Khi ông quay sang nhìn hai chị em sinh đôi, chúng giật mình khi nhìn thấy vẻ nhẫn tâm trên nét mặt của ông. "Những kẻ mà Dee phục vụ không phải và không bao giờ xuất thân từ loài người". Nhét những đồng tiền vào tuí, ông chụp lấy một chiếc áo khoắc bằng da nằm lăn lóc trên sàn nhà. "Chúng ta phải ra khỏi đây thôi".
"Chú sẽ đi đâu? Chú sẽ làm gì?" Sophie hỏi.
"Còn bọn cháu thì sao?" Josh hoàn tất câu hỏi của bà chị, như cách cô bé vẫn thường tiếp lời cậu.
"Đầu tiên chú phải đưa hai cháu đến một nơi chốn an toàn trước khi Dee nhận ra rằng có hai trang sách quan trong đã bị mất. Rồi chú sẽ tìm kiếm Perenelle".
Cặp sinh đôi nhìn nhau. "Tại sao chú phải đưa bọn cháu đến một nơi an toàn...?" Sophie hỏi.
"Một khi Dee đã phát hiện ra cuốn sách chua hoàn hảo, hắn sẽ trở lại để tìm kiếm các trang bị mất. Và chú đảm bảo rằng, hắn sẽ không để bất kỳ nhân chứng nào sống sót trên trái đất này".
Josh cười phá lên, nhưng tiếng cười tắt lịm trong cổ họng cậu bé khi câu nhận ra rằng chị mình thậm chí không hề nhếch mép. "Chú nói là..." cậu liếm đôi môi đột nhiên khô khốc. "Chú nói là hắn sẽ giết hai đứa cháu?"
Nick Fleming nghiêng đầu qua một bê, vẻ chăm chú. "Không", cuối cùng ông lên tiếng, "không phải là giết bọn cháu".
Josh thở ra với vẻ nhẹ nhõm.
"Tin chú đi", Fleming nói tiếp. "Dee có thể làm những việc kinh khủng hơn nhiều đối với hai cháu. Kinh khủng hơn rất nhiều".
Dạ Phong
14-11-2010, 06:48 AM
Chương 5
Hai chị em Sophie đứng nơi vỉa hè nơi ngoài tiệm sách, những mảnh thủy tinh rơi xuống từ mấy ô cửa sổ vỡ kêu lạo xạo dưới chân chúng. Hai chị em nhìn Nick rút ra một chiếc chìa khóa. "Nhưng chúng ta không thể bỏ đi ngay được", Sphie nói dứt khoát.
Josh gật đầu. "Chúng ta sẽ không đi bất cứa nơi đâu hết".
Nick Fleming - hay còn gọi là Flamel như là chúng bắt đầu nghĩ về ông với cái tên mới đó - đút chìa khóa vào lỗ khóa cửa và xoay vòng cho nó kêu lách cách. Phía bên trong tiệm sách, họ có thể nghe thấy tiếng những cuốn sách trượt dài trên nền nhà. "Chú thực sự yêu cửa hàng này", Flamel nói nhỏ, nó gợi chú nhớ đến công việc đầu tiên chú làm trong cuộc đời". Ông liếc nhìn Sophie và Josh. "Hai cháu không còn chọn lựa nào khác nữa. Nếu muốn sống sót cho đến hết ngày hôm nay, hai cháu phải rời khỏi nơi đây ngay tức khắc". Rồi ông quay đi,khoác vào người chiếc áo da sờn cũ trong lúc ông băng qua đường để tiến đến tiệm Tách Cà phê. Hai chị em Sophie nhìn nhau , rồi vội vã chạy theo ông.
"Cháu có chìa khóa để mở cửa khôntg?".
Sophie gật đầu. Cô lôi ra chùm hai chìa khóa được dính nơi chiếc móc khóa có in hình chiếc cầu Cổng Vàng nổi tiếng của San Francisco. "Nhì̉n nè, nếu Bernice trở về và đã thấy tiệm đã đóng cửa, bà ấy cỏ thể sẽ gọi điện cho cảnh sát hay làm một điều gì đó..."
"Ý hay đấy", Flamel nói. "Hãy để để lại một mãnh giấy", ông nói với Sophie, "viết một câu gì ngắn gọn thôi - là cháu có việc đột xuất phải đi gấp, vì một việc hết sức cấp bách. Nói là cháu đi cùng với chú. Viết vội vào, trông như có vẻ cháu đã phải đi một cách vội vã. Mà cha mẹ cháu có vẫn còn làm công việc khai quật ở Utah không?". Cha mẹ của chị em Sophie là những nhà khảo cổ học, hiện tại họ đang làm việc cho trường Đại học San Francisco.
Sophie gật đầu. "Họ sẽ còn ở đó ít nhất là trong sáu tuần lễ nữa".
"Hiện tại tụi cháu vẫn đang ở với dì Agnes ở Pacific Heights", Josh nói thêm. "Dì Sầu thảm (Agony) thì đúng hơn".
"Tụi cháu không thể khi không mà biến mất. Dì Agnes hẳn đang chờ tụi cháu về nhà trong bữa ăn tối". Sophie nói. "Chỉ cần về muộn năm phút thôi, dì sẽ làm nhặng xị lên. Tuần trước đó, khi chiếc xe điện bị hỏng và tụi cháu vể trễ hơn lệ thường một tiếng đồng hồ, dì đã gọi điện thoại cho ba mẹ tụi cháu trước khi hai đứa ló mặt về nhà". Dì Agnes năm nay đã tám mươi tư tuổi và mặc dù bà hay làm cho hai đứa trẻ nhiều phen rối trí về sự ồn ào om sòm từ những chuyện không đâu, chúng vẫn rất thích bà.
"Vậy thì tụi cháu cũng cần ngĩ ra lý do để giải thích cho bà dì đó nữa", Flamel nói một cách thẳng thắn, và ông bước vào tiệm cà phê vắng vẻ. Sophie theo sát sau lưng ông.
Josh thoáng chần trước khi cậu bước vào không gian mát mẻ tràn ngập các mùi thơm ngọt ngào của tiệm Tách Cà phê. Cậu đứng thẫn thờ nơi vỉa hè, ba lô đeo trên vai, đầu nghiêng ngó lên xuống. Nếu không để ý đến những vụn kính vỡ nằm tung tóe lấp lánh trên vỉa hè của tiệm sách, mọi vật chiều nay trông cực kỳ bình thường. Chỉ là một buổi chiều bình thường như mọi buổi chiều khác trông tuần. Con đường vắng lặng và im ắng, không khí nóng bức nhiệt độ tháng Sáu, và đâu đây thoang thoảng hơi thở của đại dương. Xa xa phía bên kia vịnh, vượt quá bến cảng Fisherman, vọng đến hồi còi dài của một con tàu. Âm thanh thăm thẳm của còi nghe lạc lõng và cô đơn trong khoảng không. Mọi vật trông cũng chẳng có gì khác biệt so với nửa giờ đồng hồ trước đó.
Và rồi...
Và rồi chẳng có gì như trước nữa. Sẽ chẳng bao giờ mọi thứ còn y nguyên như trước. Chỉ trong vòng ba mươi phút vừa qua, thế giới vốn trật tự của Josh đã đổi thay mãi mãi, không bao giờ có thể trở lại như xưa. Cậu là một học sinh cấp hai rất bình thường, không quá thông minh, nhưng cũng không quá ngu ngốc. Cậu chơi bóng đá, hát dở tệ trong ban nhạc của mấy đứa bạn họp lại, có để ý đến một vài cô gái nhưng chua hề có một cô gái thực sự nào. Cậu chơi những trò chơi thịnh hành trên máy tính, cực khoái những trò đầy tính hành động như Quake và Dôm và Unreal Tournament, nhưng lại không thể xoay xở với trò chơi đua xe và đã thua cuộc trong trò Mýt. Cậu thích xem Simpsons và có thể học thuộc lòng hàng đóng câu hay ho trong đó. Cậu thực sự mê phim Shrek mặc dù thấy nó xạo kinh khủng. Và cậu cho rằng phim Batman mới xem cũng được trong khi X-Men thì trên ca tuyệt vời. Thậm chí cậu yêu thích anh chàng Siêu nhân mới mặc dù thiên hạ chê bai nhân vật Superman mới này ầm ĩ. Tóm lại, cậu là một người rất bình thường.
Nhưng những cô cậu bé mới lớn bình thường không thể chúng kiến cuộc chiến đấu đầy ma thuật giữa hai thầy phù thủy cổ xưa với năng lực phi thường.
Làm gì có ma thuật trên thế giới này. Ma thuật là những kỹ xảo trên phim. Ma thuật là những màn biểu diễn trên sân khấu khi những con thỏ và chim bồ câu và thỉnh thoảng cả cọp nữa xuất hiện hay là khi Davil Copperfield cưa người ta ra làm đôi và bay qua đầu đám đông khan giả. Chẳng có gì là ma thuật thực sự trên cõi đời này.
Nhưng rồi cậu làm sao lý giải về nhữn chuyện là lùng xãy ra trong tiệm sách? Cậu vừa mới tận mắt nhìn thấy những chiếc giá sách trở nên mục nát, những cuốn sách tan ra thành bột giấy. Cậu vừa tận mũi ngửi thấy mùi trứng thối bay ra từ những câu thần chú của Dee và mùi bạc hà thanh khiết khi Fleming - hay Flamel - thực hiện ma thuật của mình.
Josh Newman run lên trong ánh mặt trời chói chang và chạy vào bên trong tiệm Tách Cà phê. Cậu mở ba lô và lấy ra chiếc laptop cũ. Cậu cần sử dụng mạng lưới Internet không dâu có trong tiệm cà phê để truy tìm những dấu vết của những cái tên cậu tò mò muốn biết: tiến sĩ John Dee, Perenelle và đặc biệt là Nicholas Flamel.
Sophie viết vội một vài dòng nhắn gửi trên mặt sau của một tấm khăn giấy, rồi cô vừa gặm đuôi bút chỉ vừa đọc lại mảnh giấy.
Bà Fleming không được khoe. Gá bị rò rỉ trong tiệm. Đã đi bệnh viện. Ông Fleming đi cùng tụi cháu. Mọi việc khác đều OK. Sẽ gọi lại sau.
Khi Bernice trở về và nhận thấy cửa tiệm đóng cửa sớm hơn so với thường ngày, chắc chắn bà sẽ không hài lòng. Sophie đoán là rất có thể cô sẽ bị mất việc. Thở dài, cô ký tên vào mảnh giấy với một nét bay bướm kéo dài rồi dính nó vào quày thu nhân.
Nicholas Flamel nhìn qua vai cô và đọc mảnh giấy. "Rất tốt, và nó cũ̉ng giải thích vì sao tiệm sách đóng cửa". Flamel nhìn về phía Josh khi đó đang gõ như điên trên bàn phím của chiếc máy tính xách tay. "Đi thôi".
"Cháu chỉ muốn check mail thôi", Josh thì thầm, ngắt điện khỏi máy và đóng máy lại.
"Vào lúc này ư?" Sophie hỏi một cách hoài nghi.
"Cuộc sống cứ trôi đi. Và email không chờ đợi ai". Cậu cố nở một nụ cười nhưng không thể.
Sophie chụp lấy túi xách của mình và chiếc áo khoác jeans kiểu cổ điển, vừa nhìn lướt nhanh qua tiệm cà phê. Bỗng nhiên cô nghĩ rằng cô sẽ không gặp lại khung cảnh dấu yêu này trong một thời gian rất dài, nhưng dù sao thì ý nghĩ xem ra cũng thật kỳ quặc. Cô tắt đèn, dẫn em trai và Nick Fleming đi ra ngoài qua cánh cửa lớn. Rồi cô đóng cửa lại, đút chìa khóa vào ổ và tàh xâu chìa khóa vào trong hộp thư.
"Bây giờ mình sẽ làm gì?" cô hỏi.
"Bây giờ chúng ta sẽ cầu viện đến một sự giúp đỡ và đi trốn, cho đến lúc chú xác định rõ sẽ làm gì với hai cháu", Flamel mỉm cười. "Tụi chú rất giỏi trong việc trốn chạy; Perry và chú đã từng làm chuyện đó trong hơn một nửa thiên niên kỷ".
"Còn Perry thì sao hả chú?" Sophie hỏi. "Liệu Dee có... làm hại cô ấy không?" Cô biết và thích người phụ nữ cao, thanh nhã trong một vài tuần vừa qua khi bà đến tiệm cà phê. Cô không muốn bất cứ chuyện gì xảy đấn với bà.
Flamel lắc đầu. "Hắn ta không thể. Cô ấy quá mạnh mẽ. Chú chua bao giờ học về Nghệ thuật Phù thủy nhưng Perry nghiên cứu rất sâu về nó. Hiện tại tất cả những gì Dee có thể làm đó là canh giữ cô ấy, ngăn cản không cho cô ấy sử dụng sức mạnh của mình. Nhưng chỉ trong vòng vài ngày tới cô ấy sẽ bắt đầu già và yếu đi. Có thể là trong vòng một tuần, chắc chắn là trong hai tuần, hắn có thể dùng phép thuật để khuất phục cô ấy. Từ đây đến đó, hắn sẽ rất cảnh giác. Hắn sẽ giam giữ cô ấy dưới các câu thần chú Canh giữ (Wards) và Con Dấu niêm phong (Sigils)..." Flamel nhìn thấy vẻ bối rối hiện lên trên nét mặt của Sophie. "Đó là những rào cản ma thuật", ông giải thích. "Hắn sẽ chỉ tấn công một khi hắn biết chắc mình sẽ thắng. Nhưng trước tiên hắn sẽ cố khám phá kiến thức rông lớn đầy các bí mật nhà nghề của cô ấy. Khả năng tìm hiểu và nghiên cứu kiến thức luôn là thế mạnh vượt trợi của Dee... và cũng là điểm yếu của hắn". Ông lơ đãng vỗ nhẹ túi áo khoác. "Perry của chú có thể chăm sóc chính bản thân mình. Nhớ có lần chú đã kể với cháu rằng cô ấy từng đối mặt với một cặp Nữ yêu Hy Lạp".
Sophie gật đầu, mặc dù cô không biết cặp Nữ yêu Hy Lạp đó là gì.
Dạ Phong
14-11-2010, 06:50 AM
Khi đi bộ dọc theo con đường, Famel chợt nhớ ra cái mà ông đang tìm kiếm: một cặp kính râm tròn nhỏ. Ông đeo chúng vào, thọc hai tay vào túi của chiếc áo da sờn cũ và bắt đầu húyt gió một cách ngẫu hứng như thể ông hoàn toàn không quan tâm gì đến thế giới này. Ông liếc nhìn ra sau. "Nhanh lên nào".
Hai chị em sinh đôi nhìn nhau một cách trống rỗng, rồi chúng vội chạy theo ông.
"Em đã nhìn thấy thông tin về chú ấy ở trên mạng," Josh thì thào, liếc nhanh về phía chị mình.
"À thì ra đó là những gì em đang làm. Chị không nghĩ là mấy cái Email lại quan trọng đến mức đó".
"Tất cả những gì chú ấy nói đều được em tìm thử: thông tin về chú ấy ở trên Wikipedia và có gần hai trăm ngàn kết quả về chú ấy trên Google. Có đến hơn mười triệu kết quả về John Dee. Ngay cả Perenell cũng nằm trên mạng và nhiều thông tin đề cập đến cuốn sách và tất cả mọi thứ khác. Mạng Internet cũng cho biết là khi chú Flamel chết, rất nhiều người đã đến đào bới một của chú ấy để tìm của cải quý giá và họ phất hiện ra một trống rỗng - không có ai và cũng chẳng có đồ vật gì. Hình như, nhà của chú ấy vẫn ở Paris".
"Trông chú ấy chẳng có vẻ gì giống một thầy phù thủy bất tử cả", Sophie nói nhỏ.
"Em không chắc là một phù thủy là trong như thế nào", Josh thì thầm . "Hai phù thủy đó là em biết đó là Penn và Teller".
"Chú không phải là thầy phù thủy", Flamel nói mà không nhìn hai đứa. "Chú là nhà giả kim, một người đàn ông của khoa học, mặc dù đó không phải là khoa học mà hai cháu từng quen thuộc".
Sophie cố đi nhanh để bắt kịp Flamel. Cô vươn tay chạm lấy tay của Flamel để làm cho ông đi chậm lại, thế nhưng một luồn điện bỗng chạy thẳng vào các đầu ngón tay cô. "Á..." Cô vội rút mạnh tay lại, các ngón tay nóng ran. Chuyện gì tiếp theo đây?
"Chú rất tiếc," Flamel giải thích. "Đó chính là tác động còn lại của... của những gì cháu gọi là ma thuật. Những tinh hoa phát tiết ra ngoài của chú - luồn điện tỏa quanh cơ thể chú - vẫn còn. Nó đã phản ứng khi nó chạm vào luồng điện của cháu." Ông mỉm cười, để lộ hàm răng nhỏ hoàn hảo. "Điều đó cũng có nghĩa là luồng điện của cháu cũng rất mạnh".
"Luồng điện, hay tinh hoa phát tiết, đó là gì?".
Flamel sải chân trên vỉa hè một vài bước mà không nói gì, rồi ông quay sang chỉ về phía một chiếc cửa sổ. Từ TATTOO (hinh xăm) nổi bật trong ánh sáng huỳnh quang. "Nhìn thấy không... có một quầng sáng lấp lánh bao quang những chữ cái?".
"Cháu thấy rồi", Sophie gật đầu, hơi liếc mắt về hướng Flamel chỉ. Mỗi một cái chữ đều được tô nổi bật bằng ánh đèn vàng lấp lánh.
"Mỗi một con người đều có một quầng sáng tương tự bao quanh cơ thể. Trong quá khứ xa xưa, người ta cỏ thể nhìn thấy nó một cách rõ ràng và gọi nó là "luồng điện". Từ này có xuất xứ từ tiến Hy Lạp chỉ hơi thở. Khi con người tiến hóa, phần lớn họ mất đi khả năng nhìn thấy được luồng điện. Tất nhiên là, một số khác vẫn còn khả năng này".
Josh khịt mũi chế nhạo.
Flamel liếc nhìn ra sau qua vai mình. "Đó là sự thật. Một cặp vợ chồng người Nga là Kilians đã chụp hình được luồng điện. Đó là luồng điện bao quang bất kỳ sinh vật sống nào".
"Trông nó như thế nào?" Sophie hỏi.
Flamle gõ nhẹ vào cửa sổ của cửa hiệu. "Như thế này: một quầng sáng bao quanh cơ thể. Luồng điện của mỗi người đều đặc biệt, mang nhiều màu sắc khác nhau, nhiều sức mạnh khác nhau. Một số vòng sáng rực rỡ ổn định, một số rung rinh xao động, một số vòng bao quanh người, một số khác bao phủ cơ thể như chiếc bì thư. Cháu có thể rút ra nhiều điều khi quang sát luồng điện của một người: họ đang đau ốm hay hạnh phúc, giận dữ hay sợ hãi điều gì đó".
"Và chú có thể nhìn thấy những luồng điện đó chứ?" Sophie hỏi.
Flamel lắc đầu khiến bọn trẻ rất ngạc nhiên. "Không, chú không thể. Perry có thể nhìn thấy. Nhưng chú biết cách khơi thông và điều khiển hướng đi của năng lượng. Đó chính là những gì mà hai cháu đã nhìn thấy hôm nay: năng lượng thuần khiết của luồng điện".
"Cháu nghĩ là cháu sẽ học cách làm giống như chú vậy", Sophie nói.
Flamel liếc nhanh về phía cô. "Hãy cẩn thận vì những cái mà cháu đang ao ước. Tất cả sự sử dụng năng lượng đều có giá của nó". Ông chìa tay ra. Sophie và Josh bước nhộn nhịp trên con đường vắng. Bàn tay của Fleming run lên bần bật. Và khi Sophie nhìn vào mắt ông, cô thấy chúng ngầu đỏ. "Khi sử dụng năng lượngl luồng điện, cháu sẽ đốt cháy lượng calori ngang bằng với lượng calori mất đi khi chạy marathon. Hãy ngĩ việc này cũng giống như việc xài cạn kiệt một cục pin vậy. Chú rất nghi ngờ không biết mình còn có thể trụ được bao lâu trong cuộc chiếc với Dee".
"Dee có mạnh giống như chú không?".
Flamel mỉm cười một cách tàn nhẫn. "Chắc chắn rồi". Đút tay trở lại vào túi chiếc áo da, ông tiếp tục nện bước trên con đường. Sophie và Josh giờ đây bước bên cạnh ông. Từ phía xa xa, chiếc cầu Cổng Vàng dần hiện ra trên những nóc nhà cao. "Dee đã trải qua cả năm thề kyd9e63 phát triển sức mạnh của mình. Chú cũng trải qua gần ấy thời gian để giấu đi năng lượng của mình, chỉ tập trung vào một vài chuyện nhỏ chú cần phải làm để giữ cho chú và Perenelle còn sống. Dee luôn luôn đầy sức mạnh và chú tah6y1 kinh hãi khi nghĩ hắn đang rất mạnh trong lúc này". Khi đến cuối ngọn đồi ông dừng lại, nhìn sang phải sang trái, rồi đột nhiên rẽ sang trái và thẳng tiến về hướng đường California. "Rồi sẽ có thời gian cho những câu hỏi sau. Lúc này, chúng ta cần phải đi gấp lên".
"Chú biết Dee đã lâu chưa?" Josh nài nỉ, nhất quyết đợi câu trả lời.
Nicholas Flamel mỉm cười đan tối. "John Dee là một người đàn ông trưởng thành khi chú nhận hắn vào học nghề. Thời đó, chú vẫn thường nhận học trò, và có rất nhiều người khiến chú tự hào. Chú quyết địng đào tạo một thế hệ kế tiếp bao gồm các nhà giả kim, nhà khoa học, nhà chiêm tinh và nhà toán học. Đó sẽ là những người đàn ông và đàn bà tạo ra một thế giới hoàn toàn mới. Có lẽ Dee là người học trò xuất sắc nhất mà chú từng có. Vì vậy hai cháu có thể nói rằng chú biết Dee đã gần năm trăm năm rồi - dẫu rằng mối quan hệ giữa chú và Dee đã trở nên không thường xuyên trong một vài thập kỷ gần đây."
"Điều gì đã khiến ông ta trở thành kẻ thù của chú?" Sophie hỏi.
"Sự tham lam, lòng ghen tỵ... và quyển Codex, cuốn sách của Pháp sư Abraham," Flamel nói một cách tàn nhẫn. "Hắn đã dò tìm nó một thời gian dài, và bây giờ hắn đã có nó".
"Không phải là trọn vẹn", Josh nhắc.
"Ừ, không phải là trọn vẹn." Flamel mỉm cười. Ông ta tiếp tục tiến bước với hai chị em Sophie đi bên cạnh. "Khi Dee vẫn còn theo học nghề chú ở Paris, hắn khám phá ra sự tồn tại của cuốn Codex. Chú đã nhìn thấy quả tang hắn cố gắng đáng cắp cuốn sách và chính khi đó chú cũng đã phát hiện ra rằng hắn kết nối chính mình về phía bọn Elder đen tối. Chú từ chối chia sẻ những bí mật trong cuốn sách với hắn. Dee và chú đả có một cuộc tranh cãi rất gay gắt. Đêm hôm đó hắn cho những sát thủ đầu tiên đến để tiêu diệt chú và Perry. Nhưng kẻ sát thủ là người nên cô chú xử lý họ một cách dễ dàng. Đêm tiếp theo sau đó, những kẻ sát thủ không còn là người nữa. Vì thế chú và cô Perry cầm cuốn sách, thu dọn ít đồ đạt rời khỏi Paris. Từ đó hắn cứ đuổi theo cô chú mãi".
Dạ Phong
14-11-2010, 06:52 AM
Họ dừng lại ở một ngã tư đèn đỏ. Ba khách du lịch người Anh đang đứng đợi đèn xanh và Flamel đột nhiên im lặng. Ông liếc nhanh hai chị em Sophie ngầm ý chúng đừng nói gì cả. Đèn chuyển sang xanh và họ băng qua đường. Những khách du lịch rẽ phải. Nicholas Flamel và hai đứa trẻ rẽ sang trái.
"Cô chú đã đi đâu sau khi rời khỏi Paris?" Josh hỏi.
"London", Flamel nói vắn tắt. "Dee suýt nữa đã bắt được cô chú ở đó vào năm 1666", ông tiếp tục. "Hắn thả ra tên Lửa Hung tàn để săn lùng bọn chú, một sinh vật không có trí óc, rất man rợ và gần như hắn đã hủy hoại cả thành phố. Lịch sử gọi đó là Đám Cháy lớn".
Sophie nhìn sang Josh. Chúng đều đã từng học qua Đám Cháy lớn ở London trong phần Lịch sử Thế giới. Cô cảm thấy nagc5 nhiên về thái độ bình tĩnh của mình: cô đang đứng đây, lắng nghe một người đàn ông cho biết ông ta đã hơn năm trăm tuổi, gợi nhớ lại các sự kiện lịch sử như thể là ông ta đang có mặt tại thời điểm sự kiện đó diễn ra. Và cô tin ông ta!
"Dee lại suýt bắt được cô chú tại Paris vào năm 1763", Flamel tiếp tục, "và thêm một lần nữa vào năm 1835, khi cô chú đang ở Rome và làm việc tại tiệm bán sách. Tiệm bán sách luôn là nơi trú ẩn ưa thích của chú", ông nói thêm. Ông im bặt khi họ đến gần một nhóm du khách người Nhật đang chăm chú lắng nghe người hướng dẫn du lịch đang ẩn mình dưới một cây dù màu vàng tươi. Khi ba người đi xa khỏi đám du khách, Flamel tiếp tục. Những sự kiện xãy ra hơn một thế kỷ rưỡi trước vẫn luôn tươi nguyên và dày vò ký ức của ông.
Họ dừng lại ở một ngã tư đèn đỏ. Ba khách du lịch người Anh đang đứng đợi đèn xanh và Flamel đột nhiên im lặng. Ông liếc nhanh hai chị em Sophie ngầm ý chúng đừng nói gì cả. Đèn chuyển sang xanh và họ băng qua đường. Những khách du lịch rẽ phải. Nicholas Flamel và hai đứa trẻ rẽ sang trái.
Cô chú đã đi đâu sau khi rời khỏi Paris?" Josh hỏi.
"London", Flamel nói vắn tắt. "Dee suýt nữa đã bắt được cô chú ở đó vào năm 1666", ông tiếp tục. "Hắn thả ra tên Lửa Hung tàn để săn lùng bọn chú, một sinh vật không có trí óc, rất nam rợ và gần như hắn đã hủy hoại cả thành phố. Lịch sử gọi đó là Đám Cháy lớn".
Sophie nhìn sang Josh. Chúng đều đã từng học qua về Đám Cháy lớn ở London trong phần lịch sử Thế giới. Cô cảm thấy ngạc nhiên về thái độ bình tĩnh của mình: cô đang đứng đây, lắng nghe một người đàn ông cho biết ông ta đã hơn năm trăm tuổi, gợi nhớ lại các sự kiện lịch sử như thể ông ta đang có mặt tại thời điểm sự kiện đó diễn ra. Và cô tin ông ta!
"Dee lại suýt bắt được tụi chú tại Paris vào năm 1763" Flamel tiếp tục, "và thêm một lần nữa vào năm 1835", khi cô chú đang ở Rome và làm việc ở tiệm bán sách. Tiệm sách luôn luôn là nơi trú ẩn ưa thích của chú" ông nói thêm. Ông im bặt khi họ đến gần một nhóm du khách người Nhật đang chăm chú lắng nghe người hướng dẫn du lịch đang ẩn mình dưới một cây dù màu vàng tươi. Khi ba người đi xa khỏi đám du khách, Flamel tiếp tục. Những sự kiện xãy ra hơn một thế kỷ rưỡi trước vẫn luôn tươi nguyên và dày vò ký ức của ông.
"Tụi chú chạy đến Ireland, nghĩ rằng hắn sẽ không bao giờ tìm ra một khi mình đã trốn đến một nơi một hòn đảo nằm về phía tận cùng của châu Âu. Nhưng rồi hắn tìm ra manh mối. Hắn đã tìm cách điều khiển bom Wights và mang theo hai tên đi cùng hắn để lần tìm dấu vết của hai cô chú: tên của hai sin vật này là Bệnh tật và Đói khát. Dù sao, hắn đã không làm chủ được hai sinh vật quái ác kia. Nạn đói và bệnh tật tràn ngập hòn đảo tội nghiệp: một triệu người đã chết trong Nạn đói Tàn khốc ở Ireland vào năm 1840." Khuôn mặt của Nicholas Flamel đanh lại như một chiếc mặt nạ. "Chú hoài nghi về việc liệu Dee có bao giờ để ngừng lại để nghĩ về điều đó. Hắn luôn luôn khinh miệt con người."
Sohpie liếc nhìn em thêm một lần nữa. Qua nét mặt chăm chú của em mình, cô có thể đoán được cậu đang tập trung cao độ, cố gắng tiếp thu lượng thông tin tràn ngập. cô biết Josh sẽ lại muốn lên mạng để kiểm tra các thông tin chi tiết. "Nhưng hắn chưa bao giờ bắt được chú", cô nói với Flamel.
"Không, cho đến hôm nay." Ông nhún vai và mỉm cười buổn bã. "Đó là điều không thể tránh được. Trong suốt Thế kỷ Hai mươi, hắn đeo bám bọn chú ngày một gần hơn. Hắn đang trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ, và tổ chức của hắn đã kết hợp được ma thuật cổ xưa và kỹ thuật hiện đại. Perry và chú đã ẩn nấp ở Newfoundland trong một thời gian dài cho đến khi hắn thả bọn Sói Hung hãn ra săn bọn chú. Bọn chú đã trôi nỗi từ thành phố này sang thành phố nọ khởi đầu từ cùng Bờ biển Đông của New York vào năm 1901 và dần dần đi về hướng Tây. Chú cho là việc bắt được cô chú đối với hắn chỉ là vấn đề thời gian mà thôi," ông nói thêm. "Camera, video, điện thoại và mạng Internet khiến ngày nay người ta càng lúc càng khó ẩn nấu hơn".
"Quyển sách... quyển Codex mà hắn đang tìm kiếm...." Josh bắt đầu.
"Cuốn sách của Pháp sư Abraham", Flamel nói.
"Có gì đặt biệt về nó?"
Nicholas Flamel dừng lại đột ngột ở giữa vỉa hè đến nỗi cặp sinh đôi đi vượt qua ông. Chúng quay lại phía đằng sau. Người đàn ông bình thường đang giang rộng đôi cánh tay, như thể ông ta đang sắp cúi đầu chào. "Hãy nhìn chú. Nhìn chú mà xem! Chú già hơn cả nước Mỹ. Đó chính là điều đặc biệt của cuốn sách." Flamel hạ giọng và nói tiếp một cách gấp gáp. "Nhưng các cháu biết không - bí mật của cuộc sống bất tử có lẽ là phần ít bí mật nhất của cuốn Codex".
Sophie chạm tay trượt qua vai người em sinh đôi của mình và nắm lấy tay cậu. Josh siết chặt tay cô, và dù cậu không nói gì cô vẫn biết là cậu đang hoảng sợ giống như cô vậy.
"Với cuốn Codex, Dee có thể tái sắp xếp lại và thay đổi thế giới".
"Thay đổi ư?" Giọng của Sophie trở nên thì thào và bỗng như bầu không khí trở nên nặng trĩu của tháng Sáu trở nên giá lạnh.
"Thay đổi ư, bằng cách nào?" Josh hỏi.
"Tái lập lại nó", Flamel nói nho nhỏ, "Dee và bọn Elder Đen tối mà hắn phục vụ sẽ tái tạo lại thế giới này giống như nó đã từng có vào thời quá khứ cổ xưa theo một cách mà không ai có thể tưởng tượng ra được. Và vai trò duy nhất duy nhất mà loài người có thể tồn tại trong đó chính là nô lệ. Hay là thức ăn."
Dạ Phong
15-11-2010, 04:03 PM
Chương sáu
Mặc dù có rất nhiều phương tiện để truyền đạt thông tin khác nhau cho phép người sử dụng được thoải mái chọn lựa, Tiến sĩ John Dee vẫn ưa thích điện thoại di động hơn tất cả. Đây là thành quả rực rỡ của thế kỷ và cũng là chọn lựa hàng đầu của hắn ta. Ngồi dựa lưng vào chiếc ghế bọc da êm mát của chiếc Limousine, hắn mở nắp trượt chiếc điện thoại cầm tay, hướng nó về phía Perenelle Flamel đang nằm im bất động giữa hai tên Golem đang nhỏ giọt lộp bộp, và chụp nhanh một tấm hình.
Bà Perenelle Flamel. Tù nhân của hắn. Vậy là đã có thể bắt đầu album hình ảnh của hắn được rồi đây.
Dee bấm một con số và nhấn nút gởi đi. Rồi hắn nghiêng đầu, ngắm nhìn người phụ nữ thanh nhã đang ngồi phía đối diện. Việc bắt được Perenelle là một phần thưởng phi thường của vận may đến với hắn, nhưng hắn hiểu rằng vận may đó chỉ xảy ra bởi vì Perenelle đã phung phí quá nhiều năng lượng vào việc hủy hoại tên Golem của hắn. Hắn vuốt nhẹ bộ râu mỏng hình tam giác. Hắn sẽ phải sớm tạo ra thêm vài tên Golem nữa. Hắn liếc nhìn hai tên Golem đang ngồi đối diện: chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi xuất hiện dưới ánh mặt trời mùa hè, bọn chúng đã bắt đầu rạn nứt và tan chảy. Tên Golem to lớn ngồi bên trái Perenelle đang nhỏ những giọt bùn đen quánh dưới sông xuống mặt ghế da.
Có lẽ hắn sẽ phải chọn lựa một cái gì đó khác hơn bọn Golem vào lần tới. Cái bọn vũ phu ngu đần ấy tỏ ra được việc ở những nơi có khí hậu mát mẻ, nhưng hoàn toàn không phù hợp với mùa hè nóng bức vùng biển tây. Hắn tự hỏi liệu mình có thể chế tạo ra một con ma cà rồng hay không.
Ngay chính Perenelle cũng trở thành một vấn đề thách đố, hơn thế nữa, một vấn đề nghiêm trọng: đơn giản là hắn không thể biết chắc về sức mạnh của bà ta.
Dee luôn luôn kính sợ người phụ nữ Pháp cao ráo và thanh nhã này. Lần đầu tiên khi hắn gặp gỡ và học nghề với Nicholas Flamel, nhà giả kim, hắn đã sai lầm khi đánh giá thấp về khả năng của Perenelle. Rồi hắn nhanh chóng nhận ra rằng Perenelle Flamel ít nhất cũng mạnh ngang bằng với người chồng của bà ta - và, thực tế, còn có nhiều lĩnh vực mà bà hoạt động mạnh mẽ hơn. Chính những đặc điểm khiến Flamel trở thành một nhà giả kim xuất sắc - sự chú ý của ông đến từng chi tiết nhỏ, những hiểu biết của ông về ngôn ngữ cổ đại, sự kiên nhẫn tột độ của ông - tất cả đã biến ông trở thành một phù thủy vụng về và một thầy đồng gọi hồn yếu kém. Đơn giản là, ông ta thiếu đi khả năng tưởng tượng, mường tượng cần thiết để trở thành phù thủy. Perenelle, ngược lại, là một trong những nữ phù thủy hùng mạnh nhất mà Dee từng chạm trán.
Dee cởi bỏ một chiếc găng tay màu xám và thả nó rơi xuống bên chiếc ghế ngồi bên cạnh. Ngồi dựa lưng đối diện với Perenelle, hắn nhúng sâu một ngón tay vào vũng nước bùn đen nằm phía dưới một trong hai tên Golem đang nhỏ giọt và vẽ ra một hình xoắn vào mặt sau bàn tay trái của bà. Rồi hắn vẽ thêm một hình phản chiếu của biểu tượng xoắn đó vào bên tay phải của bà. Hắn lại nhúng bàn tay mình vào vũng bùn lép nhép và vạch ba đường cong lượn sóng lên trán bà đúng vào lúc bà mở rộng đôi mắt màu xanh lá cây của mình. Dee vội vàng ngồi dựa lưng vào ghế.
“Bà Perenelle, thật không thể diễn tả nỗi vui mừng của tôi khi được gặp lại bà.”
Perenelle mấp máy môi để nói nhưng không hề có lời nói nào thoát ra ngoài. Bà cố gắng cử động, nhưng không chỉ bị bọn Golem giữ chặt lấy hai cánh tay, những cơ bắp của bà cũng không hề nhúc nhích.
A, xin lỗi bà nhé, nhưng tôi đã cho phép mình quyền giam giữ bà phía dưới câu thần chú Canh giữ. Một câu thần chú đơn giản, nhưng nó sẽ đáp ứng việc kiểm soát bà cho đến lúc tôi có thể sắp xếp được một cái gì đó lâu dài.” Dee mỉm cười, nhưng chẳng có nét gì hài hước trong nụ cười của hắn. Điện thoại di động của hắn rung lên trong điệu nhạc chủ đề của phim X-files, và hắn bật nắp trượt. “Xin lỗi nhé,” hắn nói với Perenelle.
Một giọng nói the thé vang lên trong chiếc điện thoại từ đầu dây phía bên kia.
“Bà nhận được tấm hình rồi hả?” hắn hỏi. “Đúng vậy, tôi nghĩ nó sẽ làm bà thích thú: Perenelle Flamel huyền thoại giờ đây đang nằm trong tay chúng ta. Ồ, tôi tin chắc là Nicholas sẽ đến tìm bà ta. Và chúng ta sẽ sẵn sàng để nghênh tiếp hắn. Lần này hắn sẽ không trốn thoát được nữa đâu.”
Perenelle có thể nghe thấy rõ ràng tiếng cười khúc khích phía bên kia đầu dây điện thoại. “Ờ, tất nhiên rồi.” Dee thò tay vào túi và lôi ra cuốn sách màu đồng lấp lánh. “Chúng ta đã có quyển Codex. Cuối cùng thì nó thuộc về chúng ta.” Hắn bắt đầu lần giở những trang sách trong khi nói chuyện. Giọng của hắn trở nên thầm thì, không rõ là hắn đang nói với người bên kia đầu dây hay với chính hắn nữa. “Mười nghìn năm của các bí mật nhà nghề nay đã tích tụ tất cả trong một...”
Rồi giọng nói của hắn bỗng kéo dài hụt hẫng. Chiếc điện thoại rơi khỏi tay hắn và trượt dài trên mặt sàn.
Ở phía sau cùng của cuốn sách, đã có hai trang sách bị mất, ai đó đã xé chúng đi một cách thô lỗ.
Dee nhắm mắt lại và rồi liếm nhanh môi với chiếc lưỡi nhỏ. “Thằng bé,” hắn rít lên qua kẽ răng, “chính nó đã làm chuyện đó khi nó giằng lấy cuốn sách từ tay ta.” Hắn mở mắt ra và bắt đầu đọc lướt nhanh các trang sách trước đó một cách cẩn thận. “Có thể đó là hai trang sách không quan trọng...” hắn thì thào, môi run run trong khi hắn liếc nhanh qua các dòng chữ đang trôi nổi, nhảy nhót. Hắn nhìn chăm chú vào những con chữ lấp lánh nằm trên đầu mỗi trang sách, hé lộ một phần nội dung của trang. Rồi hắn đột nhiên dừng lại, cầm lấy cuốn sách với những ngón tay run rẩy. Rồi hắn ngẩng đầu lên, đôi mắt rực sáng giận dữ. “Ta đã bị mất phần Hiệu triệu Cuối cùng!” hắn tru lên căm phẫn. Những tia sáng màu vàng tỏa ra xung quanh đầu hắn và ô cửa sổ bên hông chiếc xe đằng phía sau lưng hắn lập tức vỡ ra thành một mạng nhện đầy những vết nứt rạn màu sáng bạc. Những tia màu vàng trắng rơi xuống từ răng hắn như những giọt nước bọt. “Quay trở lại ngay,” hắn gào lên với tên tài xế. “Trở lại ngay. Không, dẹp hết, hủy hết tất cả các việc khác. Flamel đâu có khùng. Bọn nó có thể đã cao chạy xa bay mất rồi.” Hắn cúi xuống lượm chiếc điện thoại lên, tránh ánh mắt của Perenelle, ngừng lại vài giây để định thần. Hắn hít một hơi dài và trông có vẻ như đã lấy lại được bình tĩnh, rồi hắn quay số. “Chúng ta gặp phải một vấn đề nhỏ,” hắn nói quả quyết vào điện thoại, giọng hắn nghe thản nhiên và vô cảm. “Có vẻ như chúng ta đã bị mất một vài trang ở phần sau cùng của cuốn sách. Tôi chắc chắn rằng chẳng có gì quan trọng cả. Có thể bà sẽ ban cho tôi một sự giúp đỡ đặc biệt,” hắn nói một cách tự nhiên, “bà hãy chuyển lời nhắn của tôi đến Morrigan là tôi đang cần sự giúp đỡ của bà ta.”
Dee chú ý rằng đôi mắt của Perenelle mở to vì kinh hoàng khi bà nghe hắn nhắc đến tên gọi đó. Hắn cười nhăn nhở trong niềm vui độc ác. “Nói với bà ấy rằng tôi rất cần đến tài năng và những khả năng đặc biệt của bà ấy.” Rồi hắn đóng nắp chiếc điện thoại lại và nhìn về phía Perenelle Flamel. “Chuyện sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều nếu bọn họ đưa cuốn Codex cho tôi một cách nhanh chóng. Bây giờ thì, Morrigan sẽ tới. Và bà biết như vậy có nghĩa là như thế nào rồi.”
Dạ Phong
16-11-2010, 06:56 AM
Chương 7
Sophie là người đầu tiên chú ý đến con chuột. Cặp sinh đôi lớn lên ở New York và trải qua các kỳ nghỉ hè phần lớn ở California , nên việc đối mặt với một con chuột không có gì mới mẻ. Khi sống ở San Francisco , một thành phố cảng, người ta lại càng quen với chuyện “gặp gỡ” những sinh vật này, đặc biệt là vào buổi sáng sớm hay lúc đêm khuya khi chúng bò ra khỏi vùng bóng tối và các cống rãnh.
Sophie không lấy gì làm sợ hãi lũ chuột, mặc dù như rất nhiều người khác cô đã từng nghe những câu chuyện kinh dị, huyền thoại đô thị và những mẩu chuyện dạng BKVB - bạn kể với bạn - về những con thú chuyên ăn xác thối. Cô biết lũ chuột hầu như vô hại chỉ trừ khi chúng bị dồn vào thế bí. Cô nhớ là đã đọc ở đâu đó rằng chuột có thể nhảy rất cao, cao kinh khủng. Cô cũng đã đọc một bài báo trên tờ New York Times phụ trương Chủ nhật là số lượng chuột ở Hoa Kỳ đông bằng với số lượng người sinh sống ở đó.
Nhưng con chuột này trông rất khác lạ.
Bóng láng và đen mượt - thay vì màu nâu dơ dáy thường thấy - nó đứng thu lu, bất động nơi ngõ hẻm và cô bé có thể thề rằng đôi mắt của nó có màu đỏ sáng. Và nó đang nhìn họ chằm chằm.
Có lẽ nó là một con thú cưng bị sổng chuồng chăng?
“À, cháu đã thấy rồi đó,” Flamel thì thầm, ông cầm lấy cánh tay cô kéo đi. “Chúng ta đang bị quan sát.”
“Ai vậy?” Josh vội hỏi đầy bối rối. Cậu lập tức quay nhìn lui, mong đợi nhìn thấy chiếc xe dài màu đen của Dee trên con đường. Nhưng không hề có bóng dáng của chiếc xe hơi và dường như không có ai để ý đến điều đó. “Ở đâu?”
“Con chuột. Ở trong ngõ hẻm,” Nicholas Flamel nói vội vã. “Đừng có nhìn.”
Nhưng lời cảnh báo của ông vang lên quá muộn. Josh đã kịp quay lại và nhìn thấy. “Một con chuột đang quan sát chúng ta ư: chú nói giỡn đó hả?” Cậu nhìn chằm chằm vào con chuột, chờ nó quay đi và bỏ chạy. Nhưng nó chỉ giơ cái đầu nhọn lên cao và nhìn trả lại cậu, miệng nó há to để lộ những cái răng nhọn hoắt. Josh rùng mình. Rắn và chuột: cậu ghét cay ghét đắng những con vật đó. Ghét ngang nhau. Mặc dù cậu không sợ chúng bằng nhện và bò cạp.
“Chuột đâu có mắt màu đỏ, phải không?” cậu hỏi, vừa liếc nhìn chị gái. Người chị mà như cậu vẫn biết, không hề sợ bất cứ cái gì.
“Thường thì không,” cô trả lời.
Khi cậu quay nhìn lại đằng sau, cậu khám phá ra rằng bây giờ đã có đến hai con chuột màu đen huyền đang đứng nơi ngõ hẻm. Một con thứ ba nữa vừa bò ra khỏi bóng tối và đứng im quan sát họ.
“OK,” Josh nói, “em đã vừa nhìn thấy bọn người làm bằng bùn đất. Em nghĩ là mình có thể chấp nhận mấy con chuột gián điệp. Bọn chúng có biết nói không nhỉ?” cậu thắc mắc.
“Đừng nghĩ nhảm,” Flamel vội nói. “Chúng chỉ là những con chuột.”
Sau những gì vừa chứng kiến, Josh không còn nghĩ câu hỏi đó là kỳ quặc nữa.
“Có phải là Dee đã gởi chúng đến đây?” Sophie thắc mắc.
“Hắn đang dò tìm chúng ta. Mấy con chuột đã đánh hơi và đi theo dấu chúng ta từ cửa tiệm. Một câu thần chú “bói cầu” đơn giản cũng đủ cho phép hắn nhìn thấy những gì mà bọn chuột trông thấy. Bọn chúng là những công cụ thô bỉ nhưng hiệu quả và một khi chúng đã bắt được mùi của chúng ta chúng sẽ đi theo chúng ta cho đến khi chúng ta lội qua dòng nước. Nhưng chú để ý hơn đến những con vật kia kìa.” Ông hất cằm mình lên trên.
Sophie và Josh cùng nhìn lên. Tụ tập trên đỉnh của những tòa nhà xung quanh họ là một số lượng khổng lồ những con chim lớn đen nhánh.
“Quạ,” Flamel nói vắn tắt.
“Mệt rồi đây,” Sophie phỏng đoán. Kể từ giây phút Dee bước chân vào cửa tiệm, đã không hề có một tin tức tốt lành nào xảy đến.
“Rất có thể chuyện sẽ trở nên tồi tệ. Nhưng chú nghĩ chúng ta sẽ OK thôi. Chúng ta sắp đến nơi rồi.” Ông rẽ trái và dẫn hai đứa trẻ đi vào khu trung tâm của phố Tàu của San Francisco . Họ đi ngang qua khách sạn Sam Francisco . Họ đi ngang qua khách sạn Sam Wong rồi rẽ phải xuống một con đường hẹp, rồi lại đột ngột rẽ vào một đường hẻm chật hẹp hơn nữa. Khác với những con đường chính sạch sẽ và rộng rãi, những con hẻm này chất đầy những chiếc hộp và thùng mở nắp tỏa ra thứ mùi hôi thối chua chua ngọt ngọt của thức ăn hư thối. Con hẻm nhỏ mà họ vừa quẹo vào ngập ngụa mùi hôi thối, và không khí đen đặc ruồi nhặng trong khi mấy tòa cao ốc vươn mình lên cao đến nỗi lối đi bị phủ mờ trong bóng tối.
“Chị nghĩ là mình phát bệnh,” Sophie lẩm bẩm. Mới vừa hôm qua thôi, cô nói với cậu em sinh đôi là những tuần lễ làm việc trong tiệm cà phê đã “nâng cấp” kỹ năng ngửi và phân biệt mùi của mình như thế nào. Cô khoe là thậm chí cô còn có thể phân biệt được cả những mùi cô chứa bao giờ ngửi qua trước đó. Giờ đây có thấy ân hận vì điều đó: không khí sặc sụa mùi của trái cây và cá thối.
Josh khẽ gật đầu. Cậu đang tập trung hơi sức để thở qua đường miệng, mặc dù cậu tưởng tượng rằng mỗi một hơi thở hôi thối sẽ chạm vào lưỡi và bò xuống họng cậu nhanh chóng.
“Sắp tới rồi,” Flamel nói. Ông có vẻ như không bị ảnh hưởng gì bởi mùi hôi đậm đà đang bao quanh họ.
Cặp sinh đôi nghe tiếng cót két rin rít và quay đầu lại đúng lúc chúng nhìn thấy năm con chuột đen huyền đang bò ngang qua miệng những chiếc thùng để mở ngay sau lưng họ. Một con quạ lớn đậu trên sợi dây điện chăng ngang qua ngõ hẻm.
Flamel đột nhiên dừng lại bên ngoài một cánh cửa gỗ nhẵn nhụi có vỏ ngoài đầy cáu ghét đến nỗi hầu như không thể phân biệt nó với bức tường. Nó nằm chìm khuất trên bức tường. Chẳng hề có nắm đấm hay lỗ khóa gì cả. Xòe rộng bàn tay, Flamel đặt những ngón tay lên những vị trí đặc biệt nào đó và ấn nút. Cánh cửa kêu lách cách rồi mở ra. Kéo lấy Sophie và Josh, ông dẫn chúng vào trong vùng bóng tối và khép nhanh cánh cửa phía sau bọn chúng.
Sau mùi hôi thối nồng nặc của con hẻm nhỏ, hành lang nơi ba người đang đứng có hương vị thật tuyệt vời: ngọt ngào mùi hương hoa nhài và những hương thơm tinh tế lạ lùng khác. Cặp sinh đôi hít thở thật sâu. “Cam Bergamot,” Sophie tuyên bố, xác định mùi cam thơm nồng nàn, “và mùi Ylang - Ylang và Patouchli nữa.”
“Thật ấn tượng,” Flamel nói.
“Cháu đã quen thuộc với các loại thảo dược trong tiệm cà phê. Cháu rất thích hương vị của các loại trà nhập từ nước ngoài.” Cô ngừng lời, chợt nhận ra rằng cô đang nói hệt như là cô sẽ chẳng bao giờ còn quay lại tiệm cà phê và ngửi những mùi vị tuyệt vời ở đó nữa. Giờ này, những người khách đầu tiên của buổi chiều sớm sẽ bắt đầu bước vào tiệm, yêu cầu được uống cappuccinos và latte, trà đá và trà dược thảo. Cô chớp mắt để xua đi giọt lệ vừa ứa ra nơi khóe mắt. Cô thấy nhớ bởi vì tất cả thật bình thường, giản dị và rất thật.
“Chúng ta đang ở đâu đây?” Josh hỏi, vừa nhìn xung quanh khi mà mắt cậu đã bắt đầu quen với ánh sáng lờ mờ. Họ đang đứng giữa một hành lang dài và hẹp, sạch như li như lau. Những bức tường được bọc một lớp gỗ vàng óng mượt mà, và dưới chân họ là những tấm thảm làm bằng các sợi tranh được dệt một cách tinh xảo, cầu kỳ. Một ô cửa đơn giản che phủ lên một khung cửa có vẻ như được làm bằng giấy ở ngay góc cuối của hành lang. Josh sắp sửa tiến tới cánh cửa đó thì bàn tay cứng như sắt của Flamel chộp vào vai cậu như có ý bảo cậu ngừng lại.
“Đừng cử động,” ông thì thầm. “Chờ đợi. Nhìn ngó. Chú ý. Nếu cháu nhớ đến ba từ này trong đầu, cháu có thể sẽ sống sót trong vòng vài ba ngày tới.” Thọc sâu tay vào túi, ông rút ra một đồng 25 xu. Đặt nó lên ngón cái, ông búng nhẹ nó lên không trung. Đồng xu xoay tròn nhiều vòng và bắt đầu rơi xuống ngay chính giữa hành lang...
Một âm thanh rin rít vang lên - và một ngọn phi tiêu mũi nhọn đâm xuyên qua đồng xu kim loại ngay giữa không trung, và đẩy nó về phía bức tường đối diện.
“Các cháu đang sắp bỏ lại sau lưng thế giới an toàn và trần tục mình hằng quen thuộc,” Nicholas Flamel nói một cách trang trọng, đôi mắt ông lần lượt nhìn hai đứa. “Chẳng có gì là như trước nữa. Các cháu phải học cách đặt câu hỏi cho tất cả mọi thứ. Học cách chờ đợi trước khi cử động, nhìn ngó trước khi tiến bước, và quan sát tất cả những gì xung quanh. Chú đã học những cái đó trong thuật giả kim, nhưng tụi cháu sẽ nhận thấy chúng là vô giá trong thế giới mới mẻ mà các cháu không hề có chủ ý tiến vào này.” Ông chỉ tay xuống sàn nhà. “Hãy nhìn ngó và quan sát. Nói cho chú biết: các cháu đang thấy những gì?”
Josh chỉ vào chiếc lỗ nhỏ đầu tiên mà cậu trông thấy trên tường. Nó được trang trí trông giống như một cái gút xinh xắn trên mặt gỗ. Khi đã nhìn ra một cái, cậu khám phá ra rằng có hàng tá những lỗ nhỏ như vậy nằm chi chít trên tường. Cậu thắc mắc không biết có phải là trong mỗi cái lỗ đều có chứa phi tiêu có sức mạnh để đâm xuyên qua kim loại.
Sophie chú ý rằng sàn nhà không hoàn toàn ăn khớp với bức tường. Nằm ở ba chỗ khác nhau - ở cả bên phải và bên trái, gần với lớp gỗ viền chân tường, là ba kẽ hở rõ ràng.
Flamel lần lượt nhìn hai chị em và khẽ gật đầu. “Tốt lắm. Bây giờ thì hãy nhìn cho kỹ. Chúng ta đã nhìn thấy sức mạnh của những chiếc phi tiêu, nhưng vẫn còn có những vũ khí phòng thủ khác...” Ông lấy một chiếc khăn giấy ra khỏi túi áo và ném nó xuống sàn nhà, gần với một trong những kẽ hở. Một tiếng xủng xẻng của kim loại vang lên - và rồi một lưỡi kiếm lớn có hình vầng trăng khuyết thình lình bật ra từ bức tường, cắt vụn chiếc khăn giấy ra thành từng mẩu confetti, và rồi thụt lại ẩn náu ở trong tường.
“Vì vậy nếu như những mũi phi tiêu không chạm được tới chúng ta...” Josh bắt đầu.
“Thì những lưỡi kiếm sẽ làm điều đó,” Sophie tiếp lời cậu. “Ồ, nếu như vậy thì chúng ta làm sao để tiến vào cánh cửa?”
“Chúng ta sẽ không vào bằng cửa đó,” Flamel nói, và ông xoay người ấn vào phía bên trái của bức tường. Một vết cắt nguyên vẹn được mở ra và “cánh cửa” bất ngờ ấy khẽ đung đưa, cho phép ba người tiến vào bên trong một căn phòng thoáng đãng.
Cặp sinh đôi nhận ra căn phòng ngay lập tức. Đó là một võ đường như vẫn thường thấy trong các trường dạy võ. Ngay khi còn nhỏ, hai đứa trẻ đã được học võ Taekwondo trong võ đường như thế này nằm trên khắp nước Mỹ, khi chúng di chuyển cùng với cha mẹ từ trường đại học này sang trường đại học khác. Rất nhiều trường đại học có các câu lạc bộ võ thuật và cha mẹ chúng luôn đăng ký cho các con mình theo học ở những võ đường tốt nhất mà họ có thể tìm được. Cả Sophie và Josh đều đã đạt đến đẳng cấp “đai đỏ”, một đẳng cấp nằm ngay dưới đai đen.
Dù sao, không giống như những võ đường khác, võ đường này bằng phẳng và không trang trí gì. Nó được tô điểm bằng màu trắng và màu kem đơn giản, với những bức tường trắng và những tấm thảm đen nằm trên sàn nhà. Nhưng những gì khiến hai đứa trẻ chú ý ngay lập tức đó là một hình người mặc quần jeans trắng và áo thun trắng đang ngồi ở chính giữa phòng, lưng xoay về phía họ. Mái tóc đỏ suôn thẳng sáng rực chính là điểm màu sắc duy nhất trong toàn bộ khung cảnh võ đường.
“Chúng tôi đang gặp vấn đề,” Nicholas Flamel nói một cách giản dị với hình dáng kia.
“Ông vừa gặp vấn đề; điều đó không liên quan gì đến tôi.” Hình dáng không quay lại, nhưng giọng nói của nó nghe trẻ và đầy nữ tính đến lạ lùng. Các trọng âm trong giọng nói nghe nhẹ nhàng và mang âm hưởng của vùng Celtic: Ireland hay Scotland gì đây, Sophie nghĩ.
“ Dee đã tìm thấy tôi hôm nay.”
“Đó chỉ là vấn đề thời gian.”
“Hắn đến chỗ tôi cùng với bọn Golem.”
Một khoảnh khắc im lặng trôi qua. Đến lúc này, hình bóng kia vẫn chưa quay mặt lại. “Hắn lúc nào cũng ngốc nghếch như vậy mà. Không thể dùng bọn Golem ở những nơi có khí hậu khô nóng. Đó là kết quả của tính kiêu ngạo của hắn.”
“Hắn cũng đã bắt giữ Perenelle làm tù binh rồi.”
“À. Chuyện rắc rối đấy. Dù sao hắn cũng sẽ không làm hại được bà ấy đâu.”
“Và hắn đã lấy được cuốn Codex.”
Hình dáng khẽ động đậy, sau cử động của đôi chân là đến khuôn mặt bắt đầu xoay về phía họ. Cặp sinh đôi choáng váng khi phát hiện ra chúng đang nhìn thấy một cô gái không lớn hơn chúng bao nhiêu. Làn da của cô ta trắng xanh xao, lốm đốm tàn nhang và trên khuôn mặt tròn nổi bật đôi mắt xanh biếc màu cỏ. Mái tóc đỏ của cô được cắt ngắn với những đuôi tóc sắc nhọn và màu đỏ của nó trông sáng chói đến mức Sophie băn khoăn không biết có phải là cô ta đã nhuộm nó.
“Cuốn Codex?” Trọng âm này chắc chắn là tiếng Ireland , Sophie quả quyết. “Cuốn sách của Pháp sư Abraham?”
Nicholas Flamel gật đầu.
“Vậy thì ông đã nói đúng, chúng ta thực sự đã gặp vấn đề.”
Flamel lần sờ vào túi áo và lấy ra hai trang sách mà Josh đã xé ra từ cuốn sách. “Ồ, gần như là cả cuốn sách. Hắn đã chỉ sót mất phần Hiệu triệu Cuối cùng.”
Cô gái trẻ hít hà, âm thanh vang lên như tiếng nước đang sôi và một nụ cười vụt nở ra trên khuôn mặt của cô. “Mà hắn ta sẽ rất muốn có, tất nhiên rồi.”
“Tất nhiên rồi.”
Josh quan sát một cách chăm chú cô gái có mái tóc đỏ sáng chói. Cậu để ý thấy rằng cô hầu như đứng bất động như pho tượng, như phần lớn các võ sư mà cậu biết. Cậu liếc qua chị mình đang đứng sát ngay bên cạnh với cú hất cằm nhè nhẹ về phía cô gái. Sophie khẽ lắc đầu. Chúng rất tò mò không hiểu vì sao Nicholas lại cư xử với cô ta với sự kính trọng đặc biệt đến nhường ấy. Sophie cũng đã kết luận rằng đã có một sai sót nào đó trong cách diễn đạt và biểu hiện của cô ta, dù rằng cô không thể chỉ rõ sự bất bình thường đó là gì. Đó là một khuôn mặt bình thường, có lẽ là gò má hơi quá cao, cằm hơi quá nhọn, nhưng sức lôi cuốn của khuôn mặt nằm ở đôi mắt to xanh biếc màu ngọc lục bảo... và rồi Sophie giật mình nhận ra rằng cô gái đã không hề chớp mắt.
Cô gái bất chợt ngửa đầu ra sau và hít thở một hơi dài, cánh mũi của cô nở rộng. “Có phải đó là lý do vì sao tôi có thể ngửi thấy những Đôi mắt?”
Flamel gật đầu. “Chuột và quạ ở khắp mọi nơi.”
“Và ông đã mang bọn chúng đến nơi đây?” Rõ ràng là có một hàm ý kết tội trong giọng nói của cô gái. “Tôi đã mất rất nhiều năm để xây dựng nơi này.”
“Nếu Dee có quyển Codex, cô biết là hắn sẽ làm gì với nó.”
Cô gái gật đầu. Cô hướng đôi mắt xanh mở rộng của mình về phía hai chị em Sophie, “Và cả hai người này nữa?” cô hỏi, cuối cùng thì cũng ghi nhận sự có mặt của chúng.
“Hai đứa trẻ có mặt ngay khi Dee tấn công. Chúng đã chiến đấu vì tôi, và chàng trai trẻ này đã tìm cách xé hai trang giấy từ cuốn sách. Đây là Sophie và đây là cậu em sinh đôi của cô bé, Josh.”
“Sinh đôi?” Cô gái tóc đỏ tiến lên phía trước, và lần lượt nhìn vào mỗi đứa. “Không dễ dàng nhận thấy được, nhưng bây giờ thì tôi có thể nhìn ra những nét tương đồng.” Cô quay nhìn về phía Flamel. “Ông không nghĩ gì sao?”
“Tôi nghĩ đây là một chuỗi những sự kiện thú vị diễn ra liên tục,” Flamel nói một cách bí hiểm. Ông nhìn hai đứa trẻ. “Chú muốn giới thiệu với hai cháu đây là Scathach. Cô ấy có lẽ sẽ không nói nhiều về mình với hai cháu, vậy nên chú sẽ nói cho hai cháu biết rằng cô ấy là một trong những Giống loài Elder và đã rèn luyện cho nhiều chiến binh và anh hùng huyền thoại trong suốt hai ngàn năm qua. Trong thần thoại, cô ấy được biết đến với cái tên Nữ Chiến binh, Bóng tối, Kẻ Giết quỷ, Người Chi phối việc Bổ nhiệm những Chức vụ Quan trọng, người...”
“Ồ, hãy gọi tôi là Scatty Điên khùng,” cô gái nói, đôi má cô chuyển sang màu giống như màu mái tóc của cô.
Dạ Phong
16-11-2010, 07:12 AM
Chương 8
Tiến sĩ John Dee cúi mình ở băng ghế sau của chiếc xe hơi và cố gắng hết sức để làm chủ cơn giận dữ của mình một cách không thành công lắm. Không khí nặng trịch mùi lưu huỳnh và những tia lửa màu trắng vàng tóe ra lách tách từ những ngón tay của hắn và bắn tung tóe xuống sàn xe. Hắn đã thấy bại, và trong khi những chủ nhân của hắn tỏ ra rất kiên nhẫn - họ thường lên kế hoạch cho nhiều âm mưu trong vòng nhiều thế kỷ để cho kế hoạch chủ mưu ấy được xây dựng một cách hoàn hảo nhất. Sự kiên nhẫn đó giờ đây đang cạn dần. Và họ không hề biết đến một khái niệm nào gọi là lòng trắc ẩn.
Bất động và tê cứng, bị giữ chặt dưới câu thần chú canh giữ, Perenelle Flamel quan sát hắn, đôi mắt bà sáng rực sự ghê tởm pha trộn với nỗi ghê sợ.
“Chuyện trở nên phức tạp,” Dee lẩm bẩm, “và ta rất ghét những gì phức tạp.”
Dee đang giữ một chiếc đĩa mỏng bằng bạc trong lòng hắn. Hắn đổ một lon soda vào trong đĩa - đó là thứ chất lỏng duy nhất mà hắn có trong lúc này. Hắn luôn luôn muốn sử dụng nước tinh khiết, nhưng về căn bản thì bất kỳ chất lỏng nào cũng có thể dùng để làm phép được. Cúi xuống bên chiếc đĩa, hắn nhìn chằm chằm vào chất lỏng trong đó và cho phép một ít năng lượng dòng điện của mình chảy nhỏ xuống bề mặt đĩa trong khi môi hắn khẽ thì thầm những từ đầu tiên của câu thần chú Bói cầu.
Trong khoảnh khắc đầu tiên, chỉ có hình bóng hắn in lên bề mặt chất lỏng đen tối, rồi mặt nước rung rinh và soda bắt đầu nổi bong bóng và sôi lên sùng sục. Khi chất lỏng đó bắt đầu lắng lại, mặt nước không còn in bóng khuôn mặt của Dee nữa mà là một hình ảnh đáng tò mò có màu xám tím và đen ánh xanh là cây. “Màn hình soda” nằm gần sát sàn xe, lay động và rung rinh một cách mau lẹ đến chóng mặt.
“Bọn chuột,” Dee lầm bầm, đôi môi mỏng cong lên với vẻ chán ghét. Hắn rất ghét dùng chuột làm Đôi mắt Gián điệp.
“Tôi không thể tin rằng ông đã dẫn bọn chúng đến nơi đây,” Scatty nói, lèn chặt một đống quần áo vào chiếc ba lô dùng đeo sau lưng.
Nicholas Flamel đứng nơi ngưỡng cửa của căn phòng ngủ gọn gàng nhỏ bé của Scatty, hai cánh tay ông khoanh trước ngực. “Tất cả mọi chuyện diễn ra quá nhanh. Chuyện đã tồi tệ khi Dee giành được cuốn Codex, nhưng khi tôi nhận ra rằng đã có hai trang bị xé, tôi biết là cặp sinh đôi sẽ gặp rắc rối kinh khủng.”
Khi từ “sinh đôi” vang lên từ miệng Flamel, Scatty ngước nhìn lên trong khi cô vẫn đang sắp xếp quần áo cho vào chiếc túi. “Chúng chính là lý do thực sự khiến ông đến nơi đây, phải vậy không?”
Flamel đột ngột nhận ra một nhân vật rất thú vị trên tường và ông nhìn chằm chằm vào đó.
Scatty sải bước ra khỏi căn phòng nhỏ, liếc nhìn ra ngoài hành lang để chắc chắn rằng Sophie và Josh vẫn còn đang đứng nơi nhà bếp, và rồi cô kéo Flamel vào trong phòng, và đóng cửa lại.
“Ông vẫn còn đang theo đuổi một việc gì đó, phải không Flamel?” Cô dò hỏi. “Việc không chỉ dừng lại ở sự mất mát cuốn Codex. Lẽ ra ông đã có thể tự mình đánh bại Dee và bọn tay chân của hắn.”
“Đừng đoán chắc như vậy. Tôi đã ngừng việc giao chiến một thời gian khá lâu rồi, Scathach à,” Flamel nói nhẹ nhàng. “Thuật giả kim duy nhất mà tôi làm hiện nay đó là chế ủ một ít chất lỏng trong Viên đá Phù thủy để giữ gìn tuổi thanh xuân cho Perenelle và cho chính mình. Thỉnh thoảng, tôi chế tạo một ít vàng hay trang sức quý hiếm khi chúng tôi cần tiền sinh sống.”
Scatty ho khẽ như một chuỗi cười không chút hài hước, và trở lại với việc thu dọn hành lý. Cô đã thay áo quần và bây giờ cô mặc một chiếc quần chiến đấu màu đen, mang một đôi bốt lớn có mũi bọc thép và một chiếc áo thun màu đen. Ở bên ngoài, cô khoác một chiếc áo vest màu đen có nhiều túi và dây khóa. Cô nhét thêm một chiếc quần thứ hai vào ba lô, tìm thấy một chiếc vớ và đưa mắt tìm kiếm chiếc còn lại ở dưới gầm
“Nicholas Flamel,” cô nói, giọng cô nghèn nghẹt dưới lớp vải phủ giường, “ông là Nhà Giả Kim quyền lực nhất trên thế giới này. Hãy nhớ rằng, tôi đã sát cánh bên ông khi chúng ta cùng chiến đấu chống lại bọn ác quỷ Fomor, và ông là người đã cứu tôi thoát khỏi ngục tối của Chaor Thanach và còn thêm nhiều việc nữa.” Cô chui ra khỏi gầm giường với chiếc vớ còn lại trên tay. “Khi bọn Rusalka khủng bố St.Petersburg, một mình ông đã đánh lui bọn chúng và khi nữ quái Black Annis tàn phá điên cuồng Manitoba, tôi đã nhìn thấy ông đánh bại mụ ta. Một mình ông đối mặt với Phù thủy Bóng đêm cùng đoàn quân Bất tử của mụ. Ông đã trải qua hơn năm trăm năm để đọc và nghiên cứu cuốn Codex. Không ai ngoài ông có thể nắm vững hơn về những câu truyện, truyền thuyết và huyền thoại chứa trong nó…..” Scatty đột nhiên ngưng lời, đôi mắt xanh lá cây của cô rộng mở. “Đó là tất cả những gì cuốn sách cất giữ,” cô nói một cách phấn “Đó chính là huyền thoại…”
Flamel tiến tới gần và đưa ngón tay trỏ ấn vào đôi môi của Scatty, ngăn cản cô nói thêm một từ khác tiếp theo. Nụ cười của ông trở nên bí ẩn. “Cô có tin tôi không?” Ông hỏi.
Câu trả lời của cô đến ngay tức thì. “Với không một chút do dự.”
“Vậy hãy tin tôi. Tôi muốn cô bảo vệ hai đứa bé sinh đôi. Và rèn luyện cho chúng,” ông nói thêm.
“Rèn luyện cho chúng? Ông có biết là ông đang đòi hỏi chuyện gì không?”
Flamel gật đầu. “Tôi muốn cô chuẩn bị cho chúng để đón nhận những gì sẽ xảy đến.”
“Và đó sẽ là những chuyện gì?” Scathach hỏi.
“Tôi không biết,” Flamel mỉm cười, “chỉ biết rằng đó sẽ là những chuyện thật tồi tệ.”
“Tụi con ổn cả, mẹ à, thật đó, tụi con rất OK.” Sophie Newman nghiêng chiếc điện thoại về phía Josh để em cô có thể cùng nghe cuộc trò chuyện. “Dạ đúng rồi, cô Perry Fleming không được khỏe lắm.Có lẽ vì một thứ gì đó mà cô đã ăn. Bây giờ cô đã khỏe hơn rồi.”Sophie có thể cảm thấy những giọt mồ hôi đang túa ra lấm tấm trên những chân tóc phía sau gáy. Nói dối với mẹ là một điều làm cho cô cảm thấy cực kỳ không thoải mái- mặc dù mẹ của cô quá bận rộn với công việc đến mức bà không bao giờ có thời gian để kiểm tra những gì cô nói.
Cha mẹ của Sophie và Josh là những nhà khảo cổ học. Họ nổi tiếng trên toàn thế giới với những phát hiện giúp xây dựng lại diện mạo của ngành khảo cổ hiện đại. Họ nằm trong số những nhà khảo cổ đầu tiên khám phá sự tồn tại của giống người lùn mà sau đó được gọi với cái tên phổ biến là Hobbitts ở Indonesia. Josh luôn luôn nói rằng ba mẹ của chúng đã sống đến trăm năm trong quá khứ và họ chỉ hạnh phúc khi hai mắt cả chân họ dính đầy bùn. Cặp sinh đổi hiểu rắng chúng được bao bọc trong tình yêu thương vô điều kiện, nhưng chúng cũng hiểu rằng cha mẹ mình đơn giản là không hiểu chúng….hay là những gì thuộc về đời sống hiện đại.
“Chú Fleming sắp cùng cô Perry đi thăm ngôi nhà của họ trên sa mạc và họ hỏi liệu chúng con có thích đi tới đó chơi với họ hay không. Tụi con trả lời là hai đứa con phải hỏi ý kiến của mẹ trước tất nhiên rồi. Dạ vâng, tụi con đã nói chuyện với dì Agnes. Dì nói miễn sao ba mẹ cho phép tụi con đi. Vậy mẹ hãy nói “Ờ” đi, con năn nỉ đó.”
Sophie quay sang em trai và giơ ngón tay ra ý chuyện đang đến lúc cao trào. Josh cũng làm hiệu với ngón tay mình. Hai chị em đã bàn bạc rất lâu trước đó về những gì chúng sẽ nói với dì và mẹ trước khi gọi điện thoại cho họ, nhưng chúng hoàn toàn không chắc chắn là mình sẽ làm gì nếu như mẹ không cho phép chúng đi.
Sophie giơ ngón tay cái lên một cách đắc thắng. “Dạ, con được nghỉ một thời gian ngăn ngắn khỏi phải làm việc ở tiệm cà phê. Không, tụi con sẽ không gây ra điều gì phiền phức. Dạ. Dạ, mẹ khỏi lo. Rất yêu mẹ và nhờ mẹ nói với ba là tụi con cũng rất yêu ba.” Sophie lắng nghe, rồi cô đưa may điện thoại ra xa khỏi miệng. “Ba vừa tìm thấy rất nhiều giống Pseudoarctolepis shapi trong tình trạng gần như hoàn hảo,” cô kể lại. Josh không có phản ứng gì. “Đó là một loài giáp xác Campuchia rất quý hiếm,” cô giải thích.
Em trai cô gật đầu. “Nói với ba là điều đó thật cừ khôi. Tụi mình sẽ giữ liên lạc,” cậu nói to.
“Yêu ba mẹ,” Sophie nói và gác máy. “Chị rất ghét phải nói dối mẹ,” cô nói ngay tức thì.
“Em biết. Nhưng chị thực sự không thể nói cho mẹ nghe sự thật mà, đúng không?”
Sophie nhún vai. “Chắc là không.”
Josh quay lại nhìn bồn rửa bát. Máy laptop của cậu đang để tạm gần ống dẫn nước bên cạnh máy điện thoại di động. Cậu phải dùng điện thoại di động để vào mạng bởi vì, thật choáng váng, võ đường này không hề có đường dây điện thoại hay đường dây kết nối mạng Internet nào.
Scatty sống trong một căn hộ gồm hai phòng ở ngay phía trên võ đường. Có một nhà bếp nhỏ ở phía cuối hành lang và một phòng ngủ cùng một nhà tắm nhỏ ở phía đầu kia. Một ban công nhỏ nối liền hai căn phòng trên với tầm nhìn hướng thẳng về phía bên dưới võ đường. Cặp sinh đôi đang đứng nơi nhà bếp trong khi Flamel kể cho Scatty nghe về chuỗi sự kiện vừa diễn ra cách đây vài giờ đồng hồ ở trong phòng ngủ của cô nằm ở phía bên kia hành lang.
“Chị nghĩ gì về cô ấy?” Josh hỏi một cách ngẫu nhiên, chúi mũi vào chiếc laptop. Cậu cố gắng để nối mạng, nhưng tốc độ đường truyền chậm còn hơn con rùa bò. Cậu gõ địa chỉ của Altavista và đánh hàng tá cụm từ khác nhau của Scathach trước khi cậu cuối cùng gõ đúng chính xác tên của cô gái. “Đây rồi: tất cả có đến hai mươi bảy nghìn kết quả về Scathach, cô gái Bóng tối hay Bóng mờ,” cậu nói, và rồi tiếp theo với vẻ vô tình, “Em nghĩ là cô ấy rất tuyệt.”
Sophie vội trả lời bằng một giọng điệu còn tự nhiên hơn nữa. Cô ngoác miệng cười với đôi lông mày nhướn lên. “Ai? Ồ, ý em muốn nói đến nữ chiến binh hai nghìn năm tuổi đó à? Em không nghĩ là cô ta quả có hơi già một chút so với em hay sao?”
Một vầng đỏ xuất hiện từ cổ Josh rồi lan nhanh đến đôi mà cậu khiến chúng ửng hồng. “Để em thử lên Google xem sao,” cậu thì thầm, các ngón tay gõ lách cách trên bàn phím. “Có sáu mười bốn nghìn từ về Scathach,” cậu nói. “Có vẻ như cô ta có thật. Hãy thử coi Wiki nói gì về cô ấy,” cậu tiếp tục gõ, và nhận ra rằng Sophie thậm chí không ngước nhìn mình. Cậu quay về phía cô và thấy cô đang nhìn chằm chằm xuyên qua khung cửa sổ.
Một con chuột đang đứng trên nóc toà cao ốc phía bên kia con hẻm và nó đang nhìn chừng chừng vào hai đứa trẻ. Khi chúng thấy con chuột, lập tức xuất hiện con thứ hai, rồi thứ ba.
“Bọn chúng đến rồi,” Sophie thì thào.
Dee tập trung cao độ để dằn nén lại bữa cơm trưa đang chực trào lên.
Quan sát sự vật qua “lăng kính” mắt chuột là một kinh nghiệm ghê tởm đến phát nôn mửa. Bởi vì chuột có bộ não rất nhỏ nên việc giữ cho chúng tập trung đòi hỏi một nghị lực phi thường......mà trong một ngõ hẻm đầy ắp thức ăn thối rữa, việc đó hoàn toàn không dễ chút nào. Trong thoáng chốc, Dee lấy làm khoan khoái vì hắn không dùng toàn bộ sức mạnh của câu thần chú Bói cầu. Nếu dùng hết, câu thần chú này sẽ cho phép hắn nghe, nếm - chỉ ý nghĩ này nghe cũng đã quá kinh hãi - và ngửi thấy tất cả những gì trên đường lũ chuột đi qua.
Cảm giác này giống hệt như khi ta đang ngồi xem tivi đen trắng có sóng lòe nhòe. Các hình ảnh trôi nổi bồng bềnh, nhô lên hụp xuống và tròng trành lắc lư theo từng bước chân lảo đảo của bọn chuột. Chuột có thể chạy theo chiều ngang trên mặt đất, rồi dốc ngược lên bức tường, sau đó lại lộn ngược chân chổng lên trời dọc theo một sợi dây thừng, tất cả những trò đảo điên tán loạn ấy chỉ diễn ra trong vòng vài giây.
Và rồi hình ảnh bỗng nhiên ngừng lại và trở nên ổn định.
Ngay trước mắt Dee, hiện lên hình bóng hai đứa trẻ mà Dee đã từng nhìn thấy trong tiệm sách trong “tông” màu xám tím và đen xám. Một trai và một gái - có lẽ khoảng chừng 14, 15 tuổi - và trông dáng vẻ của chúng có một nét gì đó rất tương đồng. Một ý nghĩ đột ngột lóe lên cắt ngang sự tập trung của hắn. Có lẽ bọn chúng là hai chị em.......hay, bọn chúng có thể là một cái gì đó khác hay không? Chắc chắn là không!
Hắn nhìn xuống chiếc đĩa Bói cầu và dùng hết sức lực để tập trung, cố điều khiển lũ chuột đứng yên như tượng đá. Dee nhìn kỹ vào hai đứa trẻ, cố gắng phân biệt đứa nào lớn hơn, nhưng “lăng kính” mắt chuột quá mời tối và méo mó khiến hắn không thể xác định được.
Nhưng nếu như hai đứa trẻ này bằng tuổi nhau....điều đó có nghĩa chúng là một cặp sinh đôi. Thật đáng tò mò. Hắn nhìn vào chúng thêm lần nữa rồi lắc đầu: chúng là người. Bỏ qua ý nghĩ vừa đến, hắn gởi đi một mệnh lệnh truyền như sóng vào từng con chuột lúc này đang đứng cách hai đứa trẻ chỉ nửa dặm. “Hủy diệt tụi nó. Hủy diệt tụi nó ngay.”
Những con quạ bắt đầu tụ tập và kêu ầm ĩ như thể chúng đang tán thưởng.
Josh đứng nhìn, mồm há hốc bàng hoàng trước hình ảnh con chuột to bự đang cố hết sức bình sinh để nhảy qua khoảng cách dài gần hai mét từ nóc tòa nhà đối diện đến căn phòng chị em Josh đang đứng. Miệng của nó hà to và hàm răng nhọn hoắt của nó trông thật độc ác. Cậu kêu lên “Nè...!” và chạy xa khỏi khung cửa sổ ngay vừa lúc con chuột chạm vào khung cửa kính thủy tinh với bàn chân ẩm ướt. Nó trượt dài xuống lối đi ngay tầng dưới và tìm cách cách chạy vào bên trong nhanh đến mức đáng kinh ngạc.
Josh chụp lấy tau Sophie, kéo cô chạy ra khỏi căn nhà bếp ra phía ban công. “Chúng ta đang gặp rắc rối,” cậu la lớn. Và im bặt.
Ngày phía dưới chân hai đứa là ba tên Golem to lớn làm bằng bùn nứt nẻ, đang cố sức tiến vào bên trong thông qua cánh cửa mở rộng. Và ngay sau lưng bọn chúng, một hàng dài quanh co uốn khúc những con chuột đang nối nhau cùng theo vào.
Dạ Phong
18-11-2010, 04:12 AM
Chương 9
Ba gã Golem di chuyển một cách kiên quyết vào bên trong hành lang. Chúng nhìn thấy cánh cửa mở nằm ở phía cuối hành lang và xông thẳng đến đó. Các phi tiêu có chiều dài bằng ngón tay bay thẳng vào chúng từ bức tường và đâm sâu vào làn da làm bằng bùn cứng của chúng nhưng không thể làm chúng đi chậm lại.
Các thanh kiếm hình trăng khuyết nằm gần sàn nhà cũng phát huy hiệu lực. Chúng bật ra từ bên dưới lớp vỏ ngụy trang nơi bức tường và chém thẳng vào mắt cá chân của bọn người bùn. Gã Golem đầu tiên ngã đâm sầm xuống sàn nhà với âm thanh nhão nhoẹt của bùn ướt. Gã thứ hai đi loạng choạng trên một bên chân trước khi ngã bổ nhào về phía trước, đâm sầm vào bức tường và trượt xuống để lại một vệt bùn đất kéo dài. Các thanh kiếm hình bán nguyệt tiếp tục “vòng vận động”, tấn công lần nữa và cắt đôi hai sinh vật bùn đất thành hai mảnh và cuối cùng hai gã Golem quay trở lại với “xuất xứ” bùn đất ban đầu. Những tảng bùn dày vương vãi ra khắp mọi nơi
Gã Golem thứ ba, gã to cao nhất trong cả ba dừng lại. Đôi mắt làm bằng hai viên đá màu đen của hắn nhìn một cách đần độn vào đống bùn đất - phần thi thể còn lại của hai chiến hữu. Và rồi hắn đột nhiên quay lại tung một nắm đấm thôi sơn thẳng vào bức tường. Cú đầu tiên giáng vào bên phải, cú thứ hai giáng vào bên trái. Một khoảng trống lớn phía bên phải của bức tường lộ ra, cho thấy không gian ở đằng sau. Tên Golem bước vào võ đường và nhìn ngó xung quanh, đôi mắt đen bất động và trơ cứng.
Bọn chuột trông lúc đó chạy thẳng về phía cánh cửa mở ổ phía cuối hành lang. Phần lớn bọn chúng thoát khỏi các thanh kiếm lưỡi liềm...
Trên chiếc Limousine đang phóng nhanh vùn vụt, Tiến sĩ John Dee thôi không còn tạo sóng điều khiển trên bọn chuột và bắt đầu tập trung sự chú ý của mình lên tên Golem sống sót còn lại. Điều khiển những các sinh vật nhân tạo như thế này dễ dàng hơn nhiều. Golem là những sinh vật không có trí óc. Chúng được tạo thành bằng bùn đất pha trộn với sỏi đá và được “thổi hồn” thành sinh vật sống bởi một câu thần chú đơn giản viết trên một tấm da vuông vức được gắn vào trong miệng chúng. Các phù thủy đã tạo thành nhiều tên Golem với nhiều hình dáng và kích thước khác nhau từ hàng nghìn năm trước: chúng chính là nguồn gốc của tất cả các câu chuyện về thây ma đội mộ sống dậy hay xác chết di động từng được kể. Ngay chính bản thân Dee cũng có một câu truyện về Golem “hoàng tráng” nhất trong tất cả mọi Golem. Đó là câu truyện về tên Golem Màu đỏ của Prague. Hắn đã kể câu truyện này cho Mary Shelley trong mùa đông lạnh lẽo khi mà cô ta, Ngài Byron, nhà thơ Shelley và Tiến sỹ đầy bí ẩn Polidora đến thăm lâu đài của hắn ở Thụy Sĩ năm 1816. Không đấy sáu tháng sau đó, Mary Shelley đã viết lên câu chuyện có tiêu đề Prometheus Hiện đại, cuốn sách mà sau này được biết đến một cách rộng rãi với tên gọi Frankenstein. Con quái vật trong cuốn sách của cô ta giống hệt như một con Golem: nó dược tạo thành bởi những thứ rời rạc dư thừa và tiến thẳng vào cuộc sống bằng khoa học ma thuật. Golem hầu như không thể bị hư hỏng dưới sự tấn công của phần lớn các loại vũ khí, mặc dù một cú rơi hay cú đánh đột ngột có thể làm vỡ nứt lớp da bùn của chúng. Sự thách thức còn đến với Golem đặc biệt ở những nơi có khí hậu khô cằn và khắc nghiệt. Ở những nơi ẩm ướt, lớp da bùn của chúng hiếm khi bị nứt và có thể chịu đựng bất kỳ hình phạt nào, nhưng khí hậu khô nóng làm cho chúng tan chảy - đó là lý do tại sao chúng bị những thanh kiếm hình bán nguyệt đốn ngã dễ dàng. Một số phù thủy dùng thủy tinh hay gươm để làm mắt cho Golem, nhưng riêng Dee ưa thích các viên đá đen nhặn bóng hơn cả. Những đôi mắt đá đen này cho phép hắn nhìn thấy các hình ảnh một cách sắc nét mặc dù chỉ trong một màu.
Dee điều khiển cho tên Golem còn lại ngẩng cao đầu lên phía trên. Ngay trên đầu hắn, hai chiếc ban công chật hẹp nhìn xuống phía võ đường, là hai khuân mặt xanh xao đầy kinh hoảng của hai đứa trẻ. Dee mỉm cười và đôi môi của tên Gloem cũng giãn ra một nụ cười tương tự. Hắn sẽ giải quyết Flamel trước, rồi sau đó sẽ đến lượt hai nhân chứng kia.
Đột nhiên đầu của Nicholas Flamel xuất hiện, tiếp theo vài giây sau đó là mái tóc đỏ của Nữ Chiến binh Scathach .
Nụ cười của Dee vụt tắt và hắn có thể cảm thấy mình nghẹt lại. Tại sao Scathach lại ở đây? Hắn không hề biết rằng nữ chiến binh tóc đỏ lại có mặt ở thành phố hay thậm chí là châu lục này vì sự kiện lúc ban chiều. Lần cuối cùng khi hắn nhìn thấy cô ta, Scathach đang hát trong một ban nhạc ở Berlin.
Thông qua đôi mắt của Golem, Dee quan sát cả Flamel và Scathach khi cả hai nhảy qua hàng rào chắn và đứng đối diện ngay trước mặt gã người bùn. Scathach nói thẳng vào mặt Dee - nhưng tên Golem này không có tai nên không thể nghe thấy - và hắn không biết cô ta đang nói gì cả. Có thể là một lời đe dọa hay hứa hẹn gì đó.
Flamel tiến ra xa về phía cửa ra vào giờ đây đã tối đen và tràn ngập chuột. Ông rời khỏi trung tâm căn phòng, để lại Scatty đứng đối mặt với Dee và Golem.
Có thể là cô ta đã không còn cừ khôi như trước, hắn nghĩ một cách tuyệt vọng. Có thể thời gian sẽ làm sức của cô ta yếu dần đi.
“Chúng ta nên giúp đỡ,” Josh nói .
“Và làm gì?” Sophie hỏi, giọng cô vang lên không có chút gì là chế nhạo. Chúng đều đang đứng trên ban công và nhìn xuống võ đường. Chúng đều đang há hốc mồm nhìn cảnh Flamel và Scatty nhảy qua rào cản và trôi bồng bềnh trên sàn nhà. Cô gái tóc đỏ giờ đây đứng đối mặt với tên Golem, trong khi Flamel vội vã tiến về phía cửa ra vào dày đặc chuột. Những con thú xấu xí đen trũi này dường như ngần ngại không muốn tiến vào sâu trong phòng.
Không hề báo trước, tên Golem tung một nắm đấm dữ dội và tiếp theo sau đó là một nắm đấm dữ dội và tiếp theo sau đó là một cú đá trời giáng về phía Scatty.
Josh há miệng định kêu Scatty hãy coi chừng, nhưng cậu không có cơ hội để nói bất cứ tiếng nào trước khi Scatty cử động. Trong giây lát cô đứng ngay trước mặt tên Golem, rồi cô lập tức tung người về phía trước, cúi sát về phía dưới những đòn tấn công và sát gần đến tên Golem. Cánh tay cô di chuyển thành một vệt dài, và cô tung một cú đấm mạnh mẽ vào ngay giữa hàm của tên Golem. Một thứ chất lỏng lép nhép trào ra, rồi quai hàm của hắn bị tháo rời ra và miệng của hắn há rộng. Trong vòm họng tối đen của hắn, cặp sinh đôi có thể nhìn thấy rõ ràng một miếng giấy hình chữ nhật màu vàng.
Tên Golem vùng vẫy một cách điên dại và Scatty nhảy lùi lại một chút. Hắn tung ra một cú đá không trúng đích và đâm thẳng vào những tấm ván lót sàn nhẵn bóng, bẻ gãy chúng thành nhiều mảnh vụn.
“Chúng ra phải xuống giúp Scatty thôi!” Sophie nói.
“Bằng cách nào?” Josh hỏi to, nhưng chị gái cậu đã chạy thẳng vào nhà bếp, cố gắng tìm kiếm một vũ khí nào đó. Cô ló ra sau vài giây với một cái lò microwave trên tay. “Sophie,” Josh thì thầm, “chị định làm gì với....?”
Sophie cố kéo cái lò microwave ra phía sát rìa của rào chắn. Cái lò rơi thẳng vào ngực tên Golem và mắc kẹt ở đó, khiến cho những giọt bùn bắn tung tóe ra xung quanh. Tên Golem ngừng lại, bối rối và mất phương hướng. Nhân khi hắn đang quờ quạng, Scatty tận dụng cơ hội và tấn công hắn bằng những cú đá và cú đấm từ nhiều góc độ, do đó càng làm cho tên Golem rối trí hơn. Hắm kịp tung ra một cú đấm suýt chút nữa là trúng mái tóc đỏ của Scatty, nhưng cô chụp lấy cánh tay hắn và dùng nó là “điểm tựa” để ném mạnh tên Golem xuống sàn nhà. Các tấm ván lót sàn vỡ ra răng rắc. Rồi cánh tay của cô gái lại vươn ra.....và cô khéo léo giật tấm giấy hình vuông ra khỏi miệng của tên Golem.
Ngay lập tức tên Golem trở lại hình hài nguyên thủy - một đống bung hôi hám nhễu nhão. Nước bẩn và bụi đất chảy tràn lan trên sàn võ đường. Cái lò microwave cũng lăn lóc trên nền nhà.
“Em đoán là sẽ chẳng có ai dùng để nấu nướng gì nữa,” Josh thì thầm.
Scatty đưa tấm giấy hình vuông lên vẫy vẫy về phía hai chị em Josh. “Bất cứ sinh vật tạo nên bằng ma thuật nào cũng được thổi sức sống vào bằng một câu thần chú nằm bên trong cơ thể. Tất cả những gì phải làm đó là lấy nó đi để phá vỡ câu thần chú. Hãy nhớ lấy điều này.”
Josh liếc nhanh về phía chị mình. Cậu biết là cô cũng đang nghĩ giống như mình: nếu như chúng phải lại đối mặt với một tên Golem khác, chúng sẽ không có cách nào tiến đến gần để thò tay vào miệng hắn mà giật tấm giấy ra.
Nicholas Flamel tiến đến gần lũ chuột một cách thận trọng. Đánh giá thấp bọn này có thể sẽ dẫn đến cái chết. Nhưng dù ông không hề gặp bất kỳ khó khăn nào trong việc chiến đấu và hủy diệt các sinh vật vốn là những vật vô tri được tạo nên bằng ma thuật, ông thường do dự khi hủy diệt các sinh vật sống. Ngay cả khi chúng là lũ chuột. Perry đã chẳng hề ăn năn gì về những điều ông biết, nhưng từ rất lâu ông đã hành động như một nhà giả kim cống hiến đời mình cho việc phục vụ và giữ gìn cuộc sống thay vì hủy diệt nó. Những con chuột hiện đang nằm dưới sự điều khiển của Dee. Những con vật tội nghiệp có lẽ đang hoảng sợ..... dẫu rằng điều đó không ngăn cản chúng từ việc ăn thịt Flamel.
Flamel trườn người trên sàn nhà, lòng bàn tay phải của ông lên trên trong khi ông khum những ngón tay lại. Ông thổi nhẹ vào bàn tay mình và một quả bóng nhỏ màu xanh lá cây lập tức xuất hiện. Rồi ông đột ngột xoay bàn tay lại và tung quả bóng vào sàn nhà nhẵn bóng. Những ngón tay ông thậm chí chạm rin rít và thọc sâu vào sàn nhà gỗ. Quả bóng chứa đầy năng lượng màu xanh lá cây bắn tóe xuống sàn thành màu xanh lá cây bắn tóe xuống sàn thành một vệt dài. Thế rồi nhà giả kim nhắm mắt lại và luồng điện của ông tỏa sáng xung quanh cơ thể ông. Hết sức tập trung, ông lái cho năng lượng luồng điện của mình chảy từ những ngón tay xuống sàn nhà.
Từ nơi Sophie và Josh đang đứng, hai chị em không biết chắc chắn là Flamel đang làm gì. Chúng có thể nhìn thấy luồng điện màu xanh bừng sáng lên quanh cơ thể ông, vươn lên từ ông như lớp sương mờ ảo. Thế nhưng chúng không thể hiểu vì sao đám đông lúc nhúc những con chuột đang tụ tập gần cửa ra vào lại không xộc thẳng vào phòng.
“Có thể có một câu thần chú gì đó giữ không cho chúng tiến vào,” Sophie nói. Theo bản năng, cô tự hiểu là cậu em sinh đôi cũng đang nghĩ như vậy.
Scatty nghe thấy lời của Sophie. Cô đang cẩn thận xé miếng giấy màu vàng lấy ra từ miệng tên Golem thành nhiều mẩu vụn. “Đó là một câu thần chú Canh giữ rất đơn giản,” cô giải thích, “nó được dùng để giữ không cho vật ký sinh hay vi trùng tiến vào trong phòng. Sáng nào tôi cũng đến đây và tìm thấy nhiều con bọ hay bướm đêm rơi vương vãi. Phải mất hàng năm trời mới quét sạch chúng được. Câu thần chú Canh giữ không để cho bọn chuột đến gần hơn.....thế nhưng một khi câu thần chú được phá vỡ thì lũ chuột sẽ tràn tới.”
Nicholas Flamel rất ý thức rằng John Dee có thể nhìn thấy ông xuyên qua đôi mắt của lũ chuột. Ông cầm lấy con chuột lớn nhất có kích thước bằng cả một con mèo đang đứng bất động trong khi những con chuột khác đang chạy nhảy nhốn nháo xung quanh nó. Với bàn tay phải vẫn đang chôn sâu dưới sàn nhà, Flamel dùng tay trái chỉ thẳng vào con chuột. Con chuột co giật mạnh và trong thoáng chốc, đôi mắt nó lóe lên màu vàng bệnh hoạn.
“Tiến sĩ John Dee, ông đã phạm phải một sai lầm lớn nhất đời mình. Tôi sẽ tìm đến ông,” Flamel nói lớn.
Dee rời mắt khỏi chiếc đĩa Bói cầu và nhìn thấy Prenelle Flamel đang rất tỉnh táo và chăm chú nhìn hắn ta. “A, thưa quý, bà đã thức dậy kịp lúc để nhìn thấy các sinh vật của tôi đè bẹp chồng bà. Thêm nữa, cuối cùng thì tôi cũng có cơ hội để xử lý kẻ gây rắc rối Scathach, và tôi sẽ lấy lại trang đã mất của cuốn sách.” Dee không chú ý đến đôi mắt của Prenelle mở rông khi hắn nhắc đến tên của Scathach. “Tất cả ở cùng trong một chỗ. Thật là một ngày làm việc hiệu quả .” Hắn nói và tập trung chú ý vào con chuột lớn nhất, ra hiệu cho nó bằng hai câu đơn giản. “Tấn công. Tiêu diệt.”
Dee nhắm mắt lại trong khi con chuột duỗi thẳng người và lao thẳng vào phòng.
Luồng sáng vàng chảy từ các ngón tay của Flamel xuống sàn nhà và phác thảo lên rìa những tấm ván những đương viền màu vàng chói. Đột nhiên, từ sàn nhà gỗ mọc lên những cành, nhánh, lá và cả một thân cây...và một cây khác nữa. Chỉ trong giây lát, một “cánh rừng” đây cây mọc vươn lên từ sàn nhà với các cành nhánh bò dọc lên các bức tường và trần nhà. Một số thân cây chỉ nhỉnh hơn ngón tay một chút, một số khác dày bằng một vòng ôm của một cây gần phía cửa thực sự “cổ thụ” đến mức nó gần như che lấp cửa ra vào.
Lũ chuột quay tới quay lui, kêu chút chít cáu kỉnh trong khi chúng chạy ngược về phía hành lang, cố gắng một cách vô vọng để nhảy qua các thanh kiếm lưỡi liềm đang xé gió vun vút.
Flamel trườn người lui lại và đứng lên bằng hai chân. Ông phủi hai tay vào nhau. “Một trong những bí mật lâu đời nhất của thuật giả kim,” ông tuyên bố trước đôi mắt mở to kinh ngạc của cặp sinh đôi và Scatty, “đó là tất cả các vật thể sống, từ những sinh vật phức tạp nhất đến đơn giản nhất, đều mang những hạt giống sáng tạo ngay trong chính bản thân chúng.”
“DNA - cấu tử cơ bản của tế bào di truyền,” Josh thì thầm, mắt chăm chú nhìn vào cánh rừng rậm vừa trỗi dậy và vẫn đang vươn lên rậm rạp phía sau lưng Flamel.
Sophie đưa mắt nhìn quanh căn phòng từng là võ đường. Sàn nhà giờ đây bẩn thỉu và hôi hám bởi những dòng nước bùn dơ dáy. Những tấm ván lót sàn bóng loáng đã vỡ vụn bởi những thân cây mọc lên trên chúng. Mùi hôi thối của bùn đất vẫn xông lên từ hành lang. “Có phải ý em là các nhà giả kim cũng biết về DNA?” cô hỏi.
Nhà Giả kim gật đầu một cách đầy phấn khởi. “Chính xác. Khi Watson và Crick tuyên bố là họ đã khám phá ra cái mà họ gọi là bí mật của cuộc sống vào năm 1953, họ chỉ đơn giản là tái khám phá điều mà các nhà giả kim vẫn đã luôn luôn biết.”
“Chú nói là chú đã đánh thức những cây DNA từ những tấm ván lót sàn và thúc ép cho chúng lớn dậy,” Josh nói, chọn lựa từ ngữ một cách cẩn thận. “Bằng cách nào?”
Flamel quay đầu nhìn về phía khu rừng giờ đây đã phủ kín võ đường. “Đó chính là ma thuật,” ông nói một cách vui mừng, “và chú đã không dám tin chắc là mình có thể thực hiện nó được nữa.....cho đến khi Scatty nhắc nhở chú,” ông nói tiếp.
Dạ Phong
18-11-2010, 10:33 PM
Chương 10
“Để cháu nói rõ điều này nhé,” Josh Newman nói, cố gắng giữ cho giọng nói của mình vang lên hoàn toàn bình thường, “cả chú và Scatty đều không biết lái xe phải không? Cả hai người đều không biết lái?”
Josh và Sophie đang ngồi trên hai ghế trước của chiếc SUV mà Scatty vừa mượn được từ một trong những sinh viên võ thuật của cô. Josh đang lái xe còn Sophie thì trải rộng tấm bản đồ ra trong lòng. Nicholas Flamel và Scathach ngồi ở băng ghế đằng sau.
“Chú chưa bao giờ học lái cả,” Nicholas Flamel nói với một cái nhún vai ra chiều giải thích.
“Chưa bao giờ có thời gian,” Scatty nói ngắn gọn.
“Nhưng Nicholas nói chị hơn hai nghìn tuổi lận mà,” Sophie nói đưa mắt nhìn cô gái.
“Hai nghìn năm trăm mười bảy tuổi, theo như cách loài người đo lường thời gian bằng lịch của họ,” Scatty lầm bầm. Cô nhìn thẳng vào đôi mắt sáng rõ của Flamel, “Và trông tôi bây giờ khoảng bao nhiêu tuổi?”
“Mười bảy, không nhiều hơn một ngày,” ông nói vội vàng.
“Vậy chị không thu xếp được thời gian để học lái xe sao? ” Sophie gặng hỏi. Cô đã từng muốn học lái xe từ khi cô lên mười. Một trong những lý do mà cặp sinh đôi muốn làm thêm trong mùa hè năm nay hơn là đi tham gia khai quật khảo cổ với cha mẹ chúng dó là vì chúng muốn kiếm tiền để mua xe hơi cho riêng mình.
Scathach nhún vai. “Tôi cũng có ý muốn học, nhưng cứ bận rộn suốt,” cô giải thích.
“Mọi người biết đó,” Josh nói một cách bâng quơ không với riêng một người nào trên xe , “là tôi đâu có thể lái xe mà trong tay không hề có một
“Chúng tôi vừa tròn mười lăm và chúng tôi đều có thể lái xe,” Sophie nói.
“Hai đứa biết cưỡi ngựa không?”Flamel hỏi, “hay là điều khiển một chiếc xe ngựa với khoảng bốn con ngựa...”
“Ồ, không...” Sophie trả lời.
“Điều khiển một cỗ xe ngựa chinh chiến trong khi vừa bắn cung và phóng thương nữa?” Scatty hỏi thêm, “hay là vừa cưỡi thằn lằn vừa bắn súng cao su?”
“Em không biết loại thằn lằn đó là gì... và em cũng không chắc là mình muốn biết.”
“Vậy đó, thấy chưa, cháu không có chút kinh ngiệm với những kỹ năng như vậy cả,” Flamel nói, “Trong khi bọm chú biết những kĩ năng có thể là hơi xa xưa nhưng cũng không kém phần quan trọng và hữa ích.” Ông liếc nhìn Scathach, “ mặc dù vậy tôi cũng không chắc là loại thằn lằn bay đó có thật hay không.”
Josh ngừng lại ở cột đèn đỏ và rẽ phải, thẳng tiến về hướng cầu Cổng Vàng. “Cháu chỉ không hiểu vì sao chú và Scatty có thể sống qua Thế kỷ Hai mươi này mà không hề biết lái xe. Ý cháu là làm sao hai người có thể đi từ nơi này sang nơi khác được?”
“Dùng phương tiện giao thông công cộng thôi,”Flamel nói với một nụ cười hất hàm. “Phần lớn là tàu hỏa và xe buýt. Chúng là những phương tiện đi lại hoàn hảo mà không phải đòi hỏi người đi phải tiết lộ danh tính, không giống như máy bay và và tàu thủy. Làm chủ một chiếc xe hơi sẽ kéo theo hàng lô hàng lốc các thứ giấy tờ liên quan phiền phức. Chính những giấy tờ ấy sẽ làm lộ ra tung tích của bọn chú, dù cho bọn chúng có dùng bao tên gọi và bí danh đi nữa.” Ông ngừng lại và tiếp lời, “Và bên cạnh đó, vẫn còn rất nhiều phương tiện đi lại khác, dù là cổ xưa hơn nữa.”
Josh muốn hỏi thêm hàng trăm câu hỏi, nhưng cậu phải tập trung dữ dội vào việc điều khiển chiếc xe to nặng. Dù cậu biết cách lái xe, thì những chiếc xe duy nhất cậu từng lái chính là những chiếc xe Jeep cũ kĩ khi hai chị em Josh cùng cha mẹ đi khai quật. Cậu chưa bao giờ lái xe như thế này trước đây và cậu cảm thấy hoảng sợ kinh khủng. Sophie gợi ý là cậu nên giả bộ như tất cả chỉ là trò chơi trên máy tính. Điều đó cũng giúp cậu được nhiều, nhưng hiệu quả không dươc bao nhiêu. Trong trò chơi, khi bạn lái xe tông vào ai đó, bạn chỉ cần bắt đầu lại trò chơi một cách đơn giản. Còn bây giờ mà tông xe vào đâu đó thì coi như tiêu đời.
Xe cộ trên cầu đang trong tình trạng mắc kẹt. Một chiếc xe Limo dài màu xám bị hư và đang nằm ì ra giữa một làn đường và tạo thành một chiếc cổ chai. Khi xe của họ tiến tới, Sophie để ý thấy có hai người đàn ông mặc đồ đen với mũ choàng đầu đang đứng trong khu vực hành khách. Cô nhận ra mình nín thở khi họ đến gần và tự hỏi có phải đó là hai tên Golem hay không. Cô thở phào nhẹ nhõm khi họ đi qua và khám phá ra hai người đàn ông trông giống như những kế toán viên. Josh liếc nhìn cô gái, cố nở nụ cười nhăn nhở, và cô hiểu ngay là cậu cũng đang có ý nghĩ như cô .
Sophie cuộn mình trong ghế ngồi, và quay đầu nhìn Flamel và Scatty. Trong không gian hơi tối có máy điều hòa không khí của chiếc SUV, trông họ giống như những người bình thường: Flamel giống như một hippy lỗi thời và Scatty, mặc cho phong cách ăn mặc rất “nhà binh”, trông giống như cô vừa bước ra từ đằng sau quầy thu ngân của tiệm Tách Cafe. Cô gái tóc đỏ đang ngồi chống tay lên cằm, đôi mắt nhìn chăm chú xuyên qua lớp kính đen hướng về phía Alcaraz.
Nicholas Flamel quay đầu theo hướng nhìn của cô. “Lâu rồi chưa ghé đó,” ông thì thầm.
“Tụi cháu đã đi thăm nơi đó rồi,” Sophie nói.
“Cháu rất thích,” Josh nói ngay,”Sophie thì không.”
“Chỗ đó làm rùng mình.”
“Đúng như thế,” Flamel nói nhỏ,”đó chính là ngôi nhà của nhiều loại ma và linh hồn náo loạn khác thường. Lần gần đây nhất khi chú đến đó là để dẹp yên một gã Người rắn xấu xí kinh khủng. ”
“Cháu không chắc là mình muốn biết Người rắn trông như thế nào,” Sophie thì thào, rồi ngừng lại. “Chú biết đó, chỉ cách đây vài tiếng, cháu chưa bao giờ tưởng tượng là mình sẽ nói những lời như thế này?”
Nicholas Flamel ngả người dựa vào lưng ghế êm ái, hai tay khoanh trước ngực. “Cuộc đời của hai đứa cháu- từ nay đã vĩnh viễn thay đổi. Cháu biết điều đó mà, phải không?”
Sophie gật đầu. “Mọi thứ đang ngấm dần. Mọi chuyện diễn ra quá nhanh đến mức khó mà tiếp thu tất cả ngay được. Bọn người bùn, ma thuật, cuốn sách chứa các câu thần chú, chuột...” Cô nhìn Scathach. “Chiến binh cổ đại...”
Scatty gật đầu ra ý nhận biết.
“Và tất nhiên, một nhà giả kim sáu trăm tuổi...” Sophie ngừng lời, một ý nghĩ đột ngột lóe lên trong óc. Cô nhìn Flamel rồi đến Scatty rồi lại nhìn Flamel. Rồi cô im lặng vài giây đế sắp xếp câu hỏi của mình. Nhìn chằm chằm vào người đàn ông, cô hỏi : : “Chú là người, đúng không?”
Nicolas Flamel mỉm cười. “Đúng thế. Có lẽ là một chút gì đó khác hơn người, nhưng đúng là chú được sinh ra và sẽ thuộc về một trong những giống loài của con người.”
Sophie nhìn sang Scathach. “Còn chị là...”
Scathach mở rộng đôi mắt xanh lá cây của mình, và trong chớp mắt, một vẻ gì đó khó tả hiện lên trên khuôn mặt của cô. “Không”, cô nói rất nhỏ. “Tôi không thuộc về giống loài của con người. Giống loài của tôi thuộc về một thế giới khác, loài Elder. Chúng tôi đã từng thống trị thế giới này trước khi những sinh vật sau này biến thành người trèo xuống mặt đất từ trên cây. Ngày nay, chúng tôi được nhớ đến trong các thần thoại với nhiều chủng loài khác nhau. Chúng tôi là những sinh vật của thần thoại, thị tộc, Ma cà rồng, Khổng lồ, Rồng, Quái vật.Trong các câu chuyện kể, chúng tôi được biết đến như là Bọn Già hay Giống loài Elder. Một số câu chuyện mô tả chúng tôi như những vị thần.”
“Có phải chị từng là một vị thần?” Sophie thì thầm.
Scatty cười khúc khích. “Không. Tôi chưa bao giờ là thần. Nhưng một số trong giống loài của tôi cho phép họ được tôn thờ như những vị thần. Một số khác đơn giản là biến thành thần thánh và con người kể cho nhau nghe về những cuộc phiêu lưu của họ. “Cô nhún vai. “Chúng tôi chỉ là một số giống loài khác, giống loài đó già hơn cả loài người, với những kỹ năng và khả năng trời phú khác.”
“Chuyện gì đã xảy ra?” Sophie hỏi.
“Nạn lụt,” Scatty nói nhỏ nhẹ, “cùng với những cái khác.”
“Trái đất này già hơn rất nhiều so với nhiều người vẫn nghĩ,” Flamel mói nhỏ. “Những sinh vật và giống loài được con người nhắc đến trong thần thoại đã có thời đi lại và sinh sống trên thế giới này.”
Sophie gật đầu một cách chậm rãi. “Cha mẹ của chúng cháu là những nhà khảo cổ học. Họ từng nói cho tụi cháu nghe về những điều kỳ lạ mà khảo cổ học thỉnh thoảng hé lộ. ”
“Chị có nhớ nời mà chúng ta đến thăm ở Texas, tên là Taylor gì đó...” Josh nói, cẩn thận lái chiếc SUV nặng nề vào làn đường chính giữa. Cậu chưa bao giờ lái một chiếc xe to như thế này trước đây, và rất hoảng sợ khi nghĩ là xe sắp đâm bổ vào cái gì đó. Có vài lần cậu suýt đụng trúng và có vẻ như đã va vào gương bên hông của chiếc xe ai đó, nhưng rồi cậu tiếp tục lái trong im lặng.
“Đường mòn Taylor,” Sophie nói, “cạnh dòng sông Paluxy ở Texas. Đã có những thứ trông giống như dấu chân khủng long và dấu chân người cùng xuất hiện trên một mẫu hóa thạch. Và viên đá hóa thạch đó có đến 100 triệu tuổi. ”
“Chú đã từng thấy nó,” Flamel nói, “và những thứ như vậy nằm khắp trên thế giới. Chú cũng đã nghiên cứu dấu giầy được tìm thấy ở Antelope Springs ở Utah... in trên một tảng đá khoảng 500 triệu năm tuổi.”
“Ba của cháu nói là những thứ như vậy có thể dễ dàng bị bỏ qua hoặc bị xem như là một sự lý giải thực tế sai lầm, ” Josh nói nhanh. Cậu tự hỏi không biết ba mình sẽ nói gì về những chuyện mà chị em Josh gặp phải hôm nay.
Flamel nhún vai. “Đúng là như vậy. Nhưng những gì mà khoa học không thể hiểu nổi thường bị bỏ qua. Không phải mọi thứ đều có thể phân tích rõ ràng. Cháu có thể cho rằng những gì mình nhìn thấy và trải nghiệm hôm nay là một sự diễn dịch sai lầm thực tế hay không?”
Sophie lắc đầu.
Bên cạnh cô, Josh nhún vai một cách không thoải mái. Cậu không thích hướng phát triển của cuộc đàm thoại này. Việc khủng long và con người cùng chung sống trong một thời điểm đơn giản là không thể chấp nhận được. Ý kiến này đã đi ngược lại hoàn toàn với những gì ba cậu đã dạy cho hai chị em và những gì mà họ tin tưởng. Nhưng ở đâu đó trong trí não của Josh, vẫn có một giọng nói nhỏ vang lên nhắc nhở cậu rằng hàng năm vẫn có những nhà khảo cổ học - trong đó gồm có cả ba mẹ cậu- tiếp tục khám phá ra những điều lạ thường. Vài năm trước, điều kì diệu đó chính là giống người nhỏ bé Homo ở Idonesia với tên gọi là Hobbit, tiếp theo đó là những loài khủng long tí hon được phát hiện ở Đức, rồi những dấu vết của loài khủng long đã từng tồn tai cách đây chừng một trăm sáu mươi lăm triệu năm được tìm thấy ở Wyoming. Và chỉ mới đây thôi, đã có đến tám chủng loại tiền sử mới vừa được khám phá ở Israel. Nhưng những gì Flamel vừa nói chứa đầy mâu thuẫn. “ Chú nói rằng con người và khủng long tồn tại trên trái đất cùng một thời điểm,”cậu nói, và ngạc nhiên nhận ra giọng nói của mình chứa đầy giận dữ.
“Chú nói rằng con người đã tồn tại trên trái đất này với những sinh vật rất kỳ lạ và chúng con già hơn loài khủng long rất nhiều ,” Flame nói một cách nghiêm túc.
“Làm sao chú biết dược điều đó?” Sophie gặng hỏi. Ông ta nói là ông sinh năm 1330, nên ông không thể thấy loài khủng long... có phải thế không?
“Tất cả đều được ghi rõ trong cuốn Codex...và trong cuộc đời lâu dài của mình, chú đã nhìn thấy những quái vật vốn được xem như những thần thoại. Chú đã đánh nhau với những người được xem như là huyền thoại. Chú đã đối mặt với những sinh vật trông như vừa bò ra từ những cơn ác mộng.”
“Bọn cháu vừa học Shakespeare ở trường trong học kì vừa qua... và có một câu từ Hamlet.” Sophie nói, cố gắng nhớ lại. “Có rất nhiều thứ khác hơn nữa trên thiên đường và trái đất...”
Nicholas Flame gật đầu tán thưởng “... mà chúng thường được mơ tưởng đến trong triết lý của ngươi,” ông hoàn thành câu trích dẫn. “Hamlet , hồi một, cảnh năm. Tất nhiên là chú từng biết Will Shakespeare. Bây giờ Will có thể chở thành một nhà giả kim với tài năng phi thường ...nhưng lúc đó ông ta rơi vào nanh vuốt của Dee. Thật tôi nghiêp cho Will. Các cháu có biết là ông ta đã tạo ra nhân vật Prospero trong vở kịch Giấc mộng đêm hè dựa trên nguyên mẫu tiến sĩ John Dee hay không?”
“Tôi chưa bao giờ thích Shakespeare cả,”Satty thì thầm. “Ông ta rất thối.”
“Chú biết Shakespeare à? ”Josh không thể che dấu nỗi kinh ngạc tỏ vẻ không tin trong giọng nói của mình.
“Ông ta từng là sinh viên của chú trong một thời gian ngắn, rất ngắn thôi,” Flame nói “Chú sống lâu, chú có rất nhiều sinh viên- một số được lưu danh vào lịch sử, một số khác bị lãng quên. Chú đã gặp rất nhiều người, con người và không phải con người, bất tử và không bất tử. Những người như Scathach,” Flamel kết luận.
“Có nhiều người giống như chị...nhiều người thuộc Giống loài Elder?” Sophie hỏi, mắt nhìn cô gái tóc đỏ.
“Nhiều hơn là cô nghĩ đấy, mặc dù tôi cố gắng không gia nhập cùng với bọn họ, ” Scatty nói với vẻ căng thẳng. “Có rất nhiều kẻ trong Giống loài Elder không chịu thừa nhận rằng thời đại của Elder đã thuộc về quá khứ và thời đại hiện tại đang thuộc về loài người. Họ muốn được nhìn thấy sự trở lại huy hoàng của những ngày xưa cũ, và họ tin rằng con rối Dee của họ cùng những kẻ giống như hắn sẽ có vai trò giúp họ quay trở lại thời hoàng kim đó. Những kẻ đó được gọi là Elder Đen tối.”
“Cháu không biết là có ai để ý thấy không,” Josh nói cách đột ngột , “nhưng mọi người có thấy là có rất nhiều chim đang tụ tập quanh đây?”
Sophie quay lại để nhìn chăm chú xuyên qua kính chắn gió xe hơi, trong khi Flamel và Scatty
Những trụ cầu, tháp cầu, dây nối, dây thừng và dây điện của chiếc cầu Cổng Vàng đang dần dần được phủ dày bởi những con chim: hàng nghìn con. Phần lớn đó là quạ và chim két. Chúng đậu đen đặc trên tất cả những nơi nào có thể và càng lúc càng kéo đến đông hơn.
“Tụi nó đến từ Alcatraz đó,” Josh nói, cậu cúi đầu nhìn xuống mặt nước bập bềnh xao động hướng về hòn đảo.
Một đám mây đen đã xuất hiện ngay phía trên Alcatraz. Nó hiện lên ngay phía trên khu nhà tù bỏ hoang trong hình thù uốn lượn và bây giờ lơ lửng giữa thinh không như khói, nhưng đám khói này mãi không tan đi: nó chuyển động và xoáy tròn thành một khối đen đặc quánh.
“Những con chim,” Josh nuốt nước bọt một cách khó nhọc ”Phải có đến hàng nghìn con.”
“Mười nghìn con,” Sophie chỉnh lại. Cô quay đầu nhìn Flamel. “Chúng là gì thế?”
“Những đứa con của Morrigan,” ông nói một cách bí ẩn.
“Rắc rối,” Scatty nói tiếp.”Rắc rối to rồi đây.”
Và rồi, như thể đang được điều khiển bởi một mệnh lệnh nào đó, đám đông khổng lồ những con chim bay khỏi hòn đảo và hướng thẳng về phía cây cầu.
Josh bấm cái nút bên cửa sổ và tấm kính màu bắt đầu hạ xuống. Âm thanh của đàn chim vang lên ầm ĩ, tiếng quạ kêu rè rè khàn đặc nghe như một tràng cười đinh tai. Xe cộ trên cầu di chuyển một cách chậm chạp, một số người thậm chí đã chui ra khỏi xe để chùm hình lũ chim bằng máy kỹ thuật số hay điện thoại di động.
Nicholas Flamel chồm lên phía trước và đặt tay trái của mình lên vai Josh. “Cháu nên tập trung lái xe,” ông nói nghiêm túc. “Đừng ngừng lại...dù cho bất kì chuyện gì xảy ra đi nữa, ngay cả khi cháu đụng phải một vật nào đó. Cứ lái. Càng nhanh càng tốt. Phải ra khỏi cây cầu này.”
Có một điều bất bình thường nào đó trong giọng nói cố giữ cho có vẻ bình thản của Flamel khiến cho Sophie cảm thấy hoảng sợ còn hơn là khi ông hét to lên. Cô liếc nhìn sang phía Scatty, nhưng cô gái trẻ đang lục lọi ba lô của mình. Nữ Chiến binh lôi ra một cây cung nhỏ và một nắm mũi tên và đặt chúng lên ghế bên cạnh. “Kéo cửa kính lên,Josh,” cô nói bình tĩnh, “chúng tôi không muốn bất cứ cái gì lọt vào đây.”
“Chúng ta đang gặp rắc rối, đúng không?” Sophie thì thầm, mắt nhìn Nhà Giả kim.
“Chỉ khi nào bọn quạ bắt được chúng ta mà thôi,” Flamel nói với nụ cười mỉm. “Chú có thể mượn điện thoại di động của cháu được không?”
Sophie rút điện thoại ra khỏi túi áo và mở nắp trượt. “Có phải là chú sắp thực hiện ma thuật không?” cô hỏi một cách đầy hi vọng.
“Không, chú sẽ gọi điện thoại. Hãy hy vọng là chúng ta sẽ không gặp phải một cái máy trả lời tự động.”
Processing.... Processing....
Dạ Phong
19-11-2010, 03:04 AM
Chương 11
Những cánh cửa bảo vệ mở ra và chiếc xe Limousine màu đen của Dee ngoặt vào chỗ cửa vừa mở. Tay tài xế Golem đã khéo léo điều khiển chiếc xe băng qua những cánh cửa lắp chắn song để chui xuống bãi đậu xe dưới tầng hầm. Perenelle Flamel lảo đảo và ngã dựa vào tên Golem sũng nước đang ngồi phía bên phải của bà. Cơ thể hắn kêu lên lép nhép trước cú dựa và những giọt bùn hôi thối văng tung tóe khắp nơi.
Tiến sĩ John Dee, đang ngồi ở trước, nhăn mặt vẻ ghê tởm và cố sức ngồi xích ra xa gã Golem ướt đẫm. Hắn nói chuyện rất khẩn cấp với ai đó trong điện thoại cầm tay bằng một thứ ngôn ngữ đã hơn ba nghìn năm nay không còn được sử dụng trên trái đất.
Một giọt bùn của tên Golem nhỏ lên bàn tay phải của Perenelle. Nó chảy dài trên da thịt của bà ...và xóa đi biểu tượng hình xoắn mà Dee đã vẽ lên trên da bà.
Một phần của câu thần chú giam giữ đã được phá vỡ. Perenelle Flamel nhè nhẹ cúi đầu xuống. Cơ hội của bà đã đến. Để kết nối luồng điện của mình bà thật sự phải dùng đến cả hai tay, và thật không may biểu tượng giam giữ mà Dee vẽ lên trên trán đã ngăn cản không cho bà nói.
Cho đến khi...
Perenelle Delamere luôn luôn yêu thích khám phá phép thuật, ngay cả trước khi cô gặp người bán sách nghèo khổ mà sau đó cô đã lấy làm chồng. Cô là con gái thứ bảy của một bà mẹ cũng là con thứ bảy trong gia đình. Trong một ngôi làng nhỏ thuộc Quimber nằm ở phía tây bắc nước Pháp, nơi cô lớn lên, cô được mọi người xem là đặc biệt. Bàn tay của cô có thể chữa lành vết thương - không những trên người mà còn trên loài vật. Cô có thể nói chuyện với vong hồn người chết và thỉnh thoảng cô còn nhìn thấy chút ít tương lai. Nhưng vì lớn lên trong một thời điểm khi mà những kỹ năng như thế thường được quan sát với thái độ nghi ngờ, cô đã học được khả năng giữ những kỹ năng đó cho riêng mình. Khi cô lần đầu tiên đến Paris vào năm 1334, cô đã nhìn thấy những thấy bói hành nghề ở những ngôi chợ phía sau lưng Nhà thờ Đức Bà Parist và họ làm ăn rất khấm khá nhờ tài bói toán. Lấy tên là Cat Noir - Mèo Đen - dựa vào mái tóc đen huyền của mình, cô cũng mở một gian hàng nhỏ cho riêng mình ở ngay cạnh Nhà thờ. Chỉ trong vòng vài tuần lễ cô đã nổi tiếng là một thầy bói tài năng xuất chúng. Những khách hàng của cô thay đổi: không chỉ là những người buôn bán nhỏ hay chủ sạp mà còn có những thương gia và thậm chí cả những nhà quý tộc.
Ngay sát với gian hàng nhỏ của cô là những người đàn ông làm nghề sao lục và phác thảo tài liệu. Họ kiếm sống bằng cách viết thuê cho những người không biết đọc hay biết viết. Một trong số họ là người đàn ông mảnh khảnh tóc đen với đôi mắt ngời sáng màu xanh xám thường bày sách ra bán trên bàn. Và ngay từ khoảnh khắc đầu tiên khi cô nhìn thấy người đàn ông đó, Perenelle Delamere biết rằng cô sẽ lấy người đàn ông này và họ sẽ cùng chia sẻ một cuộc sống hạnh phúc bền lâu bên nhau. Cô chỉ không bao giờ nhận biết được bao lâu mà thôi.
Họ cưới nhau sáu tháng ngay sau lần đầu tiên gặp gỡ. Tính đến nay họ đã sống bên nhau hơn sáu trăm năm.
Giống như phần lớn những người đàn ông có học ở thời đại của mình, Nicholas Flamel rất thích thú tìm tòi thuật giả kim - một sự kết hợp giữa khoa học và ma thuật. Niềm đam mê của Flamel được nuôi dưỡng nhờ việc ông thường nhận được những yêu cầu về sách dạy thuật giả kim hay đồ thị về thuật giả kim để bán hoặc được yêu cầu sao chép một số tác phẩm quý hiếm. Không giống như phần lớn phụ nữ cùng thời, Perenelle có thể đọc - tiếng Hy Lạp của cô tốt hơn so với chồng mình - và ông thường nhờ cô đọc giúp mình. Perenelle nhanh chóng yêu thích hệ thống cổ đại của ma thuật và cô bắt đầu rèn luyện ma thuật bằng những phương pháp nhỏ, phát triển các khả năng của mình, tập trung vào cách bắt nhịp và sử dụng triệt để năng lượng luồng điện của mình.
Vào thời điểm khi mà cuốn Codex đến với vợ chồng Flamel, Perenelle lúc đó đã là một nữ phù thủy, mặc dù cô có ít kiên nhẫn trong việc học toán và các công thức toán của thuật giả kim. Dù sao, chính Perenelle là người nhận ra rằng cuốn sách được viết bằng thứ ngôn ngữ kỳ lạ chưa từng thấy này, không chỉ viết về lịch sử thế giới mà là tập hợp của học vấn, truyền thuyết, khoa học, thần chú và bùa phép. Cô đã từng miệt mài nghiên cứu các trang sách của nó trong một đêm mùa đông lạnh giá, nhìn những dòng chữ bò ngoằn ngoèo trên trang giấy khi mà từng con số kết nối và tái kết nối liên tục và trong một khoảnh khắc, cô đã nhìn thấy công thức cơ bản của Hòn đá Phù thủy, và lập tức nhận ra đó chính là bí mật về sự bất tử của cuộc sống.
Hai vợ chồng Flamel đã bỏ ra hai mươi năm tiếp theo đó để đi đến từng quốc gia ở châu Âu. Họ đi từ phía đông sang miền đất của Rus, phía nam của Bắc Phi, thậm chí cả Ả - rập trong nỗ lực giải mã và diễn dịch cuốn sách đầy bí ẩn kia. Họ liên lạc với các phù thủy, pháp sư trên nhiều vùng đất, và học tập nhiều loại ma thuật khác nhau. Nicholas chỉ quan tâm một cách lờ mờ đến ma thuật, ông thích khoa học giả kim hơn. Cuốn Codex, và những cuốn sách khác giống như nó, hé lộ rằng luôn có những công thức riêng biệt để chế tạo ra vàng từ đá và kim cương từ than. Perenelle, ngược lại, ra sức nghiên cứu càng nhiều càng tốt về nghệ thuật ma thuật. Nhưng, đã lâu lắm rồi bà không rèn luyện nó một cách nghiêm túc.
Giờ đây, bị giam giữ trong chiếc Limo, bà nhớ lại một chiêu thức mà bà đã học được từ Strega - một phù thủy - trên ngọn núi của Sicily. Chiêu này để xử lý các hiệp sĩ mang áo giáp, nhưng với một chút ít điều chỉnh....
Nhắm chặt mắt và tập trung cao độ, Perenelle miết ngón tay út của mình thành một vòng tròn lên trên bề mặt chiếc ghế xe hơi. Dee đang đắm chìm trong cuộc nói chuyện điện thoại và không hề nhìn thấy tia sáng trắng lóe lên từ ngón tay bà xuống bề mặt da đắt tiền. Tia sáng chạy dọc theo lớp vỏ bọc bằng da và cuộn xoáy vào lớp lò xo phía dưới. Có tiếng kêu xèo xèo, xì xì khi tia sáng chạy vào các lò xo rồi đến các bộ phận kim loại của chiếc xe. Nó luồn lách vào máy, các xilanh, cuộn tròn theo các bánh xe và phát ra những tiếng lách tách, phì phì. Một cái vỏ xe bất ngờ nổ tung và văng ra.... và rồi hệ thống điện của chiếc xe hơi bị rối tung một cách đột ngột. Các cửa sổ mở và đóng loạn xạ theo một nhịp điệu riêng, mui xe bật mở rồi đóng sầm lại, những cần gạt nước ở kính chắn gió khua khoắng lung tung trên mặt kính khô ráo với nhịp điệu điên cuồng, còi xe bắt đầu ré lên đinh tai nhức óc. Ánh sáng trong xe chớp tắt liên hồi. Cái tivi nhỏ treo ở phía góc xe bên trái tự nhiên bật mở và màn hình xuất hiện những hình ảnh làm hoa mắt khi tivi nhảy từ kênh này sang kênh khác.
Không khí đột ngột sực nức mùi kim loại.
Những tia điện từ nhảy loạn xạ trong xe. Dee quăng máy điện thoại ra xa, xoa lấy xoa để những ngón tay tê cóng. Chiếc điện thoại rơi xuống sàn xe lót thảm và nổ tung thành những mảnh nhựa và kim loại nóng chảy.
“Bà......” Dee gằn giọng, quay về phía Perenelle , nhưng chiếc xe chết máy và ngừng hoạt động hoàn toàn. Lửa bùng lên từ bộ máy , phủ đầy phần sau của chiếc xe những làn khói dày đặc. Dee bấm vào cánh cửa nhưng ổ khoá điện đã khoá cứng cánh cửa. Dee rú lên đầy giận dữ, bàn tay hắn nắm chặt thành một nắm đấm và hắn để cho cơn giận dữ trào lên sùng sục. Mùi hôi ngột ngạt của khói, của nhựa chảy và cao su nóng chảy trộn lẫn với mùi hôi nồng nặc của lưu huỳnh và trên tay hắn bỗng nhiên xuất hiện một chiếc găng tay màu vàng lấp lánh. Dee đâm thẳng xuyên qua cánh cửa, phá tung bản lề, và hắn tung người nhào ra khỏi xe xuống thẳng nền xi măng bên ngoài.
Hắn đứng giữa bãi đậu xe hơi dưới tầng hầm của công ty Enoch, tập đoàn giải trí lớn nhất mà hắn sở hữu hở San Franciso. Hắn bò lết trở lại về phía chiếc xe có nhiều đặc điểm thiết kế riêng theo ý thích cá nhân hắn với trị giá một trăm năm mươi nghìn đô la nay đã bị ngọn lửa ngấu nghiến. Hơi nóng dữ dội từ mui xe toả vào những khối kim loại, trong khi kính chắn gió chảy như sáp đèn cầy. Tên Golem tài xế vẫn ngồi nơi bánh lái. Hắn không bị sức nóng ảnh hưởng và đang làm râm da mình bằng kim loại rắn.
Lúc đó, hệ thống phun chống cháy tự động của bãi đậu xe bắt đầu hoạt động, và những tia nước lạnh buốt dội thẳng vào đám cháy.
Perenelle!
Ướt sũng, run rẩy và ho khùng khục, Dee đưa tay chùi đôi mắt ràn rụa nước. Hắn duỗi tay và dùng cả hai tay để dập tắt đi ngọn lửa. Hắn kêu gọi một làn gió nhẹ thổi tới để xua tan màn khói, rồi thò đầu nhìn quanh quất vào phía bên trong tối thui của chiếc xe trong nỗi sợ hãi về những gì hắn có thể sẽ nhìn thấy.
Hai tên Golem ngồi sát bên Perenelle giờ đây chẳng còn gì ngoài một đống tro tàn. Nhưng không hề có một dấu vết nào của người phụ nữ - ngoại trừ một vết rách ở cửa ra vào đối diện giống như là ai đó đã rạch nó bằng một chiếc rìu.
Dee cúi đầu sát đất lưng quay về phía chiếc xe bị tàn phá và đưa cả hai tay đào bới đống hỗn độn của bùn đất, xăng dầu, nhựa cháy, cao su nóng chảy. Hắn đã không chiếm được cuốn Codex nguyên vẹn và bây giờ thì Perenelle đã trốn thoát. Ngày hôm nay còn gì có thể tồi tệ hơn?
Có tiếng bước chân đi đến gần.
Từ phía đuôi mắt mình, Tiến sĩ John Dee nhìn thấy đôi giày ống mũi nhọn cao gót màu đen đang tiến đến sát mình. Và hắn biết là câu trả lời cho câu hỏi của hắn đã đến. Ngày hôm nay sắp kết thúc một cách tồi tệ: tồi tệ hơn rất nhiều. Cố nở một nụ cười tê tái, hắn đứng lên một cách khó nhọc trên hai chân và quay lại đối mặt với một trong những kẻ hiếm hoi của Giống loài Elder Đen tối khiến hắn cực kì khiếp hãi.
“Morrigan”
Những người Ireland cổ đại đã gọi bà ta là Nữ thần Quạ, và bà ta đã được thờ cúng và kính sợ trong các quốc gia của Celtic với cái tên Nữ thần của Chết chóc và Phá hủy. Đã có một thời họ có ba chị em: Badb, Macha và Morrigan, thế nhưng hai nữ chúa kia đã biến mất theo thời gian - Dee có những nghi ngờ của riêng hắn về sự biến mất của họ - và Morrigan giờ đây nắm ngôi vị bá chủ.
Bà ta cao hơn Dee, hầu như ai cũng cao hơn Tiến sĩ, và phủ kín từ đầu đến chân bằng trang phục da thuộc màu đen. Áo chẽn của bà ta được trang trí bằng những chiếc khuy bạc trông như kiểu áo giáp thời Trung cổ, và đôi găng tay da cũng được đính những khuy bạc hình chữ nhật dọc theo phía sau các ngón tay. Đôi găng tay không hề có các ngón tay, để lộ những móng tay dài sắc nhọn như lưỡi mác của Morrigan. Bà ta đeo một chiếc thắt lưng da to bản với những cái khiên hình tròn vòng quanh thắt lưng. Phủ choàng qua hai vai với chiếc mũ chùm đầu quấn quanh khuôn mặt Morrigan và có đuôi quét gần sát mặt đất là một chiếc áo choàng không tay làm bằng lông quạ đen nhánh.
Dưới bóng phủ của chiếc mũ trùm đầu, khuôn mặt của Morrigan trông xanh xao một cách khác thường. Đôi mắt bà đen màu hạt huyền hầu như không có tròng trắng, ngay cả đôi môi của bà cũng có màu đen, và những chiếc răng cửa dài quá lố chìa ra phía bên trên môi dưới.
“Cái này là của ông, ta tin là vậy.” Giọng nói của Morrigan vang lên như một tiếng thì thầm the thé, giọng của bà ta nghe rời rạc và trầy xước như tiếng quạ kêu.
Perenelle Flamel bị đẩy về phía trước. Bà tiến tới một cách chậm rãi và cận thận. Hai con quạ to đậu trên vai bà và cả hai con đều hướng cặp mỏ nhọn hoắt như dao cạo về phía gần với đôi mắt của Perenelle một cách đầy đe dọa. Bà mới chỉ trườn ra khỏi chiếc xe bốc cháy với một cơ thể suy kiệt do sử dụng ma thuật thì bọn quạ lao tới tấn công bà.
“Ta muốn nhìn thấy nó,” Morrigan yêu cầu một cách sôi nổi.
Dee thò vào bên trong chiếc áo khoác và lôi ra cuốn sách mạ kim loại Codex. Thật ngạc nhiên làm sao, Nữ thần Quạ không hề với tay ra để chạm vào nó.
“Mở nó ra,” bà ta nói.
Với vẻ bối rối, Dee đua cuốn sách tới gần Morrigan và lật giở các trang giấy. Hắn nâng niu cuốn sách cổ trên tay với vẻ tôn kính cao độ.
“Cuốn sách của pháp sư Abraham,” bà ta thì thầm, hơi chồm người tới trước nhưng vẫn không chạm vào cuốn sách. “Lật cho ta xem phần cuối của nó đi.”
Một cách lưỡng lự, Dee giờ tới phần cuối cùng của cuốn sách. Khi Morrigan nhìn thấy dấu vết lem nhem của những trang sách bị xé, bà ta rít lên trong cơn giận dữ. “Phạm thượng. Cuốn sách này đã tồn tại suốt mười nghìn năm mà không hề bị hư hại chút gì.”
“Thằng bé đó đã giật nó ra từ tay tôi,” Dee giải thích và nhẹ nhàng đóng quyển sách lại.
“Ta sẽ đảm bảo rằng hắn rồi phải trả giá.” Nữ thần Quạ nhắm mắt lại và khẽ nghiêng đầu qua một bên như thể bà ta đang lắng nghe. Đôi mắt đen của bà lóe sáng và rồi đôi môi của bà giãn ra thành một nụ cười hiếm hoi để lộ hàm răng sắc nhọn. “Hắn sẽ sớm phải chịu đựng; những đứa con của ta hầu như đã đuổi kịp bọn chúng. Tất cả bọn chúng đều sẽ phải trả giá,” bà ta hứa hẹn.
Dạ Phong
20-11-2010, 04:43 AM
Chương 12
Josh để ý thấy một khoảng hờ giữa hai chiếc xe hơi - một chiếc VW Beetle và một chiếc xe Lexus. Cậu đưa chân nhấn mạnh phía dưới sàn và chiếc xe nặng nề lao về phía trước. Nhưng khoảng trống không đủ rộng. Chiếc SUV quệt vào những chiếc kính phía bên hông của hai chiếc xe khác tạo ra một vụ va đụng nhỏ. “Ối...” Josh la lên và ngay lập tức thả chân ra.
“Chạy tiếp đi,” Flamel đề nghị một cách dứt khoát. Ông cầm chiếc điện thoại di động của Sophie trên tay và đang nói khẩn thiết vào đó với một thứ ngôn ngữ lạ lùng mà cặp sinh đôi chưa bao giờ nghe trước đó.
Quyết thôi không còn nhìn vào kính chiếu hậu, Josh cho xe vút lên phía trước, bỏ lơ những tiếng còi xe và những tiếng la hét phía đằng sau. Cậu cứ luồn lách chiếc xe từ phía ngoài vào chính giữa rồi lại ra ngoài, chỉ để xe vượt lên bằng bất cứ giá nào.
Sophie bám chặt vào chiếc đồng hồ chỉ tốc độ, cố quan sát mọi thứ qua đôi mắt khép hờ. Cô thấy họ tông vào gương bên hông của một chiếc xe khác. Nó xoay tròn một cách chậm rãi rồi đâm sầm vào mui chiếc SUV, rạch lên lớp sơn đen một đường dài trước khi văng ra xa. “Đừng nghĩ đến điều đó,” cô thì thào, trong khi một chiếc xe thể thao nhỏ mui trần của Ý cũng nhìn thấy khoảng hở giữa hai chiếc xe mà Josh đã để ý trước đó và đang nhắm đến. Người lái xe thể thao, một người đàn ông lớn tuổi hơn Josh với rất nhiều dây chuyền vàng quấn quanh cổ, nhấn mạnh chân xuống và cho xe đua lên phía khoảng trống. Ông ta đã thất bại.
Chiếc SUV nặng nề đụng mạnh vào rìa trước phía bên phải của chiếc xe thể thao. Cú va chạm tóe lửa! Chiếc xe thể thao văng ra xa, quay tròn một góc ba trăm sáu mươi độ thẳng vào đám xe cộ đông đức trên cầu và phá tan một chuỗi bốn chiếc xe đang nối đuôi nhau đi tới trước. Josh cho xe vượt qua khoảng trống vừa được khai phá rồi lao lên.
Flamel xoay người trên ghế. Ông nhô đầu nhìn ra kính chiếu hậu để quan sát đám đông hỗn loạn mà họ vừa gây ra. “Chú nghĩ là cháu đã nói cháu có thể lái xe,” ông thì thầm.
“Cháu có thể lái,” Josh nói, ngạc nhiên vì giọng nói của mình nghe rất bình tĩnh và điềm đạm, “cháu chỉ không nói là mình lái xe giỏi. Cháu thắc mắc không biết ai đó có lấy bảng đăng ký chiếc xe ô tô của chúng ta hay không,” cậu nói thêm. Chuyện không giống như trò chơi đua xe trên máy chút nào! Hai lòng bàn tay của cậu ướt đẫm mồ hôi và những dòng mồ hôi chảy dọc theo khuôn mặt cậu. Một cơ bắp trên chân phải của cậu căng nhức sau những nỗ lực đạp chân ga xuống sát sàn xe.
“Chị nghĩ là họ còn nhiều chuyện khác để lo lắng,” Sophie thì thầm.
Những con quạ đã bu đầy cầu Cổng Vàng. Hàng nghìn con. Chúng bay đến từng đàn như những làn sóng đen, cánh đập xoành xoạch, kêu gào ầm ĩ. Chúng bay lượn trên những chiếc xe và mổ lia lịa vào lớp thủy tinh hay kim loại. Những chiếc xe hơi va vào nhau trên suốt chiều dài của chiếc cầu.
“Chúng mất mục tiêu rồi,” Scathach nói, quan sát động thái của lũ chim. “Chúng tìm kiếm chúng ta, nhưng chúng quên mất đặc điểm của chúng ta. Chúng có những bộ óc rất nhỏ bé,” cô đoán chừng.
“Có một điều gì đó đã làm bà chủ đen tối của chúng bị phân tán,” Nicholas Flamel nói. “Perenelle,” ông nói một cách hân hoan. “Tôi tự hỏi không biết cô ấy đã làm gì. Chắc chắn là một cái gì đó rất ly kỳ và kịch tính. Cô ấy luôn luôn nhạy cảm với những điều phi thường kỳ lạ. “
Nhưng trong khi ông nói, bầy chim lại bay lên cao một lần nữa, và rồi, cũng một lúc, đôi mắt đen của chúng đồng loạt hướng về phía chiếc SUV đang chạy trốn của họ. Lần này khi bọn quạ kêu lên, tiếng kêu của chúng nghe như một tiếng gào chiến thắng.
“Bọn chúng đang đến,” Sophie nói vội vã. Cô nín thở.Cô nín thở và nghe thấy tiếng tim mình đập thon thót trong lồng ngực. Cô nhìn Flamel và Nữ chiến binh để tìm kiếm sự hỗ trợ nhưng thái độ câm lặng của họ khiến cô thấy ngột ngạt vô cùng.
Scathach nhìn cô và nói : “Chúng ta gặp rắc rối rồi.”
Một đám quạ đen dày đặc bay đuổi theo chiếc xe hơi.
Hầu hết xe cộ đang lưu thông trên cầu rơi vào trạng thái ngừng trệ. Mọi người ngồi chết lặng kinh hoàng trong xe của mình khi đàn quạ bay qua nóc những chiếc xe, hôi thối và ầm ĩ. Chiếc SUV là chiếc xe duy nhất còn di chuyển. Josh chôn chặt chân mình xuống sàn xe và kim tốc độ chỉ con số gần 80. Cậu đang dần trở nên tự chủ và thấy thoải mái hơn trong việc điều khiển chiếc xe - thực sự cậu nghĩ chuyện bắt đầu giống như trong trò chơi lái xe trên máy tính - và cậu đã không hề va đụng vào bất cứ vật gì trong vòng một phút. Cậu có thể nhìn thấy phần cuối của chiếc cầu trong tầm mắt và cậu mỉm cười đắc thắng : họ sắp thoát ra khỏi cây cầu.
Và rồi bầy quạ đông đen đồng loạt đậu trên mũi chiếc SUV.
Sophie thét lên và Josh xoắn mạnh thình lình bánh xe, cố gắng gạt bỏ con quạ có hình thù dữ tợn ra xa, nhưng nó bám chặt vào mui xe. Nó nghiêng đầu qua một bên, nhìn Josh đầu tiên, rồi đến Sophie, và rồi chỉ với hai cú nhảy ngắn, nó đã tiến tới ngay sát kính chắn gió và cố sức đập vỡ kính để vào bên trong, đôi mắt đen lóe sáng.
Nó mổ lấy mổ để trên mặt kính..... và những vết trầy xước nhỏ bắt đầu xuất hiện như mưa.
“Nó không thể làm chuyện đó được đâu,” Josh nói.
Con quạ mổ thêm một đợt và một lỗ nhỏ khác xuất hiện. Rồi ào một cái, con quạ thứ hai và thứ ba rồi thêm ba con quạ khác nữa nhào tới đậu trên nóc xe. Trần xe bằng kim loại kêu lên những âm thanh sắc nhọn khi lũ quạ bắt đầu mổ như điên vào đó.
“Tôi ghét quạ,” Scathach thở dài. Cô lục lọi trong túi xách và lôi ra một chiếc nhị khúc. Cô xoay xoay nó trên tay. “Tiếc là chúng ta không có cửa mái ở trên nóc chiếc xe,” cô nói. “Tôi có thể ra ngoài đó và cho bọn chúng nếm mùi của cái này.”
Flamel chỉ tay vào một vệt ánh sáng mặt trời vừa lọt vào qua chiếc lỗ kim phía trên nóc. “Chúng ta có thể sẽ sớm có cửa mái. Ngoài ra,” ông nói thêm, “đây không phải là những con quạ bình thường. Ba con phía trên nóc và con quạ ở mui xe là loại Quạ Tàn Khốc, những thú cưng đặc biệt của Morrigan.”
Con quạ to ở mui xe lại mổ tiếp tục vào kính chắn gió, và lần này, cặp mỏ của nó thực sự đã xuyên thủng lớp kính.
“Tôi không chắc chắn là mình có thể làm gì....” Scathach nói, và rồi Sophie chồm người nhấn vào nút điều khiển cần gạt của kính chắn gió. Những chiếc cần gạt to nặng bắt đầu được kích hoạt... và hất văng con chim ra khỏi mũi xe một cách đơn giản, để lại một đám lông bay lung tung. Nữ Chiến binh tóc đỏ mỉm cười. “Ồ, phải thế chứ, tất nhiên rồi.”
Giờ thì những con quạ còn lại đều đã bay tới chiếc SUV. Chúng phủ dày lên chiếc xe như một đám mây đen khổng lồ. Đầu tiên là hàng tá, rồi hàng trăm con tụ tập trên mui xe, nóc xe, cửa xe hay bất kỳ chỗ trống nào có thể đậu được để tính chuyện đột nhập. Nếu một con bị hất văng ngay lập tức hàng con chục con bay tới lấp vào chỗ trống. Âm thanh bên trong chiếc xe thật náo động đến mức không thể tưởng tượng được khi mà hàng nghìn con quạ ra sức mổ vào kim loại, thủy tinh hay cánh cửa. Chúng tấn công vào lớp viền cao su bọc quanh cửa sổ, bánh xe dự trữ sắn phía sau xe, phá tan nó ra thành nhiều mảnh. Có hàng trăm con đậu trên mui xe, cố đập vỡ kính chắn gió, và Josh không thể nhìn thấy phương hướng và cậu nhấc chân ra khỏi chân ga. Ngay lập tức chiếc xe đi chậm lại.
“Lái đi,” Flamel hét lên. “Nếu cháu ngừng lại, chúng ta sẽ thật sự lạc lối.”
“Nhưng cháu không nhìn thấy gì cả!”
Flamel chồm người lên khỏi những chiếc ghế và duỗi thăng tay phải. Sophie đột nhiên nhìn thấy hình xăm hình tròn nơi phía dưới cổ tay của ông. Một hình chữ thập cắt ngang qua hình tròn với các cạnh dài vượt ra ngoài rìa của hình tròn. Trong nháy mắt hình xăm đó sáng lên....và rồi Nhà Giả kim búng những ngón tay tanh tách. Một quả bóng nhỏ lửa cháy xèo xèo xuất hiện trên đầu các ngón tay ông. “Nhắm mắt lại,” ông ra lệnh. Không chờ xem bọn trẻ có vâng lệnh hay không, ông ném quả bóng về phía tấm cửa kính.
Mặc dù đã khép mắt, cặp sinh đôi vẫn có thể nhìn thấy tia sáng đột ngột lóe lên nơi đằng trước cửa xe.
“Bây giờ thì lái đi,” Nicholas Flamel đề nghị.
Khi hai chị em mở mắt, phần lớn những con quạ đã bị hất văng khỏi mui xe và một vài con còn trụ lại trông có vẻ rất hoảng sợ, kinh hoàng.
“Việc này sẽ không giữ chúng ra xa được lâu đâu,” Scatty nói. Cô nhìn lên trên đầu khi mà một cặp mỏ sắc như dao cạo đục thủng một lỗ nhỏ trên nóc xe. Cô cầm lấy nhị khúc. Cô nắm chặt một đầu nhị khúc, trong khi đầu kia, được gắn liền với sợi xích sắt, vung thẳng một cách dữ dội vào chiếc mỏ quạ trên nóc. Một tiếng kêu thất thanh vang lên và chiếc mỏ - đã hơi bị cong - biến mất.
Sophie ngoái đầu nhìn ra cửa sổ. Tấm gương bên hông xe bây giờ treo lủng lẳng như sắp rơi khỏi xe. Cô có thể nhìn thấy nhiều con quạ nữa - hàng nghìn - đang bay đến để thay thế cho những con quạ đã bị hất văng ra và cô hiểu họ sẽ khó đánh bại bọn quạ. Đơn giản là bọn chúng quá đông.
“Nghe này,” Nicholas Flamel đột nhiên nói.
“Cháu không nghe thấy gì cả,” Josh trả lời một cách dứt khoát.
Sophie sắp sửa đồng ý với cậu ngay vừa khi cô nghe thấy những âm thanh kỳ lạ. Và đột nhiên cô cảm thấy những sợi lông nơi cánh tay mình rùng rùng dựng đứng lên. Chậm chạp và lẻ loi, âm thanh mới đến phủ trùm lên tất cả. Giống như là một làn gió mát thổi mềm mại và nhẹ nhàng lúc ban đầu sau đó mạnh dần lên đến mức ồn ào và giận dữ. Rồi mùi thơm độc đáo tràn vào bên trong chiếc xe hơi.
“Mùi gì vậy ta?” josh hỏi.
“Giống như mùi cam thơm nồng,” Sophie nói vừa hít thở thật sâu.
“Mùi lựu đó,” Nicholas Flamel nói.
Và rồi cơn gió tràn đến.
Gió vượt qua vịnh, ấm áp và khác lạ với mùi thơm của cây bạch đậu khấu và nươc hoa hồng, chanh và ngải giấm, rồi gió chạy dọc theo chiều dài của Cổng Vàng thổi bay nhưng con quạ ra khỏi những chiếc xe hơi và tung chúng lên giữa thinh không. Cuối cùng thì cơn gió mùi lựa đã tiến đến chiếc SUV. Và chiếc xe chỉ vài phút trước đó còn bị bầy quạ bám đen đặc nay đã được giải phóng và lũ quạ thổi tung ra xa, để lại chiếc xe tràn ngập hương thơm của sa mạc, không khí khô ráo và cát ấm áp.
Sophie bấm một nút nhỏ và khung kính cửa hạ xuống. Cô thò đầu ra khỏi chiếc SUV, hít thở thật sâu không khí sực nức mùi hương. Đàn quạ khổng lồ đã bị thổi xoáy tung lên trời, bồng bềnh trong làn gió. Khi một con vừa thoát ra được - một trong những con Quạ Tàn Khốc to vật vã, Sophie nghĩ - thì ngay lập tức làn gió ấm áp choàng lấy nó và đẩy nó bay dạt về bầy chim còn lại. Nhìn từ phía dưới, lũ quạ trông như một đám mây bẩn thỉu... và khi đám mây tan biến đi bởi đàn chim đã tách riêng ra, bầu trời trở lại xanh trong và quang đãng
Sophie nhìn về phía đằng sau, dọc theo chiều dài của chiếc cầu. Cầu Cổng Vàng vẫn trong tình trạng ùn tắc. Những chiếc xe chạy về nhiều hướng và đã có vài chục vụ va chạm nhỏ khiến cho đường bị tắc nghẽn... và tất nhiên ngăn chặn những người nào đi theo họ, cô bé nghĩ. Mỗi người trong số họ đều bị “lấm lem” bởi những chất thải màu trắng của lũ chim. Cô nhìn em trai mình và giật mình nhận thấy một vết máu ứa trên môi dưới của cậu. Nỗi sợ hãi tiêu tan nhanh chóng và cô thò tay vào túi áo lấy một ra tấm khăn giấy “Em bị chảy máu rồi!” cô nói khẩn thiết, và lấy khăn giấy lau nhẹ lên vết thương.
Josh đẩy tay chị ra xa. “Ngừng lại. Ghê quá.” Cậu thè lưỡi liếm môi. “Em đã cắn nó. Thậm chí em còn không cảm thấy điều đó.” Cậu cầm lấy tấm khăn giấy từ tay chị gái và chùi nó lên cằm mình. “Chẳng sao cả.” Rồi cậu đột nhiên mỉm cười. “ Chị có nhìn thấy mấy giọt trắng lũ chim để lại không?” Cô gật đầu. Josh nhăn mặt ra vẻ ghê tởm. “Bây giờ chúng bắt đầu bốc mùi rồi đấy!”
Sophie ngã người dựa vào ghế, nhẹ nhõm khi thấy em mình vẫn bình an. Khi nhìn thấy vết máu nơi cằm cậu, cô đã thực sự sợ hãi. Một ý nghĩ đột nhiên lóe lên và cô quay sang nhìn Flamel. “Có phải chú đã gọi cơn gió đến?”
Ông mỉm cười và khẽ lắc đầu. “Không. Chú không điều khiển được các yếu tố đó. Kỹ năng đó thuộc về loài Elder và một số rất ít con người.”
Sophie nhìn Scatty, nhưng Nữ Chiến binh cũng lắc đầu. “Kỹ năng đó vượt quá khả năng giới hạn của tôi.”
“Nhưng chú đã triệu tập cơn gió đến?” Sophie gặng hỏi.
Flamel cầm điện thoại trả lại cho Sophie. “Chú chỉ gọi điện thoại xin trợ giúp mà thôi,” ông mỉm cười.
Dạ Phong
20-11-2010, 04:48 AM
Chương 13
“Quẹo ở đây”, Nicholas Flamel hướng dẫn.
Josh thả lỏng bàn chân đang ghì chặt chân ga và hướng chiếc SUV tả tơi đầy thương tích vào một con đường mòn nhỏ hẹp chỉ vừa đủ rộng để “đón nhận” chiếc xe. Họ đã lái xe suốt hơn ba mươi phút vừa rồi về phía bắc của San Francisco và cùng im lặng lắng nghe những bản tin đầy kích động từ radio trong đó rất nhiều chuyên gia đã bày tỏ ý kiến của họ về vụ tấn công của đàn chim trên cây cầu. Sự nóng lên của quả địa cầu là lý do được đưa ra nhiều nhất để giải thích cho sự kiện lạ lùng này: sự bức xạ của mặt trời đã ảnh hưởng mạnh mã đến hệ thống định hướng tự nhiên của đàn chim.
Flamel hướng cho xe chạy về hướng bắc, về phía Thung lũng Mill và núi Tamalpais, thế nhưng họ nhanh chóng rời khỏi các trục đường chính và rẽ vào một con đường nhỏ rải nhựa đen. Xe cộ trên đường thưa thớt cho đến khi họ đến một ngã rẽ tỏa ra nhiều nhánh đường dài hẹp và bây giờ thì chiếc xe của họ chạy một mình trên đường. Vắng vẻ và cô đơn. Cuối cùng, sau khi vượt qua con đường nhỏ hẹp uốn éo quanh co với nhiều khúc quanh chóng mặt, chiếc xe hầu như bò lết trên đường. Flamel hạ kính cửa sổ xuống và thò đầu ra ngoài nhìn khu rừng rậm hiện lên trước mặt họ ở phía bên lề của con đường. Họ đã đi một quãng khá xa dọc theo con đường hoang vu vắng vẻ cho đến khi Flamel ra lệnh “Ngừng lại. Lái trở lui. Quẹo ở đây.”
Josh nhìn chị khi cậu điều khiển chiếc xe lui vào con đường gồ ghề lởm chởm ít người qua lại. Hai bàn tay cô úp chặt trong lòng, nhưng cậu có thể thấy các khớp ngón tay của cô chỉ vài tiếng trước đây còn rất gọn gàng đẹp đẽ nay đã bị cô cắn cho trở nên lởm chởm, một dấu hiệu chắc chắn cho thấy cô đang căng thẳng. Cậu quay sang nắm chặt lấy tay cô và cô siết chặt tay cậu như chia sẻ. Như những kiểu liên lạc thường diễn ra giữa hai chị em, không hề cần đến bất kỳ một từ nào. Khi mà cha mẹ thường xuyên vắng mặt không ở cạnh hai đứa, Josh và Sophie ngay từ khi còn rất nhỏ đã sớm nhận thức được rằng người duy nhất mà chúng thực sự có thể nương tựa chính là em hay chị của mình. Chúng dựa vào nhau. Gắn bó và san sẻ. Thân thiết và không thể tách rời. Di chuyển từ trường này sang trường khác, vung này sang vùng kia, cuộc sống biến động không ngừng đó làm cho chúng rất khó kết bạn và giữ bạn. Nhưng chúng hiểu rằng dù bất kỳ chuyện gì xảy ra đi nữa, chúng sẽ vẫn luôn luôn có nhau.
Dọc theo hai bên con đường là những cây vươn cao lên tới trời xanh trong khi những cây thấp hơn mọc rậm rạp một cách đáng kinh ngạc: những cây mâm xôi dại và những bụi rậm đầy gai cào xước vào hai bên xe. Những cây kim tước, tầm ma và sơn độc đan dày thành một thành trì kiên cố không thể xuyên thủng.
“Cháu chưa bao giờ nhìn thấy những vật như thế này,” Sophie thì thầm. “Chúng không tự nhiên.” Và rồi cô im bặt, nhận ra những gì mình vừa nói. Cô xoay ghế về phía Flamel. “Chúng không tự nhiên, có phải không?”
Ông lắc đầu, đột nhiên trông ông già nua và mệt mỏi. Những quầng đen dưới mắt, nếp nhăn trên trán và khóe miệng ông như hằn sâu hơn. “Chào mừng đến thế giới của chúng tôi,” ông thì thầm.
“Có một cái gì đó chuyển động trong lớp bụi rậm,” Josh kêu lên. “Một cái gì đó to lớn..... Thật sự to lớn.” Sau tất cả những gì mà cậu nhìn thấy và trải nghiệm hôm nay, trí tưởng tượng của cậu bắt đầu phát huy cao độ. “Nó cũng chuyển động theo chiếc xe của chúng ta,”
“Chuyển sẽ ổn thôi nếu như chúng ta tiếp tục lái xe trên đường,” Flamel nói.
Sophie nhìn xuống tầng cây thấp đen tối. Trong giây lát cô không nhìn thấy gì cả, rồi cô nhận ra cái bóng đen gì đó vụt thoáng qua trong mắt cô thật sự là một sinh vật. Nó di chuyển, và ánh mặt trời chiếu sáng lớp da phủ đầy lông của nó. Cô thoáng nhìn thấy một khuôn mặt phẳng dẹt, chiếc mũi tẹt và hếch cũng những răng nanh uốn cong.
“Nó là một con lợn - lợn lòi,” cô tự nói với mình. Và rồi cô nhìn thấy thêm ba con như thế nữa, đang phóng dọc theo bên sườn phải của chiếc xe.
“Chúng cũng đi theo sát bên phía em nữa,” Josh nói. Thêm bốn con thú khổng lồ chạy xuyên qua những bụi rậm. Josh liếc nhìn kính chiếu hậu. “Và đằng sau chúng ta,” cậu nói.
Sophie, Scatty và Nicholas cùng quay người để nhìn chằm chằm vào kính chiếu hậu. Hai con lợn lòi to vật đang luồn lách qua lớp bụi rậm và chạy nước kiệu theo sau xe họ. Sophie chợt nhận ra rằng đây là những con thú to lớn khác thường - mỗi con to phải bằng một con ngựa non. Những cơ bắp nổi rõ trên vai chúng, cặp răng nanh hoành tráng vươn lên từ hàm dưới khởi đầu với kích thước to bằng cổ tay cô và vút dần lên thành những mũi nhọn sắc.
“Cháu không nghĩ là còn bất cứ một con lợn lòi hoang dã nào ở Mỹ,” Josh nói, “và tất nhiên ở Thung lúng Mill, California này.”
“Có rất nhiều lợn và lợn lòi hoang dã ở trên khắp nước Mỹ,” Flamel nói. “Chúng được người Tây Ban Nha mang đến đây từ Thế kỷ Mười sáu.”
Josh sang số, thả lỏng chân ga để điều khiển chiếc xe bò trườn tới trước. Đã tới ngõ cụt của con đường. Thành trì dày đặc đan bằng các bụi rậm, bụi gai và cây dại đã chặn ngang lối đi như một bức tường kiên cố. “Cuối đường rồi,” Josh tuyên bố, cậu giảm dần tốc độ chiếc xe và chuẩn bị phanh khẩn cấp. Cậu nhìn sang trái rồi sang phải. Những con lợn lòi cũng đã ngừng chạy và cậu có thể nhìn thấy chúng - bốn con đứng cùng một phía, im lặng bất động và quan sát họ. Qua kính chiếu hậu, cậu có thể trông thấy cả hai con bự hơn nay cũng đã dừng chân. Chúng đã bị đóng hộp. Gì nữa đây, cậu tự hỏi, chuyện gì sẽ đến? Cậu nhìn chị gái và cô đang nghĩ chính xác những gì mà cậu đang thắc mắc.
Nicholas Flamel chồm người tới sát mấy chiếc ghế và nhìn vào thành trì bụi rậm. “Chú tin rằng rào chắn này mọc ở đây là để làm nhụt chí những kẻ khùng điên liều lĩnh ngu ngốc nhất muốn đi xa thật xa. Và, nếu như ai đó thật sự ngu ngốc, ông ta có thể cố gắng thoát ra khỏi chiếc xe của mình.”
“Nhưng chúng ta đâu có liều mạng vô ích hay ngu ngốc,” Scatty nói. “Vậy thì chúng ta sẽ làm gì đây?”. Cô hất đầu về phía mấy con lợn lòi. “Cả mấy thế kỷ rồi tôi đâu có nhìn thấy mấy con này. Trông chúng giống như lợn lòi đực giống Gaulish, và nếu chúng đúng là loại đó , thì không ai có thể giết được chúng . Ít nhất là có đến ba con nữa trong bóng tối, chưa kể đến những người điều khiển chúng nữa.”
“Tụi này không thuộc giống Gaulish; và không cần đến người điều khiển,” Flamel nói nhẹ nhàng, tiếng Anh giọng Pháp của ông thoáng xuất hiện. “Nhìn mấy cặp răng nanh của chúng kìa.”
Sophie, Josh và Scatty quay người nhìn những cặp răng nanh của những sinh vật to lớn này đang đứng giăng ngang con đường phía sau xe của họ. “Cặp răng nanh trông như nghệ thuật chạm trổ,” Sophie nói, mắt cô hấp háy trong ánh mặt trời của buổi chiều tà.
“Chúng uốn cong.”
“Đường xoắn ốc,” Scatty nói với giọng thoáng chút thắc mắc. Cô nhìn Flamel. “Bọn chúng là loại Torc Allta à?”
“Thực sự là đúng như vậy,” Flamel nói. “Bọn chúng là giống lợn lòi cổ đại.”
“Ý của chú là giống như ma sói hả?” Josh hỏi.
Scatty lắc đầu một các nóng nảy, “Không, không giống như ma sói.....”
“Thật nhẹ nhõm,” Josh nói, “bởi vì, trong giây lát em đã nghĩ chị nói về những con người biến đổi thành chó sói......”
“Ma sói là giống Torc Madra,” Scatty tiếp tục, như thể cô không nghe Josh nói gì. “Chúng thuộc nhóm khác.”
Sophie nhìn chăm chú vào con lợn lòi gần nhất. Dưới lớp lông như lông lợn, cô nghĩ là cô có thể trông thấy hình dáng và mặt phẳng của khuôn mặt người, trong khi đôi mắt của nó - lạnh lẽo và sáng xanh biếc - đang nhìn cô với ánh mắt thông minh lạ thường.
Josh quay trở lại với bánh lái, nắm chặt nó. “Lợn lòi cổ đại..... tất nhiên là khác với ma sói. Nhóm khác hoàn toàn,” cậu thì thầm, “tôi mới ngốc ngếch làm sao.”
“Chúng ta sẽ làm gì đây?” Sophie hỏi.
“Cứ lái thôi,” Nicholas Flamel nói.
Josh chỉ tay vào rào chắn. “Còn cái đó thì sao?”
“Cứ lái đi,” Nhà Giả kim đề nghị.
“Nhưng....” Josh nói.
“Cháu có tin chú không?” ông hỏi, lần thứ hai trong ngày. Cặp sinh đôi nhìn nhau, rồi chúng nhìn lại Flamel và gật đầu ra vẻ nhất trí. “Thì lái đi,” ông nói nhỏ nhẹ.
Josh khởi động hộp số của chiếc SUV nặng nề và thả lỏng chiếc thắng khẩn cấp. Chiếc xe lao mình tới trước. Mũi xe va mạnh vào thành trì tưởng chừng như không thể xuyên thủng của lá cây và bụi rậm.... và tất cả tan biến. Chỉ trong khoảnh khắc, tất cả dàn hàng, và rồi giây phút tiếp theo, hệt như những bụi rậm đã nuốt chửng phần trước của chiếc xa.
Chiếc SUV đâm xuyên qua bụi rậm và cây cối. Trong giây lát, tất cả vụt tối tăm lạnh lẽo, và không khí đượm một mùi vị ngọt ngào cay đắng như đường cháy....và rồi con đường lại hiện ra, lượn cong về phía bên phải.
“Làm thế nào....” Josh bắt đầu.
“Đó chỉ là một ảo ảnh,” Flamel giải thích. “Chẳng có gì khác. Ánh sáng uốn éo và xoắn vặn, phản chiếu hình ảnh của cây cối và bụi rậm trong một bức màn hơi nước ẩm ướt, mỗi giọt hơi ẩm hoạt động như một tấm gương. Và cộng thêm một chút ma thuật,” ông nói tiếp. Ông chỉ tay lên phía trước trong một cử chỉ duyên dáng. “Chúng ta vẫn ở trên đất Mỹ, nhưng giờ đây chúng ta đang tiến vào lãnh địa của một trong những nhân vật già nhất và vĩ đại nhất của Giống loài Elder. Chúng ta sẽ được an toàn ở đây trong một thời gian ngắn.”
Scatty kêu lên vẻ gắt gỏng. “Ồ,bà ta già thì đúng rồi, nhưng tôi không chắc chắn lắm về sự vĩ đại.”
“Scathach, hãy cư xử một cách trưởng thành đi nào,” Flamel nói, đầu quay về hướng người phụ nữ trông rất trẻ nhưng cao tuổi ngồi bên cạnh cô.
“Tôi không thích bà ta. Tôi không tin bà ta.”
“Cô nên bỏ qua một bên tất cả hận thù.”
“Bà ta đã từng cố gắng giết tôi, Nicholas,” Scatty phản bác. “Bà ta bỏ rơi tôi ở Thế giới ngầm. Tôi đã mất hàng thế kỷ để tìm lối ra.”
“Chuyện xảy ra cách đây cả một nghìn năm trăm năm trước rồi, nếu tôi nhớ không lầm,” Flamel nhắc Scathach.
“Trí nhớ tôi hơi bị dai,” Scatty lẩm bẩm; trong thoáng chốc cô trông giống như một đứa trẻ đang hờn dỗi.
“Hai người đang nói ai vậy......” Sophie dò hỏi vừa khi Josh đạp phanh khiến cho chiếc xe nặng nề ngừng lại.
“Có phải đó là một phụ nữ cao lớn da đen không?” Josh hỏi.
Sophie quay người để nhìn xuyên qua tâm kính chắn gió rạn nứt, trong khi Flamel và Scatty hơi chồm người về phía trước.
“Chính là bà ta,” Scatty nói rầu rĩ.
Hình dáng đó đứng trên con đường ngay phía trước mũi xe. Cao lớn với đôi vai rộng, người đàn bà trông như được tạc nên từ một tảng đá đen huyền. Mái tóc trắng xoăn tít ôm lấy sọ của bà như một chiếc mũ khít khao. Những đường nét của bà góc cạnh và sắc bén: xương gò má nhô cao, mũi thẳng, cằm nhọn, đôi môi mỏng đến mức tưởng như chúng không tồn tại. Hai con ngươi của đôi mắt bà có màu bơ. Bà mặc một chiếc váy dài đơn giản được may bằng thứ chất liệu lung linh huyền ảo bay phất phơ nhẹ nhàng trong làn gió hầu như không đụng đến bất kỳ vật gì xung quanh bà. Khi phất phơ, một dải màu sắc cầu vồng chạy dọc theo chiều dài của áo, như dầu trên mặt nước. Bà không đeo món trang sức nào, mặc dù Sophie để ý thấy mỗi một ngón tay cắt ngắn của bà đều được sơn bằng một màu khác nhau.
“Trông không hề già hơn một ngày so với độ tuổi mười nghìn,” Scatty lẩm bẩm.
“Nhã nhặn một chút đi,” Flamel nhắc nhở cô.
“Ai đó?” Sophie lại hỏi, mắt chăm chăm nhìn người đàn bà. Dù trông bà ta rất giống một con người, vẫn có một điều gì đó khác lạ, một cái gì đó thoát tục. Nó thể hiện trong cách bà ta đứng, im lặng và bất động với mái đầu nghiêng nghiêng đầy vẻ kiêu căng.
“Đây là,” Nicholas Flamel nói, chồm hẳn người tới trước khoảng hở giữa hai ghế, một vẻ kính sợ thoáng qua trong giọng nói của ông, “nhân vật Elder được biết đến với cái tên Hekate.” Ông phát âm tên gọi này một cách chậm chạp, heh- ca-tay.
“Nữ thần Ba mặt,” Scatty nói một cách chua chát.
Dạ Phong
20-11-2010, 04:49 AM
Chương 14
“Ngồi yên trong xe nhé,” Nicholas Flamel chỉ đạo. Ông mở cửa xe chui ra ngoài, chân bước lên bãi cỏ được xén ngắn.
Scatty khoanh chéo tay trước ngực và nhìn xuyên qua tấm kính chắn gió trầy xước. “Dễ thương đó.”
Flamel tảng lờ câu nói của cô và đóng sầm cửa trước khi cô kịp buông ra thêm một lời nào nữa. Hít thở thật sâu ông cố gắng trấn tĩnh trong khi bước tới gần người phụ nữ cao thanh nhã đang đứng bất động. Bao quanh bà là những cành cây Sequoia cao trụi lá.
Những lùm cây kêu xào xạo và một trong những con lợn lòi Torc Allta to lớn xuất hiện ngay trước mắt Nhà Giả kim, cái đầu kềnh càng của nó ép sát ngực. Flamel dừng lại và cúi đầu chào lợn lòi, chào mừng nó bằng một thứ ngôn ngữ chưa bao giờ được thiết kế cho loài người. Đột ngột lợn lòi xuất hiện ở khắp mọi nơi, có đến mười con, mắt sáng thông minh, những sợi lông thô cứng trên lưng và vai dựng đứng lên trong ánh chiều tà, những hàng nước dãi theo nhau nhỏ giọt xuống từ cặp răng nanh cong vút.
Flamel lần lượt cúi chào từng con một. “Tôi đã không hề nghĩ còn có bất cứ giống Torc Allta trên đất Mỹ này, ” ông nói không với riêng ai, trở lại với giọng Anh thường lệ.
Hekate mỉm cười, cử động đáng kể nhất của đôi môi bà. “À Nicholas, ông và tất cả con người nên biết rằng ngay cả khi cả chúng ta biến mất đi, khi Giống loài Elder không còn tồn tại, thậm chí cả khi con người ra đi khỏi trái đất này, thì chủng loại Allta sẽ dành lại quyền làm chủ. Hãy nhớ rằng, thế giới này thủa sơ khai đã thuộc về những giống loài xưa.” Hekate nói bằng một giọng nói trầm sâu như giọng đàn ông với những trọng âm mang âm hưởng Hy Lạp và phụ âm được nói một cách du dương như kiểu người Ba Tư.
Nicholas cúi chào lần nữa. “Tôi hiểu rằng những nhóm như thế phát triển rất mạnh ở Châu Âu - như phe Torc Madra chẳng hạn. Và tôi cũng nghe rằng nhóm Torc Tiogar đã xuất hiện trở lại Ấn Độ , và hai chủng loại mới của Torc leon ở châu Phi nữa. Tất cả đều nhờ có bà.”
Hekate mỉm cười để lộ hàm răng nhỏ đều đặn. “Những nhóm đó vẫn luôn thờ phụng ta như một nữ thần. Ta làm những gì mình có thể làm cho chúng.”Cơn gió vô hình và không thể cảm thấy chạm vào váy của bà, xoáy tít quanh người bà và chảy thành từng giòng máu xanh lá cây và vàng óng. “Nhưng tôi nghi ngờ không lẽ ông vượt một chặng đường dài đến đây chỉ nói với tôi về con gái tôi thôi sao?”
“Quả là không chỉ có thế.” Flamel liếc nhìn về phía chiếc SUV tả tơi xơ xác. Josh và Sophie đang nhìn ông chăm chú với đôi mắt mở to dò hỏi trong khi khuôn mặt Scathach chỉ hiện lên lờ mờ trên chiếc ghế phía sau. Cô đang nhắm mắt giả vờ như đang ngủ. “Tôi muốn cám ơn bà về Cơn Gió ma mà bà đã mang đến cho chúng tôi.”
Bây giờ đến lượt Hekate cúi chào. Bàn tay phải của bà hé mở để lộ một chiếc điện thoại di động nhỏ xinh trong bàn tay. “những thiết bị hiện đại mới hữu ích làm sao. Tôi vẫn còn nhớ rõ cái thời mà chúng ta phải giao phó những thông điệp của mình cho những cơn gió hay những con chim được huấn luyện. Tất cả chỉ là chuyện hôm qua, ” bà nói tiếp. “Tôi rất vui mừng khi mưa mẹo của chúng ta thành công.Thật rủi ro, ông để lộ đích đến của mình cho Morrigan và Dee. Bọn chúng sẽ biết ai đã phái Cơn Gió ma đến và tôi chắc chắn rằng bọn chúng biết là tôi đã xây dựng một lãnh địa nơi đây.”
“Tôi biết điều đó.Và tôi xin lỗi bà vì đã hướng sự chú ý của bọn chúng đến bà.”
Hekate nhún vai, một cử động nhẹ nơi đôi vai đã đẩy chuỗi cầu vồng ánh sáng dọc theo áo choàng bà. “Dee sợ tôi. Hắn sẽ quát tháo giận dữ làm bộ làm tịch, thậm chí hắn có thể tung ra vài câu thần chú và bùa ngải vặt, nhưng hắn sẽ chẳng làm gì tôi được. Một mình hắn thì chẳng nên cơm cháo gì... và ngay cả khi hắn nhận được sự trợ giúp của Morrigan. Hắn sẽ cần ít nhất là hai hay nhiều kẻ khác trong giống Elder Đen tối để chống lại tôi… và ngay cả khi làm được như vậy chưa chắc hắn đã thành công.”
“Nhưng hắn rất kiêu căng ngạo mạn. Và bây giờ hắn có quyển Colex.”
“Không, không phải là tất cả.” Nicholas Flamel lấy hai trang giấy ra từ chiếc áo thun và cầm chúng đưa cho Hekate. Nhưng người phụ nữ ngay lập tức lùi lại, lấy hai tay che mắt, và đôi môi bà mấp máy một tiếng nho nhỏ. Đột nhiên những con lợn lòi vây quanh Flamel , chúng quây tròn lấy ông, miệng há ra với những chiếc răng nanh nhọn hoắt đâm vào da thịt của ông. Sophie thét lên trong khi Josh la lớn lên rồi Scathach nhảy ra khỏi cái SUV. Cô cầm một mũi tên nâng lên ngang tầm với Hekate. “Gọi chúng ra xa đi,”cô nói lớn.
Những con Torc Allta thậm chí không nhìn về hướng của cô.
Hekate quả quyết quay lưng về phía Flamel và khoang tay lại, sau đó liếc nhìn ra sau vai mình về phía Scathach lúc này đang kéo căng dây cung. “Cô nghĩ là vật đó có thể hại dược ta sao?” Nữ thần phá lên cười.
“Mũi tên này đã nhúng vào máu của một người khổng lồ,” Scathach nói nhỏ nhẹ, giọng nói của cô vang lên trong không khí yên tĩnh. “Một trong hai bậc cha mẹ của bà nếu tôi nhớ chính xác?” Và là một trong số ít cách có thể dùng để giết chết ,bà tôi tin như vậy.”
Cặp sinh đôi nhìn thấy đôi mắt của vị Elder trở nên lạnh giá và trở thành, trong vài giây ngắn ngủi, những mảnh gương vàng phản chiếu cảnh tượng trước mắt bà. “Đưa những trang giấy đó ra xa,” Hekate yêu cầu Nhà Giả kim.
Ngay lập tức Flamel giấu những trang giấy vào phía dưới chiếc áo thun đen của mình. Người đàn bà lẩm bẩm một từ gì đó và đám Torc Allta giãn ra khỏi Nhà Giả kim và biến vào các bụi cây. Dù chúng đã biến mất nhưng ai cũng biết là chúng đang ở đó. Hekate quay mặt về phía Flamel lần nữa. “Bọn chúng sẽ không tấn công ông nếu như không nhận được một mệnh lệnh từ tôi.”
“Chắc chắn rồi,” Nicholas run run nói. Ông liếc nhìn xuống chiếc quần jeans và đôi giày bốt của mình.Chúng được phủ đầy bởi những giọt nước đãi màu trắng của Torc Allta mà ông tin chắc rằng sẽ để lại những vết bẩn khó lòng giặt sạch.
“Đừng bao giờ đưa cuốn Codex - hay bất cứ phần nào của nó - ra trước mặt tôi… hay trước mặt bấy kỳ ai thuộc giống loài Elder. Chúng tôi có một… sự ác cảm đối với nó,” bà nói, cố gắng chọn lựa từ ngữ một cách cẩn thận.
“Nó đâu có ảnh hưởng gì đến tôi, ” Scatthach nói và buông chùng cung tên.
“Cô không thuộc Thế hệ Đầu tiên của Giống loài Elder,” Hekate nhắc nhở. “Cũng như Morrigan, cô thuộc Thế hệ Kế tiếp. Nhưng chính tôi đã có mặt khi mà Pháp sư Abraham xây dựng những từ ngữ đầy năng lượng đầu tiên vào cuốn sách. Tôi đã nhìn thấy ông ta cài đặt Ma thuật của Hoạt động Đầu tiên, Ma thuật cổ xưa nhất vào những trang của cuốn sách.”
“Xin lỗi bà,” Flamel vội nói. “Tôi đã không biết điều đó.”
“Không có lý do gì mà ông có thể biết được.” Hekate mỉm cười, nhưng nụ cười chẳng có gì hài hước. “Thứ ma thuật kỳ quái đó mạnh đến mức phần lớn những ai thuộc thế hệ của tôi đều không thể chịu đựng nổi việc nhìn vào các con chữ. Những người tiếp sau. Giống loài Elder nguyên thủy, mặc dù vẫn mang dòng máu của chúng tôi……” và bà hướng về phía Scathach, “có thể nhìn vào cuốn Codex, dù họ không thể chạm được vào nó. Hậu duệ của loài khỉ - tức là con người - có thể sờ vào nó. Đó là trò đùa cuôi cùng của Abraham. Ông ta đã kết hôn với một trong những con người đầu tiên, và tôi tin là ông ta muốn chắc rằng chỉ có con cháu của ông ta mới có thể điều khiển được cuốn sách.”
“Chúng tôi là hậu duệ của loài khỉ,” Josh nói, giọng nói của cậu vô tình rơi từng giọt như một lời thì thầm rất khẽ khàng.
“Con người….nòi giống loài người,” Sophie nói, rồi cô im lặng khi Flamel tiếp tục nói.
“Có phải đó là lý do vì sao cuốn sách được tôi cất giữ?”
“Ông không phải là con người đầu tiên….. quan tâm đến cuốn Codex,” Hekate nói một cách cẩn thận. “Lẽ ra cuốn sách không nên được tạo ra ở nơi đầu tiên đó,” bà nói tiếp, những dòng màu đỏ và xanh lá cây chảy như dầu trên áo choàng của bà. “Tôi rất tán thành rằng mỗi một trang của cuốn sách được tách riêng ra và được ném xuống ngọn núi lửa gần nhất cùng với Abraham.”
“Tại sao cuốn sách không bị hủy diệt?” Nicholas hỏi.
“Bởi vì Abraham có thể nhìn thấy được Viễn cảnh. Ông ta thực sự có thể nhìn xuyên qua chiều thời gian, và ông ta tiên đoán rằng sẽ có một ngày khi mà cuốn Codex cũng những kiến thức mà nó chứa đựng được cần đến.”
Scatty bước ra khỏi chiếc SUV và tiến tới bên cạnh Flamel. Cô vẫn cầm chiếc cung tên bên cạnh mình và cô để ý thấy đôi mắt mầu bơ của Hekate đang nhìn cô chăm chú.
“Cuốn sách của Pháp sư luôn cần đến một người canh giữ,” Scathach giải thích cho Flamel. “Một số họ được lịch sử ghi nhớ như những anh hùng vĩ đại nhất trong thần thoại, trong khi những người khác ít được biết đến hơn, như ông chẳng hạn, và một số ít khác nữa là những kẻ khuyết danh hoàn toàn.”
“Và nếu như tôi - một con người - được chọn làm người canh giữ cuốn Codex quý giá, bởi vì Giống loài Elder thậm chí không thể nhìn hay sờ vào nó, thì rõ ràng là sẽ có một người khác được chọn lựa với nhiệm vụ tìm ra nó,” Flamel nói. “Dee.”
Hekate gật đầu. “Một kẻ thù nguy hiểm, Tiến sĩ John Dee.”
Flamel gật đầu. Ông có thể cảm nhận được những trang giấy mát lạnh, khô ráp đang cọ vào da thịt mình bên dưới lớp vải áo. Mặc dù ông đã sở hữu cuốn Codex hơn một nửa thiên niên kỷ, ông biết rằng mình chỉ vừa mới khám phá được lớp vỏ mỏng trên bề mặt những bí mật của nó. Ông thực sự vẫn không biết gì về tuổi của cuốn Codex. Ông tiếp tục đẩy lùi ngày ra đời của nó xa hơn và xa hơn. Khi cuốn sách đến với ông vào Thế kỷ Mười bốn, ông tin rằng nó khoảng chừng năm trăm tuổi. Sau này, khi ông bắt đầu nghiên cứu, ông nghĩ là nó khoảng tám trăm tuổi, rồi một nghìn tuổi, rồi hai nghìn tuổi. Một thế kỷ trước, dưới ánh sáng của những khám phá từ hầm mộ của người Ai Cập, ông đã đẩy lùi số tuổi của cuốn sách lên đến năm nghìn năm. Và bây giờ, đến lượt Hekate, một phụ nữ hơn mười nghìn tuổi, cho biết bà đã có mặt vào thời điểm mà Pháp sư Abraham sáng tạo ra cuốn sách. Nhưng nếu như Giống loài Elder - những Vị thần của thần thoại và huyền thoại - không thể cầm giữ hay nhìn vào cuốn sách, thì Abraham người sáng tạo ra nó, là ai? Có phải ông ta là một trong những Giống loài Elder, là người hay là một ai đó khác, một trong số rất nhiều giống loài thần thoại đã đi lại trên trái đất trong những ngày “khai thiên lập địa” hoang sơ nhất của nó?
“Vì sao ông lại đến nơi đây?” Hekate hỏi. “Tôi biết là cuốn Codex đã bị lấy mất ngay khi nó vừa rời khỏi tay ông, nhưng tôi đâu có thể giúp ông giành lại nó được.”
“Tôi tìm đến bà vì một lý do khác,” Flamel nói. Ông bước ra xa khỏi chiếc xe và hạ thấp giọng, buộc Hekate phải cúi sát gần ông để lắng nghe. “Khi Dee tấn công tôi, đánh cắp cuốn sách và bắt cóc Perry, đã có hai con người đến trợ giúp chúng tôi. Một cậu bé và chị gái của cậu.” Ông dừng lại rồi nói tiếp. “Một cặp sinh đôi.”
“Sinh đôi?” Hekate nói, giọng của bà nghe đều đều bình thản y như khuôn mặt của bà.
“Sinh đôi. Hãy nhìn chúng xem: rồi nói cho tôi hay bà đã thấy những gì.”
Đôi mắt của Hekate hướng về phía chiếc xe và nhấp nháy. “Một chàng trai và một cô gái, mặc áo thun và quần Jeans tiêu biểu cho loại đồng phục tầm thường của độ tuổi này. Đó là tất cả những gì tôi thấy.”
“Nhìn gần hơn đi,” Flamel nói. “Và hãy nhớ lại lời tiên tri,” ông nói tiếp.
“Tôi biết lời tiên tri đó. Đừng mạo muội dạy dỗ tôi về lịch sử của chính tôi!” Đôi mắt của Hekate lóe sáng, và trong nháy mắt, đổi qua màu khác - sầm tôi và xấu xí. “Con người? Không thể được.” Sải chân bước băng qua Flamel, bà nhìn kỹ vào bên trong chiếc xe, đầu tiên là nhìn Sophie, rồi đến Josh.
Căp sinh đôi cùng lúc chú ý thấy hai con ngươi của bà ta dài và hẹp như mắt mèo và đằng sau đôi môi mỏng dính là những chiếc răng sắc nhọn như kim.
“Bạc và vàng,” Hekate thì thầm, mắt liếc nhìn Nhà Giả kim, trọng âm của bà dày nặng với chiếc lưỡi nhọn lấp ló nơi đôi môi mỏng. Bà xoay người trở lại về phía hai chị em Sophie. “Bước ta khỏi xe đi nào.”
Cặp sinh đôi nhìn Flamel và thấy ông gật đầu, chúng vội chui ra ngoài. Sophie đi vòng qua chiếc xe để bước tới đứng bên cạnh em trai.
Hekate tiến về phía hai đứa, đầu tiên là Sophie. Cô bé thoáng ngập ngừng trước khi chìa tay ra. Nữ thần nắm bàn tay trái của Sophie trong tay phải của bà và lật nó sấp ngửa, sau đó bà mới nắm lấy tay Josh. Cậu đặt tay mình trong tay bà không chút lưỡng lự, cố làm ra vẻ hững hờ như thể việc duỗi tay chạm vào một nữ thần mười nghìn tuổi là một việc gì đó hết sức bình thường mà hàng ngày cậu vẫn làm. Cậu nghĩ là làn da của bà ta gồ ghề và thô nhám một cách ngạc nhiên.
Hekate nói một từ cổ xưa có từ thời kỳ ngay trước cả sự xuất hiện của nền văn minh sớm sủa nhất của loài người.
“Những trái cam,” Josh thì thầm, đột nhiên cậu ngửi thấy - và rồi nếm thấy - loại trái cây đó.
“Không, là kem,” Sophie nói, “kem đánh tan thơm ngọt” Cô quay sang nhìn Josh… và phát hiện ra cậu đang nhìn mình với đôi mắt hình dấu hỏi.
Một vầng sáng bạc đã xuất hiện vòng quanh Sophie. Như một lớp da mỏng, nó bay lượn ngay sát trên bề mặt da thịt của cô,vụt rực rỡ như muốn ghi giấu sự tồn tại. Khi cô chớp mắt, đôi mắt cô trở thành những chiếc gương phản chiếu bằng phẳng.
Vầng sáng phủ lên người Josh có màu vàng ấm áp. Nó tập trung chính ở xung quanh đầu và đôi tay cậu, nhảy rộn ràng và xao động cùng lúc với nhịp đập trái tim của Josh. Hai con ngươi của cậu sáng lên như những đồng tiền vàng.
Nhưng mặc dù cặp sinh đôi có thể nhìn thấy vầng sáng rực rỡ bao phủ và tỏa ra xung quanh cơ thể của nhau, chúng không cảm thấy có gì khác lạ. Chỉ có mùi thơm lan tỏa trong không khí - cam và kem.
Không nói một lời, Hekate bước ra xa cặp sinh đôi và hai vầng sáng lập tức phai mờ. Quay lại gần bên Flamel, bà nắm lấy cánh tay ông và kéo ông ra xa đến một khoảng cách an toàn để hai chị em sinh đôi Sophie và Scatty không nghe được cuộc trò chuyện của họ.
“Chị có biết tất cả những gì mới xảy ra có ý nghĩ gì không?” Sophie hỏi Nữ Chiến binh. Giọng cô run rẩy và cô vẫn còn cảm nhận được vị kem và hương thơm của kem trong không khí.
“ Nữ thần lúc đó đang kiểm tra luồng điện của hai đứa,” Scathach nói.
“Vầng sáng của chị màu bạc,” Josh nói ngay lập tức.
Scathach nhặt lấy một viên sỏi dẹp và ném nó vào các lùm cây. Nó trúng phải một vật rắn chắc mà ngay tức thì vật đó chạy ầm ầm băng qua bụi rậm. “Phần lớn các luồng điện có màu pha trộn. Có rất rất rất hiếm người có luồng điện màu nguyên chất và tinh khiết.”
“Như của tụi em?” Sophie hỏi.
“Như của tụi em,”Scatty nói một cách buồn rầu.
“Người gần đây nhất có luồng điện màu bạc tinh khiết mà chị biết là một người phụ nữ được biết đến với cái tên Joan of Arc.”
“Còn luồng điện vàng thì sao?” Josh hỏi.
“Còn hiếm hơn nữa,” Sactty nói. “Người gần nhất có luồng điện màu vàng mà chị có thể nhớ được chính là…” cô cau mày, cố nhớ lại, “ông vua Tutankhamen.”
“Có phải đó chính là lý do vì sao ông ta được chôn cùng với rất nhiều vàng?”
“Một trong những nguyên nhân,” Scathach đồng ý.
“Chưa bao giờ gặp ông ta,” Scathach nói, “mặc dù chị đã từng huấn luyện Joan yêu dấu và sát cánh chiến đấu bên cô ở Orleans. Chị nói với cô ấy là đừng đi Paris,” cô nói tiếp một cách dịu dàng, ánh mắt thoáng nét buồn đau đớn.
“Vầng sáng của em quý hiếm hơn của chị đó nhé,” Josh cố ý trêu chọc chị để phá tan bầu không khí u buồn. Cậu nhìn Nữ Chiến binh. “Nhưng thực sự ý nghĩa của các vầng sáng tinh khiết đó là gì?”
Khi Scathach quay sang nhìn cậu, khuôn mặt cô thản nhiên không biểu lộ điều gì. “Nó có nghĩa là có những sức mạnh phi thường. Tất cả những phù thủy vĩ đại nhất trong quá khứ, những vị lãnh đạo anh hùng nhất, những nghệ sĩ nhiều cảm hứng nghệ thuật nhất, họ đều có luồng điện tinh khiết hay chỉ một màu.”
Cặp sinh đôi nhìn nhau, đột nhiên cảm thấy chống chếnh. Ngay cả sau khi đã trải qua một chuỗi sự kiện lạ lùng của ngày hôm nay, điều mà Scathach vừa tiết lộ nghe vẫn khác thường kỳ dị và có một điều gì đó trong ánh mắt cùng thái độ vô cảm của cô làm cho chúng hoảng sợ. Đôi mắt của Sophie bỗng nhiên mở to trong kinh hoàng. “Em vừa nhận ra rằng cả hai người kể trên , Joan of Arc và Tutakhamen, đều chết trẻ.”
“Rất trẻ,” Josh nói u ám, nhớ lại bài học lịch sự của cậu. “Họ đều đã chết khi vừa tròn mười chín tuổi.”
“Đúng là như vậy.” Scathach đồng ý. Cô quay sang nhìn về phía Nicholas Flamel và Nữ thần Ba mặt.
“Con người,” Hekate rít lên. “Con người với những luồng điện vàng và bạc.” Giọng của bà nghe đầy bối rối và giận dữ.
“Chuyện đó đã từng xảy ra trước đây,” Flamel nói nhẹ nhàng.
“Ông nghĩ là tôi không biết chuyện đó chắc?”
Họ đang đứng ngay mép nước của một dòng suối nhỏ sủi tăm chảy xuyên qua những cây cao và đổ vào một chiếc hồ hình bát giác lốm đốm những bông súng trắng ngần. Những sinh vật màu đỏ và trắng bơi lội tung tăng giữa làn nước trong leo lẻo.
“Tôi chưa bao giờ đứng gần cả hai luồng điện cùng một lúc, và chưa bao giờ đứng gần một cặp sinh đôi trong cùng một thế kỷ. Chúng sở hữu những nguồn năng lượng mạnh mẽ chưa hề khai phá,” Flamel nói gấp gáp. “Tôi có cần nhắc bà về cuốn Codex không? Lời tiên tri đầu tiên của Abraham đã nói về hai mà chỉ một và một là tất cả.”
“Tôi biết lời tiên tri đó,” Hekate ngắt lời Flamel, màu sắc trên chiếc váy của bà chuyển sang thành những dòng đỏ và đen. “Tôi đã có mặt khi lão già ngu xuẩn đó tạo ra nó.”
Flamel định nói một câu gì đó, nhưng ông kiềm chế và giữ im lặng.
“Mà ông ta cũng chẳng sai bao giờ,” Hekate thì thầm. “Ông ta biết là Danu Talis sẽ chìm dưới những con sóng và thế giới của chúng ta sẽ kết thúc.”
“Ông ta cũng tiên đoán rằng thế giới sẽ lại bắt đầu.” Flamel nhắc bà. “Khi hai mà chỉ một và một là tất cả xuất hiện. khi mặt trời và mặt trăng hợp nhất.”
Hekate nghiêng nghiêng đầu và đôi mắt có hai con ngươi dài hẹp của bà hướng về cặp sinh đôi. “Vàng và bạc, mặt trời và mặt trăng.” Bà quay lại phía Flamel. “Ông có tin tụi nó chính là nền tảng của lời tiên tri không?”
“Có,” ông nói giản dị, “Tôi tin. Tôi phải tin thôi.”
“Tại sao?”
“Bởi vì một khi cuốn Codex đã bị cướp đi, Dee có thể bắt đầu khôi phục lại vị trí thống lĩnh của phe Elder Đen tối. Nếu cặp sinh đôi chính là nhân vật được lời tiên tri đề cập tới, thì khi đó, với sự huấn luyện đặc biệt, tôi có thể sử dụng chúng để ngăn chặn điều kinh khủng đó…..và để giúp tôi cứu lấy Perry.”
“Và điều gì sẽ xảy ra nếu như ông lầm?” Hekate thắc mắc.
“Thì tôi sẽ mất đi tình yêu của đời mình, và thế giới này cùng tất cả loài người sẽ bị hủy diệt. Nhưng nếu như chúng tôi có bất kỳ cơ hội nào để thành công, tôi thật sự cần sự giúp đỡ của bà.”
Hekate thở dài. “Đã lâu lắm rồi…. lâu lắm rồi kể từ khi tôi nhận một sinh viên.” Bà quay người nhìn về phía Scathach. “Và việc đào tạo đó dẫn tới một kết quả chẳng hay ho gì mấy.”
“Lần này khác. Lần này bà sẽ làm việc với những tài năng thô còn chưa tinh chế, những năng lực tươi mới và tinh khiết. Bên cạnh đó, chúng tôi không có nhiều thời gian.” Flamel hít thở một hơi thật sâu và nói trang trọng bằng ngôn ngữ cổ xưa của cư dân hòn đảo Danu Talis đã bị nhấn chìm. “Hỡi con gái của Perses và Asteria, bà là Nữ thần của Ma thuật và Thần chú, tôi khẩn thiết yêu cầu bà. Đánh thức và Khơi dậy năng lực ma thuật của cặp sinh đôi.”
“Và nếu như tôi làm điều đó - chuyện gì sẽ xảy ra?” Hekate hỏi.
“Thì tôi sẽ dạy cho chúng Năm Phép Ma thuật. Chúng ta sẽ cùng nhau đoạt lại cuốn Codex và cứu thoát Perenelle.”
Nữ thần Ba mặt cười vang, tiếng cười nghe chua chát và giận dữ. “Coi chừng đó, Nicholas Flamel, Nhà Giả kim, chỉ sợ ông lại tạo ra một cái gì đó hủy diệt tất cả chúng ta thôi.”
“Bà sẽ huấn luyện chúng chứ?”
“Tôi sẽ phải nghĩ về điều đó. Tôi sẽ phải trả lời ông sau vậy.”
Ngồi trong một chiếc xe hơi cách xa chỗ Flamel và Hekate đang đứng, Sophie và Josh đột nhiên nhận thấy rằng Flamel và Hekate đều đang quay nhìn chúng chằm chằm. Cả hai cô cậu bé bất giác run lên cùng một lúc.
Processing.... Processing....
Dạ Phong
20-11-2010, 04:50 AM
Chương 15
“Cái nhà này kỳ quá.” Sophie sải bước tiến vào phòng của em trai, tay cô cầm lấy chiếc điện thoại di động đắt tiền áp sát mặt. “ Mất sóng rồi. Chị không dò được sóng điện thoại ở bất cứ nơi đâu trong nhà này cả.” Cô đi vòng quang căn phòng, mắt dán chặt vào màn hình, nhưng chẳng hề nhận được tín hiệu cho thấy đã bắt được sóng. Màn hình cứ phẳng lỳ trơ trơ.
Josh nhìn chị bằng ánh mắt trống rỗng. “Kỳ hả?” cậu lặp lại một cách hoài nghi. Rồi cậu nói chậm rãi. “Sophie nè, tụi mình đang ở bên trong cái cây! Đó là lý do vì sao em thấy cái nhà này rất kỳ.”
Sau khi kết thúc cuộc trò chuyện với Flamel, Hekate đã quay đi và biến mất trong khu rừng rậm mà không hề nói với chị em Josh một lời nào. Flamel chính là người dẫn hai đứa về ngôi nhà của Nữ thần. Ông nói chị em Josh rời khỏi xe và dắt chúng đi theo một con đường quanh co xuyên qua lớp cây cao quá đầu người. Hai đứa trẻ để ý đến quần thể thực vật kỳ lạ ở nơi đây: những bông hoa sẫm màu to lớn như đang theo dõi từng bước chân của chúng, những bụi cỏ từ thời cổ đại tưởng như từ lâu đã không còn tồn tại. Chúng mải mê quan sát cỏ cây đến mức không nhận ra là con đường mòn đã dẫn ra một khoảng trống và đưa chúng đối diện với Hekate. Ngay cả khi ngước nhìn lên, hai chị em cũng phải mất một thời gian ngắn để ghi nhận những gì mình đang nhìn thấy.
Ngay trước mắt hai đứa, ở chính giữa bãi đất trống rộng rãi hơi nghiêng một chút được tô điểm bằng những thảm hoa rực rỡ muôn màu, là một cái cây to. Kích thước và chu vi của nó ngang bằng với một tòa nhà cao chọc trời cỡ lớn. Những cành và lá trên ngọn cây được quấn quanh bởi những cuộn mây trắng xốp trong khi những chiếc rễ vọt lên từ mặt đất như những ngón tay đầy móng vuốt có chiều cao bằng chiếc xe hơi. Thân và cành cây đây mấu và khúc uốn cong với lớp vỏ hằn sâu những đường nứt nẻ. Những cây leo to lớn ôm bọc lấy thân cây và đu đưa trên các cành cây.
“Nhà Hekate đó,” Flamel nói. “Hai đứa là những con người duy nhất trong vòng hai nghìn năm qua được nhìn thấy nó. Ngay cả chú cũng chỉ mới đọc về nó mà thôi.”
Scatty mỉm cười khi nhìn thấy vẻ mặt của cặp sinh đôi. Cô huých khủy tay vào Josh. “Chính xác thì em nghĩ là bà ta có thể sống ở đâu? Một chiếc xe moóc chắc?”
“Không…Ý em là em không biết….Em đã không nghĩ rằng ….” Josh bắt đầu. Cảnh tượng trông thật khác thường và theo kiến thức ít ỏi của mình về sinh vật học, cậu biết rằng không một sinh vật sống nào có thể mọc cao to đến mức như thế. Không một vật tự nhiên nào, cậu tự chữa lại.
Sophie nghĩ rằng cái cây trông như một phụ nữ cổ đại phi thường, phát triển theo thời gian. Thực sự, nghe Flamel nói về lịch sử cổ đại và một nữ chiến binh hai nghìn tuổi hay một nữ thần mười nghìn tuổi cũng ấn tượng thật đấy, nhưng rồi đó cũng chỉ là những con số mà thôi. Những con số không diễn tả được điều gì nhiều. Nhìn thấy cái cây này là một chuyện khác hẳn. Cả cô và Josh đều đã từng trông thấy những cây cổ đại trước đây. Cha mẹ chúng đã dẫn hai chị em đi thăm một cây cổ thụ khổng lồ có đến ba nghìn tuổi ở Redwoods và chúng cũng đã cắm trại suốt một tuần cùng cha mẹ ở vùng nói Trắng phía bắc của California khi ba chúng nghiên cứu cây Methuselah già đến gần năm nghìn tuổi và được cho là sinh vật sống cao tuổi nhất trên hành tinh này. Đứng trước cây Methuselah đầy mấu và những cành cây gồ ghề uốn lượn, thật dễ dàng tưởng tượng ra số tuổi của nó. Thế nhưng giờ đây, khi nhìn ngôi nhà cây của Hekate,Sophie không hề nghi ngờ gì về sự cổ đại của nó - phải già hơn cây Methuselah đến hàng thiên niên kỷ.
Chỉ khi đến gần hơn, chúng mới nhận ra sự so sánh cái cây với một tòa nhà chọc trời thật ra không đặc sắc lắm: có đến hàng trăm cửa sổ được khắc vào vỏ cây với những ánh đèn rung rinh phát ra từ những căn phòng. Nhưng chỉ đến lúc tiến vào cửa chính chúng mới cảm nhận được sự to lớn mênh mông của tòa nhà cây. Cánh cửa đôi nhẵn bóng và cao ít nhất là sáu mét. Flamel chạm nhẹ ngón tay vào đó và cửa bật mở. Cặp sinh đôi tiến vào một căn phòng hình tròn rộng thênh thang.
Và dừng lại.
Bên trong cái cây hoàn toàn trống rỗng. Từ chỗ đứng ngay sát cửa ra vào, chúng có thể nhìn lên thấu ngọn cây nơi mà những đám mây trắng giăng đầy ở phía bên trong. Một cầu thang nhỏ chạm trổ tinh tế bám dọc theo thân cây, và dọc theo các bậc thang là những cánh cửa mở ngỏ với ánh sáng lọt ra ngoài. Rất nhiều thác nước nhỏ xinh phun ra từ các vách tường và bắn tóe xuống sàn nhà phía bên dưới, nơi các tia nước cùng chảy vào một cái hồ khổng lồ hình tròn nằm chiếm gần hết sàn nhà. Những bức tường bên trong cây rất trơn mượt bằng phẳng và không hề được tô vẽ gì ngoài những đường ngoằn ngoèo xoắn vặn của các dây leo bò ngang dọc như những hoa văn tự nhiên.
Và ngôi nhà này hoàn toàn hoang vắng.
Không có ai chuyển động bên trong cái cây - không ai - con người hay không phải con người - bước lên những bậc thang trải dài tít tắp, không một động vật có cánh nào bay lượn giữa không gian ẩm ướt.
“Chào mừng đến Yggdrasill,” Nicholas Flamel nói, chân bước lui nhường chỗ cho chị em Sophie tiến tới. “Chào mừng đến với Cây Thế giới.”
Josh giơ điện thoại di động của cậu lên cao. Màn hình trống trơn. “Chị có để ý thấy không” cậu nói, “chẳng hề có một ổ cắm điện nào ở đây hết.”
“Phải có chứ,” Sophie nói dứt khoát. Cô đi vòng quanh giường ngủ và quỳ gối xuống nghiêng ngó. “Luôn luôn có ổ cắm điện ngay cạnh giường…”
Nhưng ở đây thì không có.
Cặp sinh đôi đứng ngay giữa phòng của Josh và nhìn xung quanh. Phòng của cậu giống hệt như phòng của Sophie. Tất cả mọi thứ trong phòng đều được làm bằng gỗ có màu vàng mật ong - từ những ván lót sàn nhẵn bóng đến những bức tường láng mượt. Không có gương thủy tinh lắp trên các ô cửa sổ mà cửa sổ đơn giản chỉ là những khoảng hở trên góc tường; và cánh cửa hình chữ nhật mỏng tang trông và sờ thấy như lớp vỏ giấy lấy từ thân cây. Món đồ gỗ duy nhất trong phòng là một cái giường chân thấp phủ lông dày. Một tấm thảm dày phủ da lông thú nằm trên sàn ngay cạnh giường. Lớp lông dày những vết lốm đốm cầu kỳ phức tạp không giống như lông của bất kỳ con thú nào mà hai chị em Sophie từng nhìn thấy.
Còn có một cái cây mọc lên từ sàn nhà ngay chính giữa phòng.
Cao, mảnh và thanh nhã, cái cây có lớp vỏ màu đỏ vươn thẳng lên cao từ sàn gỗ. Không có cành cây nào nhô ra từ thân cây cho đến khi cây vươn lên gần sát trần nhà, và từ điểm “cận trần” đó tỏa ra các nhánh cây tạo thành một mái vòm phủ bóng xuống sàn nhà. Lá cây một mặt có màu xanh lục đậm còn mặt kia có màu trắng xám. Chốc chốc, những chiếc lá lại rơi theo đường xoắn ốc xuống sàn nhà và phủ lên nó một tấm thảm mềm mại.
“Tụi mình đang ở đâu đây?” Sophie hỏi, không nhận ra rằng cô đã nói to lên ý nghĩ của mình.
“California?” Josh nói nhỏ, nhưng giọng nói hoang mang của cậu cho thấy chính cậu cũng không tin vào những gì mình nói.
“Sau những gì mà chúng ta nhìn thấy hôm nay sao?” Sophie hỏi. “Chị không nghĩ như vậy. Tụi mình đang ở bên trong một cái cây. Một cái cây đủ to để chứa toàn bộ khu sân bãi của trường Đại học San Francisco, một cái cây già cỗi đến mức nó khiến cho cây Methuselah trông chỉ như một cây non mới trồng. Và đừng có cố nói với chị là tất cả chỉ là thứ nhân tạo, em biết rồi đó, một tòa nhà được tạo dáng như một cái cây. Tẩt cả ở đây đều được làm bằng vật liệu tự nhiên.” Cô hít thở sâu và nhìn xung quanh. “Em có nghĩ là cái cây vẫn còn sống không?”
Josh lắc đầu. “Không thể được. Nguyên cả phần bên trong của cái cây đã bị xới rỗng. Có lẽ nó đã từng sống cách đây rất lâu, nhưng giờ đây chỉ còn là cái vỏ rỗng.”
Sophie không chắc chắn lắm. Cô nhìn quanh. “Josh, chẳng có gì là hiện đại hay nhận tạo ở trong phòng này, không nhựa, không kim loại, không giấy, tất cả đều như được chạm trổ bằng tay. Thậm chí cũng không có cả đèn cầy hay đèn dầu nữa.”
“Phải mất mấy giây em mới nhận ra rằng mấy cái đèn này chứa đầy dầu,” Josh nói. Cậu không cho Sophie biết là suýt chút nữa cậu đã uống thứ chất lỏng mà cậu nghĩ đó là một loại nước trái cây thơm ngọt cho đên khi cậu nhìn thấy một chiếc bấc đèn nổi trong đó.
“Phòng chị cũng giống như phòng em thôi,” Sophie nói tiếp. Cô lại nhấc điện thoại di động của mình lên. “Không có tín hiệu gì cả, và coi nè,” cô chỉ tay, “em có thể thực sự thấy là pin đang dần bị tiêu hao.”
Josh chụm đầu sát vào đầu Sophie, hai mái tóc vàng của chúng nhập vào nhau, và chúng cùng nhìn chằm chằm vào màn hình chứ nhật. Vạch chỉ thị năng lượng pin bên phía tay phải cho thấy pin đang cạn dần, từng nấc một.
“Chị có nghĩ đó chính là lý do tại sao cái iPod của em cũng hết pin luôn không?” Josh hỏi, vừa lôi chiếc iPod ra khỏi túi áo. “Em vừa sạc đầy pin cho nó sáng hôm nay. Và máy tính của em cũng chết luôn rồi.” Cậu đột ngột liếc nhìn đồng hồ đeo tay và giơ tay cao lên cho chị mình có thể nhìn thấy. Mặt của chiếc đồng hồ điện tử chắc nịch thiết kế theo phong cách nhà binh của cậu trống trơn.
Sophie nhìn đồng hồ của cô. “Đồng hồ của chị vẫn chạy nè,” cô nói với nỗi ngạc nhiên. “Bởi vì nó là đồng hồ lên dây,” cô nói to lên trả lời câu hỏi của chính mình.
“Vậy là có một cái gì đó đang hút cạn năng lượng,” Josh lầm bầm. “Một năng lượng nào đó trong không khí?” Câu chưa bao giờ nghe nói đến bất kỳ một vật gì có thể hút cạn năng lượng từ các cục pin.
“Đó chính là nơi này,” Scathach nói, xuất hiện nơi ngưỡng cửa. Cô đã thay trang phục - từ bộ đồ chiến đấu có phong cách quân đội màu đen và áo thun đen sang một chiếc quần màu xanh lá cây và nâu vàng, đôi giày bốt chiến đấu cao cổ và một chiếc áo thun sát nách màu vàng hoa cúc để lộ những bắp tay rắn chắc. Cô đeo một thanh kiếm ngắn cột bằng dây da thõng xuống chân và đeo một chiếc cung bên vai trái với đầu nhọn của các mũi tên trong ống tên nhô ra đằng sau ở phía trên đầu. Sophie để ý một hình xăm xoắn ốc theo phong cách Celtic được khắc vào vai trái Scatty. Sophie luôn muốn có một hình xăm, nhưng mẹ cô không bao giờ cho phép cô làm điều đó. “Các bạn đã vượt ra khỏi thế giới của mình và tiến vào Vương quốc Bóng tối,” nữ chiến binh nói. “Vương quốc Bóng tối tồn tại một phần trong thế giới của loài người và một phần khác trong không gian và thời gian khác.” Nữ Chiến binh vẫn đứng nơi ngưỡng cửa.
“Chị không muốn vào đây sao?” Sophie hỏi.
“Hai người phải mời tôi mới vào được,” Scathach nói với một nụ cười e lệ.
“Mời chị vào á?” Sophie quay sang nhìn Josh, lông mày nhướn lên đầy thắc mắc.
“Hai chị em phải mời tôi vào,” Scatty lặp lại, “nếu không tôi sẽ không thể vượt qua ngưỡng cửa được đâu.”
“Giống như ma cà rồng,” Josh nói, đột nhiên thấy lưỡi của mình dày cộp lên trong miệng. Sau những gì mà cậu chứng kiến hôm nay, cậu đã chuẩn bị tinh thần để tin vào ma cà rồng, mặc dù thực sự cậu không hề muốn dính líu gì đến khái niệm đó. Cậu quay sang Sophie. “Cách duy nhất để cho một con ma cà rồng có thể tiến vào một nơi cư ngụ đó là khi ông ta hay cô ta được mời vào. Khi đó ma cà rồng có thể uống máu của bạn…..” Cậu quay sang nhìn Scatty, mắt bỗng nhiên mở lớn. “Chị không phải là…..”
“Tôi không thích từ đó,” Scatty nói.
“Scathach, vui lòng vào phòng,” Sophie nói, trước khi em trai cô có thể phản ứng mạnh hơn.
Nữ Chiến binh nhảy lẹ làng vượt qua cánh cửa và tiến vào trong phòng. “Và đúng thế,” cô nói, “Tôi chính là những gì mà người ta gọi là ma cà rồng đây.”
“Ồ,” Sophie thì thầm. Josh cố gắng đứng chắn ngang trước mặt Sophie để bảo vệ cho cô, nhưng cô đẩy cậu ra xa. Mặc dù cô rất yêu quý em trai mình, đã có rất nhiều lần cậu tỏ ra quá phòng thủ.
“Đừng tin vào những gì em đã đọc về giống loài của tôi,” Scathach nói, đi lại xung qung quanh căn phòng, thò đầu qua các cửa sổ ngắm nhìn vườn cây sum suê tươi tốt. Một con bướm màu trắng vàng to lớn bay dập dờn qua cửa sổ. Nó có kích thước khoảng bằng một chiếc đĩa ăn bữa tối và đã không hề tồn tại kể từ thời kỳ khủng long. “Hekate tạo ra và duy trì nơi chốn này bằng sự sử dụng ma thuật phi thường,” cô nói tiếp. “Nhưng ma thuật, như nhiều thứ khác, cũng vân tuân theo những luật lệ tự nhiên. Ma thuật cần năng lượng và nó hút lấy năng lượng ở bất cứ nơi đâu mà nó nó tìm thấy ngay cả từ những cục pin bé nhỏ trong các thiết bị điện của hai em. Nếu như không tìm ra được những nguồn năng lượng có sẵn, nó sẽ quay sang hút lấy sức sống của pháp sư đã tạo ra nó. Đó là lý do vì sao việc sử dụng ma thuật làm cho pháp sư bị yếu đi.”
“Có phải ý chị muốn nói là không hề có thiết bị điện nào có thể hoạt động trong Vương quốc Bóng tối này?” Sophie thắc mắc và rồi cô nhanh chóng lắc đầu. “Nhưng Hekate có xài một chiếc điện thoại. Em thấy bà ta đưa cho chú Flamel xem hồi nãy. Tại sao pin của chiếc điện thoại đó không bị tiêu hao?”
“Hekate vô cũng mạnh mẽ và ít nhiều không bị ảnh hưởng bởi ma thuật mà bà ta tạo ra. Tôi có thể mường tượng được là bà ta giữ chiếc điện thoại ngay bên mình để pin của nó không bị cạn kiệt, hoặc bà ta cũng có thể nhờ một người hầu nào đó giữ giùm chiếc điện thoại trong thế giới thật. Rất nhiều nhân vật của Giống loài Đen tối có người hầu cận là những con người.”
“Như Flamel và Dee?” Sophie hỏi.
“Nicholas Flamel không phục vụ cho Elder nào cả,” Scathach nói một cách chậm rãi, “vấn đề của ông ta nằm ở cuốn sách. Dee, mặt khác….Ồ, hắn không phục vụ chính xác cho ai hay cái gì.” Cô nhìn qua vai mình, cái nhìn của cô lần lượt rọi thằng vào hai chị em Sophie.
“Nicholas không phục vụ cho Elder nào cả,” Scathach nói một cách chậm rãi, “vấn đề của ông ta nằm nơi cuốn sách. Dee, mặt khác… Ồ hắn không phục vụ chính xác cho ai hay cho cái gì.” Cô nhìn qua vai mình, cai nhìn của cô lần lượt rọi thẳng vào hai chị em Sophie. “Hai em có thể cảm thấy kiệt sức trong vòng một tiếng đồng hồ tới, sẽ bị đau cơ bắp hay thậm chí hơi đau đầu nữa. Đó là khi lãnh địa ma thuật này hút lấy luồng điện của hai người. Tuy nhiên, đừng quá bận tâm về chuyện đó: luồng điện đặc biệt của hai em mạnh một cách ngoại hạng. Chỉ cần uống thật nhiều chất lỏng.” Scatty đi từ cửa sổ này sang cửa sổ kia và chồm người về phía trước, nhô đầu ra ngoài. “Tôi biết chúng đang ở ngoài kia, nhưng tôi không thể nhìn thấy chúng,” cô nói đột ngột.
“Ai?” Sophie hỏi.
“Những con Torc Allta.”
“Có phải chúng thực sự là lợn lòi cổ đại không? Ý em là, người biến thành lợn lòi đó?” Sophie hỏi. Cô nhận thấy là cậu em mình đã không hề hé răng nói nửa lời kể từ khi Scathach tiến vào căn phòng. Cậu nhìn cô chăm chú, mắt mở to kinh hoàng, môi mím chặt lại thành một đường thẳng mỏng. Sophie đọc được nỗi sợ hãi của Josh qua vẻ mặt đó. Cậu hẳn đang rất hoảng sợ và cô đoán rằng cậu đang nhớ lại tất cả những cuốn sách và bộ phim về ma cà rồng mà cậu từng đọc hay xem được.
“Không, không phải như vậy,” Scathach nói. “Tôi biết Nicholas đã nói với hai em là trước khi con người làm chủ thế giới này thuộc về những sinh vật khác, những giống loài khác. Nhưng giữa các giống loài kể cả Giống loài Elder, loài Torc vẫn luôn thật đặc biệt. Chúng có thể biến hóa từ quái vật sang thành người và trở lại thành quái vật.” Scathach ngồi xuống nơi mép chiếc giường thấp và duỗi thẳng hai chân ra phía trước. “Khi những con người đầu tiên xuất hiện, loài Torc đã dạy họ cách làm với gỗ và đá cũng như cách tạo ra lửa. Con người đã thờ phụng loài Torc như một vị thần - tại sao có nhiều vị thần xuất hiện sớm nhất trong lịch sử trong đó có rất nhiều sinh vật không phải là người hay thú vật mà ở đâu đó giữa hai nòi giống ấy. Chắc hẳn là em đã từng trông thấy những bức tượng vị thần Ai Cập như Sobek, Bastet và Anubis: cơ thể người, nhưng lại có đầu của loài vật. Hãy nghĩ đến những vũ điệu trong đó con người giả vờ làm loài thú: tất cả chỉ là những kỷ niệm của một thời khi mà loài Torc chung sống sát cánh với con người.”
“Loài Therianthropes,” Sophie nói lơ đãng.
Scatty nhìn cô một cách trống rỗng.
“Một dáng vẻ tạo thành bởi sự pha trộn giữa hình người và hình thú,” Josh giải thích. “Em đã nói với chị là cha mẹ tụi em là những nhà khảo cổ học,” cậu nói thêm. Rồi cậu liếc nhanh về phía người phụ nữ có khuôn mặt trẻ trung. “Chị có uống máu không?” cậu hỏi một cách đột ngột.
“Josh” Sophie kêu khẽ.
“Không tôi không uống máu,” Scathach nói một cách nhỏ nhẹ. “Không phải bây giờ. Và chưa bao giờ.”
“Nhưng một ma cà rồng…”
Scathach nhún chân đứng lên và trong hai bước cô đã đứng thẳng ngay trước mặt Josh. Cô không cao bằng Josh nhưng, trong lúc này, trông cô thật cao lớn. “Có rất nhiều giống ma cà rồng, nhiều phe cánh và nhiều bè đảng, cũng giống như nhiều loài giống cổ đại khác. Một số trong giống loài của tôi là những kẻ uống máu, sự thật đúng là vậy.”
“Nhưng không phải là chị,” Sophie hấp tấp nói, trước khi cậu em mình có thể hoi thêm những câu vụng về khác gây khó xử.
“Không, phe cánh của tôi không như vậy. Một số trong bè đảng của tôi….ờ, chúng tôi ăn… bằng những cách khác,” Scatty nói với một nụ cười hất hàm. “Và chúng tôi rất hiếm khi cần phải ăn,” cô nói thêm. Cô quay ra xa. “Tất cả những gì mà em từng được dạy dỗ, tất cả những huyền thoại và thần thoại trong thế giới của em, đều có một phần sự thật cốt lõi trong chúng. Tụi em đã chứng kiến những điều kỳ diệu hôm nay. Và sẽ còn tiếp tục nhìn thấy nhiều điều kỳ diệu hơn nữa vào những ngày sắp tới….”
“Chị có ý gì khi nói về những ngày sắp tới?” Josh cắt ngang với một giọng nói cất cao trong hoảng hốt. “Tụi em sắp sửa về nhà, phải vậy không?” Nhưng ngay cả khi cậu đang nêu câu hỏi, câu đã biết câu trả lời sẽ là gì.
“Rồi cũng sẽ về nhà thôi,” nữ chiến binh nói, “nhưng không phải hôm nay và nhất định không phải là ngày mai.”
Sophie đặt tay mình lên cánh tay của em trai, ngăn chận câu nói mà cậu sắp sửa tung ra. “Chị đang nói về những thần thoại và huyền thoại, đó là những điều gì vậy?” cô chen vào.
Một hồi chuông chợt vang lên lanh lảnh từ đâu đó trong ngôi nhà, tiếng chuông nghe lảnh lót và trong vẳt. Nó ngân dài trong không gian tĩnh lặng.
Scathach tẳng lờ hồi chuông. “Tôi muốn em hãy nhớ rằng tất cả những gì em biết - hay nghĩ là mình biết - về các thần thoại và huyền thoại không phải hoàn toàn sai hay đúng. Nằm chính giữa trung tâm của mọi huyền thoại là hạt giống của sự thật. Tôi đồ là phần lớn kiến thức của em đến từ các bộ phim hay tivi. Có rất nhiều câu trả lời về Xena hay Dracula. Tất cả các nhân ngư không phải là quỷ dữ cũng như quỷ Gorgon Medusa không hề biến tất cả mọi người thành đá. Không phải tất cả ma cà rồng đều là những kẻ hút máu người hay tất cả giống loài cổ đại đều tự hào kiêu hãnh về nguồn gốc lâu đời xa xưa của mình.”
Josh cố phá lên cười. Cậu vẫn còn run rẩy khi nghe Scathach tiết lộ cô là một con ma cà rồng. “Thế nào rồi chị cũng sẽ nói tiếp là ma vẫn đang tồn tại.”
Scathach tiếp tục giữ vẻ nghiêm túc trong cách lý giải. “Josh, em đã tiến vào Vương quốc Bóng tối, thế giới của những con ma. Tôi muốn cả hai em tin vào trực giác của mình từ lúc này trở đi: hãy quên đi những gì các em đã từng biết - hoặc nghĩ là mình biết - về các loài sinh vật và giống loài các em sẽ gặp. Đi theo trái tim mình. Không tin bất cứ ai. Trừ việc tin lẫn nhau mà thôi,” cô nói tiếp.
“Tụi em có thể tin chị và chú Nicholas chứ, đúng không?” Sophie nói.
Hồi chuông lại vang lên, trải dài lảnh lót trong không khí.
“Đừng tin ai hết,” Scathach nhắc lại, và cặp sinh đôi nhận ra là cô ta đã không trả lời câu hỏi của Sophie. Cô quay về phía cửa ra vào. “Tôi nghĩ đó là hồi chuông báo hiệu bữa ăn tối.”
“Tụi em có thể ăn thức ăn không?” Josh hỏi.
“Còn tùy,” Scatty nói.
“Tùy vào cái gì?” Josh hỏi một cách hốt hoảng.
“Tùy vào thức ăn là gì, tất nhiên. Bản thân chị đâu có ăn thịt.”
“Tại sao lại không?” Sophie hỏi, thắc mắc liệu không biết có phải đó sẽ là thịt của một sinh vật cổ xưa nào đó mà chúng nên tránh không.
“Tôi ăn chay,” Scathach trả lời.
Dạ Phong
20-11-2010, 04:51 AM
Chương 16
Perenelle Flamel ngồi trong góc của căn phòng không có cửa sổ và bó hai đầu gối lên ngang ngực, rồi bà vòng hai cánh tay ôm lấy cẳng chân. Bà tì cằm lên hai đầu gối. Bà có thể nghe thấy những giọng nói - những giọng nói giận dữ và chua chát.
Perry tập trung lắng nghe những âm thanh. Bà thả cho luồng điện của mình tỏa rộng hơn một chút trong khi bà lẩm bẩm một câu thần chú nhỏ mà bà đã học được từ một pháp sư Inuit. Pháp sư đó đã dùng câu thần chú để lắng nghe chuyển động của những con cá dưới lớp băng giá Bắc Cực và những con gấu bước đi lạo xạo băng qua cánh đồng phủ dày băng tuyết. Câu thần chú đơn giản này phát huy hiệu quả bằng cách đóng khóa tất cả các giác quan còn lại và chỉ tập trung duy nhất vào thính giác. Perry nhìn thấy màu sắc phai mờ dần nơi những vật xung quanh bà và rồi cảm thấy mình bắt đầu trở nên mờ dần. Bà dần dần mất luôn khả năng ngửi mùi, rồi đến phiên xúc giác mờ dần và tắt hẳn. Bà biết là nếu có một cái gì đó trong miệng bà lúc này thì bà cũng chẳng còn khả năng nếm nó. Chỉ có thính giác của bà hoạt động với một độ nhạy cảm tuyệt vời. Bà nghe thấy tiếng những con bọ cánh cứng đang bò trên những bức tường phía sau lưng mình, tiếng chút chít của một con chuột đang nghiến gỗ ở đâu đó trên cao, tiếng một tập đoàn mối đang nhai trệu trạo những thanh ván lót sàn. Bà cũng nghe thấy hai giọng nói, cao và mỏng, giống như thể chúng đang phát ra từ một cái radio bị nhòe sóng và vọng tới từ một nơi rất xa. Bà nghe thấy tiếng gió rít, tiếng áo quần bay sột soạt, tiếng chim ré lên ầm ĩ. Bà biết rằng tất cả âm thanh mình đang nghe đều đang diễn ra trên mái của tòa nhà. Những tiếng nói nghe mạnh mẽ và líu lo như chim hót, và rồi đột nhiên chúng vang lên rất rõ ràng: đó chính là giọng của Dee và Morrigan, và Perry có thể nghe thấy rõ ràng nỗi sợ hãi trong giọng nói của gã đàn ông xám ngoét và sự giận dữ thịnh nộ trong tiếng kêu the thé của Nữ thần Quạ.
“Mụ ta phải trả giá về việc đó! Mụ ta phải trả giá!”
“Mụ ta là một Elder. Và những ai giống như tôi và như bà đều không thể chạm được vào bà ta,” Dee nói, cố gắng trấn an Morrigan một cách không thành công.
“Không có ai là bất khả xâm phạm. Mụ ta đã nhúng mũi vào những nơi mà chẳng ai cần đến sự có mặt của mụ. Những sinh vật của tôi gần như đã tràn ngập chiếc xe thì Cơn Gió ma của mụ thổi chúng đi xa.”
“Flamel, nữ chiến binh Scathach và hai con người đi cùng chúng nay đã biến mất,” giọng nói của Dee vọng lại và Perry cau mặt, tập trung cao độ để cố gắng nghe được từng lời của hắn. Bà vui mừng phát hiện ra là Nicholas đã có sự giúp đỡ của Scathach: một đồng minh mạnh mẽ dữ dội. “Như thể là bọn chúng đã biến mất khỏi bề mặt của Trái đất vậy.”
“Dĩ nhiên là bọn chúng đã biến khỏi bề mặt Trái đất,” Morrigan rít lên. “Ông ta đã kéo bọn chúng vào nấp trong Vương quốc Bóng tối của Hekate rồi.”
Perry gật đầu một cách vô thức. Tất nhiên! Nicholas còn biết đi đến nơi đâu nữa? Vương quốc Bóng tối của Hekate ở Thung lũng Mill là gần nhất và trong khi nhân vật Elder này không phải là bạn của vợ trồng Flamel thì bà ta cũng chẳng hề là đồng minh với Dee và bè lũ Elder Đen tối của hắn.
“Chúng ta phải đi theo bọn chúng,” Morrigan nói dứt khoát.
“Không thể được,” Dee lập luận. “Tôi không có những kỹ năng hay năng lượng để xâm nhập lãnh địa của Hekate.” Hắn ngừng lại vài giây, rồi nói tiếp, “Bà không thể vào đó. Hekate là Elder Thế hệ Đầu tiên, bà thuộc về Thế hệ Kế tiếp.”
“Nhưng mụ ta không phải là Elder duy nhất của vùng bờ biển tây.” Giọng nói của Morrigan vang lên đắc thắng.
“Bà muốn đề nghị chuyện gì?” Giọng của Dee đã nhuốm mùi sợ hãi với trọng âm phảng phất giọng Anh nguyên thủy của hắn.
“Tôi biết nơi mà Bastet ngủ.”
[center:grhbaj5z]++++++++++++++++++[/center:grhbaj5z]
Perenelle Flamel ngồi dựa lưng vào bức tường đá lạnh lẽo và thả lỏng cho các giác quan của mình trở lại bình thường. Những cảm giác trở lại đầu tiên: những mũi nhọn nhói buốt như kim châm chạy dọc theo các ngón tay và ngón chân bà, rồi đến khả năng ngửi mùi,và cuối cùng là thị giác. Perry hâp háy mắt, chờ đợi những đốm nhỏ sặc sỡ mờ dần và cố cắt nghĩa những gì bà vừa nghe được.
Những ý đồ nghe thật kinh khủng. Morrigan chuẩn bị đánh thức Bastet và tấn công Vương quốc Bóng tối của Hekate để đoạt lại những trang giấy bị xé rời của cuốn Codex.
Perry rùng mình. Bà chưa bao giờ gặp Bastet - bà cũng không hề bất kỳ ai trong suốt ba thế kỷ qua hay những ai còn sống sót có thể kể lại câu chuyện về Bastet cho bà - nhưng bà đã biết đến tiếng tăm vang dội của bà ta. Là một trong những nhân vật mạnh mẽ nhất của Giống loài Elder, Bastet đã được người Ai Cập thờ cúng từ những ngày sớm sủa nhất trong lịch sử loài người. Bà ta có cơ thể của một phụ nữ trẻ xinh đẹp với một cái đầu mèo, và Perry hoàn toàn không biết gì về những ma thuật dữ dằn mà bà ta nắm giữ.
Những sự kiện đã nối tiếp nhau nhanh chóng và đầy ngạc nhiên. Một chuyện gì đó thật vĩ đại đã xảy ra. Rất nhiều năm trước, khi Nicholas và Perry chỉ vừa mới khám phá ra bí mật của sự bất tử, họ nhận thức được rằng đời sống trường tồn cho phép họ nhìn ngắm thế giới trong một tấm nhìn hoàn toàn khác. Họ không còn lên kế hoạch cho các sự kiện theo ngày hay theo tuần mà thường lên kế hoạch trước cả nhiều thập kỷ để hướng đến tương lai. Perry đã hiểu rằng Giống loài Elder với đời sống lâu dài hơn vợ chồng bà rất nhiều, có thể lập ra những kế hoạch cần đến hàng thế kỷ để hoàn thành. Và điều đó có nghĩ là những sự kiện đã trôi qua với một tốc độ hết sức chậm chạp.
Nhưng bây giờ thì Morrigan đã tung hoành trở lại. Lần gần đây nhất mà bà ta xuất hiện trong Thế giới con người đó là khi bà ta chìm trong những đường rãnh đầy bùn của Somme, trước khi lảng vảng quanh những địa hạt đẫm máu của cuộc nội chiến Mỹ. Nữ thần Quạ có sức quyến rũ đối với sự hủy diệt và chết chóc, chúng bao quanh bà ta với một mùi hôi thối nồng nặc. Bà ta cũng là một trong số các Elder tin rằng con người có mặt trên Trái đất này là để phục vụ cho Giống loài Elder.
Nicholas và cặp sinh đôi đã được an toàn trong Vương quốc Bóng tối của Hekate, nhưng sẽ trong bao lâu? Baset là Elder thuốc Thế hệ Đầu tiên. Năng lực của bà ta ít nhất là mạnh ngang ngửa với Hekate…và nếu như Nữ thần Mèo và Nữ thần Quạ, cùng với ma thuật giả kim của Dee, tấn công Hekate, liệu bà ấy có thể chống đỡ nổi? Perry không biết được.
Và còn Nicholas, Scathach và cặp sinh đôi nữa, họ sẽ ra sao?
Perenelle cảm thấy những giọt lệ trực trào lên nơi khóe mắt, nhưng bà chớp mắt để xua tan chúng. Nicholas sẽ tròn sáu trăm bảy mươi bảy tuổi vào ngày 28 tháng Chín tới, tức là trong vòng ba tháng nữa. Ông thừa sức để chăm sóc chính mình, mặc dù khả năng làm chủ những câu thần chú thiết thực của ông rất hạn chế, chưa kể đến việc ông đã nhiều lần quên khuấy chúng đi. Hè vừa rồi, ông đã quên mất cách nói tiếng Anh và quay trở lại với thứ tiếng Pháp cổ xưa nguyên thủy của mình. Perry đã mất gần cả tháng trời để hướng dẫn ông quay trở lại nói tiếng Anh thông suốt. Trước đó ông còn có suốt một thời gian toàn ký các tấm séc của mình bằng tiếng Hy Lạp và Syria. Đôi môi của Perenlle khẽ mỉm cười. Ông ấy có thể nói trôi chảy mười sáu thứ tiếng và có thêm mười thứ tiếng khác nữa mà ông nói không rành lắm. Ông có thể đọc và viết bằng hai mươi hai thứ tiếng trong số đó - mặc dù ông không có nhiều cơ hội để thực hành các ngôn ngữ toàn học cổ, chữ hình nêm (như chữ Ba Tư xưa) hay chứ tượng hình.
Bà tự hỏi không biết bây giờ ông đang làm gì. Ông đang tìm kiếm bà, tất nhiên, nhưng ông cũng sẽ phải bảo vệ cặp sinh đôi và những trang giấy mà Josh đã xé ra từ cuốn Codex. Bà cần phải gởi một lời nhắn đến ông, bà cần phải nói cho ông biết là bà vẫn ổn và báo cho ông biết về những hiểm nguy mà họ phải đối đầu.
Một trong những quà tặng sớm sủa nhất mà người phụ nữ trẻ Perenelle Delamere khám phá được ngay từ khi cô lớn lên đó là khả năng trò chuyện với những hồn ma. Năm lên bảy tuổi, cô nhận ra rằng không phải ai cũng có thể nhìn thấy những hình ảnh đen trắng chập chờn mà cô thường trông thấy mỗi ngày. Trong đêm sinh nhật lần thứ bảy, bà ngoại mà cô yêu quý, Mamom, đã chết. Perenelle nhìn thấy người ta nhấc bổng cơ thể bé nhỏ của bà ra khỏi chiếc giường mà bà nằm trên đó suốt trong mười năm cuối cùng của đời mình và đặt bà vào trong quan tài. Cô gái nhỏ đã tuân theo những nghi lễ mai táng của thị trấn nhỏ của Quimber và đi theo chiếc quan tài ra tận nghĩa địa nhìn về biển cả. Cô đã chứng kiến cảnh chiếc quan tài nhỏ được hạ xuống huyệt mộ chìm sâu trong lòng đất và rồi cô quay trở về nhà.
Và bà ngoại vẫn đang ngồi trên giường, đôi mắt sáng lên tia nhìn hóm hỉnh như thường lệ. Nét khác biệt duy nhất đó là Perenelle không thể nhìn thấy bà ngoại của mình một cách rõ ràng như trước nữa. Hình ảnh của bà không có màu sắc gì - tất cả chỉ có hai màu đen và trắng - và hình ảnh bà cứ đung đưa, chập chờn lay động trong tầm mắt.
Vào giây phút đó Perenelle khám phá ra rằng cô có thể nhìn thấy ma. Và khi bà ngoại quay về phía cô mỉm cười, cô biết rằng ma cũng có thể nhìn thấy cô.
Ngồi im trong căn phòng nhỏ hẹp không có cửa sổ, Perenelle duỗi thẳng chân ra phía trước mặt và chống cả hai tay lên sàn xi măng lạnh lẽo. Rất nhiều năm qua bà đã triển khai một chuỗi các hàng rào bảo vệ tránh sự xâm nhập không hề mong muốn từ các hồn ma. Nếu có một điều sớm sủa nhất mà bà biết được về mà - đặc biệt là các ma già - thì đó chính là bọn hồn ma rất thô lỗ và thường xộc đến trong những khoảnh khắc không thích hợp. không hề “đúng nơi đúng lúc” và cực kỳ đường đột. Hồn ma rất thích nhà vệ sinh - đó là nơi chốn lý tưởng cho bọn họ: im lặng và yên tĩnh, với rất nhiều bề mặt phản chiếu. Perenelle nhớ lại một lần nọ khi bà đang đánh răng thì hồn ma của một vị Tổng thống Mỹ bỗng nhiên xuất hiện ngay trong tấm gương trước mắt bà. Suýt chút nữa là bà nuốt chửng chiếc bàn chải răng của mình.
Perenelle cũng sớm biết được rằng ma không thể trông thấy một số màu sắc nhất định - như màu xanh da trời, xanh lá cây và một vài sắc thái khác nhau của màu vàng. Thế là bà cố ý dùng những màu đó trong luồng điện của mình và cẩn thận tạo ra một lớp khiên che chắn khiến cho bà trở nên vô hình trong Vương quốc Bóng tối đầy ắp những hồn ma.
Mở mắt thật lớn, Perenelle tập trung vào việc điều khiển luồng điện của chính mình. Màu tự nhiên của luồng điện của bà là màu trắng tuyết có vai trò như một ngọn đèn hiệu thu hút các hồn ma về phía bà. Thế nhưng bên trên nó, như những lớp sơn, bà đã tạo ra những luồng sáng màu xanh da trời, ngọc lục bảo, vàng nhạt hoa anh thảo. Từng bước một Perenelle tắt đi những lớp màu cải trang- đầu tiên là mầu vàng, rồi đến xanh lá cây, rồi cuối cùng là hàng rào bảo vệ màu xanh da trời.
Bọn ma ùa đến ngay lập tức, như bầy bướm đêm lao vào ngọn lửa. Họ lập lòe xung quanh Perenelle: đàn ông, đàn bà và trẻ nít, mặc những trang phục xuyên suốt qua hàng thập kỷ. Đôi mắt màu xanh lục của Perenelle lướt qua từng hình ảnh lấp lánh đó, không biết chắc là mình đang tìm kiếm điều gì. Bà đã bỏ qua những phụ nữ và những cô gái mặc chiếc váy dài tha thướt của Thế kỷ Mười tám và những người đàn ông mang giày bốt cùng thắt lưng nhà binh của Thế kỷ Mười chín, và tập trung vào những hồn mà mặc trang phục của Thế kỷ Hai mươi. Cuối cùng bà quyết định chọn một người đàn ông đứng tuổi mặc trang phục bảo vệ trông có vẻ hiện đại. Nhẹ nhàng gạt những hồn ma khác sang một bên, bà ra hiệu cho hồn ma bảo vệ đến gần mình.
Perenelle biết là con người - đặc biệt là người trong những xã hội hiện đại và tinh tế - thường rất sợ ma. Nhưng bà hiểu rằng chẳng có lý do gì để sợ ma cả: một con ma cũng giống như tàn dư của luồng điện của một con người tiếp tục gắn liền với một nơi chốn nào đó. Chẳng có gì hơn nữa.
“Tôi có thể giúp gì được cho bà?” giọng nói của hồn ma nghe mạnh mẽ với ngữ điệu phảng phất âm hưởng của vùng bờ biển phía đông, có lẽ hồn ma đến từ Boston. Đứng thẳng và cao dong dỏng, như một người lính già, hồn ma trông khoảng sáu mươi tuổi mặc dù có thể ông ta lớn tuổi hơn.
“Ông có thể cho tôi biết là tôi đang ở đâu hay không?” Perenelle hỏi.
“Bà đang ở trong tầng hầm trụ sở chính của công ty Enoch, nằm về phía tây của Đồi Telegraph. Tháp Coit ở ngay trên đầu chúng ta đây,” ông ta nói thêm một cách tự hào.
“Có vẻ như ông rất chắc chắn.”
“Tất nhiên rồi. Tôi đã làm việc ở đây trong suốt ba mươi năm. Dĩ nhiên không phải luôn luôn cho công ty Enoch. Nhưng những nơi như thế này luôn luôn cần nhân viên bảo vệ. Chưa từng có ai đột nhập trong suốt thời gian tôi làm việc,” ông giới thiệu về mình cho bà nghe.
“Đó là cả một thành tích rất đáng tự hào, ông….”
“Hẳn nhiên.” Hồn ma ngừng lại, hình ảnh của ông ta lay động một cách lung tung. “Miller. Đó là tên tôi. Jefferson Miller. Đã khá lâu kể từ khi có ai đó hỏi tên tôi. Tôi có thể giúp gì được cho bà?” ông ta hỏi.
“Ồ, ông đã giúp tôi rất nhiều rồi. Ít ra tôi cũng đã biết là mình vẫn còn đang ở San Francisco.”
Hồn ma tiếp tục nhìn bà. “Bà không mong đợi là mình sẽ ở San Francisco hay sao?”
“Tôi nghĩ là tôi có thể ngủ nhiều trước đó. Tôi sợ là mình có thể đã bị đưa ra xa bên ngoài thành phố,” bà giải thích.
“Có phải bà đang nỗ lực chống lại một điều gì đó?”
“Đúng vậy.”
Jefferson Miller nhích đến gần hơn. “Ồ, chuyện thật tệ.” Ông ta im lặng một lúc trước khi hình bóng ông ta đu đưa lay động trở lại. “Nhưng tôi e là mình không thể giúp bà được - Tôi chỉ là một con ma, bà thấy đó.”
Perenelle gật đầu. “Tôi biết điều đó.” Bà mỉm cười. “Tôi chỉ không chắc rằng ông biết điều đó.” Bà biết rằng một trong những lý do khiến nhiều con ma tiếp tục ở lại một số nơi chốn nhất định nào đó vì chúng đơn giản không hề biết mình đã chết.
Người bảo vệ già phá lên cười. “Tôi đã cố gắng rời khỏi nơi đây…nhưng có một điều gì đó cứ níu kéo tôi ở lại. Có lẽ tôi đã trải qua quá nhiều thời gian ở đây khi còn sống.”
Perenelle lại gật đầu. “Tôi có thể giúp ông rời khỏi nơi đây, nếu như ông muốn. Tôi có thể làm điều đó cho ông.”
Jefferson Miller cũng gật đầu. “Tôi nghĩ là mình rất thích rời khỏi nơi này. Vợ tôi, Ethel, đã chết trước tôi mười năm. Đôi khi tôi nghĩ là tôi nghe thấy tiếng của bà ấy, kêu gọi tôi đến với Vương quốc Bóng tối.”
Perenelle gật đầu. “Bà ấy đang cố gọi ông về nhà. Tôi có thể giúp ông cắt đứt những sợi dây ràng buộc khiến ông cứ ở mãi nơi đây.”
“Tôi có thể làm gì cho bà để đáp lại điều đó?”
Perenelle mỉm cười. “Ồ có một điều….có lẽ ông có thể giúp chuyển một thông điệp nhỏ đến với chồng tôi.”
Dạ Phong
20-11-2010, 04:52 AM
Chương 17
Sophie và Josh theo chân Scathach đi vòng quanh ngôi nhà của Hekate. Có rất nhiều thứ ở tất cả mọi nơi nhắc nhở rằng chúng đang ở trong một cái cây: tất cả mọi thứ - sàn nhà, những bức tường và trần nhà - đều làm bằng gỗ và, ở nhiều nơi, nhiều nhánh chồi lộc và lá xanh mọc lốm đốm trên những vách tường như thể cây gỗ này vẫn đang phát triển.
Với một bàn tay đặt nhẹ lên vai em trai, Sophie đưa mắt nhìn quanh. Dường như ngôi nhà được thiết kế bao gồm một loạt các căn phòng hình tròn kết nối với nhau một cách khó có thể nhận biết. Cô thoáng nhìn thấy cảnh tượng bên trong các căn phòng khi họ đi ngang qua chúng; hầu hết các căn phòng đều để trống, không trang trí gì và phần lớn các căn phòng đều có cái cây to vỏ đỏ vươn ngọn lên cao từ chính giữa phòng. Một căn phòng, nằm hơi riêng biệt và rộng hơn nhiều so với các căn phòng còn lại, có một cái hồ hình bầu dục lớn nằm ngay giữa sàn nhà. Những bông hoa súng trắng to lớn đến sững sờ mọc thành cụm ở trung tâm của cái hồ, tạo cho nó dáng vẻ của một con mắt khổng lồ không hề nhấp nháy. Một căn phòng khác dày đặc những chiếc chuông gió bằng gỗ đu đưa lủng lẳng trên những cành nhánh của cái cây vỏ đỏ. Mỗi bộ chuông gió có kích thước và hình dạng khác nhau, một số được chạm khắc thành hình những biểu tượng trong khi một số khác trông rất mộc mạc và không hề được tô điểm. Chúng yên lặng và bất động cho đến khi Sophie nhìn vào phòng và những chiếc chuông bắt đầu rung lên leng keng một cách chậm rãi và du dương. Nghe như những lời thì thầm xa vắng. Sophie siết chặt vai Josh, cố gắng thu hút sự chú ý của cậu, nhưng Josh đang chăm chú nhìn về phía trước, trán nhăn lại vì tập trung cao độ.
“Mọi người đâu cả rồi?” Cuối cùng thì Josh cũng lên tiếng.
“Chỉ có mỗi mình Hekate thôi,” Scathach nói. “Giống loài Elder là những sinh vật sống ẩn dật.”
“Có nhiều Elder còn sống hay không?” Sophie thắc mắc.
Scathach dừng lại nơi một cánh cửa mở ngỏ và nhìn qua vai mình ra sau. “Nhiều hơn là em nghĩ. Phần lớn họ không muốn dính líu gì đến loài người và hiếm khi ra khỏi Vương quốc Bóng tối của riêng họ. Một số khác như loài Elder Đen tối, muốn quay trở lại thời kỳ xưa cũ và họ làm việc thông qua những đại lý như Dee để nhằm khôi phục lại ngôi vị bá chủ như ngày xưa.”
“Còn chị thì sao?” Josh hỏi. “Chị có muốn trở lại những ngày tháng xưa cũ đó không?”
“Tôi chưa bao giờ nghĩ cái lối cũ đó là cái gì ghê gớm,” cô nói, và rồi thêm vào, “đặc biệt là đối với con người.”
[center:3ky3bfsf]++++++++++++++++++[/center:3ky3bfsf]
Họ tìm thấy Nicholas Fleming đang ngồi trên một sàn gỗ đắp nổi trên một cành cây. Cành cây ngày mọc ngang ra từ thân cây, có chiều ngang phải đến ba mét và đâm nghiêng về dưới mặt đất gần với một cái hồ hình bán nguyệt. Đi băng ngang qua cành cây, Sophie liếc nhìn xuống dưới và giật mình khi cô nhìn thấy những khuôn mặt nhỏ bé rất giống mặt người đang thò lên với những cái miệng và đôi mắt mở to ngay phía dưới những nhánh rong rêu xanh lục và đang vặn mình uốn éo trên mặt hồ. Có năm chiếc ghế lưng cao được xếp xung quanh một chiếc bàn tròn. Trên bàn đã dọn sắn những cái chén chạm khắc tuyệt đẹp bằng gỗ cũng như ly cốc gỗ trông rất thanh nhã. Những lát bánh mì nóng giòn cắt thô và những lát pho mát dày được xếp trong các đĩa phẳng bằng gỗ. Và còn có thêm hai tô lớn đựng đầy trái cây - táo, cam, và những trái anh đào chín mọng - đặt ngay chính giữa bàn. Nhà Giả kim đang cẩn thận cắt vỏ một trái táo màu xanh ngọc lục bảo bằng một mảnh đá đen hình tam giác trông giống như đầu một mũi tên. Sophie để ý thấy ông đã sắp xếp lớp vỏ xanh theo những thứ tự như những con chữ.
Scatty ngồi vào chiếc ghế bên cạnh Nhà Giả kim “Hekate không xuống ăn với chúng ta sao?” cô hỏi, nhặt lấy một mảnh vỏ trái cây và nhai ngấu nghiến.
“Tôi tin là bà ấy đang thay quần áo để ăn tối,” Flamel nói, tay cắt thêm một mảnh vỏ cong để thay thế cho mảnh vỏ mà Scatty đã nhai. Ông nhìn sang Sophie và Josh. “Ngồi xuống đi. Bà chủ nhà của chúng ta sẽ xuất hiện trong giây lát để tham dự bữa tối và khi đó chúng ta sẽ ăn. Hai cháu chắc hẳn đang kiệt sức,” ông nói tiếp.
“Cháu mệt quá,” Sophie thừa nhận. Cô đã bắt đầu nhận thấy sự suy kiệt sớm hơn trước đó và bây giờ cô khó có thể mở mắt. Cô cũng hơi sợ hãi, nhận ra rằng chính việc ma thuật nơi ngôi nhà hút cạn năng lượng của cô là nguyên nhân gây ra sự mệt mỏi đó.
“Khi nào thì tụi cháu có thể về nhà?” Josh hỏi, miễn cưỡng thừa nhận là cậu cũng đang dần kiệt sức. Ngay cả những chiếc xương của cậu cũng đau nhừ. Cậu có cảm giác như cậu đang suy sụp bởi một cơn cảm lạnh.
Nicholas Flamel cắt một lát nhỏ từ trái táo và đút nó vào miệng mình. “Chú e là hai cháu sẽ không thể về nhà ngay được.”
“Tại sao lại không?” Josh hỏi.
Flamel thở dài. Ông đặt viên đá hình đầu mũi tên và trái táo xuống và đặt cả hai bàn tay lên trên bàn. “Bởi vì ngay lúc này đây, cả Dee và Morrigan đều không biết hai đứa là ai. Vì thế, cả hai cùng gia đình mình đều được an toàn.”
“Gia đình của tụi cháu?” Sophie hỏi. Ý nghĩ đột ngột là cả cha và mẹ của cô có thể gặp nguy hiểm làm cô cảm thấy nôn nao. Josh phản ứng với vẻ choáng váng tương tự, đôi môi cậu mím chặt lại thành một đường mỏng trắng nhợt.
“Dee sẽ hành động thật rốt ráo,” Flamel nói. “Hắn đang cố sức bảo vệ một bí mật tầm cỡ thiên niên kỷ và hắn sẽ không dừng lại ở chỗ giết chết hai đứa. Tất cả những ai mà hai cháu biết, hay từng liên lạc, sẽ gặp tai nạn. Chú có thể mạo muội đoán rằng ngay chính tiệm Tách Cà phê của Bernice cũng sẽ bị vùi xuống đất đen…đơn giản chỉ vì cháu đã từng làm việc trong đó. Ngay cả Bernice cũng có thể bị thiêu cháy trong đống lửa.”
“Nhưng bà ấy không hề biết bất cứ điều gì,” Sophie phản bác lại trong nỗi kinh hoàng.
“Đúng, nhưng Dee đâu có biết điều đó. Hắn cũng chẳng quan tâm. Giờ đây hắn đã làm việc với những Elder Đen tối và hắn xem con người cũng như cách Elder Đen tối nhìn nhận họ: chỉ hơn loài thú vật một chút mà thôi.”
“Nhưng tụi cháu sẽ không nói cho bất cứ ai những gì mà tụi cháu đã nhìn thấy….” Josh bắt đầu, “và cũng chẳng có ai có thể tin tụi cháu, dù thế nào đi nữa….”
“Và nếu tụi cháu k nói cho ai biết, thì sẽ chẳng có ai biết được về những gì mà tụi cháu nhìn thấy,” Sophie nói. “Tụi cháu sẽ không bao giờ nói đến điều này nữa. Dee sẽ không bao giờ tìm ra tụi cháu.” Nhưng ngay cả khi đang nói, cô cũng bắt đầu nhận ra rằng tình trạng thật vô vọng. Cô và Josh đều đang bị mắc kẹt bởi những hiểu biết về sự tồn tại của cuốn Codex giống như Nicholas và Perry đã bị mắc kẹt.
“Hắn sẽ tìm ra tụi cháu,” Flamel nói một cách hợp lý. Ông liếc nhìn nữ chiến binh. “Theo cô thì Dee hay một trong những tên gián điệp của Morrigan sẽ mất bao lâu nữa để tìm ra hai đứa bé?”
“Không lâu nữa đâu,” cô nói, nhai trái táo tóp tép. “Có thể chỉ trong vài tiếng đồng hồ nữa. Những con chuột hay chim có thể sẽ lần dò theo hai đứa, rồi Dee sẽ đi săn tìm cả hai.”
“Một khi đã được ma thuật chạm đến, hai cháu sẽ thay đổi mãi mãi.” Flamel đưa tay phải lên giữa không khí, để lại một vệt khói mỏng màu xanh lá cây bay lững lờ giữa không trung. “Hai cháu đã để lại dấu vết - một vệt dài.” Ông thổi vào làn khói xanh lá cây và nó cuộn tròn ra xa rồi biến mất.
“Có phải ý của chú là tụi cháu có mùi không?” Josh hỏi.
Flamel gật đầu. “Mùi của ma thuật hoang sơ. Hai cháu đã ngửi thấy một làn hơi vào lúc nãy khi Hekate chạm vào hai đứa. Khi đó cháu đã ngửi thấy mùi gì vậy?”
“Những trái cam,” Josh nói.
“Kem,” Sophie trả lời.
“Và trước đó nữa, khi chú và Dee đánh nhau: hai cháu đã ngửi thấy mùi gì?”
“Bạc hà và trứng thối,” Josh nói ngay lập tức.
“Mỗi phù thủy đều có mùi đặc trưng của họ; như là một dấu ấn riêng biệt. Hai cháu phải học cách lưu ý đến các giác quan của mình. Con người tui có sử dụng đến chúng nhưng không được bao nhiêu. Họ ít khi quan sát, hiếm khi lắng nghe, họ không bao giờ ngửi và họ nghĩ rằng họ chỉ có thể trải nghiệm cảm xúc thông qua làn da. Nhưng họ nói, ồ, họ nói rất nhiều. Chính điều đó là để khỏa lấp cho sự thiếu sử dụng các chức năng còn lại. Khi trở lại với thế giới của mình, hai cháu sẽ có khả năng nhận biết những người có năng lượng ma thuật trong chính họ.” Ông cắt một miếng táo vuông vức và bỏ gọn vào miệng. “Cháu có thể ngửi thấy một mùi đặc biệt, cháu thậm chí có thể nếm nó hoặc nhìn thấy nó tỏa sáng lung linh quanh cơ thể họ.”
“Nó sẽ tồn tại được bao lâu?” Sophie hỏi tò mò. Cô với tay lấy một trái anh đào. Nó có kích thước bằng một trái cà chua nhỏ. “Nó có phai mờ đi không?”
Flamel lắc đầu. “Nó sẽ không bao giờ mờ đi. Ngược lạ, nó sẽ ngày càng mạnh hơn. Cháu sẽ phải nhận ra rằng chẳng có ai là như trước đối với cả hai tụi cháu kể từ ngày hôm nay trở đi.”
Josh cắn một miếng táo nghe giòn tan. Những giọt nước táo màu trắng chảy xuống cằm cậu. “Nghe cách chú nói thì sự “chẳng còn như trước” có vẻ là một chuyện tồi tệ,” Josh nói với nụ cười toe toét. Cậu lấy lưng ống tay áo lau sạch miệng.
Flamel sắp sửa trả lời thì ông chợt ngước nhìn lên và đột ngột đứng dậy. Scathach cũng đứng lên một cách uyển chuyển và lặng lẽ. Sophie đứng bật dậy nhưng Josh vẫn tiếp tục ngồi cho đến khi Sophie nắm lấy vai cậu và kéo cậu đứng lên. Rồi cô quay nhìn về phía Nữ thần Ba mặt.
Đó không phải là Hekate.
Người phụ nữ cô nhìn thấy hồi chiều khá cao và thanh nhã, có lẽ là ở độ tuổi trung niên với mái tóc màu bạc cắt ngắn như một chiếc mũ khít khao ở trên đầu, và làn da đen của bà ta mịn màng chẳng hề có lấy một nếp nhăn nào. Người đàn bà vừa vào phòng đây trông già hơn rất nhiều. Những nét tương đồng của Hekate vẫn còn đó, và Sophie đoán có lẽ bà ta chính là mẹ hay bà ngoại của Hekate. Mặc dù bà trông vẫn cao, bà cúi gập người về phía trước với một cây gậy chạm trổ công phu với chiều cao tương đương người bà và dùng cây gậy đó để đi băng qua các cành cây. Khuôn mặt bà có nhiều nếp nhăn li ti, đôi mắt lõm sâu và sáng lấp lánh những tia vàng kỳ lạ. Bà hói hoàn toàn và Sophie có thể nhìn thấy hình xăm xoắn ốc phức tạp được khắc lên da đầu của bà. Mặc dù bà mặc một chiếc váy tương tự như chiếc váy mà Hekate mặc lúc chiều, bây giờ những sợi vải lấp lánh ánh kim có màu đỏ và đen rung rinh theo từng cử động của bà.
Sophie chớp mắt, dụi mắt rồi lại chớp mắt lần nữa. Cô có thể nhìn thấy một quầng sáng nhẹ của luồng điện bao quanh người phụ nữ, giống như bà ta đang rỉ ra một lớp sương mù trắng bạc. Khi bà di chuyển, bà để lại những giọt trắng đó phía sau lưng mình.
Không để ý đến sự có mặt của bất cứ ai, bà ngồi xuống trên chiếc ghế đối diện với Nicholas Flamel. Chỉ khi bà đã ngồi xuống thì Flamel và Scathach mới ngồi. Sophie và Josh cũng ngồi xuống, hết nhìn Nicholas lại nhìn sang người đàn bà lạ, tự hỏi bà ta là ai và chuyện gì đang xảy ra.
Người đàn bà nâng chiếc ly gỗ trên bàn lên, nhưng không uống. Có tiếng sột soạt của những chuyển động trong thân cây phía sau bà và bốn chàng thanh niên cao, đầy cơ bắp xuất hiện với những cái khay đầy thức ăn trên tay. Họ đặt thức ăn vào chính giữa bàn và lặng lẽ lui ra. Các chàng trai trông rất giống nhau đến nỗi giữa họ như có mối quan hệ chặt chẽ nhưng điều làm hai đứa trẻ chú ý nhất chính là khuôn mặt họ: có một cái gì đó khác thường trên bề mặt và góc độ của đầu sọ. Trán họ đổ dốc xuống gần đôi mắt, mũi ngắn và bẹt, xương gò má nhô cao và cằm lẹm về phía sau. Hàm răng vàng lấp ló đằng sau đôi môi của họ. Những chàng trai đều để ngực trần và chân trần, họ chỉ mặc váy da đính những miếng kim loại hình chữ nhật. Và trên ngực, chân và đầu họ phủ một lớp lông thô màu đỏ.
Sophie đột nhiên nhận ra mình đang nhìn chằm chằm và vội đưa mắt sang phía khác. Những người đàn ông trông như thuộc giống người nguyên thủy, nhưng Sophie biết rất rõ sự khác biệt giữa giống Neanderthal và Cro-Magnon, và cha của cô còn có những sọ người bằng nhựa của giống Austrailpiticious, Peking và Great Apes trong công trình nghiên cứu của ông. Những người đàn ông này không thuộc bất kỳ nhóm nào trong các giống trên. Và rồi Sophie nhận thấy đôi mắt họ có màu xanh: xanh ngời sáng với sự thông minh lạ lùng.
“Họ chính là Torc Allta,” cô nói, và tê cứng người trong kinh ngạc khi tất cả mọi người quay lại nhìn cô. Cô không nhận ra rằng mình đã nói to lên ý nghĩ của mình.
Josh, từ nãy đến giờ đang mải nhìn một cách nghi ngờ một khoanh cá mà cậu dùng nĩa xiên lên từ một tô hầm, liếc về phía sau lưng bốn chàng thanh niên. “Em biết điều đó,” cậu nói tự nhiên.
Sophie đá chân cậu dưới gầm bàn. “Em đâu có biết gì. Em còn bận kiểm tra thức ăn mà. Lúc nào em cũng nghĩ đến cái dạ dày của mình trước.”
“Em đói bụng quá,” cậu nói, rồi chồm người về phía chị mình. “Chính những sợi lông màu đỏ và những chiếc mũi lợn đã nói lên tất cả,” cậu thì thầm. “Em nghĩ là chị nhận ra điều đó.”
“Sẽ là một sai lầm nếu để họ nghe hai cháu nói như vậy,” Nicholas Flamel cắt lời Josh một cách nhỏ nhẹ. “Cũng là một sai lầm khi dánh giá qua vẻ bề ngoài hay bình luận thoải mái về những gì mà hai cháu thấy. Trong lúc này, tại nơi đây, có những tiêu chuẩn khác, nguyên tắc khác được áp dụng. Ở nơi đây, từ ngữ có thể giết chết người - theo đúng nghĩa đen.”
“Hay làm cho em bị giết chết,” Scathach nói thêm. Cô đã gắp đầy rau vào đĩa của mình, chỉ có một số ít rau trong số đó là trông quen thuộc với chị em Sophie. Cô gật đầu theo hướng của cái cây. “Nhưng em đã nói đúng: họ chính là Torc Allta trong lốt người của họ. Có lẽ đó là những chiến binh giỏi nhất trong bất kỳ thời đại nào,” cô nói.
“Họ sẽ đi theo các bạn khi các bạn rời khỏi đây,” người phụ nữ lớn tuổi đột ngột nói, giọng của bà nghe mạnh mẽ một cách đáng kinh ngạc so với cơ thể mỏng manh của bà.
Flamel cúi chào. “Chúng tôi rất hân hạnh đón nhận sự hiện diện của họ.”
“Đừng nói vậy,” người đàn bà ngắt lời. “Họ sẽ không chỉ đi theo để bảo vệ các bạn mà còn để chắc chắn rằng các bạn thật sự đã rời khỏi lãnh địa của tôi.” Bà duỗi thẳng các ngón tay dài ra trên bàn và Sophie nhận thấy mỗi ngón tay của bà sơn theo mỗi màu khác nhau. Thật kỳ lạ, những hoa văn trông giống hệt như mẫu mà cô đã từng nhìn thấy trên móng tay của Hekate trước đó. “Các bạn không thể ở lại đây,” người đàn bà nói. “Các bạn phải đi thôi.”
Cặp sinh đôi nhìn nhau; tại sao bà ta lại tỏ ra thô lỗ như thế?
Scathach mở miệng, định nói, nhưng Flamel vươn người nắm lấy cánh tay cô. “Chúng tôi luôn có ý như vậy,” ông nói dịu dàng. Ánh mặt trời của buổi hoàng hôn xuyên qua cây lá rọi lấp lóa trên khuôn mặt ông, biến đôi mắt xanh lơ của ông thành những tấm gương. “Khi Dee tấn công cửa tiệm của tôi và đoạt lấy cuốn Codex, tôi nhận ra là mình không còn có nơi chốn nào để đi nữa.”
“Ông nên đi về hướng nam,” người đàn bà nói, váy của bà lúc này hầu như chuyển thành màu đen với những đường đỏ chảy như mạch máu. “Ông sẽ được chào đón hơn ở nơi đó. Tôi muốn ông rời khỏi nơi này.”
“Khi tôi nhận ra rằng lời tiên tri sắp thành hiện thực, tôi biết là tôi phải tìn đến bà,” Flamel tiếp tục, phớt lờ những lời bà vừa nói. Cặp sinh đôi, vẫn theo dõi sát sao cuộc đối thoại, để ý thấy đôi mắt của ông sáng lung linh.
Người đàn bà quay đầu lại và nhìn cặp sinh đôi với cặp mắt màu bơ. Khuôn mặt nhăn nheo của bà nở một nụ cười không chút hài hước để lộ hàm răng nhỏ màu vàng đều đặn. “Tôi đã từng nghĩ về điều đó; tôi tin rằng lời tiên tri không có ý nói đến con người - đặc biệt là những đứa trẻ con,” bà nói tiếp với một tiếng rít.
Có một sự khinh thường trong giọng nói của người đàn bà khiến cho Sophie bật lên tiếng. “Tôi ước rằng bà không nói về chúng tôi như thể là chúng tôi không có mặt nơi này,” cô nói.
“Bên cạnh đó,” Josh nói, “con gái bà sắp sửa giúp đỡ chúng tôi. Tại sao chúng ta không thử chờ đợi và để xem cô ấy nói gì.”
Người đàn bà lớn tuổi chớp mắt nhìn cậu bé và đôi lông mày gần như vô hình của bà nhướn lên trong một câu hỏi im lặng. “Con gái của tôi?”
Sophie thấy đôi mắt của Scathach mở lớn trong kinh ngạc hay để cảnh báo, nhưng Josh lại tiếp tục. “Đúng vậy, đó là người phụ nữ mà chúng tôi gặp hồi chiều. Người phụ nữ trẻ - có phải đó là con gái của bà? Hoặc có thể cô ta là cháu ngoại của bà? Cô ấy sẽ giúp chúng tôi.”
“Ta không có con gái hay cháu gái nào hết!” Chiếc váy của người đàn bà cao tuổi lóe lên màu đen và màu đỏ. Bà cắn chặt môi và bà tung ra một cử chỉ khó hiểu. Bàn tay của bà xòe ra những móng vuốt và không khí đột nhiên sực nức mùi chanh. Vô số những quả bóng nhỏ có màu xanh lục sáng tụ tập trên hai lòng bàn tay của bà.
Và rồi Scathach dùng một con dao găm đâm thẳng vào chính giữa chiếc bàn gỗ. Cái bàn bị xẻ ra làm đôi với một tiếng gãy răng rắc long trời làm bắn tung hàng trăm mảnh vụn lên không khí và những chén gỗ đựng thức ăn rơi vỡ tung tóe trên sàn nhà. Người đàn bà đáp trả với những ánh sáng xanh lá cây nhểu xuống từ các ngón tay bà như một thứ chất lỏng lênh láng. Nó chảy, kêu xèo xèo và xuyên qua cành cây trước khi chìm vào gỗ.
Bốn Torc Allta ngay lập tức đứng sau lưng người đàn bà, vung những thanh kiếm hình lưỡi hái lên cao, và thêm ba sinh vật trong lốt lợn lòi cũng nhảy xổ ra từ các bụi rậm và chạy băng qua các cành cây tới đứng ngay sau Flamel và Scatty.
Cặp sinh đôi cứng đờ vì sợ hãi, không biết chắc vì những gì đang xảy ra. Nicholas Flamel không động đậy, ông tiếp tục cắt và ăn táo. Scathach bình tĩnh thu lại dao găm và đứng khoanh tay trước ngực. Cô nói gì đó rất nhanh với người đàn bà. Sophie và Josh có thể nhìn thấy đôi môi của Scathach mấp máy, nhưng tất cả những gì chúng nghe được chỉ là những tiếng rì rầm như tiếng muỗi vo ve.
Bà già không trả lời gì cả. Khuôn mặt bà vô cảm khi bà đứng lên và bước ra xa khỏi chiếc bàn với những con Torc Allta vây quanh bảo vệ. Lần này cả Flamel lẫn Scathach đều không đứng lên.
Sau một khoảng im lặng kéo dài, Scathach cúi người gom lại những trái cây và rau bị rớt xuống sàn nhà, phủi bụi cho chúng và cho chúng vào chiếc chén gỗ duy nhất còn lành lặn. Cô bắt đầu ăn.
Josh sắp mở miệng để hỏi đúng câu hỏi mà Sophie cần nghe câu trả lời, nhưng cô với tay qua dưới gầm bàn và siết chặt cánh tay cậu, ra dấu im lặng. Cô để ý thấy rằng có một chuyện gì đó cực kỳ nguy hiểm vừa xảy ra, và đó là một chuyện mà Josh có dự phần vào đó.
“Tôi nghĩ là mọi chuyện đã ổn cả, phải không?” Sau cùng thì Scathach nói.
Flamel ăn xong trái táo và chùi cạnh của đầu mũi tên đen vào một cái lá. “Điều đó còn phụ thuộc vào việc cô định nghĩa “ổn” là thế nào,” ông nói.
Scathach nhai một củ cà rốt kêu rau ráu. “Chúng ta vẫn còn sống và chúng ta vẫn ở trong Vương quốc Bóng tối,” cô nói. “Chuyện có thể sẽ tồi tệ hơn. Mặt trời đang lặn. Bà chủ nhà của chúng ta sẽ đi ngủ và vào buổi sáng hôm sau, bà ta sẽ trở thành một người khác. Có thể bà ta sẽ không còn nhớ chút gì về những chuyện xảy ra chiều tối hôm nay.”
“Cô đã nói gì với bà ấy vậy?” Flamel hỏi. “Tôi chưa bao giờ thông thạo ngôn ngữ của Elder.”
“Đơn giản là nhắc nhở bà ấy về bổn phận lâu đời về lòng hiếu khách và hành vi không đáng kể vừa rồi của tôi là không hề cố ý và gây ra là do bất cẩn. Và do đó, không hề phạm tội nếu xét theo Luật lệ của Elder.”
“Bà ta thật đáng sợ…..” Flamel thì thầm, liếc nhìn về phía thân cây to lớn. Có thể nhìn thấy những Torc Allta khổng lồ đang di chuyển trong đó trong khi con lợn lòi bự nhất vẫn đang trấn giữ lối cửa ra vào.
“Bà ta luôn luôn đáng sợ khi màn đêm dần buông xuống. Đó là khi bà ta dễ thương tổn nhất,”Scathach nói.
“Sẽ rất tuyệt,” Sophie nói, “nếu như có ai đó nói cho tụi cháu biết một cách chính xác về những gì vừa xảy ra.” Cô rất ghét chuyện người lớn nói chuyện với nhau và phớt lờ sự có mặt của trẻ con ở đó. Và đó chính xác là những gì cô đang cảm thấy trong lúc này.
Scathach mỉm cười, và đột nhiên hàm răng ma cà rồng trông thật dài trong miệng của cô. “Cậu em sinh đôi của cô đã xoay xở để chọc giận một trong những nhân vật quyền lực nhất của Giống loài Elder và suýt chút nữa là bị biến thành chất lỏng màu xanh lục vì tội lỗi của mình.”
Josh lắc đầu. “Nhưng em có nói gì đâu…” cậu phản bác. Cậu nhìn chị gái mong nhận được sự ủng hộ trong khi nghĩ nhanh đến cuộc đối thoại vừa qua với người đàn bà lớn tuổi. “Tất cả những gì em nói đó là con gái hay cháu gái của bà ta đã hứa sẽ giúp đỡ chúng ta….”
Scathach phá lên cười. “Làm gì có con gái hay cháu gái. Người phụ nữ chững chạc mà hai chị em nhìn thấy chiều này chính là Hekate. Bà già mà hai em thấy tối nay cũng là Hekate, vào buổi sáng, hai em sẽ gặp một cô gái trẻ măng, đó cũng chính là Hekate nốt.”
“Nữ thần Ba mặt,” Flamel nhắc nhở hai đứa trẻ.
“Hekate bị một lời nguyền về tuổi tác trong một ngày. Trinh nữ vào buổi sáng, Mệnh phụ lúc ban chiều, Bà già khi tối đến. Bà ta cực kỳ nhạy cảm về tuổi tác của mình.”
Josh nuốt nước bọt một cách khó khăn. “Em đâu có biết…”
“Không có lý do gì mà em có thể biết được….chỉ trừ khi sự thiết hiểu biết của em đưa em đến cái chết hay kinh khủng hơn thế nữa.”
“Nhưng chị đã làm gì cái bàn?” Sophie hỏi. Cô nhìn chiếc bàn tròn nay đã bị phá hủy: nó bị bửa ra làm đôi ở ngay chính giữa, và Scatty hầu như chỉ chạm nhẹ tới nó với con dao găm. Mép gỗ nơi vết cắt trông khô nẻ và bẩn thỉu.
“Sắt”, Scatty nói đơn giản.
“Một trong những tác dụng phụ đầy ngạc nhiên của kim loại nhân tạo,” Flamel nói, “đó là khả năng vô hiệu hóa ngay cả loại ma thuật hùng mạnh nhất. Sự khám phá ra sắt thật sự đã đánh dấu hồi kết thúc của sức mạnh của Giống loài Elder trên thế giới này.” Ông cầm lấy đầu mũi tên đá đen. “Đó là lý do vì sao chú xài cái này đây. Elder họ cảm thấy hoảng sợ bồn chồn trước kim loại.”
“Nhưng chị đang mang theo kim loại trên người,” Sophie nói với Scatty.
“Tôi thuộc Thế hệ Kế tiếp - không phải Elder thế hệ đầu như Hekate. Tôi có thể chịu đựng được việc ở gần kim loại.”
Josh liếm đôi môi khô nứt. Cậu vẫn còn nhớ những chùm tia sáng màu xanh lục trong lòng bàn tay của Hekate. “Khi chị nói “biến thành chất lỏng màu xanh lục”, chị không có ý nói là…”
Scatty gật đầu “Chất nhờn xanh lục rất nhầy nhớt. Khá ghê tởm. Và chị hiểu rõ rằng nạn nhân thường giữ được trạng thái tỉnh táo một lúc.” Cô liếc nhìn Flamel. “Tôi không thể nhớ được người mới đây vượt qua một trong những Elder và vẫn còn sống. Ông có nhớ không?”
Flamel đứng lên. “Hãy hy vọng là bà ta không nhớ chút gì về buổi tối hôm nay vào sáng mai. Nghỉ ngơi chút đã,” ông nói với cặp sinh đôi, “ngày mai sẽ là một ngày dài đấy.”
“Tại sao?” Sophie và Josh đồng thanh hỏi.
“Bởi vì vào ngày mại, chú hy vọng là chú có thể thuyết phục Hekate đánh thức ma thuật tiềm năng trong hai cháu. Nếu hai cháu có cơ hội sống sót nào trong những ngày sắp tới, chú sẽ phải đào tạo các cháu thành những phù thủy.”
Dạ Phong
20-11-2010, 10:43 PM
Chương 18
Nicholas Flamel nhìn Sophie và Josh đi theo Scathach vào bên trong cái cây. Chỉ đến khi cánh cửa đã đóng sập lại sau lưng họ, đôi mắt không màu của ông mới để lộ ra nỗi lo lắng mà ông cảm thấy. Chuyện đã suýt đi đến hồi kết thúc: chỉ trong vòng một hay hai nhịp tim là Hekate có thể biến Josh thành thứ chất lỏng sủi bong bóng. Ông không biết chắc là liệu bà ta có chịu đào tạo cho Josh vào sáng mai khi bà ta trông tươi trẻ trong hình dáng của một thiếu nữ. Ông đã phải cho cặp sinh đôi tránh xa bà trước khi sự thiếu hiểu biết của chúng đem đến tai họa cho chúng.
Flamel đi ra xa khỏi cái bàn bị hư hỏng và bước dọc theo con đường ngoằn ngoèo dẫn xuống hồ. Ông đi qua những cành gỗ và bước vào một con đường không lát đá. Có vô số dấu vết in trên bùn - một số là dấu chân của lợn lòi, một số khác giống như dấu chân trần của con người… và một số khác giống như một sự pha trộn đầy tò mò giữa hai loại trên. Ông cũng biết là mình đã bị theo dõi và mỗi một cử chỉ của ông đều được những sinh vật mà ông không nhìn thấy theo sát. Và ông đoán rằng những con Torc Allta ít nhất cũng là những kẻ canh gác cho Hekate.
Cúi mình xuống mép nước, ông hít một hơi thật sâu và cho phép mình thư giãn trong chốc lát. Thật không sai khi nói rằng có lẽ đây là một trong những ngày nhiều sự kiện nhất trong cuộc đời lâu dài của ông và ông cảm thấy kiệt sức.
Ngay từ giây phút Dee bắt lấy Perry và cuốn Codex và cặp sinh đôi xuất hiện, Flamel hiểu rằng một trong những lời tiên tri đầu tiên mà ông đã đọc trong cuốn Codex năm trăm năm về trước đã bắt đầu thành hiện thực.
Hai mà chỉ một, và một là tất cả.
Cuốn Codex chứa đầy những thành ngữ bí ẩn cùng những cụm từ không thể cắt nghĩa rõ ràng. Phần lớn chúng liên quan đến sự tiêu vong của Danu Talis, quê hương cổ đại của Giống loài Elder, nhưng bên cạnh đó còn có thêm một loạt lời tiên tri nói về sự quay trở lại của các Elder Đen tối cùng tình trạng bị tiêu diệt và bị nô dịch của loài người.
Sẽ có một thời điểm khi mà Cuốn sách bị lấy đi….
Đúng, đó là một lời giải thích khá rành mạch.
Và người đàn ông phục vụ cho Nữ hoàng kết hợp với Quạ…
Lời tiên tri đã ám chỉ đến Tiến sĩ John Dee. Ông ta đã từng là pháp sư riêng của Nữ hoàng Elizabeth. Quạ chắc chắn là Nữ thần Quạ.
Lúc đó Elder sẽ bước ra khỏi vùng Bóng tối….
Flamel biết là Dee đã làm việc trong suốt hàng thế kỷ với bọn Elder Đen tối để khôi phục lại ngôi vị bá chủ của chúng. Ông cũng đã nghe nhiều thông tin không chính thức rằng ngày càng có nhiều Elder Đen tối rời bỏ những Vương quốc Bóng tối của mình để bắt đầu thám hiểm thế giới của loài người lần nữa.
Lúc đó kẻ bất tử phải rèn luyện cho kẻ không bất tử, và hai mà chỉ một, sẽ phải trở thành một là tất cả.
Ông chính là kẻ bất từ mà lời tiên tri đề cập tới. Ông chắc chắn về điều đó. Cặp sinh đôi - hai mà chỉ một - chính là kẻ không bất tử cần đến sự rèn luyện. Nhưng, ông không có cách lý giải nào về phần cuối của lời tiên tri: một là tất cả.
Sự đẩy đưa của hoàn cảnh đã đặt số phận của hai đứa trẻ vào trong tay ông và ông quyết rằng sẽ không gì có thể làm hại được chúng…..đặc biệt là giờ đây khi ông tin rằng chúng sẽ đóng vai trò quyết định cho cuộc chiến chống lại loài Elder Đen tối. Nicholas biết là mang Josh và Sophie đến với Nữ thần Ba mặt là một sự liều lĩnh không thể tưởng tượng được - đặc biệt là cũng với sự có mặt của Scathach. Mối hận thù của Nữ Chiến binh với Nữ thần này còn lâu đời hơn phần lớn các nền văn minh. Hekate cũng là một trong những Elder nguy hiểm nhất. Với sức mạnh kinh khủng, một trong số rất nhiều khả năng của bà ta đó là đánh thức năng lượng ma thuật có trong mọi sinh vật sống nào. Tuy nhiên, như nhiều Elder khác, sự trao đổi chất và biến hóa của bà ta gắn liền với chu kỳ của mặt trời hay mặt trăng. Bà ta già đi trong ngày, và thật sự “chết” khi mặt trời lặn, nhưng rồi lại tái sinh cùng với bình minh dưới hình dáng một cô gái trẻ. Đặc điểm này đã tác động và che phủ lên suy nghĩ của bà ta và đôi khi, như chuyện vừa xảy ra hồi nãy, “bà già Hekate” quên béng luôn lời hừa mà “mệnh phụ Hekate” đã đưa ra không lâu trước đó. Flamel hy vọng ông sẽ có thể thuyết phục được thiếu nữ Hekate vào sáng ngày mai và cô nàng sẽ đồng ý đánh thức ma thuật cực mạnh tiềm ẩn trong hai đứa trẻ.
Nhà Giả kim biết là tất cả mọi người đều có khả năng thực hiện ma thuật. Một khi đã được “khơi nguồn” để đến với cuộc sống, dòng suối ma thuật vốn tiềm ẩn vụt trở nên mạnh mẽ với những hợp âm riêng biệt. Thỉnh thoảng - rất hiếm khi xảy ra - ma thuật “phát tiết” nơi trẻ con, làm cho chúng đột nhiên bộc lộ những năng lượng phi thường, thường là khả năng ngoại cảm hay ngoại lực hay sự kết hợp của cả hai. Một số đứa trẻ nhận biết được những gì đang xảy ra với chúng và tìm cách kiểm soát năng lượng vô biên của mình, trong khi một số đứa trẻ khác không bao giờ nắm bắt hoàn toàn về điều kỳ diệu đó. Không được đào tạo và kiểm soát. Năng lượng ma thuật “hoang dại” này thường bắn ra thành những làn sóng từ cơ thể đứa trẻ vô tình, làm chuyển động những món đồ gỗ xung quanh chúng, xô ngã người khác xuống nền nhà, chọc thủng lỗ trên các bức tường và trần nhà. Tất cả nước hiện tượng này thường được mô tả như những gì thuộc về ma quỷ. Flamel biết rằng nếu như Hekate đánh thức năng lượng ma thuật có trong hai đứa trẻ sinh đôi, thì khi đó ông có thể sử dụng những gì ông đã học được trong suốt hơn năm trăm năm qua để phát triển và gia tăng các kỹ năng của chúng. Không những dạy cho chúng cách tự bảo vệ, ông còn có thể bắt đầu chuẩn bị cho chúng cách đối đầu với những gì đang rình rập phía trước.
Cúi người xuống sát hồ nước hình trăng lưỡi liềm, ông nhìn chăm chăm vào mặt nước nhuốm màu xanh lục. Những cây thủy sinh màu đỏ và trắng lay động ngay dưới mặt nước trong khi dưới sâu hơn là những khuôn mặt trông như mặt người nhô lên với những đôi mắt to trống rỗng và miệng đầy răng sắc nhọn như kim. Ông quyết định nhúng những ngón tay xuống nước.
Trong nhiều cuốn sách về ma thuật cổ đại luôn luôn có bốn yếu tố của ma thuật được nhắc đến: không khí và nước, đất và lửa. Nhưng sau khi trải qua hàng thế kỷ nghiên cứu ma thuật, Nicholas đã khám phá ra rằng thực sự có đến năm yếu tố thay vì bốn. Quyền lực thứ năm đó chính là Thời gian, yếu tố quan trọng nhất trong mọi ma thuật. Bọn Elder có thể điều khiển và làm chủ các yếu tố khác, nhưng bí mật của yếu tố thứ năm này chỉ được “bật mí” trong cuốn Codex …..và đó là một trong rất nhiều lý do khiến cho Dee, và phe Elder Đen tối mà hắn kết bè, rất muốn lấy được Cuốn sách đó. Khi sở hữu cuốn Codex trong tay, bọn chúng sẽ có thể học được cách làm chủ thời gian.
Cùng với Perenelle, Nicholas Flamel đã bỏ ra phần lớn thời gian trong cuộc đời trường thọ của mình để nghiên cứu về các yếu tố quyền lực này. Trong khi Perry tôi luyện các loại ma thuật khác nhau, Flamel đã chỉ tập trung đào sâu vào các công thức và địa lý có trong Cuốn sách. Tất cả những công thức này trở thành nền tảng cơ bản cho Thuật Giả kim vốn là một bộ môn khoa học. Nhờ các công thức, Flamel đã học được cách biến những kim loại cơ bản thành vàng, than đá thành kin cương, thế nhưng có rất ít ma thuật ở trong những thứ đó. Đúng vậy, đó là một công thức phức tạp và tuyệt diệu đòi hỏi hàng tháng trời chuẩn bị, thế nhưng quá trình chế biến diễn ra rất đơn giản. Một ngày nọ ông còn rất nghèo khổ - ngày hôm sau ông đã vụt trở nên giàu có vượt lên trên cả những giấc mơ hoang đường nhất của mình. Nghe theo lời khuyên của Perry, ông đã xây các bệnh viện, thiết lập các trại trẻ mồ côi và gây quỹ cho các trường học ở Paris, thành phố quê hương ông. Đó là những khoảng thời gian thật đẹp….không, còn hơn thế, đó là những khoảng thời gian thật tuyệt vời. Cuộc đời đơn giản hơn rất nhiều hồi ấy. Họ không hề biết gì đến Giống loài Elder cũng như không chút cố công tìm hiểu dù chỉ là phần nhỏ nhất của những kiến thức đen tối chứa trong cuốn Codex.
Trong những năm gần đây, Nicholas Flamel đối khi thức giấc vào những thời khắc yên tĩnh nhất của ban đêm với một ý nghĩ cứ quay cuồng trong đầu óc: nếu như hồi ấy ông biết những gì mà ông biết bây giờ về cuốn Codex, liệu ông có tiếp tục tập trung nghiên cứu sâu vào hòn đá Phù thủy? Con đường đó dần dà đã đẩy ông tới chỗ liên hệ với Giống loài Elder và đặc biệt là Elder Đen tối, và đó cũng chính là con đường dẫn dắt Tiến sĩ John Dee đến với cuộc đời ông. Nó cũng đã buộc Perry và ông phải tạo ra cái chết giả của hai vợ chồng và chạy trốn khỏi Paris và sau đó là cả nửa thiên niên kỷ sống trong trốn chạy và ẩn nấp. Nhưng việc nghiên cứu cuốn Codex cũng đã biến họ trở nên bất tử. Rất nhiều đêm câu trả lời của ông là “Có”: thậm chí ngay cả khi đã biết rõ những gì ông đã biết bây giờ, ông cũng sẽ vẫn tiếp tục con đường nghiên cứu và trở thành một Nhà Giả kim.
Thế nhưng cũng có những dịp hiếm hoi, như hôm nay, khi câu trả lời sẽ là “không”. Bây giờ ông đã mất Perenelle, có lẽ là cả mạng sống của hai đứa trẻ vô tội và cô nàng không - mấy - ngây - thơ Scathach - mặc dù cô ta không dễ dàng bị giết chết - và còn có thêm một cơ hội mà trong đó ông đã gây ra sự diệt vong của thế giới.
Nicholas Flamel cảm thấy lạnh người vì những ý nghĩ xô đến. Cuốn sách của Abraham chứa đầy những điều mà đầu tiên ông đã cho rằng đó chỉ là những câu chuyện, huyền thoại và thần thoại. Qua nhiều thế kỷ, các nghiên cứu của ông cho thấy tất cả các câu chuyện đều có thật, đều dựa trên những sự việc có thật, và những gì ông vốn tin là những huyền thoại hay truyện dân gian thực ra chính là những bản báo cáo đơn giản về những sự kiện và con người có thật.
Giống loài Elder đã luôn tồn tại.
Bọn họ là những sinh vật trông giống như con người - thỉnh thoảng - nhưng lại mang sức mạnh của thần linh. Họ đã thống trị trái đất mười nghìn năm trước khi những sinh vật mà họ gọi là con người xuất hiện trên trái đất. Những người nguyên thủy đầu tiên thờ phụng Giống loài Elder như những vị thần hay quỷ dữ. Qua nhiều thế hệ, con người đã tạo nên một hệ thống thần thoại và niềm tin dựa trên cá nhân hay tập hợp của nhiều Elder. Những nam thần và nữ thần của Hy Lạp và Ai Cập, của Sumeria và Indus, của Toltec và Celt, đều tồn tại. Tuy nhiên họ không phải là những vị thần khác nhau, mà đơn giản là một Elder thường được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau.
Giống loài Elder được chia thành hai nhóm: những sinh vật làm việc với con người và những kẻ xem con người chỉ khá hơn nô lệ một chút và, trong một số trường hợp, là thức ăn. Các Elder đánh nhau với những cuộc chiến dữ dội kéo dài hàng thế kỷ. Thường thì một con người sẽ đứng về phía một trong hai phe, và thành tích chói lọi của họ được ghi nhớ trong huyền thoại vĩ đại của Gilgamesh và Cuchulain, Atlas và Hippolyte, Beowulf và Ilya của Murom.
Cuối cùng, khi mọi chuyện trở nên rõ ràng đó là những cuộc giao tranh này rất có thể hủy diệt hành tinh thì Abraham huyền bí đã dùng một tập hợp các câu thần chú đầy sức mạnh để buộc tất cả Giống loài Elder - ngay cả với những kẻ ủng hộ loài người - rút lui khỏi trái đất. Phần lớn bọn họ là những kẻ giống như Hekate đã ra đi một cách êm thấm và tạo nên những Vương quốc Bóng tối cho riêng họ và từ đó rất ít hay không còn liên lạc gì với con người. Những kẻ khác, như Morrigan, dù đã suy yếu đi rất nhiều, vẫn tiếp tục muốn xâm nhập thế giới loài người và cố gắng thiết lập lại thời kỳ thống trị cũ. Một số khác nữa, như là Scathach, sống ẩn dật âm thầm trong thế giới loài người. Flamel dần hiểu ra rằng cuốn Codex, với những câu thần chú đã đẩy Giống loài Elder ra khỏi thế giới này để rút vào Vương quốc Bóng tối, cũng chứa luôn những câu thần chú cho phép bọn họ quay trở lại.
Và nếu như những Elder Đen tối quay trở lại, thì cả nền văn minh của Thế kỷ Hai mốt sẽ bị xóa sạch chỉ trong vài tiếng đồng hồ khi mà những sinh - vật - giống - như - thần đánh nhau kịch liệt. Điều đó đã từng xảy ra trước đây; thần thoại và lịch sử đã đánh dấu các sự kiện đó với cái tên Nạn Hồng thủy.
Giờ đây thì Dee đã có cuốn sách. Tất cả những gì hắn cần là hai trang giấy mà Flamel có thể cảm thấy chúng đang miết vào da thịt mình. Và Nicholas Flamel biết rằng cả Dee và Morrigan sẽ vượt qua tất cả để lấy cho được hai trang giấy.
Flamel gục đầu xuống và ao ước giá như ông biết phải làm gì. Ông ao ước phải chi có Perenelle bên cạnh mình lúc này; chắc chắn bà ấy sẽ có một kế hoạch.
Một chiếc bong bóng nổi lên trên mặt nước. “Bà ấy nhờ tôi nói với ông rằng….” Một bong bóng khác nổi lên và vỡ ra. “…. rằng bà ấy vẫn bình an vô sự.”
Flamel cúi mình trở lại mép nước. Những dải sương mù tỏa lên mờ mịt từ mặt hồ với những bong bóng nhỏ liên tiếp xuất hiện và vỡ lóc bóc. Giữa màn sương trắng bắt đầu hình thành một dáng hình gì đó - một hình dáng đầy ngạc nhiên - đó là hình dáng một ông già trong trang phục bảo vệ. Lớp sương trắng trôi lờ lững, uốn lượn và cuốn xoắn trên mặt hồ. Ánh mặt trời của buổi nhá nhem chiếu xuyên qua những giọt nước và biến chúng thành những đốm sáng màu cầu vồng rực rỡ. “Ông là ma hả?” Nicholas hỏi.
“Đúng vậy, thưa ông, tôi là ma. Hay tôi đã là một con ma cho đến khi bà Flamel giải thoát cho tôi.”
“Ông biết tôi không?” Nicholas Flamel hỏi. Ông tự hỏi nhanh trong đầu liệu đây có phải là một trò lừa bịp của Dee, nhưng rồi ông gạt bỏ ý nghĩ đó: gã phù thủy mạnh thật đấy, nhưng hắn không có cách nào để vượt qua hàng rào bảo vệ của Hekate.
Làn sương trắng bềnh bồng rồi cô đặc lại. “Vâng, thưa ông, tôi tin là có: ông là Nicholas Flamel, Nhà Giả kim. Bà Flamel nhờ tôi đi tìm ông. Bà gợi ý là tôi có thể tìm ông ở nơi đây, trong Vương quốc Bóng tối này. Bà ấy nghe Dee nói là ông ở đây.”
“Bà ấy vẫn bình an hả?” Flamel hỏi một cách hăm hở.
“Bình an. Người đàn ông nhỏ bé tên John Dee rất sợ bà ấy, mặc dù người đàn bà kia thì không.”
“Người đàn bà nào?”
“Một bà cao lớn, mặc một áo choàng bằng lông quạ đen thui.”
“Morrigan,” Flamel nói dứt khoát.
“À, và đây là thông điệp…” một con cá nhảy lên khỏi mặt hồ và hình bóng kia lập tức tan ra thành hàng nghìn giọt nước treo ngưng đọng trên không khí, một giọt trở thành một mẩu nhỏ trong trò chơi ghép hình con ma. “Bà Flamel nói là ông nên ra đi.. và đi ngay bây giờ. Nữ thần Quạ đang tập trung quyền lực để xâm lấn Vương quốc Bóng tối.”
“Bà ta sẽ không làm gì được. Bà ta thuộc Thế hệ Kế tiếp, bà ta không thể có đủ sức mạnh.”
Con cá lại nhảy vọt lên lần nữa, làm tán loạn những giọt những và tiếng nói của con ma nghe xa dần như những lời thì thầm thoang thoảng, tắt lịm dần cùng với mỗi bong bóng vỡ tan. “Bà Flamel dặn tôi nói với ông là Nữ thần Quạ sắp đánh thức Bastet dậy.”
Dạ Phong
20-11-2010, 11:07 PM
Chương 19
Scathach đứng nơi ngưỡng cửa cửa phòng Sophie và nhìn cặp sinh đôi với đôi mắt xanh màu cỏ.
“Nghỉ ngơi tí đi,” cô nói, lặp lại lời khuyên của Flamel. “Hãy ở yên trong phòng mình,” cô nói thêm. “Các em có thể nghe thấy những âm thanh lạ lùng phía bên ngoài - cứ phớt lờ chúng đi. Hai em hoàn toàn an toàn miễn là hai em tiếp tục ở yên trong những bức tường này.”
“Những âm thanh gì vậy?” Josh hỏi. Trí tưởng tượng của cậu tăng lên cao độ,và cậu bắt đầu thấy ân hận về những tiếng đồng hồ cậu vùi đầu trong trò chơi điện tử Doom và Quake trong nỗi sợ hãi ngu ngốc.
Scathach nghĩ một lát trước khi trả lời. “Những tiếng thét, có lẽ. Những tiếng tru của thú vật. Ồ, và cả tiếng cười nữa.” Cô mỉm cười. “Và tin tôi đi, em sẽ không muốn phát hiện ra cái gì đang cười đâu,” cô nói, rồi thêm vào, không có chút gì là giễu cợt. “Ngủ ngon nhé.”
Josh Newman đợi cho đến khi Scathach đi về phía cuối dãy hành lang trước khi cậu quay sang chị gái. “Tụi mình phải ra khỏi đây thôi.”
Sophie cắn mạnh môi dưới khiến cho hai chiếc răng cửa của cô ấn mạnh thành dấu trên môi và cô gật đầu: “Chị cũng nghĩ như vậy.”
“Em nghĩ là tụi mình đang gặp nguy hiểm thật sự.” Josh nói khẩn thiết.
Sophie gật đầu. Những sự kiện đã xảy ra quá nhanh trong chiều khiến cô không còn thời gian mà thở nữa. Mới đang làm việc ở tiệm cà phê, trong nháy mắt, chị em cô đã chạy trốn ra khỏi San Francisco với một người đàn ông tự giới thiệu mình là một nhà giả kim năm trăm tuổi cùng một cô gái trông chỉ trạc tuổi Sophie mà Flamel thề là cô ta là một nữ chiến binh hai nghìn năm trăm tuổi. Và là một con ma cà rồng nữa. “Chị đang tìm coi ở đây có lắp mấy cái máy quay phim chìm không,” cô thì thầm, mắt liếc xung quanh phòng.
“Máy quay phim hả?” Josh có vẻ giật mình. Ngay lập tức cậu hòa theo suy nghĩ của chị gái. “Ý của chị là một cái camera tường thuật?” Cậu trông có vẻ khó chịu và đỏ bừng mặt: sẽ có gì xảy ra nếu như đây là một dạng chương trình tivi như You”re been Framed hay Big Brother, và người bị quay ra sức cư xử như một thằng ngốc ngay trước mặt cả quốc gia. Cậu không bao giờ có thể ló mặt đến trường được nữa. Cậu lục lọi trong các góc nhà để tìm những cái máy quay phim ẩn giấu. Thường thì chúng được đặt phía sau các tấm gương. Tuy nhiên, không có tấm gương nào trong phòng này, nhưng Josh biết là chuyện đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Những máy quay phim thế hệ mới thường có kích thước nhỏ đến mức chúng gần như vô hình. Một ý nghĩ đột nhiên vụt đến trong óc cậu. “Còn những con chim thì sao?”
Sophie gật đầu. “Chị vẫn suy nghĩ hoài về mấy con chim. Tất cả cả những thứ khác có thể chỉ là kỹ xảo: bọn Torc Allta có thể là những con thú được huấn luyện và những người đàn ông được lắp thêm bộ phận giả, cảnh tượng võ đường của Scathach có thể chỉ là hiệu quả đặc biệt và những con chuột cũng có thể đã được đào tạo. Nhưng lũ chim thì không phải: có hàng nghìn con và chúng thực sự đã phá tan chiếc xe. “Chính lũ chim cuối cùng đã thuyết phục được cô bé là hai đứa đang gặp nguy hiểm thật sự…..bởi vì nếu như lũ chim là thật, thì tất cả những thứ khác cũng đều là thật và những mối nguy hiểm cũng có thật nốt.
Josh thọc hai tay vào túi quần Jeans và đứng bên cạnh ô cửa sổ mở. Tán cây rậm rạp cọ sát vào rìa cửa sổ và mặc dù cửa không hề được lắp gương, không có con bọ nào trong vô số những con bọ bay lượn lung tung từ hồi chiều đến giờ bay lọt vào trong phòng. Cậu giật bắn mình lùi lại khi một con rắn màu xanh da trời sáng to bằng cổ tay cậu hiện ra từ vòm lá và đu đưa cái lưỡi dài phải hơn 15cm về phía cậu. Con rắn biến mất vừa khi một chùm tia sáng xuất hiện, xuyên nhẹ nhàng qua lớp lá. Khi chùm sáng lướt qua cửa sổ, Josh có thể thề rằng chùm tia đó đã tạo ra một tá những phụ nữ tí hon có cánh mà không ai trong số họ to hơn ngón tay trỏ của cậu. Ánh sáng tỏa ra từ cơ thể của họ. Cậu liếm đôi môi khô nứt. “OK, cứ cho cái này là có thật….. tất cả đều là thật, ma thuật, những giống loài cổ đại, rồi thì em vẫn quay lại với ý nghĩ ban đầu: chúng ta phải rời khỏi nơi đây.”
Sophie bước đến bên cửa sổ, đứng cạnh em trai mình và khoác tay lên vai cậu. Cô ra đời trước cậu hai mươi tám giây - chưa đầy nửa phút, Josh luôn luôn nhắc nhở cô - nhưng khi cha mẹ hai đứa cứ vắng nhà liên tục, cô đã tự đặt mình vào vai trò một bà chị lớn hơn rất nhiều. Mặc dù Josh cao hơn cô 5cm, cậu sẽ luôn luôn là “em trai bé bỏng” của cô. “Chị đồng ý”, cô nói một cách mệt mỏi. “Chúng ta nên thử và cố gắng hết sức mình.”
Có một điều gì đó trong giọng nói của chị gái khiến cho Josh quay sang nhìn cô. “Chị không nghĩ là chúng ta sẽ chạy thoát sao?” cậu hỏi một cách lanh lẹ.
“Cứ thử xem,” cô nói, không trả lời câu hỏi của cậu. “Nhưng chị chắc chắn là họ sẽ theo sát chúng ta.”
“Flamel nói rằng Dee có thể theo dấu chúng ta. Em chắc Flamel - hay Scathach - cũng có thể làm được chuyện đó.”
“Flamel không có lý do gì để đi theo chúng ta,” Sophie nhắc Josh.
“Nhưng Dee thì có,” Josh nói. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta về nhà và Dee cùng đồng bọn của hắn cũng theo chúng ta về đó?” cậu nói lớn.
Sophie cau mày. “Chị đã nghĩ về chuyện đó. Flamel nói là chúng ta sẽ có khả năng nhìn thấy luồng điện ma thuật xung quanh mọi người.”
Josh gật đầu.
“Hekate chưa đánh thức năng lượng ma thuật trong chúng ta.” Cô cau mày lần nữa, cố gắng nhớ lại chính xác những gì mà Nicholas Flamel đã nói. “Flamel nói chúng ta có mùi của ma thuật hoang dại.”
Josh khịt mũi. “Nhưng em không ngửi thấy mùi gì hết. Không thấy mùi trái cây hay cam hay kem.”
“Có lẽ em phải đứng gần một phù thủy khác mới có thể ngửi thấy được luồng điện. Nếu tụi mình tìm cách chạy được về nhà, mình sẽ thẳng tiến tới Utah với mẹ và ba. Tụi mình có thể ở đó với họ đến hết mùa hè và khi tất cả những chuyện này trôi qua hẳn.”
“Ý kiến không tồi chút nào,” Josh nói. “Không ai có thể tìm thấy chúng ta nơi sa mạc. Và, ngay bây giờ, sau tất cả những gì chúng ta nhìn thấy hôm nay, thì sa mạc nóng bức, tẻ nhạt và đầy cát bỗng trở nên hết sức hấp dẫn.”
Sophie nhìn ra phía cửa. “Chỉ có một vấn đề. Nơi này chính là một mê cung. Em có nghĩ là em có thể tìm ra đường quay trở lại chỗ chiếc xe không?”
“En nghĩ là được.” Cậu gật đầu. “Thực sự, em rất chắc ăn về chuyện đó.”
“Vậy thì đi thôi.” Cô kiểm tra túi áo nơi có chiếc điện thoại hết pin. “Lấy đồ của em đi.”
Cặp sinh đôi dừng lại bên cửa phòng của Sophie và thò đầu nhìn lên xuống dãy hành lang. Cảnh vật thật hoang vắng và tối đen như mực chỉ trừ một số lùm cây tỏa ra ánh sáng màu trắng sữa.
Đâu đó xa xa vẳng tới một chuỗi âm thanh pha trộn giữa tiếng cười và tiếng hét vang vọng khắp hành lang. Với những đôi giày đế cao su để bước đi không gây ra tiếng động trên sàn gỗ, chúng băng qua hành lang sang phòng Josh.
“Làm sao mà tụi mình lại sa vào mớ bòng bong này nhỉ?” Josh hỏi, nhét chặt máy điện thoại và iPod chết vào túi áo.
“Chị đoán là chúng ta đã có mặt ở một nơi sai lầm trong một thời điểm sai lầm,” Sophie nói. Cô tiếp tục đứng nơi cửa, quan sát dãy hành lang. Nhưng ngay cả khi đang nói, cô bắt đầu nghi ngờ rằng có một chuyện gì đó còn hơn thế nữa. Một cái gì đó đang tiếp diễn, một chuyện gì đó liên quan đến lời tiên tri mà Flamel đã nhắc tới, một cái gì đó dính líu tới hai chị em Sophie. Và ý nghĩ đó làm cho cô hoảng sợ.
Josh nhét chiếc laptop chết vào ba lô và liếc nhìn lần cuối cùng căn phòng nhỏ. “OK, tất cả đã ở trong này và sẵn sàng để lên đường.”
Cặp sinh đôi lẻn ra hành lang và đi nhanh qua các căn phòng hình tròn, tranh thủ thò đầu nhìn vào bên trong từng căn trước khi tiến vào. Chúng liên tục dừng chân, lắng nghe những mẩu đối thoại với phần lớn các ngôn ngữ quen thuộc hay âm nhạc vang lên từ nhiều nhạc cụ không thể nhận biết dọc theo dãy hành lang. Có khi, một tiếng tru vang lên như một tràng cười điên dại làm cho chúng phải rúc ngay vào căn phòng gần nhất với cảm giác tiếng cười đang sắp chạm đến mình nhưng rồi tất cả yên ắng trở lại. Khi hai chị em rón rén chui ra khỏi căn phòng, chúng để ý thấy tất cả các ngọn đèn pha lê dọc theo hành lang đã chuyển sang màu đỏ máu rực rỡ.
“Em rất mừng vì chúng ta đã không nhìn thấy cái gì vừa băng qua,” Josh run run nói.
Sophie làu bàu đáp lại. Em trai cô vẫn ở vị trí dẫn đầu, trong khi cô bám sát theo cậu cách chỉ hai bước chân, bàn tay cô đặt lên vai cậu. “Làm sao em biết được chúng ta đang đi về đâu,” cô thì thầm, miệng ghé sát vào tai cậu. Tất cả các căn phòng đều giống hệt nhau trong mắt cô.
“Khi chúng ta lần đầu tiên đến ngôi nhà, em để ý thấy những bức tường và sàn nhà có màu tối sẫm, nhưng khi chị em mình đi xuống sâu dọc hành lang, chúng trở nên sáng sủa và nhạt màu hơn. Khi đó em nhận ra rằng chúng ta đang đi xuyên qua những vành đai của những sắc thái gỗ khác nhau, như là những vòng gỗ có trong bất kỳ cái cây nào. Tất cả những gì chúng ta cần phải làm đó là đi theo hành lang dẫn ra chỗ vòng gỗ tối màu.”
“Thông minh đó,” Sophie nói với vẻ ấn tượng.
Josh liếc nhìn ra sau vai của cậu và cười toe toét. “Nói cho chị biết là những trò chơi video game em từng chơi không hề là thứ nhảm nhí mất thời gian đâu nhé. Cách duy nhất để không bị lạc lối trong các trò chơi mê cung đó là ghi nhớ những dấu hiệu, như là những mẫu vẽ trên tường hay trần nhà và lưu ý đến bước chân của mình để sau này có thể thoái lui nếu cần thiết.” Cậu băng qua một hành lang khác. “Và nếu như em nói đúng, cửa chính sẽ nằm ở ……đằng kia!” cậu kết thúc một cách đắc thắng.
[center:mg5uvfee]++++++++++++++++++[/center:mg5uvfee]
Cặp sinh đôi chạy băng qua cánh đồng rộng lớn nằm ngay trước mặt ngôi nhà cây khổng lồ, và đi thẳng vào con đường trồng cây xanh ở phía hai bên lề dẫn đến chỗ chiếc xe đang đậu. Mặc dù màn đêm bắt đầu buông xuống, chúng vẫn có thể nhìn rõ cảnh vật. Mặt trăng tỏa sáng treo lơ lửng trên bầu trời, và bầu trời đầy ắp những ngôi sao lấp lánh kết hợp với những cuộn xoáy bụi màu bạc khiến cho bầu trời đêm phát quang trong ánh sáng màu xám bạc kỳ diệu. Chỉ có những bóng cây là tiếp tục giữ vẻ bí ẩn trong màu đen.
Mặc dù không hề lạnh, Sophie vẫn run rẩy: trời đêm có cái gì đó không bình thường. Josh cởi chiếc áo khoác có mũ và khoác nó lên vai chị gái. “Những ngôi sao trông lạ quá,” cô thì thầm. “Chúng sáng rực rỡ.” Nghển cổ lên, cô nhìn sâu vào bầu trời đêm, cố gắng nhìn xuyên qua những cành cây rậm rạp của Yggdrasill. “Chị không thể nhìn thấy chòm sao Đại hùng tinh và sao Bắc đẩu cũng biến mất.”
“Và đêm hôm qua cũng đâu có trăng,” Josh nói, đầu hất về phía vầng trăng tròn đầy đang tỏa sáng trắng vàng vằng vặc xuống những ngọn cây. “Không hề có trăng trong thế giới của chúng ta,” Josh nói nghiêm trang.
Sophie nhìn mặt trăng chăm chú. Có một cái gì đó về nó….một cái gì đó khác thường. Cô cố tìm kiếm những hố núi lửa quen thuộc, và rồi đột ngột thấy dạ dày nôn nao với sự khám phá và bàn tay cô, khi cô đưa nó lên cao để chỉ vào mặt trăng, run lên bần bật. “Đó không phải là mặt trăng của chúng ta!”
Josh ngước mắt nhìn, nheo mắt lại vì ánh sáng chói lóa. Rồi cậu nhận ra những gì mà cậu đang nói về. “Bề mặt của nó trông ….khác. Mịn màng hơn,” cậu nói nhỏ nhẹ, “những miệng núi lửa đâu rồi ta? Em không thể nhìn thấy Kepler, Copernicus và thậm chí cả Tycho.”
“Josh,” Sophie nói nhanh, “chị nghĩ là tụi mình đang nhìn bầu trời đêm của một nghìn năm trước, có thể là hàng trăm nghìn năm trước.” Sophie ngẩng đầu nhìn lên cao. Josh giật nảy mình khi ánh sáng xám bạc khiến cho khuôn mặt cô trông như một bộ xương và cậu vội vã nhìn sang phía khác, xáo động vì hình ảnh đó. Cậu đã luôn luôn gần gũi với chị gái, nhưng vài tiếng đồng hồ vừa qua đã nhắc nhở cậu rằng cô quan trọng với cậu biết bao nhiêu.
“Không phải là Scathach đã nói Hekate tạo ra Vương quốc Bóng tối bóng tối của riêng bà ta hay sao?” Josh hỏi. “Em dám cá là bà ta xây dựng thế giới đó theo khuôn mẫu của thế giới mà bà ta còn nhớ.”
“Như vậy đây chính là bầu trời đêm và mặt trăng của hàng nghìn năm trước,” Sophie nói trong sợ hãi. Cô ước ao phải chi cô có trong tay cái máy chụp hình kỹ thuật số nhỏ của mình, để ghi lại hình ảnh kỳ diệu của vầng trăng mịn màng êm mượt.
Cặp sinh đôi đang cùng ngước lên trời thì một bóng đen chập chờn bay ngang qua bề mặt của mặt trăng một đốm nhỏ trông giống như một con chim…. ngoại trừ một điều là đôi cánh của nó xoải quá rộng, và không có loài chim nào lại có đuôi và cổ giống như của loài rắn.
Josh chụp lấy tay Sophie và kéo cô chạy về phía chiếc xe hơi. “Em thật sự bắt đầu thấy ghét nơi này rồi đó,” cậu càu nhàu.
Chiếc SUV vẫn đậu ở nơi họ đã rời khỏi nó, ngay giữa con đường. Ánh trăng phủ một lớp vàng lên kính chắn gió rạn nứt, những đường rạn nứt trên kính sáng lên trong bóng tối. Ánh trăng vằng vặc cũng làm nổi bật những vết trầy xước dọc theo thân xe kim loại và khiến những đường rạch đó trở nên sắc nét. Trần xe chi chít hàng trăm lỗ thủng li ti khi lũ chim mổ xuyên qua lớp vỏ kim loại, cần gạt nước cửa sổ phía sau đu đưa trên một sợi dây cao su, và cửa sổ hai bên hông xe đã vỡ nát.
Cặp sinh đôi nhìn chăm chú chiếc xe trong im lặng và bắt đầu thấm thía kết quả cuộc tấn công của bầy chim. Sophie giơ một ngón tay chạy dọc theo những vết rạn nứt trên cửa kính nằm nơi phần dành cho người đi xe ở phía sau. Chính lớp kính dày này đã bảo vệ da thịt cô thoát khỏi những móng vuốt chim tàn bạo.
“Đi thôi chị,” Josh nói, với tay mở cửa xe và chui vào ngồi trước tay lái. Chùm chìa khóa vẫn nằm ở nơi mà cậu đã rời bỏ nó, ngay trên ổ điện.
“Chị cảm thấy không được thoải mái lắm, khi tụi mình rời khỏi Nicholas và Scatty mà không nói với họ nửa lời.” Sophie nói khi cô mở cửa xe và chui vào trong. Nhưng Nhà Giả kim bất tử và nữ chiến binh sẽ ổn hơn nếu không còn vướng bận hai đứa trẻ, cô tự nhủ. Họ đều có thừa sức bảo vệ mình, và sự có mặt của chị em Sophie chỉ làm chậm trễ hành trình của họ mà thôi.
“Chúng ta sẽ xin lỗi nếu như chúng ta gặp lại họ,” Josh nói. Cậu thầm nghĩ rằng cậu sẽ rất hạnh phúc nếu như không gặp ai trong số họ nữa. Thật dễ dàng khi chơi trò chơi điện tử. Khi bạn bị giết chết trong trò chơi, bạn chỉ cần bắt đầu lại. Tuy nhiên trong Vương quốc Bóng tối này, không hề có một cơ hội thứ hai, và còn có thêm nhiều cách để chết.
“Em có biết cách nào để ra khỏi đây không?” Sophie hỏi.
“Biết chắc,” em trai cô cười toe toét, hàm răng của cậu sáng lóa lên dưới ánh trăng. “Chúng ta cho xe chạy giật lùi. Và không dừng lại vì bất cứ cái gì.”
Josh xoay chìa khóa nơi ổ điện. Có một tiếng lắc cắc vang lên rên dài trong không khí và rồi tất cả nhanh chóng rơi vào im lặng. Cậu xoay chìa khóa lần nữa. Lần này chỉ có một tiếng lách cách nhỏ gọn vang lên.
“Josh….?” Sophie gọi.
Phải mất vài giây cậu mới nhận biết được chuyện gì đang xảy ra. “Pin chết rồi, nó đã bị tiêu hao bởi quyền năng đã hút cạn pin trong điện thoại di động của chúng ta,” Josh nói. Cậu xoay tròn chiếc ghế để nhìn xuyên qua cửa sổ đầy vết rạn vỡ. “Nhìn nè, chúng ta đã tới đây bằng con đường ngay phía sau lưng chúng ta. Chẳng hề rẽ phải hay trái gì cả. Hãy chạy ra khỏi đây. Chị nghĩ sao?” Cậu quay lại nhìn chị mình, nhưng cô không hề nhìn cậu mà đang nhìn chăm chăm xuyên qua kính chắn gió ngay trước mặt. “Chị chẳng nghe em nói gì hết,” cậu kết tội cô.
Sophie chồm lên, dùng tay nắm lấy mặt cậu và xoay đầu cậu về hướng kính chắn gió. Cậu nhìn, chớp mắt, nuốt nước bọt, rồi thò tay nhấn nút khóa cửa xe. “Làm gì bây giờ?” cậu hỏi.
Đứng ngay trước mặt chúng là sinh vật không phải là chim hay rắn, mà là một loại trộn lẫn giữa cả hai loại này. Nó đứng đó, với dáng vẻ bằng một đứa trẻ cao lớn. Ánh trăng chiếu lung linh trên cơ thể trông như rắn, đôi cánh xoải dài như cánh dơi, những mạch máu và xương nhỏ hằn lên màu đen. Đôi chân đầy móng vuốt bấm sâu trong đất, và một cái đuôi dài như đuôi rắn cứ quất quất qua lại sau lưng nó. Thế nhưng cái đầu của sinh vật này mới thực sự hớp hồn hai đứa trẻ. Chiếc đầu sọ dài và hẹp, đôi mắt tròn lớn, cái miệng lởm chởm hàng trăm chiếc răng trắng nhỏ sắc nhọn. Cái đầu cứ lúc lắc qua lại và cái miệng của nó cứ mở ra khép vào. Sinh vật nhảy vài bước để đến gần chiếc xe hơn.
Có một cái gì chuyển động trong khoảng không đằng sau nó và một sinh vật thứ hai, thậm chí còn to hơn con đầu tiên, rơi xuống từ bầu trời đêm. Nó xếp cánh lại đứng thẳng trong khi đầu hướng thẳng về chiếc xe hơi.
“Có thể là chúng ăn chay,” Josh đoán chừng. Dựa người vào chiếc ghế tài xế, cậu lục lọi phía sau của chiếc xe, tìm kiếm một vật gì đó có thể dùng làm vũ khí.
“Không với những cái răng như thế này,” chị gái của cậu nói dứt khoát. “Chị nghĩ chúng là những con thằn lằn bay,” cô nói, nhớ lại những bộ xương khổng lồ cô đã từng nhìn thấy ở Trung tâm Khoa học Tự nhiên Texas.
“Như là thằn lằn ngón cánh nay đã tuyệt chủng?” Josh hỏi, quay người lại. Cậu đã tìm thấy một cái máy dập lửa nhỏ.
“Thằn lằn bay lâu đời hơn,” Sophie nói.
Một con thằn lằn bay thứ ba rơi xuống từ bầu trời đêm,và giống như ba người đàn ông bị gù lưng, ba sinh vật này bắt đầu tiến sát đến chiếc xe.
“Lẽ ra tụi mình nên ở yên trong nhà cây,” Sophie lẩm bẩm. Chúng đã được cảnh báo, phải thế không? Hãy ở yên trong phòng, đừng bỏ đi… và sau tất cả những gì chúng trông thấy tính đến nay, chúng nên phỏng đoán là Vương quốc Bóng tối của Hekate vào ban đêm là một nơi chốn nguy hiểm và chết chóc. Bây giờ chúng đang phải đối mặt với một giống sinh vật vượt xa hơn cả kỷ phấn trắng của Creta nữa.
Josh mở miệng định trả lời, nhưng cậu đã vội im bặt, cậu lôi cục pin chứa trong chiếc máy dập lửa nhỏ ra ngoài, chuẩn bị sẵn sàng. Cậu không biết chắc điều gì sẽ xảy ra nếu như cậu bắn luồng hơi đốt về phía chúng.
Ba sinh vật lạ tỏa rộng ra. Một con tiến về phía mũi xe, hai con còn lại đi thẳng đến cửa sổ của tài xế và hành khách.
“Ước gì chúng ta biết chút ít phép thuật trong lúc này,” Sophie nói nồng nhiệt. Cô có thể cảm thấy tim mình đập thình thịch trong lồng ngực và để ý thấy lưỡi mình như nở rộng ra trong miệng. Cô nín thở và cảm thấy đầu óc quay cuồng.
Con thằn lằn bay to nhất dựa hẳn vào mui xe, tỳ đôi cánh khổng lồ vào lớp vỏ kim loại trầy xước để làm điểm tựa cho chính mình. Cái đầu dài như đầu rắn thò về phía trước để sục vào bên trong chiếc xe và nó chậm rãi nhìn từ Sophie sang Josh và rồi trở lại với Sophie. Khi sát gần, cái miệng của nó trông thật ghê gớm với hàm răng vô tận.
Josh chỉnh vị trí của chiếc vòi bấm của chiếc máy dập lửa thẳng vào một trong những lỗ nhỏ trên kính chắn gió và chĩa nó vào con thằn lằn bay. Đôi mắt của cậu đảo lia lịa qua trái và qua phải, quan sát sự xâm nhập của hai con còn lại và mồ hôi tứa ra ướt đẫm hai bàn tay cậu khiến cậu cảm thấy thật khó có thể cầm chắc chiếc máy dập lửa.
“Josh,” Sophie thì thầm, “làm gì đi. Làm cái gì đó ngay bây giờ!”
“Có thể hơi đốt trong cái máy dập lửa sẽ làm cho chúng hoảng sợ mà đi,” Josh trả lời, vô thức hạ thấp giọng nói thành một lời thì thầm. “Hay đầu độc chúng hay là….”
“Và tại sao cậu lại muốn làm điều đó?” Con thằn lằn bay nghiêng đầu nhìn Josh, miệng hé mở, răng sáng lóe. Những lời của nó liên tục bị ngắt quãng rơi lốp bốp, nhưng ngôn ngữ rõ ràng là tiếng Anh. “Chúng tôi không phải là kẻ thù của hai người.”
Dạ Phong
21-11-2010, 06:24 AM
Chương 20
Ngay cả ở Bel Air, khu vực nổi tiếng của Los Angeles là có những dinh thự xa hoa lộng lẫy, thì ngôi nhà này trông vẫn rất nổi bật. Rộng rãi và nằm vươn dài, ngôi nhà được xây hoàn toàn bằng đá cẩm thạch travectin và chỉ có một con đường riêng biệt duy nhất dẫn vào bên trong nhà. Nó nằm trong một vùng đất rộng sáu mươi mét vuông và được bao quanh bởi một bức tường thành cao 3,6 mét có gắn hàng rào điện phía bên trên. Tiến sĩ John Dee đã phải đợi khoảng mười phút bên ngoài cánh cổng khép kín trong khi một nhân viên bảo vệ có trang bị đầy đủ kiểm tra nhân dạng hắn còn một nhân viên khác thì xem xét từng xen - ti - mét của chiếc xe, thậm chí còn soi quét phía bên dưới của nó bằng một máy camera nhỏ. Dee lấy làm vui mừng vì hắn đã chọn dịch vụ xe Limousine với một người tài xế; hắn không chắc là tay bảo vệ sẽ xử lý ra sao đối với một tên Golem làm bằng bùn.
Dee đã bay đến đây từ San Francisco vào buổi chiều muộn bằng chiếc máy bay phản lực riêng của hắn. Chiếc Limousine do văn phòng của hắn đặt thuê, đã đên đón hắn ở Burbank - bây giờ đã được đặt tên mới là phi trường Bob Hope, hắn nhận thấy như thế - và chở hắn đến Đại lộ Hoàng hôn sau khi vượt qua đám xe cộ đông đúc kinh hoàng mà hắn đã nếm trải kể từ khi sống ở Victorian London.
Lần đầu tiên trong cuộc đời dài đằng đẵng của mình, Dee cảm thấy như thể là những sự kiện đang vuột ra khỏi tầm kiểm soát của hắn. Mọi chuyện đang tiến triển rất nhanh chóng và, theo kinh nghiệm của hắn, những biến cố bất ngờ xảy ra. Hắn đang bị hối thúc bởi những người - ồ, chính xác là không phải con người, những kẻ đang nôn nóng gặt hái kết quả. Họ đã khiến hắn chống lại Flamel hôm nay, mặc dù hắn đã nói với họ là hắn cần thêm một vài ngày nữa để chuẩn bị. Và hắn đã đúng khi nói thế. Thêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ cho việc lập kế hoạch và theo dõi chặt chẽ sẽ cho phép hắn bắt được Nicholas và Perenelle cùng cuốn Codex nguyên vẹn. Dee đã báo trước với những ông chủ của hắn là Nicholas Flamel có thể sẽ rất khôn khéo, nhưng họ đã không hề nghe lời hắn. Dee biết rõ Flamel hơn bất cứ ai. Trong nhiều thế kỷ hắn đã suýt nữa bắt được ông ta - rất gần - thế nhưng trong mọi cơ hội, Flamel và Perenelle đã xoay xở để chạy thoát.
Trở lại ngồi trong chiếc xe có máy lạnh, trong khi những nhân viên bảo vệ tiếp tục cuộc kiểm tra của họ, hắn hồi tưởng lần đầu tiên hắn gặp gỡ Nhà Giả kim danh tiếng, Nicholas Flamel.
[center:2o2woy4w]++++++++++++++++++[/center:2o2woy4w]
Tiến sĩ John Dee sinh năm 1527. Hắn là một nhân vật rất quan trọng đối với Nữ hoàng Elizabeth đệ Nhất và hắn đã phục vụ Nữ hoàng với nhiều khả năng đa dạng: như một nhà tư vấn và dịch thuật, một nhà toán học và thiên văn học, và là nhà chiêm tinh học cho riêng cá nhân bà. Hắn là người chọn ngày lễ đăng quang cho bà và hắn đã chọn thời điểm 12 giờ trưa ngày 15 tháng 1 năm 1559. Hắn hứa với nàng công chúa trẻ là vương quyền của cô sẽ kéo dài bao lâu. Và nó đã kéo dài 45 năm.
Tiến si John Dee cũng là gián điệp của Nữ hoàng.
Dee làm gián điệp cho Nữ hoàng Anh trong khu vực châu Âu và là đại lý quyền lực có sức ảnh hưởng mạnh nhất của bà trong lục địa châu Âu. Là một học giả và nhà khoa học nổi tiếng, là nhà giả kim và pháp sư lừng danh, hắn được chào đón tại các phiên tòa của nhà vua và các cung điện của giới quý tộc. Hắn công khai thừa nhận tài thông thạo tiếng Anh, tiếng Latin và tiếng Hy Lạp - mặc dù thật ra hắn nói giỏi khoảng hơn mười thứ tiếng, và hiểu rõ ít nhất là mười thứ tiếng khác nữa, kể cả tiếng Ả - rập và chút ít tiếng Trung Quốc. Hắn sớm hiểu được rằng mọi người thường rất dễ gắn chặt thành một khối khi họ không biết rằng hắn hiểu rõ từng lời của họ, và hắn tận dụng tối đa điều đó. Dee ký biệt danh là 007. Hắn nghĩ là thật đáng mỉa mai sau đó năm trăm năm khi Ian Fleming tạo ra nhân vật James Bond thì ông ta cũng đặt cho anh ra mật mã 007.
John Dee là một trong những pháp sư hùng mạnh nhất của thời đại mà hắn sống. Hắn đã làm chủ được thuật gọi hồn và phép phù thủy, thuật chiêm tinh và toán học, tài bói toán và bói cầu. Cuộc hành trình của hắn băng qua châu Âu đã giúp hắn tiếp xúc với tất cả các pháp sư và phù thủy vĩ đại nhất lúc đó…trong đó bao gồm cả Nicholas Flamel huyền thoại, người đàn ông được biết đến với cái tên Nhà Giả kim.
Dee đã khám phá ra sự tồn tại của Nicholas Flamel - người mà lẽ ra đã phải chết năm 1418 - hoàn toàn do tình cờ. Cuộc đụng độ đã hình thành nên cuộc đời của hắn và trong nhiều cách khác nhau, ảnh hưởng đến lịch sử thế giới.
Nichiolas và Perenelle đã trở lại Paris vào cuối những năm 1500, và họ làm việc như những bác sĩ, sống nghèo đói và đau ốm ngay trong chính những bệnh viện mà Flamel đã thành lập nên trước đó hơn một thập niên. Hầu như họ sống và làm việc bên cạnh khu vực Nhà thờ Đức Bà. Dee đã có mặt tại Paris để thực hiện một sứ mạng bí mật cho Nữ hoàng, nhưng ngay giây phút mà ông nhìn thấy người đàn ông mảnh khảnh tóc đen cùng bà vợ mắt xanh lục của mình làm việc trong những căn phòng trần cao của bệnh viện, hắn đã biết ngay họ là ai. Dee là một trong số ít người trên thế giới có ấn bản một tác phẩm nổi tiếng của Flamel tựa đề Giản lược về Triết học trong đó có khắc chân dung của Nhà Giả kim nơi trang đối diện dang in tựa đề. Khi Dee tự giới thiệu mình với bác sĩ và vợ ông, gọi họ bằng tên thật, không ai phản đối điều đó. Dĩ nhiên, họ cũng đã biết danh tiếng của Tiến sĩ John Dee. Mặc dù Perenelle có ít nhiều dè dặt, Nicholas đã rất phấn khởi với cơ hội nhận nhà phap sư người Anh làm học trò mình. Dee ngay lập tức rời khỏi nước Anh và trải qua bốn năm kế tiếp rèn luyện nghề nghiệp với Nicholas và Perenelle ở Paris.
Và cũng chính tại Paris, vào năm 1575, hắn đã lần đầu tiên biết được về sự tồn tại của Giống loài Elder.
Một đêm khuya nọ khi hắn đang nghiên cứu bài vở trong căn phòng nhỏ của hắn tại nhà Flamel thì bất thình lình một sinh vật kỳ quái trượt xuống từ ống khói, làm bắn tung ra than và gỗ vụn khi nó bò lướt qua tấm thảm chùi chân. Sinh vật này thuộc nòi giống ma cà rồng thường hay tràn vào quấy phá các cống rãnh và nghĩa địa của phần lớn các thành phố châu Âu. Tương tự như những hình thù thô thiển được khắc vào đá để trang trí cho nhà thờ lớn gần như nằm đối diện với ngôi nhà, sinh vật này có lớp da hằn lên những đường gân như cẩm thạch và đôi mắt màu xám tro. Nói bằng thứ tiếng Hy Lạp cổ xưa, con ma cà rồng đã mời Dee lên tham dự buổi họp mặt ở trên nóc của Nhà thờ Đức Bà Paris. Nhận ra rằng đây là một lời mời mà hắn không thể từ chối, Dee đã chạy theo sinh vật này xuyên qua màn đêm. Vừa chạy vừa nhảy, thỉnh thoảng trên hai chân, thường thì trên bốn chân, con ma cà rồng dẫn hắn chạy xuyên qua những hành lang ngày cang thu hẹp dần, rồi xuống các cống rãnh, và cuối cùng vào một hành lang nhỏ dắt hắn đi sâu vào những bức tường của thánh đường hùng vĩ. Hắn theo chân con ma cà rồng leo lên một nghìn lẻ một bậc thang khắc ở phía trong bức tường dẫn ra nóc nhà thờ.
“Đợi đã,” con vật yêu cầu, và rồi không nói thêm gì nữa. Sứ mạng của nó đã hoàn thành, nó phớt lờ Dee và ngồi xuống cạnh lan can, gù lưng về phía trước, hai cánh xếp lại trên vai, đuôi cuốn chặt vào lưng, những chiếc sừng nhỏ nhô lên từ trán. Nó thò đầu nhìn xuống quảng trường phía dưới, nhìn những kẻ lang thang đang đi lại trong đêm khuya hay những người vô gia cư đang tìm kiếm một bữa ăn lót lòng. Nếu ai đó ngước mắt nhìn lên, con ma cà rồng sẽ chìm khuất vào bất kỳ viên đá chạm khắc nào gắn trên tòa nhà.
Dee đi bộ đến rìa của góc nhà thờ và nhìn xuống thành phố. Paris ban đêm đang nằm ngay dưới chân của hắn. Hàng nghìn ngọn đèn nhấp nháy từ các bếp lửa, đèn dầu và nến, những làn khỏi tỏa lên không trung, vô số đốm sáng tỏa dọc theo dòng sông Seine uốn lượn. Từ độ cao này, Dee có thể nghe thấy tiếng ồn ào của thành phố, rù rì vo ve như tiếng của tổ ong trong đêm khuya và có thể ngửi thấy mùi độc hại trên các đường phố - một sự pha trộn giữa cống rãnh, trái cây thối và thịt ôi, mùi mồ hôi của người và vật và mùi hôi thối của dòng sông.
Đứng dựa vào khung cửa sổ Hoa Hồng nổi tiếng của thánh đường, Dee chờ đợi. Sự nghiên cứu về ma thuật đã dạy cho hắn nhiều điều - đặc biệt là giá trị của lòng kiên nhẫn. Con người học giả trong hắn tận hưởng cái thú đứng trên nóc cao của tòa nhà cao nhất Paris và hắn ước ao giá mà hắn mang theo khung vẽ phác thảo trong lúc này. Hắn nhìn ngắm xung quanh vẻ hài lòng, khắc sâu những gì trước mắt vào trí nhớ siêu phàm của hắn. Hắn hồi tưởng lại một chuyến du ngoạn đến Florence vừa mới đây. Hắn đã tới đó để nghiên cứu về những trang nhật ký của Leonardo Da Vinci. Chúng được viết bằng một thứ mật mã kỳ lạ mà không ai có thể giải mã được: hắn chỉ mất chưa đầy một tiếng đồng hồ để giải mã - không ai nhận ra rằng Leonardo đã viết cuốn nhật ký của ông không chỉ bằng mật mã, mà còn viết chữ ngược theo hình phản chiếu của gương. Những trang ghi chép đầy những hình vẽ kỳ thú về những phát minh: súng có thể bắn nhiều lần, một chiếc xe ngựa bọc giáp có thể di chuyển mà không cần đến ngựa kéo, và một chiếc tàu có thể chạy ở dưới mặt biển. Có một chi tiết đặc biệt khiến cho Dee thích thú: một bộ áo giáp mà Da Vinci tuyên bố rằng sẽ cho phép người mặc bay vào không khí và lướt đi như chim. Dee không bị thuyết phục hoàn toàn là thiết kế của nó sẽ làm được điều đó, mặc dù hắn không ao ước gì hơn là được bay lượn như chim. Khi đứng nhìn xuống toàn cảnh Paris, hắn bắt đầu tưởng tượng rằng không biết điều gì sẽ xảy ra khi hắn khoác đôi cánh của Da Vinci vào đôi cánh tay mình và nhấc người bay qua những nóc nhà.
Ý nghĩ của hắn bị cắt ngang bởi một chuyển động thoáng qua. Hắn quay về hướng bắc nơi có một hình bóng đang di chuyển trên bầu trời đêm, một bóng đen kéo thành vệt dài với những đốm nhỏ hơn. Những hình bóng nhỏ hơn trông giống như những con chim…ngoại trừ viêc hắn biết là những con chim hiếm khi bay vào buổi tối. Dee biết ngay lập tức không chút nghi ngờ rằng đó chính là sinh vật mà hắn được dắt lên đây để gặp gỡ. Hắn tập trung nhìn vào hình bóng ngày càng lớn dần khi nó bay đến gần hơn, cố gắng đoán hết những gì hắn đang nhìn thấy, nhưng chỉ khi mà hình dáng đó đậu hẳn xuống nóc nhà thờ, hắn mới nhận ra rằng hắn hắn đang nhìn thấy một người đàn bà có khuôn mặt tái mét màu xám tro, ăn vận toàn màu đen với đôi cánh lông quạ đen nhánh.
Đó là đêm mà Tiến sĩ John Dee lần đầu tiên gặp Morrigan. Đêm đó hắn đã biêt đến Giống loài Elder và cách mà họ đã thống trị thế giới loài người dựa vào pháp thuật trong cuốn Cuốn sách của Pháp sư Abraham, cuốn sách mà bây giờ Nicholas Flamel đang sở hữu. Đêm hôm đó Dee đã biết rằng có những nhân vật trong Giống loài Elder muốn trở lại ngôi vị thống lĩnh của mình để cai trị loài người. Và đêm hôm đó Nữ thần Quạ đã hứa với Dee là một ngày kia hắn sẽ làm chủ cả thế giới, hắn sẽ điều khiển một vương quốc kéo dài từ cực này sang cực kia, từ binh minh đến hoàng hôn. Tất cả những gì hắn cần làm đó là đánh cắp cuốn sách từ Flamel và trao lại cho phe Elder.
Đêm hôm đó, Tiến sĩ John Dee trở thành chiến sĩ của đội quân Elder Đen tối.
Sứ mệnh đó đã dẫn dắt hắn đi khắp thế giới, và lọt vào rất nhiều Vương quốc Bóng tối. Hắn đã chiến đấu với ma và ma cà rồng, những sinh vật đã không còn có quyền tồn tại bên ngoài những cơn ác mộng, một số khác thì đã thuộc về những ngày tháng trước sự xuất hiện của loài người. Hắn đã chiến đấu với vai trò thủ lĩnh của đạo quân quái vật và đã bỏ ra ít nhất là một thập niên đi lạc trong Một thế giới băng hà khác. Rất nhiều khi, hắn đã suy nghĩ về sự an toàn của mình, nhưng chưa bao giờ hắn thực sự sợ hãi….cho đến giây phút này, khi hắn ngồi phía trước cổng ra vào của dinh thự nằm ở Bel Air ở Los Angeles trong Thế kỷ Hai mốt. Những thời kỳ trước hắn chưa hề để tâm đến sức mạnh của những sinh vật mà hắn phục vụ, nhưng gần năm thế kỷ phục vụ cho họ đã dạy bảo cho hắn rất nhiều điều…bao gồm cả một sự thật đó là cái chết có lẽ là hình phạt tối thiểu mà họ giáng lên đầu hắn.
Viên bảo vệ trang bị đầy đủ bước lui ra sau và những cánh cửa kim loại cao lách cách mở ra, cho phép chiếc xe của Dee lướt vào dọc theo con đường rải sỏi trắng hướng về lâu đài đá cẩm thạch thấp thoáng đằng sau cây cối. Mặc dù màn đêm đã buông xuống, không có đèn đóm gì phía bên trong ngôi nhà và trong một khoảnh khắc Dee đã tưởng tượng là không có ai trong nhà. Rồi hắn nhớ ra rằng nhân vật - sinh vật - mà hắn đến gặp thích gặp gỡ trong giờ chiều tối và không cần đến các bóng đèn.
Chiếc xe quay một vòng tròn hướng về phía trước của lối ra vào chính nơi mà ánh đèn pha ô tô chiếu sáng ba người đang đứng nơi bậc thang dưới cùng. Khi chiếc xe cuối cùng nghiến lên những hòn sỏi kêu lạo xạo để dừng lại, một hình người tính tới gần cánh cửa và mở cửa xe ra. Thật khó có thể nắm bắt chi tiết mọi chuyện trong bóng chiểu ảm đạm, nhưng giọng nói vọng ra từ bóng tối là giọng đàn ông, và ông ta nói với hắn bằng giọng Anh đặc sệt. “Tiến sĩ Dee, tôi đoán là vậy, tôi là Senuhet. Vui lòng vào nhà. Chúng tôi đã chờ đợi ông.” Rồi hình bóng đó quay đi, sải bước đến những bậc thềm.
Dee chui ra khỏi xe, và thấy rõ là trái tim mình đang xáo động khi hắn theo Senuhet bước vào bên trong lâu đài. Hai bóng đen còn lại đi hai bên cạnh hắn. Mặc dù không ai nói một lời nào, Dee biết họ là những vệ sĩ. Và hắn cũng không biết chắc liệu họ có phải là người hay không.
Dee nhận ra mùi hương ngọt ngào giả tạo ngay khi hắn bước vào trong ngôi nhà: đó chính là hương trầm, một loại hương thơm quý hiếm và đắt tiền từ vùng Trung Đông, được người Ai Cập và Hy Lạp cũng như người ở phía Đông của Trung Hoa sử dụng trong thời cổ xưa. Dee cảm thấy mắt mình đầy nước và cánh mũi hắn giật giật. Giống loài Elder đặc biệt ưa chuộng mùi hương trầm, nhưng mùi đó làm cho Dee đau đầu kinh khủng.
Khi ba bóng đen dẫn Dee vào hành lang chính hắn lờ mờ nhìn thấy nhân dạng của Senuhet: một người đàn ông mảnh khảnh nhỏ bé, hói đầu với làn da màu ôliu. Trông hắn giống như người gốc Trung Đông, từ Ai Cập hoặc Yemen. Senuhet đóng cánh cửa trước dày nặng lại, và nói ba từ, “Đợi ở đây,” và rồi biến mất vào trong màn đêm, để lại Dee với hai tay bảo vệ im lặng.
Dee nhìn xung quanh. Ngay cả trong ánh sáng lờ mờ, hắn cũng thấy là hành lang trống rỗng. Không hề có một thứ đồ gỗ nào đặt trên sàn lát đá, không có bức tranh nào ở trên tường, không có bức rèm nào trên các cửa sổ, không có tấm gương nào ở trên tường. Hắn biết là những ngôi nhà như thế này rải rác trên khắp thế giới, ngôi nhà của một số ít các Elder Đen tối muốn sống trà trộn trong thế giới con người, thường là để gieo rắc cái ác. Mặc dù bọn này có những khả năng nguy hiểm phi thường, sức mạnh của chúng bị giới hạn kinh khủng bởi sự gia tăng của sắt trong thế giới hiện đại khiến cho năng lực ma thuật của chúng bị yếu đi. Cũng giống như chì là một chất độc đối với con người, khi sắt, kim loại của con người, là vũ khí chết người đối với Giống loài Elder. Dee biết rõ, dù chẳng cần nhìn, là sẽ chẳng có lấy một mẩu nhỏ nào của kim loại trong ngôi nhà này. Tất cả mọi vật đều được làm bằng vàng hay bạc, ngay cả các nắm đấm cửa và những cái vòi trong phòng tắm.
Các Elder Đen tối rất coi trọng sự riêng tư; thường thì họ thích những nơi yên lặng và hẻo lánh - những hòn đảo nhỏ, sa mạc, những quốc gia như Thụy Sĩ, Liên bang Nga cũ, những vùng băng giá của Canada, thánh đường Himalaya, và rừng rậm Brazil. Khi họ chọn sống ở những thành phố như thế này, những ngôi nhà của họ thường được bảo vệ kiên cố sau những bức tường và dây kim loại với các nhân viên bảo vệ trang bị đến tận chân răng và những con chó đi tuần tra trên mặt đất. Và thậm chí nếu như bất kỳ ai đủ ngu ngốc hay may mắn tiến sâu vào sau cánh cổng, họ sẽ đụng đội với những lính gác già hơn, tăm tối hơn và nguy hiểm hơn.
“Lối này.”
Dee hài lòng vì hắn đã xoay xở để kiềm chế nỗi sợ hãi; hắn không nghe thấy tiếng bước chân trở lại của người đàn ông kia. Họ sẽ đi lên hay đi xuống đây, hắn tự hỏi. Theo kinh nghiệm của hắn, Giống loài Elder thường chia làm hai loại: những kẻ thích ngủ trên nóc nhà và những kẻ thích tầng hầm hơn. Morrigan là một sinh vật ưa thích gác mái và nóc nhà.
Senuhet bước vào một vũng ánh sáng và Dee chú ý thấy lúc này đôi mắt hắn được tô phủ một lớp phấn đen đánh mi mắt của người Ả-rập. Mí trên của hắn tô đen hoàn toàn. Có hai đường kéo dài từ đuôi mắt ra đến lỗ tai. Ba đường trắng thẳng đứng được vẽ nơi cằm hắn, ngay phía dưới đôi môi. Hắn dắt Dee đến một cánh cửa giấu kín nằm ngay phía dưới cầu thang rộng và mở nó ra bằng một câu mật mã trong ngôn ngữ mà vua Tutankhamen đã nói. Dee đi theo hình bóng đó xuyên qua cánh cửa và dừng lại nơi một hành lang tối đen trong khi cánh cửa lách cách đóng lại phía sau lưng họ. Hắn nghe thấy người đàn ông di chuyển phía trước mình, rồi những bước chân của hắn gõ lên những bậc thang.
Xuống. Dee đoán là vị Elder Đen tối mà Morrigan đã gởi hắn đến gặp là một sinh vật ưa thích các tầng hầm và đường hầm. “Tôi sẽ cần đến ngọn đèn,” hắn nói lớn. “Tôi không muốn té xuống các bậc thang và ngã gãy cổ.” Giọng nói của hắn vang vọng nhẹ trong không gian chật hẹp.
“Không hề có điện trong ngôi nhà này, Tiến sĩ John Dee ạ. Nhưng chúng tôi được biết ông là một phù thủy danh tiếng. Nếu ông muốn tạo ra ánh sáng, ông được phép làm điều đó.”
Không nói một lời, Dee duỗi thẳng tay ra. Một đốm xanh da trời hiện lên trong lòng bàn tay hắn. Nó kêu tí tách, quay tròn quanh trục, rồi bắt đầu bừng sáng, từ kích thước một hạt đậu to lên thành một quả nho. Nó tỏa ra ánh sáng màu trắng xanh lạnh lẽo. Vẫn chìa tay ra phía trước, Dee bắt đầu đi xuống cầu thang.
Hắn bắt đầu đếm các bậc thang khi hắn bước dần xuống, nhưng nhanh chóng bỏ cuộc và tập trung chú ý vào những hoa văn trang trí trên các bức tường, trần nhà và thậm chí sàn nhà. Tất cả giống như đang bước vào một lăng mộ Ả-rập, nhưng, không giống như vô số lăng mộ khác mà hắn từng trông thấy nơi những hình minh họa phai mờ dần, sứt mẻ và rạn vỡ và tất cả được phủ lên một lớp cát thô, những hình trang trí nơi đây trông thật tinh khôi, rực rỡ và nguyên vẹn. Những màu sắc - hơi bị khác đi bởi ngọn đèn xanh mà Dee đang cầm trên tay - trông giống như được sắp xếp, những chữ tượng hình và mật mã trông sinh động và xoăn tít và tên của các vị thần được khắc trong một cái là bằng vàng rất dày.
Một cơn gió đột ngột thổi tới khiến cho giọt đèn màu trắng xanh đung đưa và nhảy nhót trong bàn tay hắn, khiến cho những hình bóng biến đổi thình lình. Mũi của Dee khụt khịt: ngọn gió mang theo mùi hôi của một cái gì đó lâu ngày…lâu ngày và thối rữa.
Chiếc cầu thang đột ngột kết thúc, dẫn vào một hầm chứa có mái vòm rộng rãi. Dee cảm thấy một cái gì đó kêu lạo xạo dưới chân hắn ngay từ bước đi đầu tiên. Hắn hạ nhẹ tay xuống và ngọn đèn trắng xanh chiếu băng ngang qua sàn nhà….được lát bằng hàng nghìn khúc xương trắng được dệt thành một tấm thảm ngà trên mặt đất. Phải mất một lúc lâu Dee mới nhận ra rằng đây là những mẩu xương chuột. Một số cũ đến mức chúng vỡ vụn ra thành bột trắng khi hắn giẫm lên chúng; nhưng một số khác còn rất mới. Không muốn hỏi một câu hỏi mà hắn thật sự không muốn nghe câu trả lời, Dee đi theo người dẫn đường im lặng, những khúc xương vỡ vụn ra dưới mỗi bước chân của hắn. Hắn giơ cao bàn tay, cho ánh sáng rải xuống căn phòng. Tuy nhiên, không giống như các bậc thang, căn hầm bằng phẳng và không trang trí gì. Những bức tường có những sọc đen rịn nước, từng đám mốc xanh tập trung gần sàn nhà, những cây nấm lốm đốm tô điểm cho trần nhà.
“Có vẻ như các ông gặp vấn đề với sự ẩm ướt,” Dee nói một cách thừa thãi, đơn giản là để phá tan bầu không khí im lặng nặng nề.
“Chẳng có vấn đề gì đâu,” Senuhet nói nho nhỏ, “chúng tôi không còn ở đây lâu nữa.”
“Ông ở đây có lâu không?” Dee thắc mắc, liếc nhìn xung quanh.
“Trong nơi này hả?” Người đàn ông thứ hai ngừng lại, nhẩm tính. “Chưa tới một trăm năm. Thật sự chẳng đáng là bao.”
Một bóng đen chuyển động trong bóng tối. “Và chúng tôi sẽ không còn ở đây lâu nữa. Đó là lý do vì sao ông có mặt nơi đây, phải không Tiến sĩ Dee?” giọng nói bỗng trộn lẫn giữa tiếng gầm gừ nóng nảy và tiếng rừ rừ, gọt nhọn từng chữ tiếng Anh một cách khó khăn. Hầu như trái với ý muốn, Dee giơ cao tay lên, để cho ánh sáng trong lòng bàn tay chiếu vào hình dáng cao gầy đang chuyển động trong bóng tối lờ mờ. Ánh sáng chiếu rọi lên đôi chân trần, những ngón chân màu đen sắc nhọn như móng vuốt, rồi đến một cái váy trắng dày nặng rập nổi những viên đá quý, rồi đến ngực áo có nhiều dây vải chéo qua chéo lại với các ký tự Ả-rập, và cuối cùng là cái đầu. Mặc dù Dee biết là hắn đang nhìn thấy cái gì, hắn vẫn không thể ngăn cản một tiếng kêu kinh ngạc thoát ra từ đôi môi khi hắn nhìn vào Bastet. Cơ thể đó là của một người đàn bà, nhưng cái đầu chạm thấu trần nhà uốn vòm là một cái đầu mèo, bóng mượt và đầy lông lá với đôi mắt lớn có hai con ngươi màu vàng như những kẽ hở, một cái mũi nhọn dài và một đôi tai cao hình tam giác. Cái miệng hé mở và ánh sáng lạnh lẽo của Dee chiếu xuyên hàm răng vàng bóng lóa. Đây chính là sinh vật đã được thờ phụng qua nhiều thế hệ trên khắp các vùng đất của Ả-rập.
Dee liếm đôi môi khô nứt khi hắn cúi chào thật thấp. “Cháu gái bà, Morrigan, gởi lời chào đến bà và có nhờ tôi chuyển tới bà lời nhắn gởi đó là đã đến lúc bà trả mối thù đối với Nữ thần Ba mặt.”
Bastet chồm lên, thò bàn tay đầy móng sắc lên nếp gấp chiếc áo khoác ngoài đắt tiền của Dee, vẽ những lỗ tròn trên lớp vải lụa. “Chính xác….hãy nói cho ta nghe một cách chính xác là cháu gái ta đã nói gì,” bà ta yêu cầu.
“Tôi đã nói với bà rồi đó.” Dee nói, nhìn thẳng lên khuôn mặt đáng sợ. Hơi thở của Bastet nồng nặc mùi thịt thối. Hắn tung trái banh ánh sáng xanh da trời lên không khí cho nó treo lơ lửng và xoay tít, rồi hắn gạt nhẹ các móng vuốt của Bastet ra khỏi áo khoác của mình một cách cẩn thận. Chiếc áo đã bị rách một đường nhỏ.
“Morrigan muốn bà tham gia cùng cô ấy trong cuộc tấn công Vương quốc Bóng tối của Hekate,” Dee nói một cách đơn giản.
“Vậy là đã đến lúc rồi,” Bastet tuyên bố một cách đắc thắng.
Viên phù thủy cổ đại gật đầu, những bóng đen đu đưa nhảy nhót trên các bức tường theo những chuyển động. “Đã đến lúc,” hắn đồng ý, “lúc để Giống loài Elder quay trở lại và giành lại trái đất.”
Bastet tru lên, tiếng tru nghe cao vút và đầy đe dọa và rồi vùng bóng tối sau lưng bà ta sôi lên sùng sục và hàng nghìn con mèo, gồm đủ mọi chủng loại, đủ mọi kích thước, nhảy vào căn hầm và tụ tập quanh bà ta thành một vòng tròn lớn chưa từng thấy. “Đã đến lúc để săn đuổi,” bà ta tuyên bố, “đã đến lúc cho ăn.”
Những con mèo lắc lư và kêu gào ầm ĩ. Dee cảm thấy cảnh tượng thật đáng kinh hoàng, nghe như vô số em bé đang khóc.
Dạ Phong
21-11-2010, 06:26 AM
Chương 21
Scathach đang đứng đợi ở những cánh cửa hé mở khi Sophie và Josh quay trở lại ngôi nhà. Con thằn lằn bay nhảy chồm chồm phía sau và hai con còn lại bay vòng tròn sà thấp phía trên đầu chúng, gió ở dưới những đôi cánh thằn lằn làm cuộn xoáy lên những đám bụi mịt mù. Mặc dù không ai nói lời nào, cặp sinh đôi biết rằng chúng đang được dồn trở lại một cách nhẹ nhàng nhưng quyết liệt về phía ngôi nhà.
Trong bóng tối lờ mờ, khuôn mặt của Scathach xanh xao một cách không tự nhiên. Mái tóc đỏ của cô chuyển thành màu đen trong bóng tối. Mặc dù đôi môi cô mím lại vẻ khắc nghiệt, giọng nói của cô, khi cô cất tiếng, nghe khá trung tính. “Các em có thật sự muốn tôi nói cho biết rằng việc làm của hai đứa nguy hiểm một cách ngu ngốc đến thế nào không?”
Josh định mở miệng trả lời, nhưng Sophie kéo cánh tay cậu, ngăn không cho cậu nói. “Tụi em chỉ muốn trở về nhà,” cô nói ngắn gọn với vẻ mệt mỏi. Cô đã biết những gì mà nữ chiến binh sắp sửa nói.
“Tụi em không thể,” Scathach nói và quay đi.
Cặp sinh đôi đứng chần chờ nơi cánh cửa, rồi chúng quay lại ngó con thằn lằn bay. Nó nghiêng nghiêng cái đầu như đầu rắn và chào mừng chúng bằng đôi mắt to có đôi con ngươi dài hẹp và giọng nói của nó vang lên dứt khoát trong đầu chúng. “Đừng lo lắng quá nhiều về Scathach; cô ta chỉ mạnh miệng thôi chứ không có ý gì đâu.” Sinh vật mở miệng để lộ hàng trăm chiếc răng hình tam giác trông như một nụ cười. “Tôi tin chắc là cô ấy rất lo cho các bạn,” nó thêm vào, rồi quay ra xa, vừa chạy vừa nhảy nước bước ngắn và bay vào không trung với một cú đập lớn.
“Đừng nói lời nào hết,” Sophie cảnh báo em trai. Những câu châm biếm và bình luận của Josh luôn mang tới khó khăn cho cậu. Mặc dù Sophie có khả năng quan sát và giữ im lặng, em trai cô luôn luôn vọt miệng nhận xét hay bình phẩm.
“Chị đâu phải là ông chủ của em,” Josh trả lời cô một cách giễu cợt, nhưng giọng nói của cậu run rẩy. Josh sợ rắn kinh khủng kể từ lần đầu cậu đi cắm trại với cha mẹ và ngã vào một ổ rắn đuôi chuông. May mắn thay con rắn độc chết người đó vừa ăn no và tảng lờ cậu bé, cho phép cậu tranh thủ vài giây để bò ra khỏi vùng nguy hiểm. Josh đã có những cơn ác mộng về rắn trong nhiều tuần tiếp theo và theo sau đó cậu vẫn tiếp tục nằm mơ đặc biệt là khi cậu bị căng thẳng cao độ - thường là trong thời gian thi cử. Những con thằn lằn bay với cái đầu giống rắn cũng nằm trong những cơn ác mộng tối tăm nhất của Josh và khi nhìn thấy chúng nhảy lò cò trong đêm, cậu cảm thấy tim mình đánh lô tô mạnh đến nỗi lớp da trên ngực cậu thực sự rung động. Khi cái mặt có những chiếc răng dài vươn về phía cậu, cậu tưởng mình sắp ngất xỉu. Thậm chí ngay bây giờ, cậu vẫn còn cảm thấy những giọt mồ hôi lạnh giá chạy dọc theo xương sống.
Sophie và Josh đi theo Scathach đi xuyên qua ngôi nhà của Hekate. Cặp sinh đôi để ý thấy những tấm ván lót sàn kêu cọt kẹt dưới bước chân, những bức tường gỗ kêu lốp bốp và răng rắc như thể ngôi nhà đang chuyển động, thay đổi và vặn mình lớn lên. Chúng cũng nhận thấy rằng những giọng nói, tiếng thét và tiếng gào hồi nãy nay đã rơi vào im lặng.
Scathach dẫn bọn chúng vào một căn phòng tròn trống rỗng nơi Nicholas Flamel đang chờ đợi. Ông đứng xoay lưng về phía chúng, hai bàn tay ông chắp sau lưng và ông đứng nhìn chằm chằm vào màn đêm. Ánh sáng duy nhất trong căn phòng đến từ vầng trăng vành vạnh nay đã lặn xuống dưới đường chân trời. Một phía của căn phòng chìm trong ánh sáng trắng bạc gay gắt, phía bên kia cũng chìm trong bóng tối. Scatty băng qua bóng tối đến đứng bên cạnh Nhà Giả kim. Cô khoanh tay trước ngực và quay nhìn về phía cặp sinh đôi, khuôn mặt cô không biểu lộ cảm xúc gì.
“Lẽ ra hai cháu đã bị giết,” Flamel nói nhỏ nhẹ mà không hề quay lại. “Hay là còn tồi tệ hơn thế nữa.”
“Chú không thể giữ bọn cháu ở đây,” Josh nói vội vã, giọng của cậu vang to trong không gian im lặng. “Bọn cháu không phải là tù binh của chú.”
Nhà Giả kim liếc nhìn ra phía sau lưng. Ông đang đeo chiếc kính tròn nhỏ và, trong bóng tối lờ mờ, đôi mắt của ông giấu kín đằng sau những mắt kính tròn gọng bạc. “Không, không phải tù binh,” ông nói lặng lẽ, trọng âm tiếng Pháp bỗng nhiên nghe rất rõ ràng. “Hai cháu là tù nhân của hoàn cảnh, của một sự trùng hợp ngẫu nhiên và của cơ hội….nếu như hai cháu tin vào những điều đó.”
“Tôi không tin,” Scathach thì thầm.
“Tôi cũng đâu có tin,” Nicholas nói, xoay mình lại. Ông cởi kính ra và day day sống mũi. Có những quầng thâm ngay dưới đôi mắt xanh nhợt của ông và đôi môi ông mím chặt thành một đường kẻ mỏng. “Chúng ta tất cả đều là tù nhân của những thứ này - tù nhân của hoàn cảnh và sự kiện. Gần bảy trăm năm trước chú đã mua một cuốn sách cũ mòn được viết bằng một thứ ngôn ngữ không thể hiểu được. Đó là ngày chú cũng trở thành một tù nhân, mắc kẹt như thể bị giam đằng sau những chấn song. Hai tháng trước Josh, lẽ ra cháu không bao giờ nên đến xin việc nơi chỗ chú hay cháu, Sophie, lẽ ra cháu cũng không nên làm việc ở tiệm Tách Cà phê. Nhưng hai cháu đã làm và bởi vì quyết định của mình và cả hai đứa đều đứng bên cạnh chú trong đêm nay.” Ông ngừng lại và liếc nhìn Scathach. “Tất nhiên, có một cơ sở lập luận rằng hai cháu đã được định đoạt để nhận việc làm thêm, để gặp Perenelle và chú, và để rơi vào cuộc phiêu lưu này.”
Scathach gật đầu, “Định mệnh,” cô nói.
“Chú đang nói là mọi chuyện xáy ra ngoài ý muốn của bọn cháu,” Sophie hỏi, “và tất cả những việc này đều được đẩy đưa theo số phận?” Cô lắc đầu. “Cháu không thể tin điều đó, dù chỉ trong một phút.” Ý tưởng đó đã đi ngược lại tất cả những gì mà cô tin tưởng: ý tưởng cho rằng có thể nói trước được tương lai nghe thật buồn cười.
“Cháu cũng không tin,” Josh nói một cách bướng bỉnh.
“Và đây,” Flamel nói nhỏ nhẹ, “điều gì sẽ xảy ra nếu chú nói với hai cháu là Cuốn sách của Pháp sư- một cuốn sách được viết hơn hai nghìn năm trước - nó có nói về hai cháu?”
“Không thể được,” Josh buộc miệng, đột nhiên cảm thấy hoảng sợ bởi tiết lộ.
“À!” Nicholas Flamel giang rộng đôi cánh tay. “Và điều này có nghĩa là không thể hay không? Đêm nay hai cháu đã đụng với những kẻ bảo vệ có cánh của Hekate. Hai cháu nghe thấy những giọng nói trong đầu mình. Những điều đó là không thể ư? Và những con Torc Allta - bọn chúng cũng là điều không thể? Chúng là những sinh vật không có quyền tồn tại bên ngoài những thần thoại.”
“Và còn chúng tôi thì sao?” Scathach hỏi. “Nicholas gần bảy trăm tuổi và tôi thì già đến mức tôi đã từng chứng kiến các triều đại vươn lên rồi sụp đổ. Chẳng lẽ chúng tôi cũng là điều không tưởng nốt?”
Và cả Josh lẫn Sophie đều không thể phủ nhận.
Nicholas bước lên phía trước và để hai tay lên vai của cả Josh và Sophie. Ông không cao hơn cặp sinh đôi và đứng nhìn thẳng vào đôi mắt chúng. “Hai cháu phải thừa nhận rằng mình đã bị mắc kẹt trong thế giới đầy những điều không thể xảy ra được này. Nếu rời khỏi nó, hai cháu sẽ đem đến chính sự hủy diệt cho gia đình và bạn bè mình, và nhiều khả năng là cái chết cho chính mình nữa.”
“Bên cạnh đó,” Scathach nói thêm một cách chua chát, “nếu hai đứa đã được nói đến trong cuốn sách, thì hai đứa có bổn phận phải có mặt ở nơi đây!”
Cặp sinh đôi nhìn Scatty và Flamel. Ông gật đầu. “Đúng thế. Cuốn sách đầy những lời tiên tri - một số trong đó đã thành sự thật, một số khác có thể xảy ra như dự định. Nhưng cuốn sách đặc biệt có đề cập đến “hai mà chỉ một, bạc và vàng”.”
“Bạc và vàng,” Sophie thì thầm, “và chú tin rằng….?”
“Đúng, chú tin là hai đứa chính là những gì mà lời tiên tri nói đến. Thực sự, chú bị thuyết phục về điều đó.”
Scathach tiến đến đứng bên cạnh Flamel. “Điều đó có nghĩa là hai em đột nhiên trở nên cực kỳ quan trọng - không chỉ đối với chúng tôi, mà còn đối với Dee và các Elder Đen tối.”
“Tại sao?” Josh liếm đôi môi đột nhiên khô nứt. “Tại sao tụi cháu lại quan trọng đến như vậy?”
Nhà Giả kim liếc qua vai ông, nhìn Scatty để tìm kiếm sự ủng hộ. Cô gật đầu. “Nói với chúng đi. Chúng cần được biết.”
Cặp sinh đôi quay nhìn Scatty rồi lại sang Nhà Giả kim. Chúng linh cảm thấy rằng những gì ông ta sắp sửa nói với chúng là vô cùng quan trọng. Sophie cầm lấy tay Josh, và cậu siết chặt những ngón tay cô.
“Cuốn Codex tiên đoán rằng hai mà chỉ một sẽ cứu thoát hoặc hủy diệt thế giới.”
“Ý của chú là gì, hoặc cứu thoát hoặc hủy diệt,” Josh đòi hỏi, “nó phải là hoặc cái này hoặc cái kia, đúng không?”
“Từ dùng trong cuốn Codex tương tự với một biểu tượng Babylon cổ xưa có nghĩa là hoặc cái này hoặc cái kia,” Flamel giải thích. “Thực ra, chú luôn luôn nghi ngờ không biết đó có phải là một trong hai cháu có khả năng cứu thoát thế giới, trong khi người kia có sức mạnh hủy diệt nó.”
Sophie lấy khuỷu tay thúc vào sườn Josh. “Kẻ hủy diệt sẽ là em đó.”
Flamel đứng lùi ra sau hai đứa trẻ. “Trong vòng vài tiếng đồng hồ nữa, khi Hekate thức dậy, chú sẽ nhờ bà ta đánh thức ma thuật tiềm ẩn của hai cháu. Chú tin là bà ta sẽ làm điều đó; chú hy vọng và cầu nguyện là bà ta sẽ làm,” ông nói nồng nhiệt. “Rồi chúng ta sẽ ra đi.”
“Nhưng chúng ta sẽ đi đâu?” Josh hỏi cùng lúc Sophie nói, “Chắc là Hekate sẽ không cho phép chúng ta ở lại nơi đây?”
“Chú hy vọng là một số Elder khác hoặc những con người bất tử sẽ được thuyết phục về sự giúp đào tạo hai đứa. Và không, chúng ta không thể ở đây. Dee và Morrigan đã đánh thức một trong những Elder đáng kinh hoàng nhất: Bastet.”
“Nữ thần mèo Ả - rập đó hả?” Sophie hỏi.
Flamel chớp mắt trong nỗi ngạc nhiên. “Chú rất ấn tượng.”
“Ba mẹ của tụi cháu là những nhà khảo cổ, chú hãy nhớ cho. Trong khi những đứa trẻ khác được đọc truyện cổ tích cho nghe trước giờ đi ngủ, ba mẹ tụi cháu lại kể về những thần thoại và huyền thoại.”
Nhà Giả kim gật đầu. “Ngay cả khi chúng ta đang nói đây, Bastet và Morrigan đang tập hợp quyền năng để tấn công tổng lực vào Vương quốc Bóng tối của Hekate. Chú e là bọn chúng sẽ cố gắng tấn công vào những giờ của buổi tối, khi Hekate đang ngủ. Nhưng đến nay vẫn chưa thấy dấu hiệu gì của chúng, và bình minh sắp ló dạng rồi. Chú chắc chắn là bọn chúng biết là chúng sẽ chỉ có một cơ hội và bọn chúng cần tập trung toàn bộ lực lượng vào một chỗ trước lúc tấn công. Trong lúc này, chúng tin là chúng ta không biết gì về ý định của chúng; và quan trọng hơn, chúng không biết là chúng ta đã để ý tới sự can thiệp của Bastet. Nhưng chúng ta sẽ sẵn sàng nghênh tiếp chúng.”
“Làm thế nào mà chúng ta biết được?” Sophie hỏi.
“Perenelle nói với chú,” Flamel nói và trả lời luôn câu hỏi khá rõ ràng tiếp theo. “Cô ấy là một phù thủy tháo vát, cô ấy đã triệu tập một linh hồn đã lìa khỏi xác để chuyển lời nhắn đến cho chú.”
“Một linh hồn đã lìa khỏi xác?” Sophie nói. “Ý chú là một con ma?” Sau những gì mà chúng đụng độ tính đến nay, cô thấy rằng thật dễ dàng để tin vào ma.
“Đúng vậy,” Flamel nói.
“Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng tấn công nơi đây? Ý cháu là chúng ta đang nói đến loại hình tấn công nào?” Josh hỏi.
Flamel nhìn qua vai về phía Scatty. “Tôi chưa có mặt trong lần cuối cùng Giống loài Elder giao chiến với nhau.”
“Tôi thì có,” Scatty nói một cách u sầu. “Phần lớn con người chẳng ai biết đến bất cứ điều gì đang xảy ra lúc đó.” Cô nhún vai. “Nhưng sự phóng ra các năng lượng ma thuật trong các Vương quốc Bóng tối chắc chắn sẽ ảnh hưởng mạnh đến khí hậu và địa chất địa phương: có thể sẽ xảy ra động đất, một cơn lốc xoáy hay cả hai, cuồng phong và mưa, rất nhiều mưa. Và tôi thực sự rất ghét mưa,” cô nói thêm, “đó là một trong những lý do tôi rời khỏi Hibernia.”
“Chúng ta sẽ phải làm một cái gì đó,” Sophie nói, “chúng ta phải báo cho mọi người biết.”
“Và lời cảnh báo sẽ được diễn đạt như thế nào đây?” Flamel hỏi. “Rằng sắp tới sẽ diễn ra một cuộc chiến pháp thuật có thể gây ra động đất và lũ lụt? Không phải là điều là cháu có thể gọi điện tới tòa báo hay trạm dự báo thời tiết đâu nhé?”
“Chúng ta phải…..”
“Không, chúng ta không làm chuyện đó,” Nhà Giả kim nói dứt khoát. “Chúng ta phải đưa hai cháu cùng những trang giấy xé ra từ cuốn sách ra xa khỏi nơi đây.”
“Còn Hekate thì sao?” Josh hỏi. “Liệu bà ta sẽ có thể tự vệ chứ?”
“Chống lại Dee và Morrigan - được. Nhưng với Bastet nhập bọn với chúng, tôi đơn giản là không biết được,” Scatty trả lời. “Tôi không biết Nữ thần mạnh tới mức nào.”
“Mạnh hơn là cô có thể tưởng tượng.”
Tất cả họ cùng quay về phía cửa ra vào nơi một cô gái trẻ - trông không thể lớn hơn tuổi mười một - đang đứng, chớp mắt và há miệng ngáp. Cô lấy một tay dụi dụi đôi mắt màu vàng sáng và nhìn họ chằm chằm, rồi cô mỉm cười, hàm răng trắng bóng nổi bật lên làn da đen huyền. Cô mặc một chiếc áo choàng rộng và ngắn may bằng loại vải óng ánh giống như loại mà Hekate - già - hơn đã mặc, nhưng lần này chiếc váy có những sọc màu vàng và xanh lá cây. Mái tóc trắng bạc của cô uốn thành nhiều lọn quăn phủ xuống đôi vai.
Nhà Giả kim cúi chào. “Chào buổi sáng. Tôi đã không nghĩ là cô thức dậy trước bình minh.”
“Làm sao tôi có thể ngủ được với tất cả hoạt động này?” Hekate nói. “Ngôi nhà đánh thức tôi dậy.”
“Ngôi nhà…” Josh bắt đầu.
“Ngôi nhà,” Hekate nói dứt khoát, “nó vẫn đang sống.” Có hàng tá câu hỏi và bình luận Josh định nói ra nhưng, nhớ lại chất lỏng màu xanh lá cây đêm qua, cậu quyết định một cách khôn ngoan là ngậm miệng.
“Tôi biết là Morrigan và bà chị Elder Bastet đang có kế hoạch tấn công tiêu diệt Vương quốc Bóng tối này,” cô gái nói một cách dứt khoát.
Nicholas liếc vội sang Scathach, lúc đó đang khẽ nhún vai nhè nhẹ. Cô không biết là làm cách nào Hekate biết được chuyện đó.
“Tôi chắc chắn là em hiểu rằng tất cả nhiều gì xảy ra trong ngôi nhà này, tất cả từ ngữ được nói ra hay thậm chí cả từng ý nghĩ,” Hekate nói tiếp, đưa mắt nhìn Josh, “ta đều biết.” Cô gái mỉm cười và, trong giây phút đó, trông giống hệt như phiên bản già hơn của chính cô ta. Nụ cười làm môi cô cong lên, nhưng không làm cho ánh mắt lay động. Cô di quanh căn phòng, và Sophie để ý rằng khi cô chuyển động, ngôi nhà phản ứng lại sự hiện diện của cô. Khi cô đứng nơi ngưỡng cửa, những trồi non xanh nhú lên, rầm đỡ và ngưỡng cửa nở ra những bông hoa li ti xanh biếc. Nữ thần Ba mặt dừng lại ngay trước mặt Nicholas Flamel và nhìn vào đôi mắt lo lắng của ông. “Tôi thích thú hơn nếu như ông đã không đến nơi đây. Tôi sẽ thích thú hơn với việc không đánh nhau với bà chị và cháu gái của mình. Và tôi chắc chắn là sẽ thích thú hơn nếu như không bị buộc phải chọn lựa đứng hẳn về phía một phe nào đó.”
Scathach khoanh tay trước ngực và nhìn nữ thần chăm chú. “Cô không bao giờ thích chọn phe Hekate - hèn chi cô có ba mặt.”
Sophie ngắm nhìn Hekate trong khi Scathach nói và, trong một khoảnh khắc cô thoáng trông thấy một cái gì đen tối và cực kỳ già nua lóe lên trong đôi mắt cô gái trẻ. “Tôi đã sống sót qua nhiều thiên niên kỷ bởi vì tôi chú ý quản lý hội đồng của mình,” Hekate nói. “Nhưng tôi đã chọn phe khi mà cuộc chiến đáng để chọn.”
“Và bây giờ,” Nicholas Flamel nói một cách nhỏ nhẹ, “Tôi nghĩ đã đến lúc chọn lần nữa. Tuy nhiên chỉ mỗi một mình cô là có thể quyết định cuộc chiến này có đáng để chọn hay không?”
Hekate phớt lờ câu hỏi và xoay quanh nhìn vào khuôn mặt của Sophie và Josh. Bàn tay nhỏ của cô chuyển động trong không khí và ngay lập tức các luồng điện xung quanh hai đứa trẻ lóe lên ánh sáng bạc và vàng lấp lanh. Cô nghiêng đầu qua một bên, nhìn bọn trẻ, quan sát những bong bóng sáng bạc bao quanh Sophie và rồi nhìn những đường viền họa tiết vàng đang chuyển động lên xuống trong luồng điện của Josh. “Ông có thể đúng,” cuối cùng thì cô nói, “những đứa trẻ này thực sự đúng là những người mà cuốn Codex đề cập tới. Đã nhiều thế kỷ trôi qua kể từ khi tôi tiếp xúc với những luồng điện tinh khiết đến nhường này. Hai đứa trẻ sở hữu những năng lượng tiềm ẩn mạnh khủng khiếp còn chưa khai thác.”
Flamel gật đầu. “Nếu tôi có thời gian tôi sẽ đào tạo cho chúng và từ từ đánh thức sức mạnh tiềm tàng của chúng….nhưng những sự kiện cứ xảy ra khiến cho thời gian trở thành một thứ hàng hóa quý giá mà tôi không hề có. Khả năng giải phóng năng lực tiềm ẩn của hai đứa trẻ nằm trong tay cô. Cô có thể làm một cái gì đó ngay trong nháy mắt mà lẽ ra người khác phải mất nhiều năm mới làm được.”
Hekate liếc qua vai để nhìn Nhà Giả kim. “Và có những lý do chính đáng khiến cho việc đánh thức phải mất nhiều năm,” cô nói một cách tùy tiện. “Con người ít khi sử dụng các giác quan của mình. Ông đang muốn đánh thức trọn vẹn năng lượng tiềm ẩn trong hai đứa trẻ. Tôi sẽ không làm điều đó: những giác quan bị quá tải có thể hủy diệt chúng, làm cho chúng hóa điên.”
“Nhưng….” Flamel bắt đầu.
“Tôi sẽ không làm điều đó.” Cô quay lại phía hai đứa trẻ. “Những gì mà ông ta yêu cầu ta làm có thể giết chết hai em - nếu hai em may mắn,” cô nói, và rồi quay đi và bước ra khỏi căn phòng, để lại những dấu chân nhỏ lún phún cỏ xanh phía sau lưng.
Dạ Phong
21-11-2010, 06:29 AM
Chương 22
Cặp sinh đôi tắt tiếng trong giây lát vì choáng váng. Rồi, Josh bắt đầu, “Ý cô ta muốn nói gì…?”
Nhưng Nicholas vội vã băng qua cậu, tảng lờ câu hỏi, rồi ông đi theo Hekate ra ngoài hành lang. “Cô ta nói quá lên thôi,” ông ngoái đầu nhìn lui và nói. “Cố làm cho hai đứa hoảng sợ đó mà.”
“Ồ, sợ thật đấy,” Josh thì thầm. Cậu nhìn sang Scathach, nhưng cô quay lưng lại và bước đi ra phía khu vườn. “Này,” cậu gọi với theo sau lưng cô, “quay lại đi. Tôi có vài câu hỏi….” Cậu cảm thấy một cơn giận bất thần vụt đến; cậu cảm thấy mệt mỏi vì cứ bị cư xử như đối với một đứa trẻ. Cậu - và chị gái - xứng đáng nhận được một số câu trả lời.
“Josh,” Sophie cảnh báo.
Nhưng em trai cô phóng qua mặt cô và hướng về phía đôi vai của Scathach. Những ngón tay của cậu thậm chí chưa hề chạm vào cô. Đột nhiên, cậu bị chụp lấy, xoắn tít, quay vòng và rồi ném tung lên không khí. Cậu rơi mạnh xuống sàn nhà đủ để đánh bật tất cả không khí ra khỏi phổi, và cậu thấy mình đang nhìn trân trối vào chiều dài thanh kiếm của Scathach, cô chĩa thẳng mũi kiếm vào giữa hai con mắt của cậu. Khi cô nói, giọng của cô chỉ hơn lời thì thầm một chút. “Đêm qua em đã xúc phạm một trong những Giống loài Elder, hôm nay em xoay xở để chọc tức một trong Thế hệ Kế tiếp - và bây giờ còn chưa đến bình minh,” cô nói thêm. Nữ Chiến binh tra gươm vào vỏ và nhìn về phía Sophie mặt đang tái nhợt sững sờ. Cô thậm chí còn không nhìn thấy chuyển động của Scathach. “Cậu ta có luôn luôn như thế này không?” Scatty hỏi.
“Như thế này là thế nào?” Sophie hỏi.
“Ngu ngốc, gợi ý tầm bậy, khinh suất liều lĩnh……? Tôi có cần phải nói tiếp không?”
“Không cần đâu. Và vâng, nó thường như vậy đó. Đôi khi còn tệ hơn.” Khi hai đứa cùng lớn lên, cô thường chọc Josh là cậu có các gien “hành động” trong khi cô có nhiều gien “suy nghĩ”. Em trai cô bốc đồng và táo bạo, nhưng cậu cũng rất trung thành và đáng tin cậy.
Scathach kéo chân Josh đứng lên. “Nếu em cứ tiếp tục với tốc độ như thế này, em sẽ không tồn tại lâu trên thế giới.”
“Em chỉ muốn hỏi chị một vài câu hỏi thôi…”
“Em may mắn đó. Vài thế kỷ trước, tôi có thể đã giết chết em rồi. Tôi đã từng rất nóng nảy,” cô thừa nhận, “nhưng tôi đã và đang nỗ lực kiềm chế cảm xúc của mình.”
Josh xoa lưng nhè nhẹ. Cậu hiểu rằng nếu như Scathach quăng cậu xuống những hòn đá cậu có thể bị thương rất nặng, nhưng cậu cũng nhận ra rằng cô đã cẩn thận thả cho cậu rơi xuống nơi những bãi cỏ và đám rêu. “Trông như một cú ném của Judo,” cậu nói run run, cố gắng để giọng nói của mình vang lên tự nhiên và đổi đề tài.
“Một cái gì tương tự như vậy….”
“Chị học Judo ở đâu?”
“Tôi không học Judo. Tôi tạo nên ông tổ lâu đời của phần lớn các môn võ thuật được học ngày nay,” nữ chiến binh tóc đỏ nói, đôi mắt sáng màu xanh lá cây lóe lên ranh mãnh. “Thật sự hai em cũng chẳng bị hại gì nếu như tôi chỉ cho hai em vài động tác đơn giản.”
“Em nghĩ là tụi em sẽ làm được những động tác tốt hơn sự đơn giản,” Josh nói, “tụi em học Taekwondo hai năm khi ba mẹ em dạy học ở Chicago và tụi em học Karate ở New York …..hay là Boston ta?”
“Chị sáng tạo ra Judo hả?” Sophie hỏi, cố gắng giữ cho giọng nói của mình đều đều.
“Không, Kano Jigoro mới là người tạo ra Judo hiện đại, nhưng ông ta đặt nền móng cho hệ thống giao chiến ở môn Jujitsu, một bộ môn liên quan đến Aikido được phát triển mạnh hơn trong Thế kỷ Mười bốn. Tôi tin là tôi đã ở Nhật Bản trong thời gian đó. Tất cả các bộ môn võ thuật đều có gốc rễ chung. Và đó là tôi,” Scatty nói một cách khiêm nhường. “Lại đây, nếu hai em đã biết chút ít về Taekwondo và Karate thì rất có ích. Hãy để tôi chỉ cho hai em vài động tác cơ bản, trong khi chúng ta đang chờ Nicholas.”
“Chú ấy đâu rồi?” Sophie hỏi, ngoái đầu nhìn lui sau vai về phía ngôi nhà. Chuyện gì đang xảy ra ở đó? “Có phải là chú ý đang nhờ Hekate đánh thức năng lượng ma thuật tiềm ẩn của tụi em không?”
“Đúng thế,” Scatty đồng ý.
“Nhưng Hekate nói là việc đó có thể giết chết tụi em mà,” Josh nói khẩn thiết. Cậu đã bắt đầu nghi ngờ là chương trình của Flamel vượt ra ngoài việc bảo vệ hai đứa trẻ. Ông ta đang theo đuổi một điều gì khác nữa.
“Cô ta chỉ đoán thôi,” Scatty nói, “cô ta khi nào cũng là một nữ hoàng của bi kịch mà.”
“Vậy Nicholas chắc chắn là tụi em không gặp nguy hiểm?” Josh hỏi.
“Không, ông ta thực sự là không chắc được,” Scatty mỉm cười. “Nhưng tin tôi đi, hai em đang gặp nguy hiểm đó. Sự khác biệt duy nhất đó là nếu Hekate đánh thức hai em, khi đó hai em sẽ thật sự gặp nguy hiểm trầm trọng.”
[center:10fg83gd]++++++++++++++++++[/center:10fg83gd]
Nicholas Flamel đi theo Hekate đi xuyên qua ngôi nhà. Những ngón tay của người phụ nữ trẻ rẹt lên những bức tường, để lại những vệt gỗ sáng có lá và hoa theo dấu chân cô. “Tôi cần sự giúp đỡ của cô, Hekate. Tôi không thể làm việc này một mình được,” ông gọi cô.
Nữ thần phớt lờ ông ta. Cô đi xuống một hành lang thẳng tắp và lao về phía trước. Những bước chân của cô để lại những đám cỏ xanh tiếp tục mọc lên ngay cả khi Flamel vội vã chạy theo cô. Nhưng khi ông đi được một nửa chiều dài hành lang thì những cây cỏ đã mọc cao ngang đầu gối, rồi ngang thắt lưng, và đột ngột toàn bộ hành lang phủ đầy những cây cỏ cao sắc như dao cạo. Chúng cùng nhau thì thầm du dương, những âm thanh nghe như những lời nói.
Nicholas Flamel cho phép một ít giận dữ rỉ ra trong luồng điện của mình. Nắm tay phải thành một nắm đấm, ông đột ngột xòe rộng bàn tay và không khí tràn ngập mùi thơm bạc hà. Những cây cỏ ngay trước mặt ông xẹp hẳn xuống như thể chúng bị một cơn gió mạnh thổi rạp và Nhà Giả kim chỉ vừa kịp nhìn thấy người phụ nữ trẻ bước vào một căn phòng tách biệt hẳn với các căn phòng còn lại của ngôi nhà. Nếu như ông chậm trễ chỉ một giây, ông rất có thể đã bước qua cánh cửa mở.
“Những trò chơi thế này đủ rồi đây,” Flamel nói, tiến vào phòng.
Hekate quay người lại đối mặt ông. Cô đã già đi đôi chút sau vài phút băng qua dãy hành lang. Bây giờ trông cô độ khoảng mười lăm tuổi. Khuôn mặt của cô như một chiếc mặt nạ xấu xí với đôi mắt màu vàng gay gắt. “Làm sao mà ông có thể dám nói những lời như vậy với tôi!” Cô giơ cao hai bàn tay một cách đe dọa. “Ông biết là tôi có thể làm gì ông rồi đó.”
“Cô sẽ không dám làm,” Flamel nói với một sự trầm tĩnh mà ông không cảm thấy được.
“Và tại sao lại không?” Hekate hỏi, đầy ngạc nhiên. Cô ta không quen với việc bị cự lại.
“Bởi vì tôi là Người bảo vệ Cuốn sách.”
“Cuốn sách mà ông đã mất….”
“Tôi cũng chính là Người bảo vệ xuất hiện trong những lời tiên tri của cuốn sách,” Flamel nói. “Người bảo vệ tiếp theo và sau cùng,” ông nói tiếp. “Cặp sinh đôi cũng xuất hiện trong cuốn sách. Cô đã nói với tôi là cô biết Abraham người tạo ra cuốn Codex, cô biết những lời tiên tri và tiên đoán chính xác đến mức nào.”
“Ông ta thường sai,” Hekate lẩm bẩm.
“Là Người bảo vệ, tôi nhờ cô làm một điều gì đó mà tôi tin là cốt yếu đối với sự sống sót của không chỉ Giống loài Elder mà còn của con người: tôi muốn cô đánh thức năng lượng ma thuật tiểm ẩn trong cặp sinh đôi.”
“Điều đó có thể giết chết chúng,” nữ thần nói thẳng thừng. Cô thực sự không hề quan tâm tới việc những con người tầm thường còn sống hay đã chết.
“Đó là một khả năng,” Flamel thừa nhận, cảm thấy một cái gì đó lạnh lẽo và buốt giá nhói lên trong dạ dày, “nhưng nếu như cô không giúp đỡ chúng tôi, thì cái chết sẽ đến với hai đứa trẻ.”
Hekate xoay người và bước tới đứng bên cửa sổ. Băng qua bãi cỏ nghiêng dốc, Scathach đang trình diễn một loạt các nắm đấm cho cặp sinh đôi. Chúng bắt chước các chuyển động của cô một cách nhịp nhàng. Flamel đứng cạnh Hekate bên cửa sổ.
“Cái thế giới mà chúng ta đang sống mới kỳ lạ làm sao.” Ông thở dài, “khi mà tất cả mọi thứ - thậm chí cả sự tiếp diễn của loài người - lại nằm trên đôi vai của những đứa trẻ mới lớn.”
“Ông có biết vì sao loài người chiến thắng mà Giống loài Elder cuối cùng đã bị xua đuổi khỏi trái đất không?” Hekate hỏi một cách đột ngột.
“Nhờ có sắt, phải vậy không?”
“Đúng, bởi vì sắt. Chúng tôi đã sống sót qua vụ chìm Danu Talis, chúng tôi đã sống sót qua cơn Đại hồng thủy, và tiếp đến là Thời đại Băng hà. Và rồi khoảng hai nghìn năm trước, một công nhân chuyên về kim loại, người đã chế tạo ra đồng thiếc, bắt đầu thử nghiệm loại kim loại mới. Ông ta chỉ là một người đàn ông - và ông ta đã xoay xở quét sạch một giống nòi cùng một cách sống. Những thay đổi to lớn luôn luôn xảy ra sau những hành động của chỉ một con người.”
Hekate rơi vào im lặng, quan sát cặp sinh đôi đấm và đá cùng với Scathach. “Bạc và vàng. Những loại quý hiếm nhất trong tất cả các luồng điện,” cô thì thầm và, trong tích tắc, những luồng điện nở hoa rực rỡ quanh cặp sinh đôi. “Nếu tôi làm chuyện đó và chuyện đó giết chết lũ trẻ, liệu ông có thể sống với lương tâm của mình không?”
“Tôi đã già, quá già,” Nicholas nói nhẹ nhàng, “cô có biết bao nhiêu người bạn mà tôi đã chôn trong vài thế kỷ qua không?”
“Và ông có cảm thấy sự mất mát?” Có một nét tò mò cao độ trong giọng nói của Hekate.
“Từng người.”
“Ông vẫn còn cảm thấy điều đó chư?”
“Vâng. Mỗi ngày.”
Nữ thần vươn tay chạm vào vai Flamel. “Khi đó ông vẫn còn là con người, Nicholas Flamel. Ngày mà ông ngừng việc quan tâm cũng là ngày ông trở thành những kẻ như Dee và đồng loại của hắn.” Cô quay lại về phía khu vườn và nhìn cặp sinh đôi. Cả hai đều đang cố gắng, và thất bại, trong việc tung những nắm đấm vào Scathach lúc đó đang nhún và uốn mình mặc dù cô ta không hề dịch chuyển ra khỏi một điểm nhất đinh. Từ xa trông họ như ba đứa trẻ mới lớn đang luyện tập một điệu nhảy mới, nhưng Hekate biết rằng chẳng có gì bình thường nơi bất kỳ ai trong số họ. “Tôi sẽ làm việc đó,” cuối cùng thì cô nói, “tôi sẽ đánh thức năng lượng của chúng. Phần còn lại tùy thuộc vào ông. Ông sẽ phải rèn luyện chúng.”
Flamel cúi đầu chào, để cô khỏi nhìn thấy những giọt nước mắt trong đôi mắt ông. Nếu cặp sinh đôi sống sót qua vòng đánh thức, sẽ có một cơ hội, dù là mong manh nhất, là ông sẽ có thể được gặp lại Perenelle. “Hãy nói tôi hay,” ông bắt đầu, đoạn ho nhẹ để làm thông cổ họng. “Người đàn ông đã khám phá ra quá trình tạo ra sắt - người thợ rèn hai nghìn năm trước, điều gì đã xảy ra với ông ta?”
“Tôi đã giết ông ta,” Hekate nói, đôi mắt màu vàng của cô mở lớn vô tội. “Hành động của ông ta đã hủy diệt chúng tôi. Tôi còn có thể làm gì hơn? Nhưng cũng đã quá muộn. Bí mật của săt đã được giới thiệu ra trên toàn thế giới.”
Flamel nhìn cặp sinh đôi, quan sát Josh kéo chân Sophie và cô móc một chân vào chân cậu, và thảy cậu lăn quay xuống đất. Tiếng cười của hai đứa trẻ vang lên giòn giã trong suốt buổi sớm trước lúc bình minh. Ông cầu mong là họ sẽ không quá muộn lần này.
Dạ Phong
21-11-2010, 03:56 PM
Chương 23
Những con mèo của San Francisco rời thành phố trong sự tĩnh lặng của màn đêm.
Từng con một hay đi thành đôi, những con mèo đường phố hoang dại mình đầy sẹo, những con mèo nhà mập tròn lông láng mịn, tất cả mọi hình dáng, kích thước, giống thuần chủng hay lai tạo, lông dài và lông ngắn, bọn mèo đi xuyên qua bóng đêm như một làn sóng nham hiểm. Chúng dâng lên như sóng vượt qua những cây cầu, sục sôi trong những ngõ hẻm, đua qua những đường hầm dưới các con đường hay nhảy qua những mái nhà.
Tất cả đều hướng về phía bắc.
Chúng phóng qua trước mặt những người đi đường hoảng hốt và choáng váng, những con mèo không hề dừng lại để ăn thịt chuột. Chúng cũng phớt lờ luôn các tổ chim. Và mặc dù chúng di chuyển trong im lặng, những bước chân của chúng tạo ra những âm thanh phi thường.
Đêm hôm đó cả thành phố San Francisco vang vọng tiếng tru đầy bản năng của hàng trăm nghìn con chó.
Tiến sĩ John Dee cảm thấy không vui.
Và thêm một chút sợ hãi. Mọi chuyện nghe rất hùng hồn khi hắn cùng bàn bạc về cuộc tấn công Hekate và toàn bộ Vương quốc Bóng tối của bà ta, thế nhưng khi ngồi trước lối ra vào của vương quốc vô hình của Hekate nhìn bọn mèo và chim “đổ bộ” đến theo lời triệu tập của các bà chủ đáng kính sợ Bastet và Morrigan của chúng thì đó hoàn toàn là một chuyện khác. Những sinh vật nhỏ bé này có thể làm gì để chống lại ma thuật cổ xưa của một trong những kẻ hàng đầu của Giống loài Elder?
Dee ngồi trong một chiếc Hummer lớn màu đen bên cạnh Senuhet, người đàn ông có vai trò như người hầu của Bastet. Không ai trong số họ nói ma thuật lời nào trong suốt chuyến bay ngắn trên chiếc phản lực riêng của Dee từ Los Angeles đến San Francisco trước đó, mặc dù Dee có đến hàng nghìn câu muốn hỏi Senuhet. Qua nhiều năm hắn đã nhận thức được rằng những người hầu cận của các Elder Đen tối - như chính hắn - không thích bị hỏi han.
Bọn chúng đến cổng vào của Vương quốc Bóng tối của Hekate lúc gần 2 giờ sáng, và cũng vừa kịp lúc những con chim đầu tiên bắt đầu bay đến. Chúng sà xuống từ phía bắc và phía đông theo từng bầy dài đen đặc. Âm thanh duy nhất có thể nghe thấy đó là tiếng vỗ cánh của chúng và cả bọn “cập bến” trên những cái cây ở Thung lũng Mill. Chúng nhanh chóng tụ tập trên những cành nhánh khiến cho nhiều cành răng rắc cong oằn xuống.
Khoảng vài tiếng đồng hồ sau đó, những con mèo xuất hiện.
Chúng túa ra từ bóng tối như một tấm thảm dài vô tận dệt bằng lông thú, và rồi dừng lại - tất cả đối mặt vào cánh cửa mở ẩn khuất của Vương quốc Bóng tối. Dee nhìn ra bên ngoài cửa kính xe hơi: hắn không thể nhìn thấy mặt đất. Nó được phủ kín, về tất cả mọi hướng mà Dee có thể thấy được, bởi những con mèo.
Cuối cùng, khi điểm cực đông của đường chân trời bắt đầu chuyển sang ánh sáng màu hồng cá hồi, Senuhet lấy ra một bức tượng nhỏ màu đen từ chiếc túi sách mà hắn đeo quanh cổ và đặt nó lên bảng đồng hồ của chiếc xe. Nó là tượng một con mèo Ả - rập được chạm khắc rất đẹp có kích thước chỉ bằng ngón tay út của hắn. “Đã đến lúc,” hắn nói thì thào.
Đôi mắt của bức tượng màu đen sáng rực lên màu đỏ.
“Bà ấy đang đến,” Senuhet nói.
“Tại sao chúng ta không tấn công sớm hơn, khi Hekate đang ngủ?” Dee hỏi. Dù đã nghiền ngẫm về Giống loài Elder Đen tối trong vài trăm năm, hắn nhận ra rằng, thực tế, hắn biết rất ít về họ. Nhưng thực tế này khiến cho hắn cảm thấy dễ chịu chút ít, bởi vì hắn nhận ra rằng Elder cũng biết rất ít về con người.
Senuhet giơ tay lên vẫy, ra lệnh tập hợp lũ chim và mèo. “Chúng ta cần đồng minh,” hắn nói nhỏ.
Dee gật đầu. Hắn đoán là Bastet lúc này đang vượt qua vô số Vương quốc Bóng tối tiếp giáp với thế giới loài người. Sự thù ghét của Giống loài Elder Đen tối với sắt có nghĩa là những phương tiện di chuyển hiện đại - như xe hơi và máy bay - là những thứ bọn họ không sử dụng. Đôi môi mỏng của hắn nở ra một nụ cười không có nét gì hài hước; đó là lý do vì sao bọn họ cần những người như hắn và Senuhet để hành động như một đại lý của họ.
Hắn cảm thấy, hơn là trông thấy, những con chim di chuyển trên cây cối: nửa triệu con - có thể hơn - đầu chúng đều quay về hướng tây. Hắn nhìn theo hướng nhìn chăm chú của đàn chim, hướng thẳng về điểm tối nhất trên bầu trời. Đầu tiên, hắn không nhìn thấy gì, nhưng rồi một hình dáng xuất hiện trên trời cao, chỉ gây chú ý bởi vì nó che kín những vì sao. Morrigan đang tới.
Dee biết rằng nằm sâu trong mọi huyền thoại đều có một hạt giống sự thật. Khi đứng nhìn lên bầu trời đêm, quan sát khuôn mặt xanh xao của Morrigan xuất hiện từ phía tây, chiếc áo choàng lông quạ đen trải rộng sau lưng bà ta như một đôi cánh khổng lồ, Dee tin là hắn biết nguồn gốc của của những huyền thoại về ma cà rồng xuất xứ từ đâu. Qua những diễn biến của cuộc đời rất dài của hắn, hắn đã gặp ma cà rồng - những con ma cà rồng thật - và không ai trong số chúng gây kinh hoàng như Nữ thần Quạ.
Morrigan hạ xuống đất ngay chính trước mũi chiếc Hummer, những con mèo vẫn đang di chuyển khi bà ta xếp lại chiếc áo choàng để “hạ cánh”. Trong bóng tối lờ mờ, chỉ có khuôn mặt hình trái xoan trắng nhợt của bà ta nổi bật lên, đôi mắt của bà ta đen như màn đêm, trông giống như những cái lỗ khoét trên giấy.
Và rồi những con mèo gầm gừ, một làn sóng xáo động lan tỏa trong không khí, và Bastet bước ra từ bóng đêm. Nữ thần Mèo mặc áo choàng của công chúa Ả - rập và cầm một ngọn giáo có chiều cao bằng với bà ta. Bà sải chân qua tấm thảm mèo đang vây bủa trước và sau lưng bà. Cao vượt lên so với Morrigan, bà nghiêng người thật thấp chào Nữ thần Quạ. “Cháu gái thân mến, đã đến lúc rồi phải không?” bà ta gầm gừ.
“Đã đến lúc rồi,” Morrigan trả lời, đáp lại cúi chào. Giữ sạch tấm áo choàng, bà ta để lộ một chiếc cung bắn tên có gắn lông chim đeo quàng qua vai. Bà ta tháo dây đeo của chiếc cung và cầm lấy một mũi tên từ ống tên đeo bên hông.
Rồi, cùng quay người một lúc, hai nhân vật Elder Đen tối chạy thẳng đến khe hở tưởng chừng như không thể xuyên qua được và nhảy băng qua.
Những con mèo và chim đua theo sau họ.
“Bây giờ thì bắt đầu rồi đấy,” Senuhet nói nói một cách hân hoan, tay cầm các vũ khí - hai thanh kiếm Ả - rập bằng đồng thiếc có chạm trổ - và chui ra khỏi chiếc xe.
Hay là kết thúc, Dee nghĩ, nhưng hắn giữ lại nỗi lo sợ cho riêng mình.
Dạ Phong
23-11-2010, 04:06 AM
Chương 24
Josh đứng nơi bìa rừng với chị gái và nhìn ba sinh vật nhỏ có cánh trông giống như những con rồng một cách đáng kinh ngạc. Chúng quay lộn và nhảy múa trong những tia sáng đầu tiên của buổi bình minh. Josh liếc nhìn cô, rồi vội vã nhìn ra phía khác. “Em không muốn chị làm điều đó,” cậu nói nhanh.
Sophie đặt tay mình lên cánh tay em trai. “Tại sao lại không?” cô nói. Cô tiến đến đứng trước mặt cậu, buộc cậu phải nhìn thẳng vào cô. Qua vai trái của Josh, đứng ngay trước mặt cửa ra vào của cây Yggdrasill kỳ diệu, cô có thể nhìn thấy nơi mà Flamel, Scatty và Hekate đang đứng nhìn hai đứa. Xung quanh đó, hàng nghìn con Torc Allta, cả trong lốt người và lốt lợn lòi, đang chạy nhốn nháo,chuẩn bị cho trận chiến. Những con lợn lòi mặc những lớp áo giáp bằng da bọc kín vùng hông và lưng, và những con - người - Torc Allta cầm những ngọn giáo và thanh kiếm. Từng đàn thằn lằn bay lượn vòng trên bầu trời, và những lùm cây bụi cỏ cao đang “hít thở” vơi những sinh vật vô hình đang trườn, bò và chạy hối hả. Những người bảo vệ giữ vững vị trí quanh cây Yggdrasill, leo trèo lên những cành lớn, và còn có những người canh gác đứng yên lặng nơi mọi cửa sổ với cung tên và giáo trên tay.
Sophie nhìn vào mặt em trai. Cô có thể nhìn thấy bóng dáng mình phản chiếu trong đôi mắt xanh da trời sáng rực của cậu và cô đột nhiên nhận ra rằng đôi mắt ấy mở to để giấu đi những giọt lệ chưa rơi xuống. Cô định nắm tay Josh, nhưng cậu chìa tay ra nắm lấy tay cô trước và siết nhẹ các ngón tay cô. “Em không muốn bất cứ cái gì xảy ra cho chị cả,” cậu nói giản dị.
Sophie gật đầu, không muốn nói câu nào. Cô cũng cảm thấy chính xác như vậy đối với em trai.
Ba sinh vật trông giống như những con thằn lằn bay to lớn bay qua đầu hai chị em, ngọn gió phía dưới đôi cánh chúng làm xoáy tung những đám bụi dưới mặt đất. Cả Sophie và Josh đều không nhìn lên.
“Nicholas nói là sẽ có những rủi ro,” Josh tiếp tục, “nhưng Hekate nói điều đó rất nguy hiểm, thậm chí có thể dẫn đến cái chết. Em không muốn chị nếm trải sự đánh thức trong trường hợp có điều gì không lành xảy ra,” cậu kết thúc vội vã. “Em không muốn bất cứ điều gì xảy ra cho chị.”
“Tụi mình phải làm điều đó. Nicholas đã nói rồi….”
“Em không hoàn toàn chắc chắn rằng em tin ông ấy,” Josh ngắt lời Sophie. “Em cảm giác như ông ta theo đuổi một điều gì đó. Ông ta quá sốt sắng hối thúc Hekate đánh thức năng lượng của chúng ta bất chấp mọi nguy hiểm.”
“Ông ta nói đây là cơ hội duy nhất của tụi mình,” Sophie thuyết phục.
“Hôm qua, ông ta đã nói là ổng phải kéo chị em mình chạy ra xa khỏi cửa tiệm cho an toàn….giờ thì, đột nhiên chúng ta phải được đào tạo để có thể bảo vệ chính mình khỏi Dee và bọn Elder Đen tối. Tin em đi Sophie, Nicholas Flamel đang chơi trò chơi của riêng ông ta.”
Đôi mắt của Sophie hướng về phía Nhà Giả kim. Cô đã biết ông trong vài tháng qua và cô nhớ là đã viết trên blog của mình rằng cô nghĩ ông rất tuyệt. Tất nhiên, giờ đây cô nhận ra rằng cô thực sự chẳng biết gì về ông ta. Người đàn ông mà cô nghĩ tới với cái tên Nick Fleming chỉ là một biệt hiệu. Một lời nói dối. Flamel đang nhìn chăm chú vào cô, trong tích tắc, cô tưởng tượng là ông ta biết hai chị em cô đang nói gì.
“Cả hai chúng ta không phải cũng lúc tham gia quá trình đánh thức,” Josh tiếp tục. “Hãy để em làm trước….”
Sophie nhìn vào đôi mắt cậu. “Và em nghĩ chị sẽ cảm thấy như thế nào nếu như có một điều gì đó xảy ra cho em?”
Lần này đến phiên Josh thấy rằng cậu không thể cất lời. Ý nghĩ - là một điều khủng khiếp có thể xảy ra với chị gái - chỉ mới xuất hiện trong đầu cậu cách đây ít phút. Nhưng ý nghĩ đó làm cậu hoảng sợ.
Sophie nắm cả hai tay Josh trong tay cô. “Ngay từ giây phút chúng ta sinh ra, chúng ta đã luôn làm mọi việc cùng nhau,” cô nói, giọng cô thấp và nghiêm trang. “Và với việc ba mẹ thường xuyên vắng mặt, luôn luôn chỉ có chị và em bên nhau. Em luôn luôn chăm sóc cho chị. Chị luôn luôn lo lắng cho em. Chị sẽ không cho phép em tham gia quá trình này một mình. Chúng ta sẽ cùng làm - như là cách chúng ta đã làm tất cả mọi chuyện cùng nhau.”
Josh nhìn sâu vào mắt Sophie. “Chị có chắc không?” Cậu hỏi. Cậu bắt đầu nhìn thấy một Sophie mới.
“Chưa bao giờ chắc hơn.”
Chúng đều biết những điều còn chưa nói: không ai muốn ở lại một mình nếu có bất kỳ chuyện gì xảy ra trong quá trình đánh thức.
Cuối cùng Josh gật đầu, rồi cậu nắm lấy tay chị gái và cả hai cùng tiến đến đối mặt Nhà Giả kim, Hekate và Scatty.
“Chúng tôi đã sẵn sàng,” cặp sinh đôi nói.
[center:30ztztm5]++++++++++++++++++[/center:30ztztm5]
“Morrigan đang ở đây,” Scatty thông báo khi họ đi theo Nicholas và Hekate băng qua cánh cửa lớn và tiến thẳng vào trung tâm cái cây. Cô đã thay một bộ đồ chiến đấu màu đen, một chiếc áo thun cao cổ không tay và giày bốt chiến đấu có đế dày. Cô đeo hai thanh kiếm ngắn phía sau lưng, hai cán kiềm nhô lên phía sau đôi vai cô. Cô tô đen đôi mắt và má khiến khuôn mặt cô trông như một chiếc đầu lâu. “Bà ta đến đây cùng với Bastet. Bọn chúng đã tràn vào Vương quốc Bóng tối rồi.”
“Hekate có thể đẩy lùi bọn chúng, phải không?” Sophie hỏi. Cô chỉ có một ý niệm mơ hồ về sức mạnh của các nữ thần, nhưng ý nghĩ là có một cái gì đó hùng mạnh hơn cả Hekate làm cô khiếp hãi.
Scatty nhún vai. “Tôi không biết. Bọn họ đổ bộ đến đây với cơ cấu tổ chức; bọn họ mang những đội quân của họ đi cùng.”
“Những đội quân?” Josh hỏi, “đội quân nào? Thêm bọn người bùn hả?”
“Lần này thì không có tụi Golem đâu. Bọn họ mang theo những con chim trên không trung và những con mèo dưới mặt đất đi cùng họ.”
Sophie cười run rẩy, “Chim và mèo….bọn chúng có thể làm gì?”
Scatty liếc nhìn cô, đôi mắt cô sáng lấp lánh trên nền đen của bộ trang phục chiến đấu. “Em đã thấy bọn chim làm gì với chiếc xe trên đường đến đây rồi đó.”
Sophie gật đầu, đột nhiên cảm thấy nôn nao trong dạ dày. Hình ảnh những con quạ đen hôi hám tấn công kính chắn gió và mổ lia lịa thành những lỗ thủng trên nóc kim loại của chiếc xe sẽ ám ảnh cô cho đến ngày cô từ giã cõi đời.
“Ồ hãy tưởng tượng cái gì sẽ xảy ra nếu có khoảng mười nghìn con quạ tập trung lại.”
“Mười nghìn con,” Sophie thì thầm.
“Cả trăm nghìn con ấy chứ,” Scatty nói, quay vào một hành lang hẹp. “Những con thằn lằn bay cho biết có lẽ đến nửa triệu con quạ.”
“Và chị cũng đã nói cái gì đó về những con mèo nữa?” Josh hỏi.
“Đúng, tôi đã nói. Nhiều hơn là chúng ta có thể đếm được.”
Josh nhìn chị gái, sự nhận thức về mối hiểm nguy kinh khủng mà chúng sắp đối mặt thực sự bắt đầu ngấm vào đầu chúng. Chúng có thể chết trong Vương quốc Bóng tối xa lạ này và sẽ không ai biết chuyện gì đã xảy ra với chúng. Cậu cảm thấy những giọt nước mắt đang ứa ra trên mi và vội chớp mắt để xua tan chúng; cha mẹ chúng sẽ trải qua suốt quãng đời còn lại của họ để thắc mắc không biết chuyện gì đã xảy ra với cặp sinh đôi.
Hành lang mà họ đang đi rẽ vào một nhánh khác, lối đi này thậm chí còn chật hẹp hơn. Mái vòm thấp đến nỗi cả hai chị em đều phải vừa đi vừa khom đầu. Không hề có bậc thang hay cầu thang, nhưng hành lang này xoắn tròn xuống dưới thành một đường xoắn trôn ốc rất dài. Cặp sinh đôi nhận ra rằng chúng đang đi xuống lòng đất nằm sâu phía dưới cái cây. Những bức tường trở nên tối hơn, lớp gỗ trơn mịn nay lốm đốm những rễ cây lộn xộn uốn éo thò ra chụp lấy tóc chúng với những ngón tay nắm chặt. Không khí trở nên ẩm ướt, sực nức mùi đất mùn và đất mới, là mục và mầm non.
“Ngôi nhà vẫn sống,” Sophie nói trong thắc mắc, khi họ rẽ vào một hành lang xoắn tròn tạo nên bởi những chiếc rễ cây có nhiều mấu và nhiều chỗ phồng to của cái cây khổng lồ mọc trên đó. “Ngay cả khi chúng ta đi lại bên trong, với các căn phòng và cửa sổ và hồ nước - nó vẫn là một cái cây đang sống!” Cô nhận thấy ý tưởng này vừa đáng ngạc nhiên mà cũng vừa đáng kinh sợ.
“Cái cây này mọc lên từ hạt giống của Yggdrasill, Cây Thế giới,” Scatty nói lặng lẽ, chà sát lòng bàn tay mình vào những cái rễ lồi ra. Cô lấy lòng bàn tay áp lên mặt mình và hít thở thật sâu, chìm đắm trong mùi hương. “Cả triệu năm trước, khi Danu Talis bị chìm dưới những ngọn sóng, một số ít Elder đã cứu được một số quần thực vật và quần động vật và gieo cấy chúng trên những vùng đất khác. Nhưng chỉ có hai vị Elder, Hekate và Odin, tìm cách nuôi dưỡng thành công hạt giống Yggdrasill. Odin, cũng như Hekate, có những sức mạnh vượt lên cả pháp thuật.”
Josh cau mày, cố gắng nhớ lại những kiến thức ít ỏi mà cậu biết về Odin. Có phải ông ta là Vị thần Na Uy một mắt? Nhưng trước khi cậu hỏi, Hekate biến mất vào một kẽ hở được đóng khung lại bằng một nút xoắn tạo nên bởi những rễ cây uốn éo. Nicholas Flamel đứng lại và chờ đợi cặp sinh đôi và Scatty vượt kịp. Đôi mắt xanh xám tối sầm lại và một nếp nhăn thẳng đứng hiện lên giữa đôi lông mày của ông. Khi nói, ông chọn từ ngữ một cách cẩn trọng, trọng âm tiếng Pháp của ông nghe thật rõ ràng. “Chú ước là hai cháu không phải làm điều này,” ông nói, “nhưng hai cháu phải tin chú khi chú nói rằng không còn cách nào khác nữa.” Ông chìa tay đặt lên vai phải Sophie và vai trái của Josh. Luồng điện của hai chị em - bạc và vàng - vụt lóe sáng, và không khí chợt sực nức mùi kem va ni và những trái cam. “Chú e là khi hai cháu giúp Perenelle và chú, hai cháu đã đặt mình vào mối nguy hiểm khủng khiếp. Nếu Hekate đánh thức được năng lượng ma thuật tiềm ẩn của các cháu, chú sẽ dạy hai đứa một số câu thần chú tự bảo vệ, và thêm những thứ khác mà chú muốn truyền đạt cho hai cháu, đó là trình độ chuyên môn về năm hình thái cổ xưa của ma thuật. Chú hy vọng là những điều đó sẽ hoàn thiện khóa đào tạo dành cho hai cháu.”
“Tụi cháu sắp được huấn luyện thành những pháp sư sao?” Sophie hỏi. Cô đoán rằng lẽ ra cô đã rất háo hức, nhưng cô vẫn nhớ những lời nói của Scatty, rằng khi Hekate đánh thức sức mạnh của hai chị em, khi đó chúng có thể gặp nguy hiểm chết người thực sự.
“Thành các pháp sư và phù thủy, thành thầy đồng gọi hồn, và thậm chí cả người bỏ bùa mê,” Flamel mỉm cười. Ông liếc nhìn qua vai mình, rồi quay lại phía cặp sinh đôi. “Bây giờ, hãy bước vào trong và làm những gì mà cô ta nói với hai đứa. Chú biết là hai cháu sợ hãi, nhưng cố gắng đừng sợ. Chú nói cháu hay, chẳng có gì phải xấu hổ vì nỗi sợ hãi cả.” Ông mỉm cười, đôi môi ông cong lên, nhưng nụ cười không bao giờ chạm đến đôi mắt lo lắng của ông. “Khi hai cháu bước ra khỏi căn phòng, hai cháu sẽ trở thành những người khác.”
“Cháu không muốn trở thành một người khác,” Sophie thì thầm. Cô muốn tất cả y nguyên như vài tiếng đồng hồ trước đó, khi mọi thứ bình thường và tẻ nhạt. Trong lúc này, cô sẵn sàng cho đi bất cứ thứ gì để được trở lại thế giới tẻ nhạt cũ.
Flamel lùi lại từ ngưỡng cửa và chỉ đường cho hai đứa trẻ bước vào trong. “Ngay từ khoảnh khắc cháu nhìn thấy Dee, cháu đã bắt đầu thay đổi. Và khi đã bắt đầu, sự thay đổi sẽ không bao giờ đảo ngược.”
[center:30ztztm5]++++++++++++++++++[/center:30ztztm5]
Bên trong căn hầm kết bằng những nút xoắn và rễ cây uốn éo tối đen không nhìn thấy gì. Sophie có thể cảm thấy bàn tay em trai trong tay mình cô siết nhè nhẹ các ngón tay cậu. Cậu cũng đáp trả lại bằng cách đó.
Khi hai chị em đi sâu vào trong căn phòng trống, mà nay rõ ràng là rộng hơn rất nhiều so với chúng nghĩ ban đầu, mắt chúng dần quen với bóng tối mờ mờ và căn phòng rực lên màu xanh lá cây nhạt. Những thảm rêu dày phủ lên những rễ cây uốn éo và chúng phát ra ánh sáng xanh nhạt màu ngọc bích loáng nước, khiến cho tất cả trông giống như đang chìm sâu trong nước. Không khí cực kỳ ẩm thấp, và những giọt nước li ti bám trên tóc và da chị em Sophie như những giọt mồ hôi nhỏ xíu. Mặc dù không lạnh, hai đứa trẻ đều run lẩy bẩy.
“Hãy nghĩ là mình đã nhận được một niềm vinh dự.”Giọng nói Hekate vang lên từ vùng tối màu xanh lá cây ngay trước mặt chúng. “Đã sau nhiều thế hệ rồi ta chưa hề đánh thức một con người nào.”
“Ai….” Josh bắt đầu, và rồi giọng nói của cậu vỡ ra. Cậu ho khan và cố gắng lần nữa. “Ai là người cuối cùng mà chị đánh thức?” Cậu cương quyết không để lộ nỗi sợ của mình.
“Lâu lắm rồi, vào Thế kỷ Hai mươi theo như cách con người đo đếm thời gian. Đó là một người đàn ông đến từ vùng đất Scots. Ta không nhớ tên của ông ta.”
Cả Sophie và Josh đều linh cảm thấy là Hekate đang nói dối.
“Điều gì đã xảy ra với ông ta?” Sophie hỏi.
“Ông ta đã chết.” Một tiếng cười khúc khích vút lên. “Ông ta bị một cục mưa đá giết chết.”
“Một cục mưa đá nào đó,” Josh thì thầm.
“Ồ đúng vậy,” Hekate lẩm bẩm. Và trong giây phút đó, chúng đều biết rằng cô ta có liên quan tới cái chết bí ẩn của người đàn ông, và Josh đột ngột nhớ đến một đứa trẻ hận thù.
“Vậy bây giờ tụi em phải làm gì?” Josh hỏi. “Tụi em phải đứng hay ngồi hay nằm xuống đây?”
“Không phải làm gì cả,” Hekate nói, “và đây không phải là một việc có thể làm một cách nhẹ nhàng. Từ hàng nghìn thế hệ, con người đã có ý xa cách những gì mà họ cười cợt gọi là ma thuật. Nhưng ma thuật thực sự chỉ là sự tận dụng hoàn toàn một chuỗi các giác quan. Con người đã rất ít khi sử dụng đầy đủ các giác quan của mình. Bao giờ họ chỉ thấy những hình ảnh rõ ràng, chỉ nghe những âm thanh ồn ào nhất, khả năng ngửi mùi của họ nghèo nàn một cách đáng kinh ngạc và họ cũng chỉ có thể phân biệt được vị ngọt nhất và chua nhất mà thôi.”
Cặp sinh đôi nhận thấy rằng Hekate đang đi vòng xunh quanh chúng. Chúng không thể nghe thấy tiếng chuyển động của cô ta, nhưng có thể theo dấu cô qua âm vang giọng nói. Khi cô ta nói từ phía sau lưng chúng, cả hai cùng nhảy dựng lên.
“Một khi con người cần đến chúng, lập tức các giác quan sống sót một cách đơn giản.” Có một sự im lặng kéo dài và khi cô ta tiếp tục cất lời, cô đã đứng gần đến mức hơi thở cô làm rối loạn cả mái tóc của Sophie. “Rồi thế giới thay đổi. Danu Talis bị chìm dưới những lớp sóng. Thời kỳ Thằn lằn trôi qua, Kỷ Băng hà đến, và loài người trở nên ….tinh vi, phức tạp.” Cô nói từng chứ một như đang đọc một lời nguyền. “Con người trở nên lười biếng và kiêu ngạo. Họ nhận thấy rằng họ không cần tất cả các giác quan của mình và dần dần, họ đánh mất chúng.”
“Chị đang nói là loài người đánh mất sức mạnh của ma thuật bởi vì họ trở nên lười biếng?” Josh nói.
Sophie cố nén lại một tiếng rên rỉ; mấy ngày vừa qua em trai cô đã liên tiếp suýt đưa hai chị em vào những rắc rối thực sự.
Thế nhưng khi Hekate trả lời, giọng nói của cô ta mềm mại một cách đáng kinh ngạc, gần như là dịu dàng. “Những gì gọi là ma thuật không có gì khác hơn là một hành động của trí tưởng tượng, được khơi lên bởi các giác quan, rồi được tạo hình bởi sức mạnh của các luồng điện. Luồng điện càng mạnh, ma thuật càng cao. Hai em có những nguồn ma thuật tiềm năng phi thường trong người. Nhà Giả kim đã nói đúng: hai em có thể trở thành những bậc phù thủy vĩ đại nhất mà thế giới từng biết đến. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ,” Hekate tiếp tục, và giờ đây căn phòng sáng hơn một chút, và hai đứa trẻ có thể nhìn thấy hình dáng của người đàn bà đứng nơi chính giữa căn phòng, và ngay phía dưới một đám rễ cây lộn xộn quấn vào nhau như một bàn tay thò ra từ mái nhà. “Con người đã học cách sống thiếu đi những giác quan. Não bộ của họ gạn lọc quá nhiều dữ liệu xuất phát từ một trạng thái tỉnh táo khiến cho họ sống trong một làn sương mờ của bối rối và hoang mang. Những gì ta có thể làm đó là đánh thức năng lực tiềm tàng còn ngủ yên trong hai em, nhưng sự nguy hiểm - thật sự rất nguy hiểm - đó là nó khiến cho các giác quan của hai em bị quá tải.” Cô ngưng lời, rồi nói. “Hai em đã sẵn sàng để thử sức chưa?”
“Em đã sẵn sàng,” Sophie nói ngay lập tức, trước khi em trai cô kịp phản đối. Cô sợ là nếu cậu buông ra một lời châm biếm chua cay nào đó thì nữ thần sẽ trừng phạt cậu bằng một điều gì đó. Một điều gì thật tàn khốc và dữ dội.
Nữ thần quay sang nhìn Josh.
Cậu đang quay đầu tìm kiếm chị gái mình trong bóng tối lờ mờ. Ánh sáng xanh lá cây chiếu lên khuôn mặt cô một sắc thái xanh xao. Sự đánh thức có thể sẽ rất nguy hiểm, thậm chí có thể chết người, nhưng cậu không thể cho phép mình để Sophie tiến hành nó một mình. “Em đã sẵn sàng,” cậu nói một cách dứt khoát.
“Vậy thì chúng ta bắt đầu.”
Dạ Phong
23-11-2010, 06:15 AM
Chương 25
Dee chờ cho đến khi những con chim và mèo cuối cung biến mất bên trong cánh cửa vô hình dẫn vào Vương quốc Bóng tối của Hekate rồi hắn mời rời khỏi chiếc xe hơi và đi bộ lững thững tới đó. Senuhet, tay chân của Bastet, đã rời xe trước đó, hăm hở theo chân bà chủ của mình tiến vào Vương quốc Bóng tối, nhưng Dee không cảm thấy háo hức. Tấn công đầu tiên trong một cuộc chiến không phải là một ý kiến hay. Và những chiến binh đi sau thường có khuynh hướng sống sót. Hắn đoán là những người lính gác của Hekate đang tập trung đằng sau những bức tường vô hình và hắn không hề có ý trở thành một trong những kẻ đầu tiên đi xuyên vào cánh cổng. Điều này không biến hắn thành một thằng hèn, hắn lập luận, nó chỉ khiến cho hắn trở nên cẩn thận và thái độ cẩn trọng này đã giúp hắn sống sót qua hàng trăm năm. Nhưng hắn không thể đi lảng vảng phía bên ngoài mãi; những bà chủ tàn bạo của hắn đang mong đợi sự có mặt của hắn trên chiến trường. Người đàn ông nhỏ bé kéo chiếc áo khoác da trị giá hai nghìn đô-la của hắn sát vào vai trong khoảnh khắc trước khi hắn bước vào cánh cổng, để lại sau lưng không khí giá lạnh của buổi sáng sớm và tiến vào….
…..một bãi chiến trường.
Nhiều cơ thể la liệt ở khắp nơi, và không ai trong số chúng là con người.
Nhiều con chim của Morrigan đã thay đổi khi chúng tiến vào Vương quốc Bóng tối của Hekate: chúng trở thành những con người…mặc dù không hoàn toàn như vậy. Cao và gầy giống như bà chủ của chúng, đôi cánh của chúng xoải ra, trông dài và giống như cánh dơi, nối liền với một cơ thể giống như người bằng một lớp da trong suốt, nơi đầu nút là những nanh vuốt sắc nhọn chết người. Và đầu của chúng vẫn là đầu chim.
Có một vài con mèo rải rác giữa “cánh đồng lông chim”. Bọn mèo cũng đã biến dạng trở nên gần - như - người khi chúng tiến vào Vương quốc Bóng tối và giống như Bastet, chúng vẫn giữ nguyên những cái đầu mèo. Móng vuốt của chúng là một sự pha tạp giữa bàn tay người và móng vuốt mèo với những móng vuốt nhọn sắc như dao cạo, và cơ thể của chúng được phủ lên một lớp lông mịn.
Nhìn quanh, Dee không nhìn thấy bất kỳ dấu vết nào của sự gục ngã của những người bảo vệ của Hekate trên mặt đất và hắn đột nhiên sợ hãi: Nữ thần này đã làm gì để bảo vệ vương quốc của bà ta? Hắn thò tay vào bên trong áo khoác và lôi ra một thanh kiếm đã từng được gọi là Excalibur và di thẳng xuống con đường có cái cây to vươn lên trong làn sương mờ buổi sáng. Ánh bình minh chiếu những tia đỏ như máu dọc theo thanh kiếm cổ xưa màu đen.
[center:2j7261c8]++++++++++++++++++[/center:2j7261c8]
“Người chim,” Scathach lầm bầm, và rồi bổ sung thêm một lời nguyền rủa vào ngôn ngữ Celtic cổ xưa của cô. Cô ghét người chim; chúng làm cho cô bị viêm thanh quản. Cô đang đứng trước lối vào của cây Yggdrasill, nhìn những sinh - vật - chim xuất hiện từ rừng già. Thần thoại của các nòi giống đều chứa đựng các câu chuyện về những con người biến thành chim, hoặc những con chim biến dạng thành những sinh vật nửa - con - người. Trong đời sống lâu dài của mình Scatty đã đụng độ với rât nhiều sinh vật và đã từng có lần cô suýt chết khi cô đánh nhau với Sirin, một con cú mang cái đầu của một người đàn bà xinh đẹp. Từ cuộc chạm trán đó, cô đâm ra dị ứng với lông chim. Da cô đã bắt đầu ngứa ngáy và mũi cô cay xè chuẩn bị hắt hơi. Những sinh vật của Morrigan di chuyển một cách vụng về, như những người gù lưng, kéo lê những đốt ngón tay của chúng trên mặt đất. Chúng là những chiến binh tồi, nhưng dùng số đông để đạt tới thành công.
Bọn người mèo của Bastet xuất hiện. Chúng di chuyển chậm chạp, một số còn đứng trên hai chân, nhưng phần lớn đi bằng bốn chân. Đây là, Scatty biết rõ, nền tảng cơ sở của những huyền thoại đồ sộ về mèo ở châu Phi và Ấn Độ. Không giống như lũ chim, người mèo là những chiến binh nguy hiểm chết người; chúng nhanh như chớp và móng vuốt của chúng có thể gây ra những tổn thương kinh khủng. Scathach hắt xì hơi; cô cũng dị ứng với mèo.
Đoàn quân kỳ dị chợt dừng lại, có lẽ vì chúng thấy kinh sợ cái cây có kích thước cỡ một tòa nhà khổng lồ hay vì bối rối khi nhìn thấy bóng dáng một chiến binh đang đứng chắn ngang những cánh cửa mở. Chúng ngần ngừ, và rồi, như được thúc đẩy bởi một mệnh lệnh, chúng dâng lên như một làn sóng dài lổm ngổm.
Nữ Chiến binh quay đầu từ bên này sang bến kia, cuộn vai, và rồi hai thanh kiếm ngắn xuất hiện trên hai tay cô. Cô giơ chúng lên cao quá đầu theo hình chữ X.
Đó chính là tín hiệu mà các Torc Allta và thằn lằn bay chờ đợi. Dường như không từ bất cứ nơi đâu, hàng trăm con thằn lằn bay đầy đe dọa lao xuống từ bầu trời, với mặt trời trên lưng chúng, và lao bổ xuống đoàn quân đang chuyển động. Chúng bay thành từng vòng tròn có sức càn quét lớn, đôi cánh lớn của chúng hất tung bụi mù làm mù mắt và gây bối rối đàn chim và mèo. Rồi những Torc Allta, đã núp kín trong những bụi cỏ cao và ở phía sau những rễ cây uốn xoắn của cây Yggdrasill, bật dậy ngay giữa đám đông những kẻ tấn công. Khi Scatty chạy trở sâu vào bên trong ngôi nhà, cô nhận ra rằng âm thanh ồn ào của đám đánh nhau giống hệt như giờ cho ăn hỗn độn trong sở thú San Francisco.
[center:2j7261c8]++++++++++++++++++[/center:2j7261c8]
“Chúng ta đang hết thời gian,” Scatty nói với Flamel khi cô chạy vào trong dãy hành lang.
“Có bao nhiêu con?” Flamel hỏi dứt khoát.
“Nhiều vô số,” Scatty trả lời. Cô ngừng lại chút xíu và rồi nói tiếp, “Các Torc Allta và thằn lằn bay sẽ không đủ sức cầm cự với bọn chúng lâu đâu.”
“Còn Morrigan và Bastet thì sao?”
“Tôi không nhìn thấy họ. Nhưng ông có thể chắc chắn rằng bọn họ đang tới, và khi bọn họ tới…..” Cô bỏ lửng câu nói. Khi Hekate còn đang bận rộn với cặp sinh đôi, không có gì có thể chống lại hai Elder Đen tối đó.
“Bọn chúng sẽ tới,” ông nói dứt khoát.
Scatty tiến tới sát bên cạnh Flamel. Họ đã biết nhau hơn ba trăm năm và mặc dù cô lớn hơn ông gần hai thiên niên kỷ, cô đã xem ông như người cha mà cô bây giờ không còn nhớ nữa. “Hãy tìm hai đứa sinh đôi và chạy trốn đi. Tôi sẽ giữ chân bọn chúng. Tôi sẽ câu giờ càng lâu càng tốt cho ông.”
Nhà Giả kim vươn người về phía trước, đặt tay ông lên vai của Nữ Chiến binh và siết chặt vai cô. Một tia năng lượng nhỏ lốp bốp và cả hai chợt cùng phát sáng. Khi Flamel nói, ông đã vô thức đổi qua tiếng Pháp của thời trẻ tuổi của ông. “Không, chúng ta sẽ không làm thế. Khi chúng ta rời khỏi đây chúng ta đi cùng nhau. Chúng ta cần cặp sinh đôi, Scatty, không chỉ cho cô và tôi, mà cho toàn thế giới. Tôi tìn rằng chỉ có chúng mới có thể chống lại bọn Elder Đen tối đang tìm cách đạt được mục tiêu chiếm đoạt lại Trái Đất.”
Scatty nhìn qua vai ông sâu vào căn phòng tối. “Ông đòi hỏi quá nhiều ở nơi bọn trẻ. Khi nào thì ông nói cho chúng nghe toàn bộ sự thật đây?” cô hỏi.
“Khi đã đến lúc….” Ông bắt đầu.
“Thời gian là một cái gì đó mà ông không có,” Scatty thì thầm. “ông đã bắt đầu già đi. Tôi có thể nhìn thấy điều đó trên khuôn mặt ông, xung quanh đôi mắt ông và có nhiều màu xám hơn trên tóc của ông.”
Flamel gật đầu. “Tôi biết. Câu thần chú bất tử bắt đầu bị đập vỡ. Perenelle và tôi sẽ bắt đầu già đi một năm đối với một ngày sống không có công thức của sự bất tử. Chúng tôi sẽ chết vào cuối tháng này. Nhưng khi đó thì chuyện chẳng còn gì quan trọng nữa. Nếu như bọn Elder Đen tối thành công, thế giới loài người sẽ chấm dứt sự tồn tại.”
“Hãy chắc chắn là điều đó không xảy ra.” Scatty xoay lưng về phía Flamel, rồi hạ thấp dần xuống đất, lưng thẳng, hai chân cô cuộn lại trong tư thế của một bông sen với hai cánh tay duỗi dài, lòng bàn tay nắm chặt lấy cán của hai thanh kiếm đang nằm trong lòng cô. Nếu bọn mèo và chim đột nhập vào ngôi nhà và tìm ra dãy hành lang, chúng sẽ phải băng qua cô và sẽ phải trả giá đắt.
Hekate đã cho Flamel một cây quyền trượng làm từ cành của cây Yggdrasill và giờ đây, nắm nó trong cả hai tay, ông chọn một vị trí ngay phía bên ngoài cánh cửa của căn hầm mà Nữ thần đang làm việc với cặp sinh đôi. Nếu bất kỳ kẻ nào xoay xở vượt qua được Scathach, chúng sẽ đối mặt với ông. Scatty sẽ chiến đấu với những thanh kiếm, tay và chân cô, nhưng những vũ khí của ông thậm chí còn có sức hủy diệt cao hơn. Ông giơ cao tay và không gian chật hẹp bỗng đậm đặc mùi bạc hà khi luồng điện của ông rung rinh và lóe lên ánh sáng xanh lá cây xung quanh ông. Mặc dù vẫn còn manh mẽ, mỗi một hành động sử dụng ma thuật đều làm ông yếu đi và thu hẹp vòng đời của ông. Scatty đã nói đúng; ông đã bắt đầu già đi. Ông có thể cảm nhận được những cơn đau nhức nhè nhẹ và những vết thương mơ hồ ở những nơi mà trước đó chúng chưa bao giờ xuất hiện. Ngay cả thị lực của ông cũng không còn sắc bén như ngày hôm qua nữa. Nếu ông buộc phải sử dụng sức mạnh của mình, nó sẽ đẩy nhanh quá trình lão hóa, nhưng ông đã quyết phải cho Hekate tất cả thời gian mà cô ta cần. Ông quay nhìn ra sau vai mình, cố gắng nhìn xuyên qua bóng tối. Chuyện gì đang xảy ra ở đó?
[center:2j7261c8]++++++++++++++++++[/center:2j7261c8]
“Chúng ta sẽ bắt đầu với người lớn hơn,” Hekate tuyên bố.
Sophie có thể cảm thấy em trai cô hít một hơi thở sâu để phản đối, nhưng cô siết chặt các ngón tay cậu mạnh đến nỗi cô có thể cảm thấy những đốt xương kêu lắc cắc. Cậu đá vào mắt cá chân của cô để đáp lời.
“Đây là truyền thống,” Nữ thần tiêp tục. “Sophie…” Cô dừng lại, và nói, “Họ của em là gì, tên của cha mẹ em nữa?”
“Newman….và tên của mẹ em là Sara, tên của cha em là Richard…” Thật kỳ quặc khi gọi tên cha mẹ theo một cách khác ngoài ba và mẹ.
Ánh sáng xanh lá cây trong hầm sáng rực lên và hai đứa trẻ có thể nhìn thấy hình ảnh Hekate nổi bật trên những bức tường sáng rực rỡ. Mặc dù khuôn mặt cô vẫn chìm trong bóng tối, đôi mắt cô phản chiếu ánh sáng xanh lá cây như những lát thủy tinh bóng láng. Cô nhoài người tới trước và đặt lòng bàn tay mình lên trán của Sophie. “Sophie, con gái của Sara và Richard, thuộc họ Newman, loài người….” Cô bắt đầu bằng tiếng Anh, nhưng rồi chuyển sang một thứ ngôn ngữ du dương đẹp đẽ ra đời trước cả loài người.
Khi cô nói, luồng điện của Sophie bắt đầu rực sáng, một luồng ánh sáng bạc trông như sương mù bao quanh cơ thể cô. Một làn gió mát thoảng qua làn da cô và cô đột nhiên nhận ra rằng cô không còn nghe Hekate nói nữa. Cô có thể nhìn thấy miệng của Hekate cử động, nhưng cô không thể nghe thấy được những lời nói ngoài âm thanh của chính cơ thể mình - hơi thở xì xì ra vào mũi của cô, máu chảy rần rật trên tai cô, nhịp đập vững chắc của trái tim cô vang lên trong lồng ngực. Có một sức ép lên trên thái dương cô, như thể bộ não của cô đang dãn lớn ra trong hộp sọ, một cơn đau chạy dọc theo xương sống và tỏa rộng ra các đốt xương.
Khi đó căn phòng bắt đầu sáng lên. Hekate - bao giờ trông đã già hơn, có lẽ là bằng tuổi của Sophie - đang đứng nổi bật trong một dòng suối ánh sáng lấp lánh đang chuyển động. Sophie đột nhiên nhận ra rằng cô đang nhìn thấy luồng điện của Nữ thần. Cô quan sát những tia sáng xoắn vặn và uốn éo quanh cánh tay của Hekate, chảy xuống các ngón tay của cô và rồi, với một cơn náo động, Sophie có thể thật sự cảm thấy chúng chạy vào sọ não của mình. Trong tích tắc cô cảm thấy choáng váng, mất phương hướng và rồi, xuyên qua tiếng vo vo trong tai mình, những lời của Hekate bỗng trở nên có ý nghĩa. “….Tôi đánh thức năng lượng dữ dội này nằm trong em…” Nữ thần đặt hai tay mình lên khuôn mặt của Sophie, cú đụng chạm của cô ta như băng và lửa. “Có nhiều giác quan mà con người đã bỏ rơi,” Hekate nói tiếp. Cô ấn những ngón tay cái nhè nhẹ nơi đôi mắt của Sophie.
“Để nhìn với sự sắc sảo….”
Thị lực của Sophie bừng sáng, và căn hầm tối trở nên sáng chói, mọi hình bóng hiện lên trong từng chi tiết cực kỳ đẹp và tinh tế. Cô có thể nhìn rõ mộn một từng đường kim mũi chỉ trên chiếc áo choàng của Hekate, từng sợi tóc trên đầu cô và cả những nếp nhăn đang hiện ra ngày càng rõ hơn nơi đuôi mắt.
“Để nghe với sự rõ ràng….”
Có cảm giác như là những sợi bông và len được kéo ra khỏi tai Sophie. Đột ngột cô có thể nghe. Chuyện này khác hẳn so với việc nghe nhạc từ đôi tai nghe của chiếc iPod và rồi nghe lại bài hát đó trong giàn âm thanh nổi trong phòng ngủ của cô. Từng âm thanh trong phòng được khuyếch đại và tăng cường mạnh hơn lên: hơi thở khò khè của em trai cô qua hai cánh mũi, tiếng lao xao cọt kẹt của cái cây khổng lồ phía trên đầu họ, tiếng sột soạt của những sinh vật di chuyển xuyên qua những rễ cây. Nghiêng đầu nhè nhẹ, cô thậm chí có thể nghe thấy những âm thanh xa xa của cuộc chiến đấu: tiếng rít của đàn chim, tiếng gầm rống của mèo và tiếng gầm vang của lợn lòi.
“Để nếm với sự tinh khiết….”
Những ngón tay của Hekate lướt nhẹ qua đôi môi của Sophie và đột ngột cô bé cảm thấy lưỡi mình ngứa ran. Cô liếm môi, nhận thấy hương vị của những trái cây cô đã ăn trước đó và khám phá ra cô có thể thực sự nếm được không khí - đậm đà mùi đất - và thậm chí còn “nhấm nháp” được những giọt nước không khí.
“Để sờ với sự nhạy cảm….”
Làn da của Sophie được “đánh thức”. Những sợi vải cọ vào da cô - lớp cô-tông mềm mại của áo thun, lớp vải Jeans thô ráp, sợi dây chuyền vàng thanh mảnh có khắc ngày sinh nhật mà cô đeo quanh cổ, đôi vớ cô-tông ấm áp - tất cả đều tạo nên một nét khác biệt và ấn tượng riêng trên da thịt cô.
“Để ngửi với sự mãnh liệt…”
Sophie thực sự đã ngã người ra sau bởi sự bùng nổ đột ngột của mùi hương xâm chiếm lấy cô: mùi hương thơm nồng nàn của Hekate, mùi đất ngọt ngào xung quanh cô, mùi thuốc khử mùi 24 giờ trên người em trai cô đang nhạt dần, mùi gel xịt tóc bình thường tưởng chừng như không mùi, mùi bạc hà trong kem đánh răng mà cô dùng trước đó.
Luồng điện của Sophie bắt đầu phát sáng rực rỡ, làn sương trắng bạc tỏa ra từ người cô như sương mù bốc lên từ mặt hồ. Nó bao bọc cơ thể của cô trong một hình bầu dục xanh xám. Cô nhắm mắt và ngửa đầu ra sau. Những cảm giác tràn ngập trong cô: những màu sắc, những mùi thơm, những âm thanh và chúng sáng rực hơn, mạnh mẽ hơn, vang vọng hơn bất cứ cái gì mà cô từng trải nghiệm trước đó. Tác động từ những giác quan được “nâng cấp” khá đau đớn…không, thật sự đau đớn. Chúng làm cô đau. Đầu cô rộn ràng, xương cô nhức nhối, da dẻ ngứa ran, tất cả mọi thứ ập đến như thác lũ. Đầu của Sophie ngửa ra sau và rồi, vượt ra ngoài ý muốn hai cánh tay của cô bị quăng qua một bên… và cô bay len cách sàn nhà bụi bặm chừng 10cm.
[center:2j7261c8]++++++++++++++++++[/center:2j7261c8]
“Sophie?” Josh thì thầm, không thể kiềm chế sự kinh hoàng trong giọng nói. “Sophie…” Chị gái cậu, được bao bọc trong một vầng sáng bạc nhấp nhô đang trôi bồng bềnh trong không khí ngay trước mặt cậu. Ánh sáng từ người cô mạnh đến nỗi nó phủ những mảng bạc và đen lên toàn bộ căn phòng hình tròn. Cảnh tượng trông giống như một cảnh trong một bộ phim kinh dị.
“Đừng chạm vào cô ấy,” Hekate nói lạnh lùng. “Cơ thể cô ấy đang tiêu hóa sự rửa ráy những cảm giác. Đây là giai đoạn nguy hiểm nhất.”
Đôi môi Josh khô nứt khi cậu liếm nó bằng cái lưỡi đột nhiên nở to trong miệng. “Nguy hiểm…ý cô muốn nói gì, nguy hiểm là sao?” Cậu thình lình cảm thấy nỗi lo sợ kinh khủng nhất của mình đang sắp được trả lời cụ thể.
“Trong đa số trường hợp, não bộ không thể kham nổi sự nâng cấp của các giác quan trong quá trình đánh thức.”
“Trong đa số trường hợp?” Josh thì thào vẻ kinh hoàng.
“Trong đa số trường hợp,” Hekate nói, và cậu cảm thấy nỗi hối tiếc trong giọng nói của cô. “Đó là lý do tại sao tôi không muốn làm điều này.”
“Chuyện gì thường xảy ra?” Josh hỏi câu hỏi mà cậu thực sự không muốn nghe câu trả lời.
“Bộ não thực sự đóng lại. Và người được đánh thức sẽ chìm sâu trong hôn mê và kh bao giờ thức dậy được nữa.”
“Và Flamel biết là chuyện đó có thể xảy ra?” Josh hỏi, một cơn giận dữ đột ngột cuộn lên trong dạ dày cậu. Cậu cảm thấy buồn nôn. Nhà Giả kim biết là sự đánh thức, với rất nhiều khả năng có thể xảy ra, có thể đẩy cả cậu và Sophie vào cơn hôn mê triền miên. Và ông ta vẫn chuẩn bị sẵn sàng cho hai chị em tham gia vào quá trình nguy hiểm đó. Josh cảm thấy cơn thịnh nộ sục sôi như thiếu đốt cậu với nỗi sợ hãi và giận dữ ngang bằng nhau…và cả cảm giác kinh khủng về sự bị phản bội. Cậu đã nghĩ Flamel là bạn của mình. Cậu đã lầm.
“Tất nhiên,” Hekate nói. “Ông ta đã nói với hai em là chuyện sẽ rất nguy hiểm, phải không?”
“Ông ta không nói gì với tụi em hết.” Một nửa khuôn mặt của Hekate được chiếu sáng bởi ánh sáng bạc tỏa ra từ Sophie, và nửa kia chìm trong bóng tối. Rồi, thình lình hai cánh mũi của Hekate nở rộng và đôi mắt cô mở to bàng hoàng. Cô nhìn lên trần nhà của căn phòng tết bằng rễ cây. “Không,” cô hét lên. “Không!”
Đột nhiên đôi mắt của Sophie mở ra và rồi cô mở miệng và hét lên. “Lửa!”
“Bọn chúng đang đốt cháy Cây Thế giới,” Hekate rú lên, khuôn mặt cô tràn ngập nỗi căm phẫn. Đẩy mạnh Josh qua một bên, cô phóng ra ngoài dãy hành lang, để lại cậu một mình với con người từng là chị sinh đôi của cậu. Cậu nhìn chằm chằm vào cô gái đang lơ lửng trên không khí ngay trước mặt cậu, không biết chắc phải nên làm gì, thậm chí không dám chạm vào cô. Tất cả những gì cậu biết đó là lần đầu tiên trong cuộc đời hai đứa, chúng đã đi vào hai con đường khác hẳn nhau mà cậu thậm chí không thể kịp lĩnh hội.
Dạ Phong
23-11-2010, 06:16 AM
Chương 26
“Chúng ta cần phải đi.” Nicholas Flamel chụp lấy vai của Josh và lắc lắc người cậu, đưa cậu trở về với thực tại.
Josh quay lại nhìn Nhà Giả kim. Những giọt nước mắt lăn dài trên má cậu, nhưng cậu không để ý đên chúng. “Sophie…” cậu thì thầm.
“…sắp ổn rồi,” Nicholas nói chắc chắn. Những âm thanh vang dội từ dãy hành lang ngoài kia, tiếng vũ khí va chạm hòa cũng tiếng gầm rống của người và thú. Nổi lên tất cả là tiếng cười hân hoan của Scathach. Flamel tiến tới chỗ Sophie vẫn đang nằm cách sàn nhà 10cm và luồng điện của ông bỗng chuyển thành màu xanh trắng khi ông nắm lấy tay cô. Ông đặt cô xuống đất một cách nhẹ nhàng. Ngay khi những bàn chân của cô vừa chạm đất, dường như tất cả sức lực đã rời khỏi người cô và ông giữ lấy cô trước khi cô ngã vật xuống sàn nhà, bất tỉnh.
Ngay lập tức Josh quỳ xuống bên cạnh chị. Cậu đẩy Flamel ra xa và lấy hai tay đỡ lấy chị mình. Những tia năng lượng từ luồng điện đang mờ dần của Sophie chạm vào da thịt cậu, nhưng cậu thậm chí không màng đến những mũi kim đau nhói đó. Khi cậu ngước lên nhìn Flamel, khuôn mặt cậu ngập tràn giận dữ. “Chú thừa biết,” cậu kết tội, “chú thừa biết là việc này nguy hiểm tới mức nào. Chị cháu bị hôn mê rồi.”
“Chú biết là sẽ không có chuyện gì xảy ra,” Nicholas nói một cách bình tĩnh, ngồi xuống bên cạnh Josh. “Luồng điện của cô ấy - và của cháu - quá mạnh. Chú biết là cả hai cháu sẽ sống sót. Chú không bao giờ có chủ ý đưa bất kỳ ai trong hai cháu vào vòng nguy hiểm. Chú thề đó.” Ông cầm lấy cổ tay của Sophie để kiểm tra mạch, nhưng Josh đẩy tay ông ra. Cậu không tin ông; cậu muốn tin, nhưng dù sao đi nữa những lời của Flamel thật đáng ngờ.
Cả hai cùng nhảy dựng lên khi một tiếng nghe như tiếng mèo kêu ré lên thảm thiết từ hành lang bên ngoài. Giọng của Scatty vang lên sau đó. “Chúng ta thực sự phải rời khỏi nơi đây. Và bây giờ là một thời điểm tốt!”
Mùi cháy khét nghe nồng nặc hơn và những lọn khói xám bắt đầu bò vào bên trong căn hầm.
“Chúng ta phải đi thôi. Chúng ta có thể nói về chuyện này sau,” Flamel nói dứt khoát.
“Chú tốt nhất nên tin rằng chúng ta sẽ nói về nó.” Josh đáp lời.
“Chú sẽ giúp cháu mang Sophie đi,” Nhà Giả kim đề nghị.
“Cháu có thể tự mình làm điều đó,” Josh nói, và bồng chị gái lên tay mình. Cậu không tin tưởng giao phó Sophie cho ai khác nữa. Cậu ngạc nhiên nhận ra cô quá nhẹ và cậu cũng đột nhiên cảm thấy biết ơn những tháng ngày luyện tập bóng đá đầy thương tích đã làm cậu mạnh mẽ hơn rất nhiều so với dáng vẻ bề ngoài.
Nhà Giả kim cầm lấy quyền trượng mà ông đã để dựa vào tường và xoay tròn nó trong không khí. Đầu bịt của nó lóe lên màu xanh lục, để lại một vệt khói xanh màu ngọc lục bảo trong không khí. “Sẵn sàng chưa?” Flamel hỏi.
Josh, với chị gái được ôm giữ cẩn thận ngay trước ngực, gật đầu.
“Dù bất cứ điều gì xảy ra, bất cứ cái gì cháu trông thấy, đừng dừng lại, đừng quay lui. Tất cả những gì bên ngoài cánh cửa này đều không ngần ngại để giết hại cháu.”
Josh đi theo Flamel vượt qua cánh cửa… và ngay lập tức cậu dừng lại, tê cứng trong cơn kinh hoàng. Scatty đang đứng ngay chính giữa hành lang hẹp, hai thanh kiếm ngắn vung lên thành những vệt mờ trước mặt cô. Sau những thanh kiếm, dày đặc trên hành lang là những sinh vật đáng sợ nhất mà Josh từng nhìn thấy. Cậu đã mong đợi nhìn quái vật - nhưng cậu đã không hề mong đợi những sinh vật còn dữ tợn hơn rất nhiều. Những sinh vật không phải thú cũng không phải người, mà ở giữa hai giống đó. Những con người có đầu mèo đang gầm gừ công kích Scatty, móng vuốt sắc nhọn của chúng tấn công vào các lưỡi kiếm. Những con khác có thân hình người nhưng mang đầu quạ hay đầu có những chiếc mỏ khổng lồ đang đâm mạnh vào Scatty, cố gắng chọc thủng người cô.
“Scatty -cúi xuống,” Flamel hét lớn. Không đợi xem cô có nghe thấy tiếng kêu của mình hay không, ông duỗi tay ra và hạ thấp chiếc quyền trượng. Luồng điện của ông tỏa ánh sáng xanh và không khí đột nhiên sực nức mùi bạc hà. Một quả cầu màu ngọc lục bảo sáng rực xuất hiện ở đầu mũi cây quyền trượng và được phóng về phía trước với một tiếng “bốp” nhỏ. Scatty tìm cách cúi người xuống trước khi quả cầu kêu xèo xèo trong không khí và vỡ tung tóe trên trần nhà ngay trên đầu cô. Nó để lại một vệt màu xanh lục… từ đó mà ngay lập tức nhỏ xuống những giọt màu xanh cùng những tia sáng xanh đặc quánh. Cái đầu sẹo của một con mèo mướp đang húc vào chỗ mở cửa, miệng nó há ra, răng nanh lóe sáng. Nó nhắm tới Scatty và tấn công cô - và một giọt ánh sáng nhớp nháp nhểu thằng vào đầu nó. Tên người - đầu - mèo lập tức hóa điên. Nó quăng mình vào hành lang và tấn công dữ dội tất cả những gì trên đà tiến. Một người chim bước tới bệ cửa, và bị ánh sáng xanh giội lên người. Đôi cánh đen của nó đột ngột nở ra những lỗ và vết xước và nó gục xuống trong một tiếng kêu rú dữ dội. Josh để ý thấy rằng mặc dù ánh sáng xanh, trông như một dòng mật ong, thiêu cháy các sinh vật, nó không hề tác động gì tới sàn nhà. Cậu biết là cậu phải chú ý nhiều hơn nữa, nhưng tất cả mối quan tâm của cậu đều tập trung vào chị gái. Cô đang thở gấp, và đằng sau mí mắt khép hờ đôi mắt của cô đang nhảy múa.
Scatty bò trên hai chân và phóng về phía Flamel và Josh. “Rất ấn tượng,” cô thì thầm. “Tôi đã không nghĩ là ông có thể làm điều đó.”
Flamel quay tròn quyền trượng như một chiếc gậy. “Nó tập trung năng lượng của tôi.”
Scatty nhìn xung quanh. “Chúng ta dường như đang bị mắc kẹt.”
“Hekate đi lối này,” Nicholas nói, quay về phía bên phải và chỉ vào một hàng rào nút xoắn rễ cây tưởng chừng như không thể vượt qua được. “Tôi thấy cô ta chạy ra khỏi căn hầm và đi thẳng vào rào chắn này.” Ông bước tới gần hàng rào rễ xoắn và duỗi thẳng cánh tay ra. Nó biến mất ngập tới khuỷu tay.
“Tôi sẽ đi trước,” Scatty nói. Josh để ý thấy rằng mặc dù cô đã giao chiến với đội quân tổng hợp chim và mèo, vẫn không hề có một vết cào xước nào trên cơ thể cô, hay một sợi tóc bị xiên lệch. Thậm chí cô cũng không hề thở mạnh, mặc dù nếu cô thật sự là một ma cà rồng thì có thể cô đã không cần thở gì hết, cậu thầm nghĩ. Scatty phóng mình tới trước và, ngay trong khoảnh khắc cuối cùng trước khi cô chạm tới bức tường rễ cây, cô lặn thẳng vào “cửa ngõ” đó với cặp kiếm xếp lại hình chữ X ngay trước ngực.
Flamel và Josh nhìn nhau trong tích tắc tiếp theo…và rồi đầu của Scatty thò ra từ bức tường nhìn rất kiên cố tạo thành bởi các rễ cây uốn éo. “Tất cả rất ổn.”
“Chú sẽ đi sau cùng,” Flamel nói, bước lùi lại nhường chỗ cho Josh vượt lên phía trước ông. “Chú sẽ giải quyết với bất cứ cái gì đi theo chúng ta.”
Josh gật đầu, cậu không muốn mình tin tưởng trò chuyện với Flamel. Cậu vẫn còn phẫn nộ với việc Nhà Giả kim “đánh liều” mạng sống của chị mình, nhưng cậu cũng nhận ra rằng Flamel giờ đây đang chiến đấu vì họ, đặt mình vào nguy hiểm thật sự để bảo vệ cho cả nhóm. Josh bước tới bức tường đầy rễ cây và đất, nhắm mắt lại….và đi xuyên qua nó. Một luồng hơi lạnh thoảng qua trong căn hầm thấp và hẹp tạo nên bởi những rễ cây đầu mấu của Yggdrasill. Những tảng rêu xanh hắt một ánh sáng xanh lục mờ trên căn hầm và cậu có thể nhìn thấy Scatty đang đứng sát bên những dấu chân không đều nhau dẫn lên trên vùng tối lờ mờ. Đầu của Scatty nghiêng qua một bên, nhưng trước khi Josh có thể hỏi cô đang lắng nghe tiếng gì, thì Flamel đã bước xuyên qua bức tường. Ông mỉm cười và đầu mũi chiếc quyền trượng bốc lên một làn khói xanh lục. “Cái này sẽ giữ chân bọn chúng được một lúc.”
“Đi thôi,” Scatty thúc giục, ngay vừa khi Nhà Giả kim xuất hiện.
Cầu thang hẹp đến nỗi Josh phải cuuix người bước lom khom, đầu hạ thấp và giữ chặt Sophie ngay sát mình để giữ cho đầu và chân cô không đụng phải những bức tường gỗ gồ ghề. Cậu kiểm tra từng nấc thang trước khi thực sự bước chân lên; cậu không muốn bị ngã và đánh rơi luôn chị gái. Cậu thình lình nhận ra rằng những bậc thang này đục thẳng vào khoảng không gian nằm phía bên trong và bên ngoài lớp vỏ cây, và không thể vụt thắc mắc không biết rằng một cái cây có kích thước khổng lồ như Yggdrasill có thể rất bí hiểm với các hành lang bí mật, các căn phòng ẩn giấu, các căn hầm bị bỏ quên và những cầu thang bị bỏ phí. Có thể lắm chứ, cậu quyết định. Liệu Hekate có biết là họ đang ở đâu hay không? Và rồi, trí óc cậu quay cuồng, cậu tự hỏi không biết ai đã tạo ra các bậc thang này? Dù sao đi nữa cậu không thể tưởng tượng được là Nữ thần đã một mình khắc chúng giữa cái cây khổng lồ này.
Khi họ leo thang, họ có thể ngửi thấy mùi gỗ cháy khét lẹt và âm thanh của cuộc chiến đấu nghe gần hơn. Những tiếng mèo gào lên điên dại nghe giống với tiếng người hơn, những tiếng rít thất thanh của bầy chim nghe sởn gai ốc và tất cả pha trộn với tiếng rống đinh tai của lợn lòi và tiếng rú của thằn lằn bay. Bây giờ thì họ không còn ở dưới lòng đất nữa, sức nóng và khói dữ dội hơn và họ bắt đầu nghe thấy một âm thanh khác - tiếng ầm ầm rên rỉ trầm lắng và sâu thẳm.
“Chúng ta phải nhanh lên thôi,” giọng nói của Scatty vang lên trong màn tối mờ mờ. “Chúng ta thực sự phải chạy gấp..” Và dù sao đi nữa sự trầm tĩnh đầy đè nén trong giọng nói của Scatty còn làm cho Josh hoảng sợ hơn cả khi cô thét lên. “Cẩn thận nhé; chúng ta vừa tới một “cửa ngõ”.” Chúng ta đang ở đoạn cuối cùng của một rễ cây dày; cách xa thân cây khoảng gần 30 mét. “Chúng ta sẽ sớm thoát khỏi đám đánh nhau,” cô nói thêm.
Josh vòng qua khúc quanh và nhìn thấy Scatty đang đứng tắm đẫm trong những tia sáng mặt trời buổi sáng chiếu xuyên qua lớp màn dây leo ngay trên đầu cô. Cô quay lại nhìn cậu, ánh mặt trời biến mái tóc đỏ của cô trở nên vàng chói và chiếu dọc theo cạnh sắc của hai thanh kiếm ngắn trên tay cô và, trong giây phút đó, Josh nhận ra, cô trông giống như nữ chiến binh cổ đại đầy đe dọa như danh tiếng. Âm thanh của đám đánh nhau bủa vây xung quanh họ nhưng, vang to hơn hẳn tất cả các tiếng ồn ào khác, là tiếng ầm ầm rên rỉ dường như làm rung chuyển cả đáy sâu trong lòng đất. “Tiếng gì vậy?” cậu hỏi.
“Tiếng kêu khóc của cây Yggdrasill,” Scatty trả lời một cách dứt khoát. “Những kẻ thù của Hekate đã đốt cháy Cây thế giới.”
“Nhưng tại sao?” Cậu cảm thấy sự kiện đó thật đáng kinh hoàng. Cái cây cổ đại còn sống đó không hại bất kỳ ai, nhưng nó cho cậu thấy rõ sự khinh thường sự sống của những Elder Đen tối.
“Sức mạnh của Hekate gắn bó chặt chẽ với nó, ma thuật của cô ấy làm cho cây cao vượt hẳn lên, và sưc sống trong cây mang đến cho cô ta sức mạnh. Bọn chúng tin rằng nếu hủy diệt cây Yggdrasill chúng sẽ hủy diệt luôn Hekate.”
Flamel vượt qua những nấc thang để đến đứng bên cạnh Josh. Khuôn mặt gầy của Nhà Giả kim ửng đỏ và đẫm mồ hôi. “Tôi đang già đi,” ông nói, với nụ cười uể oải. Ông nhìn Scatty. “Kế hoạch là gì?”
“Rất đơn giản,” cô bắt đầu, “chúng ta sẽ chạy thoát khỏi đây càng nhanh càng tốt.” Rồi cô dừng lại và xoay tròn thanh kiếm trên tay trái, sao cho lưỡi kiếm nằm dọc theo chiều dài của cánh tay cô. Cô nắm lấy cán kiếm. Flamel và Josh vây quanh cô và nhô đầu nhìn xuyên qua bức màn dây leo. Nơi phía đối diện của cánh đồng, Tiến sĩ John Dee xuất hiện, di chuyển một cách thận trọng giữa các bụi cây. Thanh kiếm ngắn lưỡi đen mà hắn cầm trên cả hai tay lóe sáng và đung đưa một ánh sáng xanh sắc lạnh.
“Dee,” Flamel nói, “chưa bao giờ trong đời mình tôi lại tưởng tượng được là mình có thể vui mừng đến thế khi nhìn thấy hắn. Quả thực đây là một tin tức rất tốt lành.”
Cả Scatty và Josh đều nhìn ông với vẻ ngạc nhiên.
“Dee là người…nghĩa là hắn đến đây bằng một phương tiện giao thông của con người,” Nhà Giả kim giải thích.
“Một chiếc xe hơi,” Scatty gật đầu đồng ý, “mà hắn có thể đã đậu ngay phía bên ngoài Vương quốc Bóng tối.”
Josh định hỏi làm thế nào mà cô biết được Dee để xe bên ngoài Vương quốc Bóng tối thì thình lình cậu nhận ra rằng cậu biết câu trả lời. “Bởi vì hắn biết là nếu hắn lái xe vào bên trong, pin sẽ bị cạn kiệt.”
“Nhìn kìa,” Scatty thì thầm.
Họ quan sát một trong những con Torc Allta giống như lợn lòi lớn nhất nhảy xổ ra từ đám cỏ cao sau lưng Dee. Mặc dù vẫn đang trong lốt thú, nó đứng trên hai chân sau, cho đến khi nó vươn cao gần gấp ba lần chiều cao của người đàn ông.
“Nó sắp giết hắn…” Josh nói.
Thanh kiếm của Dee lóe lên ánh sáng xanh da trời và hắn quăng mình hướng về phía Torc Allta, vung thanh kiếm lên một cách gọn lẹ. Cử chỉ đột ngột đó dường như làm cho sinh vật này ngạc nhiên, nhưng rồi nó dễ dàng gạt thanh kiếm qua một bên….và rồi đông cứng. Khi lưỡi kiếm chạm vào nó, một lớp băng mỏng xuất hiện dọc theo cánh tay của Torc Allta, những mảnh tinh thể lóe lên trong ánh mặt trời buổi sớm. Lớp băng giá phủ lên ngực con Torc Allta và chảy dọc xuống đôi chân to lớn và ngược cả lên trên vai và đầu nó. Chỉ trong tích tắc, sinh vật này đã bị bọc trong một tảng băng có những đường mạch màu xanh da trời. Dee bò dậy từ mặt đất, phủi bụi chiếc áo khoác và rồi, không hề báo trước, dùng cán kiếm đập vỡ tảng băng. Tảng băng vỡ vụn ra thành hàng triệu mảnh leng keng, mỗi mảnh chứa một phần da thịt của con Torc Allta.
“Một trong những thanh kiếm Căn bản,” Scatty bình luận dứt khoát, “Excalibur, thanh kiếm Băng hà. Tôi nghĩ là nó đã bị mất trong nhiều thế kỷ qua, và đã bị ném trả xuống cái hồ mà Artorius đã chết.”
“Có vẻ như là tay tiến sĩ đã tìm thấy nó,” Flamel thì thầm.
Josh khám phá ra là cậu thậm chí không hề ngạc nhiên vì Arthur là có thật, và cậu tự hỏi không biết còn ai là thật sự tồn tại nữa đây.
Họ quan sát Dee chạy vội vàng qua những lùm cây, nhằm thẳng đến phía bên kia của ngôi nhà cây khổng lồ nơi đang vọng lại những tiếng la hét ồn ào của đám đánh nhau. Mùi khói bốc lên ngột ngạt hơn bao giờ. Sắc nhọn và gay gắt, nó uốn lượn vòng quanh cái cây, mang theo mùi hôi thối của những nơi chốn cũ kĩ cổ xưa và mùi vị của những thứ đã chết lâu ngày. Gỗ vỡ vụn kêu răng rắc, nhựa cây sôi lên nổ lốp bốp và tiếng rầm rì rên rỉ trầm mặc giờ đây nghe mạnh đến mức làm toàn bộ cái cây run lên bần bật.
“Tôi sẽ dọn đường cho,” Scatty vừa nói vừa phóng mình băng qua thảm dây leo. Gần như ngay lập tức ba người chim bay sà đến gần cô, tiếp theo đó là hai người mèo cũng chạy tới.
“Chúng ta phải giúp cô ấy!” Josh nói một cách tuyệt vọng, mặc dù cậu không hề biết là cậu có thể làm gì để giúp.
“Cô ấy là Scathach; cô ấy không cần đến sự giúp đỡ của chúng ta đâu,” Flamel nói. “Trước hết cô nàng sẽ dụ bọn kia đi xa khỏi chúng ta..”
Scathach chạy băng băng qua những lùm cây, cô chạy nhẹ nhàng, đôi giày bốt nặng không gây tiếng động nào lên mặt đất mềm. Những con chim và mèo đuổi theo cô.
“Rồi, cô ấy sẽ đứng dựa lưng vào một cái gì đó, để chúng chỉ có thể tấn công cô từ một phía, và cô sẽ đối mặt với chúng.”
Josh quan sát Scatty chạy vòng quanh, lưng quay về phía một cây sồi lớn, đối mặt với kẻ thù. Bọn người mèo tiến đến sát cô đầu tiên, móng vuốt lóe sáng, nhưng những thanh kiếm ngắn của cô nhanh hơn và dập tắt những “cơn mưa đòn” từ móng vuốt đó. Một người chim bay là là, đôi cánh lớn vỗ phành phạch, những móng nhọn xòe ra. Cầm thanh kiếm bên tay trái cắm xuống mặt đất, cô nắm lấy cổ chân giãn rộng của người chim và kéo nó xuống rồi quăng mạnh nó vào giữa đám những con mèo gầm gừ. Theo bản năng con chim quất mạnh vào lũ mèo và đột nhiên ba con thú quay ra đánh nhau tơi tả. Hai người chim còn lại ngay lập tức đâm bổ vào mấy con mèo với tiếng kêu gào ầm ĩ. Scatty giật mạnh thanh kiếm lên khỏi mặt đất và dùng nó ra hiệu cho Flamel và Josh tiến lên phía trước.
Flamel chụp lấy vai Josh. “Đi thôi. Chạy về phía Scathach.”
Josh quay lại nhìn Nhà Giả kim. “Còn chú thì sao?”
“Chú sẽ chờ ít phút, rồi đi theo và bảo vệ cho hai cháu.”
Và ngay cả khi Josh biết là Flamel đã đặt hai chị em chúng vào sự hiểm nguy cùng cực, cậu không hề nghi ngờ gì về việc Nhà Giả kim sẽ bảo vệ đằng sau cậu. Cậu gật đầu, rồi quay người vượt qua các thảm dây leo và bỏ chạy, ôm chặt chị gái đang mê man trước ngực. Ra khỏi sự che chở của cái cây, âm thanh của cuộc chiến đấu nghe thật đinh tai nhức óc, đầy những tiếng tru và gào rú man dại, nhưng cậu tập trung vào mặt đất ngay phía trước mặt, nhìn những rễ cây hay những gì bất thường trên mặt đất có thể làm cho cậu vướng chân vấp ngã. Trong đôi cánh tay cậu, Sophie bắt đầu nhúc nhích, đôi mắt của cô nhấp nháy và cô khẽ cựa quậy. Josh ôm cô chặt hơn. “Yên nào,” cậu nói khẩn thiết, mặc dù cậu không chắc chắn rằng cô có thể nghe thấy những lời mình nói. Cậu chuyển hướng, chạy về phía bên phải, tránh xa đám mấy con chim - mèo đang cấu xé lẫn nhau. Cậu nhận ra rằng khi bị thương nặng, bọn nửa người nửa thú này quay trở lại với hình dáng nguyên thủy chim - mèo của chúng. Hai con mèo trong sửng sốt và ba con quạ tả tơi tránh xa khỏi đám bụi và nhìn cậu chạy vụt qua. Josh có thể nghe thấy Flamel đang chạy sau lưng mình, có thể ngửi thấy mùi bạc hà trong buổi sáng sớm khi Nhà Giả kim tung ra phép thuật. Chỉ thêm mười hay mười lăm bước chân nữa là cậu sẽ bắt kịp Scatty và Josh biết là một khi đã bắt kịp cô ta, cậu sẽ an toàn. Nhưng khi cậu vừa bắt kịp Scatty, cũng vừa đúng lúc cậu nhìn thấy đôi mắt cô mở to trong kinh hoàng. Mặc kệ lời cảnh cáo của Flamel, cậu liếc nhìn ra sau vai mình và nhìn thấy một phụ nữ cao, với cái đầu và móng vuốt của một con mèo bóng mượt, mặc áo choàng kiểu Ả-rập cổ đại, vừa nhảy cao ít nhất là 6 mét và “hạ cánh” trực tiếp xuống ngay sau lưng của Flamel, xô ông ngã xuống mặt đất. Một móng vuốt hình lưỡi liềm thò ra và thái cây quyền trượng ngắn của ông ra làm đôi một cách gọn gàng, rồi sinh vật dữ dội dó ngửa đầu ra sau, rít lên và vỗ cánh một cách đắc thắng.
Dạ Phong
25-11-2010, 04:21 AM
Chương 27
Perenelle Flamel được bốn tên bảo vệ thấp nhỏ đưa ra khỏi phòng giam chật chội. Chúng đều mặc đồ da màu đen, đầu và mặt giấu kín đằng sau những chiếc mũ lái mô-tô. Bà không thể chắc chắn hoàn toàn bọn chúng có phải là người hay không - bà không nhận thấy bất kỳ luồng điện, nhịp tim hay thậm chí hơi thở nào từ những kẻ này. Khi chúng vây quanh Perenelle, bà thoáng cảm nhận được một cái gì cũ kĩ già nua và chết chóc, như những quả trứng thối và trái cây chín nẫu. Bà nghĩ bọn này có lẽ là lũ Người giả Simulacra, những sinh vật nhân tạo được tạo nên từ những chum chất lỏng hư thối sủi bọt. Perenelle biết là Dee luôn luôn ưa chuộng việc tạo ra các tên tay chân cho chính mình và hắn đã bỏ ra hàng thập niên thử nghiệm với Người bùn Golem, Người giả Similacra và Người lùn Homunculi.
Không nói nửa lời, và bằng những cử chỉ giật cục nhát gừng, bốn bóng hình câm lặng dắt Perenelle ra khỏi phòng giam và đi xuống một hành lang dài hẹp sáng lờ mờ. Perenelle cố ý đi thật chậm, tranh thủ thời gian để tập trung sức mạnh và khắc ghi ấn tượng về nơi chốn này. Jefferson Miller, con ma từng làm nghề bảo vệ, đã nói vơi bà là bà đang ở tầng hầm của công ty Enoch, nằm về phía tây của Telegraph Hill, gần với ngọn tháp nổi tiếng Coit. Bà biết là bà đang ở sâu dưới lòng đất: những bức tường ẩm thấp và không khí lạnh lẽo đến mức tụ thành một đám mây hơi nước ngay trước mặt bà. Bây giờ bà đã ở bên ngoài căn phòng giam và cách xa hẳn khỏi những câu thần chú và bùa mê tự vệ của nó. Bà cảm thấy một phần sức mạnh của mình đã trở lại. Perenelle cố sức nghĩ ra một câu thần chú bà có thể dùng để “ếm” mấy tay dẫn độ, nhưng việc liên lạc với hồn ma Miller đã khiến bà kiệt sức và một cơn đau đầu làm cho đuôi mắt bà đau nhói đến nỗi bà khó có thể tập trung được.
Một hình bóng thình lình rung rinh ngay trước mặt bà. Hơi thở của bà, một làn sương trắng lờ lững trong không khí, đã kết thành một khuôn mặt.
Perenelle liếc mắt nhìn những tên bảo vệ đang đi bên cạnh mình, nhưng chúng không có phản ứng gì. Bà hít một hơi thở thật sâu đầy buồng phổi, nén hơi thở lại để cho cơ thể hâm nóng nó lên và rồi thở ra một hơi dài chầm chậm. Một khuôn mặt hiện lên giữa làn sương trắng: khuôn mặt của Jefferson Miller, hồn ma từng làm nghề bảo vệ.
Perenelle cau mày; lẽ ra hồn ma của ông ta đã biến mất từ lâu. Trừ khi… trừ khi ông ta phải trở lại để nói với bà một điều gì đó.
Nicholas!
Ngay lập tức, bà hiểu rằng chồng mình đang gặp nguy hiểm. Perenelle hít vào một hơi thật sâu và nén giữ nó lại trong lồng ngực. Bà tập trung vào Nicholas, nhìn thấy ông thật rõ ràng trong đôi mắt của tâm trí mình. Ông hiện ra với khuôn mặt gầy buồn bã, đôi mắt xanh xám và mái tóc cắt ngắn sát da đầu. Bà mỉm cười, nhớ lại hình ảnh của ông khi còn trẻ với mái tóc đen dày, dài hơn cả tóc bà. Ông thường cột nó lại thành một cái đuôi sau gáy bằng một dải băng nhung màu tím. Bà thở ra và không khí tập hợp trở lại thành một đám mây trắng có hình ảnh khuôn mặt của Jefferson Miller. Perenelle nhìn chăm chú vào đôi mắt của hồn ma và nơi đó - trong con ngươi của hồn ma - bà có thể nhìn thấy chồng mình đang bị giam cầm dưới móng vuốt của nữ thần đầu mèo.
Nỗi giận dữ và thịnh nộ trào dâng trong bà và đột nhiên cơn đau đầu và sự kiệt sức chợt tan biến. Mái tóc đen điểm những sợi trắng bạc của bà dựng thẳng trên đầu như thể chúng được một cơn gió mạnh thổi tung, những tia lửa điện màu xanh da trời và trắng tỏa dọc theo chiều dài của mái tóc. Luồng điện màu trắng mờ của bà sáng lóe lên xung quanh cơ thể bà như một làn da thứ hai. Đã quá trễ để bốn tên bảo vệ nhận ra có một chuyện gì đó bất thường. Chúng chụp lấy bà, nhưng ngay khoảnh khắc bàn tay chúng chạm phải rìa sáng của luồng điện của Perenelle thì lập tức chúng bị hất văng ra xa, như thể chúng vừa nhận được một viên đạn điện. Một tên thậm chí quăng mình vào Perenelle, nhưng trước khi hắn kịp đặt môt ngón tay lên người bà, luồng điện của Perenelle đã quăng mạnh hắn vào tường với sức mạnh đủ để hất chiếc mũ ra khỏi đầu hắn. Kẻ giấu mặt trượt dài dọc theo bức tường, cánh tay và chân gập lại trong những tư thế vụng về. Khi Perenelle nhìn vào khuôn mặt hắn, bà nhận ra rằng những sinh vật này đúng là bọn Người giả Simulacrum. Tên bị hất mũ này là một tác phẩm chưa hoàn thiện: mặt và đầu hắn đơn giản chỉ là một cái đầu hói không có mắt mũi miệng hay tai gì cả.
Người phụ nữ chạy dọc theo hành lang, chỉ dừng lại khi bà gặp một vũng nước có váng dầu trên sàn nhà. Khom người xuống vũng nước, bà tập trung cao độ và chạm vào làn nước tối tăm với ngón tay trỏ và ngón út. Luồng điện trắng của bà kêu xèo xèo khi nó chạm vào vũng nước và mặt nước bốc khói trước khi tĩnh lặng trở lại và Perenelle nhìn thấy cảnh tượng mà bà đã thoáng nhìn thấy trong đối mắt của hồn ma. Chồng bà đang nằm phía dưới móng vuốt của Bastet. Phía sau Nữ thần Mèo, Scatty đang cố sức chống chọi với hàng đàn chim và mèo, trong khi đó Josh đứng dựa lưng vào một cái cây, vụng về cầm lấy một cành cây lớn như một cây gậy bóng chày, đánh tán loạn vào bất kỳ cái gì đang tiến lại gần. Sophie nằm dưới chân cậu, cử động một cách chậm chạp, chớp mắt vẻ bối rối.
Perenelle đưa mắt nhìn dãy hành lang. Bà có thể nghe thấy những tiếng ồn xa xa, tiếng những bước chân chạy trên nền đá cứng và bà hiểu là thêm nhiều tên bảo vệ nữa đang tới. Bà có thể chạy trốn hay là bà có thể chiến đấu chống lại bọn Người giả; bà đã phục hồi phần nào sức lực. Nhưng những chuyện đó không giúp gì được cho Nicholas và lũ trẻ.
Perenelle nhìn xuống mặt hồ lần nữa. Bà có thể nhìn thấy Hekate đang chống cự lại cuộc tấn công tổng hợp của Morrigan và đàn chim cùng lũ mèo của Bastet. Perenelle cũng nhìn thấy Dee đang di chuyển đằng sau Hekate, thanh kiếm trong tay hắn lóe lên ánh sáng xanh da trời chết chóc trong khi ngay sau lưng tất cả là cây Yggdrasill đang cháy bừng bừng trong những ngọn lửa đỏ và xanh lá cây.
Có thêm một điều nữa bà có thể làm. Một điều rất nguy hiểm và đầy liều lĩnh, và nếu thực hiện thành công bà sẽ hoàn toàn kiệt sức và mất hết khả năng tự vệ. Những sinh vật của Dee có thể chỉ cần đơn giản giữ lấy bà và mang bà đi xa.
Perenelle không còn chần chừ gì nữa.
Quỳ sát xuống bên cạnh vũng nước dơ bẩn, bà đặt bàn tay phải với lòng bàn tay ngửa lên, lên trên bàn tay trái và tập trung dữ dội. Luồng điện của Perenelle bắt đầu chuyển động, chảy tràn xuống cánh tay bà như bốc khói. Chúng cũng tụ lại nơi lòng bàn tay Perenelle, chảy dọc theo những nếp nhăn và đường chỉ trên da thịt bà. Một đốm sáng bạc nhỏ như một quả bóng tuyết xuất hiện nơi những nếp gấp của làn da. Nó rắn chắc lại dần thành một quả cầu tròn trịa và rồi quả cầu bắt đầu xoay tròn và to thêm, và giờ đây những tia sáng màu trắng băng giá của luồng điện của bà tiếp tục chảy nhiều hơn xuống hai cánh tay bà. Chỉ trong tích tắc quả cầu đã to bằng một quả trứng, và rồi Perenelle đột ngột lật bàn tay lại và ném quả bóng làm bằng năng lượng thuần khiết xuống làn nước đục mờ. Bà thốt ra ba từ dứt khoát:
“Sophie. Tỉnh dậy!”
Dạ Phong
02-12-2010, 06:15 AM
Chương 28
“Sophie. Tỉnh dậy!”
Đôi mắt của Sophie Newman bất thần mở ra. Và rồi cô nhắm nghiền chúng lại và ấn hai bàn tay của mình lên hai bên tai. Ánh sáng quá chói gắt, quá sinh động, âm thanh của đám đánh nhau nghe rõ ràng và nổi bật một cách khó tin.
“Sophie. Tỉnh dậy!”
Cơn choáng váng khi lại nghe thấy giọng nói đó đã buộc cô mở mắt và nhìn xung quanh. Cô có thể nghe thấy tiếng của Perenelle Flamel rõ ràng như thể bà đang đứng cạnh cô, nhưng thực ra không có ai ở đó cả. Cô đang nằm dựa vào lớp vỏ xù xì của một cây sồi, với Josh đang đứng ngay phía trước. Cậu cầm một cành cây to dày bằng cả hai tay và cuống cuồng chống trả những sinh vật đáng kinh sợ đang lao tới.
Sophie chậm rãi tìm cách đứng lên, cô vịn vào cây sồi để làm điểm tựa. Điều cuối cùng cô có thể nhớ rõ đó là mùi khét lẹt của gỗ tươi bốc cháy. Cô nhớ mình đã gào lên “lửa”, và rồi những gì còn lại chỉ là một chuỗi những hình ảnh lộn xộn - một đường hầm chật chội, những sinh vật đầu chim và sọ mèo - mà có lẽ chỉ là một giấc mơ.
Khi Sophie điều chỉnh được mắt mình và nhìn quanh, cô nhận ra rằng tất cả hoàn toàn không phải là giấc mơ.
Họ đang bị lũ chim và mèo bao vây chật cứng: hàng trăm con. Một số con người đầu mèo ẩn nấp trong những bụi cỏ cao và cố gắng bò trườn hay lết bụng, phun phì phì hay giương móng vuốt. Những người chim trên những cành cây trên đầu đang cố gắng đến gần đủ để “thả rơi” và tấn công chị em Sophie, trong khi những con khác tiếp tục nhảy lò cò, đâm vào Josh bằng những chiếc mỏ hung hãn và độc ác.
Xa hơn một chút, ở phía bên kia của cánh đồng, cây Yggdrasill đang cháy. Những thanh gỗ cổ đại vỡ vụn kêu răng rắc, những dòng nhựa cây màu trắng sôi sùng sục tỏa hơi lên không khí tinh khôi như pháo hoa. Nhưng ngay cả khi gỗ cây bị cháy, những lớp “da thịt” mới lại xuất hiện, tươi xanh và non tơ, ngay nơi đã bị đốt cháy. Sophie cũng nhận thấy một âm thanh khác lạ và biết rằng cô đang nghe thấy tiếng của chính Yggdrasill. Và giờ đây với thính giác cực kỳ nhạy bén, cô nghĩ là cô có thể nghe thấy những cụm từ hay từ, những bài hát hay bài thơ lẩn trong tiếng than khóc đau đớn vang vọng của cái cây bốc cháy. Xa xa đằng kia, cô nhìn thấy Hekate đang cố gắng vô vọng để dập tắt ngọn lửa, nhưng bà cũng bận rộn giao chiến với Morrigan, lũ mèo và chim ngay trong cùng một lúc. Sophie cũng nhận ra rằng không còn bóng dáng của thằn lằn bay trên bầu trời, và chỉ còn rất ít vài Torc Allta tiếp tục bảo vệ bà chủ của chúng.
Gần hơn, là mái tóc đỏ sáng của Scatty. Cô cũng bị hàng tá chim và mèo bu quanh. Nữ Chiến binh đang múa hai thanh kiếm một cách nhịp nhàng, làm cho những sinh vật kia phải rú lên đau đớn. Scatty đang cố gắng đánh dẹp để tiến tới gần nơi Nicholas Flamel đang nằm úp mặt xuống đất ngay phía dưới móng vuốt của một sinh vật đáng kinh khiếp nhất mà Sophie từng nhìn thấy: Bastet - Nữ thần Mèo. Với tầm nhìn đặc biệt sắc bén, cô gái thậm chí có thể nhìn thấy từng sợi lông cứng mọc trên khuôn mặt mèo của Bastet và cô thực sự nhìn thấy một giọt nước dãi tụ xuống nơi những cái răng nanh to quá khổ và từ đó rơi xuống người đàn ông đang nằm phía dưới.
Flamel nhìn thấy Sophie đang nhìn về phía ông. Ông cố gắng hít thở thật sâu, nhưng thật khó thở khi mà sinh vật to lớn kia đang đứng ngay trên ông. “Chạy đi,” ông thì thầm, “chạy đi.”
“Sophie, ta chỉ có một vài tích tắc…” giọng nói của Perenelle vang vọng trong đầu cô gái, lay động toàn bộ sự chú ý trong cô. “Đây là những gì mà em phải làm. Em phải để ta nói qua em…”
Josh để ý thấy chị gái mình đã đứng dậy trên đôi chân, lắc lư nhè nhẹ, hai tay ấn lấy tai như thể những âm thanh kia quá ồn ào, đôi mắt cô nhắm nghiền. Cậu nhìn thấy đôi môi cô mấp máy, như thể cô đang nói với chính mình. Cậu quất mạnh vào một cặp người - chim đang chồm về phía trước. Chiếc cành cây nặng trĩu giáng vào mỏ của một trong hai kẻ tấn công và nó lảo đảo dội lui, choáng váng và sững sờ. Kẻ còn lại tiếp tục lượn vòng quanh Josh, nhưng cậu nhận ra rằng nó không tiến tới gần cậu mà cố gắng tiếp cận Sophie. Josh quay lại và vụt mạnh vào nó, nhưng ngay lúc đó, một gã đàn ông cao gầy với một cái đầu mèo mướp tiến sát tới cậu. Josh cố gắng vụt cây gậy, nhưng cậu mất đà và gã người - mèo cúi mình né tránh cú đánh. Rồi nó nhảy lên cao, mồm há ra, móng vuốt giương nhọn hoắt. Với một cảm giác chua lòm nơi cổ họng, Josh thình lình nhận ra rằng cả cậu và Sophie đều trong tình trạng vô vọng. Cậu cần phải ở bên chị mình, phải bảo vệ cô….và trong giây phút đó, cậu biết là mình đành bất lực. Cậu nhắm mắt vào phút cuối cùng khi sinh vật đầu mèo mướp hung ác đánh mạnh vào ngực cậu, chờ đợi cảm giác kim châm nhói buốt từ bộ móng vuốt, tiếng gào ré điên dại trên khuôn mặt mình….nhưng tất cả những gì cậu nghe thấy được chỉ là một tiếng gừ gừ khe khẽ. Cậu chớp chớp mắt và nhận thấy mình đang ôm một chú mèo con đầy lông tơ mịn trên tay.
Sophie! Cậu quay nhìn quanh….và sững lại trong nỗi kính sợ.
Luồng điện của Sophie tỏa ra ánh sáng bạc tinh khiết quanh cơ thể của cô. Nó quá đậm đặc và thậm chí phản chiếu ánh nắng mặt trời trông như một bộ áo giáp thời Trung cổ. Những tia sáng bạc kêu tanh tách trên tóc cô và nhỏ giọt xuống từ những ngón tay cô như những giọt chất lỏng.
“Sophie?” Josh thì thầm, phấn khởi và hoàn hỉ. Chị của cậu đã ổn.
Và khi Sophie chậm chạp quay đầu lại nhìn Josh, trong chính khoảnh khắc đó, cậu nếm trải cảm giác choáng váng, kinh hoàng biết rằng cô không hề nhận ra mình.
Gã người - chim suốt nãy giờ mải mê tìm cách tấn công cô gái đột nhiên phóng mình tới trước, chiếc mỏ nhọn hướng đâm thẳng vào đôi mắt cô. Sophie giơ những ngón tay lên cao: những giọt bạc văng ra từ bàn tay cô và bắn tóe và sinh vật hiểm ác. Ngay lập tức, nó gập cánh lại, vặn vẹo mình và biến thành con chim két mất phương hướng.
Sophie bước qua Josh và hướng thẳng về phía Bastet.
“Không được đi xa hơn nữa, cô gái nhỏ,” Bastet ra lệnh, một cánh tay đầy vuốt giơ lên.
Đôi mắt của Sophie mở rộng và cô mỉm cười, và Josh thình lình phát hiện ra, lần đầu tiên trong đời mình, cậu cảm thấy khiếp sợ chị gái. Cậu biết rằng đó không phải là Sophie, sinh vật đáng kinh hoàng kia kh thể là chị sinh đôi của cậu.
Khi cô gái cất lời, giọng của cô nghe khàn khàn gay gắt. “Bà không biết tôi có thể làm gì bà đâu.”
Đôi mắt mèo của Bastet chớp chớp trong kinh ngạc. “Mi không thể làm gì ta được, nhóc con à.”
“Tôi không phải là cô bé. Bà có thể là loài cổ đại, nhưng bà chưa bao giờ từng đụng độ với bất kỳ ai giống như tôi. Tôi sở hữu năng lượng thô chưa tinh chế mà nó có thể vô hiệu hóa ma thuật của bà. Tôi có thể dùng nó để biến lũ chim và mèo quay về hình dạng tự nhiên nguyên thủy.” Đầu Sophie nghiêng qua một bên, một cử chỉ mà Josh hiểu rất rõ; chị cậu thường làm như vậy khi cô chăm chú lắng nghe một ai đó nói. Rồi cô vươn tay ra về phía nhân vật Elder Đen tối. “Bà nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra nếu như tôi thò tay ra và chạm vào bà?”
Bastet huýt lên một hiệu lệnh và ba gã người - mèo to vật vã lao tới chỗ cô gái. Cô duỗi thẳng cánh tay, và một cuộn khói dài như rắn của năng lượng bạc bắn ra từ bàn tay cô. Nó chạm vào mỗi người - mèo, kêu lách tách khi đụng vào vùng hông và vai chúng, và ngay lập tức bọn nay sẩy chân, cuộn tròn và uốn éo trên mặt đất trong khi chúng biến trở lại thành những con mèo bình thường, hai con lông ngắn và một con lông dài bờm xờm. Lũ mèo nhảy lên trên đôi chân, chạy lẹ ra xa với những tiếng gào rú thảm thương.
Sophie quay tròn chiếc roi bạc trên đầu mình, những giọt chất lỏng bạc vung vẩy khắp mọi nơi. “Hãy để tôi cho bà nếm thử về những gì tôi có thể làm…” Dải bạc vỡ lách tách và kêu răng rắc….
Scatty đột ngột nhận ra ba đối thủ của mình vụt biến thành một con chim két Bắc Mỹ cổ đỏ, một chim sẻ nhà, và một con vẹt, trong khi tên người - mèo trông rất hung dữ ngay trước mặt cô chợt biến thành một con mèo Ba Tư.
Sophie tiếp tục vung cho dải bạc kêu lách tách, đánh dẹp hết bọn tấn công ra xa, những giọt bạc vương vãi khắp nơi và càng lúc càng có nhiều người - chim và người - mèo quay trở về với hình dáng tự nhiên. “Tránh xa khỏi Nicholas,” cô nói, đôi môi của cô không khép mở nhịp nhàng với những lời nói của cô, “hay chúng ta sẽ tìm ra hình dáng thật của bà là gì, Bastet, và cũng là Bes và Mafdet, Sekmet và Mut.”
Miệng của Sophie mấp máy, ít giây sau những lời khác lại vang lên. “Hãy coi chừng cô gái này, Bastet. Cô ta là ngày tận số của ngươi.”
Bastet chậm rãi lùi ra xa. Những sợi lông cứng dựng lởm chởm và hai cánh tay của bà ta vẫy vẫy cùng với tiếng vạc kêu, rồi bà ta quay người chạy về phía cây Yggdrasill đang bốc cháy. Lần đầu tiên sau nhiều thiên niên kỷ, bà ta cảm thấy hoảng sợ.
Nicholas lê chân để đứng dậy và tiến tới chỗ Sophie, Josh và Scatty. Ông dừng lại trước mặt Sophie. “Perenelle?” ông thì thầm.
Sophie quay đầu lại nhìn ông, đôi măt cô trống rỗng và vô hồn. Môi cô mấp máy và rồi, như một bộ phim lồng tiếng tồi tệ, những lời nói vang lên. “Em đang ở San Francisco, bị nhốt dưới tầng hầm của Công ty Enoch. Em an toàn và khỏe. Hãy dẫn bọn trẻ đi về phía nam, Nicholas…” Một khoảng im lặng dài trôi qua và rồi, khi cô lên tiếng, những lời nói phát ra nhanh hơn là cử động của đôi môi Sophie, và luồng điện trắng bạc của Sophie bắt đầu mờ dần và đôi mắt cô bắt đầu nhắm lại. “Hãy dẫn chúng đến Bà phù thủy.”
Dạ Phong
02-12-2010, 04:52 PM
Chương 29
Tiến sĩ John Dee càng lúc càng trở nên điên cuồng. Tất cả mọi thứ đã đổ vỡ tan tành và giờ đây chắc chắn rằng hắn sẽ phải đóng một vai trò chủ động trong cuộc chiến đấu.
Flamel, Scatty và cặp sinh đôi đã chạy thoát ra từ phía bên trong của cây Yggdrasill và hiện đang chiến đấu ở phía bên kia cánh đồng, cách nơi Dee đang đứng không đầy hai trăm mét, nhưng hắn không thể chạy đến chỗ họ được vì điều đó nghĩa là hắn phải chạy băng qua một chiến trường. Những con Torc Allta cuối cùng còn trụ lại, cả trong lốt người và lốt lợn lòi, đang đánh nhau kịch liệt với bọn người mèo và người chim. Những con thằn lằn bay đã bại trận hoàn toàn. Ban đầu, những con vật đầu rắn có cánh này đã khiến bọn mèo và chim rối loạn và lúng túng, nhưng rồi chúng trở nên ì ạch kéo lết và vụng về trên mặt đất và đa số bị té lảo đảo một khi hạ cánh. Đội quân đông đúc các Torc Allta cũng đã mỏng đi đáng kể và Dee đoán rằng chỉ trong vòng một vài giờ đồng hồ nữa, sẽ không còn con lợn lòi cổ đại nào còn tồn tại ở Bắc Mỹ nữa.
Nhưng hắn đâu có thể chờ đợi lâu đến thế. Hắn phải tóm được Flamel ngay bây giờ. Hắn phải đoạt lại những trang giấy bị mất của cuốn Codex càng sớm càng tốt.
Từ chỗ ẩn núp phía sau một lùm cây rậm, Dee quan sát cánh Elder. Hekate đang đứng nơi ngưỡng cửa của ngôi nhà cây của cô, xung quanh cô là một Torc Allta “vệ sĩ riêng” cuối cùng. Trong khi các lợn lòi cổ đại đánh nhau với bọn mèo và chim, một mình Hekate đối mặt với “liên minh ma quỷ” Morrigan và Bastet.
Cả ba Nữ thần này phớt lờ đám nửa người nửa thú đang giao tranh kịch liệt xung quanh họ. Với một người quan sát bình thường, có vẻ như ba Elder này chỉ đơn giản đang đứng nhìn chằm chằm vào nhau. Tuy nhiên, Dee chú ý đến những đám mây xám tím đang tụ tập ngay phía trên cây Yggdrasill. Hắn nhìn thấy những hoa trắng bạc và vàng mọc rải rác xung quanh cái cây khổng lồ đó héo úa và lụi tàn, biến thành một thứ bột nhão màu đen trong phút chốc, và hắn cũng nhìn thấy những cây nấm óng ánh nhô lên từ những viên đá nhẵn mịn và trơn mượt. Dee mỉm cười; chắc chắn là cuộc đọ sức này sẽ sớm kết thúc. Hekate còn có thể chống chọi lại bao lâu nữa với hai Elder kia, cô và cháu gái?
Nhưng Nữ thần Ba mặt không có dấu hiệu gì cho thấy cô ta đang yếu đi.
Và rồi cô ta phản công lại.
Mặc dù không khí, giờ đây đã bốc mùi nồng nặc từ cái cây bị đốt cháy khét lẹt, khá tĩnh lặng, hắn vẫn nhận thấy một cơn gió vô hình, không cảm thấy được đang quất lên tấm áo choàng và đôi vai của Morrigan, và thốc mạnh vào Bastet khiến cho bà ta phải nghiêng đầu và dựa người theo chiều gió. Những hoa văn trên tấm váy lóng lánh của Hekate quay lộn dữ dội, những màu sắc nhòe mờ và méo mó.
Với sự cảnh giác ngày càng tăng, hắn nhìn thấy một bóng đen bay ngang qua những ngọn cỏ khô héo, và rồi một bầy ruồi đen li ti dày đặc kéo tới tấn công vào lớp lông của Bastet, bu dày lên đôi tai và mũi của bà ta. Nữ thần Mèo tru lên và ra sức chống chọi, cào cấu điên cuồng lên mặt mình. Bà ta ngã xuống đất, cuộn tròn nhiều vòng trên bãi cỏ, cố gắng giải thoát mình ra khỏi bầy ruồi. Nhưng ngày càng có nhiều ruồi lao tới cộng thêm những con kiến lửa và nhện hoang bò lổm ngổm trên cỏ và rồi phủ đen lên khắp cơ thể Bastet. Bò lết trên bốn chân, bà ta ngửa đầu ra sau và rống lên đau đớn, rồi quay người chạy băng qua cánh đồng, cuộn tròn và lê lết trên bãi cỏ, bắn tóe nước lên từ một cái hồ nhỏ và cố gắng rửa trôi đám côn trùng ra khỏi người mình. Bastet chạy được một nửa đường băng ngang cánh đồng thì đám mây ruồi nhặng thôi không dí bà ta nữa. Bà ta chà xát dữ dội mặt và hai cánh tay, để lại những vết rạch dài trên da thịt trước khi đứng lên trên hai chân và sải những bước dài về phía cây Yggdrasill. Và rồi tấm thảm ruồi, giờ đây đã dày hơn, kết tụ lại trên không trung phía trước Bastet.
Và trong giây phút đó, Dee chợt nhận ra rằng có lẽ - chỉ có lẽ thôi - là Hekate có thể chiến thắng. Xé lẻ Bastet và Morrigan là một đòn tấn công rất thông minh; và ngăn chặn không cho Bastet trở lại đơn giản là một chiến lược thiên tài.
Phát hiện ra mình không thể quay trở lại cây Yggdrasill, Bastet rít lên phẫn uất, rồi bà ta quay lại phóng như điên đến chỗ Flamel, Scatty và cặp sinh đôi đang cố gắng tự bảo vệ. Dee nhìn thấy bà ta nhảy thốc lên một khoảng cách khó tin và ép Nhà Giả kim nằm sát đất. Cảnh tượng này làm hắn hài lòng chút ít và hắn cho phép mình nở một nụ cười nhanh chóng lụi tàn - hắn vẫn đang bị mắc kẹt ở phía bên này của cánh đồng. Làm thế nào để hắn vượt qua được Hekate đây?
Mặc dù cây Yggdrasill đang bốc cháy dữ dội như một bó đuốc khổng lồ với các bộ phận rực sáng, những cái lá bị thiêu rụi và những cành cây đen thui rơi xuống đất, những dòng nhựa cây nổ lép bép từ trong những cành cây gãy đổ, sức mạnh của Hekate dường như không hề suy yếu. Dee nghiến răng trong cơn tức giận và chán nản; tất cả các nghiên cứu của hắn đều chỉ ra rằng Hekate đã thổi hồn sống vào cái cây bằng cách truyền cho nó một ít năng lượng của chính bà. Ngược lại, khi nó sinh trưởng, nó sẽ đổi mới và làm đầy lại nguồn năng lượng của Hekate. Đốt cháy cái cây chính là ý tưởng của Dee. Hắn hình dung là khi cây bị đốt cháy, Hekate sẽ yếu dần. Nhưng, ngược lại: nổi lửa thiêu cây chỉ đốt cháy cơn giận dữ của Nữ thần Ba mặt và cơn thịnh nộ của bà đã biến bà trở nên nguy hiểm và “sát thủ” hơn bao giờ hết. Khi Dee nhìn thấy đôi môi của Hekate giật giật như thể bà đang mỉm cười với Morrigan lảo đảo giật lùi, hắn bắt đầu nhận ra rằng ở nơi đây, trong Vương quốc Bóng tối của riêng bà, Nữ thần Ba mặt đơn giản là quá mạnh so với chúng.
Dee biết là hắn sẽ phải hành động.
Nương theo bóng tối của những cái cây và bụi cỏ cao, hắn di chuyển vòng quanh thân cây Yggdrasill khổng lồ. Hắn buộc phải cúi khom người lẩn trốn khi một Torc Allta trong lốt lợn lòi đâm sầm vào bụi cây ngay trước mặt hắn với ít nhất khoảng một tá người mèo và hai chục người chim đang bám chặt lấy nó.
Dee chui ra khỏi bụi rậm ở phía đối diện với nơi mà Hekate và Morrigan đang giao chiến. Vào phía bên phải của mình, hắn có thể nhìn thấy một điều gì đó đang xảy ra với nhóm Flamel; chim và mèo chạy tán loạn khắp mọi hướng…và rồi hắn nhận ra là hắn đang nhìn thấy những con chim bình thường và những con mèo bình thường đang bỏ chạy thay vì những sinh vật nửa người nửa thú. Câu thần chú biến đổi của Morrigan và Bastet đã thất bại: không lẽ Hekate mạnh đến thế sao? Hắn phải kết thúc tất cả những trò này ngay bây giờ.
Tiến sĩ John Dee nhấc thanh kiếm ngắn trong tay hắn lên cao. Ánh sáng xanh da trời bẩn thỉu chạy dọc theo chiều dài kiếm và trong tích tắc lưỡi kiếm cổ đại - làm bằng đá, không phải kim loại - rung lên tựa như có một làn gió nhẹ vô hình thổi dọc theo cạnh sắc của nó. Những con rắn uốn éo được chạm khắc vào cán kiếm bắt đầu trở thành những sinh vật sống phun xì xì.
Nắm chặt cán kiếm, Dee ấn mạnh mũi kiếm sâu vào lớp vỏ nhiều mấu của cây Yggdrasill cổ đại…và đâm thẳng kiếm vào đó.
Excalibur trượt một cách nhẹ nhàng êm ái vào lớp vỏ gỗ, ngập chìm tới tận cán kiếm không một chút vướng víu. Trong một khoảng lặng dài, không có gì xảy ra, và rồi yggdrasill bắt đầu rên siết. Tiếng rên nghe như âm thanh từ một con thú bị thương: bắt đầu là một tiếng ầm ầm sâu thẳm, nó bắt đầu ngân dài thành một tiếng khóc thút thít rên rỉ trầm lắng. Khi cán kiếm nhô ra từ thân cây, một vệt rạch màu xanh xuất hiện. Như dòng mực nhỏ giọt, vết rạch chảy sâu xuống dọc theo thân cây và thấm sâu xuống đất, và rồi ánh sáng xanh trơn như dầu nhờn chạy dọc theo những gân lá và mạch gỗ. Tiếng than khóc của cây Yggdrasill nghe càng lúc càng thảm thiết, cho đến khi âm thanh của nó vượt cao lên cả giới hạn chịu đựng của con người. Những Torc Allta còn sống sót rơi nhào xuống đất, quằn quại trong đau đớn, hai tay ôm chặt lấy tai, những người chim xoay tít trong rối loạn và đám người mèo đồng thanh rú rít tru gào một cách hoang dại.
Vết rạch màu xanh da trời chạy lan nhanh ra khắp thân và cành cây, phủ lên tất cả một lớp màng pha lê mỏng lấp lánh và phản chiếu ánh sáng. Những cây cầu vồng màu đen xanh và xanh lá cây pha tím tỏa ra lung linh trong không khí.
Vết rạch trơn bóng như dầu nhờn chạy hết chiều dài cây, tỏa rộng ra khắp các cành lá, biến tất cả những gì nó chạm đến thành những bề mặt phủ lớp màng tinh thể lấp lánh. Ngay cả lửa cũng không tránh khỏi sự “đóng băng” thần tốc này. Những ngọn lửa đông cứng lại trong những hình thù hoa văn phức tạp và lộng lẫy, rồi chúng bị phủ màng nhện, như kiểu băng giá phủ lên mặt hồ, và rồi vỡ vụn ra thành hàng nghìn hạt bụi nhỏ lóng lánh. Khi vết rạch màu xanh chạm vào lá cây, lá bị đông cứng lại và rơi lìa khỏi cành. Chúng không rơi xoáy theo hình xoắn ốc xuống đất mà rơi thẳng và vỡ tan trong tiếng leng keng ngân vang trong khi các cành cây, giờ đây đã biến thành những tảng băng dài rắn chắc, rụng khỏi thân cây và đâm nhào xuống đất. Dee phóng mình qua một bên để tránh cho khỏi bị một cành cây đóng băng dài gần ba mét nện trúng người. Nắm chặt cán của thanh kiếm Excalibur, hắn kéo lê thanh kiếm đá ra khỏi cái cây cổ đại và chạy đi tìm chỗ trú.
Cây Yggdrasill đang giãy chết. Những mảng vỏ cây lớn vỡ ra tanh tách, giống như những tảng băng vụn vỡ ra từ chỏm băng, và đổ nhào xuống đất, phủ lên bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp của Vương quốc Bóng tối những mảnh vỡ lấp lánh tung tóe đầy chết chóc.
Giữ một khoảng cách an toàn xa xa để nhìn ngắm những cành cây lớn đang rơi rụng, Dee chạy vòng quanh cây Yggdrasill; hắn cần phải thất Hekate xem bà ta bây giờ ra sao.
Nữ thần Ba mặt đang hấp hối.
Đứng bất động ngay trước tấm thảm các mảnh vụn tan tác của cây Yggdrasill, Hekate đang biến đổi liên tiếp ba khuôn mặt của mình - trẻ, trưởng thành và già nua - tất cả chỉ trong tích tắc. Sự thay đổi diễn ra nhanh đến mức da thịt của bà không đủ thời gian để thích ứng và bà “mắc kẹt” giữa các giai đoạn: đôi mắt thiếu nữ trên khuôn mặt nhăn nheo, đầu của cô gái trên cơ thể một thiếu phụ, một cơ thể đàn bà với cánh tay trẻ nhỏ. Tấm váy luôn thay đổi màu sắc của bà đã mất tất cả màu và biến thành màu đen giống như da bà.
Dee đứng bên cạnh Morrigan và chúng quan sát cảnh tượng trong im lặng. Bastet nhập bọn và cả ba cùng chứng kiến những giây phút cuối cùng của Hekate và cây Yggdrasill.
Cây Thế giới giờ đây đã chuyển qua màu xanh hoàn toàn, được bao bọc bởi một lớp băng. Những rễ cây đông cứng đã bật lên từ lòng đất, phá vỡ cấu trúc hoàn hảo của đất, chọc thủng lớp đất phủ trên mặt. Những cái lỗ khổng lồ xuất hiện trên thân cây to lớn, phơi bày những căn phòng hình tròn bên trong và chúng cũng bị lớp băng giá màu xanh bẻ cong và bao phủ.
Sự biến đổi của Hekate cũng chợt chậm lại. Những thay đổi diễn ra lâu hơn vì giờ đây vết rạch màu xanh đã chậm chạp bò trườn vào bên trong cơ thể bà, làm cho da thịt bà đông cứng lại, biến chúng thành tinh thể băng giá.
Morrigan liếc nhìn thanh kiếm trên tay Dee, rồi vội vã nhìn ra phía khác. “Thậm chí ngay sau tất cả những năm tháng làm việc cho chúng tôi, Tiến sĩ Dee, ông vẫn có thể làm cho chúng tôi kinh ngạc,” bà ta nói lặng lẽ. “Tôi không biết là ông có trong tay Thanh kiếm Băng hà.”
“Tôi vui mừng vì đã mang nó theo,” Dee nói, không trực tiếp trả lời Morrigan. “Có vẻ như năng lượng Hekate mạnh hơn nhiều so với ước đoán của chúng ta. Ít ra thì suy đoán của tôi - rằng sức mạnh của bà ta gắn bó chặt chẽ với cái cây - là chính xác.”
Tất cả những gì còn lại của Yggdrasill giờ đây chỉ là một tảng băng rắn chắc. Hekate cũng đã được bọc kín hoàn toàn bên dưới một lớp vỏ băng giá, mặc dù đằng sau lớp tinh thể xanh, đôi mắt màu bơ của bà vẫn sáng và linh hoạt. Ngọn cây bắt đầu tan chảy, những dòng nước bẩn chảy dọc theo chiều dài vỏ cây, xoi những đường rãnh sâu vào đó.
“Khi tôi nhận ra rằng bà ta có đủ sức mạnh để vô hiệu hóa các câu thần chú của bà, tôi biết là mình sẽ phải làm một điều gì đó,” Dee nói. “Tôi đã nhìn thấy lũ mèo và chim quay trở lại hình dạng tự nhiên của chúng.”
“Đó không phải do Hekate làm,” Bastet gầm lên đột ngột, trọng âm của bà ta dày nặng, nghe như âm thanh của loài thú.
Morrigan và Dee quay ra nhìn Nữ thần Mèo. Sinh vật này giơ một bàn chân đầy lông lá lên cao và chỉ băng ngang qua cánh đồng. “Đó chính là đứa con gái kia. Một ai đó đã thông qua nó, một người nào đó biết rõ những tên thật của ta, một người nào đó đã dùng luồng điện của cô gái để tung ra một ngọn roi năng lượng thuần khiết: đó chính là cái đã làm các câu thần chú của bọn ta trở nên vô hiệu.”
Dee nhìn xuyên qua cánh đồng nơi mà hắn từng nhìn thấy Flamel, Scatty và cặp sinh đôi đang tụ tập dưới một cây sồi lớn. Nhưng bây giờ chẳng còn thấy một dấu hiệu nào của bọn họ nữa. Hắn quay sang định ra lệnh cho những con mèo và chim còn sống sót đi tìm họ, vừa khi hắn trông thấy Senuhet đang bước đi loạng choạng. Trên cơ thể gã đàn ông nhỏ bé bê bết bùn và máu - mặc dù tất cả máu bùn đó dường như không phải của ông ta - và ông ta đã bị mất một trong hai thanh kiếm bằng đồng thiếc có chạm trổ. Thanh kiếm thứ hai cũng đã gãy làm đôi. “Flamel và những kẻ khác đã trốn thoát,” hắn thở hổn hển. “Tôi theo chân bọn chúng ra khỏi Vương quốc Bóng tối. Bọn chúng đã đánh cắp chiếc xe hơi của chúng ta,” hắn nói căm phẫn.
Gầm lên vì giận dữ, Tiến sĩ John Dee đi lộn vòng lảo đảo và cắm thẳng cây Excalibur vào cây Yggdrasill. Thanh kiếm đá đâm thẳng vào Cây Thế giới làm ngân lên một hồi chuông trang trọng. Nốt nhạc đơn độc, trong trẻo và cao vút, vang rung trong không khí…. và rồi Yggdrasill bắt đầu vặn mình răng rắc. Những vết nứt rạn dài chạy dọc theo chiều dài của cây. Bắt đầu chỉ là những vết nứt li ti, nhưng chúng nhanh chóng lớn rộng dần khi chúng chạy dọc thành những đường gồ ghề gãy khúc dọc theo cây. Trong nháy mắt toàn bộ Yggdrasill đã vằn vện những hoa văn ngoằn ngoèo rối loạn. Rồi cả cây Yggdrasill vỡ thành hàng trăm mảnh và đổ ầm xuống đầu bức tượng băng giá của Hekate, đè nát nó ra thành bụi.
Dạ Phong
03-12-2010, 05:32 AM
Chương 30
Josh Newman giật mạnh cánh cửa của chiếc Hummer màu đen và cảm thấy một làn sóng nhẹ nhõm tràn ngập. Những chiếc chìa khóa đã cắm sẵn trên ổ điện. Cậu mở cửa sau và giữ lấy nó trong khi Nicholas Flamel chạy vội về phía chiếc xe với Sophie trên hai cánh tay. Ông chui vào xe và nhẹ nhàng để cô duỗi thẳng người ra nơi hàng ghế sau. Scatty dấn bước vọt qua những hàng rào lá cây và va mạnh vào chiếc xe, một nụ cười rộng mở trên khuôn mặt.
“Đây là,” cô nói, khi leo vào chỗ ngồi phía sau chiếc Hummer, “trò vui nhất mà tôi vừa trải qua trong suốt cả một thiên niên kỷ.”
Josh trèo vào chỗ của tài xế, điều chỉnh nó và xoay chìa khóa ổ điện. Động cơ mạnh mẽ của chiếc xe gầm lên sẵn sàng.
Flamel nhảy vào ghế bên phải và đóng sầm cánh cửa. “Hãy đưa chúng ta ra khỏi nơi đây!”
Ghì chặt bánh lái bọc da trong cả hai tay, Josh sang số và đạp chân ga xuống sát sàn. Chiếc Hummer to lớn lắc lư chồm tới trước, hất văng những hòn đá sỏi và bụi đất lên tung tóe khi nó quay thành một vòng tròn và rồi lấy đà phóng ngon trớn vào con đường chật hẹp, nhảy chồm chồm sung sức lên những vết bánh xe, những cành cây và bụi rậm cào cấu vào hai bên sườn xe, rạch lên lớp sơn mới tinh của nó những đường trầy xước.
Mặc dù mặt trời đã mọc lên cả Vương quốc Bóng tối lẫn thế giới thực, con đường vẫn tối thui và dù Josh có nhìn quanh tìm kiếm, cậu vẫn không thể nào tìm thấy những nút bấm điều khiển các ngọn đèn. Cậu tiếp tục nhìn vào gương hai bên hông và kính chiếu hậu, chờ đợi bất cứ lúc nào hình ảnh của Morrigan và Nữ thần Mèo bước qua khỏi những bức tường rau trái vững chắc phía đằng sau. Thế rồi con đường mòn kết thúc với chùm ánh sáng mặt trời tràn ngập và Josh bẻ tay lái về bên phải, quay chiếc Hummer nặng nề rẽ vào con đường hẹp ngoằn ngoèo rải nhựa đen, và cậu buông lỏng chân ga. Chiếc xe nặng nề ngay lập tức chạy chậm hẳn.
“Mọi người OK chứ hả?” cậu run run hỏi.
Cậu điều chỉnh kính chiếu hậu thấp xuống để cậu có thể nhìn thấy những gì đang diễn ra ở phía sau xe. Chị sinh đôi của cậu nằm duỗi thẳng người ngang qua những chiếc ghế rộng, đầu cô nằm trong lòng Scatty. Nữ Chiến binh đang lau trán cô gái bằng một mảnh vải xé ra từ chiếc áo thun của cô ta. Làn da của Sophie trắng nhợt một cách chết chóc, và mặc dù đôi mắt của cô nhắm nghiền, hai con ngươi vẫn chuyển động và nhảy múa phía dưới mí mắt và cô co giật như thể cô đang gặp một cơn ác mộng kinh hoàng. Scatty thấy Josh đang nhìn họ qua kính chiếu hậu và cô mỉm cười ra chiều khuyến khích. “Cô ấy sẽ OK thôi,” cô nói.
“Chú có thể làm được một cái gì đó không?” Josh đòi hỏi, nhìn chăm chú vào Flamel đang ngồi ở phía bên kia. Cảm xúc của cậu đối với Nhà Giả kim hoàn toàn lẫn lộn trong lúc này. Một mặt ông ta đã đặt chị em cậu vào hiểm nguy cùng cực trong khi mặt khác ông ta đã chiến đấu dữ dội để bảo vệ cho hai đứa.
“Chú không thể,” Flamel nói một cách mệt mỏi. “Cô ấy đơn giản là bị kiệt sức; chẳng có gì hơn.” Nicholas trông cũng tả tơi. Quần áo của ông lấm lem bùn đất và những vết gì đó có lẽ là vết máu. Lông chim dính trên tóc ông và cả hai bàn tay ông bị trầy xước sau cuộc chiến đấu với đám người mèo. “Hãy để cho chị cháu ngủ và khi Sophie thức dậy trong khoảng một vài giờ nữa cô ấy sẽ ổn thôi. Chú hứa với cháu như vậy.”
Josh gật đầu. Cậu tập trung vào con đường phía trước, không muốn tiếp tục cuộc trò chuyện với Nhà Giả kim. Cậu nghi ngờ về việc chị gái mình sẽ ổn trở lại. Cậu đã chứng kiến cảnh cô nhìn mình, đôi mắt trơ trơ trống rỗng: cô đã không nhận ra cậu. Cậu đã nghe giọng nói phát ra từ miệng Sophie: đó cũng không phải là giọng nói mà cậu biết. Chị gái cậu đã thay đổi hoàn toàn.
Họ nhìn thấy một dấu hiệu của Thung lũng Mill, và Josh cho xe rẽ trái. Cậu không biết họ đang đi về đâu; cậu chỉ muốn chạy ra xa khỏi Vương quốc Bóng tối. Còn hơn thế, cậu muốn được trở về nhà, muốn quay lại với cuộc sông bình thường, muốn quên đi việc cậu tình cờ đọc được mẫu quảng cáo trên tờ báo của trường đại học mà ba cậu mang về nhà.
Cần người phụ việc. Tiệm sách. Chúng tôi không cần độc giả, chúng tôi cần nhân viên.
Cậu đã gửi hồ sơ xin việc đến địa chỉ đó và chỉ vài ngày sau cậu nhận được một cú điện thoại mời phỏng vấn. Hôm đó Sophie rảnh rỗi và đi cùng cậu cho vui. Trong khi chờ đợi, cô nhâm nhi cà phê ở cửa tiệm bên kia đường. Lúc Josh bước ra khỏi Tiệm sách nhỏ, mặt mày sáng rỡ vì cậu đã nhận được lời mời làm thêm, cậu khám phá ra là Sophie cũng đã kiếm được việc làm ở Tiệm cà phê. Chúng sẽ cùng nhau làm thêm nơi hai cửa tiệm đối diện nhau trên cùng một con đường; mọi chuyện thật hoàn hảo! Và chuyện đã thực sự rất hoàn hảo - cho đến ngày hôm qua, khi tất cả bắt đầu đảo điên xáo trộn. Cậu khó có thể tin được là chuyện chỉ mới xảy ra từ hôm qua. Cậu lại nhìn vào gương để nhìn thấy Sophie. Cô đang nghỉ ngơi một cách bình an, hoàn toàn bất động, nhưng cậu cảm thấy nhẹ nhõm hơn đôi chút khi nhìn thấy một ít sắc hồng đã trở lại trên đôi má cô.
Hekate đã làm gì? Không - Flamel đã làm gì? Tất cả đều quay trở lại với Nhà Giả kim. Tất cả là lỗi của ông ta. Nữ thần Ba mặt đã không hề muốn đánh thức cặp sinh đôi; bà ta biết rõ mối nguy hiểm. Nhưng Flamel cứ thúc giục và bây giờ, chính vì Nhà Giả kim, Vương quốc Bóng tối của Hekate bị tấn công dữ dội, và chị gái cậu bỗng biến thành một người xa lạ ngay với chính cậu nữa.
Khi Josh bắt đầu làm việc ở tiệm sách cho người đàn ông mà lúc đó cậu biết với cái tên Nick Fleming, cậu nghĩ ông ta hơi lạ lùng, lập dị, thậm chí kỳ quặc nữa. Nhưng khi dần hiểu và thân với ông hơn, cậu trở nên rất thích ông, thậm chí khâm phục ông. Flamel là tất cả những gì khác với ba của cậu. Ông thích thú và quan tâm tới tất cả những chuyện Josh làm, và kiến thức của ông về ngôn ngữ và logic thật mênh mông. Josh biết là ba mình, Richard, chỉ hạnh phúc nhất và dễ chịu hoàn toàn khi ông đứng trước một giảng đường đông kín sinh viên hay chôn chặt hai đầu gối xuống bùn đất.
Fleming khác hẳn. Khi Josh trích dẫn Bart Simpson cho ông, Fleming phản biện với Grouco Marx và liên hệ rộng hơn bằng cách giới thiệu những bộ phim của anh em nhà Marx cho Josh biết. Họ cùng chia sẻ ý thích về âm nhạc - mặc dù “gu” nghe nhạc của hai người khác hẳn nhau; Josh “để cử” Green Day, Lamb và Dido trong khi Fleming giới thiệu Peter Gabriel, Genesis và Pink Floyd cho cậu. Khi Josh đưa cho Fleming nghe những bài hát thuộc thể loại anbient và trance trong iPod của cậu, Fleming lại cho cậu nghe những CD của Mike Oldfield và Brian Eno. Josh dẫn Nick đến với thế giới của blog (nhật ký trên mạng) và chỉ cho ông xem blog của chị em cậu, và họ thậm chí đã bắt đầu bàn đên chuyện đưa những cuốn sách lên mạng để “mở rộng thị trường.”
Cùng với thời gian, Josh đã xem Fleming như một người anh trai mà câu luôn luôn ao ước có. Và giờ đây người đàn ông đó đã phản bội cậu.
Thực sự ông ta đã lừa dối cậu ngay từ lúc ban đầu. Ông ta thậm chí cũng không phải là Nick Fleming. Và đâu đó trong trí não của Josh một câu hỏi bức thiết đang được hình thành. Giữ cho giọng nói hạ thấp và hướng ánh mắt đến con đường phía trước, Josh hỏi, “Có phải chú đã biết rằng những chuyện này sẽ xảy ra không?”
Flamel ngồi dựa lưng vào chiếc ghế bọc da và quay người sang nhìn Josh. Nhà Giả kim ngồi khuấy một phần trong bóng tối và ông thắt chặt dây an toàn bằng cả hai tay. “Biết chuyện gì?” Ông hỏi một cách thận trọng.
“Chú biết đó, cháu đâu phải là trẻ con,” Josh nói, giọng cậu cao lên, “vì vậy chú đừng nói chuyện vơi cháu như thể cháu là đứa con nít không biết gì.” Trên ghế, Sophie lẩm bẩm vài chữ trong giấc ngủ và cậu cố gắng hạ thấp giọng. “Cuốn sách quý của chú có tiên đoán được hết tất cả chuyện này không?” Cậu thoáng nhìn thấy Scatty khẽ cử động đằng sau băng ghế và nhận ra là cô đang chồm người tới trước để nghe câu trả lời của Nhà Giả kim.
Flamel im lặng một lúc lâu trước khi trả lời. Cuối cùng, ông nói: “Có một số điều mà cháu nên biết trước tiên về Cuốn sách của Pháp sư Abraham.” Ông nhìn thấy Josh mở miệng và ông nói tiếp một cách vội vã. “Để chú nói hết đã. Chú luôn luôn biết rằng cuốn Codex có từ rất lâu đời,” ông bắt đầu, “mặc dù chú không biết chính xác là nó bao nhiêu tuổi. Hôm qua Hekate nói là bà ta đã có mặt khi Abraham tạo ra cuốn sách….và điều đó có nghĩa là cuốn sách ít nhất phải mười nghìn năm tuổi. Thế giới khi đó hoàn toàn khác xa so với bây giờ. Theo nhận định chung thì loài người xuất hiện vào khoảng giữa Thời kỳ Đồ đá. Nhưng sự thật rất rất khác. Giống loài Elder đã thống trị trái đất. Chúng ta có những mảnh rời rạc của sự thật trong các thần thoại và huyền thoại. Nếu như cháu tin vào các câu truyện kể,” ông nói tiếp, “Elder sở hữu năng lượng của các chuyến bay, họ có những tàu thuyền lớn băng qua đại dương, họ có thể làm chủ được thời tiết và có thể nhân bản vô tính. Nói cách khác, họ đã biết đến một khoa học tiến bộ mà chúng ta gọi nó là ma thuật.”
Josh bắt đầu lắc đầu. Có quá nhiều thông tin……
“Và trước khi cháu cho rằng tất cả chỉ là chuyện tào lao, hãy nghĩ về những bước tiến vượt bậc của con người chỉ trong vòng mười năm trở lại đây. Nếu có ai đó nói với cha mẹ của cháu rằng, chẳng hạn, họ có thể mang theo cả một thư viện âm nhạc trong túi áo, thì cha mẹ cháu có tin người đó hay không? Bây giờ chúng ta đã có những cái điện thoại di dộng có nhiều tính năng của máy vi tính nhiều hơn cả những máy đã được dùng để phóng các tên lửa đầu tiên vào trong không gian. Chúng ta có những kính hiển vi điện tử có thể quan sát được từng nguyên tử. Chúng ta đã chữa trị thành công những căn bệnh mà chỉ cách đây khoảng năm mươi năm là những căn bệnh chết người. Và tốc độ thay đổi ngày càng tăng nhanh. Ngày hôm nay chúng ta có thể làm những gì mà cha mẹ chúng ta từng cho là không thể và ông bà chúng ta thì xem là những chuyện ma quái hoang đường.”
“Chú vẫn chưa trả lời câu hỏi của cháu,” Josh nói. Cậu đang theo dõi tốc độ chiếc xe một cách cẩn thận; họ sẽ không chịu đựng được chuyện bị cảnh sát giao thông “hỏi han”.
“Những gì chú muốn nói với cháu là chú không biết về những gì mà Giống loài Elder có thể làm. Liệu Abraham đã đưa ra các lời tiên đoán trong cuốn Codex hay ông ta chỉ đơn giản ghi lại về những gì mà ông đang nhìn thấy? Liệu ông ta đã đoán định được tương lai, và có thể thực sự nhìn thấy nó?” Ông xoay người trên ghế để nhìn về phía Scatty. “Cô có biết không?”
Cô nhún vai, đôi môi uốn cong thành một nụ cười. “Tôi thuộc Thế hệ Kế tiếp; hầu hết Thế giới Elder đã biến mất trước khi tôi ra đời và Danu Talis khi đó đã chìm sâu dưới những con sóng từ lâu. Tôi không biết gì về những chuyện họ có thể làm. Liệu họ có thể nhìn xuyên qua thời gian hay không…” Cô ngừng lại, nghĩ ngợi. “Tôi biết một số Elder dường như có khả năng đặc biệt này: Sibyl có thể và Themis và Melampus cũng có thể nhìn xuyên qua thời gian. Nhưng số lần họ nhìn sai nhiều hơn số lần họ nhìn chính xác. Nếu như sự di chuyển của tôi có thể giúp cho tôi rút ra một điều gì đó, thì đó chính là việc chúng ta có thể tạo ra tương lai của chính mình. Tôi đã từng chứng kiến nhiều sự kiện chấn động thế giới đến và đi mà chẳng có ai tiên đoán gì về chúng. Và tôi cũng biết nhiều lời tiên tri - thường liên quan đến ngày tận thế của thế giới - đã không hề xảy ra.”
Một chiếc xe hơi vượt lên trên xe họ trên con đường nhỏ hẹp, đây là chiếc xe đầu tiên mà họ nhìn thấy kể từ sáng sớm hôm nay.
“Cháu sắp hỏi chú thêm một lần nữa,” Josh nói, cố gắng giữ cho giọng nói của mình bình thản. “Và lần này, chú hãy chỉ nói cho cháu biết một câu trả lời đơn giản là có hay không thôi: có phải tất cả những gì vừa xảy ra đều được tiên đoán trong cuốn Codex hay không?”
“Không,” Flamel nói nhanh.
“Tôi nghe đã có một ‘nhưng mà’ nằm đâu đó trong cuốn sách,” Scatty nói.
Nhà Giả kim gật đầu. “Đúng là đã có một ‘nhưng mà’. Cuốn sách không nói gì về Hekate hay Vương quốc Bóng tối, về Dee hay Bastet hay Morrigan. Nhưng mà….” Ông thở dài, “có một vài dòng tiên tri về một cặp sinh đôi.”
“Sinh đôi,” Josh nói chặt chẽ. “Ý chú là cặp sinh đôi nói chung hay là ám chỉ đến Sophie và cháu?”
“Cuốn Codex nói về một cặp sinh đôi có luồng điện bạc và vàng, hai mà chỉ một - một là tất cả. Rõ ràng là luồng điện của hai cháu là vàng và bạc tinh khiết. Vì thế nên đúng, chú tin chắc rằng cuốn Codex có ý ám chỉ hai chị em cháu.” Ông chồm người tới trước để nhìn vào Josh. “Và nếu cháu hỏi chú là chú đã biết điều này từ khi nào, thì câu trả lời sẽ là: chú bắt đầu nghiệm ra nó vào ngày hôm qua khi mà cháu và Sophie chạy vào tiệm sách để cứu chú. Hekate đã xác định những giả thiết của chú chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi bà ấy làm cho luồng điện của hai đứa sáng lên. Chú cam đoan là tất cả những gì chú làm là để bảo vệ cho hai chị em cháu.”
Josh bắt đầu lắc đầu; cậu không hoàn toàn tin tưởng Flamel. Cậu mở miệng định hỏi, nhưng Scatty đã đặt một tay lên vai cậu trước khi cậu cất lời. “Hãy để tôi nói cái này,” cô nói, giọng cô trầm thấp và nghiêm nghị, âm hưởng vùng Celtic đột nhiên đặc sệt. “Tôi đã biết Nicholas Flamel từ lâu. Nước Mỹ vẫn còn là một thuộc địa khi chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên. Ông ta có thể là tất cả - nguy hiểm và xảo quyệt, láu cá và gây chết người, một người bạn tốt và một kẻ thù truyền kiếp - nhưng ông ta đến từ một thời đại khi mà một lời nói của người đàn ông được xem là rất có giá trị. Nếu ông đã cam đoan với em rằng những gì ông làm là để bảo vệ hai em, thì tôi đề nghị là em nên tin ông ấy.”
Josh đạp nhẹ thắng và chiếc xe nặng nề chạy chậm lại khi nó băng qua một khúc quanh. Cuối cùng, cậu gật đầu và thở ra một hơi dài. “Cháu tin chú,” cậu nói lớn. Nhưng ở một nơi nào đó trong trí não, cậu vẫn nghe thấy những lời nói của Hekate vang lên - Nicholas Flamel không bao giờ nói cho ai nghe về tất cả mọi chuyện - và cậu linh cảm rằng Nhà Giả kim vẫn chưa nói hết những gì ông biết.
Thình lình Nicholas chồm lên trước và vỗ vào cánh tay Josh. “Ở đây - dừng lại ở đây.”
“Tại sao, có chuyện gì hả?” Scatty hỏi, tay chụp lấy các thanh kiếm.
Josh nhá đèn ra hiệu dừng xe và đỗ chiếc Hummer sát lề đường nơi có một tấm bảng hiệu của một tiệm bán đồ ăn.
“Không có chuyện gì cả,” Flamel mỉm cười. “Đã đến giờ ăn sáng thôi mà.”
“Tuyệt. Tôi đang đói ngấu,” Scatty nói. “Tôi có thể ăn cả một con ngựa. Nếu như tôi không phải là một người ăn chay và ……thích ngựa, tất nhiên.”
Và nếu như cô không phải là một con ma cà rồng, Josh nghĩ, nhưng im lặng.
[center:3is7g5ip]++++++++++++++++++[/center:3is7g5ip]
Sophie tỉnh dậy trong khi Scatty và Flamel đang đứng trong tiệm ăn gọi đồ ăn sáng, loại mua để mang đi. Vừa nãy cô thiếp ngủ, và bây giờ thì đang ngồi bó người trên ghế sau của xe hơi. Josh nhảy lên và không thể ngăn được tiếng reo vui mừng thoát ra trên môi.
Cậu quay lại đằng sau, người chồm vào ghế. “Sophie?” Cậu hỏi cẩn thận. Cậu sợ là sẽ bắt gặp một cái gì đó xa lạ sẽ lại xuất hiện trong đôi mắt cô lần nữa.
“Em không muốn biết về những gì chị vừa mơ thấy đâu,” Sophie nói, duỗi thẳng cánh tay và vặn mình. Cổ của cô kêu lắc cắc khi cô xoay xoay cần cổ. “Ồ, cả người chị đau như dần.”
“Chị…. cảm thấy thế nào?” Ồ, nghe cách nói giống như chị gái của cậu rồi….
“Giống như là chị vừa bị mắc bệnh cúm vậy.” Cô nhìn xung quanh. “Mình đang ở đâu đây? Chiếc xe này của ai vậy?”
Josh cười toe, hàm răng sáng lóa lên trong bóng tối. “Chúng ta đã đánh xoáy nó từ Dee. Hiện chúng ta đang ở đâu đó xa khỏi Thung lũng Mill, hướng thẳng về San Francisco, em nghĩ vậy.”
“Chuyện gì đã xảy ra……..chuyện gì vừa mới xảy ra?” Sophie hỏi.
Nụ cười nở rộng trên môi Josh. “Chị đã cứu mọi người với nguồn năng lượng mới mẻ vừa được đánh thức. Chị thật phi thường: chị có một nguồn năng lượng như một ngọn roi bạc và mỗi khi nó chạm vào một người mèo hay người chim thì ngay lập tức nó biến chúng trở lại với hình dáng thật nguyên thủy.” Cậu nói khi cô bắt đầu lắc lắc đầu. “Bộ chị không nhớ gì hết hả?”
“Chút chút thôi. Chị có thể nghe Perenelle nói với chị về những gì chị phải làm. Chị có thể thực sự cảm thấy bà ta rót luồng điện của bà vào chị,” cô nói trong kinh sợ. “Chị có thể nghe thấy bà. Chị có thể nhìn thấy bà, đại loại là thế.” Cô đột nhiên hít thở thật sâu. “Rồi bọn chúng ập tới. Đó là tất cả những gì mà chị có thể nhớ được.”
“Ai ập tới?”
“Những người đàn ông không có mặt mũi. Rất nhiều. Chị nhìn thấy bọn chúng kéo bà ta đi xa.”
“Ý chị là gì: những người đàn ông không có mặt mũi nghĩa là sao?”
Đôi mắt của Sophie mở lớn trong khiếp hãi. “Bọn chúng không có mặt…..”
“Như mặt nạ hả?”
“Không đâu Josh, không phải mặt nạ. Khuôn mặt của bọn chúng phẳng lì - không mắt, không mũi, không miệng, chỉ là những lớp da nhẵn nhụi.”
Hình ảnh hiện lên trong đầu cậu từ những lời mô tả của Sophie khiến cho cậu cực kỳ xáo động và cậu cố ý đổi đề tài. “Chị có cảm thấy…khác đi chút nào không?” cậu chọn lựa từ ngữ một cách cẩn thận.
Sophie im lặng vài giây để suy nghĩ. Có chuyện gì xảy ra với Josh vậy? Tại sao cậu lại quá quan tâm và hỏi hoài cô câu hỏi đó? “Khác? Khác như thế nào?”
“Chị có nhớ là Hekate đánh thức năng lượng của chị không?”
“Nhớ.”
“Chị có cảm thấy thế nào?” cậu ngập ngừng hỏi.
Sophie quay sang nhìn em trai mình và trong khoảnh khắc đôi mắt cô lấp lánh ánh sáng bạc lạnh lẽo. “Giống như là có ai đó đã bật một nút nào đó lên trong đầu chị, Josh à. Chị cảm thấy sống. Lần đầu tiên trong đời mình chị thấy mình sống.”
Josh đột nhiên cảm thấy một nỗi ghen tỵ không thể giải thích được chợt trào lên trong cậu. Cậu nhìn thấy Flamel và Scatty đang rời khỏi quán ăn, hai tay chất đầy những cái túi. “Và bây giờ chị cảm thấy thế nào?”
“Đói,” cô nói. “Đói kinh khủng.”
Họ ăn trong im lặng: trứng, nước sốt, bột yến mạch thô và bánh mì tròn, rửa bằng nước soda. Scatty ăn trái cây và uống nước.
Josh cuối cùng chùi miệng bằng một tấm khăn giấy và phủi những mảnh vụn bánh mì khỏi quần Jeans của mình. Đây là bữa ăn thích đáng đầu tiên của cậu kể từ trưa hôm qua. “Tôi cảm thấy ‘con người’ trở lại.” Cậu liếc nhìn sang Flamel và Scatty. “Không có ý xúc phạm đâu nhé.”
“Không có gì,” Scatty trấn an cậu. “Tin tôi đi - Tôi chưa bao giờ muốn trở thành con người, mặc dù tôi tin là làm con người cũng có một số thuận lợi,” cô nói thêm một cách bí ẩn.
Nicholas gói lại những phần thừa của bữa ăn sáng cho vào túi giấy. Rồi ông dựa người tới trước và gõ nhẹ vào màn hình của hệ thống định hướng vệ tinh nơi bảng đồng hồ. “Cháu có biết phương cách hoạt đồng của hệ thống này không?”
Josh lắc đầu. “Chỉ trên lý thuyết thôi. Chúng ta nhập vào một đích đến và hệ thống sẽ nói cho chúng ta biết cách tốt nhất để đi đến đó. Mặc dù vậy cháu chưa bao giờ dùng một cái như thế trước đây. Xe hơi của ba cháu không có hệ thống này,” cậu nói thêm. Richard Newman lái một chiếc Volvo đã năm tuổi.
“Nếu nhìn vào hệ thống, cháu có thể sử dụng nó không?” Flamel tiếp tục.
“Có thể.” Josh nói vẻ nghi ngờ.
“Tất nhiên là cậu ấy biết. Josh là thiên tài về máy vi tính đó,” Sophie nói một cách tự hào từ ghế sau.
“Đây đâu phải là máy tinh,” em trai cô lẩm bẩm, chồm người tới trước và bấm nút On. Màn hình rộng hình vuông nhấp nháy và một giọng nói đầy vẻ bề trên đến khó tin cảnh báo họ về việc nhập địa chỉ vào hệ thống trong khi đang lái và rồi đợi Josh ấn nút OK để cho biết là cậu đã nghe thấy và hiểu lời răn dạy. Màn hình lại nhấp nháy và ngay lập tức hiện lên vị trí của chiếc Hummer hiện đang ở trên một con đường nhỏ không tên. Núi Tamapais xuất hiện như một hình tam giác nhỏ ở trên đỉnh của màn hình và các mũi tên chỉ hướng nam hướng về San Francisco. Con đường nhỏ dẫn đến Vương quốc Bóng tối của Hekate không hiển thị trên màn hình.
“Chúng ta cần đi về hướng nam,” Flamel nói tiếp.
Josh mò mẫm với các nút bấm cho đến khi cậu tìm được bảng chọn chính. “Được rồi. Cháu cần một địa chỉ cụ thể.”
“Hãy gõ Bưu điện ở góc đường Signal và Ojai ở Ojai.”
Phía ghế sau, Scatty bật dậy. “Ồ không phải là Ojai. Làm ơn nói với tôi là chúng ta sẽ không đi đến đó nhé?”
Flamel vặn người trên ghế. “Perenelle nói với tôi là chúng ta nên đi về phía nam.”
“Los Angeles ở phía nam, Mexico ở phía nam, ngay cả Chile cũng ở phía nam vậy. Có quá nhiều nơi dễ thương, dễ chịu nằm ở phía nam…”
“Perenelle nói tôi dẫn cặp sinh đôi đến gặp Bà Phù thủy,” Flamel nói một cách kiên nhẫn. “Và Bà Phù thủy ở Ojai.”
Sophie và Josh vội vã đưa mắt nhìn nhau, nhưng chúng im không nói gì.
Scatty ngồi yên lại nơi ghế và thở dài một cách bi thảm. “Chuyện có khác đi được không nếu như tôi nói với ông là tôi không muốn đi đến đó?”
“Không có gì khác đi được cả.”
Sophie khom người giữa những cái ghế để nhìn chăm chú vào màn hình nhỏ. “Từ đây đến chỗ đó mất bao lâu? Chúng ta còn cách đó bao xa?” cô thắc mắc thành lời.
“Phải mất gần cả một ngày,” Josh nói, chồm người tới trước để liếc nhìn màn hình. Khi tóc của cậu chạm vào tóc Sophie một tia lửa nhỏ tóe lên giữa họ. “Chúng ta sẽ đi theo Xa lộ Một, rồi băng qua cầu Richmond…” Những ngón tay của cậu dò theo những đường chỉ màu. “Rồi đến đường I-580 để từ đó rẽ sang Xa lộ Năm.” Cậu chớp chớp mắt vì ngạc nhiên. “Chúng ta đang ở cách đó khoảng hai trăm bảy mươi dặm.” Cậu nhấn một nút khác để tính toán con số tổng cộng. “Toàn bộ hành trình sẽ chỉ gồm hơn bốn trăm dặm, và chúng ta sẽ mất ít nhất sáu tiếng rưỡi đồng hồ để đi đến đó. Trước ngày hôm nay, chặng đường dài nhất mà cháu từng lái chỉ khoảng mười dặm!”
“Vậy hành trình này sẽ là một cơ hội tốt để cháu luyện tập cách lái xe đó,” Nhà Giả kim nói với nụ cười.
Sophie nhìn từ Flamel sang Scatty. “Bà phù thủy mà chúng ta sắp gặp là ai?”
Flamel cài chặt dây an toàn. “Chúng ta sắp gặp Phù thủy Endor.”
Josh xoay chìa khóa trên ổ điện và khởi động máy xe. Cậu liếc nhìn Scatty qua kính chiếu hậu. “Một ai đó mà chị đã từng giao tranh hả?” cậu hỏi.
Scatty nhăn nhó. “Còn tệ hơn thế,” cô lầm bầm. “Bà ta là bà ngoại của tôi.”
Dạ Phong
05-12-2010, 05:08 AM
Chương 31
Vương quốc Bóng tối sụp đổ.
Nơi phía tây, những đám mây đã tan biến và những mảng trời đã biến mất, chỉ còn lại những ngôi sao nhấp nháy và vầng trăng quá tròn đầy trên nền trời đen. Từng ngôi sao một dần tắt lịm và rìa của mặt trăng bắt đầu bị gặm mòn.
“Chúng ta không có nhiều thời gian đâu,” Morrigan nói, mắt nhìn bầu trời đen.
Dee, lúc này đang lom khom trên mặt đất, cố gắng thu thập những mảnh vụn băng của Hekate mà hắn có thể tìm được, mặc dù hắn có thể nghe thấy một nỗi sợ hãi trong giọng nói của Morrigan. “Chúng ta có thời gian mà,” hắn nói bình thản.
“Chúng ta không thể ở đây khi Vương quốc Bóng tối biến mất,” Morrigan nói tiếp, nhìn xuống Dee, khuôn mặt bà ta không có chút cảm xúc nào. Nhưng hắn biết là qua cách bà ta quấn chặt cái áo choàng lông quạ sát vào đôi vai cho thấy bà ta đang hoang mang bối rối.
“Chuyện gì sẽ xảy ra?” Dee thắc mắc. Hắn chưa bao giờ nhìn thấy Nữ thần Quạ “mềm yếu” như thế này trước đó, và hắn chợt cảm thấy khoan khoái trước sự luống cuống của bà ta.
Morrigan ngẩng đầu nhìn lên bóng đêm đang xâm chiếm dần vương quốc, đôi mắt đen của bà ta phản chiếu những đốm sao nhỏ xíu. “Tại sao ư, vì chúng ta cũng sẽ biến mất, cũng sẽ tiêu đời. Bị hút luôn vào hư không,” bà ta nói nhỏ, nhìn những ngọn núi xa xa đang biến thành những cái gì đó như cát bụi. Đám bụi ngay sau đó cuốn xoáy lên bầu trời đen và tan biến. “Một cái chết thực sự,” Morrigan thì thầm.
Dee bò lổm ngổm giữa những tàn dư đang tan chảy của cây Yggdrasill, trong khi xung quanh hắn tất cả những gì thuộc về thế giới đẹp đẽ và thanh nhã của Hekate đang tan thành cát bụi và bị những làn gió vô hình thổi đi xa hút. Nữ thần đã sáng tạo ra Vương quốc Bóng tối của mình từ hư không và giờ đây, khi không còn sự có mặt của bà để cầm giữa chúng, tất cả trở lại với tình trạng không tồn tại, không là cái gì. Những ngọn núi đã lụi tàn, bị thổi tung ra xa như những hạt cát, những vạt rừng rậm đang chậm chạp phai mờ và tan biến như ánh sáng tắt dần và vầng trăng to tròn treo trên bầu trời đang hao mòn nhanh chóng. Trong phút chốc,tất cả không khác gì một quả bóng tầm thường. Nơi phía đông, mặt trời đang nhô lên cao như một quả cầu vàng lộng lẫy và bầu trời vẫn xanh lơ.
Nữ thần Quạ quay sang bà cô của mình. “Tất cả những cái này sẽ biến mất trong bao lâu nữa?” bà ta hỏi.
Bastet gầm gừ và nhún đôi vai rộng. “Ai mà biết được? Ngay cả ta cũng chưa bao giờ chứng kiến sự suy tàn của một Vương quốc Bóng tối. Có lẽ là khoảng vài phút….”
“Đó là tất cả những gì mà tôi cần.” Dee đặt thanh kiếm Excalibur xuống đất. Lưỡi kiếm đã nhẵn bóng phản chiếu bóng đen đang trườn tới từ phía tây. Dee tìm thấy ba mảnh vụn băng lớn nhất từng là những phần cơ thể của Hekate và đặt chúng lên lưỡi kiếm.
Morrigan và Bastet đứng dựa sát sau lưng hắn và nhìn chằm chằm vào thanh kiếm, hình ảnh của chúng lăn tăn và méo mó khi phản chiếu trên thanh kiếm. “Việc gì quan trọng đến mức ông phải thực hiện nó ngay tại nơi đây vậy?” Bastet hỏi.
“Đây là ngôi nhà của Hekate,” Dee đáp lại. “Và nơi đây, chính nơi đây, là nơi bà ta đã chết, sự kết nối với bà ta mạnh nhất ở nơi đây.”
“Sự kết nối…” Bastet gầm lên và rồi gật đầu. Bà ta chợt hiểu ra những gì mà Dee đang nỗ lực thực hiện: loại hình đen tối nhất và nguy hiểm nhất trong các loại nghệ thuật hắc ám.
“Thuật gọi hồn,” Dee thì thầm. “Tôi sắp nói chuyện vơi Nữ thần đã chết. Bà ta đã trải qua rất nhiều thiên niên kỷ ở nơi đây và nơi đây đã trở thành một phần của bà ta. Tôi đánh cược là ý thức của bà ta vẫn còn tiếp tục lẩn khuất quanh đây và gắn chặt với nơi chốn này.” Hắn vươn tay ra chạm vào cán của thanh kiếm. Thanh đá đen rực lên màu vàng và những con rắn được chạm khắc quanh thanh kiếm trở nên sống động, phun xì xì một cách hung hãn, lưỡi lấp ló, trước khi chúng “đóng băng” im lìm trở lại. Khi băng giá bắt đầu tan, chất lỏng chảy lên thanh kiếm đá đen và phủ lên nó một lớp màng nhờn như váng dầu. “Bây giờ, chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mà chúng ta muốn nhìn thấy,” hắn thì thầm,
Nước trên thanh kiếm bắt đầu nổi bong bóng và vỡ lốp bốp, kêu xèo xèo và lóc bóc nổ. Và một khuôn mặt hiện lên trên mỗi bong bóng: khuôn mặt của Hekate. Nó liên tục biến đổi theo ba khuôn mặt của Nữ thần, chỉ riêng đôi mắt - có màu bơ và tràn đầy oán ghét - là giữ nguyên không đổi khi bà nhìn trừng trừng vào Dee.
“Hãy nói với ta,” Dee hét to, “Ta ra lệnh cho bà, Tại sao Flamel lại đến nơi đây?”
Giọng nói của Hekate nghe như tiếng bong bóng vỡ tan. “Để trốn thoát mi.”
“Hãy nói cho ta nghe về mấy đứa con nít thuộc giống người.”
Những hình ảnh hiện lên trên lưỡi kiếm đầy chi tiết đến mức đáng kinh ngạc. Tất cả chúng đều hiện lên dưới góc nhìn của Hekate. Đó là cảnh Flamel đến với cặp sinh đôi, hai đứa trẻ ngồi xanh xao và sợ hãi trong chiếc xe tơi tả trầy xước.
“Flamel tin rằng chúng là cặp sinh đôi huyền thoại mà cuốn Codex đã đề cập tới.”
Thình lình Morrigan và Bastet tụm lại gần hơn, phớt lờ bóng tối hư vô đang tiến tới phía bọn chúng với tốc độ nhanh chóng. Nơi phía tây, không còn có ngôi sao nào nữa, vầng trăng cũng đã tan biến và nền trời bao la đã hoàn toàn tiêu tan, chỉ để lại một màu đen trống rỗng.
“Có đúng bon chúng không?” Dee yêu cầu.
Hình ảnh tiếp theo trên thanh kiếm cho thấy luồng điện của cặp sinh đôi lóe lên ánh bạc và vàng.
“Mặt trăng và mặt trời,” Dee thì thầm. Hắn không biết là nên hoảng sợ hay nên mừng vui. Những nghi ngờ của hắn đã được giải đáp. Ngay từ giây phút đầu tiên nhìn thấy hai đứa trẻ bên nhau, hắn đã bắt đầu tự hỏi liệu chúng thực ra có phải chị em sinh đôi hay không.
“Đây có phải là cặp sinh đôi được báo trước trong huyền thoại hay không?” hắn đòi hỏi.
Bastet cúi thấp cái đầu to bự xuống ngang với đầu Dee. Những sợi râu mép dài cả mép chạm nhồn nhột vào mặt hắn, nhưng hắn không dám liều lĩnh đẩy chúng ra xa, ngay cả khi hàm răng của bà ta cũng đang rất gần. Bà ta có mùi mèo ướt và hương trầm; Dee cảm thấy sống mũi hắn cay xè và hắn sắp hắt xì hơi. Nữ thần Mèo với tay định lấy thanh kiếm, nhưng Dee giữ tay bà ta lại trong tay hắn. Nó giống như chụp lấy móng vuốt của con sư tử và những móng vuốt nhọn hoắt đang thụt vào thình lình xòe ra một cách đầy đe dọa gần ngay các ngón tay của hắn. “Làm ơn đừng đụng vào thanh kiếm; đây là một câu thần chú rất tinh tế và mỏng manh. Còn thời gian cho thêm một hay hai câu hỏi nữa,” hắn nói thêm hất đầu về chân trời phía tây, nơi những gờ đất đang vỡ nát và bị thổi tung như những đám bụi muôn màu.
Bastet nhìn chằm chằm vào thanh kiếm, đôi mắt có con ngươi hẹp như đường kẻ lóe sáng. “Chị của tôi có - hay là đã có - một món quà đặc biệt. Bà ta có thể đánh thức năng lượng trong kẻ khác. Hỏi bả coi bả có làm chuyện đó với hai đứa sinh đôi thuộc giống người đó hay không?” hắn hỏi.
Một quả bóng nổ kêu lốp bốp. “Không.”
Dee bật ngửa người ra sau trong nỗi kinh ngạc. Hắn đã chờ đợi bà ta trả lời có. Hay là Flamel đã thất bại..?
Bastet gầm lên. “Bà ta nói láo..”
“Bà ta không thể…” Dee nói. “Bà ta trả lời những gì mà chúng ta hỏi.”
“Chính mắt ta đã nhìn thấy con bé đó,” Nữ thần Ả-rập gầm lên, “Ta nhìn thấy nó tung ra một luồng điện tinh khiết màu bạc. Ta chưa bao giờ nhìn thấy năng lượng cỡ đó trong đời mình, không hề kể từ Thời đại của Elder.”
Tiến sĩ John Dee liếc nhìn bà ta một cách sắc bén. “Bà nhìn thấy con bé…nhưng còn đứa con trai thì sao? Nó đang làm gì lúc đó?”
“Ta không để ý tới thằng bé đó.”
“À há!” Dee kêu lên đắc thắng. Hắn quay lại với thanh kiếm.
Tấm áo choàng lông quạ của Morrigan kêu sột soạt. “Hỏi câu cuối cùng đi, tiến sĩ.”
Bộ ba nhìn lên để thấy bóng đen hoàn toàn đang gần như tiến sát đến chỗ chúng đang đứng. Chỉ cách chúng không đầy ba mét, thế giới tươi đẹp đã tan vào hư vô. Dee quay lại nhìn thanh kiếm. “Bà đã đánh thức con bé phải không?”
Một cái bong bóng lại kêu lốp bốp và trên thanh kiếm hiện lên hình Sophie lơ lửng giữa thinh không, luồng điện của cô tỏa ánh bạc rực rỡ. “Có.”
“Vậy còn thằng bé thì sao?”
Trên thanh kiếm hiện lên cảnh Josh thu mình lại trong góc tối của căn hầm. “Không.”
Móng vuốt giống như bàn tay của Morrigan túm lấy vai Dee và giật mạnh đôi chân hắn. Hắn chụp lấy thanh kiếm và lắc lắc cho những bong bóng nước văng vào vùng hư vô đang tiến sát gần.
Bộ ba không cân xứng - Bastet cao lênh khênh, Morrigan đen tối, và người đàn ông nhỏ bé - tháo chạy khỏi thế giới đang vỡ vụn thành hư vô ngay sau lưng chúng. Những tàn dư cuối cùng của đội quân của chúng - những người chim và người mèo - đang chạy lung tung không mục đích. Khi nhìn thấy những ông bà chủ của mình đang tháo chạy, chúng lập tức chạy theo sau. Tất cả phóng như bay về phía đông, nơi mà phần còn lại cuối cùng của Vương quốc Bóng tối chưa bị bóng đen nuốt chửng. Senuhet chạy khập khiễng phía sau Bastet, gào lên tên bà ta, năn nỉ bà ta dừng lại và giúp hắn.
Nhưng thế giới tan rã quá nhanh. Nó nuốt chửng chim và mèo, những cây cổ đại và những loài phong lan quý, những sinh vật ma thuật và những quái vật trong thần thoại. Nó ngốn hết đến tận mảnh cuối cùng của pháp thuật Hekate.
Rồi hư vô nuốt lấy mặt trời và toàn bộ thế giới chìm trong bóng tối và chẳng còn gì nữa.
Dạ Phong
08-12-2010, 12:43 AM
Chương 32
Morrigan và Bastet chạy thục mạng qua những bờ đất gãy đổ, kéo theo John Dee ở giữa. Trong phút chốc bức tường lá cây tan biến và một trong rất nhiều con đường mòn ngoằn ngoèo dẫn đến núi Tâmlpais hiện ra. Dee vấp ngã và nằm sõng soài trên nền bụi đất.
“Giờ thì sao?” Bastet gầm gừ. “Chúng ta đã thua, bọn chúng đã thắng rồi hả? Chúng ta đã hủy diệt Hekate nhưng bà ta đã đánh thức đứa con gái.”
John Dee loạng choạng đứng lên và phủi bụi chiếc áo khoác bị trầy trụi. Có những vết xước và vết rách trên ống tay áo và một vật gì đó đã xé toạc một lỗ thủng to bằng nắm đấm xuyên qua lớp vải lót. Lau chùi thanh kiếm Excalibur một cách cẩn thận, hắn tra thanh kiếm vào vỏ. “Chúng ta không cần phải tập trung vào đứa con gái. Thằng bé kia mới quan trọng. Thằng bé chính là chìa khóa.”
Morrigan lắc đầu, lông kêu sột soạt. “Ông nói nghe khó hiểu quá.” Bà ta ngước nhìn lên bầu trời ban mai quang đãng và một đám mây xám đột nhiên xuất hiện gần như thẳng ngay phía trên đầu bà.
“Thằng bé đã nhìn thấy nguồn năng lượng ma thuật mạnh đến mức phi thường của chị nó sau khi được đánh thức; theo bà thì giờ đây nó đang cảm thấy thế nào? Hoảng sợ, giận dữ, ghen tỵ? Lẻ loi?” Hắn nhìn từ Morrigan sang Nữ thần Mèo. “Thằng bé ít nhất cũng mạnh như chị gái của nó. Có ai trong lục địa này mà Flamel có thể dắt thằng bé đến đó để nhờ đánh thức năng lượng tiềm ẩn của nó không?”
“Annis Đen tối ở Catskills,” Morrigan gợi ý, giọng nói của bà ta nghe đầy vẻ cẩn trọng.
“Quá mạo hiểm,” Dee nói, “bà ta có thể sẽ ăn thịt thằng nhóc mất.”
“Tôi nghe nói là Perephone hiện đang ở phía bắc Canada,” Bastet nói.
Dee lắc đầu. “Những năm tháng của bà ta ở Vương quốc Bóng tối Thế giới ngầm đã làm cho bà ta hóa điên rồi. Bà ta thực sự nguy hiểm khôn lường.”
Morrigan cuốn chặt chiếc áo choàng trên vai. Đám mây trên đầu bà ta đã dày hơn và sà xuống thấp hơn. “Vậy thì chẳng có ai khác ở Bắc Mỹ nữa. Tôi đã ghé ngang vùng Nocticula ở Áo và tôi biết là Erictho hiện vẫn còn đang lẩn trốn ở Thessaly…..”
“Bà nói không đúng,” Dee cắt ngang lời Morrigan. “Vẫn còn một nhân vật có thể đánh thức thằng bé.”
“Ai?” Bastet gầm lên, cau mày, nhăn mũi lại.
Tiến sĩ John Dee quay người về phía Nữ thần Quạ. “Bà có thể làm việc đó.”
Morrigan bước giật lùi xa khỏi Dee, đôi mắt đen mở lớn kinh ngạc, những cái răng nhọn hoắt cắn chặt vào đôi môi mỏng dính thâm tím. Một đường gợn sóng lăn tăn chạy dọc theo áo choàng đen của bà ta, lay động lớp lông quạ.
“Ông lầm rồi,” Bastet rít lên the thé. “Cháu gái tôi là Thế hệ Kế tiếp, nó không thể có năng lực đó.”
Dee quay sang đối mặt với Nữ thần Quạ. Nếu hắn biết rằng hắn đang chơi một trò chơi nguy hiểm - thậm chí chết người - thì hắn đã không hề biểu lộ ra điều đó. “Đã có thời, có lẽ điều bà nói là đúng. Nhưng sức mạnh của Morrigan đã được gia tăng lên rất, rất, rất nhiều lần so với trước đây.”
“Cháu gái, ông ta đang nói gì vậy?” Bastet đòi hỏi.
“Hãy rất, rất,rất cẩn thận đó nhé, ông kia,” Nữ thần Quạ cười khúc khích.
“Lòng trung thành của tôi không hề có vấn đề gì ở điểm này,” Dee nói vội vã. “Tôi đã phục vụ cho các Elder từ hơn năm trăm năm nay. Tôi đơn thuần là tìm kiếm một phương cách để đạt được mục tiêu của chúng ta.” Hắn bước tới gần Morrigan. “Từng có thời, cũng như Hekate, bà có ba khuôn mặt: bà là Morrigan, Macha và Badb. Tuy nhiên khác với Hekate, bà và hai người chị của bà có đến ba cơ thể. Điều nối kết ba chị em với nhau chính là ý thức và suy nghĩ. Tách riêng ra mỗi bà đều rất mạnh, nhưng kết hợp lại thì năng lượng của các bà là vô song.” Hắn dừng lại và có vẻ như đang dành thời gian tập hợp các ý nghĩ, nhưng thực sự, là để bảo đảm chắc chắn rằng hắn đang nắm chặt lấy cán thanh kiếm Excalibur nằm dưới lần áo khoác. “Bà đã quyết định giết chết hai người chị của mình khi nào vậy?” hắn hỏi đường đột.
Với một tiếng kêu thét kinh khủng, Morrigan nhảy vồ tới Dee.
Và dừng lại.
Một ánh sáng lạnh lóe lên và lưỡi kiếm bằng đá đen của Excalibur đã dí sát vào cổ họng của Morrigan. Những con rắn chạm khắc trên cán kiếm phun xì xì vào bà ta.
“Vui lòng,” Dee mỉm cười, đôi môi mím lại lạnh lẽo, “Tôi đã chịu trách nhiệm cho cái chết của một Elder hôm nay. Tôi không hề ước mong gia tăng con số đó lên thành hai trong tổng số.” Khi nói, hắn quan sát Bastet, lúc này đang đi lởn vởn đằng sau lưng hắn. “Morrigan có đủ sức mạnh để đánh thức Josh,” hắn nói vội vã. “Bà ta sở hữu kiến thức và sức mạnh của hai bà chị của mình. Nếu chúng ta có thể đánh thức thằng bé và thuyết phục nó đứng về phe chúng ta, chúng ta sẽ có được thêm một đồng minh với năng lượng phi thường. Hãy nhớ những gì lời tiên tri cho biết: hai mà chỉ một, một là tất cả. Một sẽ giải cứu thế giới, và một thì hủy diệt thế giới.”
“Và thằng bé sẽ là kẻ giải cứu hay hủy diệt?” Bastet hỏi.
“Tùy thuộc vào cách chúng ta ‘nhào nặn’ nó,” Dee nói, mắt đảo từ Morrigan sang Bastet và trở lại vơi Morrigan.
Đột nhiên Bastet đứng sát bên cạnh hắn, những móng vuốt sắc nhọn quàng quanh cổ họng Dee. Bà ta nhẹ nhàng nhấc bổng hắn lên, buộc hắn phải nhón chân và nhìn thẳng vào đôi mắt lạnh lẽo của bà ta. Trong tích tắc, hắn nghĩ đến chuyện vung kiếm lên, nhưng hắn biết là Nữ thần Mèo nhanh hơn, nhanh hơn rất nhiều so với hắn. Bà ta nhìn thấy đôi vai hắn co giật và nắm lấy đầu hắn một cách đơn giản.
Bastet nhìn trừng trừng vào cháu gái. “Có đúng không vậy? Có phải Macha và Badb chết rồi không?”
“Chết rồi.” Morrigan giận dữ nhìn Dee. “Nhưng tôi đâu có giết họ. Họ tự nguyện chết và hiện vẫn sống trong tôi.” Trong phút chốc đôi mắt bà ta vụt sáng lóe màu vàng, đỏ và rồi đen nhánh, đúng ba màu của ba Nữ thần cổ đại.
Dee có ý gặng hỏi việc họ đã sống bên trong Morrigan như thế nào, nhưng rồi quyết định là hắn thực sự không muốn biết câu trả lời và lúc này dù sao cũng không phải là một thời điểm thuận lợi để hỏi han.
“Mày đánh thức thằng bé được không?” Bastet đòi hỏi.
“Được.”
“Vậy thì làm đi, cháu cưng,” Nữ thần Mèo ra lệnh. Bà ta chuyển sự chú ý của mình trở lại Dee. Ấn ngón tay của mình lên cằm Dee, bà ta cho đầu hắn ngửa ra sau. “Và nếu như ông còn có khi nào giơ vũ khí lên trước một trong những Giống loài Elder thêm lần nữa, tôi sẽ nhìn thấy ông trải qua một thiên niên kỷ tiếp theo của đời mình trong Vương quốc Bóng tối do tôi đặc biệt tạo ra. Và tin tôi đi, ông sẽ chẳng thấy thích thú gì đâu.” Bà ta thả tay và đẩy hắn ra xa, khiến hắn ngã sóng soài trên nền đất. Hắn vẫn đang cầm chặt thanh kiếm.
“Nói cho tôi nghe,” Bastet yêu cầu, bóng bà ta phủ lên người hắn. “Flamel và hai đứa sinh đôi bây giờ đang ở đâu? Bọn chúng đã đi đến đâu rồi?”
Dee run rẩy đứng lên. Hắn phủi bụi từ áo khoác, và phát hiện ra thêm một vết rách trên nền da mềm mại; hắn sẽ không bao giờ mua đồ da nữa. “Ông ta sẽ cần phải huấn luyện cho cô gái. Hekate đánh thức cô ta, nhưng không có lấy một cơ hội nào để dạy cho cô ta vài câu thần chú tự vệ. Cô ta sẽ cần được đào tạo để tự bảo vệ mình và điều khiển năng lượng trong người trước khi những kích thích từ thế giới thực làm cho cô ta trở nên điên loạn.”
“Vậy bọn chúng sẽ đi đâu?” Bastet gầm lên. Bà ta lấy hai cánh tay ôm quanh người và bắt đầu run rẩy. Đám mây mà Morrigan triệu tập tới đã trở nên dày nặng khi nó sà thấp xuống và giờ đây trôi lơ lửng trên những ngọn cây. Hơi ẩm là đà trong không khí, và thoang thoảng một mùi hương không thể nhận diện.
“Hắn sẽ không ở lại San Francisco đâu,” Dee nói tiếp, “hắn biết là chúng ta có rất nhiều văn phòng, đại lý cài đặt bên trong và xung quanh thành phố.”
Morrigan nhắm mắt lại và từ từ mở ra, rồi bà ta giơ cánh tay lên cao. “Bọn chúng đang chạy về phía nam; tôi chỉ vừa ngửi được dấu vết của luồng điện bạc của con bé. Nó mạnh mẽ một cách không thể tin được.”
“Ai là Elder mạnh nhất ở phía nam đó?” Dee hỏi vội vã. “Ai là kẻ thành thạo trong các bộ môn Pháp thuật cơ bản?”
“Endor,” Bastet trả lời ngay lập tức, “ở Ojai. Phù thủy Endor nguy hiểm chết người.”
“Bà chủ của không khí,” Morrigan bổ sung.
Bastet cúi xuống, hơi thở hôi thối của bà ta phả vào mặt người đàn ông nhỏ thó. “Ông biết là phải đi đâu rồi đó. Ông biết phải làm gì rồi đó. Chúng ta cần có những trang giấy thất lạc của cuốn Codex.”
“Và cặp sinh đôi?” hắn hỏi dứt khoát, cố gắng nín thở.
“Hãy bắt chúng nếu như ông có thể - nếu không giết chúng đi để ngăn cản không cho Flamel sử dụng năng lượng của chúng.” Rồi cả bà ta và Nữ thần Quạ bước lên trên đám mây dày và đi mất. Đám mây xám ẩm ướt bay xa, để lại một mình Tiến sĩ John Dee trên con đường mòn quạnh quẽ.
“Làm sao để đi đến được Ojai?” hắn kêu lên.
Nhưng không có tiếng trả lời.
Dee thọc tay vào túi chiếc áo khoác da tơi tả và bước đi trên con đường mòn chật hẹp. Hắn rất ghét cách bọn kia xử sự như vừa rồi: đuổi hắn đi như thể hắn không là gì hơn một đứa con nít.
Nhưng mọi thứ sẽ thay đổi.
Các Elder thích xem Dee như con rối cho họ giật dây, như một công cụ của họ. Hắn đã nhìn thấy Bastet bỏ rơi Senuhet - kẻ đã phục vụ cho bà ta ít nhất là một thế kỷ - mà không chút chần chừ. Hắn biết là bọn chúng sẽ cư xử chính xác như vậy với hắn thôi, khi thời cơ đến.
Nhưng Tiến sĩ John Dee có những kế hoạch để bảo đảm rằng bọn chúng sẽ không bao giờ có được một cơ hội đó.
Dạ Phong
10-12-2010, 05:09 AM
Chương 33
Khi Josh cho chiếc Hummer quẹo xuống con đường dài uốn lượn dẫn đến thành phố nhỏ Ojai thì trời đã xế chiều. Sự căng thẳng sau khi lái xe vượt qua hơn bốn trăm dặm trong cuộc hành trình dài đã in dấu lên khuôn mặt của cậu và mặc dù máy tính đánh giá thời gian lái là khoảng sáu tiếng rưỡi, trên thực tế cậu đã ôm bánh lái suốt chín tiếng đồng hồ. Lái chiếc Hummer to lớn trên xa lộ dễ dàng một cách đáng ngạc nhiên: cậu chỉ đơn giản điều chỉnh tốc độ và xe chạy bon bon. Việc đó khá tẻ nhạt, nhưng sau khi ra khỏi xa lộ và chuyển sang một dạng đường khác, việc điều khiển chiếc Hummer cồng kềnh đã biến thành một cơn ác mộng. Nó không hề giống chút nào với bất kỳ trò chơi điện tử nào của cậu. Chiếc xe quá lớn, và Josh luôn sợ là cậu sắp cán phải một vật gì đó. Chiếc Hummer to lớn đen tuyền cũng đã thu hút nhiều chú ý và Josh chưa bao giờ có thể hình dung là mình hạnh phúc đến vậy khi xe đã được lắp kính của sổ màu. Cậu tự hỏi không biết thiên hạ sẽ nghĩ gì nếu họ biết rằng tài xế chiếc xe là một thằng nhóc mười lăm tuổi.
Con đường uốn lượn về bên phải và trục đường chính dài thẳng tắp của Ojai hiện lên ngay trước mặt cậu. Cậu cho xe chạy chậm lại khi băng qua Cửa hàng Tâm linh và rạp hát Ojai, rồi đèn giao thông nhấp nháy ở góc đường Signal và cậu dừng lại, chồm lên phía trước nhìn xuyên qua tấm kính chắn gió lốm đốm vết bẩn. Ân tượng đầu tiên ập đến khi cậu nhìn lướt qua con đường vắng vẻ đó là Ojai xanh biếc đến lạ lùng. Bây giờ là tháng sáu ở California, vào thời gian này của năm cây lá hầu như đã chuyển sang màu nâu hay khô héo, nhưng ở đây cây cối xanh tươi mọc khắp nơi, đối lập với những tòa nhà làm bằng đá trắng. Ngay trước mặt cậu, về phía bên tay phải, một tháp thấp màu trắng trang trí đẹp đẽ vươn lên trên tòa nhà bưu điện và khắc nét lên nền trời xanh trong vắt, trong khi ở phía bên tay trái, một dãy của tiệm xinh xắn đứng nép bên dưới mái vòm hình cung màu trắng.
Liếc nhìn vào kính chiếu hậu, cậu ngạc nhiên khi thấy Scatty đang nhìn mình.
“Em nghĩ là chị đang ngủ,” cậu nói khe khẽ. Sophie, nay đã chuyển lên ngồi bên cạnh cậu sau vài tiếng đồng hồ xe chạy, đang cuộn tròn trong giấc ngủ, và Flamel ngáy nho nhỏ bên cạnh Scatty.
“Tôi không cần phải ngủ,” cô nói đơn giản.
Cậu rất muốn hỏi cô thêm nhiều câu hỏi, nhưng thay vì thế cậu chỉ nói ngắn gọn, “Chị có biết là chúng ta đang đi đâu không?”
Cô chồm người tới trước, đặt hai cánh tay lên lưng ghế cậu và tì cằm lên cánh tay đó. “Đi thẳng, băng qua bưu điện - đó, chính là tòa nhà có cái tháp màu trắng đó - rồi rẽ phải liền sau đó ở chỗ công viên Libbey trên đường Fox. Ráng tìm chỗ đậu xe ở đó.” Cô hất đầu về bên trái, hướng về phía dãy cửa tiệm nép mình dưới các mái vòm cánh cung. “Chúng ta sẽ đi tới đó.”
“Có phải đó là chỗ bà ngoại chị không?”
“Đúng vậy,” Scatty nói vắn tắt.
“Và bà ấy thực sự là Phù thủy hả?”
“Không chỉ là Phù thủy. Mà còn là Phù thủy chính gốc.”
[center:ekgylfoy]++++++++++++++++++[/center:ekgylfoy]
“Em cảm thấy thế nào?” Sophie hỏi. Cô đứng bên lề đường và vươn mình, nhón chân và vặn vặn lưng. Một cái gì đó kêu răng rắc nơi cổ cô. “Chị thấy khỏe,” cô nói thêm xoay mặt sang và nhắm mắt lại về hướng mặt trời, hiện vẫn đang treo cao trên bầu trời xanh nhạt không mây.
“Lẽ ra em nên hỏi chị câu hỏi đó,” Josh nói, leo ra khỏi chiếc xe. Cậu ngáp và duỗi thẳng tay chân, lúc lắc đầu qua lại. “Em không bao giờ muốn lái xe nữa,” cậu nói thêm. Giọng cậu nghe như một lời thì thầm. “Em rất vui vì chị OK.” Rồi cậu vội vã hỏi, “Chị ổn chứ, phải không?”
Sophie đưa tay siết chặt tay em trai mình. “Chị nghĩ là ổn.”
Flamel trèo ra khỏi xe và đóng sầm cánh cửa. Scatty đã bước xuống xe trước đó và đang đứng dưới bóng mát một cây to. Cô thọc tay vào túi áo, lấy ra một cặp kính râm với những mắt kính tròn xinh xắn và đeo lên mắt. Nhà Giả kim chạy đến chỗ Scatty trong khi Josh bấm vào nút báo động trên chìa khóa xe. Chiếc xe kêu “bíp” một tiếng và đèn pha của nó lóe sáng.
“Chúng ta cần nói chuyện,” Flamel nói khẽ, mặc dù lề đường hoàn toàn vắng vẻ. Ông đưa ra những ngón tay lướt qua mái tóc cắt ngắn và những sợi tóc rụng xuống theo ngón tay ông. Ông nhìn chúng trong giây lát, rồi quét chúng trên quần Jeans của mình. Một năm nữa đã ghi dấu lên khuôn mặt ông với những nếp nhăn hằn sâu hơn quanh khóe mắt và cả những đường rãnh hình bán nguyệt trên hai khóe miệng. “Nhân vật mà chúng ta sắp gặp có thể….” Ông ngần ngừ rồi nói nhỏ, “khó khăn.”
“Hoàn toàn nhất trí,” Scatty lẩm bẩm.
“Theo ý chú thì khó khăn nghĩa là sao?” Josh hỏi khẩn thiết. Sau mọi chuyện mà họ vừa gặp phải, khó khăn có thể mang bất cứ ý nghĩa nào.
“Gàn dở, kỳ quặc, gắt gỏng, hay gây gổ, cáu kỉnh, khó tính…. và đó là khi bà ta đang trong tâm trạng vui vẻ đó nhé,” Scatty nói.
“Và khi bà ta bực bội thì sao?”
“Khi đó em thậm chí không muốn ở cùng một thành phố với bả!”
Josh thấy rối trí. Cậu quay sang Nhà Giả kim. “Vậy thì tại sao chúng ta lại muốn gặp người đàn bà đó?”
“Bởi vì Perenelle nói chú tới gặp bả,” ông nói kiên nhẫn, “bởi vì bà ta là Bà chủ của Không khí, và có thể truyền dạy cho Sophie một vài lời khuyên để tự bảo vệ chính mình.”
“Từ cái gì?” Josh hỏi, giật mình.
“Từ chính cô ấy,” Flamel nói ra sự thật cốt lõi và quay đi, thẳng tiến tới đại lộ Ojai. Scatty chạy ra khỏi vùng bóng râm và theo chân ông. “Ước gì tôi có mang theo kính chống nắng. Tôi rất dễ bị cháy năng dưới ánh mặt trời kiểu này,” cô làu bàu khi họ bước đi. “Và hãy chờ coi những vạt da bị cháy nắng của tôi vào sáng mai.”
Josh quay lại nhìn Sophie; cậu bắt đầu nhận ra hố sâu khác biệt to lớn ngăn cách mình và chị gái. “Chị có hiểu chút gì về những điều mà chú Nicholas nói không? Bảo vệ chị từ chính bản thân chị? Như vậy có nghĩa là gì?”
“Chị nghĩ là chị biết,” Sophie cau mày. “Tất cả mọi thứ xung quanh chị giờ đây quá….ồn ào, quá sáng sủa, quá sắc bén, quá mãnh liệt và khắc nghiệt. Giống như có ai đó đã vặn lớn cái nút lên. Các giác quan của chị quá bén nhạy; em sẽ không tin là chị đang nghe thấy những tiếng gì đâu.” Cô chỉ tay vào một chiếc Toyota màu đỏ trầy xước đang chạy chầm chậm trên đường. “Người phụ nữ đang ngồi trong xe và nói qua điện thoại với mẹ mình. Cô nói với bà ta là cô không muốn ăn cá trong bữa tối.” Cô chỉ vào một chiếc xe tải đang đậu trong mảnh sân con đối diện với nơi họ đứng. “Có một nhãn dính đằng sau chiếc xe; em có muốn chị nói cho em nghe nhãn dính đó viết gì không?”
Josh liếc mắt nhìn; cậu thậm chí còn không nhìn thấy bảng đăng ký của chiếc xe.
“Khi chúng ta ăn sáng hôm nay, hương vị của thức ăn mạnh đến nỗi chúng làm chị phải chịu thua. Chị có thể phân biệt được từng hạt muối trong bánh Sandwich.” Cô ngừng lời và nhặt lấy một cái lá Jacaranda trên mặt đất. “Chị có thể lần theo đường gân của cái lá này với đôi mắt nhắm. Nhưng em biết điều tồi tệ nhất đó là cái gì không: những thứ mùi,” cô nói mắt nhìn chăm chú vào em trai.
“Nè….” Ngay từ lúc mới dậy thì cậu đã thử dùng tất cả cả các loại chất khử mùi có bán trên thị trường.
“Không, không chỉ là em,” cô cười toe toét, “mặc dù em thực sự nên đổi lại chất khử mùi và chị nghĩ là em sắp cần phải đốt luôn đôi vớ. Chị ngửi thấy tất cả các mùi, mọi lúc mọi nơi. Mùi hôi của gas trong không khí thật khủng khiếp, mùi của cao su nóng trên mặt đường, của thức ăn ngậy mỡ, thậm chí cả mùi hương của các bông hoa này cũng quá tràn ngập áp đảo.” Những giọt nước mắt ứa ra. Cô dừng bước ở giữa đường, hai tay ôm lấy mặt và bắt đầu khóc thút thít. “Thật quá sức chịu đựng, Josh ạ. Chị không thể chịu đựng nổi. Chị cảm thấy muốn bệnh và đầu chị nhức như búa bổ, mắt chị đau, tai chị đau, cổ họng chị rát buốt.”
Josh vụng về quàng tay qua chị mình để ôm cô nhưng cô đẩy cậu ra xa. “Làm ơn, đừng đụng đến chị. Chị không thể chịu đựng nổi.”
Josh cố gắng tìm lời để nói, nhưng cậu không biết nói gì hay làm gì lúc này. Cậu cảm thấy bất lực. Sophie luôn luôn mạnh mẽ, luôn luôn tự chủ, cô là người mà cậu tìm đến khi gặp khó khăn. Cô luôn luôn có những câu trả lời.
Cho đến lúc này.
Flamel! Josh cảm thấy nỗi giận dữ lại bùng lên. Tất cả là lỗi của Flamel. Cậu sẽ không bao giờ tha thứ cho Nhà Giả kim về những gì ông ta đã làm. Cậu ngước nhìn lên tìm Flamel và bắt gặp họ cũng đang nhìn cậu.
Nữ Chiến binh vội vã chạy đễn chỗ chị em Josh. “Lau nước mắt đi,” cô nói nhẹ nhàng. “Đừng để chúng ta thu hút sự chú ý.”
“Đừng nói chuyện với chị tôi….” Josh chen vào, nhưng Scatty khiến cậu im bặt với một cái nhìn.
“Hãy đi tới cửa tiệm của bà ngoại của tôi; bà ta có thể giúp được. Cửa tiệm ở bên kia đường đó. Đi lẹ lên nào.”
Sophie ngoan ngoãn lấy ống tay áo lau nước mắt và đi theo Nữ Chiến binh. Cô cảm thấy mình giống như một đứa trẻ. Cô rất hiếm khi khóc; cô thậm chí đã xem phim Titanic và cười vang khi xem đoạn cuối, vậy thì tại sao cô lại khóc trong lúc này?
Đánh thức năng lượng tiềm ẩn bên trong cô là một ý tưởng tuyệt với. Cô rất thích ý nghĩ được điều khiển và định hình ý chí, được mở rộng các kênh năng lượng và ma thuật. Nhưng chuyện xảy ra không giống như cô nghĩ. Nó khiến cô cảm thấy đau đớn và kiệt sức từ sự kích thích. Nó khiến cô nhức nhối. Đó là lý do vì sao cô bật khóc.
Và cô sợ rằng sự đau đớn sẽ không tan biến đi. Và nếu như nó không chịu lắng dịu, thì cô sẽ làm gi, cô có thể làm gì?
Sophie nhìn lên và bắt gặp em trai đang nhìn mình chăm chú, đôi mắt mở lớn vì lo lắng.
“Điều gì sẽ xảy ra nếu bà ta không làm được hả Josh. Điều gì sẽ xảy ra?”
Cậu không thể trả lời.
[center:ekgylfoy]++++++++++++++++++[/center:ekgylfoy]
Sophie và Josh băng qua đại lộ Ojai và đứng dưới chỗ dạo chơi có mái vòm cung chạy dọc theo khối nhà. Nhiệt độ lập tức hạ thấp xuống ở mức chịu đựng được và Sophie nhận ra cái áo thun của cô đang dán chặt vào sau lưng, những giọt mồ hôi lạnh giá chạy dọc theo xương sống.
Họ bắt kịp với Nicholas Flamel đang đứng ở trước cửa một cửa tiệm nhỏ kiểu cổ xưa, ánh mắt ông lộ vẻ chán nản. Cửa tiệm đóng. Không nói một lời, ông giật lấy cái đồng hồ bằng giấy treo bên trong cánh cửa. Kim đồng hồ chỉ hai giờ ba mươi chiều và một dòng chữ viết nguệch ngoạc bên dưới đó, ghi rằng, “Đi ăn trưa. Trở lại lúc 2h30.”
Bây giờ đã gần 3h30.
Flamel và Scatty đứng dựa người vào cánh cửa, thò đầu nhìn vào bên trong, trong khi cặp sinh đôi nhìn xuyên qua cửa sổ. Cửa tiệm nhỏ hầu như chỉ bán đồ thủy tinh: chén bát, bình lọ, đĩa, chặn giấy, đồ trang hoàng và những tấm gương. Rất nhiều gương. Chúng treo ở khắp nơi với tất cả hình dạng và kích thước từ những hình tròn nhỏ bé đến những tấm lớn hình chữ nhật. Hầu hết đồ thủy tinh trông có vẻ hiện đại, nhưng vài tấm kính trên cửa sổ rõ ràng là đồ cổ.
“Vậy giờ chúng ta làm gì đây?” Flamel thắc mắc. “Bà ta có thể ở đâu?”
“Có lẽ là đang lang thang ngoài kia ăn trưa và quên trở về,” Scatty trả lời, cô quay ra ngó lên ngó xuống dọc theo con đường. “Khó có thể bận rộn hôm nay, phải không?” Mặc dù bây giờ đang là cuối giờ chiều thứ sáu, xe cộ đi lại khá thưa thớt trên đường chính, và có không đầy một tá người đi bộ thong thả dưới những chỗ dạo chơi có mái vòm cong.
“Chúng ta có thể tìm thấy bà ấy trong mấy cái nhà hàng hay tiệm ăn,” Flamel gợi ý. “Thường thì bà ấy thích ăn gì?”
“Đừng hỏi,” Scatty nói vội vã, “ông thật sự không muốn biết đâu.”
“Có lẽ chúng ta nên chia nhau ra…” Flamel bắt đầu.
Trong một phút bốc đồng Sophie chồm về phía trước và vặn nắm đấm cửa: một tiếng chuông du dương vang lên đến giật mình và cánh cửa mở ra.
“Cừ lắm, chị.”
“Chị từng thấy cách này trong một bộ phim,” cô thì thầm. “Xin chào?” cô gọi lớn, bước vào trong cửa tiệm.
Không có tiếng trả lời.
Cửa tiệm cổ xưa khá nhỏ, chỉ lớn hơn một cái phòng hình chữ nhật dài một chút, nhưng hiệu quả của hàng trăm tấm gương - một số thậm chí đung đưa trong không khí từ trần nhà - khiến cho nó trông rộng hơn rất nhiều so với thực tế.
Sophie ngửa đầu ra sau và hít thở thật sâu, hai cánh mũi phập phồng. “Em có ngửi thấy gì không?”
Em trai cô lắc đầu. Số lượng “ồ ạt” của những tấm gương làm cậu bồn chồn; cậu nhìn thấy vô sô hình ảnh của mình trong mọi kích thước và trong mỗi tấm gương, hình ảnh của cậu đổi khác, rạn vỡ và méo mó.
“Em ngửi thấy mùi gì?” Scatty hỏi.
“Nó giống như là….” Sophie ngập ngừng. “Như khói của gỗ trong mùa Thu.”
“Vậy là bà ta vừa ở đây.”
Sophie và Josh nhìn cô một cách trống rỗng.
“Đó chính là mùi của Phù thủy Endor. Đó là mùi của pháp thật kỳ quái.”
Flamel đứng nơi ngưỡng cửa và nhìn lên xuống chiều dài của con đường. “Bà ta không thể đi xa đâu, nếu như bà để cửa không khóa. Tôi sẽ đi kiếm bà ấy.” Ông quay sang Scatty. “Làm sao tôi có thể nhận ra bả được?”
Cô cười toe toét, mắt sáng lên đầy vẻ tinh quái. “Tin tôi đi; ông sẽ biết ngay khi ông nhìn thấy bà ta.”
“Tôi sẽ trở lại sớm.”
Khi Flamel bước ra ngoài đường, một chiếc motor lớn phanh kít gần như ngay trước tiệm. Người lái xe rồ máy trở lại và rú xe đi xa. Âm thanh vang to đến sững sờ: tất cả các món đồ thủy tinh trong cửa tiệm nhỏ run lên bần bật theo tiếng xe rú. Sophie lấy hai tay bịt chặt lỗ tai. “Chị không biết là mình còn có thể chịu đựng được thêm bao nhiêu nữa,” cô thì thầm trong nước mắt.
Josh dẫn chị mình đến một chiếc ghế gỗ giản dị và để cô ngồi xuống. Cậu cúi xuống một bên, muốn nắm lấy tay cô, nhưng sợ không dám chạm vào cô. Cậu cảm thấy mình hoàn toàn bất lực.
Scatty quỳ xuống trước mặt Sophie, để cho hai khuôn mặt của họ ngang nhau. “Khi Hekate đánh thức em, bà ta đã không có cơ hội để dạy em các tắt và mở các giác quan đã được đánh thức của mình. Tất cả các giác quan của em lúc này đều đang mắc kẹt trong tình trạng mở, nhưng mọi việc không phải cứ như thế này mãi đâu, tôi hứa với em như vậy. Với một chút huấn luyện và một vài câu thần chú tự vệ đơn giản, em sẽ học được cách mở các giác quan của mình trong một phút chốc.”
Josh nhìn hai cô gái. Một lần nữa, cậu lại cảm thấy tách biệt khỏi người chị sinh đôi của mình: thực sự tách biệt. Chúng không phải là “hai giọt nước giống nhau như đúc” mà là hai chị em sinh đôi, và do đó nói chung không giống nhau y hệt. Chúng không chia sẻ những cảm xúc mà các cặp sinh đôi “giọt nước” thường nói tới - cùng cảm thấy đau đớn khi “giọt kia” bị đau, cùng biết là cả hai đang gặp rắc rối - nhưng ngay lúc này cậu có thể cảm thấy nỗi đau đớn của chị mình. Cậu chỉ ao ước giá như cậu có thể làm gì đó để xoa dịu những vết thương của cô.
Gần như Scatty có thể đọc được Josh đang nghĩ gì, cô nói đột ngột. “Tôi có thể làm được điều này để giúp em.” Cặp sinh đôi nhận thấy nỗi ngập ngừng trong giọng nói của cô. “Nó sẽ không đau đâu,” cô nói nhanh.
“Không thể đau hơn so với những gì em đang cảm thấy lúc này,” Sophie thì thầm. “Làm đi,” cô nói vội vã.
“Tôi cần sự cho phép của em trước.”
“Soph…….” Josh kêu lên, nhưng chị cậu phớt lờ tiếng kêu.
“Làm đi,” Sophie lặp lại. “Làm ơn,” cô năn nỉ.
“Tôi đã nói rằng tôi chính là những gì mà con người gọi là ma cà rồng…..”
“Chị sẽ không uống máu chị ấy,” Josh gào lên, kinh hoàng. Dạ dày của cậu quặn lên với ý nghĩ chợt đến.
“Tôi đã nói rồi, phe của tôi không uống máu.”
“Tôi không quan tâm….”
“Josh,” Sophie ngắt lời em một cách giận dữ, luồng điện của cô vụt lóe sáng vài giây cùng với cơn giận trong cô, khiến cho không khí trong quán sực nức mùi thơm ngọt ngào của kem vanilla. Một chùm chuông gió bằng thủy tinh chợt rung lên leng keng trong một làn gió vô hình. “Josh, im đi.” Cô xoay người trên ghế để nhìn Scatty. “Chị muốn em làm gì bây giờ?”
“Đưa tay phải cho tôi.”
Sophie lập tức duỗi thẳng tay và Scatty cầm lấy nó trong cả hai tay. Rồi cô ta cẩn thận áp từng ngón tay của bàn tay trái lên trên những ngón tay của Sophie, ngón cái sát vào ngón cái, ngón trỏ sát vào ngón trỏ, ngón út sát vào ngón út. “Những con ma cà rồng hút máu người,” cô nói lơ đãng, tập trung vào việc sắp cho thẳng hàng các ngón tay của hai người, “là những sinh vật yếu ớt nhất, thấp kém nhất trong giống loài của chúng tôi. Có bao giờ em tự hỏi tại sao chúng lại uống máu? Chúng thực sự đã chết, trái tim của chúng không đập, chúng chẳng cần ăn, vì thế máu không cung cấp thức ăn bổ dưỡng cho chúng.”
“Chị đã chết?” Sophie hỏi câu hỏi mà Josh sắp sửa hỏi.
“Không, không thực sự như thế.”
Josh nhìn vào những tấm gương, nhưng cậu có thể nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của Scatty trong gương một cách rõ ràng. “Đừng tin vào những câu chuyện nhảm nhí nói rằng ma cà rồng không hiện hình trong gương: dĩ nhiên chúng tôi có thể, rốt cục thì chúng tôi là những khối rắn chắc.”
Josh chăm chú nhìn Scathach ấn những ngón tay của cô lên tay của Sophie. Dường như không có gì xảy ra. Rồi cậu thoáng thấy một tia sáng bạc trong một tấm gương phía sau lưng Scatty và cậu nhận ra rằng ở trong gương, bàn tay của Sophie bắt đầu tỏa ra ánh sáng bạc xanh xao.
“Giống loài của tôi, loài Ma cà rồng,” Scatty tiếp tục với giọng nói nhẹ nhàng, nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay Sophie, “thuộc Thế hệ Kế tiếp.”
Trong gương Josh nhìn thấy tia sáng bạc bắt đầu lan tỏa rộng trên lòng bàn tay Sophie.
[center:ekgylfoy]++++++++++++++++++[/center:ekgylfoy]
“Chúng tôi không phải là Elder. Tất cả chúng tôi sinh ra sau sự sụp đổ của Danu Talis và hoàn toàn khác biệt so với cha mẹ mình; khác biệt theo những cách không thể hiểu nổi.”
“Chị đã từng nói đến Danu Talis,” Sophie lẩm bẩm bằng giọng buồn ngủ. “Nó là gì, một nơi chốn hả?” Một cảm giác ấm áp chạy dọc lên cánh tay cô, không giống như kim châm nhưng ngứa ran và dễ chịu.
“Đó là trung tâm của thế giới vào thời kỳ Elder. Giống loài Elder thống trị hành tinh này từ một hòn đảo - lục địa có tên gọi Danu Talis. Nó trải dài ra đến những nơi mà bây giờ là bờ biển Phi châu đến bờ biển Bắc Mỹ và đến vịnh Mexico.”
“Em chưa bao giờ nghe nói đến Danu Talis,” Sophie thì thầm.
“Có, em có biết,” Scathach nói. “Những người Celtic gọi nó là Đảo De Danann; còn thế giới hiện đại biết đến nó với cái tên Atlantis.”
Ở trong gương, Josh có thể nhìn thấy bàn tay Sophie giờ đây đang lóe lên ánh sáng trắng bạc. Trông giống như cô đang đeo một chiếc găng tay. Những giọt bạc lấp lánh bao quanh các ngón tay của Sophie trông giống như những chiếc nhẫn trang trí lộng lẫy và cô bé rùng mình.
“Danu Talis bị xé toạc bởi vì Cặp Sinh đôi Thống trị - Mặt trời và Mặt trăng - đánh nhau trên đỉnh của Kim tự tháp Vĩ đại. Năng lượng ma thuật vô song mà chúng phóng ra đã phá vỡ đi sự cân bằng của tự nhiên. Tôi được nghe nói là luồng ma thuật tương tự xoáy tít trong không khí đã gây ra sự thay đổi trong Thế hệ Kế tiếp. Một số trong chúng tôi ra đời như những con quái vật, một số khác lai tạo giữa nhiều hình dáng, một số rất ít sở hữu sức mạnh phi thường của phép biến hình và có thể biến thành con thú vật nào đó tùy theo ý muốn. Và một số khác, như chúng tôi, mà dần dần đã tạo nên loài Ma cà rồng, phát hiện ra rằng chúng tôi không có khả năng cảm thấy được những cảm giác.”
Josh nhìn Scathach một cách sắc bén. “Ý chị là gì, cảm giác?”
Nữ Chiến binh mỉm cười và nhìn cậu. Đột nhiên những cái răng của cô trông dài hẳn ra trong miệng. “Chúng tôi có rất ít hay không hề có cảm xúc. Chúng tôi mất khả năng để cảm thấy nỗi sợ hãi, để trải nghiệm tình yêu thương, để tận hưởng cảm giác tuyệt vời của hạnh phúc và nỗi hân hoan. Những chiến binh siêu đẳng nhất không chỉ là những ai không biết sợ, mà còn là những kẻ không biết giận dữ là gì.”
Josh lùi ra xa Scatty và hít thở thật sâu. Hai chân của cậu bắt đầu bị chuột rút tê cứng và những vết kim châm đang chạy trên các ngón chân cậu. Nhưng cậu cũng cần tránh xa khỏi ma cà rồng. Bây giờ tất cả những tấm gương và bề mặt thủy tinh nhẵn bóng trong cửa tiệm đều phản chiếu ánh sáng bạc lóe lên từ bàn tay Sophie đang đặt nơi cánh tay của Scatty. Nó tan biến vào da thịt của cô trước khi lan đến cùi chỏ của cô.
Scatty xoay đầu nhìn thẳng vào Josh, và cậu để ý thấy lòng trắng trong mắt cô đã chuyển sang màu bạc. “Những con ma cà rồng hút máu không cần máu. Chúng cần những cảm xúc, những cảm giác chứa ở trong máu.”
“Chị đang đánh cắp những cảm giác của Sophie…..”
Josh thì thầm, hoảng sợ cùng cực. “Sophie, đừng cho cô ta làm vậy nữa…..”
“Không!” chị gái cậu cắt ngang, đôi mắt mở to. Như Scatty, lòng trắng của cô đã chuyển sang ánh bạc. “Chị có thể thực sự cảm thấy sự đau đớn đã được cuốn trôi.”
“Những cảm giác quá mạnh mẽ đến mức chị gái em khó có thể chịu đựng nổi. Chúng trở nên nhức nhối và làm chị em hoảng sợ. Tôi chỉ đơn giản là mang nỗi đau đớn và sợ hãi đi xa.”
“Tại sao lại có kẻ muốn cảm thấy sự đau đớn và sợ hãi?” Josh hỏi to, vừa hoảng sợ, vừa ghê tởm bởi ý nghĩ đó. Dù sao đi nữa chuyện đó nghe không ổn chút nào.
“Để họ có thể cảm thấy mình đang sống,” Scatty nói.
Dạ Phong
10-12-2010, 09:20 PM
Chương 34
Ngay cả trước khi mở mắt ra, Perenelle Flamel đã biết là bà đã được chuyển đến một nhà tù kiên cố hơn. Một nơi nào đó khuất sâu và tăm tối và đầy hiểm ác. Bà có thể cảm nhận được những ma quỷ lâu đời ở trên tường, có thể gần như đếm được chúng. Nằm yên lặng và bất động, bà cố gắng khai mở các giác quan của mình, nhưng tấm màn của những ảnh hưởng xấu và tuyệt vọng quá mạnh mẽ và bà phát hiện ra mình không thể sử dụng ma thuật. Bà tập trung nghe ngóng và, chỉ khi bà đã hoàn toàn chắc chắn trong phòng không còn có ai ngoài mình, bà mới mở mắt ra.
Bà đang ở trong một xà lim.
Ba bức tường của xà lim được xây bằng xi măng kiên cố, và bức tường thứ tư là những chấn song kim loại. Đằng sau những chấn song bà có thể nhìn thấy một dãy các phòng giam khác.
Bà đang ở trong một khu nhà tù!
Perenelle nhúc nhắc hai chân và tìm cách đứng lên. Bà chú ý thấy áo quần mình thoang thoảng hương vị muối biển và bà nghĩ bà có thể nhận ra âm thanh của biển khơi ở gần đâu đây.
Xà lim trống rỗng, nhỏ hơn cả một cái hộp rỗng, với chiều dài khoảng 3 mét và chiều rộng khoảng 1 mét 2, với một cái cũi nhỏ trên đó trải một tấm nệm mỏng và một chiếc gối đơn lổn nhổn những cục nhỏ. Một khay các-tông nhỏ nằm trên sàn ngay sau những chấn song. Trên khay có một bình nhựa đựng nước uống, một cốc nhựa và một khoanh bánh mì dày nằm trên chiếc đĩa bằng giấy. Khi nhìn thức ăn, bà chợt nhận ra mình đang đói ngấu, nhưng bà tảng lờ nó đi trong giây lát và tiến tới các chấn song, thò đầu nhìn ra ngoài. Nghiêng qua trái rồi qua phải, tất cả những gì bà có thể thấy đó là những xà lim nối tiếp nhau, và chúng đều trống trơn.
Bà đang bị giam một mình trong một khu nhà tù. Nhưng ở đâu…?
Và rồi một tiếng còi tàu vọng tới từ đâu đó, nghe buồn thảm và lạc lõng. Khẽ run lên, Perenelle thình lình nhận ra nơi mà những gã đàn ông của Dee đã mang bà đến: bà đang ở trong đảo-nhà-tù Khối Đá Nhô Trên Biển của Alcatraz.
Bà nhìn xung quanh căn phòng, đặc biệt chú ý đến khu vực xung quanh chiếc cửa kim loại. Không giống như nhà tù trước đây mà bà bị giam giữ, bà không hề nhìn thấy bất kỳ bùa chú ma thuật hay con dấu bảo vệ nào được vẽ trên tấm rầm đỡ hay sàn nhà. Perenelle không thể kiềm chế một nụ cười nho nhỏ. Những tên tay chân của Dee đã nghĩ gì vậy? Một khi bà đã phục hồi năng lượng, bà sẽ bồi bổ luồng điện của mình và rồi bẻ cong những chấn song kim loại này như bột vữa và thoát ra ngoài.
Phải mất một vài giây bà mới nhận ra tiếng tích tích mà ban đầu bà cho là tiếng nước nhỏ giọt thực ra là tiếng của một vật gì đó đang tiến tới, nó chuyển động chậm chạp dọc theo hành lang. Một hình bóng di chuyển. Lại thêm một tên Người giả Simulacra của Dee chăng? Bà tự hỏi. Chúng sẽ không thể nắm giữ được bà lâu.
Hình dáng đó, to lớn và méo mó chẳng ra hình thù gì, dịch chuyển ra khỏi vùng bóng tối và bước ra dãy hành lang để đứng ngay trước xà lim của Perenelle. Perenelle đột nhiên cảm thấy biết ơn những thanh trấn song đã cách biệt bà với sự viếng thăm đầy kinh hoảng kia.
Đứng trên hành lang là một sinh vật đã không còn xuất hiện trên trái đất từ một nghìn năm trước khi kim tự tháp đầu tiên vươn lên trên dòng sông Nile. Nó là một con nhân sư, một con sư tử đồ sộ với đôi cánh đại bàng và cái đầu của một người đàn bà xinh đẹp. Con nhân sư mỉm cười và nghiêng đầu về một bên và một cái lưỡi dài màu đen tòe ra rung rinh trong bóng tối. Perenelle để ý thấy hai con ngươi của nó phẳng dẹt và nằm ngang.
Đây không phải là một trong số những sinh vật Dee tạo ra. Con nhân sư là một trong những con gái của Echidna, một trong những Elder hôi thối kinh tởm nhất, bị chính giống nòi của nó xa lánh và ghê sợ thậm chí ngay cả các Elder Đen tối cũng không muốn đến gần. Perenelle bỗng thắc mắc không biết chính xác thì Dee làm việc cho ai.
Con nhân sư ấn mặt mình vào các chấn song. Cái lưỡi dài của nó thè ra, nếm nếm không khí, hầu như lướt lên đôi môi của Perenelle. “Ta có cần phải nhắc nhở bà không, Perenelle Flamel,” nó rít lên the thé với ngôn ngữ của vùng Nile, “là một trong những kỹ năng đặc biệt của giống loài ta đó là thấm hút năng lượng của luồng điện?” Đôi cánh lớn của nó vỗ phành phạch, gần như choán hết cả đoạn hành lang. “Bà không còn một chút năng lượng nào khi ở gần ta.”
Một cơn run rẩy lạnh buốt chạy dọc theo xương sống của Perenelle khi bà nhận ra Dee đã khôn lanh đến mức nào. Bà là một tù nhân không có khả năng tự vệ và không còn chút sức lực nào của Alcatraz, và biết rằng chưa từng có ai thoát khỏi Khối Đá Nhô Trên Biển mà vẫn còn sống sót.
Dạ Phong
12-12-2010, 08:28 PM
Chương 35
Chuông cửa lanh lảnh reo lên và Nicholas Flamel ấn mở cửa và khẽ lùi lại nhường bước cho một bà già trông rất bình thường trong một chiếc áo choàng màu xám và váy xám bước vào bên trong cửa tiệm. Lùn và mập, mái tóc của bà uốn dợn sóng với màu xanh da trời nhạt, chỉ có đôi kính màu đen to quá cỡ choàn gần hết khuôn mặt bà làm cho bà trở nên nổi bật, khác hẳn so với người bình thường khác. Tay phải bà cầm một cây gậy màu trắng.
Sophie và Josh lập tức nhận ra bà ta bị mù.
Flamel đằng hắng. “Cho phép tôi giới thiệu….” Ông ngừng lại và nhìn bà già. “Xin lỗi. Chúng tôi nên gọi bà như thế nào?”
“Gọi tôi là Dora, mọi người ai cũng gọi tôi bằng tên đó.” Bà nói tiếng Anh với trọng âm New York rõ ràng “Scathach?” bà đột ngột nói. “Scathach!” Và rồi bà chuyển qua một thứ ngôn ngữ nghe toàn chứa những âm thanh giống tiếng khạc nhổ…mà Sophie đột nhiên nhận ra là cô có thể hiểu được thứ tiếng kỳ quặc đó.
“Bà ấy muốn biết vì sao Scatty đã không đến thăm bà trong vòng ba trăm bảy mươi hai năm, tám tháng và bốn ngày….. vừa qua” cô phiên dịch cho Josh nghe. Cô đang nhìn chăm chăm vào bà lão và đã không nhìn thấy vẻ sợ hãi và ghen tỵ thoáng hiện lên trên khuôn mặt cậu.
Bà lão đi nhanh vòng quanh căn phòng nhỏ, đầu nghiêng qua trái và qua phải, không bao giờ nhìn thẳng vào Scatty. Bà tiếp tục nói, hầu như không dừng lại để thở.
“Bà ấy đang nói với Scatty là bà ấy có thể đã chết mà không ai biết. Hay quan tâm. Tại sao, chỉ trong thế kỷ vừa rồi bả đã bệnh rất nặng đến thập tử nhất sinh, và chẳng có ai gọi điện thoại, hay viết cho bà một dòng….”
“Bà ngoại….” Scatty mở lời.
“Đừng gọi ta là Bà ngoại nữa,” Dora nói, quay trở lại với tiếng Anh. “Lẽ ra cháu đã có thể viết - bằng bất kỳ ngôn ngữ nào cũng được. Lẽ ra cháu đã có thể điện thoại…..”
“Bà đâu có điện thoại….”
“Và có gì trục trặc với email? Hay máy Fax?”
“Ngoại à, bà có một cái máy tính hay máy fax nào không?”
Dora ngừng lại. “Không. Ta cần mấy thứ đó để làm gì?”
“Để cháu có thể liên lạc với bà,” Scatty gợi ý.
Tay của Dora khẽ cử động và thình lình cây gậy trắng của bà giãn ra thành một cây gậy dài. Bà gõ vào mặt kính của một tấm gương hình vuông đơn giản. “Cháu có cái gương nào không?”
“Có, bà,” Scatty nói một cách khổ sở. Đôi gò má trắng xanh của cô đã ửng lên vì bối rối.
“Vậy là cháu đã không thể tìm ra thì giờ để nhìn vào gương mà nói chuyện với ta. Dạo này cháu bận rộn quá nhỉ? Bà biết điều đó từ anh cháu. Và chắc cũng lâu lắm rồi kể từ lần cuối cùng mà cháu nói chuyện với mẹ!”
Scathach quay sang cặp sinh đôi. “Đây là bà ngoại tôi. Phù thủy Endor huyền thoại. Bà, đây là Sophie và Josh. Và bà đã vừa gặp Nicholas Flamel.”
“Ừ, một người đàn ông rất dễ thương.” Bà tiếp tục quay đầu qua lại, hai cánh mũi phập phồng. “Sinh đôi,” cuối cùng bà nói.
Sophie và Josh nhìn nhau. Làm sao bà ta biết được, hay là Nicholas đã nói với bà ta?
Có một điều gì đó lạ lùng trong cách người đàn bà quay đầu qua lại khiến cho Josh chú ý. Cậu cố gắng dõi theo hướng cái nhìn của bà….và rồi cậu nhận ra lý do vì sao bà lão cứ quay đầu hết trái lại sang phải: bà ta đang nhìn chúng thông qua những tấm gương. Một cách tự động, cậu chạm vào tay Sophie và hất đầu về phía tấm gương. Cô liếc nhìn nó, rồi nhìn trở lại bà già, và rồi cô gật đầu về hướng em trai, ra dấu cô đã nhận thấy chuyện lạ giống như cậu.
Dora bước tới trước mặt Scathach, đầu bà quay sang một bên, bà nhìn chăm chăm vào một cái gương cao nhẵn bóng. “Cháu sút ký. Cháu có ăn uống điều độ không?”
“Bà, cháu trông thế này đã hai nghìn năm trăm năm rồi.”
“Vậy, cháu muốn nói là ta mù, hử?” bà lão hỏi, rồi bất ngờ phá lên cười giòn giã. “Ôm bà ngoại già nua một cái đi con.”
Scathach cẩn thận ôm hôn bà lão và hôn lên má bà. “Thật vui khi gặp bà. Trông bà rất khỏe.”
“Trông ta rất già. Ta trông có già không?”
“Không hề già hơn một ngày so với tuổi mười nghìn,” Scatty mỉm cười.
Bà lão bẹo má Scathach. “Người cuối cùng nói móc ta là một viên thanh tra về thuế. Ta đã biến hắn thành một cái chặn giấy rồi,” bà nói. “Ta vẫn để nó ở đâu đấy.”
Flamel ho khúc khắc. “Thưa bà Endor…”
“Hãy gọi tôi là Dora,” bà lão cắt ngang.
“Dora. Bà có để ý thấy những gì xảy ra với Vương quốc Bóng tối của Hekate sáng sớm hôm nay không?” Ông chưa bao giờ gặp Bà Phù thủy trước đây - ông biết bà ta chỉ qua danh tiếng của bà - và chính vì thế ông biết là ông nên đối xử với bà một cách cực kỳ cẩn thận. Bà là một Elder huyền thoại đã rời bỏ Danu Talis để đến chung sống và dạy dỗ con người nhiều thế kỷ trước khi hòn đảo chìm sâu dưới những lớp sóng. Người ta tin rằng bà đã tạo ra bảng chữ cái đầu tiên của con người bằng tiếng Xume cổ đại.
“Cho ta ngồi,” Dora không nói cụ thể với ai trong phòng. Sophie kéo chiếc ghế cô đang ngồi nãy giờ và Scathach đỡ bà ngoại mình ngồi xuống đó. Bà lão dựa người tới trước, cả hai bàn tay đặt lên đầu cây gậy trắng. “Tôi đã biết những gì vừa xảy ra. Tôi chắc chắn rằng mọi Elder trên lục địa này đều cảm thấy cái chết của bà ta.” Bà nhìn thấy những cái nhìn đầy ngạc nhiên và kinh hoàng trên khuôn mặt của những người xung quanh. “Cháu không biết hả?” Bà quay đầu qua hai bên và nhìn chăm chú vào gương, thẳng vào Scatty. “Hekate đã chết và Vương quốc Bóng tối của bà ta không còn nữa. Tôi hiểu rằng một Elder, một nhân vật khác thuộc Thế hệ Kế tiếp và một con người bất tử đã gây nên cái chết của bà ta. Hekate cần phải được trả thù. Không phải bây giờ, và có thể không sớm được trả thù: nhưng bà ta cũng như người trong gia đình và tôi nợ bà ta về chuyện đó. Hãy chờ xem.” Scatty cúi chào.
Phù thủy Endor nói ra lời tuyên án một cách bình thản, và Flamel đột nhiên nhận ra rằng người đàn bà này thậm chí còn nguy hiểm hơn là ông tưởng tượng nhiều.
Dora quay mặt qua hướng khác và Flamel nhận thấy mình đang nhìn hình bóng phản chiếu của bà ta trong một tấm gương có khung chạm trổ đẹp đẽ. Bà ta gõ vào mặt gương. “Tôi đã nhìn thấy những gì xảy ra sáng hôm nay trước đây một tháng.”
“Và bà đã không cảnh báo cho Hekate!” Scatty kêu lên.
“Ta đã nhìn thấy một khả năng có thể xảy ra trong tương lai. Một trong số rất nhiều. Trong một số khả năng khác, Hekate giết Bastet và Morrigan vặn mình Dee. Trong một khả năng khác Hekate giết ông, ông Flamel, và rồi lại bị Scathach giết chết. Tất cả các khả năng đó đều có thể xảy ra. Và hôm nay tôi khám phá ra khả năng nào là thật.” Bà nhìn quanh phòng, quay đầu từ phía những tấm gương đến các chiếc bình nhẵn bóng đến các khung tranh bằng thủy tinh. “Vì vậy tôi biết vì sao các bạn tới đây, tôi biết các bạn muốn tôi làm điều gì. Và tôi đã suy nghĩ rất lâu và rất khó khăn về câu trả lời của mình. Tôi đã có một tháng để nghĩ về điều đó.”
“Vậy còn chúng cháu thì sao?” Sophie đột nhiên hỏi. “Chúng cháu có trong lăng kính định mệnh của bà không?”
“Chỉ có trong một,” Bà Phù thủy nói.
“Chuyện gì đã xảy ra với bọn cháu trong những khả năng khác?” Câu hỏi vọt ra khỏi miệng Josh trước khi cậu có thời gian để nghĩ về nó. Cậu thực sự không muốn biết câu trả lời.
“Dee và những tên Golem của hắn, hay lũ chuột và chim giết chết hai cháu trong hầu hết các khả năng. Cháu chết trong khi được đánh thức hay tan biến cùng với sự sụp đổ của Vương quốc Bóng tối.”
Josh nuốt nước bọt một cách khó nhọc. “Bọn cháu chỉ sống sót trong một khả năng thôi sao?”
“Chỉ trong một thôi.”
“Như vậy thi không được tốt lắm, phải không bà?” Josh thì thầm.
“Không,” Phù thủy Endor nói một cách thẳng thừng. “Không tốt chút nào hết.” Một khoảng im lặng kéo dài trong khi Dora nhìn dọc theo bề mặt trơn bóng của một cái bình bạc. Rồi bà đột ngột nói. “Đầu tiên các bạn nên biết là tôi không thể đánh thức cậu bé. Những nhân vật khác sẽ làm chuyện đó.”
Josh vội vàng nhìn lên. “Có những nhân vật khác có thể đánh thức cháu sao?”
Phù thủy Endor phớt lờ cậu. “Cô gái có một trong những luồng điện bạc thuần khiết nhất mà tôi từng tiếp xúc sau nhiều thế kỷ. Cô ta cần được truyền dạy một số câu thần chú bảo vệ cá nhân nếu như cô ta muốn sống sót qua phần còn lại của quá trình đánh thức. Thực tế rằng cô vẫn tỉnh táo trong nhiều giờ đồng hồ sau đó là một bằng chứng cho thấy ý chí mạnh mẽ của cô.” Đầu bà nghiêng qua một bên và Sophie thấy bà đang nhìn cô từ một tấm gương treo trên trần nhà. “Đó là những gì tôi sẽ làm.”
“Cảm ơn bà,” Nicholas Flamel nói, với một tiếng thở dài sâu. “Tôi biết cô bé đã rất khổ sở trong những tiếng đồng hồ vừa qua.”
Josh nhận ra là cậu không thể nhìn chị mình. Sẽ vẫn còn những phần tiếp theo của quá trình đánh thức. Có phải điều này có nghĩa là cô sẽ phải chịu đựng những nỗi đau đớn hơn nữa? Cậu cảm thấy tim mình đau nhói.
Scathach quỳ xuống trước ghế của bà ngoại và đặt tay lên cánh tay bà. “Ngoại à, Dee và đồng bọn đang săn lùng hai trang sách bị xé trong cuốn Codex,” cô nói, “cháu tưởng tượng là trong lúc này chúng đã biết - hay nghi ngờ - là Sophie và Josh chính là cặp sinh đôi mà Cuốn sách của Abraham đề cập đến.”
Dora gật đầu. “Dee biết điều đó.”
Scathach liếc nhìn Flamel. “Vậy hắn biết là hắn không những phải giành lại những trang sách mà còn phải bắt hay giết được cặp sinh đôi.”
“Hắn cũng biết điều đó,” Dora trả lời.
“Và nếu như Dee thành công, thế giới này sẽ kết thúc,” Scathach nói, chuyển câu nói đơn giản thành một câu hỏi.
“Thế giới đã từng kết thúc trước đây,” Bà Phù thủy trả lời, mỉm cười. “Ta tin chắc rằng nó sẽ kết thúc rất nhiều lần trước khi mặt trời chuyển sang màu đen.”
“Bà biết là Dee cố gắng khôi phục trở lại ngôi bá chủ thế giới của các Elder Đen tối?”
“Ta biết.”
“Cuốn Codex nói rằng các Elder Đen tối chỉ có thể bị chặn đứng bởi Bạc và Vàng,” Scatty tiếp tục.
“Cuốn Codex cũng nói, nếu trí nhớ của ta không lầm lẫn, rằng táo là thuốc độc, và những con ếch có thể trở thành những nàng công chúa. Cháu không muốn tin tất cả những gì cháu đọc trong cuốn Codex,” bà cắt ngang.
Flamel đã từng đọc phần nói về táo trong cuốn sách. Ông nghĩ rất có thể sách đề cập đến những hạt táo mà, thực sự, là thuốc độc - nếu ai đó ăn vài cân của nó. Ông chưa đọc phần nói về ếch và công chúa và ông đã đọc đi đọc lại cuốn sách vô số lần. Có hàng trăm câu hỏi mà ông muốn hỏi Bà Phủ thủy, nhưng đó không phải là lý do khiến họ có mặt nơi đây. “Dora, bà sẽ dạy cho Sophie về các nguyên tắc của pháp thuật không khí chứ? Cô ấy cần phải học đủ để ít ra là tự bảo vệ mình trước sự tấn công.”
Dora nhún vai và mỉm cười. “Tôi có một sự lựa chọn nào không?”
Flamel trông có vẻ đầy ngạc nhiên. Ông không chờ đợi một câu trả lời như vậy. “Tất nhiên là bà có thể lựa chọn….”
Phù thủy Endor lắc đầu. “Không phải lần này.” Bà vươn người và cởi cặp mắt kính ra. Scatty không hề nhúc nhích và chỉ có bắp thịt nơi hàm của Flamel giật giật cho thấy nỗi kinh hoàng của ông. Dù sao, cặp sinh đôi cũng ngửa người ra sau vì hoảng sợ, vẻ kinh hoàng hiện rõ trên khuôn mặt chúng. Phù thủy Endor không có mắt. Chúng chỉ là những hốc rỗng nằm nơi vị trí của đôi mắt và nằm gọn trong hai hốc rỗng đó là hai mắt kính thủy tinh hình bầu dục vừa vặn. Đôi mắt làm bằng kính của bà quay sang nhìn thẳng vào hai đứa trẻ. “Ta đã từ giã đôi mắt của mình để đổi lấy Tầm nhìn, khả năng nhìn thấy những cung bậc và giai đoạn của thời gian - quá khứ, hiện tại và tương lai có thể xảy ra. Có rất nhiều cung bậc, rất nhiều viễn tưởng về tương lai có thể xảy ra, mặc dù không có nhiều viễn tưởng như người ta vẫn nghĩ. Trong vài năm qua, những mẫu hình đã bắt đầu trùng khớp và đan cài chặt chẽ với nhau. Giờ đây, chỉ còn một số ít tương lai có thể xảy ra. Đa số chúng đều rất kinh hoàng,” bà nói dứt khoát. “Và chúng đều liên quan tới hai đứa cháu.” Tay bà chỉ thẳng vào Sophie và Josh. “Vậy thì ta có những chọn lựa nào? Đây cũng là thế giới của ta. Ta đã có mặt ở đây trước cả loài người, ta cho họ lửa và ngôn ngữ. Ta sẽ không bỏ rơi họ trong lúc này. Ta sẽ huấn luyện cho cô gái, dạy cô cách bảo vệ chính mình và truyền dẫn cho cô cách làm chủ ma thuật của không khí.”
“Cảm ơn bà,” Sophie nói một cách cẩn thận trong khoảng im lặng kéo dài tiếp đó.
“Đừng nói cảm ơn ta. Đây không phải là một món quà. Mà là một lời nguyền hay là một tai ương.”
Dạ Phong
13-12-2010, 07:55 AM
Chương 36
Josh bước ra khỏi tiệm đồ cổ, hai má đỏ bừng như gấc, những lời sau cùng của Bà Phù thủy vang lên bên tai cậu. “Cháu phải ra khỏi đây. Những gì ta truyền dạy không dành cho đôi tai của con người.”
Nhìn quanh căn phòng, từ Flamel sang Scatty và cuối cùng là chị sinh đôi của mình, Josh đột nhiên nhận ra rằng cậu là con người thuần túy duy nhất trong phòng. Rõ ràng, trong đôi mắt của Phù thủy Endor, Sophie không còn hoàn toàn là con người nữa.
“Không có vấn đề gì đâu. Cháu sẽ đợi…..” cậu bắt đầu, giọng nói bỗng nhiên vỡ vụn. Cậu ho khẽ và cố gắng lần nữa. “Cháu sẽ đợi nơi công viên phía bên kia đường.” Và rồi, không hề nhìn lại lần nào, cậu rời khỏi cửa tiệm, tiếng chuông du dương vang lên như cười nhạo cậu khi cậu khép lại cánh cửa.
Nhưng đó là một vấn đề. Một vấn đề quá lớn.
[center:3sby2kea]++++++++++++++++++[/center:3sby2kea]
Sophie Newman nhìn em trai mình rời khỏi tiệm và, thậm chí không cần đến các giác quan được Đánh thức, cô biết là cậu rất bực bội và giận dữ. Cô muốn ngăn cậu lại, muốn đi theo cậu, nhưng đột nhiên Scatty đứng ngay trước mặt cô với đôi mắt mở to như cảnh báo, một ngón tay cô ta đặt lên môi và cô ta lắc đầu rất khẽ ra hiệu cho Sophie hãy im lặng. Cầm tay Sophie, Scatty dẫn cô đến trước mặt Phù thủy Endor. Bà lão giơ hai tay lên và lướt nhẹ những ngón tay lên đường nét trên khuôn mặt Sophie. Luồng điện bạc của cô gái rung lên và kêu xèo xèo theo từng cú chạm nhẹ của ngón tay Bà Phù thủy.
“Cháu bao nhiêu tuổi rồi?” bà hỏi.
“Mười lăm. Ồ, mười lăm tuổi rưỡi.” Sophie không chắc là thêm một nửa năm có làm nên sự khác biệt gì không.
“Mười lăm tuổi rưỡi,” Dora nói, lắc lắc đầu, “không thể nhớ ra nổi cái thời xa lắc đó.” Bà cúi đầu, nghiêng về phía Scatty. “Cháu có nhớ những gì xảy ra hồi cháu mười lăm tuổi không?”
“Một cách sinh động,” Scathach nói rõ ràng. “Lần đó cháu ghé thăm bà ở Babylon và bà cố gắng ngăn cản không cho cháu lấy vua Nebuchadnezzar đó mà, bà nhớ không?”
“Bà chắc chắn là cháu đã sai lầm,” Dora nói một cách vui vẻ. “Bà nghĩ là chuyện đó xảy ra sau này. Mặc dù ông ta cũng là một người chồng xuất sắc đấy,” bà nói tiếp. Bà thình lình nhìn lên Sophie và cô gái nhìn thấy hình bóng mình phản chiếu trong đôi mắt gương của Bà Phù thủy. “Có hai điều mà ta phải dạy cháu. Để bảo vệ chính mình - việc đó rất đơn giản! Nhưng hướng dẫn cháu cách điêu khiển ma thuật của không khí thì khó khăn hơn chút đỉnh. Lần cuối cùng ta dạy dỗ một con người về ma thuật của không khí thì anh ta đã mất đến sáu mươi năm để nắm vững các nguyên tắc cơ bản và thậm chí khi đó anh ta vẫn rơi ra khỏi bầu trời ngay trong chuyến bay đầu tiên.”
“Sáu mươi năm,” Sophie nuốt nước bọt. Có phải như vậy có nghĩa là cô phải bỏ ra cả cuộc đời mình để học cách điều khiển sức mạnh đó?
“Ngoại à, chúng ta không thể có nhiều thời gian như vậy đâu. Cháu ngờ là chúng ta chỉ có sáu mươi phút.”
Dora nhìn chăm chăm vào một tấm gương và những hình ảnh phản chiếu của bà hiện lên từ một chiếc khung ảnh trống rỗng. “Vậy sao cháu không thử làm nó đi, cháu là chuyên gia mà, hử?”
“Ngoại….” Scathach thở dài.
“Đừng kêu ta bằng giọng điệu đó,” Dora cảnh báo. “Ta sẽ làm theo cách của mình.”
“Chúng ta không có thời gian để làm theo cách truyền thống ngoại à.”
“Đừng nói với ta về truyền thống. Bọn trẻ biết gì về truyền thống? Tin ta đi, khi ta hoàn thành công việc, Sophie sẽ biết về tất cả những gì mà ta biết về ma thuật không khí.” Bà quay sang phía Sophie. “Đầu tiên và trước hết: cha mẹ của cháu còn sống không…..?”
“Còn,” cô nói, mắt chớp chớp vì ngạc nhiên, không biết chắc về những chuyện gì đang xảy ra.
“Tốt. Và cháu vẫn nói chuyện với cha mẹ của mình chứ?”
“Dạ có, hầu như là mỗi ngày.”
Dora liếc nhìn Scatty. “Nghe thấy chưa. Hầu như là mỗi ngày.” Bà nắm lấy một tay của Sophie trong tay mình và vỗ nhẹ lên mặt sau của nó. “Có thể cháu nên dạy cho Scathach một vài điều gì đó. Và cháu có bà ngoại không?”
“Bà Nana của cháu, dạ có, bà là mẹ của ba cháu. Cháu thường gọi điện cho bà vào những thứ Sáu,” cô trả lời, nhận ra một chút áy náy gợn lên bởi vì hôm nay là thứ Sáu và bà Nana Newman có thể đang chờ đợi cú điện thoại.
“Mỗi thứ Sáu,” Phù thủy Endor nói một cách đầy ý nghĩa và quay lại nhìn Scatty, như Nữ Chiến binh cố ý quay đi và tập trung vào một cái chặn giấy bằng thủy tinh có trang trí đẹp đẽ. Cô đặt nó xuống bàn khi cô nhận ra rằng có một người đàn ông nhỏ bé mặc bộ đồ ba mảnh bị đông cứng phía bên trong lớp thủy tinh. Một tay của ông ta cầm một chiếc cặp táp nhỏ và tay bên kia cầm một xấp giấy. Đôi mắt của ông ta vẫn đang nhấp nháy.
“Nó sẽ không đau đâu,” Bà Phù thủy nói.
Sophie nghi ngờ liệu nó có thể tồi tệ hơn so với những gì cô đã trải qua. Mũi của cô nhăn lại vì mùi gỗ cháy xông lên và cô cảm thấy một luồng gió mát vuốt ve hai bàn tay mình. Cô nhìn xuống. Một màng nhện trắng mỏng nhẹ như tơ đang xoắn bện và quay tròn từ những ngón tay của Phù thủy Endor và tự quấn lại như một dải vải quanh từng ngón tay của Sophie. Nó uốn lượn qua lòng bàn tay cô, bao phủ nó hoàn toàn rồi tiếp tục bao quanh lấy cổ tay và bò lên cánh tay cô. Cô nhận ra rằng Bà Phù thủy đã dùng những câu hỏi để lái sự chú ý của cô sang hướng khác. Sophie nhìn vào đôi mắt kính của Bà Phù thủy và nhận thấy rằng mình không thể cất lời để hỏi. Cứ như là cô đã mất khả năng nói vậy. Cô rất kinh ngạc nhận thấy là mình không hề cảm thấy sợ hãi, nhưng ngay từ giây phút Bà Phù thủy cầm lấy tay cô thì một làn sóng của cảm giác bình an và trầm tĩnh đã tràn ngập cơ thể cô. Cô liếc nhìn Scatty và Flamel. Họ đang theo dõi quá trình truyền dạy, mở mắt lớn vì choáng ngợp và, trong trường hợp Scathach, một cái gì như là nỗi kinh hoàng hiện lên trên mặt cô.
“Ngoại à…..bà có chắc về việc này không?” Scathach hỏi.
“Tất nhiên là chắc rồi,” bà lão cắt ngang, một nét giận dữ chứa trong giọng nói.
Và mặc dù Phù thủy Endor đang nói với Scathach, Sophie có thể nghe thấy giọng nói của bà trong đầu mình, đang nói với cô, thì thầm những bí mật cổ xưa, lầm bầm những câu thần chú cổ xưa, dạy bảo cô, tiết lộ kiến thức của cả một đời trong không gian của những nhịp đập và hơi thở.
“Đây không phải là mạng nhện,” Dora giải thích cho Flamel lúc đó đang sửng sốt và im lặng. Bà để ý thấy ông đang chồm người về phía trước, nhìn chăm chú vào dải trắng quấn tròn xung quanh cánh tay của Sophie. “Nó tập trung không khí trộn lẫn với luồng điện của ta. Tất cả kiến thức của ta, kinh nghiệm của ta, thậm chú toàn bộ sự hiểu biết của ta và truyền thuyết của ta đều tập trung trong màng lưới không khí. Một khi nó chạm đến làn da của Sophie, cô ta sẽ bắt đầu thấm nhuần những tri thức đó.”
Sophie hít thở sâu, thu gom hết không khí thơm mùi gỗ vào tận trong hai lá phổi. Những hình ảnh chớp nháy, nhanh đến mức không thể, trong đầu cô, về những thời khắc và nơi chốn trong quá khứ xa xưa, những bức tường đá khổng lồ, những con tàu vàng ròng, khủng long và rồng, một thành phố được chạm khắc từ một ngọn núi băng, và cả những khuôn mặt .. hàng trăm, hàng nghìn khuôn mặt, từ mọi giống loài của loài người, từ mọi giai đoạn thời gian, con người và một nửa con người, quái thú cổ đại và quái vật. Cô nhìn thấy tất cả những gì mà Phù thủy Endor đã nhìn thấy.
“Những người Ai Cập đã sai lầm,” Dora tiếp tục, hai tay bà bây giờ di chuyển rất nhanh đến nỗi Flamel khó mà dõi theo kịp. “Họ quấn lại những xác chết,” bà nói tiếp. “Họ không nhận ra rằng ta quấn những người sống. Đã có thời ta truyền một phần của chính mình vào những môn đệ và gởi họ ra ngoài thế giới loài người và truyền dạy mọi thứ dưới tên ta. Rõ ràng là đã có một ai đó nhìn thấy quá trình này và cố gắng bắt chước nó….”
Sophie thình lình trông thấy cả tá người được bao bọc giống như cô và một Dora trông trẻ hơn di chuyển giữa họ. Bà ta mặc trang phục của người Babylon cổ đại và Sophie nhận ra rằng những người kia chính là các nam và nữ linh mục thuộc hệ thống thờ cúng tôn giáo tôn thờ Bà Phù thủy. Dora truyền đạt một ít kiến thức của bà cho họ để họ có thể đi ra thế giới và dạy cho những người khác.
Tấm màng không khí trắng trông như lưới nhện giờ đây đã phủ xuống dần dưới chân của Sophie, cột chặt chúng với nhau. Một cách vô thức, cô giơ hai tay vắt chéo qua ngực, bàn tay phải đặt lên trên vai trái, bàn tay trái đặt lên trên vai phải. Bà Phù thủy gật đầu vẻ động viên.
Sophie nhắm mắt lại và nhìn thấy những đám mây. Không hiểu vì sao, cô biết tên của chúng: Cirrus Cirrocumulus, Altostratus và Stratocumulus, Nimbostratus và Cumulus. Tất cả đều khác nhau, mỗi loại đều có những tính cách và chất lượng riêng biệt. Cô đột ngột hiểu ra cách sử dụng chúng, cách nhào nặn chúng thành các hình dáng khác nhau và cách vận hành và di chuyển chúng.
Những hình ảnh rung rinh chập chờn.
Ánh sáng lóe lên.
Cô nhìn thấy một người đàn bà nhỏ bé đứng dưới bầu trời xanh trong vắt giơ cao một tay lên và khiến cho đám mây bay ngay phía trên đầu bà. Mưa bắt đầu rơi xuống như trút nước.
Ánh sáng lóe lên lần nữa.
Một người đàn ông cao có râu mép đang đứng bên bờ biển, giơ cao hay tay lên và kêu gọi những ngọn gió thổi vào các cơn sóng.
Và ánh sáng lại lóe lên.
Một phụ nữ trẻ làm ngưng lại một cơn bão lồng lộn chỉ bằng một cử chỉ đơn giản. Bà làm cho cơn bão ngưng đọng lại, rồi bà chạy vào trong một ngôi nhà gỗ mỏng manh và ôm lấy một đứa bé ra ngoài. Chỉ một khoảnh khắc sau đó con bão đã nuốt chửng ngôi nhà.
Sophie nhìn những hình ảnh và học từ chúng.
Phù thủy Endor chạm vào má Sophie và cô mở mắt. Tấm màn trắng được điểm xuyết bởi những tia sáng bạc. “Có nhiều người sẽ nói với cháu rằng ma thuật của lửa của nước hay thậm chí là đất, là ma thuật mạnh mẽ nhất trên tất cả. Họ nói sai. Ma thuật của không khí vượt lên trên tất cả. Không khí có thể làm tắt lửa. Nó có thể khuấy nước thành sương mù và có thể xé toạc đất. Nhưng không khí cũng có thể đem sự sống đến cho lửa, có thể đẩy thuyền vượt qua làn nước đứng, có thể tạo hình cho đất. Không khí có thể rửa sạch vết thương, có thể nhổ những mảnh vụn từ đầu ngón tay. Không khí có thể hủy diệt.”
Những sợi bạc cuối cùng của màng lưới không khí như tơ nhện trắng đã bọc lấy khuôn mặt của Sophie, bao bọc lấy cô một cách kín mít hoàn toàn. Trông cô giống như một xác ướp.
“Đây là một món quà đáng kinh hoàng mà ta trao cho cháu. Trong tay cháu bây giờ là kinh nghiệm của cả một cuộc đời - một cuộc đời rất dài. Ta hy vọng nó sẽ có ích cho cháu trong những ngày khốc liệt sắp tới.”
Sophie đứng trước mặt Phù thủy Endor trước khi bà hoàn thành việc “đóng hộp” cô bằng màng lưới không khí trắng. Cảm giác của cô lần này thật nhẹ nhàng, dễ chịu. Cô khám phá ra rằng cô đã biết về nhiều thứ - những thứ khó mà tin nổi. Cô lưu giữ kỷ niệm về những thời khắc và nơi chốn phi thường, không thể có. Nhưng trộn lẫn giữ những kỷ niệm và cảm xúc đó, là những suy nghĩ của riêng cô. Mặc dù, cô bắt đầu nhận thấy rằng thật khó có thể chia tách chúng.
Và rồi khói bắt đầu cuộn xoáy và bốc hơi.
Dora đột ngột quay sang Scatty. “Đến đây và ôm bà đi nào, nhóc. Bà sẽ không còn gặp lại cháu nữa.”
“Bà?”
Dora quàng hai tay quanh đôi vai của Scathach và ghé miệng sát tai cô thì thầm gì đó.
Giọng nói của bà nghe còn nhỏ hơn một lời thì thầm. “Ta đã cho cô gái kia một sức mạnh hiếm hoi và kinh khủng. Hãy chắc rằng sức mạnh đó được sử dụng mãi mãi.”
Scathach gật đầu, không hoàn toàn chắc chắn về những gì mà bà lão nói.
“Và nhớ gọi điện thoại cho mẹ. Bà ấy đang lo lắng cho cháu đấy.”
“Cháu sẽ gọi, bà ạ.”
Cái kén xác ướp đột nhiên tan biến thành hơi nước và sương mù trong khi luồng điện của Sophie vụt tỏa màu sáng bạc rực rỡ. Cô duỗi dài hai cánh tay, những ngón tay xòe rộng và một làn gió nhẹ thổi phảng phất qua cửa tiệm.
“Cẩn thận. Nếu cháu làm bể bất cứ thứ gì, cháu sẽ phải trả tiền cho cái đó,” Bà Phù thủy nhắc chừng.
Rồi, bất thình lình, Scathach, Dora và Sophie cùng quay nhìn ra bóng chiều đang bao phủ phía bên ngoài. Một giây sau đó Nicholas Flamel ngửi thấy mùi lưu huỳnh hôi như trứng thối không lẫn vào đâu được. “Dee!”
“Josh,” đôi mắt của Sophie vụt mở to. “Josh đang ở ngoài kia!”
Dạ Phong
13-12-2010, 11:39 PM
Chương 37
Tiến sĩ John Dee rốt cục cũng đã tới được Ojai khi mà những tia sáng màu hồng cuối cùng của buổi hoàng hôn dần lịm tắt nơi rặng núi Topa Topa. Hắn đã di chuyển suốt cả ngày, hắn mệt mỏi và bực bội và tìm cớ để gây sự với một ai đó.
Vương quốc Bóng tối của Hekate đã hút cạn pin trong điện thoại cầm tay của hắn và hắn đã mất hơn một tiếng đồng hồ trước khi tìm thấy một cái điện thoại để gọi về văn phòng. Khi đó hắn buộc phải ngồi xuống, đầy phẫn nộ, ngay bên lề đường để chờ thêm chín mươi phút trong khi đội ngũ tài xế lùng sục khắp các con đường nằm quanh Thung lũng Mill để tìm cho ra hắn. Cuối cùng lúc hắn trở lại được văn phòng của mình ở Công ty Enoch nằm ở trung tâm thành phố thì đã hơn chín giờ rưỡi sáng.
Ở đó hắn được tin Perenelle đã được chuyển đến Alcatraz. Công ty của hắn gần đây đã mua lại hòn đảo đó từ Nhà nước và đóng kín đảo không cho công chúng vào trong, trong khi công việc phục hồi được tiến hành. Nhiều thông tin trên giấy tờ, văn bản cho rằng hòn đảo sẽ được biến thành một bảo tàng lịch sử sống. Thực sự, Dee có ý muốn khôi phục nó trở lại với mục tiêu sử dụng ban đầu như là một trong những nhà tù kiên cố nhất trên thế giới. Dee thoáng nghĩ tới chuyện bay ra hòn đảo để nói chuyện với Phù thủy Endor, nhưng rồi gạt bỏ ý nghĩ đó, xem như một sự mất thì giờ. Những trang sách bị xé rời của cuốn Codex và cặp sinh đôi mới là ưu tiên số 1 của hắn. Mặc dù Bastet nói Dee hãy giết bọn trẻ đi nếu như không thể bắt cóc được chúng, Dee có những ý tưởng khác.
Dee biết những lời tiên tri nổi tiếng từ Cuốn sách của Pháp sư Abraham. Các Elder đều biết là cặp sinh đôi sắp xuất hiện, hai mà chỉ một, một là tất cả. Một giải cứu thế giới, một hủy diệt thế giới. Nhưng ai là ai, hắn tự hỏi? Và năng lượng của chúng liệu có thể được định hình và nhào nặn theo những sự truyền thụ và hướng dẫn mà chúng tiếp thu được? Đột nhiên việc tìm ra thằng bé trở nên quan trọng không kém gì việc tìm ra các trang sách thất lạc của cuốn Codex. Hắn phải có luồng điện vàng đó.
[center:2reofatm]++++++++++++++++++[/center:2reofatm]
Tiến sĩ John Dee đã từng sống một thời gian ngắn ở Ojai vào những năm đầu Thế kỷ Hai mươi - lúc đó Ojai vẫn còn được gọi là Thành phố Nordhoff. Vào thời gian đó, hắn đã cướp bóc khu vực nghĩa địa xung quanh Chumash để tìm kiếm những vật giá trị có lợi ích cho khảo cổ học. Hắn ghét thành phố này: Ojai quá nhỏ, quá hẹp hòi và, trong những tháng hè, đơn giản là quá nóng đối với hắn. Dee luôn luôn cảm thấy hạnh phúc nhất khi hắn sống trong những thành phố lớn nhất nơi mà việc trở nên “vô hình” và ẩn danh không ai biết đến trở nên thật dễ dàng.
Hắn bay từ San Francisco xuống Santa Barbara bằng chiếc trực thăng của công ty, và rồi thuê một chiếc xe Ford trông không có gì đặc biệt tại một sân bay nhỏ. Rồi hắn lái xe từ Santa Barbara xuống Ojai. Hắn tới Ojai vừa khi mặt trời sắp lặn, phủ lên toàn bộ thị trấn những bóng dài thanh nhã. Ojai đã thay đổi một cách đầy kịch tính trong vòng một trăm hay khoảng chừng đó năm….. nhưng hắn vẫn không thấy thích nơi này.
Hắn cho xe rẽ vào đại lộ Ojai và chạy chầm chậm qua dãy phố. Flamel và những kẻ khác đang ở rất gần; hắn có thể cảm nhận được điều đó. Nhưng bây giờ hắn phải hết sức cẩn thận. Nếu như hắn có thể đánh hơi được họ, thì họ cũng đánh hơi được hắn - đặc biệt là Nhà Giả kim và Scathach - họ rất dễ dàng nhận ra mùi của hắn. Và hắn vẫn không biết gì về khả năng của Phù thủy Endor. Thật đáng lo ngại một cách khủng khiếp khi mà một Elder thuộc hàng “tiền bối” sống ngay ở California và hắn hoàn toàn không biết gì đến sự hiện diện của bà ta. Hắn nghĩ là hắn biết nơi cư ngụ của hầu hết các Elder quan trọng và người bất tử trên thế giới. Dee tự hỏi liệu có gì đáng kể không khi mà hắn đã không thể liên lạc được với Morrigan trong cả ngày hôm nay. Hắn gọi cho bà ta một cách kiên trì đều đặn suốt thời gian lái xe xuống Ojai, nhưng bà ta không trả lời máy di động của hắn. Có thể bà ta đang lên mạng, có lẽ là vô eBay hoặc chơi những trò chơi lập chiến lược dài vô tận trên mạng mà bà ta vốn rất nghiền. Hắn không biết Bastet đang ở đâu và cũng chẳng quan tâm. Bà ta làm hắn sợ hãi, và Dee có ý hủy diệt những ai làm cho hắn hoảng sợ.
Flamel, Scathach và cặp sinh đôi có thể ở bất cứ đâu trong thị trấn này. Nhưng ở đâu?
Dee cho phép một ít năng lượng nhỏ giọt vào luồng điện của mình. Hắn chớp chớp đôi mắt chợt nhòe mờ bởi những giọt lệ, và lại chớp mắt lần nữa để xua tan chúng. Đột ngột những người ngôi trong xe hơi bên cạnh hắn, những người đang băng qua đường, và những người đi bộ trên vỉa hè chợt lóe sáng lên trong những luồng điện nhiều màu xung quanh họ. Một số luồng điện chỉ là những cuộn khói trong mờ, một số khác chỉ là những đốm đen hay dải màu bùn đặc quánh.
Cuối cùng, hắn tìm thấy họ hoàn toàn ngẫu nhiên: hắn đang lái xe dọc theo đại lộ Ojai và vượt qua công viên Libbay thì hắn vụt nhìn thấy chiếc Hummer màu đen đậu bên đường Fox. Hắn cho xe đậu sát chiếc Hummer. Ngay khoảnh khắc hắn chui ra khỏi xe, hắn thoáng trông thấy một luồng điện vàng thuần túy bốc lên từ trong công viên, chỗ gần vòi phun nước. Đôi môi mỏng của Dee nhếch lên thành một nụ cười không chút hài hước.
Lần này bọn chúng sẽ không thoát được nữa.
[center:2reofatm]++++++++++++++++++[/center:2reofatm]
Josh Newman ngồi bên cạnh vòi phun nước cao của công viên Libbey đối diện ngay phía bên kia đường với tiệm đồ cổ và nhìn chăm chăm vào làn nước. Hai chiếc chén lớn hình bông hoa, một cái to hơn cái kia, được dựng ngay chính giữa cái hồ hình chữ nhật. Nước phụt lên từ chén ở phía trên và chảy tràn xuống chiếc chén to hơn nằm ngay dưới. Âm thanh của nước đã làm dịu bớt đi tiếng ồn ào từ xe cộ.
Cậu cảm thấy lẻ loi, và lạc lõng.
Khi Bà Phù thủy bảo Josh rời khỏi tiệm, cậu bước đi dưới những chỗ dạo chơi uốn lượn và dừng lại trước cửa một tiệm kem. Mùi thơm của chocolate và vanilla tỏa ra thật hấp dẫn. Cậu đứng bên ngoài, đọc thực đơn gồm nhiều loại hương vị quyến rũ và thắc mắc vì sao luồng điện của chị mình lại có mùi kem vanilla, còn luồng điện của cậu thì có mùi cam. Sophie thậm chí không thực sự thích kem; cậu mới là người khoái ăn kem.
Ngón tay cậu gõ nhẹ lên thực đơn: việt quất rải chocolate.
Josh thọc tay vào túi sau của quần Jeans…và vụt cảm thấy hốt hoảng khi cậu nhận ra rằng cái ví đã bị mất. Cậu đã để nó trong xe hơi rồi chăng, hay là cậu đã….? Cậu dừng lại.
Cậu biết chính xác nơi mà cậu đã đánh mất nó.
Nơi cuối cùng mà cậu nhìn thấy cái ví của mình, cùng với điện thoại di dộng, iPod và laptop chết là sàn nhà cạnh giường của cậu trong ngôi nhà cây Yggdrasill. Mất ví là một chuyện quá tồi tệ nhưng mất máy tính xách tay mới đúng là thảm họa. Tất cả email của cậu đều nằm trong đó với các ghi chép về bài học, một dự án mùa hè đã viết được một phần, hình ảnh chụp trong ba năm qua - bao gồm cả chuyến đi chơi ở Cancun dịp Giáng sinh - và ít nhất là sáu mươi buổi hòa nhạc MP3. Cậu không thể nhớ rõ lần cuối cùng cậu lưu lại tài liệu là khi nào, nhưng chắc chắn là không phải gần đây. Cậu thực sự cảm thấy lảo đảo và đột nhiên mùi thơm từ tiệm kem không còn ngọt ngào và lôi cuốn nữa.
Ngập tràn đau khổ, cậu đi bộ tới góc đường và băng qua cột đèn giao thông sát bưu điện, rồi rẽ trái, đi thẳng xuống phía công viên.
Cái iPod là món quà Giáng sinh từ ba mẹ cậu. Làm thế nào cậu có thể giải thích cho họ rằng cậu đã đánh mất nó? Và còn thêm ba mươi buổi hòa nhạc nữa chứa trong ổ cứng.
Nhưng còn tồi tệ hơn cả việc mất iPod và máy tính hay thậm chí cái ví của cậu, đó là chuyện mất điện thoại. Một cơn ác mộng hoàn toàn. Tất cả số điện thoại của bạn bè Josh đều nằm trong đó, và cậu biết là mình không hề viết chúng lên bất kỳ nơi nào khác. Không có email hay số điện thoại của đám bạn, làm sao cậu có thể liên lạc với họ, làm sao cậu có thể gặp lại họ nữa? Và bởi vì cha mẹ chúng di chuyển quá nhiều, cặp sinh đôi hiếm khi có một hay hai học kỳ ở cùng một ngôi trường. Nhưng chúng dễ dàng kết bạn - đặc biệt là Sophie - và chúng vẫn giữ liên lạc với những người bạn mà chúng gặp nhiều năm trước trong những ngôi trường nằm rải rác trên khắp những Mỹ.
Có một vòi phun nước trong một góc yên tĩnh ngay phía trước lối vào công viên và cậu cúi đầu xuống để uống nước. Một cái đầu sư tử bằng kim loại chạm trổ tinh xảo được gắn lên bức tường cạnh vòi phun nước và phía dưới nó đặt một tấm biển nhỏ ghi rằng, tình yêu là nước của cuộc đời, hãy uống cạn. Cậu cảm thấy những giọt nước mát lạnh bắn tung tóe trên môi mình và vươn thẳng người nhìn qua bên cửa tiệm và tự hỏi chuyện gì đang xảy ra bên trong đó. Cậu vẫn yêu thương chị mình sâu sắc, nhưng chị có yêu thương cậu không? Chị có thể yêu thương cậu lúc này khi mà cậu… là một người bình thường?
Công viên Libbey thật yên tĩnh. Josh có thể nghe thấy tiếng lũ trẻ con đang chạy nhảy vòng quanh sân chơi gần đó, nhưng giọng chúng nghe rất cao và xa. Một băng ba người đàn ông, mặc áo không tay, quần short dài, mang tất và giày xăng - đan trắng, đứng tụ tập nơi một chiếc ghế dài rợp bóng cây. Một trong ba người đàn ông đang rắc vụn bánh mì cho mấy con chim bồ câu béo mập lười biếng. Josh ngồi xuống bên rìa của vòi phun nước và cúi người xuống lấy tay phớt nhẹ lên mặt nước. Sau sức nóng ngột ngạt, cảm giác trong làn nước thật mát mẻ, và cậu lướt những ngón tay ướt lên tóc mình, cảm thấy những giọt nước chảy ngoằn ngoèo xuống cổ.
Cậu sẽ làm gì đây?
Có bất kỳ cái gì cậu có thể làm không?
Chỉ trong vòng hai mươi tiếng đồng hồ, cuộc đời cậu - và cuộc đời của chị gái cậu nữa - đã thay đổi hoàn toàn và không thể nào hiểu nổi. Những gì mà cậu từng tin rằng những câu chuyện kể giờ đây đã trở thành những sự thật ngỡ ngàng. Thần thoại trở thành lịch sử, huyền thoại trở thành sự thật. Khi Scatty hé lộ trước đó là Danu Talis huyền bí còn được gọi là Atlantis thì cậu gần như đã cười vào mặt cô. Đối với cậu Atlantis luôn luôn là một câu chuyện thần tiên. Nhưng nếu như Scathach và Hekate và Morrigan và Bastet đều có thật, thì Danu Talis cũng thế. Và như vậy công việc của ba mẹ cậu - khảo cổ học - bỗng nhiên trở nên vô ích, chảng có giá trị gì.
Từ trong thâm tâm, Josh biết là cậu đã mất người chị sinh đôi, một hằng số trong đời cậu, người mà cậu luôn luôn tin tưởng. Cô đã thay đổi theo những cách mà cậu thậm chí không thể hiểu thấu đáo được. Tại sao cậu không được Đánh thức? Cậu nên năn nỉ để Hekate Đánh thức cậu trước. Sẽ như thế nào khi ta mang trong người những năng lượng đó? Điều duy nhất mà cậu có thể so sánh được đó là sẽ sống như một siêu nhân. Mặc dù những giác quan vừa được Đánh thức của Sophie làm cô đau đớn, Josh cũng vẫn cảm thấy ghen tỵ với những khả năng mới của cô.
Từ phía đuôi mắt mình, Josh để ý thấy bóng dáng của một người đàn ông vừa ngồi xuống ở một trong những rìa của vòi phun nước, nhưng cậu phớt lờ ông ta. Cậu lơ đãng nhặt lên một trong những mảnh đá lát màu xanh chạy dọc theo gờ rìa của vòi phun nước nơi cậu đang ngồi.
Cậu sẽ làm gì sắp tới?
Và câu trả lời luôn luôn giống như lần trước: cậu có thể làm gì?
“Em có phải cũng là một nạn nhân không?”
Phải mất vài giây cậu mới nhận ra rằng bóng người đang ngồi bên tay phải cậu đang nói với mình. Cậu bắt đầu đứng dậy, luật vàng đối với những người lạ mặt tự dưng bắt chuyện với mình đó là đừng bao giờ đáp lời họ, và đừng-đừng-bao-giờ mở đầu một cuộc trò chuyện nào với họ.
“Dường như chúng ta tất cả đều là những nạn nhân của Nicholas Flamel.”
Josh giật mình nhìn lên….và nhận ra mình đang nhìn thẳng vào Tiến sĩ John Dee, người đàn ông mà cậu hy vọng là sẽ không bao giờ còn phải gặp lại ông ta nữa. Lần cuối cùng cậu nhìn thấy Dee là ở Vương quốc Bóng tối. Khi đó hắn vung vẩy thanh kiếm Excalibur trong hai tay. Giờ đây hắn đang ngồi bên cạnh cậu, trông lạc lõng và không phù hợp chút nào với hoàn cảnh trong bộ đồ màu xám cắt khéo không chê vào đâu được. Josh vội vã nhìn quanh, chờ đợi nhìn thấy bọn Golem hay lũ chuột, hay thậm chí cả Morrigan đang ẩn nấp trong bóng tối.
“Tôi chỉ có một mình,” Dee nói với vẻ thân mật cùng nụ cười hòa nhã.
Đầu óc Josh quay cuồng. Cậu cần phải chạy đi gặp Flamel, cậu cần phải báo cho ông biết là Dee đã có mặt ở Ojai. Cậu thắc mắc chuyện gì sẽ xảy ra nếu như cậu đơn giản đứng lên và bỏ chạy. Dee có sẽ cố gắng ngăn cậu bằng ma thuật ngay trước mặt những người xung quanh? Josh nhìn tới chỗ ba người đàn ông lần nữa, và cậu cảm giác rằng họ có thể sẽ chẳng chú ý gì ngay cả khi Dee biến cậu thành một con voi ngay giữa trung tâm thị trấn Ojai.
“Em có biết là tôi đã săn tìm Nicholas Flamel hay Nick Fleming, hay bất kỳ bí danh nào trong hàng trăm bí danh mà ông ta đã dùng đến trong nhiều năm bao nhiêu lâu rồi không?” Dee tiếp tục câu chuyện một cách lặng lẽ và gợi mở. Hắn dựa người ra sau và miết những ngón tay cắt sửa hoàn hảo lên mặt nước. “Ít nhất là năm trăm năm. Và ông ta luôn thoát khỏi tay tôi. Ông ta luôn nham hiểm và nguy hiểm như thế. Năm 1966, khi tôi suýt nữa bắt được ông ta ở London, ông ta đã thổi bùng lên một ngọn lửa suýt chút nữa là thiêu rụi thành phố.”
“Ông ấy nói với chúng tôi là chính ông là người gây ra Đám Cháy lớn,” Josh buột miệng thốt ra. Dù hoảng sợ, cậu vẫn tò mò. Và giờ đây cậu bỗng nhiên nhớ lại một trong những lời khuyên bảo đầu tiên mà Flamel đã nói với hai chị em Josh. Không có gì giống như vẻ bề ngoài của nó. Đặt câu hỏi về mọi thứ. Josh tự hỏi liệu rằng lời khuyên đó có nên được áp dụng luôn cho Nhà Giả kim? Mặt trời đã lặn và một làn hơi lạnh luồn vào không gian nhá nhem, Josh run lên. Ba ông già đằng kia đã bỏ đi, không ai trong số họ liếc nhìn về phía cậu, bỏ lại cậu một mình với tay Phù thủy. Thật kỳ lạ, cậu không hề cảm thấy hoảng sợ trước sự hiện diện của ông ta.
Đôi môi mỏng của Dee thoáng hiện một nụ cười. “Flamel không bao giờ nói cho bất cứ ai về tất cả mọi chuyện,” ông ta nói. “Tôi đã từng nói rằng một nửa của những gì ông ta nói đều là sự dối trá, và nửa còn lại cũng không hoàn toàn là sự thật.”
“Nicholas nói rằng ông đang làm việc cho các Elder Đen tối. Một khi ông đã có được cuốn Codex nguyên vẹn, ông sẽ mang họ trở lại thế giới này.”
“Chính xác đến từng chi tiết,” Dee nói, làm cho Josh đầy ngạc nhiên. “Mặc dù không còn nghi ngờ gì nữa về việc Flamel cũng đã bóp méo câu chuyện ở một mức độ nào đó. Tôi đang làm việc cho các Elder,” ông ta tiếp tục, “và đúng, tôi đang tìm kiếm hai trang cuối cùng của Cuốn sách của Pháp sư Abraham, được biết đến với cái tên phổ biến là Codex. Nhưng tất cả chỉ vì Flamel và vợ ông ta đã đánh cắp cuốn sách từ nơi nguyên thủy của nó là bảo tàng Louvre.”
“Ông ta đã đánh cắp nó?”
“Hãy để tôi nói cho em nghe về Nicholas Flamel,” Dee nói một cách kiên nhẫn. “Tôi chắc chắn là ông ta cũng đã nói cho em nghe về tôi. Ông ta có rất nhiều lốt trong đời mình: một bác sĩ điều trị và một đầu bếp, một người bán sách và một người lính, một giáo viên đã ngôn ngữ và một nhà hóa học, một nhân viên văn phòng luật và một tên ăn trộm. Nhưng bây giờ thì ông ta, như ông ta vẫn luôn luôn là, một kẻ nói dối, một tay lòe bịp, và là một tên trộm. Ông ta đánh cắp cuốn sách từ viện Louvre khi ông ta khám phá ra là cuốn sách chứa đựng không chỉ là liều thuốc bất tử, mà còn có cả công thức của Hòn đá Phù thủy. Ông ta chế ủ thuốc bất tử mỗi tháng để giữ cho Perenelle và ông ta ở chính xác độ tuổi khi họ lần đầu tiên uống thuốc đo. Ông ta dùng công thức của Hòn đá Phù thủy để biến những thỏi đồng đỏ và chì rẻ tiền thành vàng và hàng tảng than đá thành kim cương. Ông ta sử dụng một trong những kho tàng kiến thức phi thường của thế giới đơn thuần là cho lợi ích cá nhân của mình. Và đó là sự thật.”
“Nhưng còn Scatty và Hekate thì sao? Họ có phải là Elder không?”
“Ồ hoàn toàn. Hekate là Elder và Scathach là Elder thuộc Thế hệ Kế tiếp. Nhưng Hekate là một tội phạm khét tiếng. Bà ta bị trục xuất khỏi Danu Talis bởi vì những thử nghiệm của bà ta lên thú vật. Tôi cho là em có thể gọi bà ta là một kỹ sư di truyền học: bà ta tạo ra những giống loài cổ đại, và thả lỏng lời nguyền về ma sói cho chúng xâm nhập vào thế giới con người. Tôi tin là em đã nhìn thấy một số nạn nhân của cuộc thử nghiệm của bà ta vào hôm qua, những người lợn lòi đó. Scathach thì chẳng có gì hơn là một kẻ côn đồ đâm thuê chém mướn. Cô ta chịu một lời nguyền do các tội ác mà mình gây ra và phải mang cơ thể của một cô gái mới lớn trong toàn bộ thời gian còn lại của đời mình. Khi Flamel biết là tôi sắp đuổi kịp hắn, thì họ là những nhân vật duy nhất mà ông ta có thể tìm tới.”
Josh bây giờ bối rối đến cùng cực. Ai mới là người nói ra sự thật? Flamel hay Dee? Cậu cảm thấy ớn lạnh. Màn đêm chưa buông xuống, nhưng một làn sương trắng thấp đã phủ lên toàn thị trấn. Không khí có mùi đất ẩm và thoang thoảng mùi trứng thối. “Còn ông thì sao? Có phải thực sự ông đang làm việc để khôi phục lại ngôi bá chủ cho các Elder hay không?”
“Tất nhiên tôi đang làm việc cho họ,” Dee nói, giọng hắn có vẻ ngạc nhiên. “Đó là việc quan trọng nhất tôi có thể làm cho thế giới này.”
“Flamel nói là các Elder - Elder Đen tối như cách ông ta gọi họ - sẽ hủy diệt thế giới.”
Dee nhún vai. “Hãy tin tôi khi tôi nói với em ông ta là một kẻ nói dối. Cấc Elder có thể biến đổi thế giới này trở nên tốt hơn….” Những ngón tay của Dee lướt trên mặt nước, những gợn sóng lăn tăn với sức quyến rũ thôi miên. Giật mình, Josh nhận ra rằng có những hình ảnh bắt đầu hình thành trên mặt nước, những hình ảnh như minh họa trùng khớp với những lời nói êm dịu của Dee. “Trong quá khứ xa xưa, Trái đất là một thiên đường. Nó có kỹ thuật tiên tiến đến mức không thể tin được, không khí rất trong lanh, nước sạch, những đại dương không hề bị ô nhiễm.”
Hình ảnh của một hòn đảo dưới bầu trời trong xanh quang đãng hiện ra trên mặt sóng lăn tăn. Những cánh đồng lúa mạch vàng óng vô tận trải dài tít tắp. Những cành cây trĩu nặng những trái chín thơm ngon lạ lùng.
“Giống loài Elder không chỉ định hình thế giới này, họ còn lát những viên đá đầu tiên, những bước tiến nguyên thủy cho quá trình tiến hóa. Nhưng các Elder đã bị đuổi khỏi thiên đường của họ bởi những ông già điên ngu ngốc cuống tín Abraham và những câu thần chú trong cuốn Codex. Các Elder không chết - phải cần có rất nhiều sức lực mới có thể giết được một Elder - họ đơn giản là chờ đợi. Họ biết rằng một ngày nào đó loài người sẽ tỉnh ngộ và kêu gọi họ quay lại để cứu rỗi trái đất.”
Josh nhận ra mình không thể rời mắt khỏi mặt nước lấp lánh. Phần lớn những gì Dee nói nghe đáng tin cậy và hợp lý.
“Nếu như chúng ta có thể mang họ quay trở lại, các Elder có sức mạnh và khả năng để tái tạo thế giới này. Họ có thể làm cho sa mạc nở hoa….”
Một hình ảnh hiện lên trên mặt nước: những đụn cát bị gió cuốn xoáy trên sa mạc mênh mông phút chốc trở nên xanh tươi với những thảm cỏ căng tràn nhựa sống.
Một hình ảnh khác lại hiện ra. Josh nhận thấy cậu đang nhìn xuống Trái đất từ không gian, giống như là Google Trái đất. Một đám mây lớn cuộn xoáy phía trên Vịnh Mexico đang bay về hướng Taxas. “Họ có thể điều khiển được thời tiết…” Dee nói, và cơn bão tan biến.
Những ngón tay của Dee chuyển động và mặt nước lại hiện ra hình ảnh rõ rệt của khu vực bệnh viện với các dãy giường trống trơn.
“Và họ có thể chữa lành mọi bênh tật trên đời. Hãy nhớ rằng, những người được thờ cúng như các vị thần chính vì sức mạnh của họ. Và họ là những nhân vật mà Flamel đang cố gắng ngăn cản không cho chúng tôi mang họ trở lại với thế giới này.”
Phải một lúc lâu sau Josh mới thốt lên được một câu hỏi ngắn gọn. “Tại sao?” Cậu không thể lý giải vì sao Flamel lại muốn ngăn chặn những bước tiến rất rõ ràng ấy.
“Bởi vì ông ta có những ông bà chủ, những Elder như Hekate và Phù thủy Endor chẳng hạn, những kẻ muốn thế giới này vỡ vụn trong tình trạng hỗn loạn và vô chính phủ. Khi điều đó xảy ra họ có thể bước ra khỏi bóng tối và tự tuyên bố mình là những kẻ thống trị thế giới.” Dee lắc đầu một cách buồn bã. “Tôi rất đau lòng khi nói ra điều này, nhưng Flamel không hề quan tâm tới em hay tới chị gái của em. Ông ta đã đẩy chị em vào sự nguy hiểm hôm nay đơn giản bằng cách Đánh thức một cách thô bạo năng lượng của cô ấy. Các Elder tôi đang làm việc cho họ thường mất đến ba ngày để hoàn thành nghi lễ Đánh thức năng lượng trong một ai đó.”
“Ba ngày,” Josh thì thầm. “Flamel nói là không còn có ai ở Bắc Mỹ có thể Đánh thức tôi.” Cậu không muốn tin lời Dee….và lạy trời tất cả những gì mà ông ta nói, nghe rất hợp lý.
“Lại thêm một lời nói dối nữa. Các Elder của tôi sẽ Đánh thức em. Và họ sẽ làm điều đó một cách thích hợp và an toàn. Chuyện đó, rốt cục là, một quá trình rất nguy hiểm.”
Dee chậm chạp đứng lên và đi vòng quanh để cúi người xuống bên cạnh Josh, đôi măt ông ta nhìn thẳng vào mặt Josh. Sương mù bắt đầu trở nên dày đặc và cuộn xoáy quanh vòi phun nước, bồng bềnh và uốn lượn khi ông ta chuyển động. Giọng nói của Dee nghe mềm mại như lụa, với giai điệu nhịp nhàng chính xác theo từng gọn sóng lăn tăn. “Tên của em là gì?”
“Josh.”
“Josh,” Dee lặp lại, “Nicholas Flamel bây giờ đang ở đâu?”
Ngay cả trong trạng thái đờ đẫn của mình, một hồi chuông báo động - rất yếu ớt và xa xôi - vang lên trong đầu Josh. Cậu không thể tin Dee, cậu không nên tin Dee…..và rất nhiều điều hắn nói lại chứa đựng sự thật ở bên trong.
“Ông ta đang ở đâu, Josh?” Dee gặng hỏi.
Josh bắt đầu lắc đầu. Mặc dù cậu tin Dee - tất cả những gì hắn nói đều nghe rất hoàn hảo và hợp lý - cậu muốn noi chuyện với Sophie trước, cậu cần nghe những lời khuyên và ý kiến của cô.
“Hãy nói cho tôi biết.” Dee nhấc bàn tay mềm rũ của Josh và đặt nó lên mặt hồ. Những gợn sóng nổi lên lăn tăn. Chúng tạo nên hình ảnh một cửa tiệm đồ cổ nhỏ đầy ắp đồ thủy tinh, đối diện ngay với công viên Libbey ở phía bên kia đường. Ngoác miệng cười đắc thắng, Dee đứng lên và xoay quanh, nhìn chăm chăm về phía bên kia đường trong khi hắn kích hoạt các giác quan của mình.
Hăn xác định được vị trí của các luồng điện của họ ngay lập tức.
Màu xanh lá cây của Flamel, màu xám của Scathach, màu nâu của Endor và màu bạc tinh khiết của Sophie. Hắn đã tóm được chúng - và lần này sẽ không còn một sự nhầm lẫn hay trốn thoát nào.
“Hãy ngồi đây và thưởng thức những bức tranh đẹp đi nhé,” Dee lẩm bẩm, vỗ nhẹ vào vai Josh. Mặt nước vỡ ra những hình ảnh đầy quyến rũ và mê hoặc. “Ta sẽ trở lại với chú em sớm.” Rồi, không hề nhúc nhích một cơ bắp, hắn kêu gọi đội quân đang chờ đợi của hắn.
Đột nhiên sương mù dày đặc hơn và tối sầm hơn, nồng nặc mùi trứng thối và thêm những mùi khác nữa: bụi và đất khô, mốc meo và ẩm ướt.
Và nỗi kinh hoàng tràn ngập Ojai.
Dạ Phong
14-12-2010, 05:06 PM
Chương 38
Hai bàn tay của Nicholas Flamel đã bắt đầu sáng rực lên ánh sáng màu xanh lá cây khi ông kéo cánh cửa tiệm ra, vẻ mặt nhăn nhó vì khó chịu trong khi tiếng chuông vang lên đầy vui vẻ.
Mặt trời đã lặn xuống dưới đường chân trời trong khi Bà Phù thủy làm việc với Sophie, và một làn sương lạnh giá đã trườn xuống thung lũng. Nó cuộn xoáy và bò dọc theo đại lộ Ojai, uốn éo và cuồn cuộn qua những cái cây, phủ lên cảnh vật một làn hơi ẩm ướt. Những chiếc xe mò mẫm trong sương, những chiếc đèn pha phát ra những luồng sáng chật vật tìm cách chiếu xuyên qua vùng mờ ảo. Con đường lập tức trở nên vắng vẻ; những người đi lại trên đường đều mặc đồ mùa hè và họ đã chạy vào ẩn nấp ở những ngôi nhàm cửa tiệm để tránh lan hơi ẩm ướt vừa trườn tới.
Scatty cùng chạy tới chỗ Flamel bên cánh cửa. Một tay cô cầm một thanh kiếm ngắn, tay còn lại đung đưa nhị khúc. “Không tốt, không tốt chút nào.” Cô hít thở sâu. “Có ngửi thấy mùi đó không?”
Flamel gật đầu. “Lưu huỳnh. Mùi của Dee.”
Scatty lúc lắc nhị khúc. “Hắn ta thực sự làm bắt đầu tôi khó chịu rồi đây.”
Đâu đó xa xa vang lên tiếng va chạm kim loại của hai chiếc xe hơi đụng vào nhau. Chuông báo động của một chiếc xe khác vang lên đơn độc ở đâu đó ở phía đằng sau họ. Và rồi một tiếng thét vang lên cao vút và kinh hoảng và rồi một tiếng nữa và một tiếng nữa tiếp tục vang lên.
“Nó đang đến. Bất kể nó là cái gì,” Nicholas Flamel nói dứt khoát.
“Chúng ta không muốn bị mắc kẹt ở đây,” Scatty nói. “Hãy đi tìm Josh và quay trở lại chiếc xe.”
“Đồng ý. Rút quân là thượng sách.” Ông quay lại nhìn vào cửa tiệm. Phù thủy Endor đang ôm Sophie trong tay và thì thầm khẩn thiết với cô điều gì đó. Những cuộn khói trắng vẫn bốc cuồn cuộn lên từ cô gái và những giọt không khí trắng nhểu xuống từ những ngón tay cô như một cuốn vải bị tháo ra.
Sophie chồm người tới và hôn vào má của bà già, rồi cô quay đi và chạy dọc theo cửa tiệm. “Chúng cháu phải đi,” cô nói mà nín thở, “chúng cháu phải chạy xa khỏi nơi đây.” Cô không biết những gì đang chờ đợi ngoài kia, nhưng những kiến thức mới hấp thụ được cho phép trí tưởng tượng trong cô hình dung ra làn sương với bất kỳ sinh vật khổng lồ đáng kinh sợ nào.
“Và nhớ đóng lại cánh cửa đằng sau lưng cháu,” Bà Phù thủy dặn với theo.
Rồi tất cả các ngọn đèn nhấp nháy và tắt phụt. Toàn bộ Ojai chìm trong bóng tối.
Tiếng chuông cửa vang lên khi bộ ba bước ra con đường giờ đây vắng lặng. Sương mù đã giăng dày đến nỗi các tài xế buộc phải dừng xe và không còn thấy xe cộ lưu thông trên đường chính nữa. Một bầu không khí yên ắng không tự nhiên buông xuống. Flamel quay sang Sophie. “Cháu có thể xác định được Josh đang ở đâu không?”
“Nó nói nó đợi chúng ta ở bên công viên.” Cô liếc mắt nhìn, cố gắng xuyên qua lớp sương dày, nhưng nó dày đến nỗi cô khó mà nhìn thấy một bàn chân ngay trước mặt mình. Với Flamel và Scatty bên cạnh, cô chạy khỏi lề đường và băng ra ngay chính giữa lòng đường trống trải. “Josh?” Màn sương mù nuốt chửng lời cô, bóp ngẹt nó nghe còn nhỏ hơn một tiếng thì thầm. “Josh,” cô gọi lại.
Không có tiếng trả lời.
Một ý nghĩ thình lình vụt đến và cô đột ngột giơ cao bàn tay phải, những ngón tay xòe rộng. Một luồng hơi bốc lên từ hai bàn tay cô, nhưng không tác động được gì đến màn sương ngoài việc làm cho nó khẽ cuộn xoáy và nhảy múa. Cô cố gắng thêm lần nữa, và một làn gió lạnh ngắt vụt ngang qua con đường, vạch ra một lối đi hẹp xuyên qua làn sương, đâm thẳng vào cánh cửa của một chiếc xe bị bỏ rơi giữa đường, và rạch một đường sứt mẻ trên lớp vỏ kim loại. “Húp. Cháu đoán là cháu cần phải luyện tập,” cô lẩm bẩm.
Một dáng hình bước vào con đường mới mở giữa lớp sương dày, và rồi dáng hình thứ hai và thứ ba. Và không ai trong số chúng còn sống.
Đứng gần nhất với bộ ba là một bộ xương hoàn toàn, nó đứng cao và thẳng, mặc những mảnh rác rưới xác xơ còn lại của chiếc áo choàng đồng phục màu xanh của lính kỵ binh Hoa Kỳ. Hắn cầm một thanh kiếm gãy rỉ sắt giữa những ngón tay trơ xương của mình. Khi hắn quay đầu nhìn thẳng vào họ, những cái xương nơi hộp sọ gãy kêu răng rắc.
“Thuật gọi hồn,” Flamel thở ra. “Dee đã vực dậy những xác chết.”
Một dáng hình khác hiện ra thình lình từ màn sương: đó là cơ thể một phần được bọc kín như xác ướp của một người đàn ông cầm trên tay một cây búa đường xe lửa to vật vã. Đằng sau hắn là một gã người chết khác có làn da trông như da thuộc. Một cặp dây đeo súng bằng da quắt queo cột xệ xuống băng qua hông hắn và khi nhìn thấy bộ ba Flamel hắn vội mò tay tìm những cây súng bị mất bằng những ngón tay xương xẩu.
Sophie đứng tê liệt vì choáng váng, và làn gió tắt lịm dưới những ngón tay cô. “Bọn chúng là những xác chết,” cô thì thầm. “Các bộ xương. Xác ướp. Tất cả bọn chúng đều đã chết.”
“Ừm,” Scathach nói ra sự thật trần trụi, “những bộ xương và những xác ướp. Nó tùy thuộc vào loại đất mà bọn chúng được chôn xuống. Với đất ẩm, bạn sẽ có những bộ xương.” Cô bước tới trước và quét một đường nhị khúc hất văng đầu của một “tay súng oai hùng” khác, lúc đo đang cố gắng nâng cao cây súng trường lên trên vai. “Đất khô thì bạn sẽ có xác ướp. Dù sao đi nữa thì loại đất gì cũng không hề ngăn cản chúng từ việc tấn công bạn.” Bộ xương kỵ binh vung thanh kiếm rỉ sét về phía cô và cô đưa của mình lên đỡ. Thanh kiếm rỉ của hắn vỡ vụn ra thành bụi. Thanh kiếm của Scatty lại vung lên lần nữa và chặt lìa đầu của hắn ra khỏi cổ, và cơ thể hắn lập tức đổ sụp xuống trên mặt đất.
Mặc dù những dáng hình lóng ngóng kia chuyển động trong im lặng hoàn toàn, xung quanh vang lên đầy những tiếng gào thét. Và mặc dù mọi người chìm khuất làn sương mù bao bọc, nỗi kinh hoàng và kiếp sợ khủng khiếp vang lên thật rõ ràng trong những tiếng rú thất thanh. Những người dân bình thường của Ojai đã nhận ra rằng những xác chết đang đi lảng vảng trên những con đường của thị trấn.
Làn sương giờ đây dày đặc những sinh vật. Chúng đến từ mọi phía, vây quanh bộ ba Flamel, ép họ ra chính giữa đường. Khi màn sương mù ẩm ướt ngày càng xoắn cuộn và tràn ngập, càng lúc càng có nhiều xác ướp và xác chết vụt hiện ra trong màu trắng lờ mờ: những người lính trong bộ quân phục tả tơi màu xanh và màu xám của thời Nội chiến, những nông dân ăn mặc rách rưới quê mùa, những tay cao bồi mặc đồ Jeans bạc phếch sờn rách, những người phụ nữ váy quét dài lê thê nay đã xơ xác mốc meo, những người thợ mỏ mặc những chiếc quần ống túm bằng da hoẵng cũ rích thấy rõ cả đường chỉ.
“Hắn đã nạo vét hết cả một nghĩa địa trên đồi của một trong những thị trấn bị bỏ hoang từ lâu,” Scatty la lên, đứng xoay lưng lại với Sophie, thanh kiếm múa xung quanh để dẹp loạn. “Chẳng có xác chết nào ở đây mặc áo quần may từ sau năm 1880.” Hai bộ xương phụ nữ, đều đội những chiếc mũ có buộc dây hợp màu nhau cũng những mảnh rách rưới còn lại của trang phục đẹp nhất ngày Chủ Nhật đang dò dẫm trên đôi bàn chân xương xẩu băng qua đại lộ Ojai hướng thẳng về phía Scatty, những cánh tay chúng vươn ra đầy đe dọa. Thanh kiếm của Scatty xoay tròn quanh người cô, chặt đứt những cánh tay xương, nhưng thậm chí những lát cắt đó vẫn không làm hai bộ xương giảm tốc độ. Cô nhét nhị khúc vào thắt lưng và rút ra thanh kiếm còn lại. Cô tấn công lần nữa, hai thanh kiếm ghép thành hình chữ X giữa không trung, và chặt phăng cả hai cái đầu sọ khiến cho hai bộ xương loạng choạng té ra sau làn sương mù. Hai khung xương đổ sụp xuống thành những đống xương lộn xộn.
“Josh,” Sophie gọi to, giọng cô nghe thất thanh trong nỗi tuyệt vọng. “Josh. Em đang ở đâu?” Có lẽ những xác ướp và bộ xương đã tấn công cậu đầu tiên. Có lẽ cậu đang hiện ra lờ mờ trong màn sương vào bất cứ lúc nào đôi mắt trống rỗng và trân trối; đầu quay đi một cách vụng về. Cô lắc đầu, cố gắng xua tan đi những ý nghĩ u ám.
Hai bàn tay của Flamel tỏa sáng ngọn lửa màu xanh lá cây lạnh lẽo và màn sương ẩm ướt tràn ngập mùi bạc hà. Ông búng ngón tay kêu tanh tách và phóng ra một ngọn lửa thẳng vào màn sương trắng. Lớp sương dày đặc bừng lên màu ngọc lục bảo và màu ngọc xanh biển, nhưng mặt khác ma thuật của ông không gây ra một hiệu quả đáng kể nào. Flamel tung ra một quả bóng màu xanh lá cây tiếp theo ngay tới trước hai bộ xương lắc lư đang lờ mờ hiện ra trước mặt ông. Một ngọn lửa bùng lên xuyên qua hai bóng hình gầy gò đó, nướng giòn những mảnh còn lại của bộ đồng phục liên minh của chúng. Chúng tiếp tục tiến tới, những khúc xương kêu lọc cọc trên đường, càng lúc càng sát gần ông hơn, và sau lưng chúng có đến hàng trăm bộ xương nữa đang đi tới.
“Sophie, đi tìm Bà Phù thủy! Chúng ta cần sự giúp đỡ của bà ấy.”
“Nhưng bà ấy không thể giúp chúng ta,” Sophie nói một cách tuyệt vọng. “Bà ấy không thể làm được gì nữa. Bà ấy đã cạn kiệt sức lực: bà đã trao hết tất cả năng lượng cho cháu rồi.”
“Tất cả năng lượng?” Flamel nói hổn hển, hụp người xuống phía dưới một nắm tay đang đu đưa. Ông đặt tay vào giữa lồng ngực của xác chết và ấn mạnh, đẩy lùi bộ xương vào đám đông lố nhố phía sau, nơi nó rơi xuống thành một đống xương lộn xộn. “Vậy thì, Sophie cháu làm một cái gì đi!”
“Làm gì?” cô la lên. Cô có thể làm gì để chống lại một đội quân của những kẻ không thể chết? Cô chỉ là một nữ sinh mười lăm tuổi.
“Bất cứ cái gì!”
Một cánh tay xác ướp vươn ra từ sương mù và bóp lấy đôi vai Sophie. Nó giống như là một cái khăn tắm vắt lên vai cô vậy.
Nỗi sợ hãi và giận dữ đã mang đến sức mạnh cho cô. Dù sao trong chính giây phút này, cô không thể nhớ rõ bất cứ điều gì mà Bà Phù thủy đã dạy cho cô, nhưng bản năng của cô - hoặc có lẽ là kiến thức truyền đạt của Bà Phù thủy - đã trỗi dậy. Cô để cho cơn giận dữ dâng tràn trong luồng điện của mình. Đột nhiên không khí tràn ngập mùi kem vanilla khi luồng điện của Sophie rực sáng lên những tia bạc tinh khiết. Đặt lòng bàn tay phải áp vào mặt, cô thổi các ngón tay đang khum lại, rồi tung hơi thở vừa được nén lại vào giữa những xác chết. Một cơn gió lốc cao gần hai mét, một cơn bão xoáy nhỏ, vụt mọc lên từ mặt đất. Nó hút lấy những xác chết gần nhất vào trong lõi bão, nghiền nát và bẻ vụn các mảnh xương của chúng, rồi ném ra các mảnh xương vụn. Sophie tung ra quả bóng thứ hai và rồi quả bóng thứ ba. Ba trận cuồng phong nhảy múa tung hoành giữa các bộ xương và xác ướp, giáng những vết cắt đầy sức hủy diệt qua chúng. Cô nhận thấy rằng mình có thể điều khiển hướng của các cơn lốc xoáy chỉ đơn giản bằng cách nhìn vào một hướng riêng biệt, và chúng sẽ tuân lệnh thổi về hướng đó.
Thình lình giọng nói của Dee vọng tới giữa lớp sương mù. “Ông có thích đội quân của tôi không, Nicholas?” Làn sương cán mỏng âm thanh giọng nói, khiến cho không thể nào nhận ra nó vọng đến từ đâu. “Lần cuối cùng tôi ở Ojai, ồ đã hơn một trăm năm trước, tôi phát hiện ra một nghĩa địa tuyệt diệu nho nhỏ chỉ ngay phía dưới Mỏm Núi Ba Chị Em Gái. Thị trấn xung quanh nghĩa địa đã biến mất, nhưng những ngôi mộ và những gì chứa đựng trong nó thì vẫn còn.”
Flamel đang điên cuồng đánh nhau với những nắm đấm, ngón tay cào cấu, chân đá loạn xà ngầu của đội quân. Thực tế, những quả đấm hay cái tát của các bộ xương hay xác ướp không có sức mạnh ghê gớm nào, nhưng nếu như chúng thiếu đi sức mạnh của vũ lực thì chúng bù đắp lại điều đó bằng số đông. Đơn giản là quá đông, quá nhiều. Một vết thâm tím bắt đầu sẫm màu phía dưới mắt ông và có một vết cào dài khác dọc theo mặt sau của bàn ta ông. Scatty chuyển động xung quanh Sophie, bảo vệ cô trong khi cô điều khiển những cơn lốc xoáy.
“Tôi không biết là cái nghĩa địa đó tồn tại bao lâu. Rất có thể đã vài trăm năm. Tôi không biết có tất cả bao nhiêu xác chết. Hàng trăm, thậm chí có thể hàng nghìn. Và, Nicholas, tôi đã kêu gọi tất cả bọn chúng.”
“Hắn ở đâu?” Flamel nói rít qua kẽ răng. “Hắn phải đang ở gần đây, rất gần, để có thể điều khiển số lượng xác chết này. Nếu tôi biết hắn đứng ở đâu tôi có thể dùng ma thuật của mình chống lại hắn.”
Sophie cảm thấy một cơn kiệt sức ùa đến và đột ngột, một trong ba cơn lốc xoáy ngả nghiêng và tắt lịm. Hai cơn lốc còn lại lắc lư hết bên này sang bên kia trong khi sức lực của Sophie suy yếu dần. Một cơn lốc nữa tan biến và cơn còn lại nhanh chóng mất đi sức mạnh. Sự kiệt sức này là cái giá phải trả cho việc dùng ma thuật, cô nhận ra. Nhưng cô cần phải cầm cự thêm một lúc nữa; cô phải tìm ra em trai mình.
“Chúng ta phải rời khỏi đây.” Scathach nắm lấy Sophie và kéo cô về bên tay phải. Những bộ xương ào lên và Scathach đánh lui chúng bằng những đường kiếm chính xác, gọn gàng.
“Josh,” Sophie thì thầm rời rạc. “Josh đang ở đâu? Chúng ta phải tìm ra Josh.”
Làn sương mù đã cướp đi nhiều cảm xúc trong giọng nói của Dee, nhưng vẻ hân hoan trong giọng nói của hắn nghe thật rõ ràng khi hắn lên tiếng. “Và ông có biết là tôi tìm thấy cái gì nữa không? Những ngọn núi này đã thu hút rất nhiều sinh vật còn hơn cả con người trong thiên niên kỷ vừa qua. Đất đai ở đây tràn ngập xương. Hàng trăm bộ xương. Và hãy nhớ cho Nicholas, tôi, trước hết và trên hết, là một thầy đồng gọi hồn.”
Con gấu lờ mờ hiện ra trong màn sương xám cao ít nhất hai mét rưỡi. Và mặc dù vẫn còn có những mảng lông còn bám trên bộ xương của nó, rõ ràng là nó đã chết từ lâu. Bộ xương trắng phếu làm nổi bật lên móng vuốt đồ sộ sắc như dao găm.
Sau lưng con gấu, là bộ xương của một con hổ răng kiếm. Và rồi một con báo sư tử, và một gấu khác, lần này nhỏ hơn và cũng chưa phân hủy hết.
“Một lời của tôi sẽ làm chúng dừng lại,” giọng nói của Dee vang lên. “Tôi muốn những trang sách còn lại của cuốn Codex.”
“Không,” Flamel nói đanh thép. “Hắn đang ở đâu? Hắn đang ẩn núp ở đâu?”
“Em trai tôi đang ở đâu?” Sophie la lên tuyệt vọng và rồi thét lên khi có một bàn tay xác chết quấn chặt lấy tóc cô. Scathach ném lìa nó rời khỏi cổ tay, nhưng nó vẫn treo lủng lẳng trên tóc Sophie như một cái kẹp tóc quái dị. “Ông đã làm gì em trai tôi?”
“Em trai cô đang phân vân suy nghĩ. Cô cũng không phải là phe phái duy nhất trong cuộc chiến này. Và giờ đây, khi mà ta đã có thằng bé, tất cả ta cần là những trang sách.”
“Không bao giờ.”
Con gấu và hổ vượt qua đám đông xác chết, gạt chúng qua một bên, giẫm lên chúng để hăm hở tấn công bộ ba Flamel. Con hổ răng kiếm tiến tới họ đầu tiên. Cái đầu trơ xương trắng hếu của nó to kềnh và hai cái răng nhô ra chĩa xuống dưới dài ít nhất là hai mươi cen-ti-mét. Flamel đứng chắn ngang giữa Sophie và con hổ.
“Đưa mấy trang sách đây Nicholas hay là tôi sẽ thả những con quái vật không thể chết này vào ngập tràn thị trấn.”
Nicholas tìm kiếm điên cuồng câu thần chú có thể làm mấy con vật kia ngừng lại. Ông ân hận một cách cay đắng là mình đã không học thêm nhiều ma thuật. Ông búng ngón tay tanh tách và một quả bóng sáng nhỏ dội xuống mặt đất ngay trước mặt con hổ.
“Đó có phải là tất cả những gì ông có thể xoay xở hả, Nicholas? A, ông đang yếu sức dần.”
Bong bóng nhỏ vỡ tung và để lại một vết xanh màu ngọc lục bảo kéo dài trên mặt đất.
“Hắn ở gần đủ để nhìn thấy chúng ta,” Nicholas nói. “Tất cả những gì tôi cần đó là một hình ảnh thoáng qua của hắn.”
Những móng vuốt kềnh càng trên chân phải phía trước của con hổ xương xẩu giẫm vào vệt sáng màu xanh. Và dính chặt ở đó. Nó cố gắng nhấc chân lên, nhưng những sợi xanh lép nhép đã dính chân nó xuống mặt đường. Và giờ thì đến lượt chân trái của nó giẫm vào vùng ánh sáng xanh và mắc kẹt ở đó.
“Không đến nỗi yếu lắm, Dee há?” Flamel hét to.
Những áp lực từ những xác chết phía sau con hổ đã ép đẩy nó về phía trước. Thình lình, những cái chân xương xẩu của nó vỡ răng rắc, đẩy bật những quái vật phía sau tiến lên phía trước. Flamel cố gắng vươn cánh tay ra phía trước khi một con quái vật đổ nhào lên trên ông, quai hàm há ra, hàm răng mở rộng hung dữ.
“Tạm biệt Nicholas Flamel,” Dee nói lớn. “Tôi sẽ chỉ việc lấy những trang sách từ người ông.”
“Không,” Sophie thì thầm, “không, chuyện không thể kết thúc như thế này được.” Cô đã được Đánh thức và Phù thủy Endor đã truyền đạt cho cô tất cả kiến thức của bà. Phải có một điều gì đó mà cô có thể làm. Sophie mở miệng ra và hét lớn, luồng điện bạc của cô bừng sáng nóng rực.
Dạ Phong
15-12-2010, 03:55 AM
Chương 39
Josh tỉnh dậy, tiếng thét của chị gái vang lên bên tai cậu.
Phải vài giây sau cậu mới nhận ra mình đang ở đâu: cậu đang ngồi bên bờ của đài phun nước ở công viên Libbey, trong khi xung quanh cậu là một làn sương trắng dày đặc, hôi hám trông bồng bềnh cuồn cuộn. Lúc nhúc xung quanh Josh là những bộ xương và xác ướp hiện lên mờ mờ trong những áo quần rách nát.
Sophie!
Cậu phải chạy đến chỗ chị mình. Bên tay phải cậu, ngay giữa làn sương đen xám, những tia sáng xanh và bạc lóe lên, chiếu sáng những hình dáng khủng khiếp, ghê rợn. Sophie đang ở đó, với cả Flamel và Scathach, họ đang chiến đấu chống lại những con quái vật kia. Cậu phải đến bên cạnh họ.
Cậu run rẩy đứng lên và khám phá ra Tiến sĩ John Dee đang đứng ngay trước mặt mình.
Một luồng điện màu vàng xanh xao phủ quanh Dee. Nó lóe sáng và kêu xì xì như mỡ sôi và tỏa mùi trứng thối nồng nặc. Người đàn ông đang xoay lưng lại phía Josh. Hắn đang tì cả hai cánh tay lên bức tường đá thấp dọc theo vòi phun nước mà Josh đã quỳ xuống uống nước trước đó. Dee đang đứng nhìn chằm chằm vào những sự kiện nổ ra trên đường, tập trung cao độ đến mức hắn run lên vì nỗ lực điều khiển đội quân dường như là vô tận các bộ xương và xác ướp đang loạng quạng lê qua trước mặt. Giờ đây khi đã đứng thẳng dậy trên hai chân Josh chú ý thấy rằng còn có thêm nhiều sinh vật khác trong lớp sương mù. Cậu có thể nhìn thấy những bộ xương của những con gấu con cọp, mèo núi và chó sói.
Cậu nghe thấy Flamel hét lớn và Sophie thét lên và ý nghĩ đầu tiên của cậu đó là chạy xô vào Dee. Nhưng cậu nghi ngờ không biết liệu cậu có thể đến gần hắn hơn không. Cậu có thể làm gì để chống lại tay phù thủy hùng mạnh này? Cậu không giống như chị sinh đôi của mình: cậu không có năng lượng.
Nhưng điều đó không có nghĩa là cậu là một kẻ vô tích sự.
[center:38xfjchk]++++++++++++++++++[/center:38xfjchk]
Tiếng thét của Sophie làm tung ra một làn sóng nén có biên độ rộng lạnh buốt và nó bẻ vụn con hổ răng kiếm ra thành bụi và xô ngã những bộ xương gần nhất. Con gấu đâm sầm xuống đất, đè nát luôn cả tá bộ xương phía dưới tầm vóc đồ sộ. Luồng khí cũng xé tan một mảng lớn sương mù, và lần đầu tiên, Sophie nhận ra tầm cỡ của mối hiểm họa mà họ đang đối mặt. Không phải là hàng chục hay hàng trăm, mà là hàng nghìn xác chết đang hành quân trên đường thẳng tiến về phía họ. Nổi lên giữa đám đông những tử thi di động đó là phần còn lại của những con thú đã tung hoành ngang dọc qua những dãy núi hàng thế kỷ. Cô không biết mình còn có thể làm gì nữa. Lần sử dụng ma thuật cuối cùng đã làm cô kiệt sức và cô đổ hẳn người vào Scathach nãy giờ vẫn đang dìu cô bằng tay trái, trong khi tay phải cầm kiếm đánh nam dẹp bắc.
Flamel đứng dậy một cách mệt mỏi trên đôi chân. Việc dùng ma thuật của chính mình đã hút cạn năng lượng dự trữ của ông và thậm chí trong vài phút vừa qua ông đã già đi. Những nếp nhăn quanh mắt ông sâu hơn, mái tóc ông mỏng hơn. Scathach biết là ông không thể cầm cự lâu hơn được nữa.
“Đưa cho hắn ta mấy trang sách đi, Nicholas,” cô thúc giục.
Ông lắc đầu một cách cứng cỏi. “Tôi sẽ không đưa đâu. Tôi không thể đưa được. Tôi đã bỏ ra cả đời mình để bảo vệ cuốn sách.”
“Rút lui là thượng sách,” cô nhắc nhở ông.
Ông lắc đầu. Flamel uốn cong người, thở những hơi mệt nhọc. Làn da của ông xanh xao một cách chết chóc, hai đốm đỏ khác thường hiện lên trên hai má ông. “Đây là trường hợp ngoại lệ, Scathach. Nếu tôi đưa những trang sách cho hắn, có nghĩa là tôi đã kết án tất cả chúng ta, cả Perry nữa, và toàn bộ thế giới này, vào sự diệt vong.” Ông vươn thẳng người và đối mặt với các sinh vật mà tất cả họ đều biết đây sẽ là lần cuối cùng. “Cô có thể đem Sophie ra xa khỏi đây không?”
Scathach lắc đầu. “Tôi không thể vừa đánh bọn chúng vừa đem cô bé đi được.”
“Cô có thể tự mình chạy thoát được không?”
“Tôi có thể chiến đấu để mở đường,” cô nói một cách thận trọng.
“Vậy thì đi đi, Scatty. Trốn thoát đi. Hãy tìm tới các Elder khác, liên lạc với những con người bất tử, nói cho họ biết những gì đang xảy ra ở đây, và bắt đầu cuộc chiến chống lại bọn Elder Đen tối trước khi quá muộn.”
“Tôi sẽ không bỏ mặc ông và Sophie ở đây đâu,” Scathach nói kiên quyết. “Chúng ta đã luôn bên nhau và sẽ sát cánh cho đến khi kết thúc. Dù cho bất kỳ chuyện gì xảy ra đi nữa.”
“Đã đến lúc phải chết rồi, Nicholas Flamel,” Dee hét to xuyên qua lớp sương mờ. “Ta chắc chắn sẽ kể cho Perenelle nghe khoảnh khắc này đến từng chi tiết.”
Một làn sóng sột soạt thổi qua biển người-bộ-xương và xác thú, và rồi, cùng một lúc, chúng dâng lên phía trước.
Và một con quái vật hiện ra từ đám sương mù.
To lớn và đen trũi, rú lên hoang dại, với đôi mắt thô lố màu trắng vàng và hàng chục con mắt nhỏ hơn đang rực sáng, nó xộc thẳng băng qua vòi phun nước của công viên Libbey, nghiền nát nó thành bụi, đập vỡ tan những chiếc bình chạm trổ đẹp đẽ và chúi thẳng về phía Tiến sĩ John Dee.
Thầy đồng gọi hồn tìm cách quăng mình săng một bên trước khi chiếc Hummer màu đen đâm thẳng vào tường, nghiền nó ra thành bụi. Nó chúi mũi vào phần còn lại của bức tường, các bánh sau lơ lửng trên không khí, máy xe gầm rú dữ dội. Cửa xe bật mở và Josh trèo ra khỏi xe, cẩn thận cúi sát người xuống đất. Cậu đang ôm ngực nơi bị sợi dây an toàn cọ sát vào.
Đại lộ Ojai ngổn ngang tàn tích của tử thi lâu ngày. Không có sự điều khiển của Dee, chúng chỉ là vô số những bộ xương.
Josh loạng choạng bước ra đường chính và len lách qua những bộ xương, khúc xương và những mảnh vải rách rưới. Có một cái gì đó kêu lạo xạo dưới chân nhưng cậu thậm chí không nhìn xuống.
[center:38xfjchk]++++++++++++++++++[/center:38xfjchk]
Đột nhiên đội quân xác chết tan biến.
Sophie không biết chuyện gì đã xảy ra. Có một tiếng gầm dữ dội vang lên, một âm thanh dữ dội của kim loại bị tra tấn và một chuỗi âm thanh lạo xạo của đá vỡ và rồi im lặng hoàn toàn. Và giữa sự im lặng đó, những xác chết đội mồ sống dậy bỗng ngã gục xuống như đám cỏ ngã rạp mình trong làn gió. Dee đang triệu tập cái gì đến nữa đây?
Một bóng hình chuyển động trong làn sương cuộn xoáy.
Flamel tập trung toàn bộ năng lượng cuối cùng của mình thành một hình cầu thủy tinh màu xanh lá cây. Sophie đứng thẳng dậy và cố gắng huy động chút ít năng lượng còn sót lại trong cô. Scathach uốn cong những ngón tay. Cô đã từng được cho biết là cô sẽ chết ở một nơi xa lạ - ở nước ngoài; cô thắc mắc không biết Ojai ở quận Ventura này có đủ tiêu chuẩn gọi là “kỳ lạ, xa lạ” hay chưa.
Hình bóng hiện ra gần hơn.
Flamel giơ tay lên cao, Sophie tập trung các ngọn gió và Scathach vung cao thanh kiếm. Josh bước ra từ màn đêm. “Em đã phá hỏng chiếc xe rồi,” cậu nói.
Sophie reo lên vui sướng. Cô chạy tới bên em trai và rồi tiếng reo của cô trở thành tiếng rú kinh hoàng. Con gấu ma đã chồm dậy từ mặt đất phía sau cậu, móng vuốt giơ lên cao để tấn công.
Scathach chuyển động, đẩy Josh qua một bên và xô cậu ngã vào chỗ đống xương lộn xộn. Những thanh kiếm của Scathach gạt mạnh cú đấm quyết định của con gấu, những tia sáng lóe lên trong màn sương. Cô tấn công lần nữa, và một cái móng vuốt gấu dài bằng bàn tay cô bay vèo trong không khí.
Từng bộ xương thú lần lượt đứng lên trên những đôi chân. Hai con chó sói lớn, một con trơ xương, một con lủng lẳng vài miếng thịt, hiện ra trong màn sương.
“Lối này. Đây! Đi lối này.” Giọng nói của Bà Phù thủy vang vọng trên con đường, và một khung sáng hình chữ nhật của một cánh cửa vừa mở ra nổi bật trong đêm tối. Vơi Scatty đỡ lấy Flamel và Josh gần như giữ lấy chị gái mình, họ chạy băng qua đường thẳng vào cửa tiệm. Phù thủy Endor đang đứng nơi ngưỡng cửa, nhìn mò mẫm vào bóng đêm, tay bà giơ cao một chiếc đèn lồng kiểu cũ thắp bằng dầu. “Chúng tôi sẽ giúp các bạn ra khỏi đây.” Bà đóng cửa lại và cài chốt. “Cái này sẽ không giữ chân chúng lâu đâu,” bà lầm bầm.
“Bà nói là….bà nói là bà không còn chút sức mạnh nào sót lại trong người,” Sophie thì thầm.
“Ta không còn.” Dora mỉm cười, để lộ hàm răng trắng đều đặn. “Nhưng nơi này thì còn”. Bà dẫn họ đi xuyên qua cửa tiệm vào một căn phòng nhỏ phía sau. “Các bạn có biết cái gì làm cho Ojai trở nên đặc biệt không?” bà hỏi.
Một vật gì đó thoi mạnh vào cửa tiệm và tất cả đồ thủy tinh trong tiệm rung rinh và kêu leng keng.
“Nó được xây trên chỗ giao nhau của những tuyến năng lượng.”
Josh mở miệng và thực sự đã tạo thành chữ “tuyến năng lượng” trên môi thì chị gái lên tiếng. “Những đường kẻ năng lượng đan chéo nhau trên quả địa cầu,” Sophie thì thầm vào tai cậu.
“Làm sao chị biết được điều đó?”
“Chị đâu có biết; chị đoán là Bà Phù thủy đã dạy cho chị. Rất nhiều tòa nhà nổi tiếng và dãy nhà cổ trên thế giới được xây dựng trên những nơi mà các đường kẻ năng lượng giao nhau.”
“Chính xác,” Dora nói, nghe có vẻ hài lòng, “ngay chính ta cũng không thể giải thích hay hơn.” Căn buồng nho nhỏ hầu như trống trơn trừ một hình chữ nhật dựng sát vào bức tường, trên bề mặt phủ một ấn bản của tờ Ojai Valley Times.
Nhiều nắm đấm làm rung lắc cửa sổ của tiệm đồ cổ, âm thanh của xương va vào thủy tinh với những hàm răng cắn chặt vào rìa cửa nghe thật rùng rợn.
Dora phủi tờ báo xuống đất để lộ ra một tấm gương. Nó cao khoảng hai mét, rộng một mét hai, mặt kính bụi bặm, lốm đốm và bị bẻ cong, những hình ảnh trên đó hơi méo mó và mờ nhòe. “Và các bạn có biết cái gì đã khiến cho tôi chọn Ojai làm nơi sinh sống không?” bà hỏi. “Bảy đường năng lượng cực mạnh gặp nhau ở đây. Chúng tạo thành một cổng tuyến năng lượng.”
“Ở đây ư?” Flamel thì thầm. Ông biết về các tuyến kẻ năng lượng và từng nghe về những cổng tuyến năng lượng nơi mà những người cổ đại đã dùng chúng để di chuyển vòng quanh thế giới chỉ trong tích tắc. Ông đã không hề nghĩ là còn bất kỳ “cổng tuyến” nào còn tồn tại.
Dora lấy chân giẫm nhẹ trên mặt đất. “Ngay đây. Và ông biết cách xài cổng tuyến chứ?”
Flamel lắc đầu.
Dora quay sang Sophie. “Đưa bàn tay cho ta, cô bé.” Bà Phù thủy nắm lấy tay Sophie và áp nó vào tấm gương. “Dùng một tấm gương.”
Tấm gương lập tức trở nên sáng chói, mặt kính lóe lên ánh bạc và rồi trong vắt. Khi họ nhìn vào tấm gương, nó không còn phản chiếu hình ảnh của họ nữa, mà cho thấy hình ảnh của một căn hầm.
“Đó là nơi nào vậy?” Flamel hỏi.
“Paris,” Dora nói.
“Nước Pháp,” ông mỉm cười. “Nhà tôi.” Và không chút ngần ngừ, ông bước thẳng vào tấm gương. Bây giờ họ có thể nhìn thấy ông ở trong gương. Ông quay lại và đưa tay vẫy họ.
“Tôi ghét cổng tuyến,” Scatty lẩm bẩm. “Nó làm tôi muốn ói.” Cô nhảy qua cánh cổng và chạy đến đứng bên cạnh Flamel. Khi cô quay lại nhìn cặp sinh đôi, có vẻ như cô đang sắp sửa nôn mửa thật.
[center:38xfjchk]++++++++++++++++++[/center:38xfjchk]
Con gấu ma xương xẩu kéo lê người ầm ầm qua cánh cửa tiệm đồ cổ, giật phăng chốt cửa. Rồi những con chó sói và báo sư tử theo chân nó. Những đồ thủy tinh va vào nhau loảng xoảng, gương vỡ, những đồ vật trang hoàng lộng lẫy vỡ nát tan tành khi những con thú ì ạch đi quanh cửa tiệm.
Dee, mình mẩy thâm tím và trầy trụa, chạy vào trong cửa tiệm, hắn đẩy những con quái vật sang một bên. Một con báo sư tử táp lấy hắn và hắn tát mạnh vào mõm nó. Nếu nó có mắt, hẳn nó sẽ chớp mắt vì kinh ngạc.
“Bị mắc kẹt,” hắn kêu lên hoan hỉ. “Bị mắc kẹt và chẳng biết đi đâu nữa nhé!”
Nhưng khi hắn bước vào căn buồng kho, hắn biết họ đã thoát khỏi tay hắn thêm một lần nữa. Hắn mất khoảng một nhịp tim để chụp lấy cái gương cao, hai hình người trong gương nhìn chăm chú ra ngoài, một bà già đứng bên cạnh cô gái, ấn bàn tay bà vào mặt gương. Thằng bé đứng một mình, tay nắm lấy khung gương. Dee biết ngay lập tức đó là cái gì. “Một cổng tuyến năng lượng,” hắn thì thầm trong nỗi kính sợ. Những tấm gương luôn luôn có vai trò như những cánh cổng.
Đâu đó ở phía cuối đường kẻ năng lượng là một tấm gương khác nối kết họ.
Bà lão nắm lấy cô gái và xô cô vào trong gương. Sophie vấp té xuống mặt đất ngay dưới chân Flamel, rồi lồm cồm bò dậy và ngoái nhìn ra sau. Miệng cô mấp máy, nhưng không có âm thanh nào vang lên, “Josh.”
“Josh,” Dee ra lệnh, mắt nhìn trừng trừng vào cậu bé, “hãy đứng yên ở chỗ em đang đứng.”
Cậu bé quay lại nhìn gương. Hình ảnh trong gương đã mờ nhòe.
“Ta đã nói cho em nghe sự thật về Flamel,” Dee nói gấp gáp. Tất cả những gì hắn phải làm là làm cho thằng bé bị phân tán tinh thần trong một vài giây và tấm gương sẽ mất đi sức mạnh của nó. “Hãy ở lại với ta. Ta có thể Đánh thức em. Làm cho em trở nên mạnh mẽ khác thường. Em có thể giúp làm thay đổi thế giới, Josh. Thay đổi làm cho nó trở nên tốt đẹp hơn!”
“Tôi không biết….” Lời đề nghị nghe thật hấp dẫn, quá hấp dẫn. Nhưng cậu biết rằng nếu như cậu đứng về phía Dee cậu sẽ mất luôn người chị gái của mình. Hay là cậu sẽ đi với hắn? Nếu như Dee Đánh thức cậu, thì hai chị em cậu sẽ lại giống như nhau như trước. Có lẽ đó là một cách để tái kết nối với chị mình.
“Nhìn xem,” Dee nói đắc thắng với ngón tay chỉ vào hình ảnh đang mờ dần trong tấm gương, “họ đã rời bỏ em, bỏ rơi em một lần nữa, bởi vì em không phải là một trong số họ. Em không còn quan trọng nữa….”
Tấm gương lóe lên ánh sáng bạc…..và Sophie bước ra từ tấm gương. “Josh? Lẹ lên,” cô nói khẩn thiết không nhìn Dee.
“Em….”cậu bắt đầu. “Chị đã trở lại vì em.”
“Tất nhiên là vậy rồi! Em là em sinh đôi của chị, Josh Newman. Chị sẽ không bao giờ bỏ rơi em.” Rồi, nắm lấy tay cậu, luồn những ngón tay mình trong tay cậu, cô đẩy cậu vào tấm gương.
Và Dora xô tấm gương xuống cho nó vỡ tan tành trên sàn nhà. “Húp.” Bà quay lại đối mặt vơi Dee và cởi cặp kính đen để lộ đôi mắt làm bằng kính. “Mi nên ra khỏi đây ngay bây giờ. Mi có khoảng ba giây.”
Dee chưa kịp ra hẳn khỏi cửa tiệm thì nó đã phát nổ.
Dạ Phong
15-12-2010, 04:54 PM
Chương 40
CÔNG TY ĐIỆN ẢNH GÂY LỘN XỘN Ở “PHIM TRƯỜNG” OJAI
Bộ phim mới nhất trong hàng loạt các bộ phim kinh dị của Enoch Studios đã gây ra tình trạng giao thông lộn xộn và rối loạn nơi trung tâm của Ojai ngày hôm qua. Các hiệu quả đặc biệt có một chút gì đó “quá thực” đối với một số người dân địa phương và những dịch vụ Cấp cứu tràn ngập những cú điện thoại từ những người tuyên bố rằng có nhiều xác chết đang đi lảng vảng trên các nẻo đường.
Trong một tai nạn có liên quan, một tài xế say rượu đã đâm xe mạnh vào vòi phun nước ở công viên lịch sử Libbey và giàn dây leo vừa mới phục hồi dạo gần đây.
John Dee, chủ tịch của Enoch Films, một đơn vị của Enoch Enterprises, đã hết lời xin lỗi về sự hỗn loạn, với lý do là sự cúp điện và một làn sương mù trái mùa đã tràn vào khi đoàn làm phim chuẩn bị quay một cảnh trong bộ phim mới của họ. “Những yếu tố ngoài dự tính này sẽ càng làm cho cảnh phim trông rùng rợn hơn,” người phát ngôn của ông ta cho biết. Dee đã hứa là sẽ phục hồi vòi phun nước và giàn dây leo trở lại vẻ đẹp lộng lẫy như trước.
Ojai Valley News
CỬA TIỆM ĐỒ CỔ ĐỊA PHƯƠNG BỊ NỔ TUNG
Một vụ nổ hơi đốt đã hủy hoại cửa tiệm của công dân lâu đời của Ojai, bà Dora Witcherly vào giờ khuya tối hôm qua. Một sự kiện về điện đã xảy ra làm bốc cháy các chất dung môi mà bà chủ tiệm thường sử dụng để lau chùi, đánh bóng và tu bổ lại các món đồ cổ của mình. Bà Witcherly đang ở trong căn buồng phía sau cửa tiệm khi vụ nổ xảy ra và đã bình an vô sự, và dường như bà không quan tâm lắm về cú viếng thăm của tử thần này. “Khi bạn sống lâu như tôi đã sống, không có gì làm cho bạn ngạc nhiên nhiều nữa.” Bà hứa là sẽ mở cửa tiệm trở lại vào mủa tới.
Dạ Phong
16-12-2010, 04:37 AM
Chương 41
Nằm sâu phía dưới Alcatraz. Perenelle Flamel nằm trên một cái cũi hẹp, khuôn mặt bà quay vào bức tường nằm phía sau của xà lim. Đằng sau lưng bà, nơi hàng lang bên ngoài, bà có thể nghe thấy tiếng con nhân sư liếm lách ca lách cách vào sàn đá lạnh lẽo, và không khí nồng nặc mùi xạ của rắn và sư tử. Perenelle run lên. Xà lim lạnh buốt, và những giọt nước màu xanh lục nhạt đang nhỏ giọt xuống bức tường gần sát với mặt bà.
Nicholas đang ở đâu?
Chuyện gi đang xảy ra?
Perenelle cảm thấy lo sợ, nhưng không phải lo chi bà. Sự thật là bà vẫn còn sống cho thấy Dee cần bà vì một điều gì đó, và không sớm thì muộn bà sẽ mặt đối mặt với hắn ta. Và nếu như Dee phạm một sai lầm, đó chính là sự kiêu căng khinh suất. Hăn sẽ đánh giá thấp bà….và khi đó bà sẽ tấn công! Có một câu thần chú hiểm ác đặc biệt mà bà đã học ở những ngọn đồi của rặng núi Carpathia ở Transylvania mà bà dành riêng cho hắn.
Nicholas đang ở đâu?
Bà lo lắng chi Nicholas và lũ trẻ. Bà khó mà có thể ước lượng được bao nhiêu thời gian đã trôi qua nhưng, bằng cách nghiên cứu những nếp nhăn xuất hiện nơi mặt sau của hai bàn tay, bà tin rằng bà đã già đi ít nhất là hai năm, như vậy có nghĩa là hai ngày đã trôi qua. Thiếu đi công thức bất tử bà và Nicholas sẽ già đi với tỉ lệ một năm là một ngày. Họ có không đầy một tháng trước khi họ không thể kháng cự tuổi già - rất rất già.
Và khi không có ai chống lại bọn chúng, Dee và những kẻ giống như hắn sẽ thả các Elder Đen tối vào thế giới loài người lần nữa. Mọi thứ sẽ rất hỗn loạn; nền văn minh sẽ sụp đổ.
Nicholas đang ở đâu?
Perenelle chớp mắt để xua tan đi những giọt lệ. Bà sẽ không ban cho con nhân sư sự nỗi hài lòng được thấy bà khóc thầm. Các Elder không có gì ngoài nỗi coi khinh những cảm xúc của con người; chúng xem đó là sự yếu đuối. Perenelle biết đó chính là điểm mạnh vĩ đại nhất của con người.
Bà chớp mắt lần nữa, và phải mất vài giây bà mới nhận ra những gì mình đang nhìn thấy.
Những giọt nước rơi hôi thối đang nhỏ giọt xuống bức tường dẫn cuộn xoáy và tạo thành những hoa văn. Bà tập trung, cố gắng đoán ra những gì mình đang thấy.
Chất lỏng uốn éo và cuốn xoáy thành hình một khuôn mặt Jefferson Miller, hồn ma của nhân viên bảo vệ. Những giọt nước tí tách chảy ngoằn ngoèo thành các con chữ trên bức tường lốm đốm rêu.
Flamel. Những đứa trẻ.
Những dòng chứ uốn bằng nước tồn tại ngắn hơn cả một nhịp tim đập trước khi chúng trôi đi.
An toàn.
Giờ đây Perenelle phải chớp mắt mạnh để nhìn cho rõ. Flamel và hai đứa trẻ đã an toàn!
Ojai. Cổng tuyến năng lượng. Paris.
“Cám ơn,” Perenelle mấp máy môi khi khuôn mặt của Jefferson Miller tan ra và chảy dài theo dòng nước xuống bức tường. Bà đã có rất nhiều câu hỏi - nhưng ít ra bây giờ bà đã có một vài câu trả lời: Nicholas và hai đứa trẻ an toàn. Họ rõ ràng là đã đến Ojai, và gặp Phù thủy Endor. Bà ta hẳn đã mở cổng tuyến năng lượng để đưa họ đến Paris, và rất có thể là Bà Phù thủy đã giúp đỡ họ và truyền dạy cho Sophie về Ma thuật của Không khí.
Perenelle biết là Bà Phủ thủy không có khả năng Đánh thức năng lượng tiềm ẩn của Josh - nhưng ở Paris và châu Âu có cả Elder và Người bất tử có thể giúp đỡ, Đánh thức Josh và huấn luyện cả hai chị em về Năm Ma thuật Cơ bản.
Bà cuộn tròn người và nhìn về phía con nhân sư, lúc này đang đứng lom khom bên ngoài xà lim của bà, cái đầu người nghỉ ngơi trên những móng vuốt sư tử, đôi cánh xếp gọn trên lưng. Sinh vật mỉm cười một cách lười biếng, cái lưỡi đen thui tòe ra rung rinh.
“Sắp tới hồi kết rồi, người bất tử,” con nhân sư thì thầm.
Nụ cười của Perenelle trông thật đáng sợ. “Ngược lại. Chuyện chỉ mới bắt đầu.”
Dạ Phong
17-12-2010, 05:55 AM
Bí mật của Nicholas Flamel bất tử
- Tập 2 -
The Magician - Pháp sư
http://i755.photobucket.com/albums/xx191/maianh_01/NXBTreNews_Full_13382009_093817.jpg
Tôi đang chết từ từ.
Perenelle cũng vậy, cũng đang cận kề cái chết.
Câu thần chú đã từng giữ cho chúng tôi sống sáu trăm năm qua đang biến dần đi, và bây giờ cứ mỗi ngày trôi qua là chúng tôi già đi cả một năm trời. Tôi cần Codex, cuốn sách của Pháp sư Abraham, để tái tạo lại câu thần chú bất tử; không có nó, chúng tôi chỉ còn sống chưa đầy một tháng nữa thôi.
Nhưng vẫn có thể làm được nhiều thứ trong một tháng sắp tới.
Dee và những chủ nhân đen tối của hắn đang giữ Perenelle thân yêu của tôi làm tù binh, cuối cùng chúng đã chiếm được cuốn sách, và chúng biết được rằng cả tôi và Perenelle đều không thể sống lâu hơn được nữa.
Nhưng chúng không thể nghỉ ngơi dễ dàng vậy được.
Bọn chúng chưa có được trọn vẹn cuốn sách. Chúng tôi vẫn đang giữ hai trang cuối, và từ nay chúng phải biết rằng Sophie và Josh Newman là cặp sinh đôi được mô tả trong văn bản cổ: cặp sinh đôi có luồng điện bạc và vàng, một cô chị và một cậu em có luồng năng lượng để hoặc là giải cứu thế giới…hoặc là hủy diệt nó. Năng lượng của cô bé đã được Đánh thức và con bé đã bắt đầu được huấn luyện những phép thuật cơ bản rồi, tuy nhiên, thật đáng buồn, cậu con trai thì chưa có gì hết.
Bây giờ chúng tôi đang ở Paris, thành phố nơi tôi sinh ra, thành phố nơi lần đầu tiên tôi khám phá ra cuốn Codex và từ đó bắt đầu cuộc nghiên cứu dai dẳng để diễn dịch nó ra. Cuộc hành trình đó ruốt cuộc đưa tôi khám phá ra sự tồn tại của giống loài Elder rồi phát hiện sự thần bí của hòn đá tạo ra vàng và cuối cùng là bí mật về sự bất tử. Tôi yêu thành phố này. Nó chứa bao điền bí mật và nó là mái nhà cho nhiều người bất tử và Elder cổ xưa. Nơi đây, tôi sẽ phải tìm cách Đánh thức năng lượng của Josh và tiếp tục việc huấn luyện Sophie.
Tôi phải làm cho kỳ được.
Với ích lợi của hai đứa nhỏ - và vì sự tồn tại của loài người.
Trích từ nhật ký của Nicholas Flamel, Nhà Giả Kim
Viết vào ngày hôm nay, thứ Bảy, ngày 2 tháng Sáu,
tại Paris, thành phố tôi đã sống thời tuổi trẻ
Dạ Phong
18-12-2010, 04:58 AM
Thứ Bảy, ngày 2, tháng Sáu
Chương một
Mãi tới sau nửa đêm, khi buổi hội tiệc ban chiều kết thúc thì cuộc đấu giá từ thiện mới được bắt đầu. Bây giờ đã gần bốn giờ sáng và buổi đấu giá chỉ mới đi đến hồi kết. Một màn hình kỹ thuật số đặt phía sau người điều khiển nổi tiếng – một diễn viên đã từng đóng vai James Bond trên màn ảnh suốt nhiều năm – cho thấy tổng số hiện có đang ở mức hơn một triệu euro.
“Lô số hai trăm mười: một đôi mặt nạ Kabuki của Nhật Bản đầu thế kỷ mười chín.”
Tiếng rì rầm sôi nổi lan khắp căn phòng chật ních người. Những chiếc mặt nạ Kabuki này được khảm bằng các mảnh ngọc bích hình khối, là điểm nổi bật của cuộc bán đấu giám và người ta mong đợi nó đem về hơn nửa triệu euro.
Ở cuối căn phòng một người đàn ông cao, gầy với mái tóc xoăn trắng như tuyết được cắt rất sát sẵn sàng trả gấp đôi con số đó.
Niccolò Machiavelli đứng tách ra khỏi số còn lại của đám đông, cánh tay khoanh hờ hững trước ngực, cẩn thận không làm nhăn bộ Savile Row – bộ lễ phục được cắt may bằng lụa đen. Đôi mắt xám như màu đá đảo khắp những người trả giá khác, phân tích và đánh giá họ. Thực sự ông ta chỉ cần dè chừng năm người: hai nhà sưu tập cá nhân giống như ông ta, một hoàng thân người châu Âu tuổi vị thành niên, một diễn viên điện ảnh người Mỹ nổi danh một thời và một tay buôn đồ cổ người Canada. Những khán giả còn lại một số đã mệt mỏi, một số đã sài sạch túi, hoặc chỉ miễn cưỡng trả giá cho mấy chiếc mặt nạ trông có phần hơi buồn khổ.
Machiavelli yêu thích mọi kiểu mặt nạ. Ông đã sưu tầm chúng từ rất lâu, và ông muốn có đôi mặt nạ đặc biệt này để hoàn tất bộ sưu tập y phục nhà hát Nhật Bản của mình. Nhưng chiếc mặt nạ này được đem bán gần đây nhất vào năm 1898 tại Vienna, rồi được một hoàng tử Romanov trả giá cao nhất. Machiavelli kiên nhẫn chờ đợi thời cơ, những chiếc mặt nạ có thể sẽ quay lại thị trường một lần nữa khi Hoàng tử và cấc hậu duệ của ông qua đời. Machiavelli biết mình vẫn còn quanh quẩn nơi đây để mua được chúng; đó là một trong nhiều lợi thế khi làm người bất tử.
“Chúng ta sẽ bắt đầu đấu giá ở mức một trăm ngàn euro nhé?”
Machiavelli nhìn lên, thu hút sự chú ý của người điều khiển về mình, và gật đầu.
Người điều khiển đợi ông ta chấp nhận giá và gật đầu đáp lại. “Tôi được Ông Machiavelli trả giá một trăm ngàn euro. Ông luôn luôn là một trong những nhà ủng hộ và tài trợ hào phóng nhất của hội từ thiện này.”
Những tiếng vỗ tay rời rạc chạy quanh khắp căn phòng, vài người quay lại nhìn ông ta và nâng cao chiếc cốc trong tay họ. Niccolò đón nhận chúng bằng một nụ cười lịch thiệp.
“Có phải tôi có một trăm mười không?” người điều khiển hỏi.
Một nhà sưu tập cá nhân e dè giơ tay lên.
“Một hai mươi?” Người điều khiển nhìn ngược lại Machiavelli, ông vừa mới gật đầu.
Trong ba phút tiếp theo, sự ra giá nhộn nhịp đã đẩy giá lên đến hai trăm năm mươi ngàn euro. Chỉ còn lại ba người trả giá đáng gờm: Machiavelli, chàng diễn viên người Mỹ và tay buôn đồ cổ người Canada.
Đôi môi mỏng của Machiavelli vặn vẹo thành một nụ cười hiếm hoi; sự kiên nhẫn của ông ta sắp được tưởng thưởng, và cuối cùng những chiếc mặt nạ sẽ thuộc về ông. Nhưng rồi nụ cười chợt nhạt đi khi ông cảm thấy chiếc điện thoại trong túi rung thầm. Trong một thoáng ông ta định phớt lờ nó; ông đã dặn nhân viên của ông rất nghiêm ngặt rằng đừng quấy rầy ông trừ phi đó hoàn toàn là trường hợp nguy kịch. Ông ta cũng biết rằng chúng sợ ông đến nỗi sẽ không điện thoại cho ông nếu không có việc khẩn cấp. Thò tay vào túi mình, ông kéo ra chiếc điện thoại di động siêu mỏng và liếc xuống.
Hình một thanh kiếm dao động nhè nhẹ trên màn hình LCD rộng.
Nụ cười của Machiavelli tan biến hẳn. Trong giây phút đó ông ta biết rằng mình sẽ không thể mua được những chiếc mặt nạ Kabuki trong thế kỷ này. Xoay gót, ông ta sải bước ra khỏi căn phòng và áp điện thoại vào tai. Đằng sau mình, ông ta nghe được tiếng búa của người điều khiển gõ vào bục “Bán. Hai trăm sáu mươi ngàn euro.”
“Tôi đây,” Machiavelli nói, trở lại giọng Ý thời trai trẻ của ông ta.
Đường dây kêu lốp bốp và một tiếng nói mang giọng Anh trả lời bằng cùng ngôn ngữ đó, một thứ tiếng địa phương không còn được nghe ở châu Âu trong hơn bốn trăm năm nay. “Tôi cần ông giúp.”
Người đàn ông ở đầu dây bên kia không giới thiệu mình, mà hắn ta cũng chẳng cần làm vậy; Machiavelli biết chính là Tiến sĩ John Dee bất tử, pháp sư và thầy đồng gọi hồn, một trong những người đàn ông quyền lực và nguy hiểm nhất thế giới.
Niccolò Machiavelli sải bước ra ngoài khách sạn nhỏ để đi vào quảng trường lát đá cuội Place du Terre và ngừng lại hít thở trong bầu khí đêm lạnh lẽo. “Tôi có thể làm được gì cho ông?” Ông ta thận trọng hỏi. Ông ta ghét cay ghét đắng Dee và biết rằng đây cũng là cảm giác chung giữa hai người, nhưng cả hai đang phục vụ cho các Elder Đen tối, và điều đó có nghĩa là họ buộc phải làm việc cùng nhau qua các thế kỷ. Machiavelli cũng có một chút ghen tị vì Dee trẻ tuổi hơn – mà trông bề ngoài hắn cũng trẻ hơn. Machiavelli sinh năm 1469 tại Florence, nên ông ta lớn hơn tay Pháp sư người Anh này năm mươi tám tuổi. Lịch sử ghi nhận ông ta đã chết cùng năm Dee sinh ra, 1527.
“Flamel trở lại Paris rồi.”
Machiavelli dựng thẳng người. “Hồi nào?”
“Mới đây. Hắn đến đó bằng cổng tuyến. Tôi không biết tiếp theo là ở đâu. Hắn mang Scathach theo cùng…”
Môi Machiavelli cong lên tạo thành một vẻ dúm dó xấu xí. Lần cuối cùng ông ta chạm trán với Nữ Chiến binh, bà ta đã xô ông qua cửa. Cánh cửa đóng lại đúng lúc đó, và ông phải mấy mấy tuần để gắp những mảnh vỡ ra khỏi ngực và vai.
“Có hai đứa trẻ thuộc giống người cùng đi với hắn. Chúng người Mỹ,” Dee nói, giọng hắn vang và nhòe vào đường dây xuyên Đại Tây Dương. “Cặp sinh đôi,” hắn thêm.
“Nói lại thử?” Machiavelli yêu cầu.
“Cặp sinh đôi,” Dee nói thêm, “với luồng điện vàng và bạc. Ông biết điều đó có nghĩa gì mà”, hắn bốp chát.
“Ừ,” Machiavelli lẩm bẩm. Điều đó có nghĩa là rắc rối. Rồi một chút vẻ sung sướng uốn cong đôi môi mỏng của ông ta. Nó cũng có nghĩa là vận may.
Tiếng tĩnh điện kêu lắc cắc rồi giọng Dee nói tiếp. “Năng lượng của đứa con gái đã được Hekate Đánh thức trước khi Nữ thần và Vương quốc Bóng tối của bà bị phá hủy.”
“Khô ng có kinh nghiệm gì, con bé đó không phải là mối đe dọa,” Machiavelli thầm thì, ước lượng tình thế. Ông ta nghỉ lấy hơi và nói thêm, “Có lẽ phải loại trừ trưởng hợp con bé là mối đe dọa cho chính bản thân nó và mấy tên đồng bọn đi cùng.”
“Flamel đã mang con bé tới Ojai. Ở đó, Mụ phù thủy Endor đã dạy cho nó Phép thuật Không khí.”
“Chắc chắn ông đã cố ngăn chúng lại?” Giọng Machiavelli pha lẫn chút thích thú.
“Đã cố. Và đã thất bại,” Dee cay đắng thừa nhận. “Đứa con gái có chút ít kiến thức nhưng không có kỹ năng.”
“Ông muốn tôi làm gì?” Machiavelli thận trọng hỏi, dù trong đầu ông ta đã lóe ra một ý tưởng khá hay.
“Tìm Flamel và cặp sinh đôi,” Dee yêu cầu. “Bắt chúng. Giết Scathach đi nếu ông có thể. Tôi vừa rời Ojai. Nhưng sẽ phải mất mười bốn hay mười lăm tiếng nữa mới tới được Paris.”
“Chuyện gì xảy ra với cái cổng tuyến?” Machiavelli ngạc nhiên thốt lên. Nếu một cổng tuyến đã kết nối Ojai với Paris, thì tại sao Dee không…?
“Bị mụ Phù thủy Endor phá hủy rồi,” Dee nổi xung, “và suýt chút nữa mụ ta cũng đã giết được tôi. Tôi may mắn thoát được nhưng người đầy những vết chém và cào xước,” hắn nói thêm, và rồi kết thúc cuộc gọi mà không một lời chào tạm biệt.
Niccolò
Machiavelli cẩn thận tắt điện thoại và nhịp nó nhè nhẹ vào môi dưới. Không hiểu sao ông ta tự nhủ rằng Dee đã gặp may – nếu mụ phù thủy Endor muốn hắn chết thì ngay cả Tiến sĩ Dee huyền thoại cũng đừng hòng trốn thoát. Machiavelli quay người lại và đi bộ ngang qua quảng trường đến nơi anh tài xế của ông đang kiên nhẫn chờ trong xe. Nếu Flamel, Scathach và cặp sinh đôi người Mỹ đã đến Paris bằng cổng tuyến, thì chỉ có một vài điểm trong thành phố này mà bọn chúng hẳn phải lộ mặt ra. Xem ra tương đối dễ dàng để tìm và bắt chúng.
Và nếu có thể bắt chúng đêm nay, thì ông ta sẽ có nhiều thời gian để làm việc với chúng trước khi Dee đến.
Machiavelli mỉm cười; ông ta chỉ cần vài tiếng đồng hồ, và trong thời gian đó chúng sẽ nói cho ông ta mọi thứ chúng biết. Một nửa thiên niên kỷ sống trên trái đất này đã dạy cho ông cách làm thế nào để thật sự khiến mình đầy sức thuyết phục.
Dạ Phong
18-12-2010, 10:15 PM
Chương 2
Josh Newman vươn người và bám lòng bàn tay phải lên bức tường đá lạnh lẽo để giữ thăng bằng.
Chuyện gì vừa xảy ra?
Có một lúc cậu đang đứng trong cửa tiệm của Bà Phù thủy Endor tại Ojai, California. Chị gái cậu, Sophie , Scathach và người đàn ông mà bây giờ cậu mới biết là Nicholas Flamel đã ở trong tấm gương, tất cả đang đứng nhìn ra phía cậu, Và điều kế tiếp cậu biết là, Sophie đã bước ra khỏi tấm gương, nắm tay và kéo cậu đi xuyên qua nó. Cậu nhắm nghiền mắt, cảm thấy một thứ gì đó lạnh buốt chạm vào da, làm những sợi tóc li ti phía sau gáy cậu dựng đứng. Khi mở mắt ra lại, cậu thấy mình đang đứng trong cái gì giống như một nhà kho bé xíu. Những chiếc bình đựng sơn, những cái thang xếp chồng lên nhau, những mảnh gốm vỡ và những tấm vải bị sơn bắn tung tóe cuộn lại thành bó chất đống quanh một tấm gương lớn trông khá tầm thường đầy cáu bẩn được gắn cố định vào bức tường đá. Lẻ loi một chiếc bóng đèn tròn công suất thấp ném thứ ánh sáng vàng vọt yếu ớt xuống cản phòng. “Đã xảy ra chuyện gì?” cậu bé hỏi, tiếng nói vỡ vụn. Cậu nuốt nước bọt một cách khó khăn và thử lại. “Chuyện gì vậy? Chúng ta đang ở đâu đây?”
“Chúng ta đang ở Paris,” Nicholas Flamel vừa nói với vẻ hài lòng, vừa lau chùi hai bàn tay đầy bụi bẩn vào chiếc quần jeans đen. “Thành phố nơi tôi sinh ra.”
“Paris?” Josh kêu thầm. Cậu định nói “Không thể,” nhưng cậu bắt đầu hiểu rằng lời nói đó không còn ý nghĩa gì nữa cả. “Làm thế nào?” cậu hỏi lớn. “Sophie?” Cậu nhìn người chị gái sinh đôi của mình, nhưng cô bé đang áp sát tai vào cánh cửa duy nhất của căn phòng và chăm chú lắng nghe. Cô vẫy tay xua cậu đi. Cậu quay sang Scathach, nhưng người Nữ Chiến binh tóc đỏ chỉ lắc đầu, đưa cả hai tay lên che miệng. Trông như thể cô ta sắp nôn thốc nôn tháo ra. Cuối cùng Josh quay sang Nhà Giả Kim huyền thoại, Nicholas Flamel. “Làm thế nào chúng ta đến đây được ạ?” Cậu hỏi.
“Hành tinh này chằng chịt những đường kẻ năng lượng vô hình đôi khi được gọi là đường tuyến (ley lines) hoặc hànga đá (cursus),” Flamel giải thích. Ông ta bắt chéo hai ngón trỏ với nhau. “Ở đâu có hai hay nhiều hơn hai đường kẻ giao nhau thì ở đó xuất hiện một cổng tuyến. Những cái cổng đó bây giờ cực kỳ hiếm, nhưng vào thời cổ xưa Giống loài Elder thường dùng chúng để đi từ bên này sang bên kia trái đất chỉ trong chớp mắt – như chúng ta vừa đi. Bà Phù thủy đã mở cổng tuyến ơt Ojai và chúng ta đã tới đầu mút đầu bên kia, tại Paris.” Ông ta nói nghe cứ như chẳng có chuyện gì to tát.
“Cổng tuyến: tôi ghét chúng,” Scatty lầm bầm. Dưới ánh đèn ảm đạm, nước da nhợt nhạt lốm đốm tàn nhang của cô trông xanh lè. “Em có bị say sóng không?” Cô hỏi.
Josh lắc đầu. “Không bao giờ.”
Sophie ngẩng lên khỏi chỗ, tựa người vào cánh cửa.
“Ba xạo! Nó còn say sóng trong hồ bơi nữa kìa.” Cô bé cười toe, rồi lại áp một bên mặt vào tấm gỗ mát lạnh.
“Say sóng,” Scatty lầm bầm. “Đó chính xác là những gì mình đang cảm thấy. Thật tồi tệ.”
Sophie quay đầu lại nhìn Nhà Giả kim. “Chú có biết là chúng ta đang ở đâu tại Paris không?”
“Một nơi rất cũ kỹ, chú đoán vậy,” Flamel nói, đi đến bên cô bé đang đứng ngay cánh cửa. Ông nghiêng một bên đầu áp vào tấm cửa và lắng nghe.
Sophie bước lui lại. “Chưa chắc đâu,” cô bé ngập ngừng.
“Sao lại chưa?” Josh hỏi. Cậu liếc quanh căn phòng nhỏ xíu bừa bộn. Rõ ràng trông nó đúng là nằm trong một tòa nhà cũ mèm.
Sophie lắc đầu. “Không biết nữa….chỉ là không cảm thấy nó cũ.” Cô đưa lòng bàn tay chạm vào bức tường, rồi đột ngột rụt mạnh trở lại.
“Chị bị gì vậy?” Josh thì thào.
Sophie áp đầu sát vào tường lần nữa. “Chị nghe được nhiều tiếng nói, những tiếng hát và có gì như tiếng nhạc từ đàn organ.”
Josh nhún vai. “Em chẳng nghe được gì.” Cậu ngừng lại, chợt nhận ra sự khác biệt lớn lao giữa cậu với người chị sinh đôi. Phép thuật tiềm ẩn của Sophie đã được Hekate Đánh thức, và bây giờ cô quá sức nhạy cả cmả về thị giác và thính giác, khứu giá, xúc giá và vị giác.
“Chị nghe được.” Sophie nhấc tay khỏi bức tường đá và âm thanh trong đầu cô nhạt dần.
“Cháu đang nghe tiếg vọng bóng thôi,” Flamel giải thích. “Đó chỉ là những tiếng ồn do tòa nhà hút ngấm vào, được lưu giữ lại và trở thành chính bản thân công trình kiến trúc đó.”
“Đây là một ngôi nhà thờ,” Sophie nói dứt khoát, rồi cau mày. “Một ngôi nhà thờ mới….hiện đại, cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi. Nhưng lại được xây dựng trên một nền đất cũ xưa hơn nó nhiều, rất nhiều.”
Flamel dừng ngay nơi cánh cửa gỗ và ngoái nhìn ra đằng sau mình. Dưới nguồn sáng tù mù trên đầu, nét mặt ông bỗng trở nên nhọn hoắt, đầy góc cạnh, trông giống như một cái đầu lâu dễ sợ, hai hốc mắt ông hoàn toàn chìm trong bóng tối. “Có nhiều nhà thờ ở Paris lắm,” ông nói, “tuy nhiên chỉ có một cái, chú tin vậy, là phù hợp với mô tả đó.” Ông cầm vào nắm cửa.
“Khoan đã,” Josh nói nhanh. “Chú không nghĩ là sẽ có một dạng báo động nào đó sao?”
“Ồ, không chắc đâu,” Nicholas tự tin nói. “Ai mà đặt báo động ở nơi nhà kho trong nhà thờ?” ông ta vừa hỏi, vừa giật mở tung cánh cửa.
Một hồi chuông báo động đột ngột ré lên trong không khí, âm thanh vang đi và dội lại tắt ngấm vào những phiến đá lát và bức tường. Đèn báo động bật đỏ lòm nhấp nháy lóe sáng từng hồi.
Scatty thờ ra và càu nhàu gì đó bằng một loại ngôn ngữ Celt cổ. “Ông chẳng đã có lần bảo tôi phải chờ đợi trước khi cử động, nhìn ngó trước khi tiến bước và quan sát tất cả những gì xung quanh đó sao?” Cô hỏi gặng.
Nicholas lắc đầu và thở dài vì cái lỗi ngu ngốc của mình. “Chắc là tôi già lắm rồi,” ông cũng nói bằng ngôn ngữ đó. Nhưng không còn thời gian để hối lỗi. “Đi thôi!” ông ta hét lớn át cả tiếng báo động inh ỏi, và bổ nhào xuống hành lang. Sophie và Josh theo sát đằng sau, trong khi Scatty đi cuối cùng, bước chầm chậm và cứ mỗi bước cô lại cằn nhằn.
Cánh cửa mở vào một hành lang hẹp bằng đá dẫn ra một cánh cửa gỗ khác. Không chút ngập ngừng, Flamel xô vào cánh cửa thứ hai – và ngay tức khắc một hồi báo động mới lại rú lên. Ông rẽ trái lao vào một khoảng không gian trống trải rộng lớn đầy mùi hương trầm cũ kỹ, xi đánh sàn và sáp ong. Những dãy nến sáng màu vàng ánh kim tỏa khắp lên tường, trên sàn nhà và, kết hợp với ánh đèn báo động, cho thấy hai cánh cửa đồ sộ có hàng chữ LỐI RA ở bên trên. Flamel phóng về phía đó, tiếng bước chân ông nện vang.
“Đừng chạm vào-” Josh thốt lên, nhưng Nicholas Flamel đã chộp lấy nắm cửa và kéo mạnh.
Hồi chuông báo động thứ ba – lớn hơn nhiều so với mấy lần trước – chợt tắt ngấm, và một bóng đèn đỏ chói phía trên cánh cửa bắt đầu chớp tắt liên tục.
“Đã bảo chú đừng chạm vào,” Josh cằn nhằn.
“Chú không hiểu nổi – tại sao nó không mở sẵn?” Flamel hỏi, hét toáng lên để mọi người có thể nghe được trong tiếng ầm ĩ kinh hồn. “Nhà thờ phải luôn luôn mở cửa chứ.” Ông quay người nhìn quanh. “Mọi người đâu cả? Mấy giờ rồi?” ông hỏi, tựa như có một ý nghĩ vừa ập đến với ông.
“Phải mất bao lâu để đi từ nơi này đến nơi kia bằng cổng tuyến?” Cô bé hỏi.
“Ngay lập tức,”
“Và chú chắc chắn là chúng ta đang ở Paris, nước Pháp chứ?”
“Chắc chắn”
Sophie nhìn đồng hồ và làm một bài toán rất nhanh. “Paris đi trước Ojai chín tiếng hả?” Cô hỏi.
Flamel gật đầu, chợt hiểu ra.
“Bây giờ là bốn giờ sáng; hèn gì nhà thờ đóng cửa,” Sophie nói.
“Cảnh sát sẽ lên đường tới đây,” Scatty rầu rĩ, giờ tay vớ lấy chiếc nhị khúc của mình. “Tôi ghét phải đánh nhau trong khi người không khỏe,” cô lẩm bẩm.
“Chúng ta làm gì bây giờ?” Josh hỏi gặng, nỗi sợ hãi dâng lên trong tiếng nói của cậu.
“Cháu có thể thử dùng gió phá vỡ mấy cánh cửa này thành từng mảnh,” Sophie đề nghị một cách e dè. Cô bé không chắc mình còn sức lực để gọi gió liền như vậy một lần nữa. Cô đã dùng năng lượng pháp thuật mới của mình để quật ngã người bất tử ở Ojai, nhưng nỗ lực đó đã khiến cô hoàn toàn mệt lử.
“Chú cấm đó,” Flamel hét lên, khuôn mặt ông chìm trong những vùng bóng tối đỏ thẫm và đen thui. Ông quay lại và chỉ, hướng ngón tau của ông băng ngang qua những hàng ghế dài có lưng tựa đi thằng về phía một cái bàn thờ trang trí công phu nổi bật một họa tiết hình mảng bằng cẩm thạch trắng. Ánh nến phả vào một bức tường tranh rất phức tạp được khảm bằng các mảnh ghép màu xanh da trời và vàng ánh kim lấp lánh trong nóc vòm phía trên bàn thờ. “Đây là một di tích quốc gia; chú không để cháu phá hủy nó đâu.”
“Chúng ta đang ở đâu vậy?” hai chị em sinh đôi vừa đồng thanh thốt lên vừa nhìn quanh công trình. Bây giờ mắt chúng đã quen với bóng tối, chúng nhận ra rằng công trình này rất đồ sộ. Chúng có thể phân biệt từng cây cột cao vút làm thành vùng bóng tối trên đầu và nhìn thấy được bóng của những chiếc bàn thờ phụ nho nhỏ, bóng của những bức tượng đặt trong các góc yên tĩnh và vô số những hàng nến.
“Đây là,” Flamel thông báo một cách tự hào, “nhà thờ Sacré-Coeur.”
Ngồi đằng sau chiếc limousine của mình, Niccolò Machiavelli gõ tọa độ vào chiếc máy tính xách tay và chăm chú nhìn vào màn hình nơi tấm bản đồ Paris độ phân giải cao nhấp nháy hiện ra. Paris là một thành phố cổ lạ lùng. Vùng định cư đầu tiên dễ chừng đã có hồi hơn hai ngàn năm trước, dù vậy lúc ấy vẫn có người sống trên hòn đảo nằm trong lòng sông Seine này hàng nhiều thế hệ trước nữa. Và cũng như nhiều thành phố cổ kính nhất trên tráu đất, nó được xác định là nơi các nhóm đường tuyến gặp nhau.
Machiavelli bấm vào một phím, màn hình chuyển qua một sơ đồ đường tuyến chằng chịt khắp bản đồ thành phố. Ông ta tìm kiếm một đường kẻ kết nối với nước Mỹ. Cuối cùng ông ta cũng có cách giảm bớt con số có khả năng xuống còn sáu. Dùng một móng tay được cắt giũa hoàn hảo, ông lần theo hai đường kẻ nối thằng từ Bờ Tây của Mỹ đến Paris. Một đường kết thúc tại vương cung thánh đường Notre Dame, đường kia kết thúc tại một nơi có hai hàng cột kiểu La Mã hiện đại hơn nhưng cũng nổi tiếng không kém, thánh đường Sacré-Coeur thuộc vùng Montmartre.
Nhưng?
Đột nhiên, đêm Paris chợt vỡ ra bởi những chuỗi còi báo động hú vang. Machiavelli liền bấm vào bộ điều khiển cửa điện tử và lớp kính râm cuộn xuống ngay. Không khí ban đêm mát lạnh cuộn xoáy vào xe. Xa xa, vượt lên khỏi những mái nhà phía đối diện của Place du Terre, là Sacré-Coeur. Kiến trúc có mái vòm oai nghiêm này luôn được thắp sáng vào ban đêm bằng toàn một thứ ánh sáng trắng tinh khiết. Vậy mà, đêm nay, những ngọn đèn báo động đỏ lòm lại chớp tắt nhịp nhàng quanh kiến trúc này.
Cái đó. Nụ cười của Machiavelli thật đáng sợ. Ông ta kích hoạt một chương trình trên máy tính và chờ đợi trong khi chiếc ổ cứng quay tròn.
Nhập mật khẩu.
Những ngón tay ông ta gõ như lướt trên bàn phím: Discorsi sopra la prima deca di Tito Livio. Sẽ không ai phá được mật khẩu đó. Nó không nằm trong số các cuốn sách được xem là nổi tiếng hơn những cuốn khác của ông.
Một trang văn bản trông khá thông thường hiện ra, được viết bằng tiếng Latin, Hy Lạp và Ý kết hợp với nhau. Từng có lần các nhà ma thuật đã cất giữ những câu thần chú và bùa phép của họ trong sổ ghi chép bằng tay được gọi là cuốn sổ đen, nhưng Machiavelli luôn luôn dùng công nghệ mới nhất. Ông thích cất giấu những câu thần chú vào ổ cứng của mình hơn. Bây giờ chỉ cần một chút gì đó để khiến Flamel và đám bạn của y bận rộn trong lúc ông tập trung sức lực.
Josh tập trung nghe ngóng. “Cháu nghe có tiếng còi cảnh sát.”
“Có mười hai xe cảnh sát trực chỉ đường này,” Sophie nói, đầu cô nghiêng một bên, hai mắt nhắm lại như đang chăm chú lắng nghe.
“Mười hai? Làm sao chị nói vậy được?”
Sophie nhìn cậu em sinh đôi của mình. “Chị có thể phân biệt từng vị trí khác nhau của tiếng còi.”
“Chị có thể nói chúng tách bạch như vậy sao?” Cậu hỏi. Lại một lần nữa, cậu tự bắt gặp mình đang ngạc nhiên với mức độ hết sức nhạy cảm của chị cậu.
“Từng chiếc một,” cô nói.
“Chúng ta không được để cảnh sát bắt,” Flamel đanh thép xen vào. “Chúng ta không có hộ chiếu mà cũng chằng có chứng cớ ngoại phạm. Phải ra khỏi đây ngay thôi.”
“Bằng cách nào?” cặp sinh đôi cùng hỏi môt lượt.
Flamel lắc đầu. “Phải có một lối ra vào khác nữa…,” ông cất tiếng, và rồi chợt im bặt, cánh mũi nở ra.
Josh bứt rứt nhìn chằm chặp cả Sophie và Scatty vừa đột nhiên phản ứng với một thứ gì đó mà cậu không sao ngửi thấy được. “Cái gì…cái gì vậy chứ?” cậu hỏi dồn, và rồi thình lình cậu bắt được một luồng hơi rất thoảng nhẹ của cái gì như xạ hương pha lẫn với mùi khen khét. Đó là một loại mùi làm cậu liên tưởng đến sở thú.
“Rắc rối rồi,” Scathach điềm nhiên nói, cất nhị khúc đi và rút thanh kiếm ra. “Rắc rối lớn đây.”
Dạ Phong
19-12-2010, 07:55 AM
Chương 3
Cái gì? Josh vừa hỏi dồn, vừa nhìn quanh khắp lượt. Bây giờ cái mùi đó đã nồng hơn, thiu thiu và gay gắt, và gần giống như là mùi…
“Rắn,” Sophie vừa nói vừa hít mạnh. “Đúng là một con rắn.”
Josh cản thấy dạ dày cậu chao đảo. Rắn. Tại sao lại phải là rắn? Cậu rất khiếp sợ rắn – dù cậu không bao giờ thừa nhận điều này với ai, với chị cậu lại càng không. “Rắn…,” cậu thở miệng, nhưng giọng cậu the thé và tắc nghẽn. Cậu ho lên rồi cố thử lại. “Đâu?” cậu hỏi, liều lĩnh ngó quanh, tưởng tượng chúng đang ở khắp nơi, đang từ gầm mấy dãy ghế có tựa trườn ra, đang uốn quanh mấy cái cột, hay là đang thả mình rơi xuống từ mấy cái đèn gắn vào tường.
Sophie lắng đầu và nhăn mặt. “Chị không nghe gì hết… Chị chỉ…ngửi thấy nó thôi” Hai cánh mũi cô bé loe ra như thể cô đang rít một hơi thật sâu. “Không, chỉ là có một…”
“Ồ, em đang ngửi thấy mùi một con rắn, đúng vậy đó…nhưng là một con rắn đi bằng hai chân,” Scatty ngắt lời. “Em đang ngửi thấy mùi hương đặc trưng của Niccolò Machiavelli.”
Flamel quỳ xuống sàn ngay trước hai cánh cửa chính đồ sộ và đưa cả hai bàn tay lướt trên ổ khóa. Những dải khói xanh lè quyện quanh các ngón tay ông. “Machiavelli!” ông thốt lên. “Tôi thấy là Dee không bỏ lỡ một chút thời giờ nào đẻ liên hệ với đồng bọn.”
“Chú có thể nói ai có cái mùi đó không?” Josh hỏi, vẫn còn ngạc nhiên với một chút bối rối.
“Mỗi người đều có một mùi hương ma thuật riêng để phân biệt,” Scatty giải thích, cô đứng xoay lưng vào Nhà Giả kim, bảo vệ ông. “Các em có hai mùi kem vanilla và cam, Nicholas có mùi bạc hà…”
“Và Dee có mùi trứng thối…,” Sophie thêm vào.
“Sulfur,” Josh nói.
“Thứ đó trước đây người ta gọi là lưu huỳnh,” Scatty nói “Rất thích hợp với Tiến sĩ Dee.” Đầu cô lắc qua lắc lại như đang hết sức tập trung vào những cái bóng đổ xuống đằng sau mấy bức tượng. “Ừ, Machiavelli có mùi rắn. Cũng hợp với hắn luôn.”
“Hắn là ai?” Josh hỏi. Cậu cảm thấy rằng cậu nên biết cái tên đó, gần như cậu đã nghe trước đây rồi. “Một người trong đám bạn của Dee hả?”
“Machiavelli là một người bất từ liên minh với các Elder Đen tối,” Scatty giải thích, “Và không phải là bạn của Dee, dù chúng cùng một phe. Machiavelli lớn tuổi hơn Pháp sư, vô cùng nguy hiểm hơn và dứt khoát là xảo quyệt hơn. Tôi mà gặp may thì tôi đã giết được hắn rồi,” cô chua chát nói. “Hồi năm trăm năm trước hắn từng ở giữa các thế lực chính trị châu Âu, là chủ nhân ẩn mình trong bóng tối giật dây điều khiển những tên bù nhìn. Lần cuối cùng tôi nghe về hắn thì hắn đã được chỉ định làm lãnh đạo DGSE, Direction Générale de la Sécurité Extérieuse.”
“Nghe như tên một ngân hang?” Josh hỏi.
Đôi môi Scatty thoáng cong lên thành một nụ cười nhẹ để lộ mấy cái răng ma cà rồng dài ngoằng. “Có nghĩa là Ủy ban Chung về An ninh Đối ngoại. Đó là dịch vụ bí mật của người Pháp.”
“Dịch vụ bí mật! Ồ, nghe kêu quá,” Josh chế nhạo.
“Cái mùi ngày càng nồng hơn,” Sophie nói, các giác quan được Đánh thức của cô nhận biết mùi hương một cách sâu sắc. Tập trung cao độ, cô bé để một ít năng lượng của mình chảy thành luồng điện tỏa ra như một cái bóng ma quái bao khắp người cô. Tiếng lách tách của những sợi bạc chói ngời nổ trên mái tóc vàng óng của cô, và đôi mắt cô biến thành những đồng xu bằng bạc phản chiếu ánh sáng.
Gần như không ý thức, Josh nhích ra xa khỏi chị cậu. Cậu đã từng nhìn thấy chị cậu như thế này trước đây, và cô đã làm cậu hoảng sợ.
“Điều đó có nghĩa là hắn đang ở rất gần đây. Hắn đang làm vài phép thuật gì đó,” Scatty nói. “Nicholas…?”
“Tôi chỉ cần thêm một phút nữa thôi.” Mấy đầu ngón tay của Flamel bừng sáng màu xanh ngọc lục bảo, bốc thành khói khi lần theo đường hoa văn chạy quanh ổ khóa. Một tiếng tách nghe như từ bên trong, nhưng khi Nhà Giả kim thử kéo nắm cửa, cái cửa vẫn không nhúc nhích. “Chắc phải hơn một phút.”
“Quá trễ rồi,” Josh vừa thầm thì vừa đưa tay lên chỉ. “Có cái gì đó ở đây nè.”
Ở đầu đối diện phía bên kia của ngôi nhà thờ có hai dãy cột, những hàng nến tắt phụt. Giống như thể có một cơn gió nhẹ đến mức không cảm nhận được đang quét lên lối đi giữa các hàng ghế, thổi tắt những vòng sang như ánh đèn ngủ lập lòe và những ánh nến dày ken khi nó đi ngang qua, để lại những lọn khói xám trắng lơ lửng trong không trung. Đột ngột, mùi sáp nến bỗng dậy lên, nồng nặc hơn nhiều, nhiều, gần như xóa sạch cái mùi rắn.
“Sao em không thấy gì hết…?” Josh mở miệng.
“Nó đây!” Sophie la lên.
Sinh vật vụt lên khỏi những phiến đá lát lạnh lẽo kia chỉ là cái gì đó giống con người. Đứng cao hơn một người đàn ông bình thường, dềnh dàng và kệch cỡm, đó là một hình khối trắng sền sệt chỉ có lờ mờ một cái đầu đặt lên hai bờ vai rộng. Không có nét mặt rõ rệt. Hai cánh tay khổng lồ lẹp nhẹp tách ra khỏi thân hìng và mọc ra những hình thù giống như bàn tay.
“Golem!” Sophie la lên trong nỗi khiếp sợ. “Một tên Golem bằng sáp!” Cô vung tay lên và luồng điện của cô chiếu sáng rực. Luồng gió lạnh buốt như nước đá trào khỏi đầu ngón tay cô đập liên hồi vào sinh vật đó, nhưng làn da trắng như sáp đó đơn giản chỉ gợn lên và rũ xuống dưới cơn gió nhẹ.
“Bảo vệ Nicholas!” Scathach vừa ra lệnh, vừa lao mình về phía trước, những thanh kiếm cùng một bộ của cô rung lên, đâm phập vào hình dạng đó, nhưng không ăn thua. Sáp mềm hút giữ thanh kiếm lại, phải dốc hết sức mới rút chúng ra được. Cô tấn công lần nữa và lần này những mảnh sáp phun lên trong không khí. Hắn tấn công cô, cô nhảy lùi lại để tránh một cú đấm xiểng liểng nên buộc phải mất tập trung vào thanh kiếm. Một nắm đấm to đùng giáng xuống sàn ngay sát chân cô, những giọt sáp trắng bắn tung tóe khắp mọi phía.
Josh chộp lấy một trong những cái ghế xếp bằng gỗ chất đống bên ngoài cửa hàng quà tặng ở phía sau nhà thờ. Cầm hai cái chân ghế, cậu quật mạnh vào ngực tên kia…cái ghế dính chặt vào đó. Ngay khi hình dạng bằng sáp kia vừa xoay qua Josh, cái ghế liền bị giật phăng khỏi tay cậu. Cậu chộp ngay một cái ghế khác, lao quành ra đằng sau hắn và ném sầm xuống. Cái ghế vỡ vụn nhô lên như những cái lông gai nhím kỳ quái.
Sophie cứng đờ người. Cô liều mạng cố khơi lại một ít bí mật của phép thuật Không khí mà Bà Phù thủy Endor đã dạy cô mới chỉ vài giờ trước. Bà Phù thủy nói nó mạnh nhất trong hết thảy các phép thuật – và Sophie đã thấy nó phát huy tac dụng đối với đội quân sống động gồm những con người và thú vật chết từ lâu lắm rồi mà Dee đã dựng dậy ở Ojai. Nhưng cô không biết nó có làm được gì để chống lại tên quỷ bằng sáp đang ở trước mặt cô kia không. Cô còn biết cách tạo nên những cơn lốc xoáy nhỏ, nhưng cô không thể liều lĩnh gọi nó lên trong khoảng không gian bị giới hạn của ngôi nhà thờ với hai hàng cột như thế này được.
“Nicholas!” Scatty kêu lên. Những thanh kiếm của cô kẹt trong sinh vật kia, nên Nữ Chiến binh đang dùng nhị khúc – hai khúc gỗ nối với nhau bằng một đoạn xích ngắn – để đập liên hồi vào tên Golem, để lại những vết lõm hằn sâu vào da hắn, nhưng ngoài mấy cái vết đó ra hình như hắn chẳng hề hấn gì. Cô giáng một cú đấm cực mạnh làm lút thanh gỗ bóng láng vào hẳn trong hông sinh vật kia. Sáp chảy quanh chiếc nhị khúc, bao nó lại. Khi hắn xoay người về phía Josh, thứ vũ khí đó bứt toạc ra khỏi tay Nữ Chiến binh, ném cô xoay tròn qua tuốt bên kia gian phòng.
Một bàn tay chỉ có một ngón cái còn những ngón khác bị tan chảy ra, như một cái găng tay hở ngón khổng lồ, nắm lấy vai Josh và siết chặt. Một cơn đau lạ thường chạy xuống tận đầu gối cậu bé.
“Josh!” Sophie kêu thất thanh, ân thanh vang vọng trong ngôi nhà thờ mênh mông.
Josh cố gắng kéo rụt tay về, nhưng sáp quá trơn và những ngón tay cậu chìm vào trong cái chất dính nhớp nháp màu trắng ấy. Sáp ấm bắt đầu chảy qua khỏi bàn tay hắn, rồi uốn cong phủ quanh hai vai cậu và lăn xuống ngực, bóp nghẹt hơi thở cậu.
“Josh, tránh ra!”
Sophie túm lấy một cái ghế gỗ, đánh bạt nó vào không trung. Cái ghế rít lên bay ngang qua đầu em cô, gió xốc tung tóc cậu, và cô giộng mạnh nó xuống – ngay cạnh đầu tiên – trên cánh tay sáp to tướng, chỗ đó hẳn phải là khuỷu tay. Cái ghế cắm vào nửa chừng, nhưng cú chuyển động đó làm xao nhãng cái sinh vật ấy và hắn buông Josh ra, để mặc cậu thâm tím nằm vùi trong lớp sáp nến. Từ chỗ cậu quỳ trên đất, Josh kinh hãi nhìn chăm chăm hai bàn tay sền sệt vươn tới cổ họng cô chị sinh đôi của cậu.
Khiếp đảm, Sophie rú lên.
Josh nhìn thấy mắt chị mình lung linh, màu xanh da trời đã được thay thế bằng màu bạc, và rồi luồng điện của cô chiếu sang rực ngay lúc móng vuốt của tên Golem chạm gần đến da cô. Thình lình, hai bàn tay sáp của hắn bắt đầu chảy lỏng ra và vãi tung tóe khắp nền nhà. Sophie xòe bàn tay mình, những ngón tay dang rộng, ấn sâu vào lồng ngực tên Golem, chỗ đó lún vào, kêu xèo xèo và xì bọt nước, biến thành một đống sáp.
Josh hụp mình trên đất, tiến đến gần Flamel, hai tay cậu giơ lên bảo vệ đôi mắt khỏi luồng sáng bạc chói lòa. Cậu thấy chị cậu bước gần tới cái sinh vật ấy, luồng điện của cô bây giờ sáng quắc làm nhức cả mắt, hai cánh tay dang rộng, một hơi nóng không cảm thấy được mà cũng không nhìn thấy được đang nung hắn tan chảy ra, biến sáp thành chất lỏng. Những thanh kiếm và nhị khúc côn của Scathach rơi loảng xoảng lách cách trên nền đá, rồi vài giây sau, phần còn sót lại của cái ghế gỗ rơi tiếp theo.
Luồng điện của Sophie lung linh và cô bé loạng choạng, Josh liền đứng nhổm dậy bên cạnh để đỡ lấy chị mình. “Chị thấy chóng mặt,” cô nói một cách khó nhọc trong lúc đổ sụp vào cánh tay cậu. Cô chỉ vừa vặn đủ để biết mình còn tỉnh táo, và cô cảm thấy người lạnh buốt như nước đá, mùi hương vanilla ngọt ngào trong luồng điện của cô giờ nghe chua chua và đăng đắng.
Scatty nhảy bổ xuống thu gom vũ khí của cô khỏi đống sáp sền sệt mà bây giờ trông giống như một ông người tuyết đang tan chảy nửa chừng. Cô lau sạch lưỡi kiếm một cách khó chịu trước khi đút chúng trở vào mấy cái vỏ đeo sau lưng cô. Gỡ những lọn nến trắng khỏi chiếc nhị khúc của mình, cô bỏ chúng vào cái bao đeo trên dây thắt lưng; rồi cô quay sang Sophie. “Em đã cứu chúng ta,” cô nói một cách trang nghiêm. “Đó là một món nợ mà tôi sẽ không quên.”
“Được rồi,” Flamel đột nhiên nói. Ông đứng dậy, và Sophie, Josh, cùng với Scatty nhìn những lọn khói màu xanh lục rỉ ra từ cái ổ khóa. Nhà Giả kim đẩy cánh cừa và nó lách cách mở ra, không khí đêm mát lạnh ùa vào, xua tan cái mùi sáp giả tạo đang tan chảy.
“Với một chút giúp đỡ thì thế nào chúng ta cũng làm được, ông biết mà.” Scatty càu nhàu.
Flamel cười toe và chùi ngón tay vào chiếc quần jeans của ông, để lại những vệt sáng màu xanh lục trên nền vải. “Tôi biết đã có cô kiểm soát tình hình chặt chẽ rồi,” ông vừa nói vừa bước ra khỏi ngôi nhà thờ có hai hàng cột. Scathach và cặp sinh đôi bước theo.
Âm thanh của tiếng còi xe cảnh sát giờ nghe lớn hơn, nhưng khoảng diện tích ngay trước ngôi nhà thờ vẫn còn trống. Sacré-Coeur nằm trên một ngọn đồi, một trong những đỉnh cao nhất Paris, và từ nơi họ đứng, họ có được một tầm nhìn toàn cảnh về thành phố. Khuôn mặt Nicholas Flamel sáng lên niềm vui. “Về nhà rồi!”
“Có cái gì với bọn pháp sư châu Âu và bọn Golem vậy?” Scatty vừa theo sau ông vừa hỏi. “Đầu tiên là Dee và bây giờ là Machiavelli. Bọn chúng không có chút sáng tạo nào à?”
Flamel ngạc nhiên. “Đó không phải là Golem. Golem cần phải có một câu thần chú trên mình chúng để làm cho chúng có sinh khí.”
Scatty gật đầu. Dĩ nhiên là cô biết điều đó rồi. “Vậy chứ là cái gì?”
“Đó là một tulpa.”
Đôi môi màu lục nhạt của Scatty mở lớn đầy vẻ ngạc nhiên. “Một tulpa! Vậy đó là năng lượng của Machiavelli sao?”
“Hiển nhiên rồi.”
“Tulpa là cái gì vậy, chú?” Josh hỏi Flamel, nhưng chính chị cậu mới là người trả lời, và lại một lần nữa Josh nhớ đến hố sâu ngăn cách thăm thẳm mở ra giữa hai chị em ngay lúc mà năng lượng của chị cậu được Đánh thức.
“Một sinh vật được tạo ra và thổi sinh khí vào hoàn toàn bởi năng lượng của trí tưởng tượng,” Sophie giải thích một cách tự nhiên.
“Chính xác,” Nicholas Flamel vừa nói vừa hít sâu vào. “Machiavelli biết là phải có nến trong nhà thờ. Vì vậy hắn làm cho nến sống dậy.”
“Nhưng chắc chắn là hắn biết cái thứ đó không thể ngăn chúng ta chứ?” Scatty hỏi.
Nicholas đi bộ ra khỏi mái vòm trung tâm được dựng lên ngay trước ngôi nhà thờ có hai hàng cột và ông đứng ngay rìa bậc thứ nhất của hai trăm hai mươi mốt bậc cấp dẫn xuống con đường xa tít tắp bên dưới. “Ồ, hắn dư biết nó sẽ không ngăn được chúng ta,” ông nói một cách nhẫn nại. “Hắn chỉ muốn làm chậm chân chúng ta thôi, để giữ chúng ta ở đây cho tới khi hắn đến.” Ông chỉ tay.
Đằng xa bên dưới, những con đường hẹp của vùng Montmatre trở nên sống động bởi âm thanh và ánh sáng của đoàn xe cảnh sát Pháp. Hàng tá những hiến binh mặc đồng phục tụ tập dưới chân các bậc thang, còn thêm nhiều người nữa đang đến từ những con phố ngang chật hẹp. Thật ngạc nhiên, không ai trong số họ bắt đầu trèo lên.
Flamel, Scatty và hai chị em sinh đôi không để ý đến cảnh sát. Họ đang chăm chú nhìn một người đàn ông cao gầy tóc trắng trong bộ lễ phục buổi chiều thanh lịch chầm chậm bước lên những bậc thang tiến về phía họ. Hắn ngừng lại khi thấy họ nhô lên khỏi ngôi nhà thờ có hai hàng cột, dựa vào một rào chắn thấp bằng kim loại và đưa tay phải lên chào một cách lười biếng.
“Để cháu đoán xen,” Josh nói, “đó phải là Niccolò Machiavelli.”
“Người bất tử nguy hiểm nhất châu Âu,” Nhà Giả kim nói dứt khoát. “Tin chú đi: người đàn ông nay làm cho Dee trông giống như một tay nghiệp dư thôi.”
Dạ Phong
20-12-2010, 05:35 AM
Chương 4
"Chào mừng trở lại Paris, Nhà Giả kim.”
Sophie và Josh nhảy nhổm. Machiavelli vẫn còn ở xa lắm không thể nghe tiếng rõ như vậy được. Thật kỳ lạ, giọng hắn dường như đến từ đâu đó ngay sau hai đứa, và cả hai quay lại nhìn, nhưng chỉ có hai bức tượng kim loại gỉ sét màu xanh vượt lên trên ba mái vòn đằng trước ngôi nhà thờ: phía bên phải chúng là một người phụ nữ trên lưng ngựa, cánh tay cầm thanh kiếm giơ cao, và phía bên trái là một người đàn ông đang cầm vương trượng.
“Tôi đang chờ ông đây.” Giọng nói nghe như đến từ pho tượng người đàn ông.
“Trò bịp bợm rẻ tiền,” Scatty vừa nói một cách thô bạo vừa gỡ những dải sáp khỏi mủi giày bốt chiến đấu của cô, chỗ đặt ngón chân được bọc bằng thép. “Không gì hơn là ma thuật nói tiếng bụng thôi.”
Sophie cười bẽn lẽn. “Em tưởng bức tượng đang nói,” cô bối rối thừa nhận.
Josh cười chị cậu và rồi chợt suy ngẫm lại. “Em nghĩ em sẽ không ngạc nhiên nếu nó có như vậy thiệt.”
“Ông bạn Tiến sĩ Dee tốt lành gởi lời thăm ông.” Giọng Machiavelli tiếp tục lơ lửng trong không khí quanh họ.
“Vậy ông ta đã được cứu ở Ojai rồi à,” Nicholas nói như chuyện trò, không cao giọng. Đứng cao và thẳng người, ông ta bất giác đưa hai tay ra sau lưng và liếc xéo về phía Scatty. Rồi những ngón tay phải của ông bắt đầu nhảy múa trên lòng bàn tay và những ngón tay trái.
Scatty kéo hai đứa sinh đôi cách xa khỏi Nicholas và chậm rãi lùi vào dưới bóng những mái vòm. Đứng giữa chúng, cô khoác hai cánh tay mình lên vai chúng – cả hai luồng điện bạc và vàng của chúng nổ giòn khi cô chạm vào – và cô kéo đầu hai đứa lại với nhau.
“Machiavelli. Bậc thầy dối trá.” Tiếng thì thào của Scatty như tiếng thở nhỏ nhất lọt vào tai chúng. “Không được để cho hắn nghe thấy chúng ta.”
“Tôi không thể nói gì hơn là rất vui được gặp ông, Ngài Machiavelli. Hay Quý ông Machiavelli trong thời đại này?” Nhà Giả kim nói khẻ khàng, dựa vào hàng chấn song bao lơn, nhìn xuống những bậc thang màu trắng đến nơi Machiavelli vẫn còn nhỏ bé ở đằng xa.
“Thế kỷ này, tôi là người Pháp” Machiavelli đáp, giọng hắn có thể nghe rất rõ. “Tôi yêu Paris. Đây là thành phố yêu quý của tôi ở châu Âu – sau Florence, tất nhiên.”
Trong lúc Nicholas nói chuyện với Machiavelli, ông ta để tay sau lưng, ngoài tầm nhìn của người bất tử kia. Những ngón tay của ông cử động thành một chuỗi những tiếng gõ và tiếng đập.
“Chú ấy đang làm bùa chú ạ?” Sophie vừa thở ra, vừa trố mắt nhìn hai bàn tay ông.
“Không, ông ấy đang nói chuyện với tôi,” Scatty nói.
“Bằng cách nào?” Josh thì thầm. “Pháp thuật hả? Hay là ngoại cảm?”
“ASL: Ngôn ngữ dấu hiệu của Mỹ.”
Hai đứa sinh đôi liếc nhau thật nhanh. “Ngôn ngữ Dấu hiệu của Mỹ?” Josh hỏi. “Chú ấy biết ngôn ngữ dấu hiệu à? Làm sao được chứ?”
“Em quyên là chú ấy đã sống rất lâu rồi sao,” Scatty nói cùng một nụ cười toe nhe ra mấy cái răng ma cà rồng. “Và chú ấy đẫ giúp tạo ra ngôn ngữ dấu hiệu của Pháp trong thế kỷ mười tám,” cô ta nói thản nhiên.
“Chú ấy đang nói gì vậy?” Sophie sốt ruột hỏi. Cô không tìm đâu ra trong trí nhớ phù thủy được chút kiến thức cần thiết để diễn dịch những cử chỉ của người đàn ông lớn tuổi kia.
Scatty cau mày, môi cô cử động khi cô đánh vần thành từng từ. “Sophie … brouillard … sương mù,” cô dịch lại. Rồi cô lắc đầu. “Sophie, chú ấy nhờ em làm sương mù kìa. Điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả.”
“Với em thì có đó,” Sophie nói đang lúc hàng tá những hình ảnh sương mù, mây mù, và khói mù nhấp nháy trong đầy cô.
Niccolo Machiavelli dừng lại trên mấy bậc thang và hít một hơi thở thật sâu. “Người của tôi đã bao vây khắp khu vực này,” hắn nói, di chuyển chậm chạp về phía Nhà Giả kim. Hắn bị hụt hơi một chút và trái tim hắn đập như búa nện; đúng là hắn cần phải tập thể dục trở lại.
Việc tạo ra một tên tulpa bằng sắp đã làm hắn kiệt sức. Trước giờ hắn chưa bao giờ làm một tên to lớn như vậy, và chưa bao giờ làm từ băng sau một chiếc xe đang gầm rú xuyên qua những con phố chật hẹp và uốn khúc của vùng Montmartre. Đó không phải là một giải pháp tao nhã, nhưng tất cả những gì hắn cần phải làm là giữ Flamel và đồng bọn của ông ta bị nhốt trong nhà thờ cho tới khi hắn tới được đó, và hắn đã thành công. Bây giờ ngôi nhà thờ đã bị bao vây, thêm nhiều hiến binh nữa đang trên đường đến và hắn đã triệu tất cả các nhân viên mật vụ sãn sàng tiếp ứng. Vì là người đứng đầu DGSE, quyền hành của hắn hầu như không giới hạn, và hắn đã ban hành một mệnh lệnh buộc báo chí không được đưa tin. Hắn tự hào với bản thân mình vì đã hoàn toàn làm chủ mọi cảm xúc của mình, nhưng hắn phải thừa nhận rằng ngay lúc này đây, hắn đang cảm thấy rất hồi hộp: chẳng mấy chốc nữa hắn sẽ bắt giam Nicholas Flamel, Scathach và bọn trẻ. Hắn sẽ là người chiến thắng trong khi Dee lại là kẻ chiến bại.
Sau này hắn sẽ cho phép một ai đó trong cơ quan hắn rò rỉ một thông tin với báo chí rằng những tên trộm đã bị bắt khi đang đột nhập vào di tích quốc gia này. Gần đến rạng đông – vừa đúng lúc ra tin tức buổi sáng sớm – một báo cáo thứ hai sẽ được hé mở, tiết lộ rằng những tên tù nhân liều mạng đã chế ngự được những người canh gác và trốn thoát trên đường dẫ đến trạm cảnh sát. Không ai còn trông thấy chúng nữa.
“Bây giờ tôi bắt được ông rồi, Nicholas Flamel.”
Flamel tiến đến đứng ngay tại rìa của những bậc thang và nhét tay vào túi sau của chiếc quần jeans đen bạc thếch của mình. “Tôi tưởng lần cuối cùng ông nói câu đó là đúng lúc ông xông vào ngôi mộ của tôi chứ.”
Machiavelli choáng người dừng lại. “Sao ông biết chuyện đó?”
Hơn ba trăm năm trước đây, giữa đêm khuya thanh vắng, Machiavelli đã đập vỡ toang ngôi mộ của Nicholas và Perenelle, tìm bằng chứng xác nhận Nhà Giả kim và vợ ông đã thực sự chết và cố phân định xem họ có được chôn cùng cuốn sách của Pháp sư Abraham không. Tên người Ý này đã vô cùng ngạc nhiên khi tìm thấy cả hai cổ quan tài đều chất đầy toàn đá là đá.
“Tôi và Perenelle đã ở đó ngay đằng sau ông, đứng trong bóng tối, đủ gần để chạm vào ông khi ông nhấc nắp quan tài của chúng tôi ra. Tôi biết có ai đó sẽ đến… Tôi chỉ không bao giờ tưởng tượng nổi người đó lại chính là ông. Thú thật rằng tôi thất vọng, Niccolo ạ,” ông nói thêm.
Người đàn ông tóc trắng tiếp tục bước lên những bậc thang dẫn đến Sacre-Coeur. “Ông luôn nghĩ tôi tốt hơn con người thực sự của tôi, Nicholas.”
“Tôi tin rằng luôn có điều tốt lành trong mỗi con người,” Flamel thì thầm, “ngay cả ông.”
“Không phải tôi, Nhà Giả kim oi, không còn nữa, không từ lâu lắm rồi,” Machiavelli ngừng lại, chỉ vào cảnh sát và lực lượng đặc biệt Pháp có vũ trang trong bộ quần áo màu đen nặng nề đang tụ tập dưới chân bậc thang. “Nào bây giờ đến đây. Đầu hàng đi. Ông không bị tổn hại gì đâu.”
“Tôi không thể bảo ông là có bao nhiêu người đã nói với tôi như vậy,” Nicholas buồn bả nói. “Và họ luôn luôn nói dối,” ông thêm.
Giọng Machiavelli đanh lại. “Ông có thể điều đình với tôi hoặc Tiến sĩ Dee. Và ông biết tay Pháp sư người Anh đó không bao giờ có một chút kiên nhẫn nào.”
“Vẫn có một lựa chọn khác,” Flamel nhún vai. Đôi môi mỏng dính của ông cong lên thành một nụ cười. “Tôi có thể không thương lượng với ai trong các ông hết.” Ông ta xoay nữa người, nhưng khi ông ta nhìn ngược lại Machiavelli, cảm xúc trên mặt Nhà Giả kim làm tay người Ý bất tử kia phải đột ngột bước lùi lại. Trong tíc tắc, một vẻ gì đó cổ xưa và tỏa sáng xuyên qua đôi mắt nhạt màu của Flamel, lung linh một màu xanh ngọc lục bảo lấp lánh. Bây giờ giọng Flamel rơi xuống thành lời thì thầm, Machiavelli vẫn nghe được rành mạch. “Sẽ là tốt hơn nếu tôi và ông không bao giờ gặp lại nhau.”
Machiavelli cười gằn, nhưng âm thanh như run rẩy. “Điều đó nghe giống một lời đe dọa ghê nhỉ… và tin tôi đi, ông không ở vào cái thế có thể ban ra những lời đe dọa đâu.”
“Không phải lời đe dọa,” Flamel nói, và từ bậc trên cùng ông bước lùi lại. “Mà là một lời hứa.”
Bầu không khí đem Paris ẩm ướt mát lạnh bất ngờ đượm mùi hương vanilla thơm ngát, và Niccolo Machiavelli biết rằng rồi sẽ có điều gì đó rất đáng ngại.
Đứng thẳng người, mắt nhắm, hai cánh tay thả dọc bên hông, lòng bàn tay hướng ra ngoài, Sophie Newman hít thở sâu, cố làm dịu lại trái tim đang nổi sấm ầm ầm của mình và cho phép đầu óc mình được đi lang thang. Khi Bà Phù thủy Endor quấn cô bé như một cái xác ướp bằng dãi băng làm bằng không khí đông cứng lại, bà đã truyền đạt hàng ngàn năm kiến thức vào một cô bé con đang có vấn đề về nhịp tim. Sophie hình dung cô có cảm giác đầu mình căng phồng lên khi bộ não cô đầy ắp ký ức của Bà Phù thủy. Từ đó, đầu óc cô bị một cơn nhức đầu đập rộn lên, đáy cổ cô đặc quánh, chặt cứng và có một cơn đau âm ỉ đằng sau đôi mắt. Hai ngày trước cô là một con bé tuổi teen người Mỹ rất bình thường, trong đầu toàn những thứ bình thường hằng ngày: bài tập về nhà và các nghiên cứu ở trường, những bài hát và những đoạn video mới nhất, những đứa con trai cô thích, những số điện thoại và địa chỉ trang web, những trang blog và những đường dẫn url.
Bây giờ cô lại biết những thứ mà không một người bình thường nào nên biết qua.
Sophie Newman sở hữu ký ức của Bà Phù thủy Endor; cô biết tất cả những gì Endor từng trông thấy, mọi thứ bà ta từng làm qua suốt từng ấy các thiên niên kỷ. Tât cả là một mớ bòng bong: một sự pha trộn giữa tư tưởng và ước muốn, những điều quan sát được, nỗi sợ hãi và khát khao, một đống lộn xộn toàn những thị kiến kỳ quái, những hình ảnh đáng sợ và những âm thanh không thể hiểu nổi. Nó nhue thể là những cuộn phim cả ngàn năm được trộn lại và biên tập lại với nhau. Và mớ ký ức lộn xộn vung vãi khắp nơi là những phạm vi ảnh hưởng không đếm được khi Bà Phù thủy thực sự sử dụng năng lượng đặc biệt của bà, Phép thuật Không khí. Tất cả những gì Sophie phải làm là tìm ra thời gian Bà Phù thủy sử dụng sương mù.
Nhưng làm sao tidm kiếm nó, khi nào và ở đâu?
Không để ý đến giọng nói Flamel đang xỉ vả Machiavelli, tẩy xóa đi cái mùi chua chua trong nỗi sợ hãi của cậu em và tiếng xủng xoảng từ những thanh kiếm của Scathach, Sophie tập trung mọi ý tưởng của cô vào sương mù và mây mù.
San Fanciso thường chìm đắm trong mây mù, và cô từng thấy Cầu Golden Gate mọc lên khỏi lớp mây dày đặc. Và chỉ mới mùa thu vừa rồi, khi gia đình đang ở Nhà thờ thánh Paul tại Boston, họ đã bước ra trên phố Tremont và thấy rằng một đợt sương mù ẩm ướt đã hoàn toàn nhận chìm công viên Common. Những ký ức khác chợt ào về: mây mù ở Glassgow; sương mù ẩm ướt có xoáy ở Vienna, sương khói hôi hám vàng khè ở London.
Sophie cau mày; cô chưa từng ở Glasgow, Vienna hoặc London. Nhưng Bà Phù thủy thì… và đây chính là những ký ức của Bà Phù thủy Endor.
Những hình ảnh, ý tưởng và ký ức - như những dải sương mù cô đang thấy trong đầu mình – đổi dời và xoăn vặn. Và rồi đột nhiên chúng hiện rõ ra mồn một. Sophie nhớ rõ ràng là cô đang đứng kế bên một nhân dáng ăn vận y phục trang trọng của thế kỷ mười chín. Cô có thể thấy anh ta trong con mắt tâm trí của mình, một người đàn ông có mũi dài và vầng trán cao với mái tóc quăn màu xám. Anh ta đang ngồi nơi một cái bàn giấy cao, một bó giấy màu kem trước mặt, và đang nhúng một cây bút đơn sơ vào một cái bình mực đầy ắp. Phải mất mộc lúc cô mới nhận ra rằng đây không phải là một trong số những ký ức của riêng cô, mà cũng không phải là những cảnh cô từng xem trên tivi hay trong bộ phim nào đó. Cô đang nhớ lại những gì Bà Phù thủy Endor đã làm và đã nhìn thấy. Khi cô quay lại để nhìn gần vào nhân dáng đó, ký ức của Bà Phủ thủy tràn ngập trong cô: người đàn ông này là một nhà văn người Anh nổi tiếng và ông vừa mới bắt đầu viết một cuốn sách mới. Nhà văn liếc nhìn lên và mỉm cười với cô; rồi đôi môi ông ta cử động, nhưng không có âm thanh nào. Cúi người nhìn qua vai ông, cô thấy ông viết những lời Sương mù khắp nơi. Sương mù tràn lan trên mặt sông. Sương mù chìm xuống lòng sông bằng kiểu chữ thảo loăng quăng tao nhã. Bên ngoài cửa sổ phòng làm việc của ông, sương mù, dày và mờ đục, cuộn tròn như khói trên tấm kính dơ bẩn, xóa đi nền đất bằng một lớp mềm không thể xuyên thủng được.
Và bên dưới má cổng của Sacre-Coeur tại Paris, không khí giá lạnh và ẩm ướt, đầy mùi kem vanilla. Một dòng chảy màu trắng nhỏ giọt từ từng ngón tay cua Sophie đang xòa ra. Những dòng lưa thưa uốn loanh quanh chảy xuống thành vũng đọng dưới chân cô. Đằng sau đôi mắt nhắm của mình, cô nhìn thấy nhà văn nhúng cây bút vào bình mực và tiếp tục công việc của ông. Sương mù trườn…sương mù nằm…sương mù rũ gục…sương vương trong mắt và cổ họng…
Làn sương mù trắng dày đặc chảy những từ ngón của Sophie ra và trải khắp mặt đá, chuyển động như những cụm khói nặng nề, khi thì chảy trong những đoạn dây thừng xoắn vặn khi lại giống những sợi chỉ mảnh như tơ nhện. Ngoằn nghèo và chuyển hướng, làn sương chảy qua chân Flamel và đổ nhào xuống các bậc thang, nhân dần lên, trở nên dày đặc, tối sầm.
Niccolo chăm chú nhìn vào dòng sương mù chảy xuống những bậc thang của Scare-Coeur như dòng sữa bẩn, thấy nó đặc quánh lại và lớn dần lên trong lúc cuốn lên cuộn xuống, và ngay lúc đó, biết rằng Flamel sắp vượt qua hắn. Lúc tỏa xuống đến hắn làn sương đã cao ngang ngực, ướt rượt và đượm mùi vanilla. Hắn hít sâu, nhận ra đó là mùi hương của phép thuật.
“Xuất sắc,” hắn nói, nhưng làn sương mù làm chẹt tiếng nói hắn, làm nhòe đi cái giọng Pháp được trau chuốt cẩn thận của hắn, để lộ ra âm tiếng Ý thô ráp hơn nằm ẩn bên dưới.
“Hãy để chúng tôi yên,” giọng Flamel âm vang vượt khỏi đám sương mù.
“Nghe như một lời đe dọa khác nữa vậy, Nicholas à. Tin tôi đi khi tôi nói với ông rằng ông không biết gì về những lực lượng đang hợp lực để chống lại ông. Những mánh lới tầm thường của ông không cứu được ông đâu.” Machiavelli rút chiếc điện thoại di động ra và nhấn phím gọi nhanh. “Tấn công. Tấn công ngay!” Hắn vừa nói vừa nhảy lên các bậc thang, di chuyển nhẹ nhàng trên đôi giày đế gia đắt tiền, trong khi ở phía xa bên dưới, đội cảnh sát tụ tập sẵn đang chuẩn bị tập kích lên các bậc thang, những bàn chân mang ủng dậm thình thịch trên nền đá.
“Tôi đã sống rất lâu rồi.” Giọng Flamel không xuất phát từ nơi mà Machiavelli mong đợi, hắn dừng lại, quay trái quay phải, cố nhận ra một hình thù nào đó trong sương mù.
“Thế giới cứ tiến tới, Nicholas,” Machiavelli nói. “Ông thì không. Hẳn ông có thể trốn tránh chúng tôi ở Mỹ, nhưng tại đây, ở châu Âu này, có quá nhiều Elder, quá nhiều người bất tử biết ông. Ông sẽ không thể cứ ẩn nấp mãi được. Chúng tôi sẽ tìm được ông.”
Machiavelli lao lên vài bậc thang cuối cùng mang hắn trực diện với lối vào nhà thờ. Ở đây không có sương mù. Đám sương mù không tự nhiên này khởi đầu từ trên bậc cao nhất và chảy xuống, để ngôi nhà thờ nổi lên như một hòn đảo trong một vùng biển đầy mây giăng. Ngay cả trước khi hắn chạy vào nhà thờ, Machiavelli đã biết hắn sẽ không tìm thấy bọn họ trong đó: Flamel, Scathach và hai đứa nhỏ sinh đôi đã trốn thoát mất rồi.
Cho đến lúc này.
Nhưng Paris không còn là thành phố của Nicholas Flamel. Thành phố này đã từng tôn vinh Flamel và vợ ông như những vị bảo trợ cho người bệnh tật, nghèo đói, thời thành phố có những con đường được mang tên hai ông bà đã qua lâu rồi. Paris bây giờ thuộc về Machiavelli và những Elder đen tối mà hắn phục vụ. Nhìn ra khắp thành phố cổ, Niccolo Machiavelli thề rằng hắn sẽ biến Paris thành một cái bẫy – và có lẽ thậm chí là một ngôi mộ - cho Nhà Giả kim huyền thoại.
Dạ Phong
21-12-2010, 04:14 AM
Chương 5
Những hồn ma của Alcatraz đã đánh thức Perenelle Flamel.
Người phụ nữ nằm im lìm trên chiếc giường như cái cũi hẹp dành cho trẻ con trong một xà lim lạnh buốt nằm sâu bên dưới nhà tù bỏ hoang này và lắng nghe họ lào thào, rù rì trong những vùng tối quanh bà. Bà có thể hiểu được khoảng hơn một chục ngôn ngữ, nhận ra được nhiều hơn số đó, và một ít còn lại thì bà hoàn toàn không hiểu gì hết.
Nằm nhắm mắt, Perenelle tập trung vào các loại ngôn ngữ, cố nắm bắt được những giọng nói độc đáo, tự hỏi xem mình có nhận ra chút gì không. Và rồi bà chợt nảy ra một ý tưởng: làm sao bà có thể nghe được những bóng ma?
Một con nhân sư ngồi bên ngoài xà lim, đó là một con vật có mình sư tử, có cánh đại bàng, có cái đầu của một người đàn bà đẹp. Một trong những khả năng đặc biệt của nó là có thể hấp thu năng lượng pháp thuật của những sinh vật sống khác. Nó đã bòn rút hết năng lượng của Perenlle, khiến bà bất lực, và cầm giữ bà trong xà lim của nhà tù kinh khủng này.
Một nụ cười mìm uốn môi Perenelle cong lên khi bà nhận ra được điều đó: bà là con gái thứ bảy của một người cũng là con gái thứ bảy trong gia đình; bà được sinh ra cùng với khả năng nghe được và nhìn thấy được những bóng ma. Bà đã như thế rất lâu trước khi học được cách uốn nắn và tập trung luồng điện của mình. Năng khiếu bẩm sinh của bà không liên quan gì đến phép thuật, và vì vậy con nhân sư không có quyền lực trên đó. Trải qua nhiều thế kỷ trong cuộc đời thật dài của bà, bà đã dùng kỹ năng phép thuật của mình để bảo vệ chính mình khỏi những bóng ma, để bao phủ và che chở luồng điện của bà bằng những màu sắc làm cho bà thành vô hình đối với ma quỷ. Nhưng vì con nhân sư đã hút hết những năng lượng của bà, mọi thứ che chở đã bị xóa sạch, để lộ bà trong vương quốc tâm linh đó.
Và bây giờ họ đang đến.
Perenelle Flamel đã thấy hồn ma thứ nhất – bà ngoại yêu quý Mamom của mình – khi mới lên bảy tuổi. Bà biết rằng những bóng ma không có gì đáng sợ; họ có thể quấy rầy, chắc chắn rồi, thường chọc phá và đôi khi hết sức thô lỗ, nhưng họ không có được sự hiện diện tự nhiên. Thậm chí vài ba lần bà đã học cách gọi những người bạn. Qua các thế kỷ có vài linh hồn đã trở lại với bà không biết bao lần, họ đến với bà vì biết bà có thể nghe, có thể thấy hoặc giúp đỡ họ - và thường thường, Perenelle nghĩ, đơn giản chỉ vì họ cô đơn. Mamom xuất hiện mỗi thập kỷ hay đâu khoảng đó chỉ để kiểm tra bà.
Nhưng dù không hiện diện trong thế giới thực, nhưng hồn ma không phải là không có năng lượng gì.
Mở mắt ra, Perenelle tập trung vào bức tường chắn ngay trước mắt bà, bức tường làm bằng những phiến đá đã được mài giũa. Bức tường dầm dề một thứ nước màu xanh lục nhàn nhạt có mùi gỉ và muối, hai yếu tố rốt cuộc đã phá hủy nhà tù Alcatraz. Dee đã phạm sai lầm, bà biết là hắn sẽ phạm sai lầm. Nếu Tiến sĩ Dee có một nhược điểm, thì đó chính là sự kiêu ngạo. Hiển nhiên hắn nghĩ là nếu nhốt bà sâu dưới lòng Alcatraz và bị một con nhân sư canh giữ, thì bà đành bất lực. Hắn không thể sai lầm hơn.
Alcatraz là nơi của những bóng ma.
Và Perenelle Flamel sẽ cho hắn thấy ngay sức mạnh của bà.
Nhắm mắt lại, thư giãn, Perenelle lắng nghe những hồn ma ở Alcatraz, và rồi từ từ nâng giọng mình chỉ vừa đủ để vượt lên khỏi lời thì thầm như tiếng thở, bà bắt đầu nói chuyện với họ, gọi họ và quy tụ tất cả họ lại với bà.
Dạ Phong
21-12-2010, 05:12 PM
Chương 6
Chị ổn,” Sophie rù rì như ngái ngủ, “thiệt đó.”
“Trông chị chẳng ổn tí nào,” Josh nói khẽ qua hàn răng nghiếc chặt. Lần thứ hai trong một thời gian như thể nhiều ngày trôi qua, Josh ôm người chị gái trên cánh tay mình, một cánh tay đặt dưới lưng chị, cánh tay kia lòn bên dưới bàn chân. Cậu cẩn thận bước xuống những bậc thang của Sacre-Coeur, lo sợ mình sẽ thả rơi người chị sinh đôi mất. “Chú Flamel đã bảo chúng ta rằng mỗi lần chị dùng phép thuật thì nó sẽ đánh cắp của chị một ít năng lượng,” cậu thêm. “Trông chị kiệt quệ hẳn.”
“Chị khỏe mà…” cô bé thì thào. “Đặt chị xuống.” Nhưng rồi hai mắt cô líu ríu khép lại lần nữa.
Nhóm di chuyển âm thầm ngang qua là sương đượm mùi vanilla, Scathach dẫn đầu và Flamel bọc hậu. Họ có thể nghe khắp quanh mình tiếng bước chân nặng nề của những đôi giàu bốt, tiếng leng keng của vũ khí, và những hiệu lệnh câm của cảnh sát và lực lượng đặc biệt Pháp trèo lên bậc thang. Vài người trong số đó tiến sát họ thật nguy hiểm, và hai lần Josh buộc phải cúi mình thấp xuống khi một hình dạng trong bộ đồng phục phóng ngang.
Scathach chợt hiện lên lờ mờ khỏi đám sương dày, đặt một ngón tay ngắn, mũm mĩm lên môi. Những giọt nước li ti làm đông cứng mái tóc đỏ chói của cô, làn da trắng của cô trông cò xanh xao hơn thường ngày. Cô dùng chiếc nhị khúc có chạm trổ trang trí của mình chỉ qua phía bên phải. Màn sương cuộn xoáy lại và thình lình một hiến binh đứng sựng gần như ngay trước mặt họ, gần đến nỗi có thể chạm vào được, bộ đồng phục sẫm màu của anh ta lấp lánh những hạt nước. Đằng sau anh ta, Josh có thể nhận ra một nhóm cảnh sát Pháp đang tụm lại quanh vật gì trông giống như một cái vòng quay ngựa gỗ đã lỗi thời. Tất cả bọn họ đều nhìn chằm chằm lên phía trên, và Josh nghe cái từ brouillard rầm rì không biết mấy lần. Cậu biết bọn họ đang nói về một màn sương kỳ lạ tự dung giáng xuống khắp ngôi nhà thờ. Người hiến binh tay cầm khẩu súng lục được cấp phát nội bộ, nòng súng chĩa lên trời, nhưng ngón tay anh ta cong nhẹ trên cò súng và một lần nữa nhắc Josh nhớ ngay rằng nhóm nhỏ này của cậu đang trong vòng nguy hiểm biết bao – không chỉ từ những kẻ thù thuộc giống người và không thuộc giống người của Flamel, mà còn từ những kẻ người như tất cả mọi người.
Họ bước xuống có lẽ thêm vài chục bậc nữa… và đột nhiên màn sương dừng lại. Đúng lúc đó Josh ôm cô chị gái của cậu bước xuyên qua đám mây mù dày đặc; rồi thì, như thể cậu vừa bước xuyên qua một bức màn, cậu đang đứng trước một phòng trưng bày nghệ thuật nhỏ xíu, một quán café và một cửa hàng bán đồ lưu niệm. Cậu quay lại nhìn ra sau và thấy rằng cậu đang đối mặt với một bức tường mây mù đặc quẹo. Lực lượng cảnh sát trông còn nhỏ hơn những hình dạng mơ hồ chìm trong làn sương trắng ngả vàng.
Scathach và Flamel bước ra khỏi vùng u ám. “Cho phép chị,” Scathach nói, ôm giữ Sophie và nhấc cô khỏi cánh tay Josh. Cậu cố cưỡng lại – Sophie là chị gái sinh đôi của cậu, trách nhiệm của cậu – nhưng cậu kiệt sức. Mặt sau bắp chân cậu bị chuột rút, và các cơ bắp trên cánh tay bỏng rát vì đã cố ẵm chị cậu xuống một khoảng dăng dặc mà cậu cảm thấy những bậc thang không sao đếm xuể.
Josh nhìn vào đôi mắt xanh nhạt của Scathach. “Chị ấy rồi sẽ ổn chứ ạ?”
Người chiến binh vùng Celt cổ xưa mở miệng định trả lời, nhưng Nicholas Flamel lắc đầu, ra dấu im lặng. Ông đặt bàn tay trái mình lên vai Josh, song cậu bé hất ra. Flamel để ý thấy cử chỉ đó, nhưng ông phớt lờ đi. “Cô bé cần ngủ. Mới vừa làm tan chảy tên tulpa chẳng bao lâu thì lại đến tạo sương mù, chừng ấy đã hoàn toàn vắt kiệt chút sức mạnh cuối cùng của cơ thể cô bé rồi,” Flamel nói.
“Chính chú đã bảo chị ấy tạo ra sương mù,” Josh nói nhanh, như đổ lỗi.
Nicholas dang hai tay. “Chú có thể làm gì khác hơn?”
“Cháu…cháu không biết,” Josh thừa nhận. “Hẳn chú có thể làm gì đó. Cháu đã từng thấy chú ném những ngọn giáo năng lượng xanh lè.”
“Sương mù cho phép chúng ta trốn thoát mà không làm hại một ai.” Flamel nói.
“Trừ Sophie,” Josh trả lời chua chát.
Flamel nhìn cậu một lúc lâu, rồi ông quay chổ khác. “Đi thôi.” Ông gật đầu về phía con phố ngang có dốc đứng chựng đâm bổ xuống, và họ hối hả đi vào đêm. Scathach mang Sophie không chút cố gắng, Josh chật vật bám theo. Cậu sẽ luôn đi bên cạnh chị gái mình.
“Đi đến đâu vậy?” Scathach hỏi.
“Chúng ta cần phải ra khỏi những con phố,” Flamel nói thầm. “Có vẻ như mỗi người hiến binh trong thành phố này đều đổ về Sacre-Coeur. Tôi cũng thấy những lực lượng đặc biệt và cảnh sát mặc thường phục mà tôi đoán là thuộc dịch vụ bí mật nào đó. Một khi họ nhận thấy là chúng ta không ở trong nhà thờ, có thể họ sẽ dùng cảnh sát bao vây khu vực này và lùng sục từng con phố một.”
Scathach cười khẩy, thoáng thấy những chiếc răng cửa dài của cô hằn lên trên môi. “Và hãy đối diện với điều này: đích xác là chúng ta không hề kín đáo gì đâu.”
“Chúng ta cần phải tìm thấy một nơi để-” Nicholas Flamel cất tiếng.
Một viên cảnh sát phóng quành qua góc phố, trông anh chưa đầy mười chín tuổi – cao, gầy và lóng ngóng – với hai gò má đỏ tươi và hai đuôi râu mép mờ nhạt trên môi. Một tay đặt lên bao súng ngắn; tay kia nắm chặt cái mũ. Anh ta thắng trượt cả chân ngay đằng trước họ và thốt lên những tiếng ú ớ kinh ngạc trong lúc lần mò tìm khẩu súng trong cái bao. “Hey! Arretez!” (dừng lại)
Nicholas thọc mạnh về phía trước và Josh thực sự nhìn thấy làn mây mù màu xanh chảy từ bàn tay Nhà Giả kim trước khi những ngón tay ông lướt qua trên ngực tay hiến binh. Ánh sáng màu ngọc lục bảo sáng rực quanh mình viên cảnh sát, viền quanh đó bằng một màu xanh lục lấp lánh, và người thanh niên gập người xuống đất.
“Chú vừa làm gì vậy?” Josh hỏi bằng một giọng thầm thì đầy kinh khiếp. Cậu nhìn viên cảnh sát đang nằm bất động, rồi chợt thấy ớn lạnh và kinh tởm. “Chú không…chú không…giết chết anh ta chứ?”
“Không,” Flamel mệt mỏi nói. “Chỉ là bị quá tải đối với luồng điện của anh ta thôi. Hơi giống như điện giật. Anh ta sẽ tỉnh lại ngay và chỉ bị nhức đầu.” Ông ấn mấy đầu ngón tay lên trước trán mình, xoa bóp ngay phía trên mắt trái. “Hy vọng nó không tệ như cơn nhức đầu của chú,” ông nói thêm.
“Ông biết mà,” Scathach nói dứt khoát, “màm trình diễn nhỏ của ông hẳn sẽ thông báo cho Machiavelli vị trí của chúng ta.” Hai cánh mũi cô nở ra, còn Josh thì hít sâu; không khí quanh họ bốc mùi bạc hà: mùi hương đặc trưng cho năng lượng của Nicholas Flamel.
“Tôi có thể làm gì khác nào?” Nicholas chống chế. “Hai tay cô bận bịu quá rồi.”
Scathach phẫn nộ cong môi lên. “Chắc hẳn là tôi có thể xử lý hắn. Nhớ lại đi, ai đem ông ra khỏi nhà tù Lubyanka khi cả hai tay tôi bị trói quặt ra sau lưng?”
“Chị đang nói về cái gì vậy? Lubyanka ở đâu?” Josh hỏi, đầy bối rối.
“Moscow.” Nicholas liếc xéo về phía Josh. “Đừng hỏi; đó là một câu chuyện dài,” ông thì thầm.
“Ông ấy sắp bị bắn như một tên gián điệp,” Scathach nói một cách vui sướng.
“Một câu chuyện rất dài,” Flamel lặp lại.
Theo sau Scathach và Flamel len lỏi qua các con phố quanh co của vùng Montmartre, Josh nghĩ lại chỉ một ngày trước John Dee đã mô tả thế nào về Nicholas Flamel cho cậu nghe.
“Ông ta có rất nhiều lốt trong đời mình: một bác sĩ điều trị và một tên đầu bếp, một người bán sách, một người lính, một giáo viên ngôn ngữ và hóa học, cả một nhân viên văn phòng luật lẫn một tên ăn cắp. Nhưng giờ đây thì ông ta, như ông ta đã luôn là, một kẻ nói dối, một tay lòe bịp, một tên trộm.”
Và một tên gián điệp, Josh thêm vào. Cậu tự hỏi không biết liệu Dee đã biết điều này chưa. Cậu nhìn kỹ người đàn ông có vẻ ngoài rất bình thường: mái tóc cắt sát và đôi mắt xanh nhạt, mặc quần jeans đen và chiếc áo thun bên trong chiếc áo khoác bằng da thuộc màu đen mòn vẹt, ông hẳn sẽ không gây chút chú ý nào khi đi qua bất kỳ con đường nào tại bất kỳ thành phố nào trên khắp thế giới. Song có một thứ ông ta hoàn toàn không bình thường: sinh năm 1330, tuyên bố mình làm việc vì sự tốt đẹp của loài người, bằng cách giữ cuốn Codex cách xa khỏi tầm tay Dee và những tạo vật trong bóng tối đầy kinh hãi mà hắn phục vụ, các Elder đen tối.
Nhưng Flamel phục vụ cho ai? Josh tự hỏi. Chính xác Flamel bất tử là ai?
Dạ Phong
22-12-2010, 06:52 PM
Chương 7
Kiềm chế chặt tính khí mình lại, Niccolo Machiavelli sải bước xuống bậc thang Sacre-Coeur, sương mù uốn éo, cuộn xoáy lại đằng sau hắn như một cái áo choàng. Dù không khí đã bắt đầu trong trẻo, nhưng vẫn còn nhuốm mùi hương vanilla. Machiavelli quay ngoắt đầu ra sau và hít sâu, gom mùi hương này vào mũi. Hắn sẽ nhớ mùi hương này; nó đặc biệt như một dấu vân tay. Mọi người trên hành tinh này đều sở hữu một luồng điện – điện trường này bao quanh cơ thể người – và khi người ta tập trung vào điện trường này hoặc điều khiển nó, nó sẽ tương tác lại với hệ thống endorphin của người sử dụng và tuyến thượng thận sẽ tiết ra một mùi hương đặc trưng độc đáo vủa người đó: mùi hương dấu hiệu. Machiavelli hít một lần cuối. Hắn gần như có thể nếm được vị vanilla trong không khí, khô lạnh, trong trẻo và thuần khiết: mùi hương của một dạng năng lượng thô chưa qua huấn luyện.
Và ngay lúc đó, không chút nghi ngờ Machiavelli biết rằng Dee nói đúng: đây là mùi hương của một đứa trong cặp sinh đôi huyền thoại.
“Tôi muốn toàn bộ vùng này phải được phong tỏa hết,” Machiavelli gắt lên với những cảnh sát cấp cao đã tụ họp lại thành hình vòng cung dưới chân bậc thang trong Quảng trường Willette. “Dùng hàng rào cảnh sát bao vây mọi con đường, mọi ngõ ngách từ đường Custine đến đường Caulaincouart, từ đại lộ de Clignancourt. Tôi muốn phải tìm ra những người này cho được.”
“Ông đang bảo cấm cửa toàn bộ Montmartre đó ạ,” một viên cảnh sát da rám nắng sạm màu nói tiếp sau một sự im lặng. Anh ta nhìn những người cộng sự để cầu mong hỗ trợ, nhưng không ai trong số họ đón bắt ánh mắt anh. “Giờ đang là cao điểm của mùa du lịch,” anh ta vừa chống chế vừa quay lại Machiavelli.
Machiavelli đi vòng quanh người đội trưởng, khuôn mặt hắn dửng dưng như cái mặt nạ mà hắn sưu tập. Đôi mắt xám lạnh của hắn nhìn người đàn ông xoi mói, vừa vặn hơn một lời thì thầm. “Anh biết tôi là ai không?” Hắn hỏi nhẹ nhàng.
Viên đôi trưởng, người cựu chiến binh đã được tặng thưởng huân chương của đội lính lê dương Pháp, cảm thấy có cái gì lạnh buốt và chua lét trong cổ họng mình khi anh ta nhìn vào đôi mắt như làm bằng đá của người đàn ông. Liếm đôi môi chợt khô se lại, anh nói, “Ông là quý ông Machiavelli, thủ lĩnh mới của Direction Generale de la Secutite Exterieure. Nhưng đây là phần việc của cảnh sát, thưa ngài, không thuộc về an ninh đối ngoại. Ông không có quyền_”
“Tôi thấy đây là việc của DGSE,” Machiavelli mềm mỏng ngắt lời. “Tổng thống trao quyền trực tiếp cho tôi. Tôi sẽ đóng cửa toàn bộ thành phố này nếu cần. Tôi muốn phải tìm được những người này. Đem nay, phải ngăn chạn một thảm họa.” Hắn vẫy tay mơ hồ về hướng Sacre-Coeur, bây giờ đã vươn ra khỏi làn sương mù mỏng mảnh. “Ai biết bọn chúng đã lên những kế hoạch khủng bố gì khác? Tôi muốn có báo cáo diễn tiến hàng giờ, từng giờ một,” hắn kết thúc, rồi không chờ một câu trả lời đáp lại, hắn bước vào xe hơi của mình, nơi đó người tài xế trong bộ đồ màu sẫm đang chờ hắn, hai tay khoanh trước bộ ngực đồ sộ. Người tài xế, nửa khuôn mặt ẩn sau cặp kính râm phản chiếu úp sát quanh mắt, mở cửa xe và đóng lại nhẹ nhành sau lưng Machiavelli. Sau khi đã chui vào bên trong chiếc xe, người tài xế với hai bàn tay đeo găng đen đặt hờ trên vòng tay lái bọc da, kiên nhẫn ngồi chờ chỉ thị. Tấm kính chắn cách biệt chia cắt khoang tài xế với lưng chiếc xe rì rì hạ xuống.
“Flamel đang ở Paris. Hắn ta sẽ đi đau?” Machiavelli hỏi mà không một lời mào đầu.
Tay bộ hạ được gọi là Dagon đã phục vụ Machiavelli gần bốn trăn năm rồi. Đó là cái tên để người ta biết đến nó qua các thiên niên kỷ, và không kể đến vẻ bề ngoài, thì nó chưa bao giờ có tí mảy may nào là con người. Xoay vào chổ ngồi, nó mở cặp kính râm phản chiếu ra. Trong hệt như mắt cá, to đùng và lỏng quẹt đằng sau một cái vảy trong suốt, đờ đẫn không hồn: nó không có mí mắt. Khi nó nói, hai hàng răng nhỏ xíu mọc bừa bãi hiện ra sau đôi môi mỏng dính. “Ai là đồng bọn của hắn?” Dagon hỏi, chuyển từ một thứ tiếng Pháp tồi tệ sang loại tiếng Ý kinh khủng trước khi rơi trở lại thành thứ ngôn ngữ có âm nước sủi sùng sục thời tuổi trẻ xa xưa của nó.
“Flamel và vợ hắn ta luôn luôn là những người sống thui thủi,” Machiavelli nói. “Đó là lý do tại sao bọn chúng có thể sống sót lâu như vậy. Theo những thông tin tốt nhất trong hiểu biết của tôi, hai vợ chồng đã không còn sống trong thành phố này từ hồi cuối thế kỷ mười tám.” Hắn rút cái máy tính xách tay màu đen thanh mảnh ra và đưa ngón trỏ qua thiết bị đọc dấu vân tay tích hợp. Chiếc máy kêu tách một tiếng rồi màn hình nhấp nháy chạy.
“Nếu bọn chúng đến đây qua cổng tuyến, thì chúng không chuẩn bị gì cả,” Dagon nói giọng ướt mèm. “Không tiền, không hộ chiếu, không quần áo nào khác ngoài mấy thứ đang mặc trên người.”
“Chính xác,” Machiavelli thì thầm. “Vậy chúng cần phải tự mình đi tìm một tên đồng bọn.”
“Giống người hay bất tử?” Dagon hỏi.
Machiavelli cân nhắc một lát. “Loài bất tử,” cuối cùng hắn nói. “Tôi không chắc là chúng quen biết nhiều giống người trong thành phố này.”
“Vậy thì những người bất tử nào hiện đang sống ở Paris?” Dagon hỏi.
Những ngón tay của tên người Ý nhấn vào một chuỗi phím phức tạp và màn hình cuộn lại để lộ ra mộ thư mục Temp. Có hàng tá các file .jpg, .bmp và .tmp trong thư mục này. Machiavelli tô sáng một cái và nhấn enter. Một chiếc hộp xuất hiện ngay giữa màn hình.
Nhập mật khẩu.
Những ngón tay mảnh mai của hắn lách cách gõ mật khẩu trên bàn phím Del modo di trattare I sudditi della Val di Chiana ribellari, và một dữ liệu nhấp nháy mở ra, dữ liệu này được mã hóa bằng quá trình mật hóa 256-bit AES không ai phá được, một hệ thống mật hóa kiểu này đã được hầu hết các chính phủ sử dụng đối với các file được xếp vào hàng tuyệt mật của họ. Trải qua dòng đời rất dài của mình, Niccolo Machiavelli đã cóp nhặt được một tài sản kếch xù, nhưng hắn chỉ xem duy nhất file này là vật quý báu có giá trị nhất. Đó là một hồ sơ hoàn hảo về tất cả những người bất tử vẫn còn đang sống trong thế kỷ hai mươi mốt, được biên soạn nhờ mạng lưới gián điệp xuyên khắp địa cầu của hắn – hầu hết những người gián điệp này đều không biết họ đang làm việc cho hắn. Hắn kéo thanh cuộn ngang qua những cái tên. Không ai trong những chủ nhân Elder Đen tối của hắn biết được hắn đang sở hữu danh sách này, và chắc chắn rằng hắn cũng biết cả những địa điểm và thuộc tính của hầu hết các Elder và Elder Đen tối đang đi lại trên trái đất hoặc trong những Vương quốc Bóng tối tiếp giáp với thế giới này.
Kiến thức, Machiavelli biết rõ, là sức mạnh.
Dù có ba trang màn hình dành cho Nicholas và Perenelle Flamel, nhưng thông tin thô rất khó tìm. Có hàng trăm entry, mỗi cái là một báo cáo việc người ta trông thấy hai vợ chồng Flamel kể từ sau cái chết theo giả thiết của họ vào năm 1418. Họ đã được nhìn thấy gần như tại mọi lục địa trên thế giới – ngoại trừ Úc. Trong vòng 150 năm qua, họ đã sống ở lục địa Bắc Mỹ, lần được trông thấy thứ nhất có xác nhận và chứng thực của thế kỷ này là ở Bugffalo, New York, tháng Chín 1901. Hắn bỏ qua phần đánh dấu Những người bạn bất tử có quen biết. Chỗ đó đang để trống.
“Không có gì hết. Tôi không có hồ sơ về sự giao thiệp của nhà Flamel với các người bất tử khác.”
“Nhưng bây giờ y đã trở lại Paris,” Dagon nói, mỗi khi nói, tiếng súng sục lại phát ra trên môi hắn. “Y sẽ tìm đến những người bạn cũ. Người ta thường cư xử khác đi khi về nhà,” hắn thêm; “sự cảnh giác bị xao lãng. Và không quan trọng là Flamel đã sống xa thành phố này bao lâu, y sẽ vẫn coi đây là nhà mình.”
Noiccolo Machiavelli nhìn lên đầu màn hình máy tính. Song một lần nữa hắn được gợi nhắc sao mà hắn biết về tên đầy tớ trung thành của hắn ít thế. “Còn nhà anh ở đâu, Dagon?” Hắn hỏi.
“Mất rồi, mất lâu rồi.” Một lớp màng mờ đục hấp háy giăng ngang qua khối cầu bự chảng trong đôi mắt nó.
“Tại sao anh ở lại với tôi?” Machiavelli tự hỏi nói thành lời. “Tại sao anh không tìm được những đứa khác cùng loại với anh?”
“Họ cũng biến mất hết rồi. Tôi là tên cuối cùng trong loài của tôi, và hơn nữa, ông không phải là cái gì khác tôi lắm đâu.”
“Nhưng anh không phải là loài người,” Machiavelli mềm mỏng nói.
“Còn ông?” Dagon hỏi, đôi mắt mở lớn, không chớp.
Machiavelli nhưng một lát rồi cuối cùng mới gật đầu và quay trở lại với màn hình. “Vì vậy chúng ta đang tìm một người nào đó mà nhà Flamel quen biết khi bọn họ còn sống ở đây. Và chúng ta biết họ đã không còn ở thành phố này kể từ thế kỷ mười tám, thế thì hãy giới hạn cuộc tìm kiếm của chúng ta vào những người bất tử quanh quẩn thời đó thôi.” Những ngón tay của hắn gõ nhẹ vào phím, lọc kết quả. “Chỉ có bảy. Năm trung thành với chúng ta.”
“Còn hai người khác?”
“Catherine de Medici không còn sống ở đường du Dragon.”
“Bà ta không phải người Pháp,” Dagon lầm bầm nhớp nháp.
“Ừ, bà ta là mẹ của ba ông vua người Pháp,” Machiavelli nói cùng với một nụ cười hiếm hoi. “Nhưng bà ta chỉ trung thành với chính mình…” Giọng hắn kéo dài ra và chợt hắn ngồi thẳng lên. “Nhưng chúng ta có gì ở đây này?”
Dagon ở yên không nhúc nhích.
Niccolo Machiavelli xoay màn hình máy tính để tên người hầu có thể thấy hình của một người đàn ông đang nhìn chằm chằm thẳng vào ống kính. Mái tóc đen quăn dày thả xuống hai vai, đóng khung một khuôn mặt tròn. Đôi mắt màu xanh rất lạ lùng.
“Tôi không biết ông này,” Dagon nói.
“Ồ, nhưng tôi biết. Tôi biết hắn ta rất rõ. Đây là người bất tử từng được gọi là Comte de Saint-Germain. Hắn ta là pháp sư, nhà đầu tư, nhà soạn nhạc… và nhà giả kim.” Machiavelli đóng chương trình và tắt máy tính. “Saint-Germain cũng là học trò của Nicholas Flamel. Và hiện đang sống tại Paris,” hắn kết thúc trong chiến thắng.
Dagon mỉm cười, miệng hắn há thành chữ O tròn vo đầy những cái răng như dao cạo. “Flamel có biết Saint-Germain ở đây không?”
“Tôi không rõ. Không ai nắm được tầm hiểu biết của Nicholas Flamel.”
Dagon kéo cặp mắt kính râm về lại đúng chổ. “Còn tôi lại đang nghĩ rằng ông biết mọi thứ.”
Dạ Phong
23-12-2010, 05:22 PM
CHƯƠNG 8
Chúng ta cần phải nghỉ ngơi,” cuối cùng Josh nói. “Cháu không thể đi xa hơn được nữa.” Cậu dừng lại và dựa vào một tòa nhà, cúi oằn người và thở khò khè. Mỗi hơi thở là một nỗ lực, và cậu bắt đầu thấy những chấm đen nhảy múa trước mắt mình. Cậu sắp nôn ra bất cứ lúc nào. Bằng kinh nghiệm, cậu cảm thấy rằng cậu cần phải ngồi xuống và nạp một ít chất lỏng vảo cơ thể.
“Cậu ấy nói đúng đó.” Scatty quay sang Flamel. “Chúng tôi cần nghỉ ngơi, thậm chí chỉ một chút.” Cô vẫn ôm Sophie trên tay. Những tia sáng lé loi màu xám của ánh sáng chiếu lên những nóc nhà Paris về hướng đông, những người đầu tiên đi làm việc ca sớm đã bắt đầu xuất hiện. Nhóm người lánh nạn cứ bám theo những con phố ngang tối om, và cho đến nay vẫn không ai chú ý đến nhóm lạ này, nhưng điều đó nhanh chóng thay đổi vì đường phố thoạt tiên đầy những người dân Paris, rồi kế tiếp là du khách.
Nicholas đứng như tạc vào cửa một con phố hẹp. Ông ta liếc lên liếc xuống rồi mới quay mình ngó ra sau lưng. “Chúng ta phải đi tiếp,” ông phản đối. “Mỗi giây chúng ta trì hoãn sẽ mang Machiavelli đến gần chúng ta hơn.”
“Chúng tôi không thể,” Scatty nói. Cô nhìn Flamel, và chỉ một tích tắc, đôi mắt xanh lục nhạt của cô sáng lên. “Hai đứa nhỏ cần phải nghỉ,” cô nói, rồi nhẹ nhàng thêm, “và cả ông cũng vậy, Nicholas. Ông mệt lử ra rồi.”
Nhà Giả kim nhìn lại cô và rồi ông gật đầu, hai vai ông xuội xuống. “Cô nói đúng, tất nhiên. Tôi sẽ làm theo lời cô.”
“Chúng ta có thể vào được một khách sạn không?” Josh gợi ý. Cậu mệt ghê gớm, hai mắt và cổ họng như có sạn, còn cái đầu thì đập bưng bưng.
Scatty lắc đầu. “Người ta sẽ đòi hộ chiếu…” Sophie cựa quậy trên cánh tay cô, và Scathach nhẹ nhàng thả cô bé xuống đất, lưng tựa vào tường.
Tức thì Josh đến bên cô. “Chị tỉnh rồi,” cậu nói, giọng nhẹ nhõm.
“Chị thực sự là không ngủ,” Sophie trả lời, cảm thấy lưỡi cô dày cộp trong miệng. “Những gì xảy ra chị đều biết hết, nhưng cứ như thể chị đang nhìn nó từ bên ngoài. Giống như đang xem tivi ấy.” Cô ấn hai tay vào thắt lưng và kéo mạnh trong khi quay tròn cổ. “Úi. Đau quá.”
“Đau cái gì vậy?” Josh hỏi ngay.
“Mọi thứ.” Cô bé cố nằm duỗi thẳng, nhưng các cơ bắp đau điếng phản kháng lại và một cơn nhức đầu khổ sở đập bình bịch phía sau mắt cô.
“Mình có thể gọi ai ở đây đến giúp không?” Josh nhìn từ Nicholas sang Scathach. “Có người bất tử hay Elder nào không?”
“Những người bất tử và Elder có ở khắp nơi,” Scatty nói. “Nhưng rất ít người là bạn như chúng ta đây,” cô nói thêm, với một nụ cười không chút đùa cợt.
“Sẽ có người bất tử ở Paris,” Flamel tán thành một cách chậm rãi, “nhưng không rõ phải tìm họ ở đâu, và ngay cả chú có làm được, chú cũng không biết lòng trung thành của họ đặt vào đâu. Perenelle mới biết,” ông nói thêm, giọng thoáng buồn.
“Bà ngoại chị có biết không?” Josh hỏi Scatty.
Nữ Chiến binh liếc nhìn cậu. “Chắn chắn là biết.” Cô quay sang nhìn Sophie. “Trong tất cả những ký ức mới của em đó, em có thể gợi lại mọi thứ về người bất tử hay Elder đang sống ở Paris không?”
Sophie nhắm mắt và cố tập trung, nhưng cảnh vật và hình ảnh lóe sáng từng hồi – lửa tuôn từ bầu trời đỏ như máu, một kim tự tháp mái bằng đồ sộ sắp bị chôn vùi bởi một làn sống khổng lồ - hỗn loạn và khiếp đảm. Cô lắc đầu, rồi ngừng lại. Ngay cả những cử động đơn giản nhất cũng làm đau điếng. “Em không thể suy nghĩ được,” cô thở dài. “Cái đầu em đầy nhóc, giống như sắp vỡ tung ra.”
“Bà Phù thủy có thể biết,” Flamel nói, “nhưng chúng ta không có cách gì liên lạc với bà. Bà ấy không có điện thoại.”
“Những người hàng xóm, bạn bè thì sao?” Josh hỏi. Cậu quay trở lại cô chị gái. “Em biết là chị không muốn nghĩ về điều này, nhưng chị phải làm. Nó rất quan trọng.”
“Chị không thể nghĩ ngợi gì được…” Sophie vừa cất tiếng vừa quay đi và lắc đầu.
“Đừng nghĩ. Hãy trả lời,” Josh cáu kỉnh. Cậu hít thở nhanh và hạ giọng, nói chầm chậm.
“Chị, ai là bạn thân nhất của Bà Phù thủy Endor ở Ojai?”
Đôi mắt xanh da trời nhạt của Sophie nhắm lại và cô lắc lư như thể sắp ngất đi. Rồi cô mở mắt, lắc đầu. “Bà ấy không có người bạn nào ở đó. Nhung mọi người đều biết bà. Bà có thể gọi cửa tiệm cạnh bà…” cô gợi ý. Rồi lắc đầu. “Ở đó quá trễ rồi.”
Flamel gật. “Sophie đúng; tiệm sẽ đóng cửa vào giờ tối thế này.”
“Nó sẽ đóng cửa, đúng,” Josh đồng ý, một chút xúc động len vào giọng cậu, “nhưng khi chúng ta rời Ojai, nơi đó rất hỗn độn. Và đừng quên, cháu đã lái chiếc Hummer đâm vào vòi phun nước ở công viên Libbey; phải có ai đó chú ý. Cháu cá là cảnh sát và báo chí đang ở đó ngay bây giờ. Và báo chí phải trả lời vài câu hỏi nếu chúng ta hỏi đúng người. Ý cháu là, nếu cửa tiệm của Bà Phù thủy bị hư hại thì chắc chắn họ đang tìm kiếm một câu chuyện.”
“Có thể…” Flamel bắt đầu. “Chú chỉ cần biết tên của tờ báo.”
“Ojai Valley News, 646-1476” Sophie nói ngay. “Cháu nhớ rất rõ…hay là Bà Phù thủy nhớ nhỉ,” cô nói thêm, rồi rùng mình. Có quá nhiều ký ức trong đầu cô, quá nhiều ý nghĩ và tư tưởng…và không chỉ là những hình ảnh dễ sợ và kỳ quái của những người và những nơi hẳn không bao giờ tồn taị, mà còn là những mối quan tâm thế tục bình thường: số điện thoại và công thức làm món ăn, tên và địa chỉ của những người cô chưa bao giờ nghe nói đến, những bức hình trong những chương trình tivi cũ, những tấm poster giới thiệu phim. Thậm chí cô còn biết từng bài hát của Elvis Presley.
Nhưng tất cả những thứ này đều là ký ức của Bà Phù thủy. Và ngay bây giờ, cô phải đấu tranh để nhớ số điện thoại di động của chính mình. Chuyểnk gì sẽ xảy ra nếu ký ức của Bà Phù thủy lớn lên quá nhanh đến nỗi lấn át ký ức của riêng cô? Cô cố gắng tập trung vào khuôn mặt của bố mẹ, Richard và Sara. Hàng trăm khuôn mặt thoáng qua, hình ảnh của những người nối tiếng tạc vào đá, những cái đầu của pho tượng, màu sơn phết lên bên trên các mảnh vở đồ gốm. Sophie bắt đầu muốn điên lên. Tại sao cô không thể nhớ ra khuôn mặt của bố mẹ? Nhắm mắt, cô tập trung hết sức vào lần cuối cùng cô gặp cha và mẹ. Hình như khoảng ba tuần trước, ngay trước lúc hai ông bà rời nhà đi khai quật tại Utah. Nhiều khuôn mặt lộn xộn đằng sau đôi mắt nhắm nghiền của Sophie: những hình ảnh trên những mảnh giấy da nén, những đoạn bản thảo hay những bức tranh sơn dầu rạn nứt, những khuôn mặt trong mấy bức ảnh màu nâu đỏ đã phai mờ, trong những tờ báo ố vàng…
“Sophie?”
Và kia rồi, trong vùng sắc màu lóe sáng, khuôn mặt của bố mẹ vụt hiện ra trong đầu cô, và Sophie cảm thấy ký ức của Bà Phù thủy nhạt nhòa đi và ký ức của cô nổi trên bề mặt trở lại. Đột nhiên cô biết số điện thoại của mình.
“Chị?”
Cô mở mắt và nhìn cậu em trai. Cậu ta đứng ngay trước mặt cô, mặt cậu để sát mặt chị, đôi mắt cậu đầy vẻ quan tâm.
“Chị OK mà,” cô thầm thì. “Chị chỉ cố nhớ vài thứ.”
“Nhớ gì vậy?”
Cô ráng cười. “Số điện thoại của chị.”
“Số điện thoại của chị á? Sao vậy?” Cậu im bặt, và rồi nói thêm, “Ít người nhớ số điện thoại của riêng họ. Lần cuối cùng chị tự điện thoại cho mình là lúc nào?”
Hai bàn tay ủ quanh những ca sô-cô-la nóng có vị vừa đắng vừa ngọt, Sophie và Josh ngồi đối diện nhau trong tiệm café mở suốt đêm gần trạm metro Gare di Nord, nếu không có họ quán hoàn toàn trống trải. Chỉ có một nhân viên đằng sau quầy, người bán hàng đeo một cái bảng tên lộn ngược ghi chữ ROUX.
“Chị muốn đi tắm,” Sophie nói dứt khoát. “Chị cần phải gội đầu và đánh răng, và chị cần thay quần áo. Giống như mấy ngày rồi chị chưa tắm vậy.”
“Em nghĩ là quá trời ngày. Trông chị thật kinh khủng,” Josh tán thành. Cậu đưa tay gỡ một lọn tóc vàng dính vào cằm chị gái.
“Chị cũng cảm thấy kinh khủng,” Sophie lào thào. “Mùa hè năm ngoái hồi mình còn ở Long Beach chị ăn trơn một cây kem, rồi còn thêm một cái chili dog, khoai tây chiên quắn và một ly cối root beer, nhớ không?”
Josh cười toe. “Chị còn xơi hết mấy cái buffalo wings của em. Cả cây kem của em nữa!”
Sophie mỉm cười nhớ lại, nhưng nụ cười của cô nhanh chóng nhạt đi. Dù nhiệt độ ngày hôm đó đã lên tới ba mươi mấy độ, cô vẫn cảm thấy rét run, những giọt mồ hôi lạnh lẽo chảy xuống lưng như quả banh sắt ai đặt vào lõm thượng vị của cô. May là cô không siết chặt đai ai toàn trước lúc nôn thốc nôn tháo ra, nhưng kết quả vẫn là một mớ hỗn độn ra trò, và cả nhà không thể dùng chiếc xe hơi ấy ít nhất là một tuần sau đó. “Đó là cảm giác của chị ngay bây giờ: lạnh, run rẩy, đau nhừ toàn thân.”
“Nào, cố đừng nôn ra đây,” Josh rù rì. “Em không nghĩ Roux, anh chàng phục vụ vui vẻ của mình, sẽ cảm kích đâu.”
Roux làm việc ở quán cafe bốn năm rồi, và tính đến nay anh đã bị cướp hai lần và thường bị đe dọa nhưng chưa bao giờ bị thương. Quán café mở suốt đêm đã chứng kiến đủ loại người từng đi qua cánh cửa này mang những tính cách lạ lùng và thường là nguy hiểm, và Roux nất định cho rằng bộ tứ bất bình thường này chắc chắn được liệt vào loại thứ nhất và bết đâu chẳng là cả hai. Hai đứa nhỏ khoảng mười mấy tuổi thì dơ bẩn và bốc mùi, trông chúng kinh khủng và kiệt sức. Ông già – có lẽ là ông của bọn trẻ, Roux nghĩ – thì hình dạng cũng chẳng hơn gì mấy. Chỉ có cô gái mắt xanh tóc đỏ mặc áo đen, quần đen với đôi giày bốt chiến đấu cổ thấp – là trông lanh lợi sáng sủa và lanh lợi. Anh ta tự hỏi không biết cô ta có mối quan hệ gì với mấy người kia; không hề thấy có vẻ cô ta có liên quan huyết thống gì với bọn họ, nhưng thằng con trai và đứa con gái lại rất giống nhau như sinh đôi vậy.
Roux chần chừ khi ông già đưa thẻ tín dụng để thanh toán hai phần sô-cô-la nóng. Người ta thường trả những thứ nhỏ nhặt bằng tiền mặt, và anh ta tự hỏi có bao giờ thẻ tín dụng này đã bị ăn cắp không. “Tôi hết đồng euro rồi,” ông già nói với một nụ cười. “Anh có thể ghi lên máy thu ngân hai chục rồi cho tôi ít tiền mặt được không?” Roux thầm nghĩ ông ta nói một thứ tiếng Pháp kỳ lạ, lỗi thời, gần như là một bản nhạc du dương trang trọng.
“Làm vậy là ngược lại với quy định của chúng tôi…” Roux cất tiếng, nhưng một cái nhìn hướng về phía cô gái với mái tóc đỏ có đôi mắt khó chịu làm anh nghĩ lại. Anh thử cười với cô và nói, “Được rồi, tôi nghĩ tôi có thể làm được.” Nếu cái thẻ bị báo là mất cắp, không cách gì quét được nó vào máy.
“Tôi rất biết ơn.” Ông già mỉm cười. “Và xin anh cho chúng tôi mấy đồng keng được không ạ?”
Roux ghi vào máy tám euro cho hai phần sô-cô-la nóng và quẹt thẻ Visa trừ hai mươi euro. Anh ta ngạc nhiên vì đây là thẻ tín dụng của Mỹ; suýt chút nữa anh ta đã tin thiệt rằng giọng ông già là của người Pháp. Ngưng một chút rồi cuối cùng cái thẻ cũng đi qua khe máy, anh ta trừ tiền hai phần thức uống rồi thối lại một tờ mười đồng và hai euro tiền keng. Roux trở lại với cuốn giáo khoa toán cất dưới quầy. Anh ta đã nhầm về nhóm người này. Đây không phải là lần đầu mà cũng không phải là lần cuối. Có lẽ họ là những khách tham quan vừa rời chuyến xe lửa sáng sớm; họ không có gì khác thường cả.
Đúng, có thể không phải tất cả họ. Vẫn giữ đầu cúi xuống, anh ta đưa mắt nhìn cô gái tóc đỏ. Cô đứng quay lưng về phía anh, đang nói chuyện với ông già. Và cô từ từ thong thả quay lại nhìn anh. Cô cười, cong môi lên tí xíu, và Roux chợt thấy cuốn giáo khoa thật thú vị.
Flamel đứng ở quầy của tiệm cafe và nhìn Scathach. “Tôi muốn cô ở lại đây,” ông nói dịu dàng, chuyển từ tiếng Pháp sang tiếng Latin. Đôi mắt ông nhấp nháy về hướng cặp sinh đôi đang ngồi uống sô-cô-la nóng. “Trông chừng hai đứa nhỏ. Tôi đi gọi điện thoại.
Bóng tối gật đầu. “Cẩn thận. Nếu có gì xảy đến mà chúng ta phải chia nhau ra, hãy gặp lại nhau ở Montmartre. Machiavelli sẽ không bao giờ nghĩ chúng ta trở lại đó hai lần. Chúng tôi sẽ chờ ở bên ngoài tiệm ăn – có thể là La Maison Rose – cứ vào năm phút đầu của mỗi giờ.”
“Đồng ý. Nhưng nếu tôi không trở lại trước buổi trưa,” ông tiếp tục rất nhẹ nhàng, “tôi muốn cô đưa hai đứa nhỏ rời khỏi đây.”
“Tôi sẽ không bỏ ông đâu,” Scathach nói đều đều.
“Nếu tôi không trở lại, đó là vì Machiavelli đã bắt được tôi rồi,” Nhà Giả kim nói một cách nghiêm túc. “Scathach, ngay cả cô cũng sẽ không thể cứu tôi khỏi đội quân của hắn đâu.”
“Tôi đã từng đương đầu với quân đội trước đây rồi.”
Flamel đặt bàn tay mình lên vai Nữ Chiến binh. “Bây giờ hai đứa sinh đôi là tài sản của chúng ta. Chúng phải được bảo vệ bằng mọi giá. Cứ tiếp tục huấn luyện Sophie; tìm ai đó Đánh thức Josh và huấn luyện Josh. Và giải cứu Perenelle yêu quý của tôi. Nếu tôi chết, bảo cô ấy linh hồn tôi sẽ đi tìm cô ấy,” ông nói thêm. Rồi, trước khi cô kịp nói gì khác, ông quay người và sải chân bước vào bầu không khí giá lạnh của thời điểm trước giờ rạng đông.
“Sớm trở lại…”, Scathach thì thầm, nhưng Flamel đã đi rồi. Cô quyết định, nếu ông ta bị bắt, mặc kệ những gì ông dặn, cô sẽ xé thành phố này thành từng mảnh cho tới khi tìm thấy ông ấy. Hít một hơi dài, cô nhìn ngoái ra sau lưng và thấy anh chàng bán hàng có cái đầu cạo trọc đang chằm chằm nhìn cô. Một bên cổ anh ta xăm hình mạng nhện, và dọc chiều dài tai của anh ta có ít nhất là một tá những đồ trang sức nhỏ. Cô tự hỏi không biết làm thế sẽ đau cỡ nào. Cô luôn muốn xỏ lỗ tai, nhưng thịt cô lành quá nhanh và cô vừa xỏ xong thì cái lỗ đã bị bít lại.
“Cô uống gì nhé?” Roux vừa hỏi vừa cười niềm nở, cảm nhận một trái banh bằng kim loại trong lưỡi mình.
“Nước,” Scatty nói.
“Vâng. Perrier?”
“Nước thường. Không đá,” cô dặn thêm, và quay ngoắt người đến với hai đứa nhỏ sinh đôi nơi bàn. Cô quay tròn chiếc ghế và dạng chân ngồi xuống, tì hai cánh tay chéo qua đầu ghế và tựa cằm lên cẳng tay.
“Nicholas đi để cố liên lạc với bà ngoại tôi xem bà có biết ai ở đây không. Tôi không rõ ông ấy sẽ làm gì nếu không kiếm được.”
“Tại sao?” Sophie hỏi.
Scatty lắc đầu. “Chúng ta vừa thoát khỏi mấy con phố. Chúng ta may mắn thoát khỏi Sacre-Coeur trước khi cảnh sát tung một hàng rào cảnh sát quanh đó. Chắc bây giờ họ đã tìm kiếm sẽ bắt đầu hướng ra bên ngoài, va nhóm tuần tra sẽ nhận được những mô tả về chúng ta. Việc chúng ta bị phát hiện chỉ còn là vấn đề thời gian.”
“Rồi chuyện gì sẽ xảy ra tiếp?” Josh tự hỏi thành tiếng.
Nụ cười của Scathach kinh khủng. “Rồi họ sẽ thấy tại sao người ta gọi tôi là Nữ Chiến binh.”
“Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta bị bắt?” Josh dai dẳng. Cậu vẫn thấy cái ý tưởng mình là người bị cảnh sát săn đuổi gần như không thể hiểu được. Bị những sinh vật huyền thoại hay người bất tử săn đuổi hầu như còn dễ tưởng tượng hơn. “Chuyện gì sẽ xảy đến với chúng ta?”
“Tụi em sẽ được giao cho Machiavelli. Các Elder đen tối sẽ xem cả hai đứa tụi em là một phần thưởng.”
“Cái gì…” Sophie quay ngoắt về phía Josh. “Họ sẽ làm gì tụi mình?”
“Hai đứa thật sự không muốn biết đâu,” Scathach nói một cách chân thật, “nhưng tin tôi đi khi tôi nói rằng điều đó chẳng có gì vui vẻ cả.”
“Còn chị thì sao?” Josh hỏi.
“Tôi không có bạn bè gì trong số các Elder Đen tối,” Scathach nói êm ru. “Tôi từng là kẻ thù của chúng trên hai ngàn rưỡi năm qua. Tôi tưởng tượng chúng có một nhà tù Vương quốc Bóng tối sẽ dành sẵn cho tôi. Một thứ lạnh và ướt. Chúng biết tôi ghét những thứ đó mà.” Cô mỉm cười, mấy cái đầu răng hằn lên môi cô. “Nhưng chúng chưa bao giờ giữ được chúng ta,” cô nói nhẹ nhàng, “và chúng sẽ không bắt được chúng ta dễ dàng đâu.”
Cô quay người liếc nhìn Sophie. “Em trông thật kinh khủng.”
“Có người nói với em như vậy rồi,” Sophie nói, ủ cả hai bàn tay quanh ly sô-cô-la bóc khói và đưa nó lên môi. Cô hít sâu vào. Có thể ngửi được từng sự tinh tế trong hương ca-cao đậm đặc và cảm thấy dạ dày cô sôi ùng ục, nhắc nhở rằng đã lâu lắm rồi cô chưa ăn gì. Vị sô-cô-la đắng nơi đầu lưỡi cô, mạnh muốn chảy nước mắt, và cô nhớ đã đọc đâu đó rằng sô-cô-la châu Âu có hàm lượng ca-cao cao hơn sô-cô-la Mỹ nơi cô đã từng lớn lên.
Scatty tựa về phí trước và thả giọng mình. “Em cần phải giành thời gian cho bản thân để hồi sức sau tất cả những gì đã trải qua. Đi từ bên này sang bên kia thế giớ bằng cổng tuyến hại sức ghê lắm đó – cảm giác như mệt phờ sau mấy chuyến bay dài dồn lại, tôi nghe nói vậy.”
“Em nghĩ chị chưa bị say như vậy bao giờ hở?” Josh nói khẽ. Có một câu chuyện vui trong nhà kể rằng cậu có thể bị say xe ngay trên một chuyến đi chơi bằng xe hởi chỉ từ một trạm tới trạm kế tiếp thôi.
Scatty lắc đầu. “Không, tôi không bị. Tôi đâu có bay,” cô giải thích. “Em không bao giờ đưa tôi lên một trong những thứ đó được đâu. Chỉ có sinh vật đập cánh mới được cho là thuộc bầu trời. Dù vậy, đã có lần tôi cưỡi lên một con rồng.”
“Một con rồng?” Josh bối rối hỏi.
“Con rồng Ying, một con rồng Trung Quốc.” Sophie nói.
Scathach quay nhìn đứa con gái. “Gọi sương mù đã thiêu đốt hết nhiều năng lượng luồng điện của em. Quan trọng là em đừng dùng sức mạnh đó nữa càng lâu càng tốt.”
Bộ ba ngồi thẳng trở lại khi Roux từ sau quầy bước ra với một ly nước cao. Anh ta đặt nó lên cạnh bàn, cố cười niềm nở với Scatty rồi mới quay đi.
“Em nghĩ anh ta thích chị đó,” Sophie nói và cười nhe răng một chút.
Scatty quay lại nhìn trừng trừng vào anh chàng bán hàng lần nữa, nhưng cặp sinh đôi thấy môi cô cong lên cười. “Anh ta xỏ lỗ tai,” cô nói, đủ lớ để anh ta nghe. “Tôi không thích con trai xỏ lỗ tai.”
Hai cô gái mỉm cười vì sau gáy Roux đỏ bừng lên. “Tại sao lại quan trọng là Sophie đừng dùng năng lượng của mình?” Josh hỏi, kéo cuộc nói chuyện quay về lời Scatty vừa khuyên. Một hồi báo động vang lên trong trí cậu.
Scathach tựa cạnh bàn chồm người về phía trước, cả Sophie và Josh chuyển mình theo để nghe cô nói. “Mỗi lần người ta dùng hết năng lượng của luồng điện tự nhiên, sức mạnh đó bắt đầu lấy xương thịt người ta làm thành nhiên liệu cho nó.”
“Rồi chuyện gì xảy ra?” Sophie hỏi.
“Mấy đứa đã bao giờ nghe người tự bốc cháy chưa?”
Vẻ mặt Sophie đớ ra, nhưng Josh lại gật. “Có. Người ta tự nhiên bùng lên thành ngọn lửa mà chẳng có lý do gì: đó là truyền thuyết đô thị.”
Scatty lắc đầu. “Không phải truyền thuyết. Nhiều trường hợp được ghi lại trong lịch sử,” cô nói đều giọng. “Thậm chí chính tôi đã chứng kiến đôi lần. Nó có thể xảy ra trong tích tắc, và ngọn lửa, thường khởi phát từ dạ dày và phổi, đốt cháy dữ dội đến nỗi sau đó chỉ còn lại một chút tro tàn. Em bây giờ phải cẩn thận, Sophie: thực lòng, tôi muốn em hứa với tôi là sẽ không dùng năng lượng của em trong ngày hôm nay, mặc cho có chuyện gì xảy ra đi nữa.”
“Và chú Flamel đã biết điều này,” Josh nói nhanh không thể giấu cơn giận trong giọng cậu.
“Dĩ nhiên,” Scatty vẫn đều giọng.
“Chú ấy nghĩ là chuyện này không đáng nói cho tụi em biết sai?” Josh nổi cáu. Roux nhìn qua khi nghe Josh lên giọng, cậu hít một hơi dài rồi tiếp tục thì thầm, giọng cậu khàn khàn. “Chú ấy còn chưa nói với tụi em cái gì khác nữa?” cậu gặng hỏi. “Cái gì tiếp theo món quà này đây?” Gần như cậu khạc ra chữ cuối cùng.
“Mọi chuyện xảy ra nhanh quá, Josh à,” Scatty nói. “Chỉ là không có thời gian để huấn luyện hoặc chỉ dẫn các em cho phù hợp thôi. Nhưng tôi muốn hai đứa nhớ rằng Nicholas có những mối quan tâm tốt nhất đến các em.”
“Tụi em đã rất an toàn trước khi gặp chú ấy,” Josh nói.
Da gò má Scatty căng lên và các cơ trong cổ và vai cô giật giật. Có cái gì u ám va thù địch ánh lên trong đôi mắt màu xanh của cô.
Sophie đặt một bàn tay lên cả hai cánh tay của Josh và Scatty. “Đủ rồi,” cô mệt mỏi nói, “chúng ta không nên chiến đấu với nhau.”
Josh định trả lời, nhưng ánh mắt cậu dừng lại nơi khuôn mặt kiệt quệ của cô chị gái làm cậu sợ, và cậu gật đầu. “OK. Từ bây giờ trở đi.” Cậu nói thêm.
Scatty cũng gật. “Sophie nói đúng.” Cô quay nhìn Josh. “Không may là mọi chuyện đều đổ lên người Sophie cùng một lúc. Tiếc là năng lượng của em chưa được đánh thức.”
“Chị tiếc không bằng em tiếc đâu,” cậu không thể ngăn được nỗi cay đắng trong giọng nói mình. Bất chấp những gì cậu đã nhìn thấy, và thậm chí biết là nguy hiểm, cậu vẫn muốn có được những năng lượng mà người chị sinh đôi của cậu đã có. “Chưa phải đã quá trễ, phải không chị?” cậu hỏi nhanh.
Scatty gật đầu. “Em có thể được Đánh thức bất cứ lúc nào, nhưng tôi không biết ai có quyền năng Đánh thức em. Cần phải do một Elder làm, và chỉ một số rất ít có kỹ năng đặc biệt đó.”
“Như ai?” Cậu gặng hỏi, nhìn vào Scatty, nhưng cô chị của cậu lại trả lời, nói như mơ.
“Ở Mỹ, Black Annis hay Persephone có thể làm được.”
Josh và Scatty quay nhìn cô bé.
Sophie chớp mắt ngạc nhiên. “Em biết những cái tên này, nhưng em lại không biết họ là ai.” Đột nhiên, đôi mắt cô đầy nước mắt. “Em giữ tất cả những ký ức này …mà nó không phải là của em.”
Josh nắm tay chị và siết nhẹ.
“Tất cả là ký ức của Bà Phủ thủy Endor,” Scathach nói dịu dàng. “Và hãy mừng là em không biết Black Annis và Persephone là ai. Đặc biệt là Black Annis,” cô nói dứt khoát. “Chị ngạc nhiên không hiểu sao bà ngoại chị biết bà ta ở đâu, mà vẫn để bà ta sống.”
“Bà ta ở Catskills,” Sophie bắt đầu, nhưng Scatty cấu vào lưng bàn tay cô bé. “Úi”
“Tôi chỉ không muốn làm em rối trí,” Scathach giải thích. “Đừng nghĩ đến Black Annis. Có một vài cái tên mà em không bao giờ nên nói lớn ra.”
“Cái đó cũng giống như bảo đừng nghĩ đếng loài voi,” Josh nói, “và rồi tất cả những gì chị có thể nghĩ đến chính là loài voi.”
“Thôi để cũng giống như bảo đừng nghĩ đến loài voi,” Scathach nói khẽ. “Co hai tên cảnh sát trong cửa sổ đang nhìn chằm chằm vào tụi mình đó. Đừng nhìn,” cô vội nói thêm.
Quá trễ. Josh đã quay lại nhìn, và những gì biểu lộ trên khuôn mặt cậu – choáng váng, kinh khiếp, tội lỗi hay lo sợ - đã khiến cả hai người đó phóng nhanh vào quán café, một người rút khẩu súng lục tự động ra khỏi bao súng, người kia vội vã nói vào điện đài ngay lúc anh ta rút cái dùi cui ra.
Dạ Phong
24-12-2010, 06:49 PM
CHƯƠNG 9
Hai bàn tay thọc sâu vào túi áo khoác da, vẫn mặc chiếc quần jeans đen chẳng lấy gì làm sạch và đôi bốt cao-bồi trầy xước, Nicholas trông không có vẻ gì lúng túng so với những công nhân hoặc những người vô gia cư đi làm ca sớm bắt đầu xuất hiện trên đường phố Paris. Những hiến binh tụ tập thành các nhóm nhỏ tại mấy góc phố đang nói chuyện gấp gáp với nhau hay nghe radio và đên cả một cái liếc thoáng qua ông ta thôi họ cũng không có.
Đây không phải lần thứ nhất ông bị săn đuổi trên đường phố, nhưng đây lại là lần đầu tiên ông không có đồng minh hay bạn bè giúp đỡ. Ông và Perenelle đã trở lại thành phố quê hương hồi cuối cuộc chiến tranh bảy năm vào năm 1763. Một người bạn cũ cần sự giúp đỡ của họ, và Flamel không bao giờ từ chối bạn bè. Tuy nhiên, không may Dee phát hiện ra chỗ ở của ông và truy đuổi họ khắp phố bằng một đội quân ám sát vận trang phục đen, không ai trong chúng là con người trọn vẹn.
Hồi đó họ đã bị bắt. Việc trốn thoát bây giờ không dễ dàng gì. Paris đã thay đổi hoàn toàn. Khi Baron Haussumann thiết kế lại Paris vào thế kỷ mười chín, ông ta đã phá hủy một phần lớn các khu vực thuộc thời Trung cổ của thành phố, một thành phố mà Flamel đã từng thuộc nằm lòng. Những nơi ẩn náu và các ngôi nhà gác mái ẩn khuất, tất cả đã biến mất hết. Đã có một thời ông biết từng con phố và ngõ hẻm, từng ngóc ngách ngoằn nghèo và khoảng sân kín đáo của Paris; còn bây giờ ông chỉ biết nó như một khách du lịch trung bình.
Và đúng vào lúc này, không chỉ có mình Machiavelli truy đuổi họ, mà toàn bộ lực lượng cảnh sát Pháp cũng đang canh chừng. Và Dee lại đang trên đường đến đây. Dee, như Flamel biết rõ, có khả năng phán đoán mọi chuyện.
Nicholas hít thở trong bầu không khí mát lạnh trước giờ rạng đông của Paris và liếc nhìn chiếc đồng hồ số rẻ tiền ông đeo nơi cổ tay trái. Nó vẫn chỉ giờ Thái Bình Dương, tám giờ hai mươi tối, nghĩa là – ông làm một bài toán nhanh trong đầu – bây giờ là năm giờ hai mươi sáng tại Paris. Ông thoáng nghĩ đến việc chỉnh đồng hồ theo giờ Greenwhich Mean Time, nhưng nhanh chóng quyết định ngược lại. Một hai tháng trước, khi ông thử chỉnh lại đồng hồ theo chế độ tiết kiệm pin vào ban ngày, nó đã nỗi khùng kêu bíp bíp và chớp nháy liên tục. Ông đã vật lộn với nó cả tiếng đồng hồ vẫn không xong; trong khi Perenelle chỉ mất ba mươi giây đễ sửa được nó. Ông chỉ đeo nó vì nó có chức năng đếm ngược giờ. Mỗi tháng, khi ông và Perenelle pha chế một liều thuốc bất tử, ông chỉnh đồng hồ bắt đầu đếm từ 720 giờ và để nó đếm ngược xuống đến số không. Nhiều năm trôi qua, họ khám phá ra rằng thuốc được tính theo chu kỳ trăng và kéo dài đại khái khoảng ba mươi ngày. Sống trong một tháng đó, họ già đi chầm chậm, hầu như không nhận thấy, nhưng khi họ uống thuốc vào, tác dụng của quá trình làm già đi nhanh chóng được đảo ngược lại – tóc họ đen ra, những vết nhăn mờ đi rồi biến mất, những chỗ khớp đau nhức và cơ bắp cứng nhắc mềm dẻo lại, tầm nhìn và sức nghe trở nên sắc sảo.
Không may, không thể sao chép lại một công thức nào; mỗi tháng có một công thức riêng, mỗi công thức chỉ làm được một lần. Cuốn sách của Pháp sư Abraham được viết bằng một ngôn ngữ có trước khi có loài người, và bằng một kiểu chữ biến đổi liên tục và luôn chuyển động, vì vậy toàn bộ thư viện kiến thức được giữ bên trong tập sách thanh mảnh này. Nhưng cứ mỗi tháng, trên trang bảy của tấm bản thảo bọc đồng ấy, bí mật của Cuộc Sống Bất tử hiện ra. Những con chữ lúc nhúc đưng yên chưa đầy một giờ rồi lại biến đổi, xoắn vặn và chảy rỉ ra mất.
Một lần và chỉ duy nhất một lần đó Flamel đã thử dùng một công thức hai lần, quả thực là nó làm tăng tốc quá trình già nua. Cũng may là Nicholas chỉ mới nhắp một chút thứ thuốc không màu, trông hoàn toàn bình thường đó thì Perenelle để ý thấy các đường chỉ xuất hiện quanh mắt và trên trán ông, rồi từng sợi râu rụng xuống khỏi mặt ông. Bà liền hất chiếc cốc ra khỏi tay ông trước khi ông kịp uống thêm một ngụm nữa. Tuy vậy, những đường này hằn mãi trên mặt ông, và bộ râu dày dặn ông từng rất tự hào nay không bao giờ còn mọc lại như trước được nữa.
Nicholas và Perenelle pha đợt thuốc gần đây nhất vào nửa đêm Chủ nhật vừa rồi, mới chưa đầy một tuần trước. Ông nhấn vào cái nút bên tay trái chiếc đồng hồ và chọn chức năng đếm ngược: 116 giờ và 21 phút đã qua rồi. Nhấn thêm một lần nữa thì hiện ra thời gian còn lại: 603 giờ, 39 phút, tức khoảng 25 ngày. Lúc này ông đang nhìn, một phút nữa trôi qua: 38 phút. Ông và Perenelle sẽ già và yếu đi, và dĩ nhiên, mỗi lần một người trong họ sử dụng năng lượng thì tuổi già lại đến nhanh hơn. Nếu ông không lấy lại được Cuốn sách trước ngày cuối tháng và làm ra một đợt thuốc mới thì cả hai sẽ nhanh chóng già và chết đi.
Và thế giới sẽ chết cùng theo họ.
Trừ phi…
Một chiếc xe cảnh sát gầm rú chạy qua, hú còi inh ỏi. Theo sau nó là chiếc thứ hai rồi thứ ba. Như mọi người khác trên đường, Flamel quay lại nhìn con đường chúng vừa đi qua. Điều cuối cùng ông cần làm là phải tập trung chú ý bằng cách đứng tách khỏi đám đông.
Ông phải lấy lại Cuốn sách. Phần còn lại của Cuốn sách, ông tự nhắc mình, bàn tay ông bất giác sờ vào ngực. Ẩn bên dưới chiếc áo thun của mình, trên một sợi dây da, ông đeo một cái túi vuông vắn bằng cotton đơn giản mà Perenlle đã may cho ông nửa thiên niên kỷ trước, khi lần đầu tiên ông tìm thấy Cuốn sách. Bà đã may nó để đựng tập sách cổ; bây giờ những gì nó đựng chỉ còn là hai trang mà Josh đã xé được. Cuốn sách vẫn vô cùng nguy hiểm trong tay Dee, nhưng đây là hai trang cuối, chứa lời Hiệu triệu Cuối cùng, mà Dee rất cần để đưa các Elder Đen tối của hắn trở lại thế giới.
Và Flamel sẽ không – không thể - cho phép điều đó xảy đến.
Hai viên cảnh sát quay người ở góc phố và đi xuống con đường trung tâm. Họ nhìn chòng chọc một cách khó chịu vào mấy người khách bộ hành và nhìn săm soi vào cửa sổ của mấy cửa tiệm, nhưng họ lại đi ngang qua Nicholas mà không hề nhìn ông.
Nicholas biết rằng mối ưu tiên hàng đầu bây giờ là tìm một nơi ẩn náu cho hai đứa nhỏ sinh đôi. Và điều đó có nghĩa là ông phải tìm một người bất tử sống ở Paris. Mỗi thành phố trên thế giới đều có chỗ cho những người có quãng đời kéo dài nhiều thế kỷ hoặc thậm chí nhiều thiên niên kỷ, và Paris cũng không ngoại lệ. Ông biết rằng những người bất tử thích những thành phố ẩn danh rộng lớn, nơi dễ dàng biến mất trong số những người dân liên tục biến đổi.
Từ lâu, Nicholas và Perenelle đã đi đến một nhận định rằng ngay tâm điễm mỗi chuyện hoang đường và chuyện huyền thoại là hạt giống của sự thật. Và mọi giống loài đều kể các câu chuyện về những người sống lâu một cách khác thường, đó là: người bất tử.
Trải qua nhiều thế kỷ, Flamel đã có dịp tiếp xúc với ba kiểu người bất tử hoàn toàn khác nhau. Có những người Cổ xưa – bây giờ có lẽ chưa đầy một dúm người còn sống – họ đến từ quá khứ rất xa xôi của trái đất. Một số đã chứng kiến trọn vẹn lịch sử con người, và điều này làm cho họ ít nhiều có tính người hơn.
Và một số người khác, như Nicholas và Perenelle, đã tự mình khám phá ra cách trở thành bất tử. Nhiều thiên niên kỷ trôi qua, những bí mật của thuật giả kim đã được khám phá, mất đi, rồi lại khám phá không biết bao nhiêu lần. Một trong những bí mật vĩ đại nhất của thuật giả kim là công thức bất tử. Và tất cả thuật giả kim – có thể ngay cả khoa học hiện đại – đã có một nguồn gốc duy nhất: Cuốn sách Pháp su Abraham.
Rồi lại có những người được tặng món quà bất tử. Đây là những người, hoặc vô tình hoặc cố ý, đã lọt vào tầm chú ý của người này người khác trong số các Elder là những người còn sót lại trong thế giới này sau sự Biến mất của hòn đảo Danu Talis. Các Elder luôn tìm những người có khả năng ngoại cảm hoặc bất thường nào để đào tạo cho mục đích của họ. Và để đáp lại công lao phục vụ, các Elder ban tặng cho những người đi theo họ quyền được kéo dài cuộc sống. Đó là một món quà rất ít người có thể từ chối. Đó cũng là một món quà đảm bảo lòng trung thành tuyệt đối và kiên định…bởi vì nó có thể bị lấy đi nhanh như khi được ban tặng. Nicholas biết rằng nếu ông gặp loại người bất tử này ở Paris – ngay cả khi ông đã từng quen biết họ trong quá khứ - thì khả năng vẫn có một nguy hiểm đích thực đó là họ đang phục vụ cho các Elder Bóng tối.
Ông đi ngang qua một tiệm video mở cửa suốt đem đang quảng cáo là có Internet tốc độ cao, ông chú ý đến một tấm biển đặt trong cửa sổ, được viết bằng mười thứ tiếng: ĐIỆN THOẠI NỘI ĐỊA VÀ QUỐC TẾ. GIÁ RẺ. Đẩy cửa bước vào, ông chợt hít phải mùi chua của những thân hình không tắm, mùi dầu thơm đã phai, mùi thức ăn mỡ màng và mùi ozone của quá nhiều máy tính nêm chặt vào với nhau. Cửa tiệm bận rộn một cách đáng ngạc nhiên: một nhóm sinh viên có vẻ như đã thức suốt đêm tụ tập quanh mấy chiếc máy tính đang hiển thị logo của trò chơi World of Warcraft, hầu hết các máy tính khác đã có những cháng trai cô gái trẻ chiếm rồi, những gương mặt nghiêm trang đang dán mắt chăm chú vào màm hình. Khi bước trên lối đi đến quầy ở cuối tiệm, Nicholas có thể thấy hầu hết những người trẻ này đang sử dụng email hoặc nhắn tin tức thì. Ông nhếch mép cười; chỉ mới vài ngày trước, Josh đã mất cả tiếng đồng hồ để giải thích cho ông sự khác nhau giữa hai phương thức giao tiếp này. Thậm chí Josh còn cho ông xem một tài khoản email riêng của cậu – mà ông ngờ rằng cậu chẳng bao giờ dùng đến – tuy vậy ông có thể thấy được một công dụng cho các chương trình nhắn tin tức thì.
Cô gái người Trung Quốc đằng sau quầy mặt một bộ quần áo tả tơi và te tua mà Nicholas nghĩ đã đến lúc thích hợp để cho vào sọt rác, nhưng ông lại đoán có lẽ nó cũng tốn kém lắm. Cô gái trang điểm toàn những thứ giống như người Gô-tích và lúc Nicholas bước đến bên chiếc bàn làm việc thì cô đang bận sơn móng tay.
“Ba euro cho mười lăm phút, năm cho ba mươi, bảy cho bốn mươi lăm, mười cho một tiếng,” cô nói một mạch bằng thứ tiếng Pháp quá tệ và không hề nhìn lên.
“Tôi muốn gọi điện thoại quốc tế.”
“Tiền mặt hay thẻ tín dụng?” Cô ta vẫn không ngẫng đâu lên, và Nicholas để ý thấy cô đang sơn đen móng tay không phải bằng nước bóng mà là bằng một cái bút nỉ.
“Thẻ tín dụng.” Ông muốn giữ lại số tiền mặt ít ỏi của mình vì ông còn phải mua thức ăn. Mặc dù hiếm khi ông ăn, còn Scathach thì chẳng bao giờ ăn, nhưng ông sẽ cần để lo cho hai đứa nhỏ.
“Lấy ô số một. Bảng hướng dẫn trên tường.”
Ông lách mình vào cái ô điện thoại có cửa kính ở mặt trước và ngoặc tay kéo cánh cửa đóng lại sau lưng. Tiếng ồn ào của đám sinh viên dịu hẳn, nhưng trong ô nồng nặc mùi thức ăn thiu. Ông vừa đọc nhanh bảng hướng dẫn vừa rút thẻ tín dụng ra khỏi bóp, đó là tấm thẻ tín dụng mà ông đã dùng để mua sô-cô-la nóng cho cặp sinh đôi. Nó mang tên Nick Fleming, cái tên ông đã dùng trong mười năm nay, và ông nhanh chóng tự hỏi không biết Dee hay Machiavelli có lấy nó làm nguồn để truy tìm ông không. Ông biết đương nhiên bọn chúng sẽ làm như vậy, nhưng một nụ cười thoáng qua làm uốn cong đôi môi mỏng của Flamel; chuyện gì sẽ xảy ra? Tất cả những gì nó nói lên được là ông đang ở Paris, mà bọn chúng tất thảy đều đã biết điều đó rồi. Theo chỉ dẫn trên tường, ông quay mã truy nhập quốc tế và rồi quay đến số Sophie đã lấy từ ký ức của Bà Phù thủy.
Đường dây kêu răng rắc và lách tách vì tĩnh điện xuyên Đại Tây Dương, và rồi, cách xa hơn năm ngàn rưỡi dặm, điện thoại bắt đầu reo lên. Được trả lời ở giây thứ hai. “Ojai Valley News; tôi có thể giúp gì ạ?” Giọng người phụ nữ trẻ trong trẻo không ngờ.
Nicholas thận trọng dùng một giọng Pháp đầy đặn. “Chào buổi sáng…ồ không, chào buổi chiều. Tôi rất vui khi thấy cô vẫn còn ở văn phòng. Tôi là Quý ông Montmorency, gọi từ Pháp. Tôi là phóng viên của tờ Le Monde. Tôi vừa xem trực tuyến và được biết cô có một buổi chiều náo động ở đó.”
“Ghê chưa – tin tức đi nhanh quá, thưa Ông…”
“Montmorency.”
“Montmorency. Vâng, chúng tôi đã có một buổi chiều như thế thật. Chúng tôi có thể giúp gì ạ?”
“Chúng tôi muốn đăng một mẩu tin trong tờ báo chiều nay – không biết cô có một bản báo cáo tại hiện trường không?”
“Thực ra, ngay bây giờ tất cả phóng viên của chúng tôi đã xuống phố hết rồi.”
“Nếu được xin chuyển cho tôi nói chuyện giúp, cô làm ơn. Tôi có thể mô tả tại trường và một lời bình luận.” Khi không nghe tiếng trả lời ngay, ông nói nhanh, “Đương nhiên sẽ có một sự khen ngợi thích đáng dành cho tờ báo của cô.”
“Để tôi xem tôi có thể chuyển ông đến một trong những phóng viên của chúng tôi đang ở ngoài phố được không, thưa ông Montmorency.”
“Merci. Tôi rất biết ơn.”
Đường dây kêu lách tách lần nữa, và tiếp theo là một đoạn dừng dài. Nicholas đoán là cô tiếp tân đang nói chuyện với người phóng viên trước khi chuyển cuộc gọi. Có một tiếng lách tách nữa, và cô gái nói, “Đang nối máy với…” Ông đang nói cám ơn thì trong điện thoại có tiếng trả lời.
“Michael Carroll, Ojai Valley News. Tôi hiểu là ông đang gọi từ Paris, Pháp, phải không?” Có chút gì ngờ vực trong giọng nói của người đàn ông.
“Đúng như vậy, thưa Quý ông Carroll.”
“Tin tức đi nhanh quá,” người phóng viên nói, lập lại đúng như lời cô tiếp tân.
“Trên Internet,” Flamel nói lơ đãng, và thêm, “có một đoạn video trên YouTube.” Ông hoàn toàn chắc chắn rằng phải có những đoạn video quay hiện trường ở Ojai trực tuyến. Ông quay nhìn chằm chằm vào quán café Internet. Từ nơi ông đứng ông có thể nhìn thấy khoảng sáu bảy cái màn hình; mỗi cái hiển thị một trang Web bằng một thứ ngôn ngữ khác nhau. “Tôi được giao viết một đoạn cho trang văn hóa và nghệ thuật của báo chúng tôi. Một trong những biên tập viên của chúng tôi đã đến thăm thành phố xinh đẹp của các bạn thường xuyên và đã mua vài mảnh thủy tinh đẹp không ngờ tại những cửa tiệm đồ cổ trên đường Ojai. Tôi không chắc là ông biết nó: cửa tiệm chỉ bán gương soi và đồ thủy tinh,” Flamel nói thêm.
“Tiệm đồ cổ Witcherly Antiques,” Michael Carroll nói ngay. “Tôi biết rõ nó. Tôi e là nó đã bị phá hủy hoàn toàn trong vụ nổ.”
Flamel cảm thấy nghẹt thở. Hekate đã chết bởi vì ông đã mang hai đứa trẻ sinh đôi và Vương quốc Bóng tối của bà; Bà Phù thủy Endor cũng cùng chia sẽ số phận của Hekate sao? Ông làm thông cổ họng và khó nhọc nuốt xuống. “Và người chủ, bà Witcherly? Bà ta có…?”
“Bà ấy khỏe,” anh chàng phóng viên nói, và Flamel cảm thấy một làn sóng nhẹ nhõm cuốn giạt người ông. “Tôi vừa ghi được lời phát biểu của bà. Bà đang ở trong một trạng thái tinh thần rất tốt đối với một người có cửa tiệm vừa bị nổ tung như vậy.” Anh chàng cười lớn, rồi thêm, “Bà ấy nói rằng khi ông từng sống lâu như bà đã sống, thì không có gì làm ông ngạc nhiên được nữa.”
“Bà ấy vẫn còn ở đó ạ?” Flamel hỏi, cố kiềm chế sự háo hức trong giọng mình. “Liệu bà ấy có muốn phát biểu với một tờ báo Pháp không ạ? Xin báo với bà ấy tôi là Nicholas Montmorency. Chúng tôi đã từng nói chuyện một lần trước đây; tôi chắc bà ấy sẽ nhớ tôi,” ông thêm.
“Tôi sẽ hỏi…”
Tiếng nói nhòe đi và Flamel nghe tiếng người phóng viên lớn tiếng gọi Dora Witcherly.
Trong âm thanh nền, ông cũng nghe tiếng không biết bao nhiêu cảnh sát, lửa cháy và còi xe cứu thương, những tiếng la yếu ớt hơn và tiếng khóc của những người gặp tai họa.
Và tất cả là lỗi ông.
Ông lắc đầu nhanh. Không, đó không phải do lỗi của ông. Việc này do Dee làm. Dee không biết đến khả năng phán đoán cân xứng. Hắn đã thiêu rụi hầu hết London vào lòng đất năm 1666, đã phá hủy hầu hết San Francisco năm 1906 – và bây giờ đã làm trống rỗng những bãi tha ma quanh Ojai. Không còn nghi ngờ gì, đường phố bừa bãi đầy những xương và thân thể. Nicholas nghe tiếng nói tắc nghẽn của anh chàng phóng viên và rồi tiếng chiếc điện thoại di động được trao tay.
“Quý ông Montmorency?” Dora nói một cách lịch sự bằng một thứ tiếng Pháp rất chuẩn.
“Chào bà. Bà bình an vô sự chứ?”
Giọng Dora rơi xuống thành tiếng thì thầm và chuyển sang một dạng tiếng Pháp cổ xưa không thể hiểu được đối với bất cứ người nghe trộm hiện đại nào. “Không dễ gì giết được tôi đâu,” bà nói nhanh. “Dee đã bỏ trốn rồi, bị chém, bị thâm tím mình mẩy, bị đánh nhừ tử và rất, rất đau khổ. Tất cả bên ông an toàn hết chứ? Scathach cũng vậy chứ?”
“Scatty an toàn. Tuy nhiên, chúng tôi đã có một cuộc chạm trán với Niccolo Machiavelli.”
“Vậy là hắn vẫn còn quanh quẩn ở đó. Dee hẳn phải thông báo cho hắn, Nicholas.
Machiavelli nguy hiểm hơn ông tưởng đó. Thậm chí hắn còn xảo quyệt hơn cả Dee. Bây giờ phải nói nhanh lên,” bà vội vã thêm. “Tay phóng viên đang có vẻ nghi ngờ. Anh ta có thể nghĩ rằng tôi cung cấp cho ông một câu chuyện hay hơn câu chuyện tôi cho anh ta. Ông muốn gì nào?”
“Tôi cần bà giúp, Dora. Tôi cần biết ai là người tôi có thể tin cậy được ở Paris. Cần phải đưa bọn trẻ ra khỏi những con phố. Chúng nó mệt lử rồi.”
“Hmmm.” Đường dây kêu lốp bốp với tiếng giấy sột soạt. “Ngay lúc này tôi không biết ai ở Paris. Nhưng tôi sẽ tìm ra,” bà nói chắc chắn. “Ở đó là mấy giờ rồi?”
Ông liếc nhìn chiếc đồng hồ và tính toán nhanh. “Năm giờ ba mươi sáng.”
“Hãy đến tháp Eiffel. Có mặt ở đó khoảng bảy giờ sáng và chờ trong vòng mười phút. Nếu tôi có thể tìm được ai đó đáng tin cậy, tôi sẽ bảo họ gặp ông ở đó. Nếu ông nhận ra không có ai đến thì ông hãy trở lại vào lúc tám giờ, rồi chín giờ. Còn nếu không có ai ở đó vào khoảng chín giờ, thì hãy biết rằng ông không tin được ai ở Paris hết, và ông sẽ phải tự xoay sở lấy.”
“Cám ơn, Bà Dora,” ông nói êm ả. “Tôi sẽ không quên món nợ này.”
“Không có nợ nần gì giữa bạn bè với nhau,” Bà nói. “Ồ, Nicholas, cố gắng giữ cháu gái tôi đừng có gặp phiền phức gì nhé.”
“Tôi sẽ cố hết sức,” Flamel nói. “Nhưng bà biết cô ấy thích gì: dường như cô ấy thích kéo chuyện phiền phức vào mình. Nhưng ngay bây giờ, cô ấy đang trông chừng hai đứa nhỏ sinh đôi trong một tiệm café cách không xa đây lắm. Ít nhất cô ấy cũng không thể dính líu vào chuyện phiền toái nào ở đó được.”
Dạ Phong
25-12-2010, 02:48 AM
CHƯƠNG 10
Scathach cao chân, đè lòng bàn chân lên mặt ngồi của cái ghế và đẩy mạnh. Cái ghế gỗ trượt chéo trên sàn nhà và lao vút vào hai viên cảnh sát ngay lúc họ vừa đẩy cánh cửa ra. Họ đổ sầm xuống đất, radio bay khỏi tay của một người, dùi cui cũng văng khỏi tay người kia. Cái radio đang kêu quác quác trượt dài rồi dừng lại ngay chân Josh. Cậu chồm người đổ ly sô-cô-la nóng của cậu lên nó. Nó chết ngắc nín bặt, xì ra những tia lửa kêu xèo xèo.
Scathach nhảy lên. Không quay đầu lại, cô giơ tay chỉ vào Roux. “Anh kia. Ở yên chổ đó. Không được điện thoại cho cảnh sát, không được nghĩ đến chuyện đó.”
Trái tim đập như búa nện, Josh túm lấy Sophie và kéo cô ra khỏi bàn, đưa đến cuối cửa tiệm, lấy thân mình che cô khuất khỏi tầm mắt của tay cảnh sát đang ở ngay cửa.
Một trong hai người cảnh sát giơ súng lên. Chiếc nhị khúc của Scatty đánh vào báng súng bằng một lực mạnh đủ để bẻ cong thanh kim loại và làm thứ vũ khí đó quay tròn vuột khỏi tay người đàn ông.
Người cảnh sát thứ hai trườn mình, rút cái dùi cui dài màu đen ra. Vai phải của Scathach chìm xuống và chiếc nhị khúc đổi hướng trên không, khúc gỗ cứng dài ba tấc đánh vào cái dùi cui ngay trên phần cán ngắn. Cái dùi cui vỡ tan từng mảnh. Scathach búng nhẹ, chiếc nhị khúc trở lại và rơi vào bàn tay mở sẵn của cô.
“Tôi thực sự đang có tâm trạng xấu,” cô nói bằng tiếng Pháp hoàn hảo. “Tin tôi đi tôi muốn nói rằng thật ra ông không muốn đánh nhau với tôi đâu.”
“Scatty…” Josh xuỵt báo động.
“Không phải bây giờ,” Nữ Chiến binh chuyển sang tiếng Anh. “Em không thấy tôi đang bận sao?”
“Dạ, thôi nào, chị sắp sửa còn bận hơn,” Josh la lớn. “Bận hơn nhiều đó. Nhìn ra ngoài kìa.”
Một đội cảnh sát ầm ĩ, mình mặc áo giáp đen, nón bảo hiểm có tấm chắn bảo vệ che kín mặt, trang bị dùi cui và súng trường tấn công, đang lao xuống phố, tiến thẳng đến tiệm café.
“RAID,” người bán hàng trong tiệm thì thào kinh khiếp.
“Giống như SWAT vậy,” (Special Weapons And Tactics: những đơn vị tinh nhuệ mưu lược trong lực lượng cảnh sát Mỹ, được huấn luyện nghiêm ngặt và trang bị đủ loại vũ khí cùng với quân trang bảo hộ.) Scathach nói bằng tiếng Anh, “chỉ là khó trị hơn.” Giọng cô nghe có gì đó gần như mãn nguyện. Liếc xéo sang Roux, cô chuyển sang tiếng Pháp, “Có cửa sau không?”
Anh chàng bán hàng sửng sốt đến bất động, dán mắt vào đội quân đang tiến gần, và mãi đến khi Scathach rút chiếc nhị khúc ra và cái đầu tròn rít gió vút ngang qua mặt anh ta mới có phản ứng, cơn gió nhẹ làm anh ta nhấp nháy.
“Có cửa sau không?” cô hỏi gặng lần nữa, nhưng bằng tiếng Anh.
“Có, có, tất nhiên.”
“Vậy thì đưa bạn tôi ra.”
“Không…,”Josh bắt đầu.
“Để em làm cái gì đó,” Sophie nói, hơn một chục câu thần chú về gió lập lòe trong ý thức của cô. “Em có thể giúp…”
“Không,” Josh phản đối, và giơ tay chạm vào cô chị sinh đôi, đúng lúc đó mái tóc vàng của cô kêu lắc rắc, lấp lánh bạc.
“Ra!” Scatty hét, cứ như thể những nét bằng phẳng và góc cạnh trên khuôn mặt cô đều bất chợt biến đổi, xương gò má và cằm nhô lên, đôi mắt xanh biến thành mảnh thủy tinh phản chiếu. Trong chốc lát, có cái gì đó cổ xưa và nguyên sinh – và hoàn toàn xa lạ - trên gương mặt cô. “Tôi có thể chăm sóc mấy người này.” Cô bắt đầu quay tròn chiếc nhị khúc, tạo thành một cái khiên không thể xuyên thủng giữa cô và hai người cảnh sát. Một viên sĩ quan lượm cái ghế lên ném vụt vào cô, nhưng chiếc nhị khúc kịp biến nó thành gỗ vụn.
“Roux – đưa họ ra ngay!” Scatty gầm lên.
“Đường này,” anh chàng nhân viên sợ hãi nói bằng tiếng Mỹ - giọng Anh. Anh ta chen qua cặp sinh đôi và đưa họ xuống một hành lang hẹp lạnh lẽo dẫn vào một khoảng sân bốc mùi hôi thối chồng chất thành từng đống những vỏ hộp cao ngất, những đồ đạc dùng trong quán ăn bị hư gãy và cái sườn của một cây thông Noel bỏ phế đã lâu. Đằng sau họ vang lên âm thanh của gỗ bị vỡ ra.
Roux chỉ vào cánh cổng màu đỏ và tiếp tục nói tiếng Anh. Mặt anh ta trắng bệch như phấn. “Cái đó dẫn ra ngõ hẻm. Quẹo trái là đường de Dunkerque; rẽ phải đưa xuống trạm metro Gare du Nord.” Sau lưng họ một tiếng đập dữ dội, tiếp theo là tiếng kính vỡ. “Bạn của mấy em, cô ấy gặp phiền phức dữ dội rồi,” anh ta rền rĩ tội nghiệp. “Và RAID sẽ phá tan hoang cửa tiệm. Anh sẽ giải thích như thế nào với chủ đây?”
Lại một tiếng nổ khác ở trong kia. Một viên ngói trượt ra khỏi mái, rơi xuống sân bể vụn.
“Đi, đi ngay đi.” Anh ta xoay ổ khóa và giật mạnh cho cánh cửa mở ra.
Sophie và Josh không để ý anh ta. “Mình làm gì bây giờ?” Josh hỏi cô chị gái sinh đôi. “Đi hay ở lại?”
Sophie lắc đầu. Cô liếc nhìn Roux và hạ giọng thì thầm. “Mình đâu có nơi nào để đi – mình không biết ai trong thành phố này trừ Scatty và Nicholas. Mình không có tiền mà cũng không có hộ chiếu.”
“Chúng ta có thể đến tòa đại sứ Mỹ.” Josh quay sang Roux. “Có tòa đại sứ Mỹ ở Paris không?”
“Có, đương nhiên, ở đại lộ Gabriel, bên cạnh Hotel de Crillon.” Anh thanh niên cạo trọc đầu co rúm người ngay lúc một quả đấm khổng lồ làm rung chuyển toàn bộ tòa nhà, không gian đầy những mảnh bụi. Kính ở cửa sổ cạnh họ nứt toạc từ trên xuống dưới và nhiều mảnh ngói rơi khỏi mái nhà, trút như mưa xuống sân.
“Và chúng ta sẽ nói gì với tòa đại sứ?” Sophie hỏi dồn. “Họ sẽ muốn biết tại sao chúng ta ở đây.”
“Bị bắt cóc?” Josh đề nghị. Và rồi một ý nghĩ chợt đến và cậu cảm thấy buồn nôn. “Và chúng ta sẽ nói gì với mẹ và bố? Làm sao chúng ta giải thích cho bố mẹ được?”
Bát đĩa bằng sành kêu leng keng rồi vỡ tan, và theo sau là một tiếng nổ giòn dữ dội.
Sophie nghểnh đầu qua một bên, vén tóc ra sau tai. “Đó là cửa sổ chính.” Cô bước lùi một bước về phía cánh cửa chính. “Chị phải giúp chị ấy.” Một búi mây mù cuộn khỏi ngón tay khi cô đưa nắm tay ra.
“Không!” Josh vồ lấy tay cô, tĩnh điện nổ lốp bốp giữa hai đứa. “Chị không thể dùng năng lượng của chị,” cậu gấp rút thì thào. “Chị đã kiệt sức rồi; nhớ Scatty nói gì không. Chị sẽ cháy thành ngọn lửa đó.”
“Chị ấy là bạn chúng ta – không thể bỏ mặc chị ấy được,” Sophie nói ngay. “Chị sẽ làm, bằng mọi cách.” Ở trường, cậu em trai của cô là người lủi thủi và không bao giờ giỏi trong việc kết bạn hoặc chơi với bạn, trong khi cô lại có lòng trung thành mãnh liệt với bạn bè mình, và cô đã bắt đầu nghĩ Scatty còn hơn một người bạn. Dù rất yêu quý em trai mình, cô luôn muốn có một người chị gái.
Josh nắm lấy hai vai Sophie và day mặt cô đối diện mình. Cậu đã cao hơn chị một cái đầu và phải cúi xuống mới nhìn được đôi mắt xanh phản chiếu ánh mắt cậu. “Chị ấy không phải là bạn chúng ta, Sophie,” giọng cậu trầm và nghiêm trọng. “Chị ấy không bao giờ sẽ là bạn của chúng ta. Chị ấy là cái gì đó…hai ngàn rưỡi tuổi. Chị ấy đã công nhận với chúng ta rằng chị ấy là một con ma cà rồng. Chị có thấy mặt chí ấy biến đổi như thế nào lúc ở trong đó không: chị ấy không phải là người. Và…và em không chắc là chị ấy có đúng như tất cả những gì Flamel đã tô vẽ cho hay không. Riêng ông ấy thì em biết là không đúng!”
“Ý em là sao?” Sophie hỏi gặng. “Em đang cố nói cái gì vậy?”
Josh há miệng định trả lời, nhưng một loạt những cú đấm rầm rầm làm rung chuyển khắp tòa nhà. Rên rỉ vì sợ hãi, Roux phóng vào ngõ hẻm. Cặp sinh đôi phớt lờ anh ta.
“Ý em là sao?” Sophie hỏi lại.
“Dee nói –”
“Dee!”
“Em nói chuyện với ông ấy ở Ojai. Khi chị ở trong cửa tiệm với Bà Phù thủy Endor.”
“Nhưng hắn là kẻ thù của chúng ta mà!”
“Chỉ vì Flamel nói vậy thôi,” Josh nói nhanh.
“Sophie, Dee nói với em Flamel là tội phạm và Scathach cơ bản chỉ là một tay côn đồ được thuê. Ông ấy nói cô ta bị nguyền rủa vì tội lỗi của cô ta nên phải mặc lốt một cô bé tuổi teen cho đến hết đời.” Cậu lắc đầu nhanh và vội vã tiếp, giọng cậu thấp và dữ dội. “Chị, chúng ta hầu như không biết gì về mấy người này … Flamel, Perenelle và Scathach. Điều duy nhất mình biết chắc là họ đã làm cho chị khác đi – khác đi một cách đầy nguy hiểm. Họ đã đưa chúng ta đi hết nữa vòng trái đất, và nhìn xem bây giờ chúng ta đang ở đâu.”
Cả khi cậu đang nói, tòa nhà lắc lư, và rồi khoảng một chục viên ngói nữa lại trượt khỏi mái, rơi xuống sân tan tành, bắn lên những mảnh vỡ sắc nhọn như dao cạo bay quanh hai đứa trẻ. Josh kêu oái lên vì bị một mảnh ngói đâm vào cánh tay đau nhói. “Chúng ta không thể tin họ được, Soph. Chúng ta không nên.”
“Josh em không có khái niệm gì về năng lượng mà họ cho chị…” Sophie nắm cánh tay cậu em trai, và không khí, đã bị ô nhiễm đầy những mùi hương hôi thối do thức ăn hư hỏng, lại đượm mùi vanilla, và rồi, một lát sau, là mùi hương cam khi luồng điện của Josh thoắt lóe sáng màu vàng ánh kim. “Ôi, Josh, ước gì chị có thể nói được với em. Chị biết mọi thứ Bà Phù thủy Endor biết…”
“Và nó làm chị phát ốm lên!” Josh thét lên giận dữ. “Và đừng quên, nếu chị cứ dùng năng lượng của chị một lần nữa, chị sẽ nổ tung đó, đúng theo nghĩa đen.”
Những luồng điện của cặp sinh đôi lóe lên màu vàng và bạc. Sophie siết hai mắt mình nhắm lại ngay lúc một dòng cảm tưởng, những ý nghĩ mơ hồ và những tư tưởng tùy tiện dội vào ý thức của cô. Đôi mắt xanh của cô nhấp nháy, hòa thành bạc ngay tức khắc, và cô chợt nhận ra rằng cô đang nếm trải ý nghĩ của cậu em mình. Cô giật mạnh tay ra khỏi cậu và những ý nghĩ, cảm xúc tức thì nhạt đi.
“Em ghen tị!” cô thì thầm đầy kinh ngạc. “Ghen tị với năng lượng của chị.”
Hai má Josh ửng đỏ, và Sophie nhìn thấy sự thật trong mắt cậu cả trước khi cậu nói dối. “Em đâu có!”
Đột nhiên, một viên cảnh sát trang phục đen phóng qua cánh cửa xộc thẳng ra sân. Một đường nứt chạy dài xuống phía trước tấm chắn che mặt của anh ta, một chiếc giày bốt mất tiêu. Không chút ngừng nghỉ, anh ta khập khiễng băng ngang qua hai đứa nhỏ và chạy vào ngõ hẻm. Chúng có thể nghe thấy tiếng bem bép nhè nhẹ của bàn chân trần và tiếng nện mạnh của chiếc giày đế da đi xa đần.
Rồi Scathach đi như tản bộ ra sân. Cô quay tròn chiếc nhị khúc như Charlie Chaplin đang vung vẫy cây gậy. Không một cọng tóc xiên lệch hoặc một dấu tích gì trên người cô, đôi mắt màu xanh sáng lên và lanh lợi. “Ồ, bây giờ tâm trạng tôi tốt hơn nhiều rồi,” cô thông báo.
Cặp sinh đôi nhìn ngang qua cô hướng về hành lang. Không có gì và không một ai cử động trong vùng tối phía sau.
“Nhưng có đến mười tên…” Sophie bắt đầu.
Scathach nhún vai. “Mười hai, chính xác.”
“Được trang bị vũ khí…”Josh nói. Cậu liếc xéo qua chị gái rồi liếc về lại Nữ Chiến binh. Cậu nuốt nước bọt một cách khó nhọc. “Chị không …không giết họ, phải không?”
Đồ gỗ bị gãy và mọi thứ đổ sập trong cửa tiệm.
“Không, họ chỉ…đang ngủ.” Scathach mỉm cười.
“Nhưng chị đã làm thế nào –” Josh bắt đầu.
“Tôi là Nữ Chiến binh,” Scatty nói đơn giản.
Sophie bắt gặp một hình dáng lờ mờ đang di chuyển, cô há miệng hét lên ngay lúc hình dáng đó hiện ra khỏi hành lang và một bàn tay với những ngón dài đặt lên vai Scathach. Nữ Chiến binh không hề phản ứng.
“Tôi không thể để cô một mình được tới mười phút.” Nicholas Flamel vừa nói vừa bước ra khỏi vùng tối. Ông hất đầu về cánh cổng mở. “Chúng ta nên đi thì hơn,” ông vừa nói thêm vừa đẩy họ đi về phía ngõ hẻm.
“Chú đã bỏ lỡ một trận đấu,” Josh bảo ông ta. “Có đến mười tên…”
“Mười hai,” Scathach nhanh miệng chỉnh cậu.
“Tôi biết rồi,” Nhà Giả kim nói với một nụ cười chế giễu, “chỉ mười hai: họ đã không gặp may.”
Dạ Phong
27-12-2010, 04:49 PM
CHƯƠNG 11
Đã trốn thoát!” Tiến sĩ John Dee gầm lên trong chiến điện thoại di động. “Ông đã bao vây chúng rồi mà. Làm sao ông để chúng trốn thoát được?”
Ở phía bên kia Đại Tây Dương, Niccolo Machiavelli giữ bình tĩnh và kiềm chế, chỉ có hành động nghiến chặt quai hàm mới để lộ cơn giận của y. “Ông được thông báo một cách xuất sắc ghê nhỉ.”
“Tôi có nguồn của tôi,” Dee bốp chát, đôi môi mỏng dính của hắn cuốn lại thành một nụ cười đáng sợ. Hắn biết sẽ làm Machiavelli điên lên nếu biết rằng có một tên gián điệp nằm ngay trong phe cánh của mình.
“Ông đã cho chúng vào bẫy ở Ojai, tôi hiểu,” Machiavelli dịu dàng tiếp tục, “bao vây chúng bởi đội quân gồm những xác chết bị dựng dậy. Song chúng đã trốn thoát. Làm sao ông để chúng làm điều đó?”
Dee thoải mái ngồi thụt vào ghế da mềm bên trong chiếc limousine đang phóng nhanh.
Khuôn mặt hắn chỉ được rọi sáng bằng màn hình của điện thoại, ánh sáng chiếu lên xương gò má của hắn và kẻ một đường viền quanh chòm râu nhọn hoắc trong thứ ánh sáng lạnh lẽo, đẩy đôi mắt hắn chìm trong bóng tối. Hắn không kể cho Machiavelli rằng hắn dùng thuật gọi hồn để dựng dậy đội quân xác chết gồm cả người lẫn thú dữ. Liệu có phải đây là cách tinh tế của tay người Ý để báo cho hắn biết rằng hắn có một tên gián điệp nằm ngay trong bè lũ mình?
“Ông đang ở đâu vậy?” Machiavelli hỏi.
Dee liếc nhanh ra ngoài cửa sổ của chiếc limousine, cố đọc những bảng hiệu giao thông chớp lóe vụt qua. “Đâu đó trên đường 101, về phía Los Angeles. Chiếc phản lực của tôi đã đầy nhiên liệu và sẵn sàng đi, chúng tôi được phép cất cánh ngay khi tôi đến đó.’
“Tôi dự kiến sẽ bắt được bọn chúng trước khi ông đáp xuống Paris,” Machiavelli nói.
Đường dây nổ lốp bốp dữ dội, và hắn ngừng một chút trước khi nói thêm, “tôi tin là chúng sẽ cố liên lạc với Saint-Germain.”
Dee ngồi thẳng dựng lên. “Comte de Saint-Germain? Ông ấy trở lại Paris rồi à? Tôi nghe nói ông ấy đã chết ở Ấn Độ đang khi tìm kiếm thành phố Ophir bị mất tích.”
“Hiển nhiên là không. Ông ta có căn hộ gần Champs-Elysees và hai ngôi nhà ở ngoại ô, theo như chúng tôi biết. Toàn bộ đang được giám sát kỹ. Nếu Flamel liên lạc với ông ấy, chúng tôi sẽ biết ngay.”
“Lần này đừng để chúng thoát,” Dee gầm gừ. “Các chủ nhân của chúng ta sẽ không hài lòng đâu.” Hắn bật tay đóng điện thoại trước khi Machiavelli kịp trả lời. Rồi hắn cười nhanh, hàm răng sáng lóa. Tấm lưới đang khép lại chặt dần, chặt dần.
“Người gì mà quá trẻ con,” Machiavelli lẩm bẩm bằng tiếng Ý. “Luôn phải có lời cuối cùng chứ.” Đứng trong đống đổ nát của tiệm café, hắn cẩn thận đóng điện thoại và nhìn khắp cảnh hoang tàn. Cứ như thể một cơn lốc xoáy vừa quét ngang tiệm café. Mọi thứ đồ đạc đều bị bễ gãy, cửa sổ vỡ tan, thậm chí còn có những mảnh nhỏ ghim tuốt trên trần nhà. Các thứ bột cặn còn lại trong tách và nước sốt trộn lẫn với những hạt café đổ tung tóe, quyện với xác trà vung vãi và bột bánh nát vụn tất cả nằm đầy trên sàn. Machiavelli cúi nhặt một cái nỉa bị cong vẹo thành một hình chữ S hoàn hảo. Ném nó qua một bên, hắn nhón chân bước ngang qua những thứ bể vụn. Scathach đã một tay hạ hết mười hai nhân viên RAID được huấn luyện kỹ lưỡng và trang bị đủ loại vũ khí. Hắn đã hy vọng hão huyền rằng có thể mụ ta sẽ mất bớt đi một tí kỹ năng nghệ thuật quân sự trong nhiều năm kể từ khi hắn chạm trán với mụ lần gần đây nhất, nhưng dường như hy vọng của hắn đã tan thành mây khói. Bóng tối vẫn ra đòn chí tử như bao giờ. Việc tiến đến gần Flamel và bọn trẻ sẽ gặp khó khăn với Nữ Chiến binh như cảnh tượng vừa rồi. Trong cuộc đời đăng đẳng của mình, Niccolo đã đụng độ với ba ta ít nhất là năm bảy trận, và lần nào hắn cũng vừa đủ để sống sót. Lần gần đây nhất họ gặp nhau tại đống đổ nát Stalingrad băng giá trong mùa đông năm 1942. Nếu bên kia không được bà ta ủng hộ, lực lượng của hắn có lẽ đã chiếm được thành phố này rồi. Và hắn đã thề rằng hắn sẽ giết chết bà: có thể bây giờ là lúc hắn thực hiện lời hứa đó chăng.
Nhưng làm sao để giết một người không thể giết? Cái gì có thể chống cự được người chiến binh đã đào tạo nên tất cả những vị anh hùng vĩ đại nhất trong lịch sử, người đã chiến đấu trong mọi cuộc xung đột lớn và kiểu mẫu chiến đấu của người đó là trái tim của hầu hết mọi nghệ thuật quân sự?
Bước ra khỏi cửa tiệm đã tan tành, Machiavelli hít thở sâu, tấy sạch buồng phổi nhiễm đầy mùi đắng nghét, chua chua của café tung vãi và mùi sữa bị chua lòm lơ lửng trong không khí. Dagon kéo mở cánh cửa xe khi hắn đến gần, và tay người Ý nhìn thấy chính mình phản chiếu trên cặp kính tối thui của người tài xế. Hắn dừng lại một chút trước khi bước vào xe và liếc lên lực lượng cảnh sát đang đóng chốt trên đường phố, đội quân chống bạo loạn được trang bị vũ khí tận răng đang tụ họp thành từng nhóm nhỏ và những nhân viên mặc thường phục ém trong những chiếc xe không dấu hiệu. Dịch vụ bí mật của Pháp là lực lượng do hắn chỉ huy, hắn có thể ra lệnh cho cảnh sát, và có quyền trên các đội quân kín gồm hàng trăm người đàn ông và phụ nữ sẽ làm theo mệnh lệnh của hắn mà không hỏi một câu. Song hắn biết rằng không ai trong số họ có thể chống cự Nữ Chiến binh. Hắn đi đến một quyết định và nhìn Dagon trước khi chui vào xe.
“Tìm Disir.”
Dagon cứng người lại, biểu lộ một dấu hiệu cảm xúc hiếm hoi. “Điều đó có khôn ngoan không?” nó hỏi.
“Cần thiết.”
Dạ Phong
28-12-2010, 04:41 PM
Chương 12
Bà phù thủy bảo chúng ta nên đến tháp Eiffel lúc bảy giờ, và chở đó khoảng mười phút.”Nicholas Flamel nói khi họ vội vã đi xuống con hẻm hẹp. “Nếu không có ai ra mặt giờ này, chúng ta sẽ quay lại đó lúc tám giờ và cứ như vậy lúc chín giờ.”
“Ai sẽ đến đó?”Sophie hỏi, nhảy lên cho kịp bước chân sải dài của Flamel. Cô bé mệt lử, chút thời gian ngồi trong tiệm cà-phê chỉ nhẫn mạnh thêm rằng cô mệt mỏi đén nhường nào. Chân cô có cảm giác như đeo chì và một cơn xóc hông đau nhói bên cạnh sườn.
Nhà giả kim nhún vai. “ Chú không biết. Bất kì ai mà bà phù thủy liên lạc được.”
“Điều cho thấy không ai ở Paris muốn liều lĩnh giúp ông.” Scathach nói nhẹ tâng .”Ông là một kẻ thù nguy hiểm, Nicholas , và có lẽ làm bạn với ông thậm chí còn nguy hiểm hơn. Sự chết chóc và tàn phá luôn theo gót chân ông.”
Josh liếc xéo qua chị gái, biết cô đang lắng nghe. Cô cố ý nhìn đi chỗ khác, nhưng cậu biết cô khó chịu với cuộc nói chuyện đó.
“Nào, nếu không ai lộ diện,” Flamel nói, thì chúng ta theo kế hoạch B.”
Môi Scathach cong lên thành một nị cười chẳng chút hài hước .”Tôi còn không biết chúng ta còn có cả kế hoạch B nữa kia. Thế kế hoạch B là gì?”
“Tôi chưa tính xa đến như vậy.” Ông cười toe. Rồi nụ cười nhạt đi.”Tôi chỉ ước Perenelle ở đây; cô ấy biết sẽ phải làm gì.”
“ chúng ta sẽ tách ra,”Josh chợt nói.
Flamel đi đầu, ông liếc nhìn đằng sau.”Chú không nghĩ vậy.”
“Chúng ta phải làm vậy thôi.”Josh nói chắc chắn .”Nó có nghĩa đó.”Nhưng nói vậy, cậu tự hỏi tại sao Nhà Giả Kim lại muốn tách ra.
“Josh đúng đó.”Sophie nói.”Cảnh sát đang tìm kiếm bốn người chũng ta.cháu chắc rằng cho đến bây giờ họ đã có một bản mô tả rằng: hai đứa thiếu niên, một cô gái tóc đỏ và một ông già. Không phải là một nhóm thường thấy.”
“Già!”Nicholas hơi bị xúc phạm, giọng pháp của ông nghe rõ hẳn.”Scathach lớn hơn chú hai ngnaf năm đó.”
“vân.Nhưng điều khác biệt là trông tôi không như vậy,” Nữ chiến binh cười toe toét chọc ông.”Tách ra à ý hay.”
Josh ngừng lại ngay đầu con hẻm hẹp và nhìn lên nhìn xuống.Tiếng còi cảnh sát rền rĩ và líu nhíu khắp xung quanh bon họ
Sophie đững bên cậu em trai, dù có những đặc diểm tương đồng giữa hai đứa là hiển nhiên, nhưng cậu chợt để ý bây giwof có những vệt hằn trên trán chị gái của cậu, và đôi mắt xanh nhạt trở nên buồn bã, tròng mắt đen lốm đốm bạc.”Roux bảo quẹo trái là đường de Dunkerque, phải là ga Metro.”
“Chú không chắc là việc tách ra này…”Flamel ngần ngừ.
Josh quay xung quanh.”chúng ta phải làm như vậy,”cậu nói kiêm quyết.”Sophie và cháu sẽ-“ cậu bắt đầu, nhưng Nicholas lắc đầu, ngắt lời cậu.
“OK.Chú đồng ý là chúng ta nên tách ra. Nhưng cảnh sát sẽ tìm kiếm hai đứa sinh đôi…”
“Chúng cháu không giống sinh đôi lắm đâu,”Sophie nói nhanh.”Josh cao hơn cháu.”
“cả hai đứa tóc vàng, mắt xanh, và không đứa nào biết nói tiếng Pháp,”Scathach thêm.”Sophie, em đi với tôi.Hai cô gái đi cùng nhau sẽ không thu hút nhiều sự chú ý.jo và Nicholas có thể đi chung với nhau .”
“em không rời Sophie đây..,”Josh phản đối , chỉ mới chợt nghĩ đến việc tách khỏi chị gái caaujtrong thành phố xa lạ này cậu đã thấy hoang mang.
“Chị an toàn bên Scathach mà”Sophie nói với một nụ cười.”Em đừng lo lắng quá.và chị biết chú Nicholas sẽ chăm sóc em.”
Josh có vẻ không chắc lắm.”Cháu muốn ở với chị gái cháu hơn,”Josh nói kiên quyết.
“Hãy để cho con gái đi với nhau;cách này tốt hơn,”Flamel nói.”An toàn hơn.”
”An toàn hơn?”Josh nói một cách hoài nghi.”Không có việc gì trong việc này là an toàn cả.”
“Josh!”Sophie nạt, theo đúng giọng điệu mẹ mà chúng thỉnh thoảng dùng.”Đủ rồi.”Cô quay về phía Nữ chiến binh.”chị cần phải làm cái gì đó cho tóc chị.Nếu cảnh sát mô tả về một cô gái tóc đỏ trong bộ đồ chiến đấu…”
“em nói đúng.”Bàn tay trái của Scathach làm một cử chỉ uốn éo thật nhanh và bất ngờ cô có ngay một con dao lưỡi ngắn trong tầm tay.Cô quay sang Flamel .” Tôi cần ít vải.”
Không đợi trả lời, cô xoay tròn ông và vén áo khoát da mòn vẹt lên,Bằng cử động chính xác khéo léo, cô cắt một miếng vải vuông khỏi lưng áo thun đen rộng thùng thình của Flamel . .Rồi cô trả chiếc áo khoát lại đúng chỗ và quấn mảnh vải lại thành một cái băng –đô, gút nó lại sau gáy, che phủ mái tóc đặc biệt của cô.
“Đây là loại áo thun thích nhất cua tôi,” Flamel cằn nhằn.”Loại cổ điển.”Ông vặn vẹo xoay chuyển hai vai một cách khó chịu.”Và bây giờ đến cái lưng tôi bị lạnh .”
“Đừng con nít như vậy chứ.Tôi sẽ mua cái mới cho ông,”Scathach nói. Cô nắm tay Sophie.”nào đi thôi.Hẹn gặp tại Tháp nhé.”
“Cô có biết đường không?”Nicholas gọi với theo cô.
Scathach cười lớn.”Tôi đã sống ở đây gần sáu mươi năm, nhớ không ?Tôi ở đây hồi người ta xây cái Tháp này .”
Flamel gật đầu.”Tôt, cố đừng gây sự chú ý .”
“Tôi sẽ cố.”
“Sophie…,”Josh bắt đầu.
“Chị biết rồi,”chị gái cậu trả lời,”cẩn thận.”Cô quay lại và ôm cậu em trai thật nhanh,luồng điện của chúng nổ lốp bốp.”Mọi chuyện sẽ tốt cả thôi,”cô nói dịu dàng, đọc được nỗi lo sợ trong mắt cậu.
Josh cố gượng cười, và cậu gật đầu.”Sao chị biết được?Phép thuật hả?”
“Chị chỉ biết vậy thôi.”cô nói đơn giản.Đôi mắt cô ánh bạc lấp loáng.”Tất cả biến cố này xảy ra vì một lí do-hãy nhớ lời tiên tri này.Mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”
“Em tin chị,”cậu nói, ngay cả khi cậu không làm đúng như vậy.”Cẩn thận, và nhớ,” cậu thêm,”không sợ hãi.”
Sophie ôm nhanh cậu em trai một lần nữa.”không sợ hãi.”, cô thì thầm vào tai cậu rồi xoay người đi.
Nicholas và Josh chăm chú nhìn Scathach và Sophie gần khuất dưới con phố, đi về phía ga Metro; lúc đó họ mới quay đi theo hướng ngược lại. ngay trước khi quẹo vào góc phố, Josh liếc nhanh ra sau lưng và nhận thấy chị gái cậu cũng làm y như vậy.Cả hai đứa cùng đưa tay vẫy tạm biệt nhau. Josh chờ đến khi khuất hẳn mới hạ tay xuống.Bây giờ cậu thực sự có một mình,trong thành phố xa lạ, cách nhà cậu hàng ngàn dặm, với người đàn ông cậu không tin, một người đàn ông cậu bắt đầu thấy sợ.
“Em tưởng chị đã nói chị biết dường,”Sophie nói.
“Cũng khá lâu rồi từ khi tôi ở đây.”Nữ chiến binhthus nhận,”đường phố thay đổi nhiều quá.”
“nhưng chị nói chị ở đây từ khi người ta xây dựng tháp Eiffel.”Cô ngừng lại,bất ngờ khi nhận ra những gì mình vừa nói.”Chính xác là hồi nào?”cô hỏi.
“Năm 1889.Tôi đi khỏi đây một vài tháng sau đó.”
Scathach ngừng laị bên nhà ga Metro, hỏi đường người bán báo và tạp chí.Người phụ nữ Trung Hoa dáng người nhỏ nhắn biết rất ít tiếng Pháp nên Scathach nhanh chóng chuyển sang ngôn ngữ khác. Sophie chợt nhận thấy mình nhận ra nó-tiếng Quan Thoại.Cô bán hàng mỉm cười bước ra khỏi quầy và chỉ xuống phố, nói nhanh đến nỗi Sophie không bắt kịp một chữ nào, mặc cho đó là kiến thắc về ngôn ngữ của Bà Phù thủy. Nghe như thể cô đang hát. Scathach cám ơn cô ta, rồi cúi chào, và người phụ nữ cúi chào đáp lại.
Sophie chộp cánh tay Nữ chiến binh, kéo cô đi.”Chị gây chú ý nhiều quá đó.”cooruf rì.”Người ta bắt đầu nhìn kìa.”
“Họ nhìn cái gì?”Scathach hỏi, boois rooismootj cách thành thực.
“Ồ , chỉ là cảnh một cô gái da trắng nói lưu loát tiếng Hoa và còn cúi đầu chào,” Sophie nói với nụ cười toe.”Cái đó giống như một màn trình diễn.”
“Một ngày kia mọi người sẽ nói tiếng Quan Thoại, và cúi đầu chào là một cử chỉ đẹp,” Scathach nói, lần đường xuống phố, theo hướng người phụ nữ đã chỉ.
Sophie bước đều bên cạnh.”Chị học tiếng Hoa ở đâu?” Cô hỏi.
“Ở Trung Quốc.Thật ra, tôi đã nói tiếng Quan Thoại với người phụ nữ đó, NHưng tôi còn còn biết tiếng Ngô từ thời Tam quốc và tiếng Quảng đông.Tôi mất nhiều thời gia ở Viễn Đông đến hàng mấy thế kỉ. Tôi yêu mến nơi đó lắm.”
Họ bước đi trong im lặng, rồi Sophie nó,”Vậy chị nói được mấy thứ tiếng?”
Scathach cau mày, mắt cô hơi khép lại khi cô nhắc.”Sáu hay bảy…”
Sophie gật đầu.”Sáu hay bảy; ấn tượng thật. Ba mẹ em muốn cho tụi em học tiếng Tây Ban Nha, và ba đang dạy tụi em học tiếng Hy Lạp và La tinh. Nhưng thực ra em thích học tiếng Nhật.Em thật sự muốn đến thăm nước Nhật,”cô thêm.
“…Sáu hay bảy trăm,”Scathach tiếp tục, rồi cười lớn khi bắt gặp vẻ mặt sửng sốt của Sophie. Cô móc tay mình vào cánh tay của Sophie.”Nào, tôi nghĩ một trong số đó là tử ngữ, vì vậy không chắc nó được tín, nhưng nhớ lại đi, tôi đã đi loanh quanh từ rất lâu rồi mà.”
“Bộ chị sống hai ngàn tuổi rưỡi năm rồi thiệt hả?”Sophie hỏi, liếc qua cô gái trông chưa quá mười bảy.Bất giác cô cười toe: không bao giờ cô tưởng tượng rằng chính mình lại hỏi một câu như thế. Đó chỉ là một ví dụ khác cho thấy cuộc đời cô đã thay đổi như thế nào.
“Hai ngàn năm trăm mười bảy năm làm người.”Scathach cười, một nụ cười mím chặt môi để che giấu mấy cái răng ma cà rồng của mình.”Một lần Hekate bỏ tôi trong Vương quốc Bóng tối địa ngục cực kì khinh tởm.Tôi mất hàng mấy thế kỉ để tìm đường thoát ra.Và khi tôi còn trẻ, tôi trải qua nhiều thời gian trong Vương quốc bóng tối ở LYonesse,Hy-brazil và Tỉ na nOg , nơi thời gian chuyển động theo một nhịp khác.Giờ vương quốc bóng tối không giống giờ con người, vì vậy thật sự tôi chỉ đếm thời gian tôi sống trên trái đất thôi. Và em biết không, em có thể nghe để nhiệm ra nơi chính mình. Rm và Josh là duy nhất và đầy sức mạnh và thậm chí sẽ còn phát triển nhiều năng lượng hơn khi em làm chủ được pháp thuật cơ bản.Nếu tự em không khám phá bí mật bất tử, một người nào đó có thể tặng em như một món quà.Đi nào, qua đường.”Cô nắm lấy tay và kéo Sophie băng qua con đường hẹp.
Dù chỉ mới sáu giờ sáng , xe cộ đã bắt đầu đông. Những chiếc xe tải nhỏ giao hàng cho các tiệm ăn, và không khí lạnh lẽo buổi sáng bắt đầu đượm mùi thơm hấp dẫn của bánh mì nướng tươi với cà phê bột và cà phê phin. Sophie hít thở những mùi thơm phưng phức quen thuộc” bánh sừng trâu và cà phê nhắc cô nhớ mới chỉ hai ngày trước đây thooicoo đã phục vụ những món đó trong tiệm Tách Cà-phê. Cô nhấp nháy xua đi nỗi xót xa của những giọt nước mắt chực trào ra. Quá nhiều chuyện đã xảy ra, quá nhiều thay đổi trong hai ngày qua.”Sống quá lâu như vậy thì thế nào nhỉ?” cô bé lớn tiếng tự nhủ.
“Cô đơn,” Scathach nói một cách thanh thàn.
“bao lâu…chị còn sống bao lâu nữa?” cô bé thận trọng hỏi nữ chiến binh.
Scathach nhún vai và mỉm cười.”Ai biết được? Nếu tôi cẩn thận, Tập thể dục đều đặn, giữ chế độ ăn uống, tôi có thể sống hai ngàn năm nữa.”Rồi nụ cười cô nhạt đi.”Nhưng dù tôi không thể bị tấn công, cũng không thể bị đánh bại.Nhưng tôi vẫn có thể bị giết chết.” Nhìn ánh mắt sững sờ trên khuôn mặt Sophie, co siết tay cô bé.”Nhưng chuyện đó chưa xảy ra đâu.Em có biết bao nhiêu con người thật, bao nhiêu người bất tử, các Elder, bao nhiêu sinh vật được tạo ra và ma quỉ đủ loại đã cố giết tôi không?”
Đứa con gái lắc đầu.
“Ừ, thật ra tôi cũng không biết hết.Nhưng có đến hàng ngàn.Có thể hàng vạn.Và tôi vẫn ở đây; điều đó nói với em cái gì?”
“Rằng chị giỏi?”
“A! Tôi giỏi còn giỏi hơn cả giỏi nữa. Tôi là người giỏi nhất.Tôi là Nữ Chiến Binh.”Scathach ngừng lại và nhìn vào một cưa sổ tiệm sách, nhưng Sophie để thấy khi cô quay sang nói chuyện, đôi mắt màu xanh nhạt của cô đảo khắp nơi, kiểm soát hết chung quanh họ.
Cưỡng lại cán dỗ muốn nhìn quanh, Sophie hạ giọng xuống thành lời thầm thì.”Mình đang bị theo dõi hả?”Cô khám ngạc nhiên khi khám phá ra rằng cô không có chút gì sợ hãi; cô biết, theo bản năng, rằng không có gì có thể làm hại được cô khi cô đi với Scathach.
“không,tôi không nghĩ vậy. Chỉ là những thói quen cũ”Scathach mỉm cười.”Những thói quen cũ như vầy đã giúp tôi sống hàng thế kỉ.”Cô ngoảnh đi khỏi tiệm và Sophie móc cánh tay mình vào cánh tay Scathach.
“Khi mới gặp chị, em nghe chú Nicholas gọi đã chị bằng những cái tên khác..”Sophie cau mày, cố nhớ lại lần đầu tiên ông ấy đã giới thiệu nhứ thế nào chỉ mới hai ngày trước đây.”Chú ấy gọi chị là Nữ chiến binh,Bóng tối, kẻ giết quỉ, người tạo ra vua.”
“Đó chỉ là những cái tên,”Scathach lầm bầm, nghe có vẻ bối rối.
“Nghe còn hơn những cái tên”Sophie nhấn mạnh.”Chúng nghe như những chức vụ..những chức vụ chị đã từng nắm giữ?”Sophie kiên trì tìm hiểu.
“Ừ, tôi đã có rất nhiều cái tên,”Scathach nói.”những cái tên bạn tôi đặt cho tôi, những cái tên kẻ thù thường gọi tôi.Trước hết tôi là Nữ chiến binh, và rồi tôi trở thành Bóng tối, vì những kĩ năng lấp kín mình. Tôi hoàn thành bộ y phục ngụy trang đầu tiên.”
“Chị nói như một ninja,”Sophie cười lớn.Lắng nghe Nữ chiến binh nói,những kí ức cuẩ bà phù thủy nhấp nháy trong đầu cô, và cô biết Scathach đang nói thật.
“Tôi đã thử dạy các ninja, nhưng chưa bao giờ thấy họ giỏi tới mức đó tin tôi đi. tôi trở thành Kẻ giết quỉ khi tôi giết Raktabija. Và tôi được gọi là người tạo ra vua khi tôi giúp đưa Arthur lên ngai vàng,”cô nói thêm, giọng cô đanh lại.Cô lắc đầu nhanh.” “Đó là một sai lầm. Mà cũng không phải là sai laamf đầu tiên.”Cô cười lớn, giọng cười run rẩy và gượng ép.”Tôi đã phạm nhiều sai lầm.”
“Ba em nói con có thể học từ những sai lầm của con.”
Scathach gằn ra một tiếng cười.”Không dành cho tôi.” Cô không thể giấu vẻ cay đắng trong giọng nói.
“Nghe như thể chị có một cuộc sống khó khăn,” Sophie êm ả nói.
“Khó khăn,”Nữ chiến binh thừa nhận.
“Đã từng có…”Sophie ngưng một chút, cố tìm ra từ ngữ.”Chị đã bao giờ có một… một người bạn trai chưa?”
Scathach nhìn xoáy vào cô bé, rồi quay mặt đi nhìn chăm chăm vào cửa sổ một cửa tiệm. Trong một thoáng Sophie nghĩ chị đang nhiên cứu cách chưng bày giày dép,nhưng rồi cô bé nhận ra rằng Nữ chiến binh đang nhìn vào hình phản chiếu chính họ trên tấm kính. Cô bé tự hỏi không biết cô trông thấy gì.
“Không,”cuối cùng Scathach thừ nhận.”Chưa bao giờ có một người gần gũi, một người nào đặt biệt.” Cô cười mím môi.”Các Elder sợ và né tránh tôi. Còn tôi lại cố giữ không quá thân thiết với loài người. Thật là rất khó lhawn khi nhìn họ già và chết đi. Đó là lời nguyền của sự bất tử: quan sát sự thay đổi của thế giới, nhìn thấy thứ em quen biết tàn lụi đi.Hãy nhớ điều này, Sophie, nếu nhỡ có ai tặng em monsquaf bất tử.” Cô nói những lời cuối cùng nghe như một lời báng bổ.
“Có vẻ như quá cô đơn,”Sophie thận trọng nói.Trước đây, cô bé chưa từng nghĩ đến bất tử phải như thế nào- vẫn sống trong mọi thứ quen thuộc đều phải thay đổivà mọi người biết mình đều rời bỏ mình.Họ đi trong im lặng khoảng hơn chục bước trước khi Scathach quay lại nói.
“Ừ, cô đơn,” cô thừa nhận, “rất cô đơn.”
“Em biết cảm giác cô đơn,”Sophie tư lự nói.”Ba mẹ em hay đi vắng hoặc là cứ mang theo tụi em chuyển từ thành phố này sang thành phố khác, nên rất khó kết bạn. Còn giữ được bạn là hầu như không thể.”em cho đó là lí do em và Josh luôn rất thân nhau; tụi em không có ai khác.Bạn thân của tụi em Elle, đang ở New York.Tụi em nói chuyện vwosi nhau qua điện thoại mọi lúc”e-mial và chat trên IM, nhưng em chưa gặp nó từ hồi giáng sinh.Nó gửi hình qua cho em qua điện thoại di động mỗi khi nó đổi màu tóc, nhờ vậy nên em mới biết nó như thế nào,” cô bé nói thêm với một nụ cười.”THế nhưng Josh thậm chí chả bao giờ chiu khó kết bạn.”
“Bạn bè là quan trọng,”Scathach đồng tình, siết chặt cánh tay Sophie nhè nhẹ.”Nhưng nếu bạn bè đến rồi đi, thì em lại luôn có gia đình.”
“Gia điình chị như thế nào? Bà phù thủy Endor có đề cập đến mẹ và em trai chị”. Cả khi cô bé đang nói, những hình ảnh từ kí ức Bà phù thủy vẫn hiện ra trong trí cô bé; một phụ nữ già hơn có khuôn mặt nhọn, đôi mắt đỏ như máu và một thanh niên nước da tái mé với bộ tóc đỏ chói.
Nữ chiến binh nhún vai khó chịu.”Lâu nay chúng tôi không nói chuyện nhiều với nhau.Cha mẹ tôi là những Elder, sinh ra và lớn lên trên hòn đảo Danu talis. Khi bà ngoại Dora của tôi rời hòn đảo để đến dạy loài người đầu tiên, họ đã không tha thứ cho bà. Như nhiều Elder, họ coi loài người chỉ giỏi hơn thú dữ một chút.”Tò mò “ cha tôi gọi họ như vâỵ” Một cảm giác ghê tởm thoáng qua trên gương mặt cô.”Thành kiến luôn đi cùng chúng tôi.Cha mẹ còn sốc hơn khi tôi thông báo rằng tôi sẽ làm việc với loài người, chiến đấu cho họ, bảo vệ họ khi có thể.”
“Tại sao?”Sophie hỏi.
Giọng Scathach trở nên êm dịu.”Diều đó với tôi là hiển nhiên, mặc dù loài người là tương lai và những ngày của giống loài Elder đang đến hồi kết thúc.”Cô liếc xéo qua Sophie đang ngạc nhiên vài thấy dôi mắt Scathach đang sáng lên và lấp lánh, gần như thể có những giọt nước ở trong đó.”Cha mẹ tôi cảnh báo tôi rằng, nếu tôi bỏ nhà đi, tôi sẽ mang xấu hổ đến cho dòng họ và họ sẽ từ tôi.”Giọng Scathach kéo dài ra thành sự im lặng.
“Nhưng chị vẫn bỏ đi,”Sophie đoán.
Nữ chiến binh gật đầu.”Tôi bỏ đi. Tôi đã không nói chuyện với họ trong một thiên niên kỉ… cho tới khi ọ gặt rắc rối và cần tôi giúp,”cô nói thêm với một nụ cười nham hiể.”Bây giờ thỉnh thoảng chúng tôi có nói chuyện, nhưng tôi e họ vẫn xem tôi là nguyên nhân họ ngượng với mọi người.”
Sophie siết nhẹ tay cô ấy. Cô bé cảm thấy khó chịu với những gì Nữ chiến binh kể, nhưng cô cũng nhận ra rằng Scathach đã chia sẻ những điều vô cùng riêng tư, điều đó làm Sophie ngờ rằng người chiến binh cổ xưa này chưa bao giờ chia sẻ cho bất kì ai khác.”Em xin lỗi em không cố ý làm chị buồn.”
Scathach siết tay đáp lại.”Em không làm tôi buồn.Mà là họ-hơn hai ngàn năm qua, thật vậy- tôi có thể nhớ như vừa xảy ra hôm qua. Đã quá lâu rồi kể từ khi có ai đó chịu khó hỏi han về cuộc đời tôi. Và hãy tin tôi, không phải tất cả đều tồi tệ cả. Tôi đã có vài chuyến đi kì diệu,” cô nói một cách rạng rỡ.”Tôi đã kể em nghe về thời gian tôi là ca sĩ hát chính trong một ban nhạc toàn nữ chưa? Một loại goth-punk giống Spice girlnhwng chúng tôi chỉ hát cover dòng nhạc Toris Amo. Chúng tôi rất mạnh ở Đức.”Cô hạ giọng”vấn đề là chúng tôi đầu là ma cà rồng…”
Dạ Phong
29-12-2010, 04:36 PM
Nicholas và Josh rẽ lên đường de Dunkerque và khám phá ra rằng có cảnh sát khắp nơi. “Cứ đi đi,” Nicholas vội vã nói khi Josh đi chậm lại. “Và hành động tự nhiên”.
“Tự nhiên,” Josh lầm bầm. “Cháu không biết điều đó có nghĩa gì nữa.”
“Đi nhanh, nhưng đừng chạy,” Nicholas kiên nhẫn nói. “Cháu hoàn toàn vô tội, một cậu học sinh đang trên đường đến lớp hay đi làm việc trong kỳ nghỉ hè. Nhìn vào cảnh sát, nhưng đừng chằm chằm. Và nếu họ nhìn lại cháu, đừng ngoảnh đi nhanh quá, cứ để mắt cháu lướt trôi qua một người nào khác. Đó là những gì một người công dân bình thường vẫn làm. Nếu chúng ta bị chặn lại, chú sẽ nói chuyện. Chúng ta sẽ ổn mà.” Ông nhìn vẻ ngờ vực trên khuôn mặt cậu bé và ông nở một nụ cười. “Tin chú đi, chú đã làm vậy lâu lắm rồi. Bí quyết là cử động như thể ở đây cháu đang có mọi điều đúng trên thế giới này. Cảnh sát được huấn luyện để tìm kiếm những người trông có vẻ đáng ngờ và có những hành động đáng ngờ.”
“Chú không nghĩ là chúng ta rơi vào cả hai loại đó sao?” Josh hỏi.
“Chúng ta thuộc về cái gì thì trông chúng ta giống như thế ấy – và điều đó làm chúng ta thành vô hình.”
Một nhóm ba cảnh sát thậm chí không nhìn theo hướng họ khi họ đi qua. Josh để ý thấy mỗi người mặc một kiểu đồng phục khác nhau, và những người đó dường như đang tranh cải.
“Tốt,” Nicholas nói khi họ xa khỏi tầm nghe.
“Cái gì tốt ạ?”
Nicholas nghiêng đầu theo hướng họ vừa đến. “Cháu thấy những bộ đồng phục khác nhau chứ?”
Cậu bé gật đầu.
“Nước Pháp có hệ thống cảnh sát phức tạp; tại Paris thậm chí còn hơn vậy. Có Police Nationale; Gendarmerie Nationale và Prefecture de Police. Machiavelli rõ ràng là đã lôi kéo tất cả những chốt chặn ra đây để tìm kiếm chúng ta, nhưng thất bại lớn hắn luôn luôn gặp phải là do hắn cho rằng người khác cũng lý luận lạnh lùng như hắn. Rõ ràng hắn nghĩ nếu đặt tất cả những nguồn cảnh sát này trên các đường phố, họ sẽ không làm gì hết ngoài việc tìm kiếm chúng ta. Nhưng có rất nhiều sự ganh đua giữa các đơn vị khác nhau, và không nghi ngờ là mọi người đều được muốn khen ngợi vì đã bắt được những tên tội phạm nguy hiểm.”
“Bây giờ chúng ta biến thành những thứ đó phải không?” Josh hỏi, không thể che giấu nỗi cay đắng chợt đến trong giọng nói. “Hai ngày trước, Sophie và cháu là những người vui vẻ, bình thường và bây giờ nhìn chúng cháu xem: cháu chẳng biết gì về chị gái cháu, chúng cháu bị săn đuổi, bị tấn công bởi mấy con quỷ và bây giờ nằm trong danh sách cần truy nã nhất của cảnh sát. Chú làm chúng cháu biến thành tội phạm, ông Flamel ạ. Nhưng đây không phải là lần đầu tiên chú là một tên tội phạm, phải không?” cậu cáu kỉnh. Cậu nhét hai bàn tay vào sâu trong túi áo và nắm chặt lại thành những nắm đấm để không cho chúng run lên. Cậu vừa sợ vừa giận, và nỗi sợ hãi đã làm cho cậu liều lĩnh. Cậu chưa bao giờ nói với một người lớn như vậy từ trước tới nay.
“Không,” Nicholas ôn tồn nói, đôi mắt xanh nhạt của ông bắt đầu lóe lên đầy nguy hiểm. “Chú đã từng bị gọi là tội phạm. Nhưng chỉ do những kẻ thù của chú thôi. Chú thấy dường như” ông nói thêm sau khi ngưng khá lâu, “cháu đã nói chuyện với Tiến sĩ Dee. Và chỉ một nơi cháu có thể chạm trán hắn đó là ở Ojai, vì chỉ có lúc đó cháu mới ở ngoài tầm mắt chú.”
Josh không hề nghĩ đến việc chối. “Cháu gặp Dee khi cả ba người bận rộn với Bà Phù thủy,” cậu bướng bỉnh thừa nhận. “Ông ta nói với cháu nhiều về chú.”
“Chú chắc chắn là hắn đã làm vậy mà,” Flamel lẩm bẩm. Ông kiềm chế lại chờ một nhóm sinh viên đi xe đạp và mô-bi-lét phóng qua; rồi ông băng qua đường. Josh vội vã theo sau.
“Ông ấy nói chú không bao giờ nói mọi thứ với bất cứ ai.”
“Đúng,” Flamel đồng ý. “Nếu cháu nói với người ta mọi thứ, cháu sẽ lấy đi cơ hội học hỏi của họ.”
“Ông ấy nói chú ăn trộm cuốn sách của Pháp sư Abraham hồi ở Louvre.”
Nicholas bước thêm năm bảy bước nữa rồi mới gật đầu. “Nào, giả thiết điều này cũng là đúng,” ông nói, “dù nó không thẳng tắp như hắn ta muốn vẽ ra. Chắc chắn, hồi thế kỷ mười bảy, cuốn sách có một thời gian ngắn rơi vào tay Cardinal Richelieu.”
Josh lắc đầu. “Đó là ai?”
“Cháu chưa bao giờ xem Ba Chàng Ngự Lâm à?” Flamel hỏi đầy ngạc nhiên.
“Chưa. Cả phim cũng chưa.”
Flamel lắc đầu. “Chú có một bản copy trong cửa tiệm …” ông mở lời, và rồi ngừng lại. Khi ông ra khỏi tiệm sách hôm thứ năm, nó đã thành một đống giấy vụn rồi. “Richelieu xuất hiện trong nhiều cuốn sách – và phim ảnh nữa. Đây là một người thật và người ta gọi ông là l’Eminence Rouge – Hồng y Giáo chủ - được đặt tên như vậy vì chiếc áo choàng đỏ của hồng y,” ông giải thích. “Ông ta là Tể tướng của Vua Louis XIII, nhưng thực tế ông là người điều hành đất nước. Năm 1632, Dee tìm cách bắt chú và cô Perenelle trong một vùng của thành phố cổ. Những tên bộ hạ không phải; có những con mà cà rồng trong lòng đất bên dưới chân tụi chú, những con Quạ Hút máu truy đuổi tụi chú khắp đường phố.” Nicholas nhún vai khó chịu với hồi ức này và ngước mắt nhìn quanh, gần như ông sợ phải nhìn thấy các sinh vật đó xuất hiện lần nữa. “Chú bắt đầu nghĩ rằng thà chú phải phá hủy cuốn Codex còn hơn là nhìn thấy nó rơi vào tay Dee. Rồi co Perenelle đề nghị một chọn lựa cuối cùng: tụi chú có thể giấu cuốn sách trong đám đông. Đơn giản và sáng suốt.”
“Chú đã làm gì?” Josh hỏi, bây giờ lại đâm ra tò mò.
Hàm răng Flamel lóe lên khi ông cười. “Chú yết kiến Hồng y Richelieu và tặng ông ta cuốn sách.”
“Chú cho ông ta cuốn sách? Ông ta có biết nó là gì không?”
“Đương nhiên là biết. Cuốn sách của Abraham nổi tiếng mà, Josh – hoặc có thể dùng từ khét tiếng chắc là đúng hơn. Lần sau cháu có online, tra nó xem.”
“Ông Hồng y có biết chú là ai không?” cậu hỏi. Lắng nghe Flamel nói, thật dễ - quá dễ tin những gì ông nói. Và bất giác cậu nhớ Dee đã đáng tin như thế nào hồi ở Ojai.
Flamel mỉm cười, nhớ lại. “Hồng y Richelieu tin chú là một trong những hậu duệ của Nicholas Flamel. Vì thế khi bọn chú tặng ông ta cuốn sách của Abraham, ông ta đã cất nó và thư viện của mình.” Nicholas vừa cười nhẹ vừa lắc đầu. “Một nơi an toàn nhất trên khắp nước Pháp.”
Josh cau mày. “Nhưng khi nhìn vào nó, chắc chắn ông ta phải thấy là những con chữ chuyển động chứ?”
“Perenlle đã ếm bùa trên cuốn sách. Đó là một dạng đặc biệt của thần chú – đơn giản, rõ ràng một cách đáng ngạc nhiên, mặc dù chưa bao giờ chú có thể nắm vững nó được – vì thế khi ông hồng y nhì vào cuốn sách, ông đã thấy những gì ông ta mong đợi: những trang tiếng Hy Lạp hoa mỹ và chữ viết Sy-ri.”
“Dee có bắt được chú không?”
“Suýt chút nữa. Cô chú trốn xuống sông Seine trong một cái xà-lan. Đích thân Dee đứng trên cầu Pont Neuf với cả chục tên ngự lâm quân và nã rất nhiều phát đạn vào tụi chú. Tất cả đều trật lất hết; mặc cho danh tiếng của lính ngự lâm, họ là những tay súng kinh khủng,” ông nói thêm. “Và rồi, một hai tuần sau, chú và Perenlle trở lại Paris, đột nhập vào thư viện và ăn cắp lại cuốn sách của cô chú. Vì thế chú cho rằng cháu có thể nói là Dee đúng,” ông kết luận. “Chú là một tên ăn cắp.”
Josh tiếp tục đi trong im lặng; cậu không biết tin vào cái gì. Cậu muốn tin Flamel; làm việc trong tiệm sách bên người đàn ông này, cậu dần dần thích và kính trọng ông. Cậu muốn tin cậy ông … song cậu không bao giờ có thể tha thứ cho ông vì ông đã đặt Sophie vào nguy hiểm.
Flamel liếc lên liếc xuống dọc con đường; rồi đặt bàn tay lên vai Josh, ông lái cậu xuyên dòng xe cộ lạng lách để băng qua con đường de Dunkerque. “Chỉ trong trường hợp chúng ta đang bị theo dõi,” ông nói nhẹ nhàng, đôi môi ông gần như không mấp máy khi họ lao xuyên qua dòng xe cộ sáng sớm.
Khi họ đã băng qua đường xong, Josh rũ vai khỏi tay Flamel. “Những gì Dee nói mang rất nhiều ý nghĩa,” cậu tiếp tục.
“Chú chắc vậy rồi,” Flamel nói trong tiếng cười lớn. “Tiến sĩ John Dee đã từng có nhiều lốt trong cuộc đời dài và lắm màu sắc, một người Hung-ga-ri và một nhà toán học, một nhà giả kim và một tên gián điệp. Nhưng đê chú nói cháu nghe, Josh, hắn thường là một tên đểu và luôn luôn là kẻ nói dối. Hắn là bậc thầy nói dối và chỉ nói một nữa sự thật, hắn hành nghề và hoàn thiện ngón nghề của hắn trong những thời kỳ nguy hiểm nhất. Thời Elizabeth, hắn biết rằng lời nói dối giỏi nhất là một lời nói dối bọc quanh một cái lõi sự thật.” Ông dừng, đôi mắt hấp háy trên đám đông đang ào qua quanh họ. “Hắn còn nói gì khác với cháu nữa?”
Josh ngần ngừ một chút trước khi trả lời. Cậu định không tiết lộ tất cả những gì trong cuộc nói chuyện với Dee nhưng rồi cậu nhận ra rằng có thể là cậu đã nói quá nhiều mất rồi. “Dee nói rằng chú chỉ dùng những câu thần chú trong cuốn Codex cho lợi ích riêng của chú.”
Nicholas gật đầu. “Đây là một điểm đúng. Chú dùng thần chú bất tử để giữ Perenlle và chính chú sống, đó là sự thật. Và chú dùng công thức hòn đá tạo vàng để biến kim loại thường thành vàng và than đá thành kim cương. Không thu được đồng bán sách, để chú nói cho nghe. Nhưng bọn chú chỉ làm ra đủ của cải mình cần – bọn chú không tham lam.”
Josh đi nhanh lên phía trước Flamel, rồi quay người lại đối diện với ông. “Cái này không nói đến tiền” cập bốp chát. “Có quá nhiều thứ khác chú có thể đang làm cùng với những gì có trong cuốn sách đó. Dee nói nó có thể được dùng để biến thế giới này thành một thiên đường, có thể chữa lành mọi bệnh tật, sửa chữa được cả môi trường nữa.” Cậu thấy khó hiểu khi một ai đó không muốn làm điều này.
Flamel ngừng lại trước mặt Josh. Đôi mắt ông gần như nằm ngang tầm mắt cậu nhỏ.
“Đúng, có những câu thần chú trong cuốn sách sẽ làm được tất cả những việc ấy và nhiều, nhiều nữa kìa” ông nói nghiêm túc. “Chú đã xem lướt qua những câu thần chú trong cuốn sách có thể biến thế giới này thành một đống than xỉ, những câu khác sẽ làm sa mạc nở hoa. Nhưng Josh, thậm chí nếu chú có thể làm những câu thần chú đó – mà thật ra là chú không thể - thì những thành phần trong cuốn sách không phải là nguyên liệu của chú mà chú có thể sử dụng.” Đôi mắt xanh nhạt của Flamel hướng vào mắt cậu và Josh bây giờ đã tin rằng Nhà Giả kim đang nói sự thật. “Chú và Perenlle chỉ là những Người Canh giữ Cuốn sách. Đơn giản là cô chú được giao phó việc cầm giữ nó cho đến khi có thể chuyển nó cho những chủ nhân xứng đáng. Họ sẽ biết cách sử dụng nó.”
“Nhưng ai là chủ nhân xứng đáng? Họ ở đâu?”
Nicholas Flamel đặt cả hai tay lên vai Josh và nhìn chăm chăm và đôi mắt màu xanh nhạt của cậu. “Vâng, chú đang hy vọng,” ông nói rất nhẹ nhàng, “rằng đó có thể là cháu và Sophie. Thật vậy, chú đang đem mọi thứ ra đánh cược – cuộc sống của chú, cuộc sống của Perenlle, sự sống còn của toàn thể nhân loại này – rằng đó đúng là chúng cháu.”
Đứng trên đường de Dumkerque, nhìn vào mắt Nhà Giả kim, đọc được sự thật trong mắt ông, Josh cảm thấy mọi người mờ nhạt đi hết cứ như là chỉ có họ đứng một mình trên phố. Cậu nuốt nước bọt khó khăn. “Và chú tin như vậy hả?”
“Bằng cả con tim mình,” Flamel nói một cách giản dị. “Và mọi thứ chú đã làm, chú làm để bảo vệ cháu và Sophie đồng thời chuẩn bị cho cháu những gì sắp xảy đến. Cháu phải tin chú, Josh. Cháu phải tin. Chú biết cháu giận bởi vì những gì đã xảy ra với Sophie, nhưng chú sẽ không bao giờ để cô bé bị nguy hiểm.”
“Giờ này chị ấy chắc hẳn đã chết hoặc rơi vào hôn mê rồi,” Josh lẩm bẩm.
Flame lắc đầu. “Nếu con bé là một người thường, thì đúng, điều đó có thể xảy ra. Nhưng cháu biết con bé không phải là người thường. Cả cháu cũng không phải,” ông nói thêm.
“Bởi vì luồng điện của chúng cháu?” Josh hỏi, moi được bao nhiêu thông tin thì cứ moi.
“Bởi vì các cháu là cặp song sinh huyền thoại.”
“Và nếu chú sai? Chú co nghĩ rằng: chuyện gì xảy ra nếu chú sai không?”
“Thì Elder Đen tối sẽ trở lại.”
“Chuyện đó tồi tệ ghê lắm sao?” Josh ngạc nhiên thốt ra.
Nicholas mở miệng định trả lời nhưng vội khép chặt môi vào nhau, cắn lại những gì ông suýt nói ra, nhưng trước đó Josh đã nhìn thấy một tia lửa giận lóe lên rất nhanh dội ngang gương mặt ông. Cuối cùng, Nicholas gượng một nụ cười. Nhẹ nhàng, ông xoay người Josh lại để cậu đối diện với con đường. “Cháu thấy gì?” ông hỏi.
Josh lắc đầu và nhún vai. “Không có gì cả… chỉ là một đám người đang đi làm. Và cảnh sát đang tìm kiếm chúng ta,” cậu nói thêm.
Nicholas chộp vai Josh và đẩy cậu xuống đường. “Đừng nghĩ họ là một đám người,” Flamel gay gắt răn đe. “Đó là cách mà Dee và đồng loại của hắn nhìn loài người: những thứ mà chúng gọi là giống người. Còn chú, chú thấy từng người riêng biệt, với những mối lo âu và bận tâm, với gia đình và những người yêu quý, với bạn bè và đồng nghiệp. Chú thấy người ta.”
Josh lắc đầu. “Cháu không hiểu.”
“Dee và các Elder mà hắn phục vụ nhìn vào những người này chỉ xem họ là những nô lệ.”
Ông dừng một chút, rồi nhanh chóng nói thêm, “Hoặc là thức ăn.”
Dạ Phong
30-12-2010, 04:58 PM
CHƯƠNG 13
Nằm ngửa thẳng người, Perenlle Flamel nhìn chằm chằm và trần nhà bằng đá đã hoen rỉ ngay trên đầu bà và tự hỏi không biết có bao nhiêu tù nhân khác bị tống giam ở Alcatraz đã làm như vậy. Bao nhiêu người khác đã lần theo những đường kẻ hay những khe nứt trên đá, nhìn thấy những hình thù trong những đốm nước đen ngòm, tưởng tượng ra những bức tranh trong cái thứ ẩm ướt màu nâu này? Hầu như tất cả bọn họ, bà đoán.
Và bao nhiêu người nghe được những tiếng nói? Bà tự hỏi. Bà chắc rằng nhiều người tù đã tưởng tượng là họ nghe được âm thanh trong bóng tối – những lời thì thầm, những câu nói vội vàng – nhưng trừ phi là họ sở hữu món quà đặc biệt như của Perenlle, còn thì những gì họ nghe đều chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của họ mà thôi.
Perenlle nghe được tiếng nói của những hồn ma ở Alcatraz.
Lắng nghe chăm chú, bà có thể phân biệt hàng trăm tiếng nói, thậm chí có thể đến hàng ngàn. Đàn ông và đàn bà – trẻ con nữa - ồn ào và la hét, rù rì và khóc lóc, réo gọi to tiếng vì mất những người thân yêu, lập đi lập lại những cái tên của riêng họ, công bố họ vô tội, nguyền rủa những cai tù. Bà cau mày, họ không phải là những gì mà đang kiếm.
Để cho những tiếng nói dội xuống trên mình, bà lần lượt phân loại ra những âm thanh cho đến khi chọn được một tiếng nói lớn hơn tất cả nhứng tiếng còn lại: mạnh mẽ và tự tin, nó cắt ngang những tiếng nói lảm nhảm, xí xô, và Perenlle bắt gặp mình đang tập trung vào nó, nhắm vào từng từ, phân định loại ngôn ngữ.
“Đây là hòn đảo của tôi.”
Đó là một người đàn ông, nói tiếng Tây Ban Nha bằng giọng rất trịnh trọng, cổ xưa. Tập trung lên trần nhà, Perenlle gạt các tiếng nói khác ra ngoài. “Ông là ai?” Trong xà lim ẩm thấp lạnh lẽo, lời của bà phụt ra khỏi miệng như làn khói và vô số những hồn ma chìm vào im lặng.
Một khoảng lặng kéo dài, như thể hồn ma ngạc nhiên vì có ai đó nói với mình; rồi ông ta nói một cách tự hào, “tôi là người Châu Âu đầu tiên đi thuyền vào vịnh này,người đầu tiên nhìn thấy hòn đảo này.”
Một hình dạng bắt đầu hiện ra trên mái nhà ngay phía trên đầu bà, đường viền phác họa qua loa thành một khuôn mặt xuất hiện trong những khe nứt và mạng nhện, nấm mốc đen đửi và lớp rêu xanh thẩm làm cho nó định hình và rõ nét.
“Tôi đã gọi nơi này là la Isa de los Alcatracez.”
“Hòn đảo Bồ nông,” Perenlle nói, những lời nhỏ nhất thì thào như tiếng thở.
Khuôn mặt trên trần nhà đông đặc lại một chút. Đó là một người đàn ông điển trai với khuôn mặt dài, hẹp và đôi mắt màu sẩm. Những giọt nước kết lại và đôi mắt lấp loáng nước.
“Ông là ai?” Perenlle hỏi lại.
“Tôi là Juan Manuel de Ayala. Tôi khám phá ra Alcatracez.”
Tiếng móng vuốt lích kích lách cách trên những khối đá bên ngoài xà lim, và mùi rắn và mùi thịt ôi xông thốc xuống hành lang. Perenlle giữ im lặng cho đến khi mùi hôi và tiếng chân lùi xa dần, và khi bà nhìn lại trên trần, khuôn mặt tiếp tục đầy chi tiết hơn, những khe nứt trong đá tạo thành những vết nhăn hằn sâu trên trán người đàn ông và xung quanh đôi mắt ông. Bà nhận ra gương mặt của một người thủy thủ, những vết nhăn này là kết quả của việc thường xuyên nheo mắt nhìn về chân trời xa.
“Tại sao ông ở đây?” bà lớn tiếng tự hỏi. “Ông đã chết ở đây hả?”
“Không. Không phải ở đây.” Đôi môi mỏng cong lên cười. “Tôi quay lại bởi vì tôi yêu quý nơi này từ khoảnh khắc đầu tiên nào đó khi tôi bắt gặp nó. Đó là năm 1775 Dương lịch, và tôi đã ở trên chiếc tàu thật đẹp San Carlos. Tôi vẫn còn nhớ tháng là tháng Tám, và ngày là ngày năm.
Perenlle gật đầu. Trước đây bà đã tình cờ gặp những hồn ma như của Ayala. Những người đàn ông và đàn bà đã quá chịu ảnh hưởng hoặc quá yêu mến một nơi đến nỗi họ trở lại đó hoài hoài trong những giấc mơ, và cuối cùng khi họ chết đi, linh hồn họ quay lại chính những nơi đó để trở thành hồn ma canh giữ.
“Tôi đã trông nom hòn đảo này qua nhiều thế hệ. Tôi sẽ luôn luôn canh giữ nó.”
Perenlle dán mắt vào khuôn mặt ấy. “Hẳn ông phải buồn lắm khi nhìn thấy hòn đảo xinh đẹp của ông biến thành một nơi đau đớn và khổ nhọc thế này,” bà thăm dò.
Có cái gì đó vặn vẹo trong miệng nhân dáng đó, và một giọt nước rơi khỏi mắt nhỏ xuống cằm Perenlle.
“Những ngày đen tối, những ngày buồn bã, nhưng bây giờ qua rồi… đa tạ, đã qua rồi.” Đôi môi của hồn ma cử động và những lời lẽ thầm thì trong đầu Perenlle. “Đã không còn một người tù nào ở Alactraz kể từ năm 1963, và hòn đảo này yên bình từ năm 1971.”
“Nhưng bây giờ có một tù nhân mới trên hòn đảo đáng yêu của ông,” Perenlle nói đều đều. “Một tù nhân bị canh giữ bởi một tên cai ngục kinh khủng hơn bất cứ tên cai ngục nào mà hòn đảo này đã trông thấy trước giờ.”
Khuôn mặt trên trần nhà biến đối, đôi mắt ướt át nheo lại, nhấp nháy. “Ai? Bà à?”
“Tôi bị nhốt ở đây chứ không phải ý tôi muốn ở đây,” Perenlle nói. “Tôi là tù nhân cuối cùng của Alactraz, và tôi bị canh giữ bởi một cai ngục không thuộc giống người, mà là một con nhân sư.”
“Không!”
“Ông tự xem đi!”
Trát vữa nứt rạn ra và bụi nấm mốc rơi như mưa xuống mặt Perenlle. Khi bà mở mắt trở lại, khuôn mặt trên trần biến mất, không để lại gì hơn là một vệt bẩn theo sau nó.
Perenlle tự cho phép mình mỉm cười.
“Cái gì làm bà vui vậy, con người?” Tiếng nói là một âm xuỵt trơn tuột, và ngôn ngữ này đã có trước khi có loài người.
Xốc mình ngồi lên, Perenlle tập trung vào một giống loài đang đứng trong hành lang cách bà chưa đầy một mét tám.
Những thế hệ người cổ đại đã cố giữ được hình ảnh của loài này trên tường hang động và những chiếc bình, chạm khắc hình ảnh nó vào đó, giữ chân dung nó trên những cuộn giấy da nén. Và thậm chí không ai trong họ từng đến gần sự kinh khiếp đích thực của con nhân sư.
Mang thân hình của một con sư tử cơ bắp khổng lồ, lông đầy vết sẹo cắt ngang cắt dọc là chứng tích của rất nhiều vết thương củ. Một đôi cánh đại bàng uốn cong ra vai và nằm sát trên lưng, những mảng lông vũ tả tơi và bẩn thỉu. Một cái đầu nhỏ, vẻ thanh tú lại là của một cô gái đẹp.
Con nhân sư bước đến sát những song sắt xà lim, và một cái lưỡi chẽ nhánh đen thui dao động trong không khí trước mặt Perenlle. “Bà không có lý do gì để cười hết, con người kia. Tôi được biết rằng chồng bà và Nữ Chiến binh đã bị bắt ở Paris rồi. Chẳng mấy chốc họ sẽ vào tù và lần này Tiến sĩ Dee sẽ chắc chắn rằng họ không bao giờ trốn thoát được nữa. Tôi hiểu các Elder cuối cùng đã cho phép ông Tiến sĩ giết chết Nhà Giả kim huyền thoại một cách dã man.”
Perenlle cảm thấy có cái gì quặn thắt ngay nơi vùng lõm thượng vị. Đã qua bai nhiêu thế hệ các Elder Đen tối quyết tâm bắt sống Nicholas và Perenlle. Nếu bà chịu tin lời con nhân sư và việc bọn chúng đã chuẩn bị giết Nicholas là thật thì mọi chuyện thay đổi hết.
“Nicholas sẽ trốn thoát,” bà nói một cách tự tin.
“Không phải lần này,” cái đuôi sư tử con nhân sư quất qua quất lại ra vẻ phấn khích, hất tung lên những chùm bụi mù. “Paris thuộc về tay người Ý, Machiacelli, và chẳng bao lâu nữa ông ta sẽ được Pháp sư người Anh tham gia cùng. Nhà Giả kim không thể trốn tránh cả hai người họ đâu.”
“Còn mấy đứa nhỏ?” Perenlle hỏi, đôi mắt nheo lại hiểm ác. Nếu có bất cứ việc gì xảy đến cho Nicholas hay hai đứa nhỏ…
Những cái lông vũ của con nhân sư xù lên, bốc ra một mùi chua chua. “Dee tin rằng mấy đứa nhỏ giống người đó rất mạnh, có lẽ chúng đích thực là cặp song sinh huyền thoại. Ông ta cũng tin rằng có thể thuyết phục chúng nên phục vụ chúng tôi, hơn là đi theo lão già lang thang bán sách.” Con nhân sư rùng mình thở dài. “Nhưng nếu bọn chúng không làm theo lời họ bảo, thì chúng sẽ chết bỏ mạng thôi.”
“Còn tôi thì sao?”
Cái miệng xinh đẹp của con nhân sư mở ngoác lồ lộ dã tâm với hàm răng nhọn hoắt, quẫy lung tung cái lưỡi dài đen ngòm trong không khí. “Bà là của tôi, Nữ Phù thủy (Sorceress)”, nó nói rít lên. “Các Elder đã tặng bà cho tôi như một món quà vì đã phục vụ họ nhiều thiên niên kỷ nay. Khi chồng bà bị bắt và bị giết dã man rồi, thì tôi sẽ được phép ăn ký ức của bà. Một bữa tiệc hấp dẫn biết bao. Tôi định sẽ nhấm nháp cho tới miếng cuối cùng. Khi tôi ăn xong, bà sẽ không còn nhớ gì nữa hết, thậm chí cả tên mình.” Con nhân sư bắt đầu cười ha hả, âm thanh rít lên, đầy vẻ nhạo báng, mạnh mẻ nảy bật lên khắp các bức tường đá trống trơn.
Rồi tiếng một cánh cửa xà lim đóng sập.
Âm thanh bất ngờ làm con nhân sư bàng hoàng im bặt. Cái đầu nhỏ xíu của nó quay quanh, lưỡi nó đóng đưa, rà nếm không khí.
Một cánh cửa khác đóng sầm.
Rồi lại một cái khác.
Và thêm một các nữa.
Con nhân sư quay vòng vòng, móng vuốt nó giộng xuống sàn tóe lửa. “Ai đó?” Tiếng thét chói tai của nó lan khắp mặt đá mốc meo.
Đột nhiên, tất cả các xà lim trong hành lang bên trên rầm rập gấp rút mở ra đóng vào liên tục, âm thanh một tiếng nổ rền rung chuyển tận trung tâm nhà tù, làm bụi từ trên trần rơi xuống như mưa.
Gầm gừ, rít ré, con nhân sư nhảy chồm lên, tìm kiếm nguồn phát ra tiếng ồn đó.
Với một nụ cười băng giá, Perenlle ngoặt chân bà trở lại trên chiếc ghế dài, đặt lưng xuống và dựa đầu trên những ngón tay bị buộc. Hòn đảo Alcatraz này thuộc về Juan Manuel de Ayala, và có vẻ như ông ta đang thông báo sự hiện diện của mình. Perenell nghe tiếng những cánh xà lim vang rền, tiếng gỗ giộng thùm thụp, những bức tường lạch cạch và bà biết de Ayala đã trở thành gì: một con yêu tinh.
Một hồn ma ồn ào.
Bà cũng biết de Ayala đang làm gì. Con nhân sư đã hút kiệt năng lượng phép thuật của Perenlle; tất cả những gì con yêu tinh đó phải làm là lôi kéo con vật rời khỏi xà lim một lúc và năng lượng của Perenlle có thể bắt đầu tái tạo. Nhấc bàn tay trái lên, người phụ nữ tập trung cao độ.Một tí xíu nước đá bé tẹo màu trắng nhảy nhót giữa các ngón tay bà, rồi xèo xèo biến mất.
Chẳng mấy chốc nữa.
Nhanh thôi.
Nữ phù thủy nắm bàn tay lại thành một nắm đấm. Khi năng lượng hồi phục, bà sẽ làm Alcatraz đổ sụp xuống cùng với con nhân sư.
Dạ Phong
31-12-2010, 07:01 PM
CHƯƠNG 14
Tháp Eiffel mang vẻ phức tạp rấtlộng lẫy vút cao hơn một trăm năm mươi mét trên đầu Josh. Đã có lần cậu sưu tập một danh sách cho dự án ở trường về Mười Mỹ quan của Thế giới Hiện đại. Tháp kim loại này đứng thứ hai trong danh sách đó, và cậu luôn hứa với lòng rằng một ngày nào đó cậu sẽ phải đến xem nó cho bằng được.
Rốt cuộc thì bây giờ khi đã ở Paris, cậu lại còn chẳng buồn nhìn lên nó.
Đứng gần như ngay dưới trung tâm tháp, cậu nhón chân, quay đầu qua trái qua phải, tìm cô chị sinh đôi của mình trong số đông những du khách đi tham quan vào lúc sáng sớm, đông đến đáng kinh ngạc. Chị ấy đâu?
Josh đâm sợ.
Không, còn hơn cả sợ - cậu thấy kinh khiếp.
Hai ngày vừa qua đã dạy cậu ý nghĩa đích thực của sự sợ hãi. Trước khi xảy ra những biến cố trong ngày thứ năm, Josh thật sự chỉ từng sợ rớt một bài kiểm tra hay sợ bị bẽ mặt trước các bạn trong lớp. Cậu cũng có những nỗi sợ khác, những ý nghĩ mơ hồ, ớn lạnh đến trong đêm vắng ngắt, khi cậu chợt tỉnh giấc nằm một mình tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu ba mẹ cậu gặp tai nạn. Sara và Richard Newnam cả hai đều là Tiến sĩ khảo cổ học và cổ sinh vật học, và dù đó không thuộc hàng những công việc nguy hiểm nhất, nhưng những cuộc nghiên cứu của họ thỉnh thoảng đưa họ đến những quốc gia nằm giữa những vùng tôn giáo hay chính trị không ổn định, hoặc họ phải hướng dẫn khai quật trong những khu vực thế giới bị tàn phá bởi cuồng phong hoặc trong những vùng bị động đất hoặc gần những núi lửa đang hoạt động. Những chuyển động bất ngờ của vỏ trái đất thường phá tan những công cuộc tìm tòi khảo cổ đặc biệt.
Nhưng nỗi sợ sâu sắc nhất, đen tối nhất là những gì xảy đến với chị gái cậu. Dù Sophie lớn hơn cậu hai mươi tám giây, nhưng cậu luôn nghĩ chị ấy là cô em bé bỏng của mình. Cậu to con hơn, khỏe mạnh hơn, và công việc của cậu là phải bảo vệ chị ấy.
Vày bây giờ, một cách nào đó, có cái gì kinh khủng lắm đã xảy đến cho người chị sinh đôi của cậu.
Cô đã thay đổi theo những cách mà cậu không thể nào hiểu. Cô đã trở nên giống Flamel và Scathach và giống loại của họ hơn là giống cậu: cô đã trở nên hơn hẳn con người.
Lần đầu tiên trong đời mình, cậu cảm thấy cô đơn. Cậu đang mất người chị gái. Nhưng có một con đường để cậu lại sánh bằng với cô ấy như trước: phải có ai đó Đánh thức năng lượng của riêng cậu.
Josh quay lại – ngay khi Sophie và Scathach xuất hiện, vội vã băng qua cây cầu rộng dẫn thẳng vào tháp. Cảm giác nhẹ nhõm dội xuống cậu. “Họ đây rồi”, cậu nói với Flamel, đang day mặt về hướng ngược lại.
“Biết rồi”, Nicholas nói, giọng Pháp nghe mạnh hơn lúc nào hết. “Và họ không đi một mình”.
Josh rút ngay cái nhìn chăm bẩm ra khỏi cô chị gái và Scathach đang tiến dần đến. “Ý chú là sao?”
Nicholas cúi đầu xuống một chút vừa lúc Josh quay lại. Hai chiếc xe buýt du lịch vừa đến Place Joffre và đang đổ hành khách xuống. Những du khach – người Mỹ, Josh đoán qua cách ăn mặc của họ - nhặng xị, tán gẫu, cười nói ồn ào, quay phim, chụp hình ì xèo trong khi các hướng dẫn viên cố tụ họp họ lại với nhau. Một chiếc thứ ba, màu vàng tươi, dừng lại, đổ ra hơn chục du khách người Nhật mặt mày hớn hở bước xuống vệ đường. Bối rối, Josh nhìn vào Nicholas: ông muốn nói đến chiếc xe buýt nào?
“Đồ đen,” Flamel nói một cách bí ẩn, chỉ trỏ bằng một cái hất hàm.
Josh quay lại và nhận ra người đàn ông mặc đồ đen đang sải bước về họ, di chuyển nhanh chóng băng qua nhóm người đi nghỉ. Trong nhóm du khách thậm chí không ai có một cái liếc mắt về phía người khách lạ đang len lỏi qua họ, lạng lách và xoay người như một vũ công, cẩn thận để không bị chạm vào họ. Josh đoán người đàn ông này có lẽ cao khoảng bằng cậu, nhưng không thể nhận ra dáng người vì ông ta mặc một chiếc áo khoác đen bằng da dài đến ba phần tư người, vạt áo đập phần phật khi ông ta bước đi. Cổ áo kéo cao, bàn tay ông ta thọc sâu vào túi áo. Josh cảm thấy tim thắt lại: chuyện gì nữa đây?
Sophie chạy nhanh đến và đấm vào cánh tay cậu. “Em đây rồi,” cô nói không kịp thở. “Có rắc rối gì không?”
Josh nghiêng đầu về phía người đàn ông mặc áo măng-tô bằng da đang đến gần. “Em không chắc”.
Scathach xuất hiện bên cạnh cặp sinh đôi. Josh để ý thấy thậm chí cô thở chẳng chút khó khăn. Thực tế, cô không thở gì cả.
“Rắc rối hả?” Sophie vừa hỏi vừa nhìn Scathach.
Nữ chiến binh mỉm cười, mím chặt môi. “Còn tùy vào việc em định nghĩa rắc rối như thế nào,” cô lẩm bẩm.
“Trái lại,” Nicholas nói, cười thoải mái. Ông thở ra nhẹ nhõm. “Đó là bạn. Bạn cũ. Một người bạn tốt.”
Người đàn ông mặc áo khoác đen giờ đã đế gần hơn, và cặp sinh đôi nhận thấy ông ta có một gương mặt nhỏ, gần như tròn quay, da rất rám nắng và đôi mắt xanh lơ sắc sảo. Mái tóc đen dày dài chấm vai phủ lên vầng trán cao. Vừa leo lên bận thang, ông ta vừa rút cả hai tay ra khỏi túi và giang rộng cánh tay, những chiếc nhẫn bạc lấp lánh trên mỗi ngón tay và cả trên hai ngón cái, hợp với những chiếc hoa tai bạc trên hai tai. Một nụ cười rộng mở để lộ hàm răng méo mó, ngả vàng.
“Thầy,” ông ta nói, choàng cả hai cánh tay quanh Nicholas và hôn ông thật nhanh lên cả hai má. “Thầy đã trở lại.” Người đàn ông nhấp nháy, mắt ướt, và trong một thoáng hai con ngươi lấp loáng đỏ lên. Một chút mùi cháy chợt đến trong không khí.
“Còn anh thì không bao giờ đi khỏi đây,” Nicholas nói ấm áp, giữ người đàn ông trong tay và xem xétông ta tỉ mỉ. “Anh trông khỏe đó, Francis. Khỏe hơn lần cuối cùng tôi gặp anh.” Ông quay người, đặt cánh tay choàng lên vai người đàn ông. “Scathach, anh biết rồi, tất nhiên.”
“Ai có thể quên được Bóng tối?” Người đàn ông mắt xanh bước tới, nắm bàn tay xanh xao của Scathach trong tay mình và đưa nó lên theo một cử chỉ lịch sự đã lỗi thời.
Scathach chồm người ra trước và cấu vào má người đàn ông đủ mạnh để lưu lại một vết máu đỏ. “Tôi đã nói với anh lần trước rồi, đừng làm như vậy với tôi mà.”
“Thừa nhận – cô thích vậy.” Ông ta cười toe. “Và đây hẳn phải là Sophie và Josh. Bà Phù thủy đã nói với con về họ”, ông nói thêm. Đôi mắt xanh lơ của người đàn ông mở to, không chớp khi nhìn lần lượt cả hai đứa nhỏ. “Cặp sinh đôi huyền thoại,” ông lẩm bẩm, hơi cau mày khi chăm chú nhìn chúng. “Thầy chắc không ạ?”
“Chắc,” Nicholas nói kiên quyết.
Người lạ gật đầu và cúi chào nhẹ. “Cặp sinh đôi huyền thoại,” ông ta lặp lại. “Hân hạnh làm quen với các bạn. Cho phép tôi tự giới thiệu. Tôi là Comte de Saint – Germain,” ông ta giới thiệu đột ngột, và rồi ngừng lại một chút, gần như thể ông ta mong đợi hai đứa nhận biết cái tên này.
Cặp sinh đôi ngây người nhìn ông ta, cảm xúc giống nhau lộ rõ trên gương mặt chúng.
“Nhưng các bạn cứ gọi tôi là Francis, tất cả những người bạn của tôi đều gọi như vậy.”
“Học trò cưng của chú đó.” Nicholas trìu mến nói thêm. “Tất nhiên cũng là học trò giỏi nhất của chú. Tụi chú biết nhau đã lâu lắm rồi.”
“Bao lậu ạ?” Sophie hỏi một cách máy móc, dù cô đã có sẵn câu trả lời trong đầu ngay khi đặt câu hỏi này.
“Chừng ba trăm năm hay đâu khoảng đó.” Nicholas nói. “Francis học giả kim với chú. Và anh đã nhanh chóng vượt qua chú,” ông nói thêm. “Anh chuyên gia trong lĩnh vực tạo đá quý.”
“Tôi học mọi thứ về thuật giả kim từ thầy đây: Nicholas Flamel,” ông ta nói nhanh.
“Hồi thế kỷ mười tám, Francis cũng là một ca sĩ hoàn hảo và là nhà soạn nhạc. Còn thế kỷ này anh làm gì?” Nicholas hỏi.
“Vâng, phải nói là con rất thất vọng khi thầy không nghe biết gì về con,” người đàn ông nói tiếng Anh không có trọng âm. “Rõ ràng là thầy không theo kịp tin tức rồi. Con đoạt được năm giải hạng nhất tại Mỹ và ba giải tại Đức, và con thắng một giải Người mới Xuất sắc nhất của MTV châu Âu.”
“Người mới Xuất sắc nhất?” Nicholas cười toe, nhấn mạnh chữ mới. “Anh á!”
“Thầy biết con luôn là một nhà soạn nhạc, nhưng trong thế kỷ này, thầy Nicholas, con là ngôi sao nhạc rock!” ông ta tự hào nói. “Con là người Đức!” Ông ta nhìn cặp sinh đôi khi ông nói, cặp chân mày hướng lên, gật đầu chờ chúng phản ứng lại với lời giới thiệu này.
Hai đứa đồng loạt lắc đầu. “Chưa bao giờ nghe nói đến,” Josh nói thẳng thừng.
Saint – Germain nhún vai và có vẻ thất vọng. Ông ta kéo cổ áo khoác cao lên đến tai.
“Năm giải nhất đó,” ông ta rù rì.
“Loại nhạc gì ạ?” Sophie hỏi, cắn vào bên trong má để cố nín cười khi nhìn thấy vẻ tiu nghỉu trên gương mặt ông ta.
“Khiêu vũ…điện tử…kỹ thuật…đại loại vậy.”
Sophie và Josh lắc đầu lần nữa. “Không nghe loại đó,” Josh trả lời, nhưng Saint – Germain không còn nhìn vào cặp sinh đôi nữa. Đầu ông ngoái về phía đại lộ Gustave Eiffel, nơi một chiếc Mercedes đen dài kiểu dáng rất đẹp đang đỗ xịch cạnh lề đường. Ba chiếc xe tải loại thường bán sát đằng sau.
“Machiavelli!” Flamel gầm lên giận dữ, “Francis, anh đã bị theo dõi.”
“Nhưng làm thế nào…,” ông bá tước bắt đầu.
“Hãy nhớ, người chúng ta đang đối đầu chính là Niccolo.” Flamel nhìn quanh thật nhanh, thẩm định tình hình. “Scathach, đưa hai đứa nhỏ đi với Saint – Germain. Hãy lấy tính mạng cô mà bảo vệ chúng.”
“Chúng tôi có thể ở lại, tôi có thể chiến đấu mà,” Scathach nói.
Nicholas lắc đầu. Ông vung tay về phía những du khách đang tụ tập. “Quá nhiều người. Ai đó sẽ bị giết mất. Nhưng Machiavelli không phải là Dee; hắn xảo quyệt. Hắn sẽ không dùng đến phép thuật – không dùng nếu hắn còn có thể chịu được. Chúng ta có thể khai thác khía cạnh đó để giành lợi thế về chúng ta. Nếu chúng ta tách ra, hắn sẽ theo dõi tôi.”
Thò tay vào dưới chiếc áo thun, ông lôi ra một cái túi vuông nhỏ.
“Cái gì vậy?” Saint – Germain hỏi.
Nicholas trả lời cho Saint – Germain nhưng lại nhìn vào cặp sinh đôi. “Cái túi này đã từng đựng toàn bộ cuốn Codex, nhưng bây giờ Dee đã lấy nó rồi. Josh đã xé được hai trang cuối của cuốn sách. Chúng ở trong này. Những trang chứa lời Hiệu triệu Cuối cùng,” ông nói thêm đầy ý nghĩa. “Dee và những Elder của hắn cần những trang này.” Ông vuốt thẳng làn vải và đột nhiên trao cái túi cho Josh. Hãy giữ nó an toàn,” ông nói.
“Cháu sao?” Josh nhìn cái túi rồi lại nhìn sang gương mặt của Flamel nhưng không làm động tác nào để lấy nó khỏi tay người đàn ông.
“Đúng, cháu đó. Lấy đi,” Flamel ra lệnh.
Cậu con trai rụt rè với lấy cái túi, lằn vải tóe lửa kêu lốp đốp khi cậu nhét nó vào bên dưới áo thun của cậu. “Tại sao lại là cháu?” cậu hỏi. Cậu nhìn nhanh qua chị gái. “Ý cháu là Scathach hay Gaint – Germain sẽ tốt hơn…”
“Cháu đã cứu những trang này, Josh. Vậy thì đúng là cháu nên giữ chúng.” Flamel ôm chặt hai vai Josh và nhìn vào mắt cậu bé. “Chú biết chú có thể tin là cháu chăm sóc chúng được mà.”
Josh ấn bàn tay vào dạ dày, cảm thấy làn vải trên da mình. Khi Josh bắt đầu làm việc trong tiệm sách và Sophie làm trong tiệm cà-phê, ba chúng đã dùng một câu gần giống hệt như vậy để nói về Sophie. “Ba biết ba có thể tin là con sẽ chăm sóc cho chị con.” Vào lúc đó, cậu cảm thấy cả tự hào pha lẫn một chút sợ hãi. Còn bây giờ, cậu chỉ cảm thấy sợ hãi thôi.
Cánh cửa phía tài xế của chiếc Mercedes mở ra và một người trang phục đen bước ra, cặp kính râm phản chiếu in hình bầu trời lúc sáng sớm, nên trông cứ như là hắn có hai cái lỗ trên mặt.
“Dagon” Scathach gầm lên, hàm răng nhọn đột nhiên lộ ra, cô với tay vào cái túi của mình để lấy vũ khí, nhưng Nicholas chộp cánh tay cô, bóp mạnh.
“Không phải lúc này.”
Dagon mở cánh cửa sau và Niccolo Machiavelli nhô người lên. Dù hắn ở cách xa dễ đến gần một trăm mét, họ vẫn có thể thấy vẻ chiến thắng hiện rõ trên mặt hắn.
Phía sau chiếc Mercedes, cánh cửa của mấy chiếc xe tải trượt mở đồng thời rồi các cảnh sát mặc áo giáp, trang bị vũ khí hạng nặng nhảy ra khỏi đó, bắt đầu chạy về phía chân tháp. Một du khách kêu thất thanh, và hàng chục người đứng vây quanh chân Tháp Eiffel ngay tức thì xoay máy quay phim theo hướng đó.
“Đến lúc phải đi,” Flamel nói nhanh. “Cô hướng sông, tôi sẽ dẫn bọn chúng theo chiều ngược lại. Saint – Germain, anh bạn tôi,” Nicholas thì thầm dịu dàng, “chúng ta sẽ cần một trò đánh lạc hướng để giúp chúng ta trốn thoát. Một cái gì đó thật ngoạn mục.”
“Thầy sẽ đi đâu?” Saint – Germain gặng hỏi.
Flamel mỉm cười. “Đây là thành phố của tôi rất lâu trước khi Machiavelli đến. Có lẽ một số những nơi tôi thường lui tới trước đây vẫn còn.”
“Đã thay đổi nhiều kề từ lần gần nhất thầy ở đây,” Saint – Germain cảnh báo. Ông ta vừa nói vừa cầm bàn tay trái của Flamel trong cả hai tay mình, xoay ngửa lên và ấn múi thịt nhỏ ở đầu ngón tay cái mình vào giữa lòng bàn tay của Nhà Giả kim. Sophie và Josh đứng đủ gần để thấy khi ông ta rút tay về, có một dấu hằn như cánh bướm đen nhỏ xíu trên da Flamel. “Nó sẽ đưa thầy về với con,” Saint – Germain nói một cách bí ẩn. “Bây giờ, thầy muốn một cái gì đó ngoạn mục, thì này nhé.” Ông ta cười toe và kéo ống tay của chiếc áo măng-tô bằng da lên để lộ cánh tay trần. Hàng chục hình xăm những con bướm nhỏ xíu phủ lên da ông, và bao quanh cổ tay như chiếc vòng, chúng quấn quanh cánh tay lên đến chổ cùi chỏ gập lại. Đan những ngón tay vào nhau, ông ta xoay cổ tay và bẻ cong chúng ra phía ngoài, có thể nghe được cả tiếng lắc rắc, giống như các nghễ sĩ đàn dương cầm chuẩn bị trình diễn. “Đã bao giờ các bạn thấy những gì Paris làm để chào đón thiên niên kỷ này chưa?”
“Thiên niên kỷ này?” Cặp sinh đôi ngây người nhìn ông ta.
“Thên niên kỷ này: năm 2000. Dù rằng lễ mừng thiên niên kỷ này lẽ ra nên được tổ chức vào năm 2001,” ông ta nói thêm.
“Ồ, lễ mừng thiên niên kỷ này,” Sophie nói. Cô nhìn em trai, bối rối. “Dịp chào mừng thiên niên kỷ này có liên quan gì tới việc gì không vậy?”
“Ba mẹ đưa mình đến Quảng trường Times,” Josh nói. “Mà sao?”
“Vậy thì các bạn đã bỏ lỡ một thứ thật ngoạn mục ở đây ngay tại Paris này. Lần sau online, nhớ tìm xem những bức ảnh.” Saint – Germain chà xát mạnh hai cánh tay và rồi, đứng bên dưới tháp kim loại khổng lồ, ông ta giơ cao hai bàn tay và thình lình mùi hương lá cháy tràn ngập không khí.
Cả Josh và Sophie nhìn chăm chú vào những hình xăm con bướm bung ra, run rẩy và nhịp cánh trên hai cánh tay Saint – Germaint. Những đôi cánh mỏng manh như tơ rung động và ù ù ngân lên, những cái râu giật giật…và rồi những hình xăm nhấc mình lên khỏi da thịt của người đàn ông.
Một dòng vô tận những con bướm tí xíu màu đỏ màu trắng tách ra khỏi làn da xanh xao của Saint – Germain và cuộn xoắn lại bay vào bầu không khí mát lạnh của Paris. Chúng đánh vòng lên phía trên, xoay tròn đi khỏi người đàn ông nhỏ nhắn, thành một hình xoắn ốc gồm những chấm nhỏ màu đỏ sẫm và xám tro kéo dài dường như vô tận. Những con bươm bướm cuộn quanh thanh giằng và xà dọc, đinh tán và bu-long của cái tháp kim loại, bao phủ nó trong một lớp vỏ lung linh, óng ánh ngũ sắc.
“Ma trơi,” Saint – Germain thầm thì, quay ngoắt lại và vỗ tay.
Và ngọn Tháp nổ tung thành một dòng suối ánh sáng nổ lắc rắc, phát ra những tia lửa.
Ông ta cười lớn vẻ hài lòng vì nét mặt của cặp sinh đôi và nói, “Biết tôi chưa: tôi là le Comte de Saint – Germain. Tôi là Bậc Thầy của lửa!”
Dạ Phong
01-01-2011, 09:01 PM
chương 15
Pháo hoa.” Sophie tỏ vẻ kinh sợ.
tháp Eiffel được thắp sáng bằng một màn trình diễn pháo hoa ngoạn ngục. Những mảnh ánh sáng xanh lơ và vàng ánh kim lao đi gần cả ba trăm mét để đến được cây cột ở ngay đỉnh tháp, ở đó chúng nở thành những vòi phun toàn là những quả cầu xanh lơ. Những sợi chỉ màu cầu vồng vàng tóe lửa, rít lên, kêu xèo xèo đan xuyên qua những thanh giằng, bùng lên và kêu lách tách. Những cây đinh tán dày đặc của tháp vọt ra những tia lửa trắng, trong khi những thanh xà dọc hình vòng cung trút những giọt nước đá xanh lơ xuống con phố tít bên dưới.
Hiệu quả thật ấn tượng, nhưng chỉ thật sự ngoại ngục khi Siant-Germain bật tanh tách hết những ngón tay trên hai bàn tay và toàn bộ tháp Eiffel nhuộm màu vàng đồng, rồi vàng kim rồi xanh lục và cuối cùng là xanh lơ hòa trong ánh sáng mặt trời buổi sáng. Những mảng ánh sáng kêu lách tách bắn lên bắn xuống khung kim loại. Những vòng pháo hoa và pháo sáng, những vòi phun và những ngọn nến La Mã, những quả xoáy bay bổng và những ngọn nến La Mã, những quả xoáy bay bổng và những con rắn lộn vòng vào ra vào ra khỏi mỗi tầng tháp. Cây cột ở tận chóp ngọn tháp phun ra những tia lửa đỏ, trắng và xanh lơ chảy như thác toàn một thứ chất lỏng sủi bọt băng băng tràn xuống ngọn tháp.
Đám đông bị mê hoặc.
người ta tụ tập dưới chân tháp, kêu lên những tiếng ồ à, vỗ tay trước những màn nổ mới, máy chụp ảnh của họ bấm dữ dội. Những người lái xe, giơ những chiếc điện thoại chụp hình để bắt kịp những hình ảnh ấn tượng và tuyệt đẹp. Trong giây lát, hàng chục người vây quanh tháp đã nhân lên thành hàng trăm và rồi khoảng độ ít phút sau số người này cứ nhân đôi rồi nhân đôi nữa khi người ta đổ xô từ cửa tiệm và nhà riêng đến quan sát màn trình diễn bất thường này.
Và Nicholas Flamel cùng các bạn đồng hành của ông bị đám đông nuốt mất.
Trong màn biểu diễn hiếm hoi đầy cảm xúc này, Machiavelli bị đụng vào sườn xe mạnh đến nỗi bàn tay bị đau. Hắn chăm chú nhìn đám đông cứ lớn dần lên và biết những người của hắn sẽ không thể nào đi qua kịp để ngăn không cho Flamel và những tến khác trốn thoát.
Không khí đầy tiếng xèo xèo và đạp vỗ của pháo hoa ; pháo sáng rít vèo bèo phóng vào không trung, ở đó chúng nổ thành những quả cầu và những dòng ánh sáng.
Những viên pháo thường và pháo xì nổ lốp bốp quanh từng cái một trong bốn cái chân kim loại khổng lồ của ngọn tháp.
“Thưa ngài!” Một viên đội cảnh sát trẻ dừng trước Machiavelli và chào. “Xin ngài ra lệnh? chúng tôi có thể xông qua đám đông, nhưng có thể có vài người bị thương.”
Machiavelli lắc đầu .”Không, đừng làm vậy.”Dee sẽ hành động như vậy, hắn biết. Dee sẽ không ngần ngại san bằng cả cái tháp, giết hàng trăm người chỉ để bắt được Flamel. Đứng thẳng người lên Niccolò có thể nhận ra ngay hình dạng chiếc áo khoát bằng da của Siant-Germain và Scathach chết người đang dồn cô cậu nhỏ biến mất. Nhưng thật ngạc nhiên và sửng sốt, khi hắn nhìn lại, Nicholas Flamel vẫn ở ngay tại nơi hắn mới trông thấy ông ta lúc đầu, đứng gần như ngay bên dưới ngọn trung tâm ngọn tháp.
Flamel đưa tay phải lên chào hắn bằng một kiểu chào đầy vẻ nhạo báng, chiếc vòng bạc mắt xích ông đeo phản chiếu ánh sáng lấp lóa.
Machiavelli nắm lấy vai người đội trưởng cảnh sát, xoay người anh ta quay lại bằng một sức mạnh đáng ngạc nhiên và dùng những ngón tay mảnh và dài của hắn chỉ trỏ. “Tên đó! Nếu hôm nay anh không làm gì khác thì hãy bắt cho tôi tên đó. Tôi muốn hắn còn sống và không suy suyển!”
Cả hai chăm chú nhìn Flamel xoay người vội vã đi về phía Tây pháp Eiffel, hướng đến cầu Pont d’Téna, nhưng xét thấy nhiều người khác cũng băng qua cây cầu này nên Flamel quẹo phải, hướng đến Quai branly.
“Vâng, thưa ngài!” Người đội trưởng lao nghiêng ra, quyết định cắt đứt mọi chuyện về Flamel .”Theo tôi,” anh ta hét lớn, và cả đội rải thành một hàng đằng sau anh ta .
Dagon bước đến bên Machiavelli. “Ông có muốn tôi đuổi theo Siant-Germain và Bóng tối không ?” đầu nó quay sang, cánh mũi nở ra với một âm thanh nhớp nháp ướt nhẹp.”Tôi có thể theo mùi của chúng.”
Niccolò Machiavelli nhẹ lắc đầu trèo lại vài xe.”Đưa chúng ta ra khỏi đây trước khi cánh nhà báo xuất hiện . Siant-Germain không là gì cả nếu không muốn nói là dễ dự đoán. Chắc chắc hắn sẽ về một trong số những căn nhà của hắn, và chúng ta sẽ theo dõi căn nhà này kĩ càng. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là hy vọng bắt được Flamel.”
Gương mặt Dagon khi nó sập mạnh cánh cửa xe đóng lại phía sau ông chủ. Hắn quay về hướng Flamel chạy và thấy ông ta biến mất trong đám đông. Cảnh sát ngay đằng sau, di chuyển nhanh nhẹn cho dù họ bị đè nặng bởi áo giáp toàn thân và vũ khí. Nhưng Dagon biết rằng trải qua nhiều thế kỉ Flamel đã trốn khỏi nhiều thế lực săn đuổi ông ta, cả con người lẫn không phải con người đã tuột khỏi tay những sinh vật trong quá khứ là huyền thoại trước khi có sự tiến hóa của loài vượn người và đã đánh lừa được những con quái vật không có quyền tồn tại bên ngoài những cơn ác mộng. Dagon nghi ngờ việc cảnh sát có thể bắt được Nhà giả kim.
Rồi nó nghểnh đầu lên, lỗ mũi nở ra lần nữa, bắt được mùi hương của Scathach. Bóng tối đã trở lại!
Mối thù giữa Dagon và Bóng tối đến từ nhiều thiên niên kỉ trước. Dagon là tên cuối cùng trong chủng loại của nó…bởi vì cô ấy đã phá hủy hoàn toàn giống loại hắn trong một đêm kinh khủng hai ngàn năm trước. Ẩn sau cặp kính râm phản chiếu úp sát quanh mắt, đôi mắt của sinh vật này ứa đầy những giọt lệ không màu nhớt nháp, và nó thề rằng, bất kể chuyện gì xảy ra giữa Machiavelli và Flamel, lần này nó phải trả cho bằng được mối thù với Bóng tối.
“Đi, không chạy,”Scathach ra lệnh.” Siant-Germain dẫn đầu, Sophie và Josh ở giữa, tôi sẽ đi cuối cùng.” Giọng Scatty như thể không có gì để bàn cãi.
Họ đi qua chiếc cầu và rẽ phải đưa họ đến một con phố ngang chật hẹp. Trời vẫn còn sớm, và con phố còn chìm trong bóng tối. Nhiệt độ rơi xuống đột ngột, và cặp sinh đôi để ý ngay những đốt tay trong bàn tay trái của Siant-Germain đang từ từ chạm nhẹ lên bức tường dơ bẩn, để lại những tàn lửa đằng sau nó.
Sophie cau mày, lựa chọn trong ký ức cô- ký ức của bà phù thủy Endor, cô tự nhắc mình- những gì quan tâm đến Siant-Germain. Cô bắt gặp cậu em trai đang nhìn xéo qua cô và nhướm mày hỏi trong im lặng.
“Đôi mắt chị ánh bạc lên. Chỉ một loáng,” cậu nói
Sophie liếc lui về Scathach đang theo đằng sau rồi nhìn người đàn ông trong chiếc áo măng- tô bằng da. Cô nghĩ xả hai đã vượt khỏi tầm nghe.”Chị vừa cố nhớ lại những gì chị biết …”Cô lắc đầu.”Những gì bà phù thủy biết về Siant-Germain .”
“Những gì về ông ấy ?”Josh hỏi.”Em chưa bao giờ nghe nói đến ông ấy cả.”
“Ông ấy là nhà giả kim người Pháp nổi tiếng,”cô thì thầm,” và cùng với Flamel, có lẽ là một trong những người đàn ông bí ẩn nhất trong lịch sử.”
“Ông ấy có phải là người không?”Josh tự hỏi thành tiếng, nhưng Sophie ém xuống.
“Ông ấy không phải là Elder hay thế hệ kế tiếp. Ông ấy là con người. Ngay cả bà phù thủy cũng không biết nhiều về ông ấy. Bà gặp ông ấy lần thứ nhất ở London vào năm 1740. Ngay lập tức bà biết ông ấy là người bất tử, và ông ấy khẳng định là ông ấy khám phá ra bí mật bất tử khi đang theo học với Nicholas Flamel.” Cô lắc đầu thật nhanh.”Nhưng chị không nghĩ Bà phù thủy chịu tin như vậy.Ông ấy bảo với bà ấy rằng trong khi du hành đén Tibet ông ấy đã hoàn thiện một công thức bất tử mà không cần làm mới lại mỗi tháng. Nhưng khi bà ấy hỏi xin ông một bản sao, ông ấy nói đã làm mất rồi. Rõ ràng ông ấy nói mọi ngôn ngữ trên thế giới này rất trôi chảy, ông ấy là một nhà soạn nhạc tài hoa và là một nhà làm đá quí nổi tiếng .”Đôi mắt cô lại lung linh ánh bạc ngay lúc ký ức nhòa đi .”Và bà phù thủy không thích hay không tin tưởng ông ấy .”
“Vậy chúng ta cũng không nên ,”Josh thì thầm thật nhanh.
Sophie gật đầu đồng ý.”Nhưng Nicholas thích ông ấy, và rõ ràng rất tin tưởng,” cô nói chậm rãi.”Tạo sao vậy?”
Vẻ mặt Josh đanh lại.”Em đã từng nói với chị lúc nãy rồi” em nghĩ chúng ta cũng không nên tin tưởng vào Nicholas Flamel. Ông ấy có cái gì đó không đúng- em đoan chắc.”
Sophie nén phản của mình lại và nhìn đi chỗ khác. Cô biết tại sao Josh cáu giận Nhà giả kim; em trai cô ganh tị với năng lượng được đánh thức của cô, và cô biết cậu đỗ lỗi cho Flamel đã đặt cô vào tình trạng nguy hiểm. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông sai.
Con phố ngang chật hẹp dẫn đến một con đường rộng rãi nhiều cây xanh, Dù trời vẫn còn quá sớm không thể là giờ cao điểm, nhưng màn trình diễn ánh sáng và pháo hoa xung quanh tháp Eiffel đã làm tất cả giao thông trong khu vực nghẹt cứng. Bầu không khí om sòm đầy tiếng còi xe và tiếng kêu la của chiếc còi cảnh sát. Một chiếc xe chữa cháy mắc dính trong vụ kẹt xe, tiếng rền rĩ của nó liên tục cất cao lên rồi hạ nhỏ xuống dù không có lối nào cho nó đi được. Siant-Germain vừa sải châm qua đường, không nhìn sang trái cũng không nhìn sang phải, vừa rút từ trong túi ra chiếc điện thoại di động màu đen thanh mảnh. Ông búng tay mở nó và bấm phím gọi nhanh. Rồi nói bằng một thứ tiếng Pháp liếng thoắng.
“Ông đang gọi điện giúp đỡ ạ?” Sophie hỏi khi ông đóng điện thoại.
Siant-Germain lắc đầu.”Đặt bữa. Tôi đói rũ ra rồi.” Ông ta chợt chĩa mạnh ngón tay cái ra sau lưng theo hướng tháp Eiffel vẫn đang phun pháo hoa.”Làm ra mấy thứ như vậy – nếu bạn tha thứ cho sự chơi chữ - đốt rất nhiều năng lượng.”
Sophie gật đầu, bây giờ mới hiểu tại sao dạ dày cô từng sôi ùng ục vì đói từ khi cô tạo ra sương mù.
Scathach bắt kịp cặp sinh đôi và bước xéo với Sophie khi họ vội vã đi ngang qua nhà thờ American Cathedral. “Tôi không nghĩ là chúng ta đang bị theo dõi.” cô nói, nghe có vẻ ngạc nhiên. “Tôi cho rằng lẽ ra Machiavelli phải cho người theo sau chúng ta cơ chứ.” Cô cọ xát ngón tay cái vào môi dưới, nhai những chỗ móng không đều của mình.
Sophie tự động hết bàn tay Scathach ra khỏi miệng.”Đừng cắn móng tay.”
Scathach chớp mắt ngạc nhiên, rồi tự ý thức thả tay xuống. “Một thói quen cũ,” cô lẩm bẩm. “Một thói quen lâu đời.”
“Bây giờ đến chuyện gì?” Josh hỏi.
“Chúng ta ra khỏi những con phố và nghỉ ngơi.”, Scathach nói dứt khoát. “Chúng ta phải đi xa lắm không?”cô gọi với theo Siant-Germain vẫn đang dẫn đầu.
“Một vài phút nữa,” ông ta nói, không quay lại.”Một trong những ngôi nhà phố nhỏ của tôi ở gần đây.”
Scathach gật đầu.”Một khi đến được đó, chúng ta sẽ ẩn mình kín đáo cho đến khi Nicholas trở lại, nghỉ ngơi và thay quần áo.” Cô nhăn mũi hướng về Josh.”VÀ còn tắm nữa ,” cô nói thêm một cách đầy ý nghĩa.
Đôi má chàng thanh niên ửng đỏ. “Ý chị nói là người em bốc mùi hả?” cậu hỏi, vẻ bối rối pha lần cáu bẳn.
Sophie đặt tay lên cánh tay cậu em trước khi Nữ chiến binh kịp trả lời. “Chỉ một chút thôi,” cô nói. “Chúng ta có thể làm mọi thứ mà.”
Josh nhìn chỗ khác, hết bực bội, rồi liếc sang Scathach ở đằng sau. “Em không thấy chị có mùi,” cậu nói ngay.
“Không,” cô nói. “Tôi không có tuyến mồ hôi. Ma cà rồng tiến hóa hơn loài người mà.”
Họ tiếp tục đi trong im lặng cho đến khi đường Pierre Charon mở ra lên đến đại lộ Champs-Elysée rộng rãi, đường phố chính của Paris. Họ có thể nhìn thấy Arc Dee Triomph phía bên phải. Xe cộ ở hai bên đường đứng lại hết, những người tài xế đứng dọc theo xe của họ đang bàn tán sôi nổi, khua tay múa chân lung tung. Mọi con mắt đều hướng về tháp Eiffel.
“Ông nghĩ chuyện này sẽ được đưa tin như thế nào?” Josh nói.”Tháp Eiffel đột nhiên được phun pháo hoa.”
Siant-Germain liếc qua vai mình.”Thật ra điều này cũng không bất thường lắm. Ngọn tháp này thường được thắp sáng bằng pháo hoa – vào đêm giáng sinh hay ngày Bastille, ví dụ vậy. Tôi tưởng tượng người ta sẽ đưa tin rằng pháo hoa cho ngày Bastille tháng tới sẽ được tiến hành sớm.” Ông ngừng lại và nhìn quanh, nghe có ai đó gọi tên ông.
“Đừng nhìn…” Scatty vọt miệng, nhưng đã quá trễ: cặp sinh đôi và Siant-Germain đã quay về hướng có tiếng kêu.
“Germain…”
“Kìa, Germain…”
Hai thanh niên đứng cạnh chiếc xe kẹt cứng của họ đang chỉ vào Siant-Germain và la lớn tên ông ta.
Cả hai đều mặc quần jean, áo thun và trông rất giống nhau, với mái tóc láng o được chải ngược ra sau và cặp kính râm to quá khổ. Bỏ mặc chiếc xe giữa đường, họ lạng lách chạy xuyên qua đám xe cộ nằm yên, cả hai đang cầm vật gì đó trong tay mà Josh thấy giống như những lưỡi dao dài và hẹp.
“Francis,” Scatty gấp rút cảnh báo, đôi tay cô ghì chặt thành nắm đấm. Cô tiến thẳng đến ngay lúc người thanh niên thứ nhất chạm đến Siant-Germain,” cho tôi…”
“Quí vị.”Siant-Germain quay về phía hai người thanh niên, miệng cười rộng, dù cặp sinh đôi đang ở ngay đằng sau vẫn nhìn thấy những ngọn lửa màu vàng- xanh nhảy múa quanh những đầu ngón tay ông.
“Buổi hòa nhạc lớn đêm qua,” người thanh niên thứ nhất nói không kịp thở, một kiểu tiếng anh bằng giọng tiếng Đức. Anh ta tháo kính râm và chìa bàn tay phải ra và Josh nhận ra vật mà cậu tưởng là con dao không gì hơn là một cây viết lớn. “Tôi có thể có cơ hội xin một chữ kí không ạ?”
Những ngọn lửa trên ngón tay Siant-Germain nhấp nháy tan ra.”Tất nhiên,” ông nói, cười vui vẻ, giơ tay lấy cây viết và cuốn sổ gáy lò xo ra khỏi túi áo trong. Các bạn có CD mới chưa?” ông ta vừa nói vừa búng tay lật cuốn sổ.
Người thanh niên thứ hai, đeo cặp kính y chang, kéo một chiếc ipod màu đỏ đen ra khỏi túi quần sau.”Mới lấy được nó trên itunes hôm qua,” anh ta trả lời cũng bằng chất giọng đặc biệt đó.
“Và đừng quên đặt mua DVD của buổi trình diễn hôm qua sẽ ra thị trường trong một tháng nữa. Có thêm nhiều cái rất hay, một hai bài hòa âm mới và phối âm tuyệt vời,” Siant-Germain nói thêm trong lúc y đang kí tên bằng một nét cong bay bướm tinh vi và xé trang giấy ra khỏi cuốn sổ. “Tôi rất thích tán gẫu, các bạn, nhưng tôi đang vội. Cám ơn đã dừng lại với tôi, tôi rất cảm kích.”
Với nụ cười rộng mở, Siant-Germain hít thở một hơi dài và nhìn cặp sinh đôi. “Đã nói với các bạn tôi nổi tiếng mà.”
“Và ông sẽ nhanh chóng nổi tiếng vì cái chất của ông nếu chúng ta không ra khỏi con đường này được,”Scathach nhắc nhở ông ta.”Hoặc chỉ có thể chỉ là chết không thôi.”
“Chúng ta đang ở ngay đây rồi.” Siant-Germain lẩm bẩm. Ông ta dẫn họ đi băng ngang qua Champ-Elysée và xuống một con phố ngang, rồi hụp người vào một căn hẻm chật hẹp lát sỏi có tường cao hai bên uốn éo qua mặt lưng các tòa nhà. Ngừng giữa đường dẫn xuống một căn hẻm nhỏ hơn, ông tra chìa khóa vào một cánh cửa ẩn phẳng lì với tường.
Cánh cửa gỗ sứt mẻ và đầy vết thẹo, nước sơn màu xanh lá cáu bẩn tróc ra từng dải dài để lộ mặt gỗ phồng giột bên dưới; mùn và vụn gỗ rớt ra khỏi chân cửa do cọ sát với nền đất.
“Tôi có thể đề nghị một cái cổng mới không ?” Scathach nói.
“Đay là một cái cổng mới.” Siant-Germain cười nhanh .”Gỗ chỉ là ngụy trang. Bên dưới nó là một lớp thép cứng với hệ thống năm – điểm then chết.” Ông ta lùi lại để cặp sinh đôi bước qua lối vào.”Xin vào thoải mái và muốn làm gì tùy thích,” ông ta nói trịnh trọng.
Cặp sinh đôi bước tới và hơi thất vọng trước những gì chúng thấy. Đằng sau cánh cổng là một khoảng sân nhỏ dẫn vào một ngôi nhà bốn tầng. Những bức tường bên trái bên phải lắp chấn song nhọn đầu, tách ngôi nhà nhỏ khỏi hàng xóm. Sophie và Josh mong một cái gì đó kì lạ thậm chí là ấn tượng sâu sắc kìa. Một bể nước cho chim tắm bằng đá khổng lồ và gớm guốc đặt chính giữa sân, nhưng thay vì nước, cái vũng lõm chất đầy lá mục và rẻo tổ chim. Tất cả trồng trong chậu, trong giỏ đặt quanh và chính giữa cái vòi phun nước đều chết hoặc sắp chết cả.
“Bác làm vườn đi rồi,” Siant-Germain nói không chút bối rối,” “và tôi thật sự không giỏi lắm về cây cối.” Ông ta ngửa bàn tay phải lên cà mở rộng ngón tay. Mỗi ngón bùng cháy nổ lốp bốp một ngọn lửa màu khác nhau. Ông cười toe và ngọn lửa đầy màu sắc nhuộm khuôn mặt ông thành những mảng tối lung linh. “Không phải chuyên môn của tôi.”
Scathach dừng lại trước cửa, nhìn lên nhìn xuống con hẻm nhỏ, nghiêng đầu qua một bên, nghe ngóng. Khi đã hài lòng là họ không bị theo dõi., cô mới đóng cánh cửa và xoay chìa khóa trong ổ. Những cái then chết trượt vào đúng chỗ thỏa một đoạn mã đã được lập trình sẵn.
“Làm sao chú Flamel tìm được chúng ta?”Josh hỏi. Mặc dù cậu cảnh giác và sợ Nhà giả kim, nhưng cậu cảm thấy hồi hộp hơn khi ở gần Siant-Germain.
“Tôi đã đưa cho ông ấy một chỉ dẫn nhỏ rồi,”Siant-Germain giải thích.
“Chú ấy sẽ không sao chứ?”Sophie hỏi Scathach.
“Tôi chắc rằng ông ấy sẽ không sao,” cô ta nói, dù âm giọng và ánh mắt của cô không giấu được nỗi sợ hãi. Vừa quay đi khỏi cửa thì cô bỗng sững người, quai hàm rời ra, hàm răng ma cà rồng tự dưng- thật kinh khủng- hiện rõ.
Cánh cửa sau của ngôi nhà thình lình bật mở, và một hình dáng bước vào trong sân. Lập tức, luồng điện của Sophie chiếu sáng rực rỡ ánh bạc, cú sốc khiến cô xoay ngược vào cậu em trai, cũng lầm bừng tỉnh luồng điện của cậu, viền quanh người cậu toàn ánh vàng và đồng. Và khi cặp sinh đôi chạm vào nhau, ánh sáng từ luồng điện bạc và vàng của chúng sáng lóa mắt, chúng nghe Scathach thét lên. Đó là âm thanh kinh khủng nhất chưa từng nghe bao giờ.
Dạ Phong
02-01-2011, 04:34 PM
CHƯƠNG 16
Dừng lại!”
Nicholas Flamel cứ chạy, rẽ phải, lao xuống bến Quai Branly.
“Dừng lại, nếu không tôi bắn!”
Flamel biết cảnh sát sẽ không bắn – họ không thể. Machiavelli không muốn ông ta suy suyển gì.
Tiếng nện giày da trên mặt đường bê tông và tiếng leng keng của vũ khí giờ đã gần sát, và ông ta có thể nghe cả tiếng thở của những người đang rượt đuổi. Tiểng thở của Nicholas bắt đầu hổn hển nặng nề, và có một cơn nhói lên bên hông ngay dưới cạnh sườn. Công thức trong cuốn Codex giữ ông ta sống và khỏe mạnh, nhưng không có cách gì giúp ông ta có thể vượt được viên cảnh sát này rõ ràng là đang sung sức và được đào tạo cao cấp.
Nicholas Flamel ngừng lại đột ngột đến nỗi viên đội trưởng cảnh sát gần như đâm sầm vào ông ta. Đứng yên, Nhà Giả kim quay đầu ngoái nhìn ra đằng sau mình. Viên cảnh sát rút một khẩu súng đen xấu xí và giữ chặt nó bằng cả hai tay.
“Đứng yên. Giơ tay lên.”
Nicholas chầm chậm quay người đối mặt với viên cảnh sát. “Rồi, quyết định đi, rồi sao nữa?” ông ta dữ dằn hỏi.
Đằng sau cặp kính bảo hộ, người đàn ông chớp mắt nhìn ông đầy ngạc nhiên.
“Tôi có đứng yên không? Hay là tôi có giơ tay lên không?”
Viên cảnh sát ra hiệu bằng báng súng và Flamel giơ tay lên. Năm nhân viên RAID nữa chạy đến. Họ vừa chĩa đủ loại vũ khí vào Nhà Giả kim vừa dàn thành một hàng dài cạnh viên đội trưởng của họ. Vẫn giữ hai tay giơ lên trời, Nicholas chầm chậm quay đầu nhìn lần lượt từng người trong họ. Mặc đồng phục đen, mũ bảo hiểm, mũ trùm kín đầu cổ và đeo cặp kính bảo hộ, trông họ giống như những con côn trùng.
“Nằm xuống đất. Nằm đi, nằm ngay đi!” viên đội trưởng ra lệnh. “Đưa tay lên trời.”
Nicholas chậm chạp khuỵu gối xuống.
“Giờ thì nằm xuống! Úp mặt xuống!”
Nhà Giả kim nằm bẹp trên đường phố Paris, cằm ông chạm vào lề đường mát lạnh, đầy sạn.
“Giang cánh tay rộng ra.”
Nicholas giang rộng tay. Các viên cảnh sát đổi vị trí, nhanh chóng vây tròn quanh ông, nhưng họ vẫn giữ khoảng cách.
“Chúng tôi đã bắt được ông ấy.” Viên đội trưởng nói vào micro đặt ngay trước môi anh ta.
“Thưa ngài, không ạ. Chúng tôi không hề chạm vào ông ấy. Vâng, thưa ngài. Ngay lập tức.”
Nicholas ước gì Perenelle ở đây với ông giờ này; cô ấy sẽ biết phải làm gì. Nhưng nếu Nữ Phù thủy ở đây với ông thì ông đã chẳng rơi vào tình trạng lộn xộn ngay từ nơi đầu tiên. Perenelle là một chiến binh. Bà thường giục ông đừng chạy, để sử dụng kiến thức về giả kim của ông cùng với thuật phù thủy và ma thuật của bà cả nửa thiên niên kỷ mà chiến đấu với các Elder Đen tối như thế nao? Bà muốn ông quy tụ những người bất tử, những Elder vag Thế hệ Kế tiếp hỗ trợ loài người và tiến hành một cuộc chiến tranh chống lại các Elder Đen tối, Dee và đồng loại của hắn. Nhưng ông đã không thể; cả đời mình ông đã chờ cặp sinh đôi được tiên báo trong cuốn Codex.
“Hai là một, một là tất cả.”
Trong đầu ông không hề có chút nghi ngờ nào là ông sẽ khám phá ra cặp sinh đôi. Những lời tiên tri trong cuốn Codex không bao giờ sai, nhưng như mọi cuốn sách khác, những lời của Abraham không bao giờ rõ ràng và được viết bằng một loại chữ cổ hay những ngôn ngữ đã bị quên lãng.
Hai là một, một là tất cả.
Sẽ đến lúc cuốn sách bị lấy đi.
Và nữ hoàng của người sẽ liên minh với Quạ.
Rồi Elder sẽ bước ra khỏi Bóng tối
Và người bất tử phải huấn luyện người không bất tử.
Hai là một phải trở thành một là tất cả.
Và Nicholas biết – không gợn chút bóng nghi ngờ - rằng ông là người bất tử được nói đến trong lời tiên tri: người đàn ông bàn tay khoằm đã nói với ông như vậy.
Nửa thiên niên kỷ trước, Nicholas và Perenelle Flamel đã đi khắp Âu châu để cố hiểu kỳ được cuốn sách bí ẩn có bìa và gáy đóng bằng kim loại kia. Cuối cùng, ở Tây Ban Nha, họ đã gặp một người đàn ông một tay bí ẩn đã giúp họ diễn dịch những phần thay đổi không ngừng trong văn bản. Người đàn ông một tay đó đã tiết lộ rằng bí mật của Cuộc sống Vĩnh cửu luôn xuất hiện trên những trang số bảy của cuốn Codex vào ngày trăng tròn, trong khi công thức để biến đổi, để thay đổi thành phần cấu tạo của các chất liệu bất kỳ lại chỉ xuất hiện trên trang mười bốn. Khi người đàn ông một tay dịch lời tiên tri thứ nhất, ông ta đã nhìn vào Nicholas bằng đôi mắt đen như than và đưa bàn tay vỗ vào ngực anh chàng người Pháp bằng bàn tay trái có hình móc câu của ông ta.
“Nhà Giả kim, đây là số phận của ông,” ông ta thì thầm.
Những lời huyền bí cho rằng một ngày kia Flamel sẽ tìm thấy cặp sinh đôi… lời tiên tri không hé lộ ra rằng ông ta sẽ nằm giang người trên đường phố Paris dơ bẩn với những viên cảnh sát dũng mãnh trang bị đầy vũ khí vây quanh.
Flamel nhắm mắt và hít thở sâu. Đè những ngón tay xóe ra xuống mặt đá, miễn cưỡng kéo luồng điện của mình lên. Sợi tơ nhện năng lượng màu xanh chối mỏng dính rỉ ra khỏi đầu ngón tay ông thấm vào đá. Nicholas cảm thấy nguồn năng lượng điện xoắn tít của ông cuộn xoáy xuyên qua lề đường, rồi thấm xuống lòng đất bên dưới. Những sợi mảnh như tóc uốn éo xuyên qua mặt đất, nhìn ngó…mò mẫm…và rồi, cuối cùng, thấy những gì ông đang tìm kiếm: một khối sinh vật sống đông đúc lúc nhúc đang sôi sục. Rồi một biến đổi đơn giản được sử dụng, lý thuết căn bản của thuật giả kim, tạo ra đường glucose và fructose rồi kết hợp chúng với nhau bằng liên kết glycoside để tạo ra đường sucrose. Sự sống khuấy trộn, biến đổi, tan chảy thành sự ngọt ngào.
Viên đội trưởng cảnh sát cất cao giọng. “Giữ ông ta lại. Lục soát ông ta.”
Nicholas nghe tiếng chân đến gần của hai viên cảnh sát, mỗi người một bên. Ngay trước mặt ông, ông thấy đôi bốt bằng da đen có đế dày bóng loáng oai phong.
Và rồi, bị phóng lớn do khoảng cách qua gần ngay mặt ông, Nicholas nhận ra con kiến. Nó bất ngờ xuất hiện khỏi vết nứt ở lề đường, cặp râu vẫy vẫy. Theo sau nó là con thứ hai, rồi con thứ ba.
Nhà Giả kim lấy hai ngón tay cái đè mạnh lên ngón thứ ba trong mỗi bàn tay và bật những ngón tay kêu tanh tách. Những đốm lửa nhỏ xíu mùi bạc hà màu vàng chanh xoay tròn trong không khí, bao phủ sáu nhân viên cảnh sát bằng những hạt năng lượng vô cùng nhỏ.
Rồi ông biến những hạt ấy thành đường.
Đột nhiên, lề đường quanh Flamel hóa đen. Một đống kiến nhỏ xíu nhô lên từ bên dưới con đường, tràn lên khỏi các khe nứt trong đá. Như một thứ si-rô ngọt dày đặc, chúng lan khắp vệ đường, chảy lên những đôi giày bốt trước khi thình lình cuộn lên quanh chân các viên cảnh sát, bao phủ họ bằng một đàn cô trùng dày đặc. Trong chốc lát những người đàn ông bị choáng váng đến bất động. Quần áo và găng tay vẫn còn bảo vệ họ thêm một lúc nữa, rồi thì một người giật nảy lên, đến một người khác, và lại một người khác vì đàn kiến đã tìm được những khe hở nhỏ nhất trong quần áo của họ và lao vào bên trong, cù vào chân, cắn vào miệng. Những người đàn ông bắt đầu co giật, uốn éo, quay lòng vòng, vỗ đập vào nhau, quăng ném vũ khí của họ đi, tháo găng tay ra, giật tung nón bảo hiểm, hất mắt kiếng bảo hộ và nón trùm đầu tới ngang cổ trong khi hàng ngàn con kiến bò nhung nhúc khắp người họ.
Viên đội trưởng vừa nhìn chăm chăm vào người tù binh của họ - lớp mền kiến dày nặng nề hoàn toàn chưa đụng chạm gì đến ông – vừa ngồi dậy và khó chịu phủi mình trước khi gồng chân đứng lên. Viên đội trưởng cố chĩa súng vào người đàn ông, nhưng kiến đã bám lấy cổ tay anh ta, cù vào hai lòng bàn tay, cắn vào da thịt và anh ta không sao giữ chắc được vũ khí. Anh ta muốn ra lệnh cho mọi người ngồi xuống, nhưng có những con kiến bò lúc nhúc trên môi, và anh ta biết nếu mở miệng chúng sẽ chui tọt vào bên trong. Vọt thẳng người, gạt cái nón bảo hiểm khỏi đầu, anh ta lột luôn cái mũ trùm đầu tới ngang cổ và ném xuống đất, cong lưng lại vì bọn côn trùng đã bò lúc nhúc dọc xương sống. Anh ta chà bàn tay lên đầu và cảm thấy đánh bật được hơn chục con kiến. Chúng rơi ngang qua mặt anh ta và anh ta nhắm nghiền mắt lại. Khi anh ta mở mắt ra lại, người tù binh đang đi về phía ga xe lửa Pont de l’Alma, hai tay đút túi, ra vẻ như không màng gì đến thế sự.
Dạ Phong
03-01-2011, 04:37 PM
Chương 17
Josh cố mở mắt ra. Những chấm đen nhảy múa trước mắt, và khi cậu đặt tay lên mặt, cậu có thể trông thấy thoáng một luồng điện vàng ánh kim của riêng cậu vẫn còn rõ ràng quanh da thịt cậu. Đưa tay ra, cậu tìm bàn tay chị gái cậu và nắm lấy nó. Cô siết nhẹ nhàng, và cậu quay sang nhìn đôi mắt nhấp nháy của cô mở lớn.
“Chuyện gì vậy?” cậu lẩm bẩm, quá choáng và thậm chí chết lặng vì sợ.
Sophie lắc đầu. “Giống như một vụ nổ…”
“Em nghe Scathach hét lên,” cậu nói thêm.
“Và chị nghĩ chị còn thấy ai đó chạy ra khỏi nhà…”, cô thêm vào.
Cải hai quay người lại nhìn ngôi nhà phố. Scathach đang đứng trước cửa, cánh tay cô ôm chầm một cô gái trẻ, giữ thật chặt, xoay tròn cô ấy một vòng. Cả hai người con gái cười lớn và kêu ré lên mừng rỡ, la hét lên với nhau bằng thứ tiếng Pháp liếng thoắng. “Em đoán họ quen nhau”, Josh nói trong lúc giúp chị cậu đứng lên.
Cặp sinh đôi quay nhìn Comte de Sain-Germain đang đứng một bên, khoanh tay trước ngực, cười vui vẽ. “Họ là bạn cũ,” ông giải thích. “Đã lâu họ chưa gặp… rất lâu rồi.”
Sain-Germain đằng hắng. “Joan,” ông ta lịch sự nói.
Hai cô gái rời nhau ra và cô gái mà ông ta gọi là Joan quay lại nhìn Sain-Germain, đầu cô ấy nghiêng một góc nhìn giễu cợt. Không thể đoán tuổi cô ấy được. Mặc chiếc quần jean và áo thun trắng, cô cao khoảng Sophie, mảnh mai một cách gần như không tự nhiên, làn da nâu sậm và hoàn hảo làm nổi bật đôi mắt màu xám thật to. Mái tóc nâu vàng cắt kiểu con trai. Cô gạt những giọt nước mắt trên gò má bằng một cử động lòng bàn tay thật nhanh. “Francis?” cô hỏi.
“Và đây là những vị khách của chúng ta.”
Vẫn nắm tay Scathach, cô gái trẻ bước lại gần Sophie hơn. Khi cô gái đến gần, Sophie cảm thấy một sức ép bất ngờ trong bầu khí quanh họ, như thể có một sức mạnh vô hình đang đẩy cô ra sau, và rồi, đột nhiên, luồng điện bạc lấp lánh quanh cô và không khí tràn ngập mùi hương vanilla ngọt ngào. Josh túm lấy cánh tay chị gái và luồng điện của cậu lốp bốp sáng lên, thêm mùi hương cam tỏa quyện không khí.
“Sophie…Josh…”, Sain-Germain mở lời. Mùi thơm hoa oải hương ngọt ngào, đậm đầy đặc khoảng sân khi một luồng điện bạc xì xèo lớn lên quanh cô gái trẻ cắt tóc ngắn. Nó cứng lại và đông đặc, như kim loại và phản chiếu, tự đúc thành giáp che ngực, giáp che ống chân, găng tay và giày bốt trước khi cuối cùng đông cứng lại thành một bộ đồ chiến binh thời trung cổ hoàn hảo. “Xin giới thiệu vợ tôi, Joan…”
“Vợ ông!” Scatty kêu ré lên, choáng váng.
“…người mà các bạn – và lịch sử - gọi là Joan Arc”.
Bữa ăn sáng được dọn ra trên một chiếc bàn gỗ dài đánh vec-ni đặt trong bếp. Không khí sực nức mùi bánh mì mới ra lò và cà-phê pha. Những chiếc điã đầy ắp trái cây tươi, bánh kếp và bánh nướng, cùng với xúc xích và trứng chiên trong chảo đặt trên bếp lò bằng sắt lỗi thời.
Dạ dày Josh bắt đầu sôi lên ngay khi cậu bước vào phòng và nhìn thấy thức ăn. Miệng cậu đầy nước bọt, nhắc nhở cậu nay là đã rất lâu rồi cậu chưa ăn. Cậu chỉ kịp uống một vài hớp sô-cô-la nóng ở tiệm cà-phê trước khi cảnh sát đến.
“Ăn đi, ăn đi,” Sain-Germain nói, túm lấy một cái đĩa trong tay và một cái bánh sừng trâu lớn bên tay kia. Ông ta cắn vào bột, làm rơi ra những mảnh vỏ mỏng tang trên sàn lát gạch vuông. “Các bạn phải đói ngấu ra rồi chứ.”
Sophie tựa sát em trai. “Em lấy cho chị ít thức ăn được không? Chị muốn nói chuyện với Joan. Chị cần hỏi cô ấy vài thứ.”
Josh liếc nhanh cô gái trông khá trẻ đang kéo những chiếc tách ra khỏi máy rửa chén bát. Mái tóc cắt ngắn làm người ta không thể đoán được tuổi của cô. “Chị có nghĩ rằng cô ấy đích thực là Joan Arc không?”
Sophie siết cánh tay em mình. “Sau tất cả những gì chúng ta nhìn thấy, em nghĩ sao?” Cô gật đầu về phía bàn ăn. “Chị chỉ muốn trái cây và ngũ cốc.”
“Không xúc xích, không trứng?” cậu ngạc nhiên hỏi. Cô chị gái của cậu chính là người duy nhất mà cậu biết có thể ăn nhiền xúc xích hơn cả cậu.
“Không,” cô cau mày, đôi mắt xanh nhòa đi. “Thật buồn cười, nhưng chỉ mới nghĩ đến việc ăn thịt thôi đã làm chị muốn ói.” Cô chộp lấy một cái bánh nướng và quay đi trước khi cậu có ý kiến gì, và tiến đến gần Joan đang rót cà phê vào một cái tách thủy tinh cao. Cánh mũi Sophie nở ra. “Cà-phê Kona của Hawaii?” cô hỏi.”
Đôi mắt xám của Joan nhấp nháy đầy vẻ ngạc nhiên và cô cúi đầu xuống. “Tôi thật ấn tượng.
Sophie cười nhún vai. “Em làm việc trong một tiệm bán cà phê. Em nhận biết mùi Kona bất cứ nơi đâu.”
“Tôi yêu thích nó khi chúng tôi ở Hawaii.” Joan nói. Cô nói tiếng Anh pha một chút giọng Mỹ. “Tôi phải giữ nó bằng một cách xử lý đặc biệt.”
“Em thích mùi; ghét vị. Đắng quá.”
Joan nhắp một chút cà phê. “Tôi sẽ xin em đừng đến đây để bàn về cà phê nhé?”
Sophie lắc đầu. “Không, em không định vậy. Em chỉ…” cô ngừng lại. Cô chỉ vừa mới gặp cô gái này, song cô lại định hỏi cô ấy một câu vô cùng riêng tư. “Em có thể hỏi chị một chút được không?” cô nói nhanh.
“Bất cứ gì,” Joan nói một cách chân thành, và Sophie tin cô. Cô bé hít hơi vào và lời cô tuôn ra gấp gáp.
“Có lần Scathach nói với em chị là người cuối cùng có luồng điện bạc thuần khiết.”
“Đó là lý do tại sao luồng điện của em phản ứng lại với luồng điện của tôi,” Joan nói, bọc cả hai bàn tay quanh chiếc tách và nhìn chăm chăm vào cô gái qua vành tách. “Tôi xin lỗi. Luồng điện của tôi làm luồng điện của em bị quá tải. Tôi có thể dạy em làm sao để ngăn việc này không xảy ra nữa.” Cô mỉm cười, để lộ hàm rang trắng đều. “Dù cơ hội gặp một luồng điện bạc thuần khiết khác trong đời em là mỏng manh đến mức khó tin được.”
Sophie hồi hộp gặm miếng bánh nướng nhân dâu dại. “Xin bỏ qua cho em, nhưng chị có phải đúng là ….đúng là Joan Arc, chính là Joan Arc không ?”
“Đúng tôi đích thực là Joan d’Arc”.Cô gái hơi cúi mình, “La Pucelle, Trinh nữ xứ Orleans, xin được phục vụ”
“Nhưng em nghĩ …. Ý em là, em luôn đọc thấy chị đã chết….”
Joan hạ đầu xuống và mỉm cười. “Scathach đã cứu tôi”.
Cô đưa cánh ray chạm vào Sophie, và ngay lập tức,những hình ảnh lung linh nhảy múa trước mắt cô: Scathach trên lưng ,một con ngựa đen khổng lồ, mình mặc áo giáp trắng và đen, tay nắm hai thanh gươm sáng chói.
“Bóng tối đã một tay chiến đấu trên đường cô đi ngang qua đám đông tụ tập xem tôi bị hành quyết. Không ai có thể kháng cự lạ cô. Trong sự hoảng loạn, lộn xộn và rối loạn đó, cô chộp lấy tôi chạy thoát ngay trước mũi những người hành hình tôi”.
Nhưng hình ảnh chớp lóa trong đầu Sophie: Joan, mặc quần áo rách tả tơi và cháy xém, đang bám vào Scathach khi nữ chiến binh đang một tay điều khiển con ngựa trong bộ áo giáp đen vượt qua đám đông hỏang loạn, những thanh gươm sáng chói trong tay kia đang vẹt đường cho họ đi.
“Tất nhiên, mọi người phải nói rằng họ nhìn thấy Joan chết”, Scatty nói, tham gia vào với họ, cẩn thận lạng mỏng trái thơm thành những khoanh gọn gang bằng một con dao quắm. Không ai – cả người Anh vẫn người Pháp muốn thừa nhận rằng Trinh nữ xứ Orleans đã bị bắt cóc mất tiêu ngay trước mũi mình, có lẽ có đến năm tram hiệp sĩ trang bị vũ khí hạng nặng, đã được cứu bởi một nữ chiến binh đơn lẻ”.
Joan đưa tay lấy một míêng thơm từ những ngón tay của Scathach và thảy nó vào miệng. “Scatty đưa tôi đến với Nicholas và Ferenelle”, cô tiếp tục. “Họ đã cho tôi chỗ trú đã chăm sóc tôi.Tôi bị thương trên đường trốn chạy và bị yếu đi trong nhiều tháng bị giam cầm. Nhưng dù có sự quan tam tốt nhất của Nicholas, tôi hẳn sẽ chết mất nếu không có Scatty”. Cô giơ tay và siết cặt tay cô bạn một lần nữa, dường như không chú ý đến những giọt lệ rơi trên má mình.
“Joan mất nhiều máu lắm” Scathach nói. “Mặc những gì Nicholas và Ferenelle làm, cô ấy vẫn không khá hơn, vì thế Nicholas tiến hành một trong những việc truyền máu đầu tiên chưa bao giờ có”.
“Máu của ai” Sophie bắt đầu hỏi, cho tới khi cô chợt nhận ra là cô biết câu trả lời. “Máu của chị?”
“Máu ma cà rồng của Scathach đã cứu tôi. Và cũng giúp tôi sống – đã làm tôi thành bất tử”. Joan cười toe. Sophie để ý thấy răng cô bình thường, không nhọn như Scatty. “May thay không có phản ứng phụ của ma cà rồng. Dù tôi là người ăn chay”, cô nói thêm. “Đã qua vài thế kỉ rồi”.
“Và cô đã lập gia đình”, Scathach nói như buộc tội. Chuyện đó xảy ra hồi nào, và như thế nào, sao cô không mời tôi?” cô hỏi dồn một hơi.
“Chung tôi lấy nhau bốn năm trước tại Sunset Beach ở Hawaii, tất nhiên là vào lúc hòng hôn. Chúng tôi đã tìm cô khắp nơi ngay sau khi chúng tôi quyết định”, Joan nói nhanh. “Tôi thật sự muốn cô có ở đó; tôi muốn cô làm trinh nữ danh dự cho tôi”.
Đôi mắt xanh của Scatty nhíu lại, hồi tưởng. “Bốn năm trước….. tôi nghĩ tôi đã ở Nepal đang truy đuôi tay lừa đảo Nee-gued. Một tên người tuyết kinh tởm”, cô nói thêm khi nhìn thấy Sophie và Joan ngây mắt ra nhìn.
“Chúng tôi không có cách gì liên lạc với cô. Điện thoại di động của cô không làm việc, e-mail bị trả lại báo rằng hộp thư của cô đầy rồi”. Joan nắm tay Scathach. “Lại đây, tôi co máy cái hình có thể cho cô xem”. Cô quay lại Sophie. “bây giờ cô nên ăn. Cô phải bù lại phần năng lượng cô đã đốt hết. Uông nhiều chất lỏng. Nước, nước ép trái cây, nhưng đừng uống thứ chứa có cà-phê-in, không trà, không cà-phê, không uống những thứ làm cô thức. Sau khi xong bữa, Francis chỉ phòng cho hai chị em, các em có thể tắm và nghỉ ngơi. Cô chậm rãi nhìn từ trên xuống dưới. “Tôi sẽ lấy ít quần áo cho cô. Cô khỏng cỡ tôi. Và sau đó chúng ta sẽ nói về luồng điện của cô”. Joan ngữa bàn tay trái và xòe các ngón ra. “Tôi sẽ chỉ cô làm thế nào để kiểm soát nó, làm thế nào để định hình nó, biến nó thành bất cứ cái gì cô muốn”. Chiếc găng tay biến thành một cái vuốt của loài chim ăn thịt bằng kim loại đầy đủ với các móng cong trước khi trở lại mờ nhạt thành da thịt rám nắng của Joan. Chỉ có những chiếc móng tay vẫn còn bạc.Cô dựa người vào và hôn Sophie thật nhanh trên mỗi bên má. “Nhưng trước hết cô phải nghỉ ngơi. Bây giờ”, cô vừa nói vừa nhìn Scathach, “để tôi cho cô xem hình”
Hai cô gái vội vã rời khỏi bếp, và Sophie theo đường mình quay trở xuống căn phòng dài nơi Saint-Germain đang nói chuyện sôi nổi với em trai cô. Josh đưa cho cô một dĩa đầy traí cây và bánh mì. Dĩa của cậu thì nhiều trứng và xúc xích. Sophie cảm thấy dạ dày mình khó chịu khi nhìn thấy mấy thứ đó và buộc phải quay đi chổ khác. Cô vùa nhấm nháp trái cây vừa lắng nghe câu chuyện.
“Không, tôi là người không thể đánh thức năng lượng của cậu được”, Saint-Germain đang nói khi cô bước vào cùng tham gia với họ. “Để làm được việc đó cậu cần phải có một Elder hay một trong ít người thuộc thế hệ kế tiếp, người nào có thể làm được ấy”. Ông mỉm cười, để lộ hàm rang lộn xộn. “Đừng lo, Nicholas sẽ tim thấy ai đó đanh thức cậu”.”
“Có ai ở đây, tại Paris này có thể làm được không?”
Saint-Germain suy xét một lúc. “Machiavelli sẽ biết một ai đó, tôi không chắc lắm. Hắn ta biết đủ thứ. Còn tôi thì không”. Ông ta quay sang Sophie, hơi cúi người. “Tôi hiểu cô may mắn lắm mới được Hekate huyền thoại đánh thức và được thầy cũ của tôi, Bà Phù thủy Endor, huấn luyện pháp thuật không khí.” Ông ta lắc đầu. “Bà phù thủy gìa thế nào? Bà ấy chẳng bao giờ thích tôi,” ông nói thêm.
“Tới giờ vẫn không thích,” Sophie nói nhanh, rồi chợt đỏ mặt vì ngượng. “Xin lỗi. Không hiểu tại sao tôi lại nói vậy.”
Ông bá tước cười lớn. “Ồ, Sophie, cô đâu nói… đúng, thật sự là không. Bà Phù thủy đã nói. Sẽ mất một thời gian để cô sắp xếp lại ký ức của mình. Tôi nhận được điện thoại của bà ấy sáng nay. Bà ấy bảo tôi rằng bà ấy đã làm cho cô thấm nhuần không chỉ Pháp thuật Không khí mà còn toàn bộ kiến thức của bà ấy nữa. Kỹ thuật xác ướp không được dùng trong ký ức sống; nguy hiểm không tưởng tượng được.”
Sophie liếc nhanh cậu em trai. Cậu đang chăm chú nhìn Saint-Germain một cách cẩn thận, lắng nghe từng lời. Cô để ý thấy cậu mím chặt môi làm cổ và xương hàm căng cứng.
“Cô hẳn phải nghỉ ngơi ít nhất hai mươi bốn tiếng mới có thể hồi tỉnh lại và đủ thời gian cho tiềm thức sắp xếp lại các ký ức, ý nghĩa và tư tưởng xa lạ bị thu nạp đột ngột vào.”
“Tôi chẳng có thời gian,” Sophie lẩm bẩm.
“Nào, giờ thì có rồi đó. Ăn nhanh đi; rồi tôi sẽ chỉ phòng cho các bạn. Cứ ngủ bao lâu tùy ý. Các bạn tuyệt đối an toàn. Không ai biết các bạn ở đây cả.”
Dạ Phong
04-01-2011, 04:33 PM
Chương 18
Bọn chúng đang ở trong ngôi nhà của Saint – Germain gần Champs- Elysees. “Machiavelli áp điện thoại vào tai và ngã lưng trong chiếc ghế bọc da màu đen, xoay người nhìn ra ngoài ô cửa sổ cao.Xa xa, ngang qua những mái ngói nghiêng nghiêng, hắn có thể nhìn thấy tháp Eiffel. Pháo hoa đã ngưng hẳn, nhưng một đám mây màu sắc cầu vồng vẫn còn lơ lưng trong không trung. “Đừng lo, Tiến sĩ, chúng tôi đã cho theo dõi ngôi nhà kỹ càng. Saint-Germain, Sacthach và cặp sinh đôi bên trong. Không có người nào khác.”
Machiavelli đưa điện thoại ra xa tai khi tĩnh điện rì rầm và nổ lốp bốp. Phản lực của Dee vừa cất cánh từ một sân bay tư nhân nhỏ ở miền bắc Los Angeles. Nó sẽ dừng lại ở New York để tiếp nhiên liệu, rồi bay vượt qua Đại Tây Dương đến Shannon ở Ireland và tiếp nhiên liệu một lần nữa trước khi tiếp tục lên đường đến Paris. Tiếng lốp bốp nhạt dần rồi giọng Dee, mạnh và rõ, đến qua điện thoại.
“Còn Nhà giả Kim?”
“Biến mất ở Paris rồi. Nhưng người của tôi đã bắt được hắn nằm xuống, súng chĩa vào người, vậy mà bằng cách nào đó hắn ta lại đã phủ đườnglên họ và khiến cả tập đoàn kiến trong thành phố bò lên người họ. Họ náo loạn cả lên; hắn ta trốn mất.”
“Thuật chuyển hóa,” Dee nhận xét. “Nước được hình thành bởi hai phân tử hydrogen và một phân tử oxygen: đường sucrose có cùng tỉ lệ đó. Hắn biến đổi nước thành đưòng ; chỉ là một trò chơi trong nhà- tôi vẫn phải mong đọi nhiều hơn hắn kia”
Machiavenlli lùa bàn tay vào mái tóc cắt ngắn trắng như tuyết của mình. “Tôi lại nghĩ việc này ká thông minh đó chứ,” hắn ôn tồn nói. “Hắn ta đã đưa sáu viên cảnh sát vào nhập viện”
“Hắn ta sẽ trở lại với hai cặp sinh đôi,” Dee cáu kỉnh. “Hắn cần mấy đứa nhỏ đó. Hắn đã chờ đợi cả đời mình để tìm được chúng.”
“Tất cả chúng tôi đang chờ,” Machiavelli bình thản nhắc lại với Pháp sư. “Và bây giờ, chúng ta đã biết bọn chúng đang ở đâu, nghĩa là sẽ biết Flamel đi đâu.”
“Đừng làm gì chó tới khi tôi đến đó,” Dee ra lệnh.
“Ông có ý tưởng gì không khi điều đó-” Machiavelli vừa cất tiếng, nhưng đường dây tắt ngấm. Hắn ta không rõ Dee đã cúp máy hay cuộc gọi bị rớt. Biết tính Dee, hắn đoán là tên này đã cúp máy; đó là phong cách thường lệ của Dee. Người đàn ông dáng cao, lịch sự gõ nhè nhẹ chiếc điện thoại vào đôi môi mỏng của mình rồi mới trả máy về chổ cũ. Hắn ta không có ý định sẽ theo lệnh của Dee; hắn sẽ bắt Flamel và cặp sinh đôi trước khi máy bay của Dee chạm xuống Paris. Hắn sẽ làm được những gì Dee đã thất bại trong nhiều thế kỷ, và đổi lại, các Elder sẽ ban cho hắn những gì hắn muốn.
Chiếc điện thoại của Machiavelli phát ra tiếng rù rù trong túi hắn. Hắn lôi nó ra và nhìn vào màn hình. Một trằng số dài nhằng lạ hoắc chạy qua, không giống với dãy số nào hắn đã từng thấy trước nay. Người đứng đầu DGSE cau mày. Chỉ có tổng thống Pháp, một vài bộ trưởng các nội các cao cấp và nhân viên trực tiếp của hắn mới có số điện thoại riêng của hắn. Hắn nhấn nút trả lời nhưng không nói gì cả.
“Pháp sư người Anh tin rằng anh sẽ cố gắng và bắt được Flamel cùng với cặp sinh đôi trước khi anh ta đến.” Giọng nói ở đầu dây đằng kia nói tiếng Hy Lạp bằng một thổ ngữ không còn dung cả thiên niên kỷ nay.
Niccolo Machiavelli ngồi dựng đứng lên trong ghế mình. “Chủ nhân?” hắn nói.
“Hãy hỗ trợ Dee hết sức anh. Không động đậy gì tới Flamel cho đến khi anh ta đến.”
Đường dây tắt ngúm.
Machiavelli cẩn thận đặt chiếc điện thoại vào chỗ trống trên bàn và ngồi xuống trở lại. Úp hai tay lên mặt, hắn không ngạc nhiên khi thấy chúng hơi run. Lần cuối cùng hắn nói chuyện với Elder mà hắn gọi là Chủ nhân đã hơn một thế kỷ rưỡi trước rồi. Đây là Elder đã ban cho hắn sự bất tử hồi đầu thế kỷ mười sáu. Bằng cách nào Dee đã lien lạc với ông? Machiavelli lắc đầu. Rõ ràng là không thể được; có lẽ nào Dee liên lạc với chủ nhân của riêng hắn và nhờ ông đưa ra yêu cầu. Nhưng chủ nhân của Machiavelli là một trong những Elder Đen tối mạnh nhất… Điều đó đưa hắn quay lại một câu hỏi từng làm hắn bối rối qua nhiều thế kỷ: ai là chủ nhân của Dee?
Mỗi con người được Elder ban tặng sự bất tử đều bị ràng buộc vào Elder đó. Một Elder đã ban cho ai sự bất tử thì cũng có thể dễ dàng lấy lại y như vậy. Machiavelli đã trông thấy chuyện đó xảy ra: ông đã từng chăm chú nhìn một người thanh niên khỏe mạnh đột nhiên héo quắt lại và già xọm đi chỉ trong khoảng độ một tích tắc, cuối cùng người đó đổ sụm xuống thành một đống xương nát vụn và da thịt biến thành bụi.
Hồ sơ của Machiavelli về những người bất tử được liên kết chéo với các Elder hoặc Elder Đen tối mà họ phục vụ. Chỉ có một số rất ít là con người – như Flamel, Perenelle và Saint-Germain – những người không nợ lòng trung thành với một Elder nào, vì họ trở thành bất tử bằng nổ lực của riêng họ.
Không ai biết Dee phục vụ cho ai. Nhưng hiển nhiên đó phải là một người có quyền lực hơn chủ nhân Elder Đen tối của riêng Machiavelli. Và tất cả những điều đó làm cho Dee càng nguy hiểm hơn.
Chồm người về phía trước, Machiavelli nhấn một nút trên chiếc điện thoại bàn của hắn. Cảnh cửa lập tức mở ra và Dagon bước vào phòng, cặp kính râm phản chiếu của nó phản ánh lại những bức tường trống trơn.
“Có báo cáo nào về Nhà Giả kim không?”
“Không có gì. Chúng tôi đã truy cập video từ những camera quan sát trong nhà ga Pont l’Alma và mọi nhà ga liên kết với nó và chúng tôi đang phân tích dữ liệu, nhưng phải mất ít thời gian.”
Machiavelli gật đầu. Thời gian là thứ hắn không có. Hắn vẫy bàn tay với những ngón dài vào không khí. “Được, chúng ta có thể không biết bây giờ hắn ta đang ở đâu, nhưng chúng ta biết nơi hắn sẽ đến: nhà của Saint-Germain.”
Đôi môi Dagon hở ra nhớp nháp. “Ngôi nhà đó đang được theo dõi kỹ càng. Tất cả mọi lối vào và ra đều được thắt chặt; thậm chí còn đặt người trong hệ thống cống rãnh bên dưới tòa nhà. Không ai có thể vào hoặc ra mà không chịu sự giám sát của chúng tôi. Có hai đội RAID trong xe tải đậu gần những con phố ngang và đội thứ ba ém trong ngôi ngà kế bên nhà của Saint-Germain. Họ có thể trèo qua tường trong chốc lát.”
Machiavelli đứng lên và bước ra khỏi phía sau bàn. Chắp tay sau lưng, hắn đi vòng quanh căn phòng ẩn danh nhỏ xíu. Mặc dù đây là địa chỉ chính thức, nhưng ít khi hắn sử dụng căn phòng này, và nó cũng chẳng có gì ngoài cái bàn làm việc, hai cái ghế, và điện thoại. “Nhưng tôi tự hỏi không biết như đả đủ chưa? Flamel đã trốn thoát khỏi sáu viên cảnh sát được huấn luyện cao cấp khi họ đang chĩa súng vào hắn ta, mặt hắn còn úp xuống vệ đường. Và chúng ta biết Saint-Germain – Bậc thầy về Lửa – lại đang ở trong nhà mình.
Chúng ta có một ví dụ nhỏ về khả năng của hắn sáng nay rồi đó.”
“Pháo hoa đâu có nguy hại gì,” Dagon nói.
“Tôi giám chắc hắn ta có thể dễ dàng biến cái tháp thành chất lỏng y như vậy. Hãy nhớ cho, hắn ta đã làm ra kim cương từ than đá.”
Dagon gật đầu.
Machiavelli tiếp tục. “Chúng ta cũng biết rằng năng lượng của con bé gái người Mỹ đã được đánh thức, và chúng ta từng thấy một chút trong số những gì con bé đó có thể làm. Sương mù ở Sacre-Coeur là một chiến công ấn tượng đối với người chưa được huấn luyện và còn quá trẻ như vậy.”
“Và rồi lạ có Bóng tối,” Dagon nói thêm.
Bộ mặt Niccolo Machiavelli biến thành một cái mặt nạ kỳ quặc. “Và rồi lại có bóng tối,” hắn đồng ý.
“Mụ ta đã xóa sạch mười hai tên nhân viên được trang bị vũ khí hạng nặng trong tiệm cà phê sáng nay,” Dagon nói không một chút cảm xúc. “Tôi đã từng quan sát mụ ta đương đầu với toàn thể quân đội, và mụ ta đã sống sót sau hàng thế kỷ trong một Vương quốc Bóng tối Địa ngục. Rõ ràng Flamel dùng mụ ta để bảo vệ cho hai đứa sinh đôi. Mụ ta phải bị tiêu diệt trước khi chúng ta xử đến bất cứ tên nào khác.”
“Đúng vậy.”
“Ông sẽ cần cả một đội quân.”
“Có lẽ không. Nhớ là, sự xảo quyệt và mánh khóe sẽ phục vụ con người mọi lúc hơn là sức mạnh,” hắn trích dẫn.
“Ai nói vậy?” Dagon hỏi.
“Tôi, trong một cuốn sách, lâu lắm rồi. Điều đó đã là chân lý trong triều đình thời Medicis, và đến nay vẫn là chân lý.” Hắn nhìn lên. “Anh đã cho người mời Disir chưa?”
“Họ đang trên đường đến đây.” Giọng Dagon lính dính. “Tôi không tin họ.”
“Không ai tin Disir.” Không có chút hài hước nào trong nụ cười của Machiavelli. “Anh đã từng nghe câu chuyện làm thế nào mà Hekate nhốt được Scathach trong Địa ngục đó chưa?”
Dagon không nhúc nhich.
“Hekate đã sử dụng Disir. Mối tử thù của chúng với Bóng tối có từ hồi sau khi Damu Talis bị nhấn chìm.” Đặt bàn tay lên vai sinh vật này, Machiavelli bước đến gần Dagon, cẩn thận thở bằng miệng. Dagon tiết ra mùi cá; bao phủ lớp da xanh mướt của nó như mồ hôi nhờn nhợt, trở mùi thum thủm. “Tôi biết anh ghét Bóng tối, và tôi không bao giờ hỏi anh tại sao, dù tôi có nghe loáng thoáng. Rõ ràng là mụ ta đã gây đau khổ cho anh. Tuy nhiên, tôi muốn anh bỏ qua một bên cảm xúc của mình; ghét là thứ vô ích nhất trong tất cả các cảm xúc. Thành công là cách trả thù hay nhất. Tôi cần anh phải tập trung và ở bên cạnh tôi. Chúng ta nay đang gần, rất gần với chiến thắng, gần với sự trở lại của giống loài Elder trên thế giới này. Hãy bỏ mặc Scathach cho Disir. Nhưng nếu chúng thất bại, thì mụ ta là của anh. Tôi hứa.”
Dagon há miệng ra để lộ một vòng rang nhọn hoắt. “Chúng sẽ không thất bại. Disir định đem theo Nidhogg.”
Niccolo Machiavelli nheo mắt ngạc nhiên. “Nidhogg… nó được thả à? Chuyện thế nào?”
“Cây Thế giới đã bị phá hủy.”
“Nếu chúng ta thả Nidhogg vào Scathach, thì anh nói đúng. Chúng ta sẽ không thất bại. Không thể.”
Dagon đưa tay cởi cặp kính. Cặp mắt cá lồi ra to tướng của nó mở lớn và không chớp. “Và nếu chúng mất kiểm soát Nidhogg, nó có thể phá hủy toàn bộ thành phố này.”
Machiavelli suy xét một lúc. Rồi hắn gật đầu. “Một giá hời để trả cho việc tiêu diệt Bóng tối.”
“Ông nói nghe giống hệt Dee.”
“Ồ, tôi không có cái gì giống tay Pháp sư người Anh đó cả,” Machiavelli nói với vẻ kích động. “Dee là một tên cuồng tín nguy hiểm.”
“Còn ông thì không à?” Dagon hỏi.
“Tôi chỉ nguy hiểm thôi.”
Tiến sĩ John Dee ngồi dựa lưng vào chỗ ngồi bọc da mềm mại và ngắm nhìn mạng lưới đèn của Los Angeles lấp lánh rơi đi bên dưới hắn. Kiểm tra chiếc đồng hồ bỏ túi được trang trí công phu, hắn tự hỏi không biết Machiavelli đã nhận được cuộc gọi điện thoại từ chủ nhân của hắn chưa. Hắn tưởng tượng là rồi. Dee cười toe, tự hỏi tay người Ý làm gì với cuộc gọi đó. Nếu không có gì khác, thì ít nhất nó sẽ cho Machiavelli thấy ai là người phụ trách.
Không phải là thiên tài mới nhận ra rằng tay người Ý đó sẽ tự mình truy đuổi Flamel và bọn nhỏ. Nhưng Dee đã mất quá lâu trong việc đuổi bắt Nhà Giả kim để rồi lại chịu vuột mất ông ta đúng ngay ở chặng cuối… đặc biệt vào tay một người như Niccolo Machiavelli sao.
Hắn nhắm mắt lại khi chiếc máy bay nâng lên và dạ dày hắn quặn lại. Hắn tự động đưa tay lấy túi giấy trên chỗ ngồi bên cạnh: hắn thích bay, nhưng dạ dày của hắn luôn luôn phản đối. Nếu mọi thứ diễn ra như kế hoạch, thì chẳng bao lâu hắn sẽ điều khiển toàn bộ hành tinh này và hắn sẽ không bao giờ còn cần phải bay nữa. Mọi người sẽ đến với hắn.
Chiếc phản lực chĩa lên theo một góc dựng đứng và hắn nuốt nước bọt một cách khó khăn; hắn đã ăn một phần gà cuộn ở phi trường và giờ đang hối hận. Thức uống có ga rõ ràng lại là một sai lầm khác nữa.
Dee đang hân hoan mong đợi thời điểm các Elder trở lại. Có lẽ họ sẽ thiết lập lại mạng lưới cổng tuyến xuyên khắp thế giới và làm cho những chuyến máy bay không còn cần thiết nữa. Nhắm mắt, Dee tập trung vào các Elder và nhiều lợi ích mà họ mang lại cho hành tinh này. Trong quá khứ, hắn biết các Elder đã tạo ra thiên đường trên trái đất. Tất cả những cuốn sách cổ và những cuộn giấy da, những truyện hoang đường và thần thoại của mọi giống loài, đều nói đến thời vàng son đó. Chủ nhân của hắn đã hứa với hắn rằng các Elder sẽ dùng sức mạnh phép thuật của mình để đưa hành tinh này trở về thiên đường đó. Họ sẽ đảo ngược lại những hiệu ứng làm cho địa cầu ấm dần lên, sửa vá những lỗ thủng trong tầng ozone và mang sự sống đến cho các sa mạc. Sahara sẽ nở hoa; những chóp băng giá hai cực sẽ tan chảy đi, để lộ đất đai phì nhiêu bên dưới. Dee nghĩ hắn sẽ tìm thấy thành phố thủ đô của hắn ở Antarctica bên bờ hồ Vanda. Các Elder có thể thiết lập lại vương quốc cổ của họ ở Sumer, Ai Cập, Trung Mỹ và Angkor, và với sự hiểu biết chứa trong cuốn sách của Abraham, có thể họ sẽ nâng dậy Danu Talis một lần nữa.
Tất nhiên, Dee biết rằng cư dan loài người sẽ trở thành nô lệ, và một số sẽ trở thành thức ăn cho những Elder đó, họ vẫn cần phải ăn, nhưng đó là một cái giá hời để trả cho nhiều lợi ích khác.
Chiếc phản lực giữ độ cao và hắn thấy dạ dày mình ổn định. Mở mắt ra, hắn hít thở sâu và kiểm tra đồng hồ một lần nữa. Hắn thấy rằng thật khó có thể tin rằng hắn chính là giờ giấc – giờ giấc theo nghĩa đen – cuối cùng còn cách việc bắt được Nhà Giả kim, Scathach không xa mấy và, bây giờ, cả cặp sinh đôi nữa. Bọn chúng là phần thưởng cộng thêm. Một khi hắn có Flamel và những trang sách từ cuốn Codex, thế giới sẽ thay đổi.
Hắn không bao giờ hiểu được tại sao Flamel và vợ ông ta lại làm việc cực nhọc như vậy để ngăn cản Elder không mang nền văn minh trở lại trái đất. Nhưng chắc chắn hắn sẽ hỏi ông ta… ngay trước khi hắn giết ông ta.
Dạ Phong
06-01-2011, 04:32 PM
Chương 19
Nicholas Flamel dừng một chút trên đường Beaubourg và chậm rãi quay người, đôi mắt xanh nhạt của ông quét khắp con phố. Ông nghĩ là ông bị ai đi theo, nhưng ông cần phải chắc chắn. Ông lấy xe lửa đi đến ga Saint – Germain Notre-Dame và băng qua sông Seine trên cầu Pont d’ Arcole, hướng về công trình kỳ quái làm bằng kín và thép Pompidou Center. Còn nhiều thời gian, ông thường hay ngừng lại, lao từ bên naỳ sang bên kia đường, dừng một chút ở quầy bán báo để mua tờ báo sáng, ngừng lại để uống ly cà-phê hạng bét trong một cái ly giấy, ông kiểm tra bất cứ ai chú ý đến cử đọng của ông. Nhưng cho đến tận khi ông có thể quyết định, thì không có ai đi theo ông hết.
Paris đã thay đổi kể từ lần cuối cùng khi ông còn ở thành phố này, và dù bây giờ ông gọi San Fransico là mái ấm, thì nơi đây vẫn là thành phố nơi ông sinh ra và vẫn luôn là thành phố của ông. Chỉ mới một hai tuần trước, Josh đang tải Google Earth và máy tính ở văn phòng sau của tiệm sách và chỉ cho ông cách sử dụng nó. Nicholas đã mất hàng giờ để nhìn xuống những con phố ông đã từng có lần đi qua, tìm những tòa nhà ông từng biết hồi còn trẻ, cả việc khám phá ra vị trí của nhà thờ Holy Innocents, được cho là nơi chon cất ông.
Ông đã đặc biệt quan tâm đến một con phố. Ông tìm nó trên chương trình bản đồ và gần như đã rảo bước xuống đó, không bso giờ nhận ra rằng chẳng bao lâu ông sẽ làm như vậy trong thực tế.
Nicholas Flamel rẽ trái ra khỏi đường Beaubourg đi vào đường de Montmorency – và ngừng lại bất thình lình như thể ông va vào một bức tường vô hình.
Ông kéo một hơi thở sâu và nghe nó run lên, ý thức rằng trái tim ông đang nện thùi thụi. Một thứ cảm xúc cực mạnh. Con phố quá hẹp đến nỗi mặt trời không thể tới được, nên luôn để nó trong bóng tối. Nó được kẻ hai bên bằng những tòa nhà cao, hầu hết là màu trắng và kem, nhiều nhà treo cái giỏ trên tường, hoa và cây xanh mọc tràn ra bân ngoài. Những cây sào bằng kim loại màu đen có hình tròn được chen vào lề đường cả hai bên con phố để không cho xe hơi đậu.
Nicholas chầm chậm đi bộ xuống phố,nhìn thấy nó như trước đây đã từng nhìn thấy. Ông nhớ lại.
Hơn sáu trăm năm trước, ông và Perenelli đã từng sống trên con phố này. Những hình ảnh Paris thời trung cổ lung linh trong mắt ông, một tình trạng bừa bộn những căn nhà làm bằng gỗ và đá lung tung không hài hòa; những con hẻm nhỏ xíu quanh co chật hẹp; những chiếc cầu mục nát; những tòa nhà và con phố nằm trong danh sách sắp sụp đổ chỉ khá hơn những cái cống rãnhtrống hoác một chút. Tiếng ồn, tiếng ồn liên mien không chịu nổi, và chướng khí hôi thối lơ lửng khắp thành phố - một hỗn hợp con người không tắm rửa mang đầy bệnh tật và những con thú bẩn thỉu – là những thứ không bao giờ ông quên.
Ở cuối con đường de Montmorency, ông thấy một tòa nhà mà ông đang tìm kiếm.
Nó chẳng thay đổi mấy. Đá trước đây thường có màu kem, nay đã cổ xưa, sứt nẻ và giải dầu nắng gió, vấy đen bồ hóng. Ba chiếc cửa sổ bằng gỗ và các cửa đi đều mới, nhưng bản than nó là một tòa nhà cũ nhất ở Paris. Ngay phiá trên cánh cửa giữa là một con số kim loại màu xanh lơ – 51 – và bên trên nữa là một tám biển bằng đá trông rất quen thuộc thông báo đây từng là MASION DE NICHOLAS FLAMEL ET DE PERENELLE, SA FEMME.Một tấm biển màu đỏ hình cái khiên thông báo rằng đây là AUBERGE NICHOLAS FLAMEL. Bây giờ nó là tiệm ăn.
Đã có một thời là nhà ông.
Bước lên cửa sổ, ông giả vờ đọc thực đơn để nhìn vào bên trong. Nội thất hoàn toàn được tu sửa lại, tất nhiên, có lẽ vô số lần, những thanh xà sẫm màu bắc ngang qua trần màu trắng xem ra đúng là những thanh xà ông rất thường nhìn lên hơn sáu tram năm trước.
Ông và Perenelli đã từng hạnh phúc ở đây, ông nhận thức rõ.
Và an toàn.
Cuộc sống của họ hồi ấy đơn giản hơn nhiều; họ không biết về Elder và Elder Đen tối gì cả; họ không biết gì về cuốn Codex, hay về những người bất tử canh giữ và chiến đấu vì nó.
Và cả ông lẫn Perenelli vẫn hoàn toàn là con người.
Những phiến đá cổ xưa của ngôi nhà đã kắc sâu những hình ảnh hài hòa, những kí hiệu và chữ cái mà ông biết đã làm lúng túng và kích thích trí tò mò của đọc giả qua mọi thời. Hầu hết chúng đều vô nghĩa, một số ít hơn là những biển hiệu của các cửa tiệm vào thời họ, nhưng có một hay hai cái lại có ý nghĩa đặc biệt.Nhanh chóng liếc trái liếc phải và lần theo đường viền của chữ N, được khắc vào phiến đá phiá tay trái của cữa sổ giữa. Luồng năng lượng màu xanh lục cuộn quanh con chữ. Rồi ông lần theo chữ F được trang trí công phu trên mặt đối dện cửa sổ, để lại một đường viền quanh con chữ tỏa sáng lờ mờ trong không trung. Nắm khung cửa sổ bằng tay trái, ông hít người lên gờ cửa và giơ tay phải lên đầu, mấy ngón tay ông dò tìm hình dạng của các con chữ trong phiến đá cổ. Cho phép dòng chữ nhỏ nhất trong luồng điện của ông chảy qua ngón tay, ông ấn vào một chuỗi kí tự…..và phiến đá dưới da thịt ông hóa ra ấm và mềm. Ông đẩy… và những ngón tay ông chìm vào trong đá. Chúng bao quanh vật mà ông đã cất giấu trong khối đá granite cứng hồi thế kỉ mười lăm. Kéo nó long ra, ông bước ra khỏi gờ cửa sổ và thả mình nhẹ xuống đất, bọc thật nhanh tờ Le Monde của ông quanh vật đó. Rồi ông quay người hướng xuống con phố, ngay cả ánh mắt liếc ra sau cũng không.
Trước khi bước ra đường Beaubourg, Nicholas rẽ qua tay trái. Nằm ngay giữa lòng bàn tay ông là dấu hằn của một con bướm đen hoàn hảo Saint – Geremain đã ấn vào da ông. “Nó sẽ đưa thầy trở lại với con,” anh ta đã nói vậy.
Nicholas Flamel chạm ngón trỏ vào hình xăm. “Hãy đưa tôi trở lại với Saint-Germain,” ông lẩm bẩm. “Hãy mang tôi đến với anh ta”.
Hình xăm run rẩy trên tay ông, mấy cái cánh khẽ lay động. Rồi thình lình nó bong ra khỏi da thịt ông và lơ lửng vỗ cánh vỗ cánh trước mặt ông. Một lúc sau, nó nhảy múa và uons lượn xuống phố. “Thông minh,” Nicholas nói khẽ, “rất thông minh.” Và ông bắt đầu đi lên đường theo sau nó.
Dạ Phong
07-01-2011, 04:54 PM
Chương 20.
Perenelle Flamel bước khỏi xà lim của nhà tù.
Cánh cửa không bao giờ khóa. Không cần thiết: không có gì bước qua con nhân sư. Nhưng bây giờ con nhân sư đã đi rồi. Perenelle hít thở sâu; mùi chua của sinh vật, một sự phối hợp của mùi mốc meo của rắn, sư tử và chim, đã giảm bớt, nhường chỗ cho mùi thường lệ của Alcatraz – muối và kim loại gỉ, rong biển và đá bể - thay thế nào.Bà quay sang trái, nhanh chóng đi xuống một hành lang dài hai hàng xà lim dọc theo hai bên. Bà đang ở trên đảo Đá; nhưng không biết chính xác bà đang ở đâu trong cái khu phức tạp khổng lồ đổ nát này. Dù bà và Nicholas đã sống ở San Fransico nhiều năm nhưng bà không bao giờ bị cám dỗ muốn đến tham quan hòn đảo ma ám này. Tất cả những gì bà biết là bà đang ở sâu dưới bề mặt trái đất. Chỉ có ánh sáng đến từ bóng đèn công suất rải rác không theo quy luật được gắn vào phiá sau những phòng giam có chấn song kim loại. Đôi môi Perenelle vặn vẹo một nụ cười nhăn nhó; amhs sáng không ủng hộ lợi ích của bà. Con nhân sư sợ bóng tối; sinh vật này đến từ một thời điểm nào đó và từ một nơi thực sự có những con qủy trong bóng tối.
Con nhân sư đã bị hồn ma Juan Manuel de Ayala dụ đi mất. Nó bỏ đi để tìm kiếm những tiếng ồn ào bí ẩn, những thanh sắt lách cách và những cánh cửa rầm rầm thình lình vang khắp tòa nhà. Con nhân sư đi mỗi lúc một xà lim của bà, luồng điện của Perenelle được nạp lại. Bà chưa lấy lại được trọn lại sức mạnh – bà sẽ cần phải ngủ, và ăn nữa – nhưng ít ra bà cũng không còn bị canh giữ nữa. Tất cả những gì bà phải làm là tránh xa lối đi của sinh vật này.
Một cánh cửa đánh rầm ở đâu đó phía trên đầu bà, và Perenelle cứng người lại khi những móng vuốt kêu lách cách lập cập. Bà đang mặc một cái áo đầm mùa hè không tay, và bình thường bà có thể điều hòa nhiệt độ của mình bằng cách điều chỉnh luồng điện, nhưng giờ bà còn rất ít năng lượng và bà chần chừ không biết có nên sử dụng nó bằng mọi cách không. Một trong những tài năng đặc biệt của con nhân sư là khả năng đánh hơi và ăn hết năng lượng pháp thuật.
Đôi giày dây đế bằng của Perenelle không gây ra tiếng động trên những phiến đá ẩm ướt khi bà đi xuống hành lang. Bà cảnh giác, nhưng không sợ. Perenelle Flamel đã sống hơn sáu trăm năm rồi, và trong khi Nicholas say mê thuật giả kim thì bà lại tập trung vào thuật phù thủy. Nghiên cứu của bà đã đưa bà đến một số nơi rất nguy hiểm và u tối, không chỉ trên trái đất này, mà còn có những nơi tiếp giáp với Vương quốc Bóng tối.
Ở nơi đó cách một khoảng xa, kính vỡ và rơi loảng xoảng không rõ phương hướng, nhưng âm thanh nghe rất xa. Perenelle mỉm cười: de Ayala đã làm cho con nhân sư bận rộn, và dù cho nó nhìn cật lực đến thế nào đi chăng nữa, nó sẽ không bao giờ thấy được ông ấy. Ngay cả một sinh vật mạnh mẽ như con nhân sư cũng không có quyền gì trên một hồn ma hay một con yêu tinh.
Perenelle biết rằng bà cần phảinđi lên một mức cao hơn và bước vào ánh sáng mặt trời , nơi luồng điện của bà sẽ được nạp lại nhanh hơn. Một khi bà ở giữa trời, bà có thể sử dụng hàng tá câu thần chú, những phép phù thủy, những bùa chú đơn giản mà bà biết sẽ làm sự tồn tại của con nhân sư trở thành nỗi bất hạnh. Một pháp sư xứ Scythian người tuyên bố đã từng giúp xây kim tự tháp cho những người sống sót của Danu Talis rồi những người này lại đến dặt ở Ai Cập, đã dạy bà một câu thần chú rất hiệu nghiệm để làm tan chảy đá. Perenelle không ngần ngại sử dụng nó để mang toàn bộ tòa nhà này đỗ ập xuống con nhân sư. Có thể làm nó sống sót được – loài nhân sư hầu như không thể bị giết – nhưng chắc chắn nó sẽ bị làm chậm lại.
Perenelle phát hiện những bậc thang bằng kim loại đã bị hoen rỉ và lao về phiá đó. Vừa định đặt chân lên bậc cuối cùng thì bà để ý thấy một sợi chỉ màu xám giăng ngang tấm kim loại. Perenelle cứng đơ người, chân gỉơ lên không…và rồi và chầm chậm và cẩn thận bước lùi lại. Cúi sát xuống, bà nhìn những bậc thang kim loại.
Từ góc này, bà có thể nhìn thấy những sợi tơ nhện đan chéo nhau và len lỏi khắp các bậc thang kim loại này đều sẽ bị bắt. Bà quay lại, chăm chăm nhìn vào bóng tối mù mịt. Những cọng chỉ qua dày không thể do bất kì con nhện bình thường nào nhả ra và trên đó lấm tấm những giọt bạc lỏng. Perenelle biết hàng tá sinh vật có thể chăng tơ thành mạng, và bà không muốn gặp lại loài nào trong chúng, không gặp ở đây và bây giờ, khi bà đang quá cạn kiệt năng lượng.
Xoay người lại, bà bổ nhào xuống một hành lang dài và được thắp sáng bởi duy một bóng đèn ở mỗi đầu. Bây giờ bà biết bà tìm cái gì, bà có thể nhìn thấy những tấm mạng bạc ở khắp nơi, giăng ngang trần nhà, kéo ngang những bức tường và có những cái tổ khổng lồ đan trong gốc nhà, mọc lên trong những vùng tối sâu nhất. Sự hiện diện của những tấm mạng này có thể giải thích lý do tại sao bà không bắt gặp bọn kí sinh nào trong nhà tù này – không kiến, ruồi, muỗi hay chuột. Một khi những thứ ở trong mấy cái tổ này nở ra,tòa nhà sẽ lúc nhúc những con nhện…nếu thật sự đó là những loài giăng tơ. Qua nhiều thế kỉ, Perenelle đã chạm trán với các Elder kết giao với loài nhện, gồm Arachme và Bà chúa Nhện huyền bí và khinh khủng, nhưng theo chỗ bà biết, không ai trong hàng ngũ của họ đứng trong hàng ngũ của Dee và cacsElder Đen tối.
Perenelle vội vã đi qua một cánh cửa để ngỏ, một cái mạng nhện hoàn hảo đóng khung trong khe hở, vừa lúc bà bắt được lờ mờ mùi hôi thối chua gay gắt. Bà bước chậm, rồi dừng lại. Mùi này mới; không phải mùi của con nhân sư. Quay lại cánh cửa, bà đi sát vào tấm mạng mà không chạm vào nó và nhìn sát vào bên trong. Phải mất một lúc mắt bà mới quen với bóng tối và thêm một lúc nữa để nhận ra những gì bà đang nhìn thấy.
Vetala.
Trái tim Perenelle bắt đầu đập mạnh trong lồng ngực đến mỗi bà thực sự có thể cảm thấy da thịt mình rung rung. Treo ngược từ trên trần nhà xuống là hơn một chục sinh vật. Móng nửa giống chân người nửa giống vuốt chim cắm sâu trong đá mềm, còn những cái cánh dơi long vũ phủ quanh thân người như bộ xương. Những cái đầu treo ngược rất đẹp, với bộ mặt của những chàng trai cô gái trẻ chưa đến tuổi thiếu niên.
Vetala.
Perenelle thầm thốt lên. Những con ma cà rồng từ tiểu lục Ấn Độ. Và không giống Scathcah, bè lũ này uống máu và ăn thịt. Nhưng chúng làm gì ở đây, và quan trọng hơn, làm thế nào mà chúng đến được đây? Vetala luôn luôn gắn liền với một vùng hay bộ tộc: Perenelle chưa từng biết một con nào từng rời xa quê nhà của nó.
Nữ Phù thủy chầm chậm quay người để nhìn vào ô cửa để ngỏ khác xếp hàng dọc theo hành lang tối om. Còn cái gì khác nằm ẩn trong những xà lim bên dưới Alcatraz?
Dee đang trù tính những gì?
Chủ Nhật, ngày 3 tháng Sáu.
Dạ Phong
08-01-2011, 06:37 PM
Chương 21.
Tiếng gào thét thất thanh của Sophie kéo giật Josh ra khỏi giấc ngủ không mộng mị và cuốn cậu bay thốc ra khỏi giường, để cậu đứng lảo đảo, cố lấy phương hướng trong một thứ bóng tối đen ngòm.
Sophie lại kêu thét lên, âm thanh sống sượng và đầy kinh hãi.
Josh mò mẫm bước qua phòng ngủ, va nguyên cái đầu gối vào thành ghế rồi mới phát hiện ra cánh cửa, chỉ có thể thấy được nhờ một đường kẻ ánh sáng mỏng dính sát dưới chân nó. Chị gái cậu ở trong căn phòng ngay bên kia hành lang.
Từ sớm, Saint – Germain đã đưa hai đứa nhỏ lên tận lầu và cho chúng chọn những căn phòng trên tầng cao nhất của ngôi nhà phố. Sophie ngay lập tức chọn căn phòng nhìn ra Champs-Elysees – từ cửa sổ phòng ngủ, cô có thể nhìn thấy Arc de Triomphe qua các mái nhà- trong khi Josh lấy căn phòng bên kia sảnh, nhìn ra khỏang vườn khô quắt phía sau.
Những căn phòng nhỏ, trần thấp và nhuengx bức tường gồ ghề, hơi dốc, nhưng mỗi cái đều có một cái phòng tắm riêng với một buồng tắm vòi hoa sen nhỏ xíu chỉ có hai chế độ - nóng và lạnh. Khi sophie vặn nước chảy trong phòng cô thì vòi sen của Josh ngưng bặt. Và dù cậu đã hứa với chị gái rằng cậu sẽ nói chuyện với cô sau khi tắm và thay áo quần xong, nhưng cậu ngồi yên trên cạnh giường mình và gần như rơi vào một giấc ngủ li bì ngay tức khắc.
Sophie thét lên lần thứ ba, một tiếng nức nở làm cậu nhòa lệ.
Josh giật mạnh cánh cửa phòng cậu mở tung và chạy bay qua hành lang hẹp. cậu đẩy cánh cửa mở vào phòng chị cậu…. và ngừng sựng lại.
Joan Arc đang ngồi cạnh giường chị cậu, nắm tay Sophie bằng hai bàn tay của cô. Không có ngọn đèn nào trong phòng được bật lên, nhưng căn phòng không tối đen hoàn toàn. Bàn tay của Joan phát ra ánh sáng bạc mát dịu và trông như cô ta đang mang một chiếc găng tay xám mềm mại. Khi cậu nhìn, bàn tay chị cậu cũng có bề mặt và màu sắc như vậy. Không khí sực nức mùi vanilla và hoa oải hương.
Joan quay nhìn Josh, cậu giật mình khi nhận ra rằng đôi mắt cô sáng rực như đồng bạc cắc. Cậu bước một bước về phía chiếc giường, nhưng cô ta đưa một ngón tay lên môi và lắc đầu nhè nhẹ, ý bảo cậu đừng nói gì cả. Ánh sáng rực nhạt bớt trong mắt cô ta. “Chị gái cậu đang nằm mơ,” Joan nói, cậu không rõ, là cô ta nói thành tiếng hay là cậu đang nghe tiếng nói của cô trong đầu mình. “Cơn ác mộng đã qua rồi. Nó sẽ không trở lại nữa,” cô nói, cung giọng cô làm cho lời nói đó trở thành một lời hứa.
Gỗ kêu cót két đằng sau Josh và cậu ngoái lại nhìn thấy Comte de Saint – Germain đang bước xuống cầu thang hẹp ở cuối sảnh. Francis ra hiệu cho Josh từ nấc cuối cầu thang, cậu con trai nghe tiếng ông rõ ràng: “Vợ tôi sẽ chăm sóc chị gái cậu. Đi đi thôi.”
Josh lắc đầu. “Tôi nên ở lại”. cậu không muốn để Sophie một mình với người phụ nữ lạ, nhưng theo bản năng cậu cũng biết rằng Joan sẽ không bao giờ làm hại chị cậu.
“Cậu không thể làm gì cho cô ấy cả”, Saint – Germain nói lớn. “Mặc quần áo vào và lên tầng gác mái đi. Tôi có phòng làm việc của mình ở trên đó”. Ông ta quay đi và biến mất thẳng theo cầu thang.
Josh nhìn lại Sophie lần cuối. Cô đang nằm yên, hơi thở chậm và cậu để ý thấy nhũng quầng thâm bên dưới mắt cô đã biến mất.
“Đi ngay đi,” Joan nói. “Tôi phải nói vài thứ với chị cậu. Chuyện riêng”.
“Chị ấy đang ngủ….,”Josh bắt đầu.
“Nhưng tôi vẫn cứ nói,” cô gái lầm bầm. “Và cô ấy vẫn sẽ nghe.”
Trong phòng mình, Josh nhanh nhẹn thay quần áo. Một bọc áo quần để trên cái ghế bên dưới cửa sổ: đồ lót, quần jeans, áo thun và vớ. Cậu đoán chắc là quần áo của Saint-Germein: chúng khoảng cỡ của ông bá tước. Josh mặc nhanh chiếc quần jeans đen kiểu dáng thiết kế riêng và một chiếc áo thun lụa đen rồi mới xỏ chân vào giày mình và thoáng nhìn mình trong gương. Cậu không thể nhịn được cười; cậu chưa bao giờ tưởng tượng ra chính mình lại mặc những áo quần đắt tiền đến thế này. Trong phong tắm, cậu bẻ một bàn chải đánh rang mới ra khỏi bao, đánh răng té nước lạnh lên mặt và lùa ngón tay vào amis tóc vàng quá dài, vuốt ngược nó ra sau trán. Liếc nhìn đồng hồ cậu giật thót người khi thấy bây giờ mới qua nữa đêm rạng sáng ngày chủ nhật. Cậu đã ngủ nguyên một ngày và gần trọn một đêm.
Cậu rồi phòng ngủ, ngừng lại ở phòng chị cậu và nhìn vào bên trong. Mùi hoa oải hương mạnh đến nỗi làm cậu chảy nước mắt. Sophie nằm yên không động đậy trên giường,hơi thở đều và êm. Joan ở cạnh cô, nắm tay cô, khẽ thì thầm, nhưng không bằng ngôn ngữ mà cậu có thể hiểu được. Người phụ nữ quay đầu chầm chậm nhìn cậu, và cậu nhận ra rằng đôi mắt cô lại một lần nữa như hai chiếc đĩa bạc, không hề thấy tròng trắng hay con ngươi đâu cả. Cô quay người lại cùng Sophie.
Josh nhìn chằm chằm vào họ một lúc rồi mới quay đi. Khi Bà Phù thuỷ Endor dạy Sophie phép thuật Không khí, cậu đã bị đuổi đi; giờ đây cậu bị xua đuổi một lần nữa. Cậu nhanh chóng nhận ra rằng trong thế giới phép thuật này, không có chỗ cho một ai đó như cậu, một người không có năng lượng.
Josh chầm chậm bước lên cầ thang hẹp uốn cong dẫn lên phòng làm việc của Saint-Gerenelle. Không như những gì Josh mong đợi mình sẽ thấy trên tầng gác mái, đây là một không gian to lớn làm bằng gỗ trắng và vàng được chiếu sáng trưng. Căn gác mái chạy dọc suốt chiều dài ngôi nhà và đã được thiết kế lại thành một khoảng không gian mở bao la, với một cửa sổ mái vòm nhìn qua Champs- Elysees ở nút đầu bên kia. Gian phòng khổng lồ đầy những nhạc cụ và đồ điện tử, nhưng không có dấu hiệu của Saint-Germain.
Dựa vào bức tường bên phải, một chiếc bàn dài kéo từ đầu không gian bên này đến tuốt đầu bên kia. Chất trên đó những đóng cao nghều toàn là máy tính, cả để bàn lẫn xách tay, cùng với những màn hình đủ hình dạng và kích cỡ, bộ tổng hợp các nhạc cụ điện tử synthesizer, bàn phối âm, những cây keyboard và những bộ trống điện tử.
Cạnh đối diện bên kia của gian phòng là những cây guitar điện được đặt trên giá, còn bộ keyboard được xếp quanh một màn hình LCD khổng lồ.
“Cậu thấy thế nào?” Saint- Germain hỏi.
Phải ít giây sau Josh nhận định được tiếng nói phát ra từ đâu. Nhà soạn nhạc đang nằm ngửa dưới bàn, trong tay ông là một bó sợi cáp USB. “khỏe ạ”, JOSH nói mà cảm thấy ngạc nhiên vì đó là sự thật. Cậu cảm thấy khỏe hơn lúc nào hết. “Tôi không nhớ đến việc mình nằm xuống…”
“Cậu kiệt sức cả về thể chất lẫn tinh thần. Và tôi nghĩ là những cổng tuyến đã hút hết giọt năng lượng cuối cùng còn sót lại của cậu. Không phải vì tôi đã từng đi qua một cái như vậy rồi,”ông nói thêm. “Thật tình, tôi ngạc hiên không hiểu vì sao cậu vẫn có thể đứng được trên chân của mình”, Saint – Germain nói khẽ, vừa thả mấy sợi day cáp xuống. “Cậu đã ngủ suốt mười bốn tiếng đồng hồ”.
Josh quỳ xuống cạnh Saint-Germain. “Ông đang làm cái gì vậy ạ?”
“Tôi dịch chuyển cái màn hình và cọng cáp sút ra; tôi không biết cọng nào là cọng nào nữa”.
“Ông nên làm kí hiệu màu cho chúng bằng mấy dải băng”, Josh nói. “Tôi đã làm như vậy”. Duỗi thẳng chân, cậu với lấy một đầu cáp đang gắn vào cái màn hình ảnh rộng và giật lên giật xuống. “cái này nè”. Sợi cáp giật giật trong tay Saint-Germain.
“Cám ơn!”
Cái màn hình đột nhiên chớp chớp sống lại, hiện lên một màn ảnh đầy con trượt và nút bấm.
Saint- Germain lồm cồm bò dậy và phủi bụi trên người. Quần áo của ông cũng giống bộ đồ Josh đang mặc. “Vừa đó.” Ông gật đầu. “Cậu mặc coi đẹp đó. Cậu nên mặc quần áo màu đen thường hơn”
“Cám ơn vì bộ đồ..”Cậu ngừng lại. “Thế nhưng tôi không biết làm sao có thể trả lại ông”.
Francis bật cười lớn. “Chungs không ơhair là món nợ, chúng là món quà. Tôi không muốn chúng quay về với tôi đâu”.
Trước khi Josh kịp cám ơn ông lần nữa, Saint-Germain đã đánh vào bàn phím và Josh nhảy nhổm lên khi một loạt hợp âm piano mạnh giộng thẳng ra từ những cái loa chìm. “Đừng lo, tầng gác mái đã được cách âm”, Saint-Germain nói. “Nó sẽ không đánh thức được Sophie được”.
Josh gật đầu hướng vào màn ảnh. “Ông viêt tất cả nhạc của ông bằng máy tính hả?”
“Gần như vậy.” Saint-Germain nhìn quanh gian phòng. “ngày nay bất cứ ai cũng có thể sáng tác nhạc; cậu không cần gì hơn là một cái máy vi tính, một ít phần mềm, lòng kiên nhẫn và thật nhiều trí tưởng tượng. Nếu tôi cần một vài nhạc cụ thật cho lần hòa cuối cùng, tôi sẽ thuê nhạc công. Nhưng tôi có thể làm hầu hết mọi thứ tại đây”
“Đã có lần tôi đã tải về vài phần mềm tách nhịp,” Josh thú nhận. “Nhưng tôi chưa bao giờ có thể làm cho đúng”
“Cậu sáng tác gì vậy?”
“Dạ, nhưng tôi không chắc ông có thể gọi đó là sáng tác…tôi chỉ ráp mấy cái phố âm lẻ tẻ lại với nhau thôi”.
“Tôi rất thích được nghe những gì cậu có”
“Mất hết rồi. Tôi bị mất máy tính, điện thoại di động và ipod khi yggdrasill bị phá hủy.”
Thậm chí nói chuyện này ra cũng làm cậu phát ốm. Và có phần tệ hại nhất đó là thật sự cậu không nắm rõ cậu đã bị mất những gì. “tôi bị mất dự án hè và mọi thứ nhạc của tôi, có khỏang chín mươi GB. Tôi còn có vài phần mềm lậu xài rất ngon. Sẽ chẳng bao giờ có cái gì thay thế chúng được”.
Cậu thở dài. “Tôi còn bị mất hàng trăm tấm hình; chụp tất cả những nơi bố mẹ đưa chúng tôi đến. Ba mẹ chúng tôi là nhà khoa học – khảo cổ học và cổ sinh vật học,” cậu nói thêm, “vì thế chúng tôi đã được nhìn tháy một số nơi rất đáng kinh ngạc.”
“Mất hết mọi thứ! Thật không may”, Saint-Germain thông cảm. “Có back up không?”
Vẻ bần thần trên khuôn mặt Josh thay thế cho mọi câu trả lời mà ông bá tước muốn.
“Cậu sài Mac hay PC?”
“Thật ra là cả hai. Ba tôi xài PC ở nhà, nhưng hầu hết các trường mà tôi và Sophie học đều dùng Mac. Sophie rất thích cái Mac của chị ấy, nhưng tôi thì lại thích PC hơn,”cậu nói.
“Nếu có bất cứ cái gì hư, thường tôi có thể gỡ từng cái ra và tự sửa lấy.”
Saint – Germain đi đến cuối bàn và lục lọi loay hoay dưới gầm bàn. Ông lôi ra ba cái máy tính xách tay, khác nhãn hiệu và kích cở màn hình, và xếp chúng một hàng trên sàn. Ông làm một cử chỉ đột ngột. “Lấy một cái đi”
Josh chớp mắt nhìn ông đầy ngạc nhiên. “Lấy một cái?”
“Tất cả dều là PC,” Saint – Germain nói tiếp, “và chúng không còn công dụng gì với tôi nữa. Bây giờ tôi chuyển qua xài Mac hết rồi.”
Josh nhìn Saint – Germain rồi nhìn sang mấy cái laptop, rồi lại quay nhìn về nhà soạn nhạc. Cậu chỉ vừa mới gặp người đàn ông này, chưa từng biết ông , và giờ đây ông cho cậu quyền chọn một trong ba cái laptop đắt tiền. Cậu lắc đầu. “Cám ơn, nhưng tôi không thể.”
“Sao lại không thể?” Saint – Germain gặng hỏi.
Và josh không có câu trả lời nào cho câu hỏi đó.
“Cậu cần một cái máy tính. Tôi tặng cậu một trong những cái này. Tôi rất vui nếu cậu nhận lời.”Saint – Germain mỉm cười. “Tôi lớn lên trong một thời đại mà việc tặng quà là một nghệ thuật. Tôi đã thấy người ta trong thế kỷ này thật sự không biết cách tiếp nhận một món quà sao cho phải phép”.
“Tôi không biết phải nói gì”.
“Thì nói cảm ơn?” Saint – Germain gợi ý.
Josh cười toe. “Vâng. Cám ơn.”cậu chần chừ. “Cám ơn rất nhiều.” Ngay cả khi đang nói, cậu đã biết cậu muốn cái máy nào: mộtcái laptop nhỏ xíu dày một inch với màn hình mười một inch.
Saint – Germain cào xới lung tung dưới bàn và rút ra ba sợi dây nguồn, thả chúng xuống cạnh mấy cái máy. “Tôi không dùng chúng. Mà có lẽ sẽ không dùng lại chúng nữa. tôi sẽ format cho sạch ổ cứng và mang tặng các trừơng ọc địa phương. Cứ lấy bất cứ cái nào cậu thích. Cậu cũng sẽ tìm thấy một cái túi đeo cũng nằm dưới bàn ấy.”Ông dừng một chút, đôi mắt xanh nhấp nháy, và vỗ nhẹ và lưng chiếc máy Josh đang nhìn, rồi cười toe và nói thêm, “tôi có một cục pin dự phòng xài được lâu giờ cho cái này. Đó là cái tôi thích nhất.”
“Dạ, nếu thật sự ông không còn dùng nữa….?”.
Saint – Germain quẹt một ngón tay ngang qua lưng chiếc laptop nhỏ, vạch một đường trên lớp bụi mờ, đưa nó lên cao đủ để Josh có thể nhìn thấy vết đen ở đầu ngón tay ông. “Tin tôi đi: tôi không còn dùng chúng nữa.”
“Ok…cám ơn. Tôi muốn nói cám ơn ông. Trước giờ chưa từng có ai tặng tôi một món quà như thế này,” cậu vừa nói vừa cầm cái máy nhỏ lên và quay nó trên tay mình. “Tôi sẽ lấy cái này… nếu ông thật sự chắc chắn rằng..”
“Tôi bảo đảm. Nó được tải về dầy đủ rồi; có wireless nữa, và nó sẽ tự động chuyển nguồn từ dòng Châu Âu thành dòng Mỹ. Còn nữa, có tất cả các album của tôi trong đó,” Saint - Germain nói, “vậy cậu có thể bắt đầu lại bộ sưu tập âm nhạc của cậu. Cậu cũng sẽ thấy một file.mpeg về buổi hòa nhạc mới đây nhất.Mang về đi; thật sự nó tốt lắm đó.”
“Tôi sẽ làm như vậy,”Josh nói, cắm dây vào laptop để sạc pin.
“Nói cho tôi biết cậu nghĩ như thế nào. Cậu có thể thành thực với tôi,” Saint – Germain nói thêm.
“Thật chứ?”
Ông bá tước ngẫm nghĩ một chút rồi lắc đầu. “Không, không hẳn vậy. Chỉ nói với tôi là cậu nghĩ là tôi giỏi. Tôi không thích những đánh giá tiêu cực, dù cậu cho rằng sau gần ba trăm năm, tôi nên quen với chúng.”
Josh mở laptop và bật nguồn. cái máy rên ư ử và rung rinh sống dậy. Chồm người xuống, cậu thổi bụi khỏi bàn phím. Khi chiếc laptop khởi động xong, màn hình nhấp nháy và hiện ra một bức ảnh của Saint – Germain trên sân khấu, vây quanh bởi hơn một chục loại nhạc cụ. “Ông đặt hình mình làm nền sao?” Josh ngờ vực hỏi.
“Đó là một trong những cái hình tôi ưa thích nhất,” nhà soạn nhạc nói.
Josh hất đầu về phiá màn hình lớn và nhìn quanh gian phòng. “Ông có thể chơi tất cả những cái này sao?”
“Tất cả mọi cái. Tôi bắt đầu với cây vĩ cầm cách đây rất lâu, rồi chuyển qua đàn clvico và sáo. Nhưng tôi vẫn theo kịp thời đại, luôn luôn học những nhạc cụ mới. Vào thế kỷ mười tám, tôi dùng công nghệ mới nhất thời đó – những cây vĩ cầm, những cây keyboard đời mới – và giờ tôi ở đây, gần ba trăm năm sau, vẫn làm như vậy. Đây là thời điểm tuyệt vời để là một nhà soạn nhạc. Và với kỷ thuật này, cuối cùng tôi có thể chơi tất cả các âm thanh tôi nghe thấy trong đầu mình.” Những ngón tay ông chải trên bàn phím và nguyên một dàn hợp xướng hát lên từ mấy cái loa.
Josh nhảy dựng. Âm thanh quá rõ đến nỗi thật sự cậu đã nhìn ra sau lưng mình.
“Tôi tải lên máy tính những âm thanh mẫu, từ đó tôi có thể dùng bất cứ cái gì trong công việc của tôi.” Saint – Germain quay màn hình lại và những ngón tay ông nhảy múa trên phím. “Cậu không nghĩ rằng những phaó hoa sáng hôm qua đó được làm bằng những âm thanh tuyệt vời sao? Nổ lốp bốp. Bật tanh tách. Có lẽ đã đến lúc để làm một bộ pháo hoa khác.”
Josh dạo quanh gian phòng, nhìn vào tất cả những bản ghi âm đóng khung vàng, những poster được ký tên, và những bao cứng đựng CD. “Tôi không biết đã có một người làm như vậy rồi,” cậu nói
“Geogre Frideric Handel, 1749, Âm nhạc dành cho Pháo hoa Hoàng gia. Thật là một đêm lạ lùng biết bao!Âm nhạc sao mà tuyệt diệu!”Những ngón tay Saint – Germain lướt qua bàn phím, gian phòng tràn đầy gian điệu mà Josh cho là nghe quen quen. Có lẽ cậu đã nghe một chương trình quảng cáo trên tivi. “Ông già Geogre hay thật,” Saint – Germian nói. “Tôi không bao giờ thích ông ấy”
“Bà Phù thủy Endor không thích ông,” Josh ngần ngừ nói. “Tại sao vậy ạ?”
Saint – Germian cười toe. “Bà Phù thủy không thích ai hết. Bà ấy đặc biệt không thích tôi bởi vì tôi trở thành người bất tử, và không như Nicholas và Perry, tôi không cần một công thức nào trong cuốn sách để giữ mình không chết đi.”
Josh cau mày. “Ý ông là có những kiểu bất tử khác nhau?”
“Nhiều kiểu khác nhau, và cũng nhiều loại người bất tử khác nhau. Nguy hiểm nhất là những người bất tử vì lòng trung thành của họ đói với một Elder nào đó. Nếu họ bị thất sủng với Elder đó, món quà sẽ bị hủy bỏ, tất nhiên.” Ông gõ nhẹ các ngón tay và Josh nhảy chồm lên. “Kết quả là tuổi già đến ngay tức khắc. Tuổi già cổ xưa. Đó là cách tuyệt nhất để bảo đảm lòng trung thành.” Ông quay lại bàn phím và những ngón tay ông vẽ nên âm thanh nghe rõ cả tiếng thở âm vang từ những mấy cái loa. Ông nhìn lên Josh đến tham gia với ông trước màn hình. “Nhưng lý do thật làm bà phù thủy thích tôi là bởi vì tôi – một người bất tử bình thường lại trở thành bậc thầy của Lửa.” ông giơ cao bàn tay trái và một ngọn lửa đủ màu sắc nhảy múa trên mỗi đầu ngón tay. Phòng gi âm trên tầng gác mái chợt đầy mùi lá cháy.
“Và tại sao điều đó lại làm bà ấy bực bội?” Josh hỏi mà mắt nhìn chằm chằm vào những ngọn lửa đang nhảy múa. Cậu muốn – muốn một cách liều lĩnh- mình có thể làm được như vậy.
“Có lẽ vì tôi học được bí mật của lửa từ anh bà ấy” Âm nhạc biến đổi, trở nên nghịch tai và thô ráp. “Đúng, khi nói đã học được, thực sự tôi nên nói là đã đánh cắp được.”
“Ông dẫ đánh cắp bí mật của lửa!” Josh nói.
Conte de Saint – Germain gật đầu vui vẻ. “Từ Prometheus.”
“Và có ngày cậu tôi sẽ đòi nó lại” Giọng Scathach làm cả hai nhảy dựng ngược. Không ai nghe tiếng cô bước vào phòng. “Nicholas đang ở đây,”cô nói, và quay ngoắt đi.
Dạ Phong
09-01-2011, 04:11 PM
Chương 22.
Nicholas Flamel đang ngồi ở một đầu của chiếc bàn bếp, hai tay ông ủ quanh một chén súp bốc khói. Trước mặt ông là một chai Perrer, một ly cao và một dĩa chất đầy bánh mì khô cắt dày và phô mai. Ông nhìn lên, gật đầu và mỉm cười với Josh và Saint – Germain đang theo sau Scathach vaò phòng.
Sophie đang ngồi phía bên kia bàn, đối diện với Joan Arc, và Josh nhanh nhẹn chuồi vào ngồi cạnh chị gái mình trong khi Saint – Germain đang lấy chỗ bên cạnh vợ ông. Chỉ có Scathach còn đứng, dựa vào chậu rửa phía sau Nhà Giả kim, nhìn chăm chú ra ngoài và hướng tầm mắt vào bóng đêm. Josh để ý cô vẫn đeo cái băng đô mà cô cắt ra từ chiếc áo thun đen rộng rinh của Flamel.
Josh chuyển sự chú ý qua nhà giả kim. Người đàn ông này trông mệt lử và già hẳn, dường như có một lớp bụi màu bạc trên mái tóc cắt sát của ông mà truocs đây không hề thấy. Da ông xanh xao một cách tồi tệ, làm nỗi bật những vòng đen thâm dưới mắt ông cùng với những đường hằn sâu trên trán. Áo quần ông nhàu nát và loang lỗ ướt mưa, và có một vệt bùn dài trên ống tay của chiếc áo khoác ông treo sau lưng ghế gỗ. những giọt nước lấp lánh trên lớp da mòn vẹt.
Không ai nói gì khi nhà giả kim húp hết chén súp và bẻ một khoanh phô mai với bánh mì.
Ông nhai từ từ và cẩn thận, rồi rót nước từ trong cái chai màu xanh ve vào ly và uống từng ngụm nhỏ. Khi xong, ông lau miệng bằng khăn ăn và tự cho phép mình thở ra khoan khoái. “Cám ơn.” Ông gật đầu với Joan. “Thật ngon.”
“Có một tủ đầy thức ăn, Nicholas,” cô nói, đôi mắt xám mở ra đầy quan tâm. “Thật ra ông nên dùng thêm một ít súp, bánh mì và phô mai.”
“Đủ rồi”, ông nói dịu dàng. “Ngay lúc này tôi cần nghỉ ngơi, và tôi không nuốn đưa vào dạ dày nhiều thức ăn quá. Chúng ta sẽ có một bữa điểm tâm lớn vào sáng mai. Thậm chí tôi sẽ tự nấu nữa kia.”
“Con không biết thầy có thể nấu ăn,”Saint – Germain nói.
“Ông ấy nấu được đó,” Scathach thì thầm.
“Cháu nghĩ chú ăn phô mai vào lúc khuya quá chú sẽ bị ác mộng đó,” Josh nói. Cậu liếc nhìn chiếc đồng hồ trên tay. “Gần một giòe sáng rồi ạ.”
“Ồ, chú không cần phô mai mới thấy ác mộng. chú thấy chúng bằng xương bằng thịt nữa kìa.” Nicholas mỉm cười, dù không có một chút gì hài hước trong câu nói đó. “chúng thật đáng sợ.” ông nhìn từ Josh sang Sophie. “Tụi cháu thấy an toàn và khỏe chứ?”
Cặp sinh đôi liếc nhìn nhau rồi gật đầu.
“Và nghỉ ngơi chưa?”
“Hai đứa ngủ cả ngày và gần hết đêm,”Josn nói
“Tốt”, Flamel gật. “Bọn cháu cần có lại tất cả sức mạnh của mình. Và chú thích những bộ quần áo này.”Trong khi Josh quần áo giống Saint – Germain thì Sophie lại mặc áo cotton và quân feans xanh lơ với lai bật lên để lộ ra đôi giày bốt cao ngang mắt cá chân.
“Joan cho cháu đó,”Sophie giải thích.
“Gần như vừa y,” cô gái lớn tuổi hơn nói. “Chúng sẽ lục qua tủ quần áo, lấy cho ông mấy cái để thay rồi còn nghỉ ngơi sau một hành trình dài.
Sophie mỉm cười tỏ ý cảm ơn.
Nicholas quay sang Saint –Germain. “Pháo hoa trên tháp Eiffel sáng hôm qua: đầy sáng tạo, thật đầy sáng tạo.”
Ông bá tước cúi mình. “Cám ơn, thưa thầy,”ông nói trông vô cùng vừa lòng với chính mình.
Tiếng cười của Joan hạ thấp xuống thành tiếng rừ rừ. “anh ấy để tìm một cái cớ để làm thứ đó giống vậy cả mấy tháng rồi. Chắc ông chưa thấy màn trình diễn anh ấy diễn ở Haiwaii hồi chúng tôi làm đám cưới. Chúng tôi chờ mặt trời lặn hẳn; rồi Francis thắp sáng cả bầu trời trong gần một tiếng đồng hồ. Thật là quá đẹp, dù nỗ lực đó làm anh ấy kiệt sức cả tuần,” cô ây nói thêm và cười toe.
Hai đốm lửa màu hồng ửng lên trên gò má ông bá tước và ông đưa tay siết tay vợ. “xứng đáng để được nhìn thấy nét mặt em như thế này.”
“Anh chưa điều khiển được lửa trong lần cuối mình gặp nhau,”Nicholas chậm rãi nói. “Nếu tôi nhớ không lầm, anh có một chút khả năng với việc này, nhưng không có gì giống năng lượng mà anh biểu diễn hôm qua. Ai đào tạo anh vậy?”
“Con mất khá lâu ở Ấn Độ, trong thành phố Ophir đã bị mất tích,” ông bá tước đáp lại, liếc nhanh nhd giả kim. “Ở đó họ vẫn còn nhớ thầy. Thầy có biết họ đã dựng một bức tượng cho thầy và Perenelle ở quảng trường trung tâm chưa?”
“Chưa. Tôi đã hứa với Perenelle là sẽ đưa cô ấy trở lại nơi ấy một ngày nào đó,” Nicholas nói đầy vẻ khao khát. “Nhưng ở đó có cái gì mang lại trình độ tinh thông về lửa cho anh như vậy?”
“Con gặp một người ở đó…một người huấn luyện cho con,” Saint – Germain nói một cách bí ẩn. “Chỉ cho con cách dùng tất cả những kiến thức bí mật mà con đã góp nhặt từ Prometheus..”
“Đã đánh cắp được chứ,”Scathach chỉnh lại.
“Đúng, đầu tiên là đánh cắp nó”, Saint – Germain đốp chat
Bàn tay Flamel đánh xuống bàn với một lực đủ mạnh để làm rung chai nước, chỉ có Scathach là không giật mình. “Đủ rồi!” ông gầm lên, và trong chốc lát, mọi chỗ bằng phẳng hay gốc cạnh trên gương mặt ông đều biến đổi, xương gò má ông chợt nhô lên, làm liên tưởng đến một cái đầu lâu bên dưới lớp da thịt. Đôi mắt gần như không màu của ông trông tối om, hóa xám rồi nâu và cuối cùng là đên tuyền. Tựa cùi chỏ lên bàn, ông lấy cả hai lòng bàn tay xoa lên mặt và hít mộ hơi thở rung lên. Thoang thoảng mùi bạc hà trong không trung, nhưng lẫn một chút mùi chua chua. “Xin lỗi. Điều đó không thứ được. Tôi không nên cao giọng,” ông nói êm ả cùng một khoảng yên lặng kinh khủng theo sau. Khi ông lấy tay ra khỏi mặt, môi ông nhếch lên thành nụ cười không hợp với đôi mắt ông. Ông lần lượt nhìn từng người,tia nhìn chòng chọc nán lại trên khuôn mặt sững sờ của cặp sinh đôi. “Hãy tha thứ cho chú. Lúc này chú mệt quá, quá mệt mỏi rồi; chú có thể ngủ một tuần lễ liền. Tiếp tục đi, Francis, nào. Ai huấn luyện cho anh?”
Comte de Saint – Germain lấy hơi. “ông ấy bảo con.. ông ấy nói rằng con không bao giờ đượcnói ra tên ông ấy,” ông vội vã kết thúc.
Flamel chống cùi chỏ lên bàn, đan những ngón tay vào nhau và tựa cằm ông lên hai nắm tay đã đan lại. ông nhìn nhà soạn nhạc, nét mặt ông dửng dung. “Đó là ai?”Ông gặng hỏi một cách kiên quyết.
“Con đã hứa với ông ấy rồi,” Saint – Germain nói một cách khổ sở. “Đó là một trong những điều kiện ông ấy đặt ra khi huấn luyện con. Ông ấy nói có một nặng lượng trong những câu nói và một sooa những cái tên nào đó sẽ tạo ra những rung động cả thế giới này lẫn các Vương quốc Bóng tối và thu hút sự chú ý không hề được chào đón.”Scathach bước tới và đặt ty nhẹ lên vai Nhà Giả kim. “Nicholas, ông biết đó là sự thật. Có những lời nào đó mà không bao giờ nên nói ra, có những cái tên không bao giờ được nhắc đến. Những chuyện xưa cũ. Những chuyện không bao giờ bỏ được.”
Nicholas gật đầu. “Nếu anh đã hứa với người đó, thì anh không nên quay trở lại chuyện này nữa, tất nhiên. Nhưng nói cho tôi biết”- ông dừng một chút, không nhìn vào ông bá tước – “người bí ẩn này, ông ta có mấy tay?”
Saint – Germain bất chợt ngồi phịch xuống, và vẻ mặt kinh hòang hiện lên trên gương mặt ông đã tiết lộ sự thật. “Làm sao thầy biết?” ông thều thào.
Miệng nhà giả kim vặn vẹo một vẽ nhăn nhó kỳ cục. “Ở Tây Ban Nha, sáu trăm năm trước, tôi đã gặp một người đàn ông có một tay đã dạy tôi những bí mật của cuốn Codex. ông ấy cũng từ chối xưng tên mình ra.” Flamel chợt nhìn vào Sophie, đôi mắt mở lớn và nhìn trừng trừng. “Cháu mang trong mình kí ức của bà phù thủy. Nếu bây giờ có một cái tên hiện đến với cháu – sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người ở đây nếu cháu không nói cái tên đó ra.”
Sophie ngậm miệng lại đến nỗi cắn vào bên trong môi. Cô đã biết cái tên người đàn ông mà Flamel và Saint – Germain đang nhắc đến. Cô cũng đã biết rõ ông ấy là ai – và là cái gì. Và súyt chút nữa cô đã nói cái tên đó.
Flamel quay lại Saint – Germain. “Anh biết rằng năng lực của Sophie đã được đánh thức.
bà phù thủy đã dạy con bé những căn bản của Pháp thuật Không khí, và tôi quyết tâm rằng cả hai đứa phải được đào tạo những pháp thuật cơ bản càng nhanh càng tốt. Tôi biết ở đâu có các bậc thầy về pháp thuật Đất và Nước. Chỉ mới hôm qua, tôi mới nghĩ chúng ta phải đi tìm một trong những Elder liên kết với lửa, Maui hay Vulcan hoặc ngay cả nữ thần báo ứng cũ của anh và bản thân ông Prometheus. Bây giờ tôi hy vọng điều đó không còn cần thiết nữa.” Ông dừng một chút để thở. “Anh có nghĩ anh có thể dạy cho Sophie pháp thuật Lửa không?”
Saint – Germain chớp mắt ngạc nhiên. Ông ta khoanh hai tay trước ngực và nhìn đứa con gái sang nhà giả kim và bắt đầu lắc đầu. “Con không chắc là con có thể. Thậm chí không biết con có nên….”
Joan giơ tay ra và đặt bàn tay phải của mình lên lưng cánh tay chồng. Ông ta quay lại nhìn cô và cô gật đầu, gần như không thể nhìn thấy. Đôi môi cô không hề cử động, song mọi nghe cô nói rất rõ, “Francis, anh phải làm việc này.”
Ông bá tước không chần chừ. “Anh sẽ làm…nhưng như vậy có khôn ngoan không?”ông ta hỏi, nghiêm túc.
“Cần thiết” cô nói giản dị
“Sẽ có nhiều thứ cô ấy phải nắm được….” Ông cúi người về Sophie. “Tha thứ cho tôi. Tôi không có ý nói về cô như thể cô không có mặt ở đây.” Ông ta nhìn lại Nicholas và nói thêm một cách nghi ngờ, “Sophie vẫn còn phải xử lí kí ức của bà phù thủy.”
“Hết rồi. tôi thừa nhận điều đó.” Joan siết chặt cánh tay chồng. Cô quay đầu nhìn từng người quanh bàn cuối cùng dừng lại nơi Sophie. “Trong khi Sophie ngủ, tôi đã nói với cô ấy, giúp cô ấy sắp xếp lại kí ức, phân loại chúng, chia tách tư tưởng riêng của cô khỏi tư tưởng riêng của bà phù thủy. Tôi nghĩ từ nay chúng sẽ không gây rắc rối nhiều cho cô nữa.”
Sophie bang hoàng. “Chị vào trong đầu em khi em đang ngủ?”
Joan nhè nhẹ lắc đầu. “Tôi không xâm nhập vào trí cô…Chỉ đơn giản là tôi nói chuyện với cô, hướng dẫn cô làm cái gì và làm như thế nào thôi.”
“Tôi nhìn thấy chị nói chuyện..” Josh cất lời, và rồi cau mày. “Nhưng Sophie có vẽ như đang ngủ. Chị ấy không thể nghe chị.”
“Cô ấy có nghe tôi đó,” Joan nói. Cô ta nhìn thẳng vào Sophie và đặt tay trái mình bệt xuống bàn. Một màn sương bạc mờ nổ lốp bốp trên những ngón tay cô, những vệt sáng lốm đốm nhỏ xíu nhảy múa trên da thịt cô nhảy vụt ra, như những giọt thủy ngân, băng ngang qua mặt bàn tiến về phía đôi bàn tay cô gái đang đặt trên mặt gỗ đánh vec-ni. Khi chúng đén gần, những ngón ta của Sophie sáng rực một lớp bạc ngầm, và rôi bât thình lình, những điểm sáng bao quanh ngón ta cô.
“Em có thể làm chị em sinh đôi với Josh, nhưng chúng ta là chị em, tôi và em. Chúng ta là Bạc. Tôi bíêt cảm giác thế nào khi nghe giọng nói ở trong đầu mình; tôi biết cảm giác thế nào khi tháy những điều không nên thấy, biết được những gì không nên biết.”Đầu tiên Joan nhìn vào Josh và rồi đến nhà giả kim. “Trong khi Sophie ngủ, tôi nói trực tiếp với tiềm thức của cô ấy. Tôi dạy cô ấy làm thế nào để kiểm soát được ký ức của bà phù thủy, làm thế nào bỏ qua những tiếng nói, đóng lại các hình ảnh. Tôi dạy cô ấy bảo vệ chính mình.”
Sophie ngẩng đầu lên, đôi mắt mở lớn đầy ngạc nhiên. “Khác nhau bíêt chừng nào!” cô nói, cả bang hoàng lẫn kinh ngạc. “Tôi không còn nghe những tiếng nói nữa.” Cô nhìn cậu em trai sinh đôi của mình. “chúng bắt đầu khi bà phù thủy rót kiến thức vào chị. Có đén hàng ngàn tiếng la hét, rù rì bằng những ngôn ngữ gần như chị không hiểu gì hết. Bây giờ là sự yên tĩnh.”
“Chúng vẫn còn đó”, Joan giải thích. “Chúng sẽ luôn luôn ở đó. Nhưng từ bây giờ em có thể gợi lại chúng khi em cần, để sử dụng những kiến thức đó. Tôi cũng bắt đầu qua trình dạy em làm sao kiểm soát được luồng điện của mình.”
“Nhưng làm sao chị có thể dạy trong lúc chị ấy ngủ?” Josh nhấn mạnh. Thậm chí cậu thấy ý tưởng này lộn xộn không thể tin được.
“Chỉ có ý thức ngủ thôi – còn tiềm thức luôn luôn thức.”
“Ý chị là sao, kiểm soát luồng điện của em?” sophie bối rối hỏi. “Em nghĩ nó chỉ là điện trường ánh bạc bao quanh người mình thôi.”
Joan nhún vai, một cử động tinh tế của đôi vai cô. “Luồng điện của em là năng lượng giống trí tưởng tượng của em. Em có thể định dạng nó, pha trộn nó,ạo hình nó theo ý em.” Cô buông bàn tay trái ra. “Đó là một cách tôi có thể làm.” Một chếc găng tay kim loại từ bộ giáp kêu lách cách thành một thực vật tồn tại bao quanh da thịt cô. Mỗi cái đinh tán được hình thành một cách hoàn hảo, và lưng những ngón tay còn lấm tấm bụi. “Thử đi,” cô ta đề nghị.
Sophie mở bàn tay ra và nhìn vào nó một cách cứng cỏi.
“Hãy hình dung ra chiếc găng tay,”Joan gợi ý. “Hãy nhìn thấy nó trong trí tưởng tượng của em.”
Một cái đê bằng bạc nhỏ xíu xuất hiện trên ngón tay út của cô, rồi nhấp nháy tan biến mất.
“Nào, tập lại một chút nữa, có thể được đó,” Joan thừa nhận. Cô liếc xéo Saint – Germain và rồi nhìn thẳng vào nhà giả kim. “Hãy để tôi làm việc với Sophie một hai gìơ, dạy con bé một chút về việc kiểm soát và định hình luồng điện của nó, trước khi Francis bắt đầu dạy nó Pháp thuật Lửa.”
“pháp thuật Lửa này. Nó có nguy hiểm không ạ?” Josh vừa hỏi gặng, vừa nhìn khắp phòng. Cậu vẫn còn nhớ như in nhũng gì đã xảy ra với chị gái cậu khi Hekate đánh thức cô – cô như là chết rồi. Và còn hơn vậy nữa khi cô học với bà phù thủy Endor, cậu nhận ra rằng Sophie cũng gần như chết khi học phép thuật không khí. Khi không ai trả lời, cậu quay sang Saint – Germain. “Có nguy hiểm không ạ?”
“Có” nhà soạn nhạc trả lời đơn giản. “Rất nguy hiểm.”
Josh lắc đầu. “Vậy thì tôi không muốn-”
Sophie đưa tay siết cánh tay cậu em trai. Cậu nhìn xuống: bàn tay cầm chặt cánh tay cậu được bọc trong một chiếc găng tay làm bằng vòng kim lọai xâu vào nhau. “Josh, chị phải học.”
“Không, chị không được.”
“Chị học.”
Josh nhìn vào khuôn mặt chị gái. Nó mang một chiếc mặt nạ ngu ngốc mà cậu biết qua rõ. Cuối cùng, cậu quay đi, không nói gì. Cậu không muốn chị cậu học thêm bất cứ phép thuật gì nữa – không chỉ nguy hiểm…mà nó cũng làm khoảng cách giữa chị ấy ngày càng xa cậu hơn nữa.
Joan quay sang Flamel. “Và bây giờ, Nicholas, ông phải đi nghỉ thôi.”
Nhà giả kim gật đầu. “Tôi sẽ đi đây.”
“Chúng tôi mong ông trở lại sau một thời gian dài,” Scathach nói. “tôi đang nghĩ tôi phải ra ngoài tìm ông.”
“Cánh bướm dẫn tôi đến đây mấy tiếng trước,” Nicholas mệt mỏi nói, tiếng noí bị nghẹn lại vì kiệt sức. “Một khi tôi biết các bạn ở đâu rồi, tôi muốn chờ cho đến khi màn đêm buông xuống mới lại gần ngôi nhà, phòng khi nó bị giám sát kỹ.”
“Machiavelli còn không biết ngôi nhà này còn tồn tại.” Saint – Germain nói một cách tự tin.
“Perenelle đã dạy tôi một câu thành chú tang hình lâu lắm rồi, nhưng nó chỉ hoạt động được trong mưa thôi – nó dùng những hạt nước mưa để khúc xạ ánh sáng quanh người sử dụng,” Flamel giải thích. “Tôi quyết định chờ đến khi sẫm tối để tang cơ hội giữ cho tôi cơ hội không bị trông thấy.’
“Chú đã làm gì cả ngày nay ạ?” Sophie hỏi
“Chú đi lang thang quanh thành phố, tìm kiếm một vài nơi ngày xưa chú thường lui tới.”
“Chắc hầu hết là không còn?” joan nói
“Hầu hết thôi không phải là tất cả.”Flamel cúi xuống nhấc lên một vật gói trong một tờ giấy báo đang nằm trên sàn nhà. Nó phát ra một tiếng mạnh và cứng khi ông thả nó trên bàn. “Căn nhà ở Montmorency vẫn còn ở đó.”
“Đáng lẽ tôi nên đoán ra là ông đến thăm Montmorency,” Scathach nói với một nụ cười buồn. Cô nhìn cặp sinh đôi và giải thích, “Đó là căn nhà mà Nicholas và Perenelle đã sống hồi thế kỉ mười lăm. Họ đã có những thời gian hạnh phúc ở đó.”
“Rất hạnh phúc” Flamel đồng ý.
“Và nó vẫn còn ở đó?” Sophie hỏi, kinh ngạc.
“Một trong những căn nhà cổ nhất ở Paris,”Flamel tự hào nói.
“Rồi thầy làm gì khác nữa ạ?” Saint – Germain hỏi.
Nicholas nhún vai. “Tham quan Musee de Cluny. Không phải ngày nào bạn cũng có thể xem mộ của chính mình. Tôi thấy thật an ủi khi biết rằng người ta vẫn còn nhớ tôi- tôi thật kia.”
Joan mỉm cười. “Có một con đường được đặt tên ông, Nicholas: Rue Flamel. Và một con đường cũng được đặt tên để tỏ lòng trọng với Perenelle. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, tôi không nghĩ đó là lý do thật sự khiến ông đi thăm viện bảo tang, phải không nào?”
Nhà Giả kim mỉm cười. “Đúng, không phải chỉ lý do đó,” ông thừa nhận. Ông thò tay vào túi áo khoác và kéo một cái ống hinh trụ hẹp. Mọi nười quanh bàn đều chồm tới. Ngay cả Scatty cũng bước vào để nhìn. Vặn mở hai đầu, Flamel lấy ra và cuộn mở ra một khúc giấy da nén kêu sột soạt. “Gần sáu trăm năm trước, tôi đã giấu vật này trong ngôi mộ của tôi, thoáng nghĩ rằng không biết đến bao giờ tôi mới cần dùng đến nó.” Ông trải traỉ tấm da nén vàng dày cộp lên bàn. Được vẽ bằng mực đỏ đã phai thành màu gỉ sét là một hình bầu dục với một vòng tròn bên trong nó, bao quanh bởi ba đường hình thành nên một tam giác thô ráp.
Josh cúi người. “Trước đây cháu đã từng thấy cái gì giống vậy.” Cậu cau mày. “Không có cái gì giống vậy trên tờ đô la sao?”
“Nó gống cái gì cũng mặc,” Flamel nói. “Nó được vẽ theo cách này để che giấu ý nghĩa thật của nó.”
“Cái gì vậy chứ?” josh hỏi
“Đó là tấm bản đồ,” Sophie nói đột ngột
“Đúng, tấm bản đồ,” Nicholas đồng ý. “Nhưng sao cháu biết? Bà phù thủy chưa thấy cái này bao giờ…”
“Không, không có gì liên quan tới bà phù thủy trong chuyện này cả,” Sophie mỉm cười. Cô chồm người qua bàn, đầu cô chạm nhẹ vào đầu em trai. Cô chỉ tay vào gốc bên cùng bên phải của tấm da nén, nơi có một hình chữ thập nhỏ xíu gần như không thể nhìn thấy được khắc bằng mực đỏ. “Cái này rõ ràng trong giống chữ B,” cô vừa nói , vừa chỉ tay vào đỉnh chữ thập, “và cái này là một chữ N.”
“Bắc và nam.” Josh gật đầu đòng ý ngay. “Thiên tài, Soph!” Cậu nhìn Nicholas đây là tấm bản đồ.”
Nhà giả kim gật đầu. “Giỏi lắm. Đây là tấm bản đồ chỉ tất cả những tuyến cổng ở Châu Âu. Các thị trấn và thành phố, những đường biên giới thậm chí thay đổi không còn nhận ra nữa, nhưng những đường tuyến vẫn giữ nguyên xi.” Ông giơ tấm da hình vuông lên. “Đây là hộ chiếu của chúng ta để rời khỏi châu Âu trở về Mỹ.”
“Hy vọng chúng ta có cơ hội dùng đến nó,”Scatty nói làu bàu.
Dạ Phong
09-01-2011, 04:12 PM
Josh chạm vào cạnh của bó gì đó gói trong giấy báo nằm giữa bàn. “Còn đây là cái gì ạ?”
Nicholas cuộn tấm da nén cho lại vào ống và đút gọn vào túi áo khoác của mình. Rồi ông bắt đầu mở từng lớp báo ra khỏi cái vật để trên bàn. “Tôi và Perenelle đã ở Tây Ban Nha hồi gần cuối thế kỷ mười bốn, lúc người đàn ông một tay tiết lộ bí mật thứ nhất của cuốn Codex,” ông nói, không nhắm riêng vào một người nào, giọng Pháp cảu ông nghe rõ hẳn.
“Bí mật thứ nhất?” Josh hỏi.
“Cháu đã nhìn thấy cuốn sách rồi đó – nó biến đổi…nhưng biến đổi theo một chuỗi toán nghêm ngặt. Không phải ngẫu nhiên. Những biến đổi này nối kết với các chuyển động của các vì sao và hành tinh, những gian đoạn của mặt trăng.”
“Như một cuốn lịch vậy?” Josh nói
Flamel gật đầu. “Đúng là như một cuốn lịch. Chúng tôi đã từng học về chuỗi mã này, nên biết được rằng cuối cùng mình có thể trở lại Paris. Đã hẳn chúng tôi sẽ dành cả đời – cả mấy đời ấy chứ - để diễn dịch cuốn sách, nhưng ít ra chúng tôi phải biết bắt đầu từ đâu. Vì vậy tôi biến vài viên đá thành kim cương, và biến vài lát đá phiến sét phẳng phiu thành vàng, và rồi chúng tôi gom vốn liếng bắt đầu tiến hành cuộc hành trình dài trở về Paris. Từ lúc đó, tất nhiên, chúng tôi rơi vào sự chú ý của các Elder Đen tối, và Bacon, tên tiền bối đáng kim tởm của Dee, cứ áp sát dần. Thay vì đi thẳng vào nước Pháp, chúng tôi đành chọn con đường vắng vẻ và tránh những ngọn đèo xuyên qua núi, nơi chúng tôi biết là thường dễ bị quan sát. Tuy nhiên, năm đó mùa đông đến sớm – tôi ngờ rằng các Elder Đen tối đã làm cái gì đó – và chúng tôi thấy mình bị cùng đường ở Andorra. Và đó là nơi tôi tìm thấy cái này…” ông chạm vào vật nằm trên bàn.
Josh nhìn chị gái cậu, chân mày nhướng lên thay một câu hỏi thầm. Andorra? Cậu nói to lên; cô giỏi mô địa lý hơn cậu.
“Một trong những quốc gia nhỏ nhất thế giới,” cô thì thào giải thích, “ở trong rặng Pyrenees và nằm giữa Tây Ban Nha và Pháp.”
Flamel mở thêm một lớp giấy báo ra. “Trước khi tôi ‘chết’, tôi giấu vật này bên trong đá trên rầm đỡ cữa sổ của ngôi nhà trên đường de Montmorency. Tôi không bao giờ nghĩ tôi lại cần đến nó.”
“Bên trong?” Josh hỏi, đầy bối rối. “Chú vừa nói là chú giấu nó bên trong?”
“Bên trong. Chú đã biến đổi cấu trúc phân tử của đá granite, nhét vật này vào trong tảng đá rồi biến nó lại thành thanh dầm đỡ cứng y như tình trạng nguyên thủy. Một sự chuyển hóa: như nhấn quả hạnh đào vào cây kem vậy.” Tờ báo trong cũng bị rách toạc khi ông kéo vậy đó ra.
“Đó là thanh kiếm,” Josh vừa sợ hãi lào thào, vừa nhìn vào thứ vũ khí nhỏ hẹp lẩn khuất trên chiếc bàn phủ đầy giấy báo. Cậu phỏng chừng nó dài khoảng năm sáu tấc, phần chuôi kiếm hình chữ thập đơn giản bọc trong những mảnh da sẫm màu đã hoen ố. “Một cây kiếm đá,” cậu cau mày thốt lên. Nó nhắc cậu nhớ đến một thứ - hầu như cậu đã từng thấy nó trước đây rồi.
Nhưng thậm chí khi cậu còn đang nói, Joan và Saint – Germain đã lui ra khoỉ bàn, chiếc ghế của cô đổ nhào khi cô lật đật tránh xa lưỡi kếm. Sau lưng Flamel, Scathach rít lên như con mèo, hàm rang ma cà rồng lộ ra khi cô há hốc miệng, và khi cô nói, tiếng run run, giọng khản đặc và man rợ. Âm thanh cô phát ra gần như giận giữ hay đúng hơn là…sợ hãi. “Nicholas,” cô nói rất chậm, “ông định làm gì với cái thứ đồ bất nhân này?”
Nhà giả kim không đã dộng gì đến cô. Ông nhìn Josh và Sophie, vẫn đang ngồi yên nơi bàn, bang hoàng không nhúc nhích gì trước phản ứng của như những người khác, hai đứa không rõ chuyện gì đang xảy ra. “Có bốn thanh kiếm năng lượng,” Flamel nói vội, “mỗi cái kết nối với một trong các yếu tố: Đất, Không khí, Lữa và Nước. Người ta nói chúng xuất hiện trước cả các giống loài Elder cổ xưa nhất. Những thanh kiếm này qua nhiều thời đại đã mang nhiều cái tên: Excalibur và Joyeuse, Mistelteinn và Curtana, Durendal và Tyrfing.
Lần cuối cùng người ta sử dụng một thanh kiếm làm vũ khí trong thế giới loài người khi Charlemagne, Đế quốc La Mã Thần thánh, mang thanh Joyeuse vào chiến trận.”
“Đây là thanh kiếm Joyeuse?” Josh thì thầm. Chị gái cậu giỏi về địa lý, nhưng cậu biết nhiều về lịch sử, và Charlemagne luôn mê hoặc cậu.
Tiếng cười lớn của Scathach như một tiếng gầm đầy cay đắng. “Joyeuse có nghĩa là một vật xinh đẹp. Còn cái này….cái này là một thứ đáng ghê tởm.”
Flamel cầm chuôi kiếm và những tinh thể pha lê tí xíu trong đá lấp lánh dưới ánh đèn màu xanh lá. “Đây không phải là thanh kiếm Joyeuse, dù sự thật có lần nó thuộc về Charlemagne. Tôi cũng tin rằng bản than hoàng đế đã giấu lưỡi kiếm này ở Andorra vapf một lúc nào đó trpng thế kỷ thứ chin.”
“Nó cũng giống như thanh Excalibur,” Josh nói, chợt nhận ra tại sao thanh kiếm đá này lại trong quen đến dữ vậy. Cậu nhìn chị gái. “Dee và Excalibur; hắn đã dùng nó để phá hủy câu thế giới.”
“Excalibur là Thanh kiếm Băng Hà,” Flamel nói tiếp. “Còn đây là lưỡi kiếm song sinh của nó: Clarent, Thanh kiếm Hỏa Công. Vũ khí duy nhất có thể chống lại Ecalibur.”
“Nó là lưỡi kiếm đáng nguyền rủa,” Scathach nói dứt khoát. “Tôi sẽ không chạm vào nó.”
“Tôi cũng không”, Joan nói ngay, và Saint – Germain gật tán thành.
“Tôi không yêu cầu ai trong các bạn mang nó hay sử dụng nó,”Nicholas đốp chat. Ông xoay vũ khí trên bàn cho tới khi chuôi kiếm vào những ngón tay của cậu con trai và ông nhìn lần lượt từng người một. “Chúng ta biết Dee và Machiavelle đang đến gần. Josh là người duy nhất trong chúng ta không có khả năng tự vệ. Từ nay cho tới khi năng lượng của cậu ấy được đánh thức, cậu ấy cần có một thứ vũ khí. Tôi muốn cậu ấy giữ thanh Clarent.”
“Nicholas,”Scathach kinh hoảng la lên. “Ông đang nghĩ gì vậy. Cậu ấy là một con người chưa hề qua huấn luyện - ”.
“- với một luồng điện vàng thuần khiết,” Flamel lạnh lùng nói. “Và tôi kiên quyết giữ cậu ấy an toàn.” Ông đẩy thanh kiếm vào những ngón tay Josh. “Cái này của cháu. Cầm lấy đi.
Josh chồm tới trước và cảm thấy hai trang giấy của cuốn Codex nằm trong cái túi vải cưng cứng chạm vào da mình. Đây là món quà thứ hai mà nhà giả kim tặng cậu sau ngần ấy ngày. Về phần mình, cậu muốn thừa nhận những món quà theo giá trị bề ngoài của chúng – để tin cậy ông ấy và tin tưởng rằng đổi lại Flamel cũng yêu thích cậu và tin cậy cậu.
Song, song le… ngay cả cuộc nói chuyện giữa họ trên đường, đâu đó sâu tận trong tâm trí cậu, Josh không thể nào quên những gì Dee đã nói bên đài phun nước ở Ojai: một nữa những gì mà Flamel nói là dối trá, và nữa còn lại cũng không hoàn toàn là sự thật. Cậu cố tình quay đi khỏi thanh kiếm và nhìn vào đôi mắt nhạt màu của Flamel. Nhà giả kim đang nhìn cậu chằm chằm, khuôn mặt ông như chiếc mặt nạ ngây ra. Vậy thì Nhà giả kim có nhiệm vụ gì? Josh tự hỏi. Ông đang chơi trò gì?Nhiều lời của Dee bật lên trên đầu cậu hơn nữa: “Giờ đây thì ông ta, như ông ta luôn là, một kẻ nói dối, một tay lòe bịp, và một tên lừa đảo.”
“Cậu không muốn nó sao?” Nicholas hỏi. “Cầm lấy đi” Ông đẩy chuôi kiếm vào rãnh tay cháu.
Hầu như chống lại ý muốn của cậu, những ngón tay Josh khép lại trên cái bọc da mướt rượt của thanh kiếm đá. Cậu nhấc nó lên – dù nó ngắn, nhưng có sức nặng đáng kinh ngạc – và quay nó trên đôi tay mình. “Cháu chưa bao giờ điều khiển kiếm trong dời,” cậu nói. “Cháu không biết cách…”
“Scathach sẽ chỉ cháu vài điều căn bản,” Flamel nói mà không nhìn bóng tối, nhưng chuyển câu đơn giản này thành một mệnh lệnh. “Làm sao để mang nó, đâm thọc và gạt đỡ. Tập thử và tránh để nó đâm vào người,” ông nói thêm.
Josh nhận ra rằng cậu đang cười tơ và cố xóa đi nụ cười đó, nhưng thật khó: thanh kiếm cảm thấy kinh ngạc khi ở trong tay cậu. Cậu cử động cổ tay và thanh kiếm giật giật. Rồi cậu nhìn Scatty, Francis và Joan và cậu thây mắt họ dán chặt vào thanh kiếm, theo sát từng chuyển động của nó, và nụ cười của cậu nhạt đi. “Có cái gì đó không ổn ở thanh kiếm ạ?” cậu gặng hỏi. “Tại sao mọi người sợ nó đến vậy?”
Sophie đặt tay mình lên cánh tay em trai, đôi mắt cô lấp loáng ánh bạc với kiến thức của bà phù thuỷ. “Clarent,” cô nói, “là một tai họa, một vũ khí bị nguyền rủa, thỉnh thoảng còn bị gọi là lưỡi kiếm hèn nhát. Đây là thanh kiếm Mordred dùng để giết cậu mình, Vua Arthur.”
Dạ Phong
10-01-2011, 10:08 AM
Chương 23
Tong phòng ngủ của mình ở tầng cao nhất của ngôi nhà, Sophie thụp vào bậu cửa sổ và nhìn xuống Champs – Elysee. Con đường rộng và có những hàng cây xanh kẻ viền ướt đẫm nước mưa và tỏa sáng bằng những ngọn đèn màu hổ phách, đỏ và trắng phản chiếu từ những chiếc xe hơi và xe buýt. Cô nhìn lại chiếc đồng hồ đeo tay của mình: bây giờ là gần hai giờ sáng ngày chủ nhật, song xe cộ vẫn nườm nượp. Bất cứ lúc nào sau nữa đêm, những con đường ở San Francisco đều vắng vẻ.
Sự kác biệt này nhấn mạnh rằng cô đang ở cách nhà bao xa.
Khi còn nhỏ, cô đã đi qua một giai đoạn cho rằng mọi thứ về mình đều nhàm chán. Cô ý thức phải cố gắng để kiểu cọ hơn – như Elly bạn cô, thay màu tóc hàng tuần và có một tủ quần áo đầy những kiểu dáng mới lạ nhất. Sophie đã sưu tập mọi thứ cô có thể tìm thấy về những thành phố kỳ lạ ở châu Âu nơi tạo ra thời trang và nghệ thuật mà cô đọc được trong các tạp chí: London và Paris, Rome, Milan, Berlin. Cô quyết định mình sẽ không chạy thao thời trang; cô sẽ tạo ra nét riêng cho mình. Gian đoạn đó kéo dài khoảng một tháng. Thời trang là một chuyện tốn kém, còn khoản tiền cha mẹ cấp phát cho cô và cậu em trai lại giới hạn chặt chẽ.
Dù vậy, cô vẫn mong muốn đến thăm những thành phố lớn trên thế giới. Cô và Josh đã bắt đầu bàn đến việc nghĩ hẳn một năm trước khi vào đại học hay cao đẳng để đi du lịch ba-lô vòng quanh châu Âu. Và giờ này tại đây khi đang ở một trong những thành phố xinh đẹp nhất trái đất, và cô hoàn toàn không có chút hứng thú nào để đi khám phá nó. Chỉ có một việc duy nhất cô muốn làm ngay bây giờ là trở về San Francisco.
Nhưng cô trở lại để làm gì?
ý tưởng này chặn đứng ngay cơn lạnh của cô.
Dù gia đình phải chuyển nhà rất nhiều, và đi lại thì còn nhiều hơn, nhưng hai ngày trước, cô vẫn biết mình mông đợi chuyện gì trong những tháng tới. Chương trình tính đến cuối năm được vạch ra với những chi tiết chán phèo. Mùa thu, cha mẹ nhận lại chân giảng ở trường đại học ở San Francisco, và cả hai sẽ quay lại trường. Tháng mười hai, cả nhà sẽ đi du lịch theo định kỳ hằng năm đến Providence, Rhode Island, nơi ba đã trình bày bài thuyết trình Giáng sinh ở đại học Brown trong hai thập kỷ qua. Ngày hai mươi mốt tháng mười hai, sinh nhật hai chị em, cặp sinh đôi sẽ được đi New York để xem các cửa tiệm, ngắm đèn, nhìn cây cối ở Trung tâm Rockefeller rồi đi trượt băng. Họ sẽ ăn trưa ở Stage Door Deli: cosups matzo (bánh mì không lên men) viên và bánh sandwich thì to bằng cái đầu người ta lận, ở giữa kẹp một lát bánh bí đỏ mỏng. Đêm trước Giáng sinh, họ sẽ hướng thẳng ra nhà gì Christine ở Montauk trên Long Island, sẽ ở lại đó hết kỳ nghỉ rồi đón năm mới. Đó là truyền thống của gia đình trong suốt mười năm qua.
Còn bây giờ?
Sophie hít một hơi thật sâu. Bây giờ cô sỡ hữu những năng lượng mà những khả năng mà hầu như cô không hiểu cái gì cả. Cô có một ký ức hầu như là một mớ pha trộn giữa sự thật với thần thoại hoang đường và kỳ quặc; cô biết những bí mật mà có thể viết lại thành một cuốn sách lịch sử. Nhưng cô đã ước ao, hơn bất cú điều gì khác, là có cách nào đó cho cô quay ngược lại thời gian, quay trở về tới buổi sáng ngày thứ năm…trước tất cả những gì đã xảy ra. Trước khi thế giới biến đổi.
Sophie tỳ người vào mặt cửa kính mát lạnh. Chuyện gì sắp xảy ra? Cô sắp phải làm gì.. không phải ngay bây giờ, nhưng trong những năm tới? Em trai cô không có một định hướng nghề nghiệp nào cố định trong đầu; mỗi năm cậu thông báo một thứ khác – cậu sẽ là một nhà thiết kế trò chơi cho máy tính hay một lập trình viên, một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp, một nhân viên phụ giúp về y tế hay là một anh lính cứu hỏa – nhưng cô lại luôn biết mình sẽ làm gì. Từ hồi cô giáo cấp một hỏi cô câu hỏi – “Mai sau khi lớn lên em sẽ làm gì, Sophie?” – cô đã biết câu trả lời.Cô muốn học khảo cổ học và cổ sinh vật học giống cha mẹ cô, đi chu du khắp thế giới và liệt kê lại quá khứ, có thể làm vài cuộc khám phá giúp đặt lịch sử vào trật tự. Nhưng chuyện đó không bao giờ xảy ra nữa. Đêm trước, cô cho rằng việc nghiên cứu khảo cổ học, lịch sử, địa lý và khoa học được cho là vô ích… hoặc nếu không vô ích, thì cũng là saio lầm hoàn toàn.
Một dòng cảm xúc đột ngột làm cô sửng sốt, cô cảm thấy nóng ran ở đằng sau cổ họng và cảm thấy những giọt nước mắt lăn dài trên má. Cô ép cả hai lòng bàn tay lên mặt và quyệt nước mắt đi.
“Cốc cốc cốc…”tiếng Josh làm cô giật mình. Sophie quay nhìn cậu em sinh đôi. En trai cô đang đứng nơi cửa, thanh kiếm đá trông tay này, chiếc laptop trong tay kia. “Em vào được không?”
“em không bao giờ hỏi trước.” Cô mỉm cười
Josh bước vào phòng và ngồi rìa chiếc gường đôi. Cậu cẩn thận dùng chân đặt thanh Clarent xuống sàn và để chiếc laptop lên đầu gối. “Quá nhiều thay đổi.”cậu nói êm ả, đôi mắt xanh đầy phiền muộn.
“Chị nghĩ giống vậy,”cô tán thành. “Ít nhất cũng có điều đó là không thay đổi.”Cặp song sinh thường thấy rằng chúng đang có cùng một ý tưởng trong cùng một lúc, và chúng biết rõ nhau đến nỗi thậm chí có thể hoàn chỉnh cacscaau nói của nhau. “Chị chỉ đang ước chúng ta có thể quay ngược thời gian, đến trước lúc mọi chuyện này xảy ra.”
“Tại sao?”
“Có vậy chị không phải thế này…có vậy thì chúng ta mới không khác nhau.”
Josh nhìn vào mặt chị gái và hơi nghiêng đầu. “Chị muons từ bỏ nó hả?” cậu hỏi rất dịu dàng. “Năng lượng, kiến thức.’
“Trong tích tắc,”cô nói ngay. “Chị không thích những gì đang xảy đến với chị. Chị không bao giờ muốn nó xảy ra.” Tiếng cô vỡ ra, nhưng cô nói tiếp. “Chị muốn là người bình thường, Josh. Chị muốn lại được làm người. Chị muốn giống em.”
Josh nhìn xuống. Cậu mở laptop và tập trung việc cấp nguồn cho nó.
“Nhưng em thì không như vậy, phải không?” cô nói chầm chậm, giải thích cho thời gian im lặng dài sau đó. “Em muốn năng lượng, em muốn có thể định hình luồng điện của em và kiển soát các yếu tố, phải không?”
Josh ngập ngừng. “Nó cũng… thú vị, em nghĩ vậy,” cuối cùng câu vừa nói vừa nhìn chằm chặp vào màn hình. Khi cậu nhìn lên, đôi mắt phản chiếu hình màn hình đang log – on. “Đúng, em muốn có thể làm được như vậy,”cậu thừa nhận.
Sophie há miệng định bật ra một câu trả lời, để bảo cậu rằng cậu không biết cậu đang nói gì, để bảo cậu rằng cô cảm thấy buồn nôn như thế nào, sợ hãi như thế nào. Nhưng cô tự chặn mình lại; cô không muốn tranh luận, và từ đây cho tới khi Josh tự mình trải nghiệm, cậu sẽ không bao giờ hiểu được.
“ở đâu có cái máy tính này vậy?” cô hỏi, đổi chủ đề khi cuối cùng chiếc laptop nổ lách tách.
“Francis cho em,”Josh nói. “Chị không có ở đó khi Dee phá hủy Yggdrasill. Hắn đâm cái cây đó bằng thanh Excalibur và nó hóa thành nước đá rồi vỡ tan như thủy tinh. Cái ví của em, điện thoại di động, iPod và laptop đều ở trong cây,” cậu rầu rĩ nói. “Em mất hết mọi thứ. Bao gồm hết thảy những hình chụp của mình.”
“Và ông bá tước cho em một cái laptop ngay?”
Josh gật đầu. “Ông ấy cho em, cứ nằng nặc đòi em phải lấy. Ắt hẳn hôm nay là ngày nhận quà của em.” Ánh sáng yếu ớt từ màn hình máy vi tính chiếu vào gương mặt cậu từ dưới lên, làm đầu cậu có vẻ hơi ghê ghê. “Ông ấy chuyển qua xài Mac; chúng có phần mềm âm nhạc tốt hơn, hình như vậy, và ông ấy không sài PC nữa. ông ấy tìm thấy cái này chất đống dưới một cái bàn ở trên lầu,” cậu nói tiếp đôi mắt vẫn dính chặt vào màn hình nhỏ.
Cậu liếc nhanh qua chị gái. “Thiệt đó,” cậu nói, nhận thấy sự im lặng của cô như nghi ngờ.
Sophie nhìn đi chỗ khác. Cô biết cậu em trai nói thật, và điều đó không có liên quan gì đến kiến thức của bà phù thủy. Cô luôn biết khi nào Josh nói dối, mặc dù, thật kỳ lạ, là cậu không bao giờ biết khi nào cô nói dối cậu..dầu sao cô cũng không thường làm như vậy lắm, mà chỉ khi nào điều đó tốt cho cậu. “Vậy bây giờ em làm gì?” cô hỏi.
“Kiểm tra e-mail của em.” Cậu cười toe. “cuộc sống cứ trôi đi ….” Cậu mở lời.
“…e-mail không chờ đợi ai,”Sophie hoàn tất câu nói với một nụ cười. Đó là một trong những câu nói ưa thích nhất của Josh, và nó thường làm cho cô phát điên.
“Có hàng đống,” cậu lẩm bẩm. “Tám mươi trên Gmail, sáu mươi hai trên yahoo, hai mươi tám trên AOI, ba mươi trên FastMail…”
“Chị không bao giờ hiểu em tại sao em lại cần nhiều tài khoản e-mail đến như vậy,”
Sophie nói. Cô co chân lên ngực, vòng cánh tay quanh ống quyển và dựa đầu lên gối. Cảm thấy thoải mái vì có một cuộc nói chuyện bình thường với cậu em; nó nhắc cô về những thứ được cho là..và từng là cho đến khi chiều thứ năm, chính xác lúc hai giờ mười lăm. Cô nhơ giờ này; khi cô đang nói chuyện với Elle bạn cô ở New York thì cô phát hiện ra chiếc xe hơi dài màu đen đậu sát vào tiệm sách. Cô đã xem giờ ngay trước khi người đàn ông bước ra khỏi xe, người đó bây giờ đã biến thành tiến sĩ John Dee.
Josh nhìn lên. “Chúng ta có hai e-mail của mẹ, một của ba.”
“Đọc chị nghe đi. Bắt đầu từ cái cũ nhất.”
“Ok. Mẹ gởi một cái hôn thứ sáu, ngày mồng một. Mong cả hai con ăn ở cho phải phép. Bà Fleming thế nào?Đã khỏe hẳn chưa?”Josh nhìn lên cau mày, bối rối.
Sophie thở dài. “Nhớ không? Chúng ta nói với mẹ rằng cửa tiệm đóng vì Perenelle cảm thấy không khỏe.” Cô lắc đầu. “Cố lên và tiếp tục như vậy!”
“Có chút vấn đề,’ Josh nhắc chị gái. “Em không nhớ mọi thứ. Vả lại, đó là việc của chị mà.”
“Thì chúng ta nói là Nicholas và Perenelle mời chúng ta dành thêm một chút thời gian ở lại chơi nhà họ trong sa mạc.”
“Vậy là.” Josh nhìn chị gái, những ngón tay lơ lửng trên phím. “Em sẽ nói gì với mẹ đây?”
“Nói với mẹ mọi chuyện đã ổn rồi và Perenelle đang cảm thấy khỏe ra nhiều. Dù sao cũng phải nhớ gọi họ là Nick và Perry,” cô nhắc chừng.
“Cám ơn,”cậu nói, đánh vào phimd Backspace, thay Perenelle bằng Perry. Khi gõ, những ngón tay cậu nhảy ngắt quảng trên bàn phím. “Ok, một e- mail nữa,” cậu nói tiếp. “Cũng của mẹ, đề ngày hôm nay. ‘Cố điện thoại cho con, nhưng cuộc gọi đi thẳng vào hộp thư thoại của con. Mọi thứ ổn không? Gọi cho gì Agnes đi. Dì ấy nói các con không về nhà lấy quần áo hay xà bông, bàn chải gì hết. Cho mẹ số nào mẹ có thể gọi cho con. Ba mẹ đang lo.’” Josh nhìn chị.“Vậy mình nói với mẹ cái gì bây giờ?”
Sophie nhai nhai vào môi dưới, nói lớn nhưng gì đang nghĩ. “Mình nên nói với mẹ….” Cô ngập ngừng. “Nói với mẹ là có mấy thứ đó ở tiệm rồi. Mẹ biết mình để quần áo ở đó mà. Đó không phải là nói dối. Chị ghét nói dối mẹ.”
“Viết vậy nhé,” Josh nói, gõ rất nhanh. Cả hai đứa sinh đôi đều cất quần áo của chúng trong ngăn tủ phía sau tiệm sách để thỉnh thoảng buổi chiều tối có đi xen phim hoặc đi dạo xuống Embarcadero.
“Nói với mẹ là mình không có dịch vụ điện thoại tại đây. Chỉ không nói ở đây là ở đâu thôi,” cô nói kèm theo một nụ cười.
Josh không có vẻ bực bội. “Chị muốn nói là mình không có chiếc điện thoại di động nào….”
“Chị vẫn còn cái của chị. Nhưng hết pin rồi. Nói với mẹ mình sẽ gọi ngay khi có tính hiệu.”
Josh tiếp tục gõ. Ngón tay của cậu lơ lửng trên bàn phím Enter. “Vậy được chưa?”
“Gởi đi.”
Cậu đánh vào phím Enter, “Đã gởi đi.”
“Em còn nói có một cái e-mail của ba?” cô hỏi.
“Ba gởi cho em.” Cậu mở e-mail ra, đọc nhanh rồi cười rộng hoác. “Ba gởi một file.jpeg chụp mấy cái rắng cá mập hóa thạch mà ba tìm được. Trông cũng hay hay. Và ba còn lấy được một vài viên sỏi phân để đành cho bộ sưu tập của em.”
“Phân đá hóa.” Sophie vờ lắc đầu kinh tởm. “Phân hóa thạch! Tại sao em không thể sưu tập tem hay tiền đồng như những người bình thường khác? Đúng là kì quái quá sức.”
“Kỳ quái?”Josh nhìn lên, chợt phấn khích. “Kỳ quái! Để em nói cho chị nghe cái gì kỳ quái: chúng đang ở trong cùng một nhà với một con ma cà rồng ăn chay hai ngàn rưỡi tuổi, một nhà giả kim bất tử, một người bất tử khác là nhà soạn nhạc chuyên về Pháp thuật lửa và một nữ anh hung người Pháp lẽ ra đã chết ở đâu đó giữa thế kỷ mười lăm.” Cậu lấy khuỷu tay dứ dứ và thanh kiếm nằm trên sàn kề bên chân cậu. “Và đùng đừng quên thamh kiếm người ta đã dùng để giết vua Anthur.’
Khi đang nói, tiếng Josh cất cao rồi cậu chợt ngưng bặt và rung mình lấy hơi thật sâu, ự điềm tỉnh lại. Cậu bắt đầu cười. “So sánh với tất cả điều đó, em nghĩ sưu tập phân hóa thạch có lẽ là việc itd kỳ quái nhất ở quanh đây!”Nụ cười của cậu bổng chuyển thành nụ cười toe toét và Sophie bật cười, rồi cả hai chị em cùng cười rũ ra. Josh cười đến nỗi cậu bị nấc cụt, và vì vậy càng làm chúng cười dữ hơn, cho đến khi nước mắt chảy xuống má và dạ dày đau quặn đau nhói.
“Thôi, thôi,” Josh rên rĩ. Cậu lại nấc cụt, và cả hai rơi vào tình trạng quá kích động.
Phải sử dụng ý chí khủng khiếp lắm cả hai đứa mới tự kiềm chế được, nhưng đây là lần thứ nhất kể từ khi Sophie được đánh thức, Josh cảm thấy được gần gũi chị mình. Thường thì ngày nào chúng cũng cười; trước khi lao vào công việc hôm sáng thứ năm, lần cuối cùng chúng cười với nhau là khi thấy một người đàn ông ốm nhom mang giày trượt và mặc quần thể dục đang bị một con chó đốm khổng lồ kéo đi thao nó. Tất cả những gì chúng cần làm là tìm những thứ có thể cười được – nhưng thật không may vì chẳng còn nhiều thứ như vậy trong suốt mấy ngày qua.
Sophie thóat khỏi trận cười trước cậu em trai và quay lại cửa sổ. Cô có thể nhìn cậu em trai trong tấm kính và chờ cho đến khi cậu nhìn xuống màn hình rồi mới nói. “Chị ngạc nhiên là em không phản đối thêm nữa khi Nicholas đề nghị Francis huấn luyện Pháp thuật Lửa cho chị” cô nói.
Josh nhướng mắt nhìn vào mặt chị gái phản chiếu trên cửa sổ. “Nếu em phản đối có làm cho mọi thứ khác đi được không?” cậu nghiêm túc nói.
Cô suy nghĩ một chút. “Không. Chị cho là không,” cô thừa nhận.
“Em không nghĩ vậy. Lẽ ra chị vẫn có thể làm cho mọi thứ khác đi.”
Sophie quay người nhìn thẳng vào cậu em sinh đôi. “Chị phải làm. Chị cần phaỉ làm như vậy.”
“Em biết mà,” cậu nói giản dị. “Bây giờ em biết rồi.”
Sophie nhấp nháy máy đầy ngạc nhiên. “Em biết?”
Josh đóng laptop lại và thả nó xuống giường. Rồi cậu cầm thanh kiếm lên và bắc ngang đầu gối, lơ đãng cọ xát vào cái lưỡi kiếm trơn láng. Mặt đá tạo cảm giác âm ấm. “Em rất giận, hoảng sợ - không, hơn cả hoảng sợ - kinh khiếp khi Flamel nhờ Hakate Đánh thức chị. Ông ấy không hề nói với chúng ta về những nguy hiểm. Ông ta không hề nói với chúng ta rằng chị có thể chết đi, hay rơi vào hôn mê. Em sẽ không bao giờ tha thư cho ông ấy về điều đó.”
“Chú ấy gần như chắc chắn rằng sẽ không có gì xảy ra…”
“Gần như chắc chắn không phải là chắc chắn.’
Sophie gật đầu, không tự tin để nói.
“Còn bây giờ Bà Phù thủy Endor chuyển kiến thức của bà cho chị, một lần nữa em lại sợ.
Nhưng không phải sợ cho chị..Em sợ chính chị,”cậu thừa nhận một cách rất dịu dàng.
“Josh, ngay cả điều đó em cũng có thể nói ra được sao?” Sophie bắt đầu, sửng sốt thật sự. “Chị là chị em sinh đôi của em.” Ánh mắt trên gương mặt cậu làm cô im bặt.
“Chị không nhìn thấy được những gì em thấy,” cậu nói nghiêm chỉnh. “Em quan sát thấy chị dũng cảm đương đầu với người đàn bà đầu mèo. Em nhìn thấy môi chị mấp máy, nhưng khi chị nói, những lời phát ra không đồng bộ với môi, và khi chị nhìn em, chị không nhận ra em. Em không biết chị là gì – nhưng chị không phải là người chị sinh đôi của em sau đó nữa. Chị đã bị chiếm hữu mất rồi.”
Sophie chớp mắt và những giọt nước mắt tuôn ào lăn tròn xuống má. Cô chỉ có những ký ức rất nhạt nhòa, còn mơ hồ hơn những mảnh vỡ huyền ảo, mà những gì cậu em trai đang kể.
“Rồi, ở Ojai, em quan sát chị làm ra gió lốc, và hôm nay – hôm qua – em nhìn thấy chị làm sương mù chẳng từ cái gì cả.”
“Chị không biết bằng cách nào mà chị làm được mấy thứ đó,” cô lẩm bẩm.
“Em biết, Soph, em bíêt.” Cậu đứng lên và ngang qua cửa sổ, nhìn ra những mái nhà của Paris. “Bây giờ em hiểu rồi. Em đã suy nghĩ rất nhiều về nó. Năng lượng của chị đã được đánh thức, nhưng chỉ có một cách để từ nay chị có thể kiểm soát được chúng, chỉ có một cách từ nay chị được an toàn,đó là chị phải được huấn luyện. Lúc này chúng là một mối nguy hiểm cho chị cũng như kẻ thù của chúng ta. Hôm nay Joan Arc đã giúp chị, đúng không?”
“Đúng, cô ấy đã giúp rất nhiều. Chị không còn nghe những tiếng nói nữa. Đó là sự giúp đỡ đáng kể. Nhưng cũng không vì một lý do gì khác, phải không?” Sophie hỏi.
Josh lật qua lật lại thanh kiếm trên tay cậu, lưỡi kiếm gần như biến thành màu đen trong đêm tối, những tinh thể pha lê trong đá lấp lánh như những vì sao. “Chúng ta không thể hình dung được chúng ta đang mắc phải loại phiền phức nào,” cậu nói chậm rãi. “Nhưng chunga ta biết chắc rằng chúng ta đang gặp nguy hiểm …nguy hiểm thực sự. Chúng ta mười lăm tuổi rồi – chúng ta không nên nghĩ đến việc bị giết chết..hoặc bị ăn thịt..hoặc những gì tệ hại hơn!” Cậu vẫy vẫy tay áng chừng về hướng cánh cửa ra vào. “Em không tin họ. Chỉ có một người duy nhất em có thể tin là chị …chị thật ấy.”
“Nhưng Josh,” Sophie nói rất khẽ khàng, “Chị lại tin họ. Họ là những người tốt. Scatty đã chiến đấu vì loài người trên hai ngàn năm, và Joan là một người tử tế và cao quý..”
“Và Flamel đã cất giữ cuốn Codex mấy thế kỷ,”Josh bật nói. Cậu sờ cằm mình và Sophie nghe tiếng sột soạt mà hai trang giấy nằm trong cái túi mà Flamel đã giao cho cậu. “Có những công thức trong cuốn sách này có thể làm hành tinh này thành thiên đường, có thể chữa lành mọi bệnh tật.” Cậu ấy có cảm giác nghi ngờ thoáng qua trong đôi mắt chị gái và nhấn mạnh. “Và chị biết đó là sự thật.”
“Ký ức của Bà Phù thủy cũng bảo chị rằng có những công thức trong cuốn sách đó có thể phá hủy thế giới này.”
Josh lắc đầu nhanh. “Em nghĩ chị nhìn thấy những gì họ muốn chị nhìn thấy.”
Sophie chỉ vào thanh kiếm. “Nhưng tại sao Flamel lại cho em thanh kiếm và hai trang của cuốn Codex đó?” Cô hỏi một cách đắc thắng.
“Em nghĩ – em biết – họ đang sử dụng chúng ta.Em chỉ không biết họ sử dụng cho cái gì.
Dù sao bây giờ thì cũng chưa.” Cậu nhìn thấy cô chị sinh đôi của mình lắc đầu. “Dù sao, chúng ta cũng không cần năng lượng của chị mới giữ cho cả hai được an toàn.”
Sophie vươn tay ra siết bàn tay cậu em trai. “Em biết chị không bao giờ để bất cứ cái gì làm en tổn thương.’
“Em biết vậy mà,” Josh nói nghiêm túc. “Ít ra là chị không chủ tâm. Nhưng chuyện gì xảy ra nếu có cái gì đó sử dụng chị, như nó đã làm như Vương quốc Bóng tối?”
Sophie gật đầu. “Hồi đó chị chưa kiểm soát được,” cô thừa nhận. “Giống như chị đang ở trong giấc mơ, quan sát người nào đó giống y như mình.”
“Huấn luận viên bóng đá của em nói rằng trước khi bạn có thể nắm được quyền kiểm soát, bạn phải thực hiện việc kiểm soát. Nếu chị có thể học cách kiểm soát luồng điện của mình và làm chủ các phép thuật,” Josh nói tiếp, “không ai có thể làm điều đó với chị bao giờ nữa. Chị sẽ mạnh mẽ không thể tin được. Và để em nói luôn, ví dụ, năng lượng của em không được Đánh thức. Em có thể học cách sử dụng thanh kiếm này.” Cậu xoắn nó trong tay mình, cố xoay tròn lưỡi kiếm, nhưng nó trượt sang một bên và chém một rảnh sâu vào bức tường. “Ối”
“Josh.”
“Gì cơ? Chị khó lòng để ý thấy điều đó được.” Cậu chà ống tay áo vào vết chém. Sơn và trát vữa trên tường bong ra, để lộ lớp gạch bên dưới.
“Em đang làm cho mọi chuyện tệ thêm. Và chắc là em đã làm hỏng thanh kiếm mất rồi.”
Nhưng khi Josh đưa vũ khí này đưa lên ánh sáng lưỡi kiếm không có đến một dấu vết nhỏ.
Sophie từ từ gật đầu. “Chị vẫn nghĩ – chị biết - em nầm về Flamel và những người khác.”
“Sophie, chị phải tin em.”
“Chị tin em. Nhưng hãy nhớ rằng Bà Phù thủy biết những người này, và bà ấy tin họ.”
“Sophie,” Josh nói trong tâm trạng thất vọng, “chúng ta không biết bất cứ gì về bà phù thủy.”
“Oh, Josh, chị biết mọi thứ về bà âý,” Sophie xúc động nói. Cô gõ nhẹ ngón tay trỏ của cô vào thái dương. “Và chị ước gì đừng như vậy. Cả cuộc đời bà, hàng ngàn năm, nằm ở đây.” Josh há miệng định trả lời, nhưng Sophie giơ cao bàn tay cô. “Đây là những gì chị sẽ làm: chị sẽ làm việc với Saint – Germain, học tất cả những gì ông ấy phải dạy cho chị.”
“Và đồng thời để mắt đến ông ấy; cố tìm ra xem ông ấy và Flamel co nhiệm vụ gì.”
Sophie không để ý lời cậu. “Có lẽ lần tới nếu bị tấn công, chúng ta có thể bảo vệ mình,” cô nhìn ngang qua những mái nhà của Paris. “Ít nhất chúng ta vẫn an toàn ở đây.”
“Nhưng liệu được bao lâu?” cậu em trai sinh đôi của cô bật hỏi.
Dạ Phong
10-01-2011, 04:52 PM
Chương 24
Tiến sĩ John Dee tắt đèn và ra khỏi phòng ngủ rộng mênh mông để bước lên ban công, dựa khuỷu tay trên thanh chắn và nhìn ra khắp thành phố Paris. Trời đã mưa hồi sớm và không khí thì ẩm ướt và lạnh lẻo, bị ô uế bởi mùi chua chua từ dòng sông Seine phảng phất khói thải.
Hắn ghét Paris.
Không phải lúc nào cũng vậy. Đã có lần, đây là thành phố ưa thích nhất của hắn ở châu Âu, tràn ngập những ký ức kỳ diệu và lạ lùng nhất. Cuối cùng, hắn được làm người bất tử tại thành phố này. Trong hầm tối sâu bên dưới ngục Bastille, một pháo đài dùng làm nhà tù, Nữ thần quạ đưa hắn đến gặp Elder đã cho hắn cuộc sống vĩnh hằng và đổi lấy lòng trung thành mù quáng.
Tiến sĩ John Dee đã phục vụ các Elder, làm gián điệp cho họ, đảm đương nhiều nhiệm vụ nguy hiểm qua vô số các Vương quốc bóng tối. Hắn đã chiến đấu chống các quân đội của người chết, đuổi theo những quái vật xuyên khắp các hoang mạc ác liệt, đánh cắp một số vật thần thánh có phép thuật và quý báu nhất đối với cả chục nền văn minh. Và thời hắn trở thành nhà vô địch của các Elder đen tối; không có gì vượt ngoài khả năng của hắn, không nhiệm vụ nào qua khó khăn..ngoại trừ những việc có liên quan đến nhà Flamel Tay pháp sư người Anh đã thất bại, hết lần này đến lần khác, trong việc đuổi bắt Nicholas và Perenelle Flamel, nhiều lần trong thành phố này.
Chỉ còn lại một trong những bí ẩn lớn nhất suốt cuộc đời thăng trầm đằng đẳng của hắn: làm sao nhà Flamel lại lẩn trốn hắn được?” Hắn có sẳn một đội quân gồm loài người, những thứ khác loài người và không phải loài người; hắn có quyền sử dụng chim trên bầu trời; hắn có thể ra lệnh cho chuột, mèo và chó. Hắn tùy ý sử dụng những sinh vật từ những bờ rìa u tốt nhất của huyền thoại. Vậy mà hơn suốt bốn trăm năm nay, nhà Flamel cứ trốn thoát các cuộc vây bắt, đầu tiên là ở đây tại Paris này, rồi xuyên qua châu Âu, và vào châu Mỹ, luôn luôn chỉ cách một bước ngay trước mũi hắn, thường hay rời thành phố nhỏ nào đó chỉ vài giờ trước khi hắn đến. Cứ như thể bọn họ được báo trước. Nhưng việc đó, dĩ nhiên, không thể nào có được. Pháp sư không hề chia sẽ các kế hoạch của hắn cho cho một ai.
Cánh cửa mở ra đóng vào trong căn phòng sau lưng hắn. Cánh mũi Dee nở ra, thoáng nghe mùi rắn ẩm mốc. “Chào buổi sáng, Niccolos,” Dee nói, không quay lại.
“Chào mừng đến với Paris.” Niccolos Machiavelli nói tiếng Latin bằng giọng Ý. “Tôi tin ông đã có chyến bay tốt lành và hài lòng với căn phòng này?” Machiavelli đã sắp xếp cho Dee hoàn tất nhanh chóng các thủ tục tại phi trường và cho cảnh sát hộ tống về một ngôi nhà phố rộng lớn nằm gần Place du Canada.
“Bọn chúng đang ở đâu?” Dee hỏi sống sượng, bỏ qua những câu hỏi chủ nhà, khẳng định quyền lực của hắn. Đã hẳn hắn nhỏ hơn tay người Ý vài tuổi, nhưng ở đây hắn là người chịu trách nhiệm.
Machiavelli bước ra khỏi phòng và đứng bên cạnh Dee ngoài ban công. Không muốn làm nhăn bộ đồ đang mặc,hắn đứng chắp tay sau lưng. Tay người Ý cao ráo, lịch thiệp, mày râu nhẳn nhụi với mái tóc cắt sát tương phản với người đàn ông mặt nhọn hoắt, chòm râu tam giác và mái tóc xám vuốt ngược ra sau cột kiểu đuôi ngựa. “Họ vẫn còn ở nhà Saint – Germain. Và mới đây Flamel đã gia nhập vào đó luôn rồi.”
Tiến sĩ Dee liếc xéo sang Machiavelli. “Tôi ngạc nhiên không hiểu sao ông không thử cố tự mình bắt bọn chúng,” hắn nói giả nhân giả nghĩa.
Machiavelli nhìn bao quát thành phố hắn đang kiểm soát. “Ồ, tôi nghĩ nên để phần chung cuộc của việc bắt giữ bọn người đó cho ông,” hắn ta ôn tồn nói.
“Ý ông là ông được chỉ thị phải để bọn chúng cho tôi.” Dee đốp chát.
Machiavelle không nói gì.
“Nhà Saint – Germain đã bị bao vây hoàn toàn chứ?”
“Hoàn toàn.”
“Và chỉ có năm người bọn chúng trong nhà? Không người giúp việc, không người bảo vệ?”
“Nhà giả kim và Saint – Germain, cặp sinh đôi và Bóng tối.”
“Scathach là vấn đề đó,” Dee làu bàu.
“Tôi có thể có một giải pháp,”Machiavelli đề nghị một cách nhẹ nhàng. Hắn chờ cho đến khi pháp sư quay qua nhìn hắn, đôi mắt màu đá nhấp nháy ánh da cam phản chiếu những ngọn đèn đường. “Tôi đã cho người nhắn Disir, kẻ thù ác liệt nhất của Scathach. Ba trong số đó vừa đến nơi.”
Một nụ cười hiếm hoi cong trên đôi môi mỏng dính của Dee. Rồi hắn bước lùi cách Machiavelli một chút và hơi nghiêng mình. “Valkyries – một lựa chọn thật sự xuất sắc.”
“Chúng ta cùng một phe mà,” Machiavelli cúi chào đáp lễ. “Chúng ta cùng phục vụ những chủ nhân.”
Pháp sư định bước trở lại phòng thì chợt dừng lại và quay nhìn Machiavelli. Trong chốc lát, mùi trứng thối của lưu huỳnh phàng phất lơ lửng trên không khí. “Ông không hình dung được tôi phục vụ cho ai đâu,” hắn nói.
Dagon xông tới mở rộng hai cánh cửa đôi khá cao rồi lùi lại nhường bước. Nccolos Machiavelli và tiến sĩ John Dee sải chân bước vào thư viện chứa đầy sách được trang hoàng lộng lẫy để chào đón các vị khách.
Đã có ba cô gái trẻ trong phòng.
Thoạt nhìn giống như họ là chị em sinh ba. Cao và ốm, với mái tóc vàng dài chấm vai. Họ ăn mặc như những cỗ xe tăng đen true bên dưới áo khoác da mềm và quần jeans xanh lơ nhét vào đôi giày bốt cao đến gối. Khuôn mặt của họ tất cả đều góc cạnh: gò má cao, mắt sâu hoắm, cằm nhọn. chỉ có đôi mắt mới giúp người ta mới phân biệt được họ. Chúng mang những sắc thái khác nhau của màu xanh, từ màu xanh ngọc bích nhạt nhất cho đến sẫm, gần như màu chàm tím. Cả ba trông như thể mới mười sáu hay mười bảy, nhưng thực tế, họ còn lớn tuổi hơn hầu hết những nền văn minh.
Họ là Disir.
Machiavelli bước vào giữa phòng và lần lượt quay nhìn từng cô gái, cố phân biệt họ. Một cô đang ngồi ở cây đàn dương cầm, một cô gái khác đang ngồi trên tràng kỉ, trong khi cô gái thứ ba đứng tựa vào cửa sổ, nhìn chăm bẳm vào bóng đêm, trong tay là một cuốn sách gáy da chưa rọc trang. Khi hắn đến gần họ, đầu họ xoay trên cổ như xoay trên một cái trục, và hắn để ý thấy màu mắt của họ trùng với màu nước sơn móng tay. “Cám ơn vì đã đến,” hắn nói, bằng tiếng Latin cùng với tiếng Hy Lạp, một trong những ngôn ngữ hầu hết các Elder đều quen thộc.
Các cô gái ngây người nhìn hắn.
Machiavelli liếc nhìn Dagon, vừa buocs vào phòng và đóng cánh cửa sau lưng. Nó tháo mắt kính ra, để lộ đôi mắt lồi, và nói nhanh bằng một thứ ngôn ngữ như người không có thanh quản hoặc thanh lưỡi bị đánh bật.
Những cô gái không quan tâm đến nó.
Tiến sĩ John Dee đột ngột thở dài. Hắn thả mình vào một chiếc ghế bành bằng da có lưng tựa cao và vỗ hai bàn tay nhỏ nhắn vào với nhau thành một tiếng vỗ chói tai. “Mấy tiếng linh tinh như vậy là đủ rồi,” hắn nói bằng tiếng Anh. “Các cô có mặt ở đây là vì Scathach. Bây giờ, các cô có muốn cô ta hay không?”
Cô gái ngồi nơi chiếc dương cầm nhìn chằm chằm vào pháp sư. Nếu hắn để ý thì thấy đầu cô ấy hơi vặn theo một góc độ mà người thường không thể làm được, nhưng hắn không phản ứng gì. “Cô ả đâu?” Tiếng Anh của cô ta thật hoàn hảo.
“Chỉ còn cách một chút nữa thôi,” machiavelli vừa nói vừa đi chầm chậm quanh phòng.
Ba cô gái hướng sự chú ý vào hắn, quay đầu dõi theo hắn, như những con cú dõi theo một con chuột.
“Cô ả đang làm gì?”
“Cô ả đang bảo vệ Nhà giả kim Flamel, Saint – Germain và hai con người,” Machiavelli nói.
“Bọn tôi chỉ muốn bọn con người và Flamel. Scathach là của các cô.” Hắn ngưng một chút rồi nói thêm, “Các cô cũng có thể có thêm Sanit – Germain nữa, nếu các cô muốn. Hắn chẳng có ích gì cho chúng tôi cả.”
“Bóng tối. Chúng tôi muốn Bống tối,” cô gái nồi nơi chiếc đàn dương cầm nói. Đầu những ngón tay sơn màu chàm di chuyển lướt qua những phím đàn, âm thanh réo rắt và âm điệu thật đẹp.
Machiavelli cầm một chiếc bình cao bằng bạc đi từ cạnh bàn này sang cạnh bàn kia để rót cà – phê. Hắn nhìn Dee, nhướng mày và đồng thời giơ chiếc bình lên. Pháp sư lắc đầu.
“các cô nên biết rằng Scathach vẫn rất mạnh,”Machiavelli tiếp tục, giờ thì hắn nói với cô gái ngồi nơi chiếc dương cầm. Con ngươi trong đôi mắt màu chàm của cô ta hẹp và nằm ngang. “Sáng hôm qua cô ta đã hạ nốc ao một đơn vị cảnh sát được huấn luyện cao cấp.”
“Con người,”Disir gang như cãi lại. “Không có một con người nào chống cự nổi bóng tối cả.”
“Nhưng chúng tôi không phải là con người,” cô gái đứng ở cửa sổ nói.
“Chúng tôi là Disir,” cô gái ngồi xéo Dee kết thúc. “Chúng tôi là Trinh Nữ bảo vệ, Người Được chọn của thần chết, Chiến binh của - ”
“Vâng, vâng, vâng,” Dee kiên nhẫn buột miệng. “Chúng tôi biết các cô là ai rồi: những Valkyrie. Chắc là những chiến binh vĩ đại nhất thế giới đã từng được coi là – mô phỏng theo chính các cô, bằng cách nào đó. Chúng tôi muốn biết các cô có thể đánh bại Bong tối hay không.”
Disir có đôi mắt màu chàm xoay người khỏi chiếc dương cầm và đứng bật dậy. Cô ta ngang nhiên băng qua tấm thảm và đứng trước mặt Dee. Hai cô chị của cô bất ngờ xuất hiện bên cô, và nhiệt độ trong phòng đột ngột rơi tụt xuống.
“Hẳn là một nhầm lẩm xúc phạm đến chúng tôi, Tiến sĩ Dee,” một cô gái nói.
Dee thở phào. “các cô có thể đánh bại bóng tối?” hắn hỏi lại. “Bởi vì nếu các cô không thể, thì tôi chắc chắn có những người khác cũng đang sẵn lòng được thử sức.” hắn cầm điện thoại lên. “Tôi có thể gọi cho các Amazone, Samurai và Bogatyr.”
Nhiệt độ trong phòng tiếp tục hạ lúc Dee còn đang nói, và hơi thở của hắn phà ra thành từng chùm khói trắng trong không trung, những tinh thể nước đá như pha lê kết lại trên chân mày và bộ râu của hắn.
“Trò bịp này tới đây là đủ rồi!”Dee bật ngón tay tanh tách và luồng điện của hắn lóe sáng ngay tức thì. Gian phòng ấm dần, rồi nóng lên, nặng mùi trứng thối.
“Không cần những chiến binh kém cỏi đâu đó. Disir sẽ đập tan Bóng tối.” cô gái đứng bên phải Dee nói.
“Bằng cách nào?” Dee đốp chát.
“Chúng tôi có những thứ mà các chiến binh khác không có.”
“Các cô cứ nói những điều bí ẩn khó hiểu quá,” Dee không còn kiên nhẫn.
“Bảo cho ông ta biết đi,” Machiavelli nói
Disir đôi mắt nhạt nhất quay đầu hướng về hắn rồi quay đầu lại nhìn Dee. Những ngón tay dài huơ huơ gần chạm đến mặt hắn ta. “Ông đã hủy diệt Yggdrasill và phóng thích ra tạo vật cưng của chúng tôi đã bị giam cầm rất lâu trong rễ Cây Thế giới.”
Một cái gì lung linh trong đầu Dee và khóe thịt nơi miệng hắn vặn vẹo. “Nidhogg?” Hắn nhìn Machiavelli. “Ông đã biết chuyện này?”
Machiavelli gật đầu . “tất nhiên.”
Disir mắt màu chàm bước đến gần Dee và nhìn xuống mặt hắn. “Đúng, ông đã thả Nidhogg, Kẻ nuốt chửng Tử thi.” Vẫn chồm người về phiá Dee, cô ta quay đầu nhìn Machiavelli. Các cô chị cũng quay theo hướng đó. “Chỉ cho chúng tôi nơi Scathach và những tên kia đang ẩn núp, rồi để mặc chúng tôi. Một khi chúng tôi thả Nidhogg, coi như Scathach đã dến ngày tận số.”
“các cô có thể kiểm soát sinh vật đó không?” Machiavelli tò mò hỏi.
“Một khi nó đã nuốt tươi Bóng tối, đầu tiên là ngốn ký ức của ả, rồi đến da thịt và xương, nó sẽ cần ngủ. Sau khi chén hết một bữa yến tiệc như Scathach, chắc nó phải ngủ đến một hai thế kỷ. Chúng tôi sẽ nhốt nó ngay sau đó.”
Niccolo Machiavelli gật đầu. “Chúng ta chưa bàn đến thù lao cho các cô.”
Cả ba Disir đều mỉm cười, và ngay cả Machiavelli mà cũng thấy sợ, chùn lại trước vẻ mặt họ. “Không thù lao gì hết,” Disir mắt màu chàm nói. “Chúng tôi làm việc này để phục hồi danh dự của phe chúng tôi và trả thù cho những người đã ngã xuống trong gia đình chúng tôi.”
Machiavelli gật đầu. “Tôi hiểu. Khi nào các cô sẽ tấn công?”
“Rạng sáng.”
“Tại sao không phải là ngay bây giờ?” Dee gặng hỏi.
“Chúng tôi là những tạo vật của thời điểm tranh tối tranh sáng. Tại những thời khắc rất ngắn giữa đêm và ngày, chúng tôi mạnh hơn lúc nào hết,” một cô gái nói.
“Đó là lúc chúng tôi không có đối thủ,” cô chị tiếp lời.
Dạ Phong
11-01-2011, 04:47 PM
Chương 25
“Em nghĩ là em vẫn còn đang theo giờ ở Mỹ,” Josh nói.
“Sao vậy?” Scathach hỏi. Họ đang đứng trong một phòng tập thể dục được trang bị đầy đủ các dụng cở dưới hầm ngôi nhà của Saint – Germain. Một bức tường là tấm gương soi, phản chiếu cậu trai nhỏ và cô ma cà rồng, bao quanh là các dụng cụ thể dục đời mới nhất.
Josh liếc lên chiếc đồng hồ trên tường. “Bây giờ là ba giờ sáng..Em mệt lử, nhưng em vẫn còn tỉnh rụi vì bây giờ ở nhà chỉ mới sau giờ tối.”
Scathach gật đầu. “Đó là một trong nhiều lý do. Một lý do khác là vì cậu đang ở giữa những người như Nicholas và Saint – Germain, và đặc biệt là chị gái cậu và Joan. Dù năng lượng của cậu vẫn chưa được đánh thức, nhưng cậu đang ở cùng với một số luồng điện mạnh nhất hành tinh. Luồng điện của riêng cậu hấp thu được một chút năng lượng của họ, và nó tiếp sinh lực cho cậu. Nhưng nếu cậu không thấy mệt, điều đó không có nghĩa là cậu không nên nghĩ ngơi,” cô nói thêm. “Cũng nên uống nhiều nước nữa. Năng lượng của cậu bị đốt cháy thông qua một lượng lớn chất lỏng. Cậu phải luôn duy trì quá trình thủy hợp.”
Cánh cửa mở ra và Joan bước vào phòng tập. Trong khi Scathach ăn vận toàn đồ đen, thì Joan lại mặc một chiếc áo thun tay dài phủ ra ngoài chiếc quần trắng và mang đôi giày đế mềm cũng màu trắng. Tuy nhiên, giống như Scathach, cô mang một thanh kiếm. “Tôi không biết cô có cần phụ giúp gì không,” cô hỏi, như có cái gì e thẹn.
“Tôi tưởng cô đi ngủ rồi,” Scathach nói.
“Mấy ngày nay tôi ngủ không được nhiều. Và khi ngủ, những giấc mơ của tôi rắc rối lộn xộn. Tôi cứ thường mơ thấy lửa cháy.” Cô mỉm cười buồn buồn. “Đó không phỉ là một sự trớ trêu kỳ lạ đó chứ: tôi lấy một bậc thầy về lửa, song tôi lại sợ hãi những giấc mơ về lửa.”
“Francis ở đâu?”
“Trong phòng làm việc của anh ấy, đang làm việc. Anh ấy sẽ còn ở trong ấy nhiều giờ nữa. Tôi không chắc anh ấy có ngủ nữa không. Bây giờ,” cô nói, nhìn Josh và đổi chủ đề, “cậu thấy thế nào?”
“Em vẫn đang học cách cầm chắc thanh kiếm này,” Josh lẩm bẩm, nghe có hơi bối rối.
Cậu đã từng xem phim; cậu tưởng cậu hiểu được cách người ta đánh nhau bằng kiếm. Tuy nhiên, cậu không bao giờ tưởng tượng nỗi là chỉ mỗi việc cầm nó cho thật chắc cũng đã khó khăn lắm rồi. Scathach phải mấy ba mươi phút vừa qua để dạy cậu làm sao để cầm chắc và huơ thanh Claretnt mà không làm nó rơi. Cô ta không được thành công lắm; mỗi lần cậu quay tròn thứ vũ khí này, trọng luongj cứ kéo nó ra khỏi tay cậu. Cái sàn gỗ đánh bằng vec-ni cao cấp bị trầy xước và thủng lỗ chỗ vì lưỡi kiếm va phải. “Nó khó hơn em nghĩ,” cuối cùng cậu thú nhận. “Em không bảo đảm là sẽ học được.”
“Scathach có thể dạy cậu cách chiến đấu bằng kiếm mà,” Joan nói một cách một cách tin tưởng. “Cô ấy đã dạy tôi đó. Cô ấy đã chọn một đứa con gái nông thôn và biến con bé thành một chiến binh.” Cô ta vặn cổ tay, và thanh kiếm của cô cao gần bằng đến chiều cao người cô, di chuyển và xoáy trông không trung với một tiếng rên rĩ như tiếng người. Josh cố sao chép lại hành động này và thanh Clarent quay tròn vượt khỏi cánh tay cậu. Nó cắm sâu cái đầu nhọn xuống sàn, làm nứt gỗ, và rung rinh lắc lại.
“Xin lỗi,” Josh làu bàu.
“Quên hết mọi thứ mà em tưởng là mình biết về trò đánh kiếm đi,” Scathach nói. Cô liếc nhìn qua Joan. “Cậu ta xem tivi quá nhiều. Cậu ấy nghĩ mình có thể xoay thanh kiếm thành vòng tròn như một cây gậy của hoạt náo viên trên sân bóng.”
Joan cười toe toét. Cô khéo léo vụt nhẹ thanh kiếm dài của mình và đưa nó cho cậu, ngay nơi cái chuôi. “Cầm lấy.”
Josh giơ bàn tay phải vươn tới thanh kiếm.
“Cậu phải nghĩ đến việc sử dụng cả hai tay,” cô gái nhỏ người Pháp gợi ý.
Josh lờ đi. Vòng những ngón tay quanh cán kiếm của Joan, cậu cố nhấc nó ra khỏi sự kiềm chặt của Joan. Nhưng cậu thua. Nó nặng lạ lùng.
“Cậu có thể thấy tại sao chúng ta cứ đứng ở phần căn bản này hoài,’Scatty nói. Cô kéo giật thanh kiếm khỏi bàn tay ghì chặt của Josh và quăng nó cho Joan, cô gái bắt lấy dễ dàng.
“Hãy bắt đầu với việc làm sao để giữ được một thanh kiếm.” Joan đứng vào chỗ bên phải Josh, trong khi Scathach đứng bên trái. “Nhìn thẳng phía trước.”
Josh nhìn vào gương. Trong khi có thể nhìn thấy rõ cậu và Scathach trong gương thì lại có một làn sương mờ mờ bạc bao quanh Joan Arc. Cậu nhấp nháy, dụi mắt, nhưng khi mở mắt ra lại, làn sương vẫn ở đó.
“Đó là luồng điện của tôi,” Joan giải thích, đoán trước được câu hỏi ngay khi cậu chưa kịp hỏi, nhưng thỉnh thoảng nó bất ngờ hiện lên trên hình và qua gương.”
“Và luồng điện của chị giống của Sophie,” Josh nói.
Joan Arc lắc đầu. “Ồ không, không giống như của chị cậu đâu,” cô nói, làm cậu ngạc nhiên. “Của cô ấy mạnh hơn nhiều.”
Joan nâng thanh kiếm dài lên, quay trong cho đến khi mũi kiếm nằm giữa hai bàn chân của cô và cả hai tay đặt trên núm tròn của chuôi kiếm. “Bây giờ, cứ làm như chúng tôi làm… và làm từ từ thôi.” Cô xòe rộng bàn tay phải ra, nắm lấy lưỡi kiếm dài thật chắc.
Bên trái Josh, Bóng tối duỗi thẳng hai cánh tay, giữ thanh kiếm ngắn của cô thẳng đứng ngay trước mặt.
Josh vòng mấy ngón tay quanh chuôi kiếm đá và giở cánh tay phải lên. Ngay khi chưa duỗi hết tay ra, cậu đã bắt đầu rung rung vì sức nặng của lưỡi kiếm. Nghiến răng, cậu cố giữ cánh tay mình đứng yên. “Quá nặng,” cậu thở hổn hển khi thả tay xuống và xoay xoay bả vai; cơ vai của cậu nóng lên. Cảm thấy giống như ngày đầu tiên tập luyện bóng đá sau kỳ nghỉ hè.
“Cố làm vậy đó. Quan sát tôi nè.” Joan chỉ cậu cách làm thế nào kiềm chặt tay kiếm bằng cả hai bàn tay.
Dùng cả hai tay, cậu thấy giữ thanh kiếm thẳng đứng dễ hơn. Cậu thử lại, lần này cầm bằng một tay. Hết khoảng ba mươi giây thứ vũ khí này vẫn đứng yên; rồi mũi kiếm bắt đầu rung lên. Thở hắt ra, Josh hạ cánh tay cậu xuống. “Không thể làm một tay,” Cậu làu bàu.
“Sẽ đến lúc thôi,”Scathach vọt miệng, hết kiên nhẫn nổi. “Nhưng trong lúc này, tôi sẽ dạy cậu làm thế nào để sử dụng hai tay, đúng kiểu phương Đông.”
Josh gật đầu. “Có vẻ dễ hơn.” Cậu mất nhiều năm học tae kwon do, và luôn muốn học kendo, thuật đánh kiếm Nhật Bản, nhưng cha mẹ cậu từ chối, nói rằng nó quá nguy hiểm.
“Tất cả những gì cậu cần là tập luyện,” Joan nói nghiêm túc, nhìn vào Scathach phản chiếu trong gương, đôi mắt xám rực sáng và lấp lánh.
“Phải tập luyện bao nhiêu nữa?” Josh hỏi.
“Ít nhất là ba năm.”
“Ba năm?” Hít một hơi thật sâu, cậu chùi một bàn tay rồi đến bàn tay kia vào ống quần và giữ chặt chuôi kiếm lần nữa. Rồi cậu nhìn mình trong gương và duỗi thẳng cả hai cánh tay. “Em hy vọng Sophie sẽ làm giỏi hơn em,” cậu lầm bầm.
Comte de Saint – Germain đưa Sophie lên mảnh vườn nhỏ xíu trên mái nhà. Phong cảnh Paris thật ngọan mục, cô dựa vào lan can nhìn xuống Champs – Elysees. Xe cộ mờ nhạt và cuối cùng còn nhỏ hơn một dòng chảy nhỏ giọt thưa thớt, và thành phố thì yên tỉnh và lặng lẽ. Cô hít thật sâu; bầu không khí mát lạnh và ẩm thấp, mùi chua thoang thoảng của dòng sông quyện lẫn mùi hương của cây cỏ đến từ hàng chục cái bình cây lá mọc tràn và những cái chậu kiểu cọ đặt chỗ này chỗ kia khắp mái nhà. Sophie vòng tay ôm lấy than người, chà xát mạnh vào khuỷu tay và rung mình.
“Lạnh hả?” Saint- Germain.
“Một chút thôi ạ,” cô nói, mặc dù không rõ là mình lạnh hay hồi hộp. Cô biết Saint – Germain đưa cô lên đây để dạy cho cô pháp thuật Lửa.
“Sau đêm nay, cô sẽ không bao giờ cảm thấy lạnh nữa,” Saint – Germain hứa. “Cô có thể đi bộ qua Antarctica (châu Nam Cực) chỉ với quần sọoc và áo thun mà vẫn không cảm thấy gì.” Vuốt mái tóc dài khỏi trán, ông bứt một chiếc lá trên một cái bình và cuộn nó giữa hai lòng bàn tay, rồi chà mạnh. Mùi hương bạc hà khô lạnh tràn ngập trong không khí. “Joan thich nấu ăn. Cô ấy trồng tất cả các loại thảo mộc của cô ấy ở đây,” ông giải thích, hít sâu vào. “Có cả chục loại bạc hà, kinh giới dại, cỏ xạ hương và hung quế khác nhau. Và tất nhiên cả oải hương nữa. Cô ấy rất thích hoa oải hương; nó nhắc cô ấy nhớ thời tuổi trẻ của mình.”
“Ông đã găpj Joan ở đâu ạ? Ở đây ngay tại nước Pháp này hở?”
“Cuối cùng tôi đã gặp lại cô ấy ở đây, nhưng cô tin hay không là tùy cô nhé, lần đầu tiên tôi gặp cô ấy là ở California. Đó là năm 1849; tôi đang tạo ra vàng và Joan làm việc như một nhà truyền giáo, phân phát cháo gà và đưa vào bệnh viện nhwgx người vắt kiệt sức đi tìm vàng.”
Sophie cau mày. “Ông đã làm ra vàng suốt thời Cơn sốt tìm vàng?Tại sao?”
Saint – Germain nhún vai và trông ông hơi bối rối. “Chỉ là giống mọi người khác ở Mỹ
những năm 48 và 49, tôi cũng đổ về miền tây tìm vàng.”
“Tôi tưởng ông có thể làm ra vàng. Nicholas nói chú ấy có thể làm chuyện đó.”
“Tạo ra vàng là một quá trình dài và khó nhọc. Tôi nghĩ việc tạo vàng trong lòng đất có
thể dễ dàng hơn chăng. Và đã từng có một nhà giả kim đã tìm được một chút vàng, anh ta
có thể sử dụng nó để nhân lên nhiều hơn. Đó là những gì tôi nghĩ tôi có thể làm được.
Nhưng mảnh đất tôi mua hóa ra nó vô dụng. Vì thế tôi bắt đầu chôn xuống miếng đất một ít vàng và rồi bán lại cho những người mới đến.”
“Nhưng đó là việc làm sai trái,” Sophie nói, đầy sửng sốt.
“Hồi đó tôi còn quá trẻ,”Saint – Germain nói, “Và đói. Nhưng không thể bào chữa cho chuyện đó,” ông thêm vào. “Dù sao đi nữa, Joan vẫn làm việc ở Sacramento, và cô ấy vẫn thường gặp những người đã mua lại mảnh đất vô dụng của tôi. Cô ấy nghĩ tôi là một tên bịm bợm – ma đúng tôi là như vậy thật – còn tôi lại coi cô ấy là một trong những nhà cải cách đầy lý tưởng hết sức rầy rà. Không ai trong chúng tôi biết là người kia bất tử, tất nhiên rồi chúng tôi ghét nhau ra mặt. Chúng tôi cứ tình cờ gặp nhau qua nhiều năm, và rồi, trong Cuộc Chiến tranh Thế giới Thứ hai, chúng tôi lại gặp nhau, ở tại Paris này. Cô ấy chiến đấu cho phong trào kháng chiến còn tôi đang làm gián điệp cho Mỹ. Đó là lúc chúng tôi nhận ra chúng tôi có cái gì đó rất khác. Chúng tôi sống sót qua cuộc chiến tranh, và chúng tôi không hề xa cách nhau kể từ đó, nhưng Joan giữ những thông tin rất kín đáo. Không một blog hâm mộ hoặc tạp chí tầm phào nào biết được chúng tôi đã cưới nhau. Chắc chúng tôi có thể bán vài tấm ảnh cưới với giá cả một gia tài, nhưng Joan lại thích hé lộ thông tin ở mức độ vô cùng khiêm tốn thôi.”
“Tại sao?” Sophie biết rằng những người nổi tiếng đánh giá rất cao sự rieng tư của họ, nhưng giữ hoàn toàn không cho ai nhìn thấy thì dường như quá kỳ lạ.
“Vâng…cô phải nhớ rằng lần cô ấy nổi tiếng gần đây nhất là lúc người ta đòi thiêu cô ấy trên cọc.”
Sophie gật đầu. Thình lình, việc giữ cho người ta không nhìn thấy nghe ra hoàn toàn có lý. “Ông biết Scathach bao lâu rồi?” cô hỏi.
“Nhiều thế kỷ. Khi tôi và Joan biết nhau, chúng tôi khám phá ra rằng chúng tôi quen biết nhiều người có cùng điểm chung. Tất cả đều bất tử, tất nhiên. Joan quen biết Scathach trước tô khá lâu. Dù tôi không rõ là có ai khác thật sự biết về Bóng tối hay không,” ông nói thêm và cười gượng gạo. “Cô ấy dường như luôn qua….” Ông dừng lại một chút, cố tìm từ thích hợp.
“Cô đơn?” cô gợi ý.
“Đúng. Cô đơn.” Ông nhìn ra khắp thành phố và lắc đầu buồn buồn rôi ngoái lại nhìn Sophie. “Cô có biết cô ấy thường đơn độc chống cự với các Elder Đen tối không, có biết bao nhiêu lần cô ấy tự đặt mình vào hiểm nguy khủng khiếp để giữ cho thế giới này an toàn khỏi bọn họ không?”
Dạ Phong
13-01-2011, 04:37 PM
Ngay cả khi Sophie bắt đầu lắc đầu thì một chuỗi hình ảnh lóe lên xuyên qua tâm thức cô, những mảnh vỡ từ ký ức của Bà Phù thủy.
Scathach , mặc áo giáp da kết bằng vòng kim loại, đứng lẻ loi trên một cây cầu, hai thanh kiếm sáng chói trong tay, đang chờ những con quỷ có hình thù như con sên khổng lồ tụ tập ở đầu cầu bên kia.
Scathach mặc áo giáp toàn thân, đang đứng trong cánh cửa của một tòa lâu đài vĩ đại, cánh tay khoanh trước ngực, những thanh iếm cắm xuống đất ngay chân cô. Đối diện với cô là một đoàn quân gồm những sinh vật trông như những con thằn lằn to khủng hoảng.
Scathach, trang phục bằng da chó biển và lông thú, đứng thăng bằng trên một tảng băng nổi đang biến dạng thành những sinh vật vây quanh cô trông như thể chúng được tạc vào băng.
Sophie liếm môi. “Tại sao … tại sao chị ấy lại làm như vậy?”
“Bởi vì đó chính là con người cô ấy. Đó chính là những gì làm nên cô ấy.” Ông bá tước nhìn cô gái và mỉm cười buồn hiu. “Và bởi vì đó là tất cả những gì cô ấy biết làm. Bây giờ,” ông nói mạnh mẽ, lại chà sát hai bàn tay vào nhau, tàn lửa và bụi tro vặn thành hình xoắn ốc bốc lên và tan vào bầu khí đêm. “Nicholas muốn cô học Pháp thuật Lửa. Cô hồi hộp không?” ông hỏi.
“Một chút ạ. Ông đã từng dạy khác chưa?”Sophie ngập ngừng hỏi.
Saint – Germain cười toe, lộ cả hàm răng cái ra cái vào. “Chưa một ai. Cô là học trò đầu tiên của tôi…và chắc cũng là người cuối cùng.”
Cô cảm thấy dạ dày như muốn lộn ngược, và bất chợt điều này dường như không còn là một ý hay nữa. “Sao ông nói vậy?”
“Ừ, cơ hội đến với người được Đánh thức năng lực ma thuật rất mong manh, trong số ít đó mà tìm thấy được một ai có luồng điện thuần khiết như của cô, gần như là điều không thể. Luồng điện bạc cực kỳ hiếm. Joan là người cuối cùng có nó, mà cô ấy sinh năm 1412. Quả là cô rất đặc biệt, Sophie Newman.”
Sophie nuốt nước bọt một cách khó khăn; cô không có cảm giác gì là rất đặc biệt cả.
Saint – Germain ngồi xuống trên một cáo ghế dài đơn sơ đặt dựa vào lườn ống khói. “Ngồi xuống cạnh tôi đây, và tôi sẽ chỉ cho cô những gì tôi biết.”
Sophie ngôi xuống bên cạnh Comte de Saint – Germain và ngang qua mái nhà, nhìn ra khắp thành phố. Ký ức không phải của cô thoáng qua bên lề tâm thức, mở ra một thành phố với một con đường chân trời khác, một thành phố với những tòa nhà chủm tụm quanh một pháo đài đồ sộ, hàng ngàn vệt khói bốc lên đi vào màn đêm. Cô chủ tâm tránh xa khỏi những ý nghĩ này, nhận ra rằng mình đang nhìn thấy Paris như thể Bà Phù thủy nhớ về nó, đâu đó trong quá khứ xa xăm.
Saint – Germain quay người nhìn vào cô gái. “Đưa tay cô đây,” ông nói dịu dàng. Sophie đặt bàn tay phải vào lòng bàn tay ông, và ngay lập tức một cảm giác âm ấm chạy khắp người cô, quét sạch mọi lạnh lẽo. “Để tôi nói cho cô nghe về ông thầy của tôi đã dạy tôi những gì về lửa.” Vừa nói, ông bá tước vừa di ngón trỏ nóng rực của ông khắp lòng bàn tay cô gái, trên những đường kẻ và gò nổi trong tay, lần theo những đường chỉ trên da. “Ông thầy tôi bảo rằng sẽ có những người nói rằng Pháp thuật Không Khí hoặc Pháp thuật Nước hoặc thậm chí cả Pháp thuật Đất là những thứ mạnh nhất. Họ đã lầm. Pháp thuật Lửa vượt xa những ma thuật khác.”
Khi ông đang nói, không khí ngay trước họ bắt đầu nóng rực, rồi lờ mờ tỏa sáng. Cứ như thể có một làn sương mù kết từ hơi nóng, Sophie chăm chú nhìn khói xoắn vặn và nhảy múa theo từng lời của ông bá tước, tạo thành những hình tượng, ký hiệu, những bức vẽ. Cô muốn với tay chạm vào chúng, nhưng cô vẫn bất động. Rồi mái nhà nhòa đi và Paris biến mất; âm thanh duy nhất cô có thể nghe là tiếng nói liên tục khẽ khàng của Saint – Germain, và tất cả những gì cô có thể nhìn thấy là tro bụi đang cháy. Nhưng khi ông nói, các hình tượng bắt đầu hình thành trong lửa.
“Lửa thiêu rụi không khí. Nó có thể nung nóng nước thành sương mù và có thể tách mở mặt đất.”
Cô nhìn chăm chú vào một ngọn lửa đang phun nham thạch lên không trung. Dung nham màu đỏ bầm và tro bụi bị nung trắng tuôn xối xả xuống một thành phố nhỏ đầy bùn và đá..
“Lửa phả hủy, nhưng nó cũng tạo thành. Một khu rừng cần có lửa để phát triển. Một số loại hạt giống nhất định phụ thuộc vào nó để nảy mầm.”
Những ngọn lửa xoắn như những chiếc lá và Sophie nhìn thấy một khoảng rừng bị cháy đen và hoang tàn, những thân cây đầy sẹo là bằng chứng của một đợt cháy khủng khiếp.
Nhưng ngay dưới gốc cây, những mầm non màu xanh lục tươi roi rói đâm xuyên qua đám tro tàn, vươn mình lên..
“Nhiều thời kỳ trong quá khứ, lửa sưởi ấm con người, cho phép họ sông nổi trong những vùng khí hậu khắc nghiệt.”
Ánh lửa hé lộ một phong cảnh tiêu điều, lổn nhổn đá và tuyết bao phủ trắng xóa, nhưng cô có thể nhìn thấy những vách đá đầy những hang động rải rác lấm chấm sáng bừng lên trong những ngọn lửa màu đỏ vàng ấm áp.
Có một vết nứt đột ngột và một ngón tay lửa ốm tong teo như cây bút chì vụt phóng vào bầu trời đêm. Cô ngóng cao cổ, dõi theo nó đi lên, lên nữa, lên cho đến khi biến mất trong số những vì sao.
“Đây là Pháp thuật Lửa.”
Sophie gật đầu. Da cô ngứa râm ran và cô nhìn xuống, thấy những ngón tay lửa màu xanh chuối tí xíu lăn quăn rời khỏi các ngón tay của Saint – Germain. Chúng lập lòe băng ngang qua da cô, cuộn quanh cổ tay cô, mềm như long và mát rượi, để lại những vết đen đen rất nhạt trên da thịt. “Tôi biết lửa quan trọng như thế nào. Mẹ tôi là nhà khảo cổ học,” cô nói mơ màng. “Có lần mẹ tôi bảo tôi rằng mãi đến khi con người bắt đầu nấu được món thịt cho mình thì từ đó anh ta mới có thể lê đường tìm kiếm sự văn minh.”
Một nụ cười bừng sáng trên gương mặt của Saint – Germain. “Cô phải cám ơn
Prometheus và Bà Phù thủy vì việc đó. Họ đã mang lửa đến cho loài người người nguyên thủy đầu tiên. Việc nấu nướng đã làm cho loài người dễ tiêu hóa lượng thịt mà họ săn bắn được, cho phép họ hấp thu chất dinh dưỡng dễ dàng hơn. Nó giữ họ ấm áp và an toàn trong những hang động của họ, và Prometheus cũng chỉ cho họ cách sử dụng chính ngọn lửa đó để làm các công cụ và vũ khí của họ trở nên cứng rắn hơn.”
Ông bá tước nắm chặt cổ tay Sophie trong bàn tay ông, giữ nó như thể ông đang bắt mạnh cho cô. “Lửa lèo lái mọi nền văn minh lớn, từ thế giới cổ đại tiến thẳng đến ngày hôm nay. Không có sức nóng mặt trời, hành tinh này sẽ không là gì cả ngoài tảng đá và băng hà.”
Khi ông đang nói, những hình ảnh một lần nữa lại vỡ ra thành hiện thực trước mắt Sophie, hình thành từ những làn khói cuốn đi từ hai bàn tay ông. Chúng lơ lửng uốn lượn trong bầu không khí yên tĩnh.
…Một hành tinh màu nâu xám quay trong không gian, một vầng trăng lẻ loi xoay tròn quanh nó. Không một chút gợn mây trắng, không màu nước xanh lơ, không bóng dáng một lục địa màu xanh lục hay sa mạc vàng ánh kim. Chỉ toàn một màu xám. Và những đường viền yếu ớt của khối đất cắt sâu vào đá cứng. Bất ngờ Sophie nhận ra rằng cô đang nhìn trái đất, có lẻ ở đâu đó xa, thật xa trong tương lai. Cô thở hổn hển vì bàng hoàng và hơi thở của cô xua làn khói tan đi, mang theo hình ảnh đó.
“Pháp thuật Lửa mạnh nhất dưới ánh mặt trời.” Saint – Germain cử động bàn tay trái của ông và lấy ngón trỏ lần theo một ký hiệu. Treo lơ lửng trong không khí là một vòng tròn với những bông hoa oải hương chĩa ra như pháo hoa mặt trời. Ông bá tước thổi phù một hơi và nó tan thành những ánh li ti lấp lánh. “Không có lửa, chúng ta chẳng có gì hết.”
Bàn tay trái của Saint – Germain bây giờ đã hoàn toàn bọc trong lửa, nhưng ông vẫn nắm chắc cổ tay Sophie. Những dải lửa màu trắng đỏ cuộn quanh những ngón tay của cô gái và đọng thành vũng trong lòng bàn tay cô. Mỗi ngón tay cháy bùng lên như một cây nến cỡ nhỏ - đỏ, vàng, xanh lục, xanh lơ và trắng – song cô không cảm thấy đau đớn mà cũng chẳng thấy sợ hãi.
“Lửa có thể chửa lành; nó có thể làm liền vết thương, có thể xua tan bệnh tật,” Saint – Germain nói tiếp. Bụi tro vàng óng của lửa bùng cháy trong đôi mắt màu xanh nhạt của ông. “Nó không như những phép thuật khác, bởi vì chỉ có mình nó mới kết nối trực tiếp được với sự thuần khiết và mạnh mẽ trong luồng điện của cô. Hầu như bất cứ ai cũng có thể học những phần căn bản của Pháp thuật Đất, Pháp thuật Không Khí hoặc pháp thuật Nước. Những câu thần chú và bùa phép có thể được ghi nhớ và viết trong những cuốn sách, nhưng sức mạnh để làm bùng cháy lên ngọn lửa lại đến tận trong tâm hồn. Luoongf điện càng thuần khiết, ngọn lửa càng mạnh mẽ, và điều đó có nghĩa là, Sophie, cô phải rất cẩn thận, bởi vì luồng điện của cô quá tinh khiết. Khi cô tung ra Pháp thuật Lửa, nó sẽ có uy lực không thể tưởng tượng. Flamel đã cảnh báu với cô là không được lạm dụng năng lượng của mình chưa, kẻo sợ rằng cô sẽ bốc cháy thành lửa?”
“Scatty đã bảo tôi chuyện gì có thể xảy ra,” Sophie nói.
Saint – Germain gật đầu. “Bao giờ tạo ra lửa khi cô đang mệt hoặc yếu trong người. Nếu cô mất kiểm soát yếu tố này, nó sẽ tăng áp cô lại và đốt cô thành một lát khoai tây chiên chỉ trong một tích tắc.”
Giờ thì một quả banh lửa cứng cáp đang cháy đều đều trong bàn tay phải của Sophie. Cô ý thức rằng bàn tay trái của mình ngứa râm ran và vội nhấc tay ra khỏi chiếc ghế dài. Dấu hằn đen hình bàn tay rõ ràng ăn vào mặt gỗ hãy còn đang bốc khói. Rồi tiếng nổ bốp đùng đục vang lên, một vũng nhỏ màu xanh lơ hiện trong tay trái cô và mỗi ngón tay đều phát ra ánh lửa sáng trưng.
“Sao mình không có cảm giác gì?” Sophie kinh ngạc thốt lên.
“Cô được luồng điện của mình bảo vệ,” Saint – Germain giải thích. “Cô có thể định hình lửa, cùng một cách như Joan đã chỉ cho cô làm sao để định hình luồng điện của mình thành những vật bằng bạc vậy. Cô còn có thể tạo ra những quả cầu, giáo mác bằng lửa.”
Ông bật tanh tách những ngón tay và một vòng dày đặc những tàn lửa nhảy vọt ra rơi lả tả xuống mái nhà. Rồi ông lấy ngón trỏ chỉ thẳng vào và một ngọn lửa nho nhỏ có hình mác lởm chởm lao về phía tàn lửa gần nhất, đập vào nó một cú chính xác. “Khi cô đã hoàn toàn kiểm soát được năng lượng của mình, cô sẽ có thể gọi Pháp thuật Lửa theo ý muốn, nhưng từ đây đến đó cô sẽ cần một cái mồi lửa.”
“Một cái mồi lửa?”
“Bình thường sẽ phải mất nhiều giờ trầm tư mặc tưởng để tập trung luồng điện vào một điểm nào mà đó cô có thể làm nó bốc cháy. Nhưng từ hồi rất xa xưa, người ta đã khám phá ra cách tạo ra một mồi lửa. Một con đường tắt (shortcut). Cô đã từng thấy mấy con bướm của tôi chưa?”
Sophie gật đầu, nhớ lại hàng chục hình xăm con bướm nhỏ xíu bao quanh cổ tay ông bá tước và cuộn lên tới cánh tay ông.
“Chúng là mồi lửa của tôi.” Saint-Germain nhấc hai tay cô gái lên. “Và bây giờ cô sẽ có những cái của riêng cô.”
Sophie nhìn xuống tay mình. Lửa đã biến mất hết để lại những vệt mồ hống đen mịn trên gò bàn tay và quanh cổ tay. Cô cọ hai tay vào với nhau, nhưng chỉ giũ được những vết bụi bẩn.
“Cho phép tôi.” Saint-Germain xách đến một bình nước và lắc nó lên. Chất lỏng chòng chành bên trong. “Xòe tay cô ra.” Ông rót nước đầy lòng bàn tay cô – nước kêu xèo xèo khi chạm vào da thịt – rửa sạch những vệt đen. Ông bá tước rút từ trong túi sau ra một chiếc khăn tay mà trắng tinh tươm, nhúng vào bình nước và cẩn thận lau sạch phần mồ hóng còn lại. Nhưng quanh cổ tay bên phải, nơi Saint-Germain cầm vào, mồ hóng không chịu sạch đi. Một dải băng màu đen dày bám quanh cổ tay cô như một chiếc vòng.
Saint-Germain bật những ngón tay tanh tách rồi ngón trỏ và ngón út sáng lên. Ông mang ánh sáng gần đến bàn tay Sophie.
Cô nhìn xuống khám phá ra rằng một hình xăm đã được khắc vào da cô.
Im lặng nhấc cánh tay lên, cô vặn cổ tay mình để kiểm tra dải băng trang trí quấn quanh. Hai tao, vàng và bạc, tết lại rồi xoắn vào nhau tạo thành một mớ rối beng, trông gần giống những mẫu hoa văn của người Celt. Ở mặt dưới cổ tay, nơi Saint-Germain ấn ngón tay cái của ông vào, là một vòng tròn hoàn hảo màu vàng với một cái chấm đỏ ngay ở giữa.
“Khi nào cô muốn mồi lửa cho Pháp thuật Lửa, hãy ấn ngón tay cái vào vòng tròn và tập trung luồng điện của mình,” Saint-Germain hướng dẫn. “Việc đó sẽ mang lửa sống đến ngay lập tức.”
“Vậy là xong?” Sophie hỏi, giọng hơi ngạc nhiên. “Tất cả chỉ có vậy?”
Saint-Germain gật đầu. “Vậy là xong. Sao vậy, cô còn mong đợi điều gì nữa à?”
Sophie lắc đầu. “Tôi không biết, nhưng khi Bà Phù thủy Endor dạy tôi Pháp thuật Không khí, bà quấn tôi trong những dải băng như một xác ướp.”
Saint-Germain cười thẹn. “Đúng, tôi không phải là Bà Phù thủy Endor, tất nhiên. Joan nói với tôi là Bà Phù thủy đã thấm đẫm cô bằng những ký ức và kiến thức của bà. Tôi không hình dung được tại sao bà ấu lại làm như vậy; dứt khoát điều đó chẳng cần thiết gì cả.
Nhưng cũng không loại trừ là bà phải có lý do riêng. Hơn nữa, tôi không biết cách làm như vậy – và tôi đoán chắc là cô không muốn biết tất cả những ý nghĩ và ký ức của tôi đâu,” ông cười toe và nói thêm. “Một số chẳng hay ho gì cho lắm.”
Sophie mỉm cười. “Tôi đã được khai thông rồi – một lô ký ức khác nữa sẽ không phải là vấn đề lớn.” Giở tay lên, cô ấn vào vòng tròn trên cổ tay và ngón tay út của cô bóc khói; rồi móng tay nóng rực một màu da cam xỉn đục trong chốc lát trước khi bừng sáng thành một ngọn lửa mỏng manh, chập chờn. “Làm sao ông biết được mình phải làm gì?”
“Ừ, đầu tiên và trên hết thảy tôi là một nhà giả kim. Hôm nay tôi đã đề nghị cô gọi tôi là một nhà khoa học. Khi Nocholas bảo tôi huấn luyện cô về Pháp thuật Lửa, tôi không hình dung được mình phải làm cách nào, vì vậy tôi chỉ tiếp cận việc này như bất kỳ một thử nghiệm nào khác.”
“Một thử nghiệm?” Sophie chớp mắt. “Hẳn sẽ có sai sót gì đó?”
“Nguy hiểm thật sự chỉ đơn giản là nó không hoạt động.”
“Cảm ơn ông,” cuối cùng cô nói, rồi toét miệng cười. “Tôi mong rằng quá trình này sẽ mang lại nhiều ấn tượng sâu sắc hơn. Thật lòng tôi rất mừng khi thấy nó quá” – cô dừng lại một chút, tìm từ thích hợp –“bình thường.”
“Ồ, có lẽ không bình thường lắm đâu. Đâu phải ngày nào cô cũng được học cách điều khiển lửa. Còn những việc phi thường thì thế nào?” Saint- Germain gợi ý.
“Dạ, chắc cũng vậy thôi.”
“Vậy là xong. Ồ, có những thủ thuật tôi có thể - và sẽ - dạy cô. Ngày mai, tôi sẽ chỉ cô cách tạo ra những khối cầu, hình xuyến và vòng lửa. Nhưng một khi cô đã có mồi lửa rồi, cô có thể gọi lửa ra bất cứ lúc nào.”
“Nhưng tôi có cần nói gì đó không?” Sophie hỏi. “Tôi có cần đọc mấy từ gì không?”
“Như từ gì?”
“À, khi ông thắp sáng Tháp Eiffel, ông đã nói từ gì đó nghe như eggness.”
“Ignis,” ông bá tước nói. “lửa, tiếng Latin. Không, cô không cần nói gì cả.”
“Vậy tại sao ông lại nói?”
Saint-Germain cười toe. “Chỉ vì tôi nghĩ nó nghe hay hay.”
Dạ Phong
17-01-2011, 04:37 PM
Chương 26
Perenelle Flamel bối rối.
Bò dọc theo những hành lang được rọi bằng thứ ánh sáng nhờ nhờ, bà khám phá ra rằng tất cả các xà lim ở bên dưới khối nhà tù trên đảo này đều đầy những sinh vật đến từ những bờ rìa tăm tối của huyền thoại. Nữ Phù thủy đã từng chạm trán với hơn một chục giống ma cà rồng khác nhau và đủ loại quái thú, cũng như ma xó, khổng lồ dã tâm và yêu tinh. Một xà lim không giam giữ ai cả ngoài một đứa bé nhân ngư đang ngủ, trong khi ở xà lim đối diện, hai Windigo ăn thịt người nằm mê man bên cạnh một bộ ba ma oni. Nguyên một hành lang xa lim tràn ngập toàn loài họ rồng, rồng bay và rồng phun lửa.
Perenelle không nghĩ chúng là những tên tù – không một xà lim nào bị khóa – song tất cả bọn chúng đều đang ngủ, và được an toàn đằng sau những mạng nhện bằng bạc lấp lóa. Thậm chí, bà không rõ là các sinh vật bị giữ để làm tù binh hay được giữ để chúng tách riêng nhau ra. Không sinh vật bào bà tìm thấy có mối liên hện chiến hữu với nhau. Bà đi ngang qua một xà lim có mạng nhện giăng trong những miếng giẻ rách tả tơi. Xà lim này trống rỗng, nhưng trên mạng và trên sàn đầy kín những xương, trong đó thậm chí không cái nào giống con người.
Có những sinh vật đến từ cả hơn chục miền đất đầy truyền thuyết thần thoại. Một số - như Windigo – bà chỉ mới nghe nói đến, nhưng ít ra chúng là cư dân của địa lục châu Mỹ. Còn những sinh vật khác, theo chỗ bà biết, không bao giờ đi đến tận Tân Thế giới mà thường chỉ ở quê nhà chúng hoặc trong các Vương quốc Bóng tối tiếp giáp với vùng đất đó là nơi an toàn và bảo đảm. Oni của người Nhật không nên cùng chung sống bên cạnh các con rồng biển của người Celt.
Ở đây có cái gì đó sai lầm kinh khủng.
Perenelle đánh vòng góc tường và cảm thấy một con gió nhẹ làm gợn tóc bà. Bà day mặt về phía đó, cánh mũi nở ra, ngửi thấy mùi muối và tảo biển. Liếc nhanh đằng sau, bà vội vã lao xuống hanh lang.
Dee phải tập hợp các sinh vật này, phải quy tụ chúng lại với nhau, nhưng tại sao? Và quan trọng hơn, bằng cách nào? Bắt một vetala đơn lẻ thôi đã là chuyện chưa từng nghe, vậy mà có đến hơn cả chục? Và làm thế nào lấy được nhân ngư co khỏi mẹ nó được? Ngay cả Scathach, không biết sợ hãi và liều mạng như cô ấy, mà còn không bao giờ đương đầu với những giống loài ương bướng nếu như cô có thể tránh được.
Perenelle đi như bay lên các bậc thang. Bây giờ mùi không khí đầy muối đã nồng hơn, gió đã mát hơn, nhưng bà chần chừ trước khi đặt chân xuống và cùi gập người để kiểm tra cầu thang xem có những sợ to bằng bạc không. Không có. Bà vẫn không phát hiện ra cái gì đã chăng những tấm mạng như kết hoa ở các xà lim bên dưới, và giả sử như sinh vật đó đang ngủ… có nghĩa là sớm hay muộn chúng sẽ thức dậy. Khi chúng dậy, toàn bộ nhà tù này sẽ nhung nhúc những con nhện – hoặc có thể tệ hại hơn – và bà không muốn ở ngoài trời khi việc đó xảy ra.
Một chút năng lượng của bà đã trở lại – chắc chắn đủ để bà tự bảo vệ, mặc dù ngay lúc sử dụng phép thuật của mình, bà sẽ thu hút con nhân sư đến với bà và đồng thời làm bà yếu đi và già đi. Perenelle biết bà chỉ có một cơ hội để đương đầu với các sinh vật, và bà muốn – cần – càng mạnh mẽ càng tốt để chuẩn bị cho cuộc chạm trán đó. Lao lên những bậc thang kim loại kêu cót két, bà ngừng lại nơi cánh cửa đã bị gỉ sét ăn mòn. Hất tóc ra sau lưng, bà áp tai vào tấm kim loại đã mục ruỗng. Tất cả những gì bà có thể nghe được là tiếng đập đều đều của biển như thể nó đang tiếp tục ăn hết hòn đảo này. Cầm chặt nắm cửa bằng cả hai tay, bà nhẹ nhạng gạt xuống và đẩy cánh cửa mở ra, nghiến răng khi những chiếc bản lề cũ kỹ kêu cọt kẹt và rít lên, âm thanh vang rền xuyên qua mấy dãy hành lang.
Perenelle bước ra một khoảng sân rộng vay quanh bởi những tòa nhà đổ nát và bừa bải. Phía bên phải mặt trời đang chìm xuống hướng tây, và nhuộm những tảng đá bằng một ánh sáng màu da cam ấm áp. Với một tiếng thở ra khoan khoái, bà giang rộng cánh tay, quay mặt về phía mặt trời, ngửa đầu ra sau và nhắm mắt lại. Khi luồng điện bất thình lình được nạp lại, tĩnh điện nổ lốp đốp và chạy dọc theo chiều dài mái tóc đen nhánh, tung nó lên khỏi vai bà. Gió lùa vào gần vịnh nên rất mát, và bà hít thở thật sâu, tống sạch khỏi buồng phổi những mùi hôi thối của những thứ thối rữa, nấm mốc và các loài quỷ bên dưới lòng đất.
Và rồi bất ngờ bà nhận ra rằng tất cả mọi sinh vật trong các xà lim đều có một điểm chung: chúng đều là loài quỷ.
Đâu là những sinh vật siêu tự nhiên có phần cao quý hơn, những yêu tinh và kẻ báo điểm gở, nữ yêu rừng thẳm huldra và nàng tiên cá rusalka, những người bé tí hon và thần lương thực inari? Dee chỉ tụ họp những kẻ săn mồi, những con dã thú: Pháp sư đã tập hợp một đội quân quỷ sứ.
Một tiếng rú hoang dã làm rung chuyển khắp hòn đảo, làm rung từng phiến đá dưới chân bà. “Nữ Phù thủy!”
Con nhân sư đã phát hiện ra Perenelle mất tích.
“Bà ở đâu, Nữ Phù thủy?” Không khí biển trong lành bất chợt nhiễm mùi hôi thối của con nhân sư.
Perenelle quay lại đóng cánh cửa thì bà bắt gặp sự chuyển động trong vùng bóng tối bên dưới. Bà nhìn vào mặt trời quá lâu, và những trái banh màu vàng ánh kim để lại những du ảnh trong vỏng mạc. Bà nhắm chặt mắt lại một lúc; rồi mở ra lại để nhìn kỹ vào vùng u ám.
Những bóng tối đang chuyển động, xòa xuống các bức tường, tụ lại ở đáy bậc thang.
Perenelle lắc đầu. Không có bóng tối nào cả. Đây là một khối các sinh vật, hàng ngàn, hàng vạn. Chúng dâng lên cầu thang, chỉ chậm lại khi tiến đến gần ánh sáng.
Lúc đó Perenelle mới vỡ lẽ chúng là gì – nhện, chết người và đầy nọc độc – và giờ mới biết tại sao những cái mạng lại khác lạ như vậy. Bà thoáng thấy một khối sôi ùng ục toàn những con nhện sói và những con nhện lông lá khổng lồ ở vùng nhiệt đới, những con nhện màu đen mang tên bà góa và những con nhện màu nâu mang tên người ẩn dật, những con nhện vườn và những cái mạng hình phiễu. Bà biết chúng không nên tồn tại cung nhau… như vậy nghĩa là có cái gì đó đã gọi chúng, và bây giờ đã kiểm soát chúng, cái đó vẫn còn ẩn núp bên dưới kia.
Nữ Phù thủy dập mạnh cho cánh cửa kim loại đóng sập lại và lèn chặt một tảng khối xây vào chân cửa. Rồi bà quay người và chạy. Nhưng chỉ mới được hơn chục bước thì cánh cửa bị bong bản lề dưới sức nặng của những con nhện đã kết thành khối.
Dạ Phong
20-01-2011, 05:11 PM
Chương 27
Josh mệt phờ đẩy cánh cử dẫn vào bếp mở ra rồi bước vào căn phòng thấp và dài. Sophie quay đầu khỏi bồn rửa chén và nhìn chăm chú cậu em trai ngồi sụp xuống ghế, thả thanh kiếm xuống sàn, buông lỏng cánh tay trên bàn và ngả đầu dựa lên đó.
“ Thế nào rồi?” Sophie hỏi.
“Em chỉ còn đủ sức nhúc nhích thôi,” cậu làu bàu. “Vai đau, lưng đau, cánh tay đau, đầu đau, bàn tay phồng giộp lên và không thể khép ngón tay lại.” Cậu chìa cho cô xem lòng bàn tay trầy xước. “Em chưa bao giờ nhận ra rằng chỉ giữ được kiếm thôi lại khó đến vậy.”
“Nhưng em có học được gì không?”
“Em học được cách làm sao để giữ được nó.”
Sophie đẩy nhẹ một dĩa đầy bánh mì nướng chéo qua bàn và Josh nhổm người lên ngay, chộp lấy một miếng ngốn vào miệng. “Ít ra thì em vẫn có thể ăn được,” cô nói. Nắm giữ bàn tay phải của cậu, cô lật nó lên và nhìn vào lòng bàn tay. “Ối!” cô nói vẻ thông cảm.
Chỗ da ở chân ngón tay cái đỏ au, nổi lên một vết phồng rộp có nước trông rất đau đớn.
“Đã nói chị rồi,” cậu nói bằng một cái miệng đầy nhóc bánh mì. “Em cần một cái băng cá nhân.”
“Để chị thử làm cái gì đó.” Sophie nhanh nhẹn chà xát hai bàn tay cô vào nhau, rồi ấn ngón cái tay trái vào cổ tay phải. Nhắm mắt lại, cô tập trung… và ngón tay út của cô vụt sáng, bùng cháy một ngọn lửa màu xanh lơ mát dịu.
Josh ngưng nhai và nhìn chằm chằm.
Trước khi câụ có thể phản đối, Sophie chạy ngón tay cô trên phần thịt bị phồng của cậu. Cậu cố kéo nó ra, nhưng cô giữ chặt tay cậu bằng một sức mạnh đáng ngác nhiên. Cuối cùng khi cô nới lỏng tay, cậu giật tay mình về ngay.
“Chị nghĩ chị là cái gì…,” cậu bắt đầu, nhìn vào tay mình. Rồi cậu phát hiện ra rằng vết phồng đã biến mất, chỉ để lại một dấu tròn mờ mờ trên da.
“Francis nói với chị là lửa có thể chữa lành.” Sophie giơ bàn tay phải lên. Làn khói mỏng manh xam xám cuộn khỏi các ngón tay cô; rồi chúng bất thần sáng lên. Khi cô nắm tay lại thành nắm đấm, lửa mới tắt hẳn.
“Em nghĩ”- Josh nuốt nước bọt khó khăn và cố lần nữa – “Thậm chí em còn không biết là chị đã bắt đầu học về lửa.”
“Đã bắt đầu và đã xong.”
“Xong?”
“Làm hết rồi.” Cô phủi hai bàn tay vào nhau; tàn lửa bay ra.
Vừa nhai miếng bánh mì, Josh vừa nhìn chị gái vẻ trách cứ. Đầu tiên khi cô được Đánh thức và khi cô học Pháp thuật Không Khí, cậu đã nhận thấy những khác lạ nơi cô, đặc biệt quanh khuôn mặt và đôi mắt. Cậu còn để ý thấy được cả sự hơi khác nhau rất tinh tế trong màu mắt cô. Lần này cậu không thể nhìn thấy bất cứ chút thay đổi nào. Cô trông hệt như trước… nhưng không phải. Và Pháp thuật Lửa thậm chí lại tạo thêm khoảng cách giữa cô với cậu. “Chị dường như không chút khác lạ.”
“Chị cũng không cảm thấy chút khác lạ nào. Ngoại trừ thấy ấm hơn,” cô nói thêm. “Chị không còn cảm thấy lạnh.”
Vậy mà, bây giờ, đây lại là chị gái của cậu, Josh nghĩ. Cô chỉ trông như bất cứ cô gái tuổi teen nào khác mà cậu từng biết. Song.. cô lại không gống bất cứ một ai khác trên hành tinh này: cô có thể điều khiển hai trong số những pháp thuật căn bản.
Có lẻ đó là phần đáng sợ nhất trong tất cả chuyện này; những người bất tử - những người như: Flamel và Perenelle, Joan, Saint – Germain hoa mỹ và ngay cả Dee tất cả họ đều rất đổi bình thường. Họ là mẫu người bạn có thể đi ngang qua trên phố mà không một giây nào liếc mắt qua nhìn. Scathach, với mái tóc đỏ và đôi mắt xanh màu cỏ, sẽ luôn gây sự chú ý. Nhưng cô ta lại không phải là con người.
“Làm như vậy… làm như vậy có đau không?” cậu hỏi tò mò.
“Không tí nào.” Cô mỉm cười. “Gần như thất vọng. Francis phần nào bỏ đầy lửa vào tay chị… ồ, và chị có cái này,” cô nói, giơ cao cổ tay phải và để ống tay áo tụt xuống lộ ra kiểu trang trí đã in sâu vào da thịt cô.
Josh chồm người tới trước để nhìn kỹ cánh tay Sophie. “Hình xăm,” cậu nói, sự ganh tị nghe rõ ràng trong tiếng nói. Cặp sinh đôi luôn bàn với nhau về các hình xăm. “Mẹ sẽ cho ăn đòn nếu thấy cái đó.” Rồi cậu nói thêm, “Chị lấy nó ở đâu? Và tại sao?”
“Nó không phải là mực, nó được đốt bằng lửa,” Sophie giải thích, vặn cổ tay để chỉ cho cậu kiểu trang trí.
Thình lình Joshnắm tay cô và chie vào chấm đỏ được bao quanh bởi một vòng tròn màu vàng ánh kim ở mặt dưới cổ tay. “Em đã từng nhìn thấy cái gì giống vậy trước đây rồi,” cậu nói từ từ, và cau mày, cố nhớ lại.
Cô chị sinh đôi của cậu gật đầu. “Phải mất một lúc, nhưng rồi chị nhớ ra rằng Nicholas cũng có một cái gì đó giống như vậy ở cổ tay chú ấy,” Sophie nói. “Một cái vòng với một chữ thập xuyên qua.”
“Đúng rồi.” josh nhắm mắt lại. Lần đầu tiên cậu để ý thấy hình xăm nhỏ trên cổ tay Flamel là khi cậu bắt đầu làm việc cho ông trong tiệm sách, và dù cậu tự hỏi tại sao nó lại nằm ở một chỗ không bình thường như vậy, nhưng cậu chưa bao giờ hỏi ông. Cậu mở mắt ra lại và nhìn hình xăm, cậu chợ nhận ra rằng Sophie đã bị đóng nhãn bỡi ma thuật, bị đánh dấu như một người có thể kiểm soát những yếu tố cơ bản. Và cậu không thích điều đó. “Chị cần có nó để làm gì vậy?”
“Khi nào chị muốn dùng lửa, chị ấn vào tâm vòng tròn này và tập trung luồng điện. Saint – Germain gọi nó là đường tắt, một mồi lửa cho năng lượng của chị.”
“Em tự hỏi không biết Flamel cần một cái mồi lửa để làm gì,” Josh ngạc nhiên buột miệng.
Ấm nước kêu lanh canh và Sophie quay lại bồn rửa chén. Cô đã tự hỏi mình một câu hỏi đó. “Có lẽ chúng ta có thể hỏi chú ấy khi chú ấy thức dậy.”
“Còn bánh mì không?” Josh hỏi. “Em đói muốn chết.”
“Em thì lúc nào cũng đói muốn chết.”
“Ừ, đung vậy, dợtkiếm làm em đói.”
Sophie xiên nỉa vào một lát bánh mì và đưa ra trước mặt cô. “Nhìn đây,” cô nói. Cô ấn vào bên dưới cổ tay và ngón tay trỏ bùng lên ngọn lửa. Chân mày cau mạnh, tập trung, cô dồn sức lại,tập trung vào ngọn lửa đang uốn éo thnahf ánh lửa màu xanh lơ và rồi đưa nps lên miếng bánh mì, nhẹ nhàng nướng nó. “Em có muốn nướng hai mặt luôn không?”
Josh nhìn chăm chú với vẻ ngưỡng mộ trộn lẫn khiếp sợ. Cậu biết hồi học môn khoa học ở lớp là bánh mì được nướng ở nhiệt độ khoảng 155 độ Celcius.
Dạ Phong
25-01-2011, 07:07 PM
Chương 28
Machievelli đang ngồi ở băng ghế sau chiếc xe hơi của hắn bên cạnh là Tiến sĩ John Dee.
Đối diện là ba Disir. Dagon ngồi ở ghế tài xế, đôi mắt không ai nhìn thấy ẩn sau cặp kính râm ôm sát quanh mắt. Chiếc xe nghe thoang thoảng mùi cá chua chua của hắn.
Một chiếc điện thoại cầm tay rung lên, phá vỡ sự im lặng nặng nề. Machievelli búng ngón tay mở nắp điện thoại ra mà không nhìn vào màn hình. Gần như hắn đóng điện thoại ngay tức thì. “Tất cả đã rõ. Người của tôi đã kéo lại và có một hàng rào an ninh trong khu vực chung quanh tất cả các khu phố liên kết. Sẽ không một ai tình cờ lang thang vào vùng cấm.”
“Bất kỳ chuyện gì xảy ra, không ai được vaò nhà,” Disir mắt tím nói. “Một khi chúng tôi thả Nidhogg, chúng tôi sẽ có rất ít quyền kiểm soát cho tới khi chúng ăn no.”
John Dee choomg người về phía trước, và trong chốc lát, trông như thể hắn sắp sửa khều vào đầu gối cô gái trẻ. Ánh nhìn trên gương mặt cô ả đã ngăn hắn lại. “Không được để thoát Flamel và mấy đứa nhỏ.”
“Câu đó như một lời đe dọa, Tiến sĩ,” chiến binh ngồi bên trái nói. “Hoặc là một mệnh lệnh.”
“Chúng tôi không thích những lời đe dọa,” cô chị đang ngồi bên phải nói thêm. “Và chúng tôi không làm theo lệnh.”
Dee chớp mắt chầm chậm. “Đây không phải là lời đe dọa mà cũng không phải mệnh lệnh. Đơn giản chỉ là một…. lời thỉnh cầu,” rốt cuộc hắn nói.
“Chúng tôi ở đây chỉ vì Scathach,” chiến binh mắt tím nói. “Những người còn lại không phải là mối quan tâm của chúng tôi.”
Dagon bước ra khỏi chiếc xe và mở cửa. Không hề liếc nhìn ra sau, các Valkyrie bước ra và đi vào vùng sáng lờ mờ đầu tiên của vùng sáng trước rạng đông, họ dàn ra và di chuyển chậm xuống con phố hẹp. Trông họ như ba cô gái trẻ trở về nhà sau một bữa tiệc thâu đêm.
Dee chuyển vị trí, ngồi đối diện Machievelli. “Nếu họ không thành công, tôi bảo đảm các chủ nhân của chúng ta sẽ biết rằng Disir là ý tưởng của ông,” hắn vui vẻ nói.
“Tôi chắc chắn ông sẽ làm vậy.” Machievelli không nhìn Pháp sư người Anh và tiếp tục dõi theo hành trình của ba cô gái trẻ khi các cô đi bộ xuống con phố. “Và nếu họ thất bại, ông có thể nói với các chủ nhân rằng Disir là ý tưởng của tôi, và ông có thể tự mình phủi sạch mọi khiển trách,” hắn nói thêm. “Đỗ lỗi: tôi tin lần đầu tiên tôi bắt kịp khái niệm đó là khoảng hai mươi năm trước khi ông chào đời.”
“Tôi tưởng ông nói họ đang mang theo Nidhogg?” Dee hỏi, tảng lờ những gì hắn nói.
Nicclolo Machievelli gõ nhẹ vào cửa sổ bằng những cái móng tay đã được cắt giũa. “Họ đã mang rồi.”
Khi Disir di chuyển xuống ngõ hẻm hẹp lát sỏi cuội và có tường cao hai bên, chúng biến hình.
Việc biến hình được chúng thực hiện khi chúng đi ngang qua một mảng tối. Chúng vừa vào vai những cô gái trẻ, mặc áo khoác da mềm, quần jeans và giày bốt… và chỉ trong chớp mắt đã thành các Valkyrie: các trinh nữ chiến binh. Áo choàng dài làm bằng những vòng xích trắng như băng tuyết buông ngang đầu gối, bao phủ bàn chân là đôi giày bốt bằng kim loại cổ cao đến gối với mũi giày được đóng đinh nhọn, găng tay da dát kim loại nặng nề. Nón bảo hiểm tròn bảo vệ đầu và mặt nạ che mắt mũi nhưng để hở miệng. Ngang hông quấn một thắt lưng da màu trắng treo bao kiếm và dao. Các Valkyrie mỗi ả một thanh kiếm rộng bản trông một tay, còn có một thứ vũ khí thứ hai dắt sau lưng: một cái giáo hai đầu, rìu chiến và búa chiến.
Chúng dừng lại trước cánh cổng màu xanh lục mục nát chìm sâu vào bức tường. Một trong số Valkyrie quay lại nhìn chiếc xe hơi và chỉ vào chiếc găng tay cánh cổng.
Machievelli bấm nút cuốn cánh cửa xuống. Hắn chĩa ngón tay trái lên trời và gật đầu. Mặc cho vẻ bề ngoài hư nát, nó đúng là cánh cổng sau ngôi nhà của Saint – Germain.
Từng Disir đều với tay vào cái túi da treo ở thắt lưng. Lấy ra một nắm những vật giống như những miếng đá phẳng bẹt, chúng ném tung vào cánh cửa.
“Chúng đang Đúc Dấu Ma Thuật,” Machievelli giải thích. “Chúng đang gọi Nidhogg.. sinh vật ông đã phóng thích, một loài mà chính các Elder đã giam giữ cẩn thận.”
“Tôi không biết nó bị nhốt trong Cây Thế giới,” Dee lẩm bẩm.
“Thật ngạc nhiên. Tôi tưởng ông biết mọi chuyện.” Machievelli xoay chuyển trong chỗ mình để nhìn thẳng vaò Dee. Trong ánh lờ mờ tranh tối tranh sáng, hắn có thể nhìn thấy Pháp sư trông thật xanh xao và những giọt mồ hôi lấm tấm rịn ra lấp lánh trên trán. Nhiều thế kỷ kiềm chế cảm xúc đủ bảo đảm để Mchievelli không mỉm cười. “Tại sao ông phá hủy Yggdrasill?”
“Đó là nguồn năng lượng của Hekate,”Dee nói ngay, đôi mắt dán chặt vào các Valkyrie, chăm chú nhìn chúng. Chúng đã bước lùi khỏi những miếng đá mà chúng vừa ném xuống đất và đang khẽ khàng bàn tính với nhau, tay chỉ về những viên ngói xếp lớp.
“Nó có số tuổi bằng với tuổi của hành tinh này. Vậy mà ông phá hủy nó không một giây suy nghĩ. Tại sao ông lại làm vậy?” Machievelli lấy làm lạ bật hỏi.
“Tôi nghĩ đó là những gì cần thiết.” Những lời của Dee lạnh băng. “Tôi sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để mang các Elder trở lại thế giới.”
“Nhưng ông không cân nhắc hậu quả,” Niccolo Machievelli nói nhẹ nhàng. “Mỗi hành động đều có một hậu quả. Yggdrasill mà ông đã phá hủy trong vương quốc của Hekate kéo dài đến tận Vương quốc Bóng tối khác. Những nhánh cao nhất vươn đến Vương quốc Bóng tối của Asgard, và rễ cắm sâu vào Nifheim, Thế giới Đen tối.” Hắn thấy Dee cứng người lại.
“Khi phá hủy Cây Thế giới, không những ông đã phóng thích Nidhogg, mà còn phá hủy ít nhất ba Vương quốc Bóng tôí – có lẽ còn hơn thế nữa.”
“Tôi không biết..”
“Ông đã gây thù chuốc oán vơí nhiều người,” Machievelli phớt lờ hắn, cứ nói như tuôn ra, “những kẻ thù nguy hiểm. Tôi nghe nói rằng Elder Hel đã trốn thoát khỏi cuộc sụp đổ vương quốc của bà. Tôi nghĩ bà đang săn lùng ông.”
“Tôi không sợ bà ta đâu,” Dee đốp chat, nhưng tiếng nói của hắn thoáng run rẩy.
“Ồ, phải không đó,” Machievelli thì thào. “Bà ta làm tôi chết khiếp.”
“Chủ nhân của tôi sẽ bảo vệ tôi,” Dee nói đầy tin tưởng.
“Ông ta phải là một Elder mạnh thật sự mới bảo vệ được ông khỏi Hel; không ai chống cự lại bà ta mà còn sống sót.”
“chủ nhân của tôi có mọi sức mạnh.” Dee ngắt lời.
“Tôi mong được biết nhân dạng của vị Elder bí ẩn này.”
“Khi mọi chuyện này qua đi, có lẽ tôi sẽ giới thiệu ông,” Dee nói. Hắn nói hất đầu xuống con hẻm. “Và có thể rất sớm thôi.”
Những miếng đá ma thuật rít lên và kêu xèo xèo dưới đất.
Chúng là những miếng đá dẹp đen thui không bình thường, mỗi cạnh là một dãy đường kẻ đầy góc cạnh, hình vuông và vạch xiên. Bây giờ những đường kẻ đó bừng bừng đỏ, bốc ra những làn khói đỏ cuốn xoắn tan vào bầu không khí yên tĩnh trước rạng đông.
Một Disir lấy mũi kiếm xê dịch ba miếng đá ma thuật vào với nhau. Disir thứ hai hất một miếng đá nằm trệch đường bằng đầu mũi thép của giày bốt, rồi kéo rê một miếng khác vào đúng chỗ. Disir thứ ba lấy một miếng đá ma thuật nằm lẻ loi ở cạnh trụ cửa và lấy thanh kiếm đó dích nó vào vị trí cuối của dãy ký tự.
“Nidhogg,” Disir thì thầm, gọi cơn ác mộng mà họ đã niệm chú tên của nó trong các phiến đá cổ xưa.
“Nidhogg,” Machievelli nói rất khẽ. Hắn nhìn chéo qua vai Dee đến chỗ Dagon đang ngồi chằm chằm nhìn thẳng đằng trước, có vẻ không quan tâm đến những gì đang diễn ra phía bên trái nó. “Tôi biết những gì huyền thoại đã nói về nó, nhưng Dagon, chính xác nó là cái gì vậy?”
“Dân tộc tôi gọi nó là Kẻ Thèm khát Tử thi,” tay tài xế nói, tiếng nói dính nhớp nháp và sôi sung sục. “Nó đã ở sẳn đây rồi trước cả khi giống loài tôi giành quyền trên biển, mà chúng tôi lại nằm trong số những loài đầu tiên đặt chân lên hành tinh này.”
Dee nhanh nhẹ xoay người trên ghế để nhìn thẳng vào tay tài xế. “Anh là ai?”
Dagon phớt lờ câu hỏi. “Nidhogg quá nguy hiểm đến nỗi hội đồng Giống loài Elder phải tạo ra một Vương quốc Đen tối, để chứa nó, và rồi họ dùng những cái rễ không gì có thể phá vỡ được của Yggdrasill quấn quanh sinh vật này, hầu khóa chặt chúng vĩnh viễn.”
Machievelli giữ mắt dán chặt vào làn khói đen đỏ cuộn bốc lên khỏi những miếng đá ma thuật. Hắn tưởng là hắn nhìn thấy đường viền của một hình hài đang bắt đầu được hình thành. “Tại sao các Elder lại không giết chết nó đi?”
“Nidhogg là một thứ vũ khí,” Dagon nói.
“Các Elder cần một thứ vũ khí để làm gì?” Machievelli kinh ngạc nói lớn. “Sức mạnh của họ hầu như không có giới hạn rồi. Họ đâu có kẻ thù.”
Dù ngồi với hai bàn tay buông lỏng trên tay lái thép, nhưng vai Dagon xoay sở và cái đầu của nó xoay gần như thành vòng tròn để đối diện với Dee và Machievelli. “Các Elder không phải là loài đầu tiên trên trái đất,” nó nói đơn giản. “Đã có những loài khác.” Nó nói ra những lời này một cách chầm chậm và cẩn trọng. “Các Elder đã sử dụng Nidhogg và một vài sinh vật nguyên thủy khác làm vũ khí trong cuộc Chiến tranh Vĩ đại để tiêu diệt hoàn toàn bọn kia.”
Machievelli sửng sờ nhìn Dee, trông hắn cũng bang hoàng không kém trước sự tiết lộ này.
Miệng Dagon hé mở thành một cái gì đó có thể là một nụ cười, để lộ cái họng đầy răng của nó. “Chắc các ông biết rằng lần gần đây nhất lúc Disir sử dụng Nidhogg, bọn chúng mất kiểm soát sinh vật này. Nó đã ăn sạch bọn chúng. Phải mất ba ngày để bắt nó lại và xích nó vào rễ cây Yggdrasill, nó đã tiêu diệt toàn bộ dân tộc Anasazi sống đâu đó trong vùng đất mà ngày nay là New Mexico. Người ta nói răng Nidhogg đã chén sạch hàng vạn con người mà caonf đói muốn ăn thêm.”
“Liệu những Disir này có kiểm soát được nó không?” Dee gặng hỏi.
Dagon nhún vai. “Mười ba chiến binh Disir tinh nhuệ đã không thể kiểm soát nó ở New Mexico..”
“Có lẽ chúng ta nên - ” Dee bắt đầu.
Machievelli bỗng cứng đờ. “Quá trễ,” hắn thì thào. “Nó kia rồi.”
Dạ Phong
26-01-2011, 06:19 PM
Chương 29
“Chị đi ngủ đây.” Sophie Newman dừng nơi ngững cửa bếp, một ly nước trong tay, cô ngoái nhìn Josh vẫn đang ngồi ăn ở bàn ăn. “Francis sắp dạy chị một số câu thần chú lửa cụ thể vào sáng mai. Ông ấy hứa sẽ chỉ cho chị mánh lới làm pháo hoa.”
“Quá đã, chúng ta sẽ không phải mua pháo hoa cho ngày Bốn tháng Bảy nữa.”
Sophie mỉm cười mệt mỏi. “Đừng thức khuya quá, gần sáng rồi đó.”
Josh ngốn một miếng bánh mì nướng nữa vào miệng. “Em vẫn còn ở múi giờ Pacific,” cậu nói, tiếng cậu nghẹn lại. “Nhưng một vài phút nữa em sẽ đứng lên. Ngày mai Scatty muốn tiếp tục tập dợt kiếm với em. Em thật sự mong đến lúc đó.”
“Láo, láo toét.”
Cậu cằn nhằn. “Đúng rồi, chị đã có ma thuật bảo vệ chị.. tất cả những gì em có là một thanh kiếm bắng đá.”
Nỗi cay đắng nghe rõ trong giọng nói của cậu, và Sophie buộc mình không được bình luận gì. Cô bắt đàu chán những lời than vãn liên mien của cậu em trai. Cô chưa bao giờ đòi được Đánh thức; cô cũng không muốn biết ma thuật cảu Bà Phù thủy hay của Saint – Germain. Nhưng điều đó đã xảy ra và cô phải đương đầu với nó, và Josh sẽ phải sớm vượt qua cơn này. “Chúc ngủ ngon,” cô nói. Cô đóng cánh cửa sau lưng mình, để Josh lại một mình trong gian bếp.
Xong lát bánh mì cuối cùng, cậu gom đĩa và ly của mình, mang chúng đến bồn rửa chén.
Cậu vặn nước nóng dọi khắp cái đĩa, rồi để nó nhiễu nước cho raó trong giá đựng đĩa có thanh chắn bằng dây kim loại đặt cạnh cái bồn sâu làm băng Ceramic. Rót đầy lại ly nước từ bình lọc, cậu đi ngang qua cửa bếp, đẩy nó mở ra và bước vào mảnh vườn nhỏ xíu. Dù trời đã gần sáng, cậu không thấy mệt chút nào, nhưng một lần nữa, cậu tự nhắc nhở mình, cậu đã ngủ gần hết cả ngày. Qua bức tường cao, cậu không nhìn thấy đường chân trời của Paris ngoại trừ tia sáng màu cam ấm áp sáng lên từ những ngọn đèn đường. Cậu nhìn lên, nhưng không thấy được vì sao nào trên khoảng trời. Ngồi xuống bậc thềm, cậu hít thở thật sâu. Không khí mát mẻ và ấm ướt, hơi giống của San Fransico, dù thiếu mùi muối đậm đà đặc trưng quen thuộc mà cậu rất yêu mến; thay vì mùi ô uế bởi những mùi xa lạ, nó vẫn còn một ít mùi nghe cũng dễ chịu. Cậu cảm thấy cay xè ngay sau nũi và muốn hắt hơi, cậu hít vào khó khăn, nước mắt chảy ra. Có mùi hôi thối rất khó chịu giống như mùi mấy cái thùng rác đầy ứ và mùi trái cây thối, rồi cậu thấy buồn nôn, cái mùi hôi thối đã nồng nặc hơn, mà sao lại nghe quen quen. Ngậm miệng lại, cậu hít thở sâu bằng mũi, cố nhận ra nó: nó là cái gì nhỉ? Nó là cái gì đó cậu đã ngửi thấy mới gần đây thôi…
Rắn.
Josh nhảy bật dậy. Không có rắn ở Paris này chứ, phải không? Sâu trong lồng ngực, Josh cảm thấy tim mình đập nhanh hơn. Cậu khiếp sợ rắn, nỗi sợ hãi lạnh buốt trong xương mà cậu có thể hồi tưởng lại từ cái thời cậu lên mười. Cậu đang cắm trại với ba cậu ở Di tích Quốc gia Wupatki trong vùng Arizona thì cậu bị trượt khỏi con đường mòn và rơi vào một con dốc, chuồi thẳng vào cái ổ rắn chuông. Khi bụi mù lắng xuống, cậu nhận thấy mình đang nằm kế bên một con rắn dài khoảng một mét tám. Sinh vật đó ngốc cái đầu nhọn như cái nêm và chằm chằm nhìn cậu băng hai con mắt đen như than chắc trong vòng chưa đầy một giây – nhưng lại có vẻ như cả một đời – trước khi Josh cố bò lết ra xa, quá kinh hãi và nín cả thở vì sợ điếng hồn. Cậu không bao giờ lý giải được câu hỏi tại sao con rắn không tấn công cậu, dù ba cậu bảo rằng rắn chuông thật sự rất nhút nhát và chắc chắn là nó vừa ăn no. Hàng mấy tuần sau đó cậu cứ gặp ác mộng về con dốc đó hoài, và cứ sau mỗi cơn mơ cậu lại tỉnh lại với mùi rắn xạ rắn bám đầy trong mũi.
Bây giờ cậu lại đang ngửi thấy nó.
Và ngày càng nồng nặc hơn.
Josh bắt đầu lùi bước lên mấy bậc thang. Đột nhiên có tiếng cào bới sục sạo, hệt như tiếng một con sóc chạy lên than cây. Rồi, ở ngay đằng trước cậu, phía bên kia của khoảnh sân cỏ, những cái vuốt, mỗi cái dài bằng cả bàn tay cậu, hiện ra khỏi bức tường cao khoảng hai mét bảy. Chưng cử động lanh quanh một cách chậm chạm, gần như rất tinh tế, lục tìm một cái lỗ, và rồi đột ngột quắp chặt cứng đến nỗi những cái móng cắm sâu vào lớp gạch cũ. Josh tê cứng người, cơn bang hoàng sửng sốt ập tới làm cậu không sao thở nổi.
Những cánh tay đi theo phủ một lớp da toàn những cục u bướu dày đặc.. và rồi cái đầu của một con quỷ hiện ra trên bờ tường. Nó dài và bằng riến như tấm ván, với hai lỗ mũi tròn vo ở mút đầu cái mũi cụt ngủi nằm ngay trên cái miệng và những con mắt đen thui đặc quẹo lún sâu xuống đằng sau mấy chỗ lõm hình tròn ở hai bên hộp sọ của nó. Không thể nhúc nhích, không thể thở, trái tim cậu đập thụi thụi như báu nện mạnh đến nỗi tự nhiên lắc rung cả thân người, Josh nhìn chằm bẳm vào cái đầu khổng lồ vặn vẹo bên này bên kia một cách lười biếng, một cái lưỡi dài ngoẳng, lưa tưa màu trắng nhợt nhạt đòng đưa khua khoắng trong không trung. Nó đứng yên, rồi chầm chậm, rất chậm chạp, quay cái đầu và nhìn xuống Josh. Mút đầu lưỡi của nó liếm không khí và rồi nó há miệng rộng ngoác – rộng không thể tưởng, đủ sức nuốt chững nguyên con người cậu – và những lưỡi dao quắm nhọn hoắt, bừa bãi lộn xộn.
Josh muốn quay người lại và hét lớn lên, nhưng cậu không thể. Có gì đó thôi miên cậu nhìn về phía cái sinh vật khiếp đảm đang trèo qua tường. Trong đời mình cậu từng đã bị mê hoặc bởi loài khủng long: cậu sưu tầm hóa thạch, trứng, xương và răng – thậm chí cả phân khủng long hóa đá. Và bây giờ cậu đang nhìn thấy một con khủng long sống.Thậm chí một phần não của cậu đã nhận diện được sinh vật này – hay ít ra là, nó tương tự với cái gì đó. Đó là con rồng Kodomo. Chúng không phát triển đến mức dài hơn ba mét trong vùng hoang vu, nhưng cậu có thể thấy sinh vật này ít nhất to lớn gấp ba lần như vậy.
Đá nứt nẻ. Một viên gạch cũ nổ ra thành bụi, và đến viên thứ hai, thứ ba.
Rồi một âm thanh như xẻ gỗ, răng rắc, lạo xạo và – hầu như bằng một cử động cũng chậm chạp – Josh nhìn chăm chú vào bước tường, với sinh vật đó treo trên đầu tường, đang lắc lư rồi đổ sầm xuống đất. Cánh cửa kim loại oằn xuống gãy làm hai, những cái bản lề văng ra và biến mất trong vòi phun nước, xé toạc một thanh gỗ lớn ra khỏi cái bể chứa. Con quỷ va mạnh xuống đất, thản nhiên trước đống gạch đá trút xuống như mưa quanh nó. Tiếng ồn xóc bẩy Josh tỉnh ra và cậu loạng choạng đi giật lùi lên bậc thang vừa đúng lúc con quỷ lết ì ạch trên những cái chân của nó và lê bước tiến đến, huongs thẳng vào ngôi nhà. Cậu con trai đóng sầm cách cửa và cài cho đến thanh cuối cùng. Đang quay đi thì qua cửa sổ nhà bếp cậu bắt gặp một hình thù trăng trắng, cậu vớ đại cái hình như là thanh kiếm, rồi bước ngang qua cái lỗ trống hoác trước đây từng là bức tường.
Josh giật lấy thanh kiếm đá khỏi sàn và đâm bổ vào sảnh. “Dậy!” cậu la lớn, tiếng cậu qua kinh khiếp đến nỗi ngay cả cậu cũng không nhận ra. “Sophie! Flamel! Mọi người!”
Cách cửa sau lưng cậu lắc rung lên trong cái khung cửa. Cậu liếc thật nhanh ra sau lưng vừa đúng lúc nhìn thấy cái lưỡi trắng của con quỷ đang tách khung gỗ ra khỏi tấm kính.
“Cứu!”
Kính vỡ tan và cái lưỡi lao vọt về nhà bếp, quét những cái đĩa xuống đất, quơ tán loạn bình lọ và nồi niêu soong chảo, đánh lên cái ghế. Kim loại kêu rin rít khi cái lưỡi chai lên nó; gỗ hóa đen và bốc cháy; nhựa chảy ra. Một giọt nước bọt có chất phá hủy nhỏ xuống sàn nhà và sủi bong bóng trên sàn gạch, rồi ăn sâu vào đá.
Theo bản năng. Josh quất thanh Clarent vào cái lưỡi. Thanh kiếm vừa đủ chạm đến cái lưỡi thôi, nhưng đột nhiên nó lại biến mất, thụt mạnh vào trong miệng con sinh vật đó.
Một thoáng yên lặng, rồi con quỷ đâm nguyên cái đầu của nó vào cánh cửa.
Cánh cửa sụp đổ tan nát thành vỏ bào; những bức tường dựa trên cạnh bên kia nứt nẻ ra khi đá bị đánh vỡ. Sinh vật kéo cái đầu lùi lại và giộng nó vào khe nứt lần nữa, giùi một cái lỗ rộng vào gian bếp. Toàn bộ căn nhà kêu cót két một cách đáng sợ.
Một bàn tay dặt lên vai Josh, suýt chút nữa làm ngưng luôn trái tim cậu. “Này nhìn xem cậu đã làm cái gì kìa: cậu vừa bỏ đi và làm nó điên lên đó.”
Scathach sải chân bước vào gian nhà bếp tan hoang và đứng ngay cái lỗ trống hoác do những cú đấm của sinh vật đó tạo ra. “Nidhogg,” cô nói, và Josh không chắc là cô đang nói với cậu không, “có nghĩa Disir không xa đây lắm.” Cô nói gần như hài lòng về nguồn tin này.
Scathach nhảy lùi lại đúng lúc cái đầu Nidhogg lại giộng vào cái lỗ. Cái mũi to tướng của nó nở rộng và cái lưỡi trắng của nó vỗ bẹt bẹt vào chỗ mà mới một tích tắc trước đó, Bóng tối đã đứng. Một khối nước dãi đặc quẹo đốt cháy phiến đá lát sàn, biến nó thành bùn lỏng. Hai thanh song kiếm của Scathach lao ra, lấp lóe ánh xám và bạc, và hai vết cắt dài xuất hiện nơi phần thịt màu trắng trên cái lưỡi chẻ lưa tưa của sinh vật đó.
Không rời mắt khỏi sinh vật, Scathach nói với Josh, hầu như rất bình tĩnh, “Bảo mọi người ra khỏi nhà, tôi sẽ chăm sóc cái thứ này…”
Và rồi một cánh tay to lớn đầy móng vuốt đập xuyên qua cửa sổ, quấn quanh thân người Nữ Chiến binh và kẹp chặt như cái mỏ kẹp rồi giộng cô vào bức tường với một lực đủ làm vỡ lớp vữa trát. Hai cánh tay Nữ Chiến binh bị kẹt lại trên người, hai thanh kiếm trở nên vô dụng. Cái đầu deeng dàng của Nidhogg hiện ra trong đống đổ nát bên hông nhà, miệng há lớn và cái lưỡi của nó lào thẳng về phía Scathach. Một khi cái lưỡi bọc acid lép nhép của nó quấn quanh người Nữ Chiến binh đang trong tình trạng không gì bảo vệ, nó sẽ kéo cô vào cái họng sâu hoắm của nó.
Dạ Phong
28-01-2011, 09:17 PM
Chương 30
Sophie chạy bay xuống cầu thang, nhãng ngón tay xòe ra kéo lê những chum tia và dải lửa xanh lơ.
Cô đang đứng đánh răng trong phòng tắm thì cả ngôi nhà rùng rung rung chuyển. Cô nghe tiếng gạch bể loảng xoảng ầm ĩ, và một tích tắc sau là tiếng thét của cậu em trai. Nó xé tan sự yên lặng của ngôi nhà và là âm thanh kinh khủng nhất mà cô từng nghe.
Cô vừa chạy xuống hành lang ngang qua phòng Flamel thì cửa bật mở. Trong thoáng chốc hầu như không nhận ra vẻ bối rối của người đàn ông đứng tuổi đang đứng trước nơi ngưỡng cửa. Túi mắt ông sẫm đến nỗi chúng trông như những vết tím bầm, và màu da vàng vọt yếu đuối. “Chuyện gì vậy?” ông lầm bầm, nhưng Sophie chạy vôi qua: cô không trả lời ông. Tất cả những gì cô biết là em trai cô đang ở dưới cầu thang.
Và rồi cả căn nhà lại rung lên lần nữa.
Cô cảm nhận được độ rung qua sàn và tường. Tất cả những bức tranh trên tường bên trái cô đều đổi vị trí và nghiêng lệch khỏi tâm.
Kinh hãi, Sophie chạy xuống cầu thang đến tầng một thì vừa đúng lúc cửa phòng ngủ mở ra và Joan xuất hiện. Lúc này cô gái nhỏ nhắn đang mặc bộ đồ ngủ bằng satin bóng láng màu xanh lá ngả sang xanh lơ – ngay sau đó, cô mặc vào một bộ áo giáp kín người bằng kim loại, một thanh kiếm dài rộng bản nằm trong bàn tay đeo găng. “Quay lên đi,” Joan gắt, giọng Pháp của cô nghe rất rõ.
“Không,” Sophie la lên. “Josh – nó gặp chuyện rồi!”
Joan bước tới bên cạnh cô bé, bộ áo giáp kêu lanh canh và loạt soạt. “Ok vậy cũng được, nhưng phải ở đằng sau tôi và ở phía tay phải, để tôi luôn biết được em ở đâu,” Joan ra lệnh. “Em có thấy Nicholas không?”
“Chú ấy thức dậy rồi. Nhưng có vẻ như bị bệnh.”
“Kiệt sức thôi. Trong điều kiện của mình, ông ấy không dám dùng ma thuật nữa. Nó có thể giết chết ông ấy.”
“Frsncis đâu?”
“Chắc ở tầng áp mái. Nhưng gian phòng đó cách âm và ông ấy sẽ bật tai nghe trong dàn bass giộng ầm ầm; tôi nghĩ ông ấy không nghe được gì đâu.”
“Ông ấy phải cảm thấy được ngôi nhà rung chứ.”
“Chắc ông sẽ tưởng đó là do hệ thống bass qua hay.”
“Em không biết Scatty ở đâu,” Sophie nói. Cô đang chiến đấu khó khăn để kiềm chế nỗi sợ hãi đang sôi bên trong không cho nó áp đảo cô.
“May ra, cô ấy xuống cầu thang và đang ở trong bếp với Josh. Nếu cô ấy ở đó thì cậu ta OK,” Joan nói thêm. “Bây giờ em theo tôi.” Giữ chặt thanh kiếm thẳng đứng trong cả hai tay, cô gái di chuyển thận trọng xuống cầu thang cuối cùng và bước vào gian tiền sảnh rộng rãi dát đá hoa ở ngay mặt tiền ngôi nhà. Cô dừng lại bất ngờ đến nỗi Sophie gần như dẵm lên cô. Joan chỉ về phiá cửa trước . Sophie bắt gặp một hình thù trắng như ma hiện đằng sau những ô cửa kính mờ, và rồi có tiếng một thanh gỗ gãy răng rắc… và một cái đầu rìu xuất hiện qua cánh cửa. Rồi một tiếng nỗ giòn, cánh cửa trước bị đập mạnh bật mở ra, những mảnh vỡ của gỗ và kính rơi xuoongs như mưa.
Hai dáng người bước vào gian tiền sảnh.
Trong ánh sáng cảu chùm đèn treo trang trí bằng pha lê, Sophie nhìn thấy chúng là những cô gái trẻ mặc áo giáp làm bằng những vòng xích màu trắng, khuôn mặt của chúng giấu sau nón bảo hiểm, một cô ả cầm kiếm và rìu, cô ả kia mang kiếm và cây giáo. Cô phản ứng theo bản năng. Nắm chặt cổ tay phải bằng tay trái, cô xòe rộng các ngón tay, lòng bàn tay lên hướng lên trên. Những ngọn lửa xanh lè nỗ lốp bốp văng tung tóe xuống sàn ngay trước hai cô gái, bắn thẳng lên một tấm lửa cứng màu xanh ngọc lục bảu chập chờn.
Hai cô gái bước xuyên qua ngọn lửa mà không hề khựng lại nhưng lại dừng hẳn khi bắt gặp Joan trong bộ áo giáp. Chúng nhìn nhau rõ ràng là bối rối. “Cô không phải là người có ánh bạc. Cô là ai?” một ả hỏi gặng.
“Đây là nhà tôi, và tôi tưởng đó phải là câu hỏi của tôi chứ,” Joan nói dứt khoát. Cô quay người sang một bên, vai trái cô hướng về phía hai cô gái, giữ chặt kiếm trong cả hai tay, đầu kiếm chậm rãi chuyển động thành con số tám giữa các chiến binh.”
“Đứng qua một bên. Chúng tôi không tranh cãi với cô,” một người nói.
Joan nâng thanh kiếm lên, đưa cái chuôi gần sát mặt cô, mũi kiếm dài chỉ thẳng lên trời. “Các cô vào nhà của tôi và bảo tôi tránh sang một bên,” cô nói với vẻ ngờ vực. “Các cô là ai.. là cái gì? Cô gặng hỏi.
“Chúng tôi là Disir,” cô gái mang kiếm và giáo nói nhẹ nhàng. “Chúng tôi ở đây vì Scathach. Chúng tôi chỉ tranh cãi với cô ả thôi. Nhưng đừng cản đường chúng tôi nếu không nó sẽ trở thành vụ tranh cãi với cô đó.”
“Bóng tối là bạn tôi,”Joan nói.
“Vậy thì điều đót biến cô thành kẻ thù của chúng tôi.”
Không hề có dấu hiệu gì báo trước, các Valkyrie đồng loạt tấn công, ả này lao tới với kiếm và giáo, còn ả kia thì với kiếm và rìu. Lưỡi kiếm nặng của Joan xoay chuyển, tiếng kim loại va vào nhau kêu chan chat, các cử động gần như không thể nhìn thấy được và quá nhanh khi cô chặn những thanh kiếm thọc tới, né qua một bên tránh lưỡi rìu và gạt cây giáo xuống.
Disir nhảy lùi lại và dàn ngang cho tới khi cúng đứng ở cả hai phía của Joan. Cô phải xoay đầu mới có thể quan sát được cả hai.”
“Đánh giỏi lắm.”
Môi Joan kéo giãn ra khỏi răng thành một nụ cười hoang dã. “Tôi được người giỏi nhất dạy dỗ mà. Chính Scathach đã huấn luyện tôi.”
“Tôi nghĩ là tôi đã nhận ra kiểu đánh này rồi,” Disir thứ hai nói.
Chỉ có đôi mắt xám của Joan cử động khi cô theo dõi hai chiến binh. “Còn tôi lại nghĩ rằng tôi không có một kiểu đánh cố định naò cả.”
“Cả Scathach cũng không nốt.”
“Cô là ai?” Disir đứng bên phải hỏi. “Trong đời tôi tôi chưa thấy một tay nào có thể chống cự chúng tôi. Và không ai trong bọn chúng là con người cả.”
“Tôi là Joan Arc,” cô trả lời đơn giản.
“Chưa bao giờ nghe,” Disir nói, và trong khi cô em đang nói, cô chị, đứng bên trái Joan, giật lui cánh tay, lấy trớn phóng cây lao..
Thứ vũ khí ấy nỗ tung thành những ngọn lửa màu đỏ trắng.
Với một tiêng hú hoang dại, Disir quăng ngọn giáo qua một bên; ngay lúc nó đụng đất, cái cán gỗ tan ra thành những hạt bụi còn nhỏ hơn tàn tro và cái đầu kim loại nhọn hiểm ác ấy tan chảy thành một cái vũng sủi bọt.
Đứng ở bậc thang cuối cùng, Sophie chớp mắt ngạc nhiên. Cô không biết mình có thể làm được như vậy.
Disir ở bên phải Joan lao thẳng tới trước, kiếm và rìu đan kết thành một thế cực mạnh trong khoảng không trước mặt cô ả, đập liên hồi vaò thanh kiếm của Joan, đẩy cô lùi bằng cuộc công kích dữ dội đầy ác ý.
Disir thứ hai quay lại Sophie.
Làm cho cái cán bùng cháy và nung chảy đầu giáo đẫ khiến cho cô mệt lử, cô ngòi thụp xuống lan can. Nhưng cô phải giúp Joan; cô cần phải đến với Josh. Ấn mạnh vào mặt dưới cổ tay, Sophie cố gọi Pháp thuật Lửa của mình. Khói bốc ra từ tay cô, nhưng không có tí lửa nào cả.
Disir sải bước thẳng cho đến khi đứng ngay trước cô gái nhỏ. Sophie đứng trên một bậc thang, và khuôn mặt hai cô gái gần như ngang tầm nhau. “Vậy thì, cô là con người có ánh bạc mà Pháp sư người Anh đã muốn một cách liều mạng.” Ẩn sau cái mặt nạ kim loại, đôi mắt tím của Valkyrie tỏ vẻ khinh bỉ.
Kéo một hơi thở sâu ớn lạnh, Sophie thẳng người. Cô giang rộng hai cánh tay, những ngón tay khép lại thành một nắm đấm thật chặt. Nhắm mắt, hít thở sâu, cố làm dịu lại trái tim đang đập thình thịch, cô hình dung ra đôi găng tay lửa; cô nhìn thấy hai bàn tay của mình hợp lại, định hình một trái banh lửa trong nắm tay cô như bột nhồi và rồi quăng mạnh nó vào hình dạng đang đứng trước cô. Nhưng khi cô mở mắt ra, chỉ có những vệt lửa nhỏ nhất màu xanh lơ mỏng như tơ đang nhảy múa trên da thịt cô. Cô vội phủi tay vào nhau và những tia lửa múa nhảy vô tội vạ xuyên chiếc áo giáp bằng vòng xích của chiến binh.
Disir đập mạnh thanh kiếm của ả và bàn tay mang găng của cô. “Những trò lửa bịp bợm lặt vặt của mi không làm ta cảm kích đâu.”
Một tiếng vỡ kinh hoang từ nhà bếp làm rung chuyển ngôi nhà một lần nữa. Chùm đèn trang trí treo ngay giữa gian tiền sảnh bắt đàu đung đưa qua lại, leng keng như tiêng nhạc trong khi những vùng bóng tối thì nhay múa.
“Josh,” Sophie thì thầm. Nỗi sợ hãi biến thành giận dữ: sinh vật này đã ngăn không cho cô đến với cậu em trai của cô. Và cơn giận đã cho cô sức mạnh. Nhớ lại những gì Saint – Germain đã làm trên mái nhà, cô bé chỉ ngón trỏ vào chiến binh và thả cơn thịnh nộ của mình tập trung vào duy nhất một chùm thôi.một ngọn giáo bằng lửa cứng màu vàng đen dơ bẩn nhảy ra khỏi ngón tay Sophie và nổ vào cái áo giáp vòng kim loại của Disir. Lửa bắn tung tóe khắp người chiến binh, và sức mạnh của cú đánh này làm cô ả khuỵu gối xuống. Cô ả la lớn bằng một thứ tiếng không sao hiểu được, giống như tiếng sói hú.
Bên kia gian tiền sảnh, Joan lợi dụng sợ xao lãng và ép kẻ tấn công cô không thương xót, đẩy cô ả lùi về cái khung cửa đã bị văng cánh mở ra trống hoác. Hai cô gái ngang tài ngang sức, trong khi thanh kiếm của Joan dài hơn và nặng hơn của đối thủ, Disir lại có lợi thế của của việc sử dụng hai thứ vũ khí. Thêm nữa, đã khá lâu rồi bây giờ Joan mới mặc lại áo giáp và chiến đấu bằng kiếm. Cô có thể cảm thấy các cơ vai đang nóng ran, còn hông và đầu gối thì nhức buốt vì trọng lượng của kim loại cô đang mang trên người. Cô phải kết thúc chuyện này thôi.
Valkyrie vừa bị ngã lồm cồm bò dậy trước mặt Sophie. Mặt trước của cái áo giáp bằng vòng xích ghi nhận toàn bộ sức mạnh phụt ra của ngọn lửa, những chỗ nối tan ra, chảy xuống như sáp mềm. Chiến binh túm một nắm áo giáp và giật nó ra khỏi người mình, quăng qua một bên. Chiếc áo thụng dài màu trắng bên dưới cháy sém và đen sạm, với những lát kim loại chảy ra dính vào áo lấp lánh. “Đứa con gái nhỏ kia,” Disir thì thào, “ta sẽ dạy mi không bao giờ còn dám chơi với lửa.”
Dạ Phong
31-01-2011, 06:37 PM
Chương 31
Cái lưỡi nhầy nhụa của Nidhogg phóng xuyên không trung đến thẳng chỗ Scathach vẫn bị xoay tròn trên bức tường nhà bếp, móng vuốt con vật đó quắp vào cô chặt cứng. Nữ Chiến binh đánh nhau trong im lặng hoàn toàn, cố thoát khỏi gọng kềm của con quỷ, cô vặn mình từ bên này sang bên kia, gót giày bốt rà rà tìm điểm tựa trên nền đá trơn trượt. Vì hai cánh tay bị kẹp cứng sát vào hông, cô không thể nào sử dụng những thanh kiếm ngắn của mình được.
Josh biết rằng thậm chí nếu cậu có ngừng lại để suy nghĩ, thì cậu cũng không thể làm được những gì ý cậu đã nghĩ ra. Mùi của sinh vật này đang làm dạ dày cậu nôn nao, và tim cậu đập mạnh đến nỗi cậu không sao bắt kịp được hơi thở mình.
Cái lưỡi chẻ lưa tưa chải ngang qua mặt bàn, để lại một vết cháy ăn sâu xuống gỗ. Nó chọc vút qua cái ghế gỗ như thể đâm thẳng vào đầu Nữ Chiến binh.
Tất cả những gì phải làm, Josh cứ tự nhắc nhở, là xem thanh kiếm của mình như thể một quả bóng đá. Giữ chặt thanh Clarent cao khỏi đầu trong thế nắm chặt hai tay mà Joan mới chỉ cho cậu, cậu phóng mình tới trước hệt như chuyển động mà huấn luận viên ở ngôi trường gần đây nhất đã mất trọn mùa dợt bóng – và đã thất bại – để dạy cho cậu.
Ngay khi đang nhảy, cậu đã biết mình tính toán sai mất rồi. Cái lưỡi chuyển động qua nhanh, và cậu đã bị trật quá xa. Với nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng, cậu quăng thanh kiếm rời khỏi tay.
Thanh kiếm chém vào bên hông cái lưỡi đầy thịt của Nidhogg. Và dính phập vào.
Đến lượt những năm tập tae kwon do phát huy tác dụng khi Josh té đâm sầm xuống nền đá lát. Cậu đụng rất mạnh nhưng vẫn ráng chống lòng bàn tay xuống, bật người về phía trước thành một cú cuộn tròn gọn lỏn đưa cậu trở về tư thế đứng thẳng… chỉ chưa đầy một mét là đụng đến cái luỡi như miếng thịt đầm đìa acid kia. Và thanh kiếm.
Chụp chắc đuôi kiếm, cậu dùng hết sức lực kéo nó ra khỏi cái lưỡi – một thứ âm thanh phát ra giống tiếng gỡ của loại khóa dán bằng hau dải sợi kết dính vào nhau, rồi cái lưỡi kêu xèo xèo và rít ré giật mạnh trở vào miệng con quỷ. Josh biết rằng nếu cậu dừng lại, cả cậu và Scatty chỉ có chết. Đầu tiên cậu đâm ngập mũi kiếm Clarent vào cánh tay con quỷ ngay phía trên khớp nối cổ tay. Khi lưỡi kiếm ngọt xớt phập sâu vào lớp da cá sấu châu Mỹ, nó bắt đầu rung lên, một âm thanh the thé buốt nhói làm Josh nổi gai ốc. Cậu cảm thấy một luồng hơi ấm chạy ngược lên cánh tay cậu và thấm vào lồng ngực. Một tích tắc sau, sức mạnh và năng lực tiềm tàng trào dâng trong cậu xua tan hết mọi cơn nhức nhối và đau đớn. Luồng điện của cậu chói lói một màu vàng ánh kim lóa mắt, và những tia sáng mang họa tiết hình mảng cuộn xoáy quanh lưỡi kiếm đã màu xám khi cậu rút mạnh nó ra khỏi con vật.
“Mấy cái vuốt, Josh. Chém mấy cái vuốt đi,” Scathach lùng bùng thốt ra khi Nidhogg lắc cô dữ dội. Hai thanh kiếm tuột khỏi tay cô và rơi loảng xoảng xuống nền nhà.
Josh chém té tát vào con quỷ, cố cắt đứt một cái vuốt, nhưng cuối cùng lưỡi kiếm đá nặng nề bật lên và nảy khỏi bàn chân nó mà chẳng suy chuyển gì. Cậu cố lần nữa, và lần này thanh kiếm chém lớp da bọc sắt của con vật tóe lửa.
“Ấy! Cẩn thận,” Scathach kêu oái lên khi lưỡi kiếm nhún nhảy đến gần sát đầu cô rất nguy hiểm. “Đó là một trong số rất ít những vũ khí thật sự có thể giết chết tôi mất.”
“Xin lỗi,” Josh lầm bầm qua hai hàm răng nghiến chặt. “Trước nay em chưa bao giờ làm bất cứ cái gì giống thế này.” Cậu chém cái vuốt lần nữa. Những tia lửa bay trúng mặt Nữ Chiến binh. “Tại sao chúng ta lại muốn một cái vuốt nhỉ?” cậu vừa cằn nhằn, vừa chặt mạnh vào lớp da cứng như sắt.
“Nó chỉ có thể bị giết bằng một trong những cái vuốt của chính nó,” Sacthach nói, nghe tiếng cô bình tĩnh đến ngạc nhiên. “Nhìn kìa! Lùi lại đi!”
Josh quay lại vừa đúng lúc cái đầu to vật vã của cái thứ đó bổ nhào tới trước, húc vào cạnh nhà đã đổ xuống, cái lưỡi trắng của nó phóng ra phía trước một lần nữa. Nó nhằm vào cậu. Nó di chuyển quá nhanh; không còn đường nào để chạy – và nếu chạy đi, nó sẽ đập đúng vào Scatty ngay. Trụ chân thật vững, cả hai tay vòng chặt quanh chuôi kiếm Clarent, cậu giơ thanh kiếm ra trước mặt. Cậu nhắm mắt và tiến gần đến nỗi kinh hoàng – rồi lại mở bừng mắt ra ngay lập tức. Nếu cậu có sắp chết, cậu cũng phải chết với đôi mắt đang mở.
Giống như chơi game trên màn hình, cậu nghĩ – ngoại trừ trò này là thứ chết người. Cậu nhìn thấy hai đầu của cái lưỡi tưa lưa quấn quanh lưỡi kiếm gần như bằng một chuyển động rất chậm – như thể nó muốn giật thanh kiếm ra khỏi tay Josh. Cậu siết chặt tay nắm, quyết tâm không để thanh kiếm bị giật đi.
Khi phần thịt trong lưỡi con vật chạm vào lưỡi kiếm đá, hiệu quả đến tức thì.
Sinh vật sựng người lại, rồi run rẩy và rít ré lên, âm thanh như tiếng hơi nước phụt xì xì.
Acid trong lưỡi nó dính vào lưỡi kiếm sủi bong bóng và thnah kiếm rung rung trong tay Josh, rung lên như một cái nĩa bắt được song, dần ấm lên, rồi nóng, và bắt đàu bùng sáng một thứ ánh sáng trắng tinh. Cậu nhắm tịt hai mắt…
…và đằng sau đôi mắt nhắm, Josh thoáng thấy một chuỗi những hình ảnh lung linh: quang cảnh đổ nát và đáng nguyền rủa của một vùng đá đen, lỗ chỗ những cái ao dung nham sôi sung sục, trong khi trên đầu, bầu trời sôi lên những đám mây bẩn thỉu mưa xuống toàn tro và xỉ than. Giăng ngang bầu trời, long thong lủng lẳng từ những đám mây là cái gì giống như đám rễ này là căn nguyên của lớp tro màu trắng chói gắt: chúng đang phân hủy, héo quắt lại và hấp hối...
Nidhogg thình linh xoắn mạnh giật cái lưỡi đã hóa đen của nó ra.
Josh kinh ngạc há hóc miệng và mở bừng mắt ngay khi luồng điện của cậu vụt sáng rực, lần này mạnh hơn – sáng chói hơn – làm lóa chính mắt cậu. Hốt hoảng, vung vẩy thanh kiếm trước mặt mình, cậu bước lùi dần cho tới khi cậu cảm thấy bức tường nhà bếp đụng vào hai cái xương dẹt sau vai cậu. Mắt cậu chớp dữ dội, cậu muốn giụi, nhưng không dám nới lỏng bàn tay đang nắm chặt thanh kiếm. Khắp chung quanh mình, cậu nghe tiếng đá rơi, trta vữa nứt nẻ, gỗ kêu cọt kẹt và gãy răng rắc, cậu gập vai khum lại, sợ có cái gì đó bể ra rớt xuống đầu mình. “Scatty?” cậu gọi.
Nhưng không có tiếng trả lời.
Cậu cao giọng. “Scatty!”
Nheo mắt, chớp mắt hết sức để xóa sạch những đốm sáng nhảy múa trước mắt mình, cậu nhìn thấy con quỷ kéo lê Scathach ra khỏi nhà. Cái lưỡi của nó, bây giờ đã thnahf màu đen và nâu, đang thè ra lửng lơ một bên mép. Kẹp Nữ Chiến binh chặt cứng, nó xoay người theo chiều dài than mình nó và băng ngang mảnh vườn đã bị phá tan hoang, cái đuôi dài của nó lạng từng khoảng gỗ bông khỏi hông nhà, quét mạnh qua ô cửa sổ duy nhất chưa bị vỡ. Rồi sinh vật đó đứng lên hai chân sau, như một con thằn lằn có vòng lông cổ, và lách cách đi xuống ngõ hẻm, suýt chút nữa giẫm phải một hình thù mặc áo giáp vòng xích trắng đang đứng gác. Không chút chần chừ hình thù này biến mất ngay sau sinh vật đó.
Josh loạng choạng chui ra qua cái lỗ rộng toác hoác bên hông căn nhà và ngừng lại. Cậu liếc ra đằng sau. Cái bếp đã có lần rất gọn gang giờ là một đống đổ nát toàn những mảnh vụn. Rồi cậu nhìn thanh kiếm trong tay và mỉm cười. Cậu đã ngăn được con quỷ. Nụ cười mỉm của cậu ngoác ra thành một nụ cười toe toét. Cậu đã đánh bật được nó và đã cứu được chị gái cậu cũng như những người khác trong nhà này.. ngoại trừ Scatty.
Hít một hơi thật sâu, Josh vụt nhảy xuống mấy bậc thang và lao xuyên qua mảnh vườn rồi phóng vào con hẻm, theo dấu con quỷ. “Mình không tin là mình đang làm việc này,” cậu lầm bầm. “Thậm chí mình còn không thích Scatty. Ồ, ..không thích lắm,” cậu tự chữa lại.
Dạ Phong
03-02-2011, 12:32 AM
Chương 32
Niccolo Machiavelli luôn là người cẩn thận.
Hắn đã sống sót và thậm chí còn phát triển mạnh vào thế kỷ mười lăm dưới triều Medici ở Florence, một nơi đầy nguy hiểm và luôn kề cận cái chết, một thời kỳ khi mà những toan tính những mưu mô ngấm ngầm lại trở thành một lối sống và những cái chết bất đắc kỳ tử cùng những cuộc ám sát là chuyện thường tình. Cuốn sách nỗi tiếng nhất của hắn, Bậc Quân Vương, là một trong những thứ đầu tiên nêu lên rằng việc sử dụng thủ đoạn lừa gạt, dối trá và giả hình hoàn toàn có thể chấp nhận được đối với một nhà cai trị.
Machiavelli sống sót bởi vì hắn tinh tế, thận trọng, không ngoan và trên hết mọi tố chất khác: xảo quyệt.
Vậy thì điều gì khiến hắn gọi Disir đến? Các Valkyrie không có những lời tế nhị trong khôn ngôn ngữ của chúng và chúng không biết ý nghĩa trong từ thận trọng.Ý tưởng của chúng về khôn ngoan và xảo quyệt là mang Nidhogg – một con quỷ thời nguyên sinh không thể kiểm soát được – vào tận trung tâm của một thành phố hiện đại.
Và hắn đã cho phép chúng làm điều đó.
Bây giwof đường phố vang vọng những âm thanh của kính vỡ, gỗ nứt gãy và đá đỏ nhào.
Mọi hệ thống báo động trong xe hơi và nhà riêng đều om sòm cả lên, và tất cả các căn nhà khác dọc theo con hẻm nhỏ bật sáng đèn lên, dù chưa có ai bước ra ngoài.
“Chuyện gì đang xảy ra ở đó?” Machiavelli ngạc nhiên bật hỏi.
“Nidhogg đang ăn thịt Scathach chăng?” Dee lơ đãng gợi ý. Chiếc điện thoại di động của hắn bắt đầu rung lên, làm hắn xao lãng.
“Không, không được!” Machiavelli đột ngột la lên. Hắn đẩy cửa xe hơi mở bung, nhảy vọt ra, nắm cổ áo Dee và kéo hắn lao vào đêm tối. “Dagon! Ra!”
Dee giằng lại cố tự đi, nhưng Machiavelli cứ kéo hắn giật lùi ra sau, tránh xa chiếc xe hơi. “Anh mất trí hả?” tay Tiến sĩ rít lên.
Một vụ kính nỗ bất thình lình làm Dagon văng mạnh vào tấm kính chắm gió. Nó tuột khỏi mui xe và đập xuống đất ngay bên cạnh Machiavelli và Dee, nhưng Pháp Sư không hề liếc mắt theo hướng nó. Hắn nhìn thấy chính thứ làm tay người Ý kinh hoảng.
Nidhogg lao xuống dưới con hẻm hướng thẳng về phía bọn chúng, đứng cao nghều trên hai cái chân sau mạnh mẽ. Treo lơ lững nơi những cái vuốt ở chân trước của nó là một hình thù mềm rũ với mái tóc đỏ.
“Lùi lại!” Machiavelli hét lớn, lăn mình xuống đất, kéo Dee theo hắn.
Nidhogg giẫm đè chiếc xe hơi dài màu đen do Đức sản xuất. Một chân sau giáng xuống ngay giữa mui xe, nghiêng nát nó bẹp dí xuống vỉa hè. Cửa sổ nổ, những mảnh thủy tinh bắn tung tóe như những mảnh bom khi chiếc xe hơi oằn xuống ngay chính giữa, bnahs trước và bánh sau văng bổng lên trời.
Sinh vật đó biến mất vào màn đêm.
Tích tắc sau, một Disir mặc đồ trắng gần như bay trên những gì còn lại của chiếc xe, vượt qua đó chỉ bằng một cú nhảy duy nhất, rồi phóng vọt theo sinh vật kia.
“Dagon?” Machiavelli thì thầm, lăn người qua. “Dagon, anh đâu rồi?”
“Tôi đây.” Tay tài xế gọn gàng đứng lên, phủi những mảnh kính vỡ lấp lánh trên bộ đồ đen. Nó tháo cắp kính râm bị nứt ra và vất xuống đất. Những màu sắc cầu vồng chạy qua đôi mắt không chớp của nó. “Nidhogg đang giữ Scathach,” nó vừa nói vừa nới lỏng cà-vạt đen và thò tay mở nút áo trên cùng của chiếc sơ-mi trắng.
“Cô ả chết chưa?” Machiavelli hỏi.
“Tôi chỉ tin Scathach chết khi nào tận mắt nhìn thấy.”
“Tán thành. Qua bấy nhiêu năm đã có qúa nhiều báo cáo nói về cái chết của ả. Và rồi cô ả lại trỗi dậy! Chúng ta cần phải thấy được thi thể.”
Dee bước ra khỏi vùng nước nhỏ đầy bùn; hắn nghi ngờ Machiavelli hẳn đã cố tình đẩy hắn vào chỗ đó. Hắn lắc nước ra khỏi chiếc giày. “Nếu Nidhogg có cô ả, thì Bóng tối chỉ có nước chết. Chúng ta đã thành công.”
Con mắt cá của Dagon xoay xuống nhìn vào mặt Pháp sư. “Ông là anh hùng phiến diện và ngạo mạn! Có cái gì trong nhà đã làm Nidhogg sợ hãi – đó là lý do tại sao nó lại bỏ chạy, và cái đó không thể là Bóng tối vì nó đã giữ cô ả rồi. Và hãy nhớ lại đi, đây là môt sinh vật không dễ gì sợ hãi. Ba Disir đã vào nhà – và chỉ có một đi ra! Một điều thật kinh khủng đã xảy ra trong đó.”
“Dagon nói đúng: đây là một thảm họa. Chúng ta cần xem lại chiến lược của mình.”
Machiavelli quay sang tay tài xế. “Tôi đã hứa với anh nếu Disir thất bại, thì Scathach là của anh.”
Dagon gật đầu. “Và ong luôn luôn giữ lời.”
“Anh đã ở bên tôi tính đến nay đã gần bốn trăm năm. Anh luôn trung thành, và tôi nợ anh cả đời tôi lẫn tự do của tôi. Anh không phải phục vụ tôi nữa,” Machiavelli nói một cách trang trọng. “Hãy đi tìm thi thể của Bóng tối.. và nếu cô ả vẫn còn sống, anh biết phải làm gì rồi đó. Giờ thì đi đi – và hyax an toàn anh bạn cũ.”
Dagon quay đi. Rôi thình lình nó dừng lại và ngoái nhìn Machiavelli. “Ông đã gọi tôi là gì?”
Machiavelli mỉm cười. “Bạn cũ. Hãy cẩn thận,” hắn nói dịu dàng. “Bóng tối không dễ gì gặp nguy hiểm, và cô ả đã giết qua nhiều những bạn bè của tôi.”
Dagon gật đầu. Nó tháo giày, vớ để lộ ra bàn chân ba ngón có màng. “Nidhogg sẽ hướng về với phía dòng sông.” Bất ngờ, cái miệng đầy răng của Dagon há ra có lẽ là một nụ cười.
“Mà nước lại là nhà tôi.” Rồi nó nhảy vào bóng đêm, dôi chân trần vỗ bèm bẹp xuống vỉa hè.
Machiavelli ngoái ra sau liếc nhìn về phía ngôi nhà . Dagon đúng; có cái gì đã làm Nidhogg sợ hãi. Điều gì đã xảy ra trong đó? Và hai Disir kia đâu?
Tiếng bước chân khua ồn ào trên hè phố và đột nhiên Josh Newman lao ra khỏi con hẻm, thanh kiếm đá trong tay tuôn ra những dải lửa vàng ánh. Không liếc nhìn sang phải hay sang trái gì hết, cậu chạy vòng qua chiếc xe bị phá hỏng và lần theo dấu tích đẽ nhận diện là những tiếng còi xe báo động dọc con đường con quỷ đi qua.
Machiavelli nhìn Dee. “Tôi nghĩ đó là thằng nhác người Mỹ?”
Dee gật đầu.
“Ông có tháy nó đang cầm cái gì không? Trông như một thanh kiếm,” hắn nói chậm rãi “Một thanh kiếm đá? Chắc nó không phải là thanh Excalibur chứ?”
“Không phải thanh Excalibur,” Dee nói ngắn gọn
“Rõ ràng đó là một lưỡi kiếm đá màu xám.”
“Đó không phải là Excalibur.”
“Sao ông biết?” Machiavelli gặng hỏi.
Dee lần tay dưới áo khoác và rút ra một thanh kiếm ngắn, một vũ khí cùng bộ với thứ vũ khí Josh mang. Lưỡi kiếm rung lên, kêu rừ rừ rất nhẹ gần như không thể cảm nhận được.
“Bởi vì tôi đang giữ Excalibur,” Dee nói. “Thằng nhỏ đang giữ thanh kiếm sinh đôi của nó, Clarent. Chúng tôi luôn nghi ngờ là Flamel đang giữ thanh kiếm này mà.”
Machiavelli nhắm mắt và ngửa mặt lên trời. “Clarent. Không ngạc nhiên khi Nidhogg bỏ chạy khỏi ngôi nhà.” Hắn lắc đầu. Đêm nay có thể còn gì tồi tệ hơn nữa không?
Điện thoại của Dee lại rung lên và cả hai người đàn ông nhảy nhổm lên. Pháp sư gần như bẻ gãy cái điện thoại ra làm hai. “Cái gì?” hắn hầm hè. Hắn lắng nghe một lát, rồi đóng điện thoại nhẹ nhàng, và khi nói lại, tiếng hắn còn hơn một lời thì thầm. “Perenelle đã trốn thoát. Bà ta đã chạy khỏi Alcatraz.”
Lắc dầu, Machiavelli quay người đi bộ xuống con hẻm, hướng về phía Champs-Elysees.
Câu hỏi đã có lời giải đáp Đêm nay đáng là càng lúc càng tồi tệ - tồi tệ hươn nhiều.
Nicholas Flamel sợ Machiavelli, nhưng Perenelle lại làm hắn kinh hãi.
Dạ Phong
03-02-2011, 11:07 PM
Chương 33
“Tôi không phải là đứa con gái nhỏ!” Sophie Newman điên tiết lên. “Và tôi còn biết nhiều thứ nữa chứ không phải chỉ là Pháp thuật Lửa. Disir.” Cái tên bật ra khỏi đầu cô, và đột nhiên Sophie biết mọi thứ Bà Phù thủy đã biết về hững sinh vật này. Bà Phù thủy xem thường chúng. “Tôi biết cô là ai,” cô bé thốt lên, đôi mắt lóe sáng một ánh bạc kỳ dị. “Những Valkyrie.”
Thậm chí chỉ xét trong số các Elder trôi thì Disir cũng đã có nhiều khác biệt. Chúng không bao giờ sống ở Danu Talis mà cứ bám riết các vùng đất phía bắc ở đỉnh thế giới, quen thuộc với những cơn gió rét cóng và lớp lớp nước đá từ những trận mưa băng tuyết.
Trong nhiều thế kỷ kinh khủng sau tự mất tích của Danu Talis, thế giới này thay đổi trục của nó và thời Cực Lạnh này đã bao trùm gần như toàn bộ trái đất. Những dãi băng từ phía bắc và phía nam tan chảy qua mọi cảnh vật, đẩy con người vào một vành đai xanh không bị đóng băng mỏng dính nằm quanh xích đạo. Toàn bộ các nền văn minh đều biến mất, chúng bị tàn phá bởi mô hình thời tiết thay đổi, bệnh tật và đói kém. Mực nước biển dâng cao, lũ lụt tràn vào các thành phố ven biển, làm phong cảnh biến dạng, trong khi ở các vùng nội địa băng hà xâm lấn quét sạch mọi dấu vết của các thành phố và làng mạc.
Chẳng mấy chốc Disir khám phá ra rằng những kỷ năng sống còn của chúng trong khí hậu khắc nghiệt phía bắc đã cho chúng một thuận lợi đặc biệt hươn các giống loài khác và nền văn minh không thể đương đầu với mùa đông chết choc không bao giờ dứt. Bè lũ các chiến binh nữ hoang dại nhanh chóng giành gần hết vùng phía bắc, bắt những thành phố vừa thoát khỏi băng hà phải làm nô lệ. Chúng tiêu diệt không thương xót tất cả những ai chống cự lại chúng, và không lâu sau Disir có cái tên thứ hai: Valkyrie, Lựa chọn của Thần Chết.
Rất nhanh các Valkyrie kiểm soát một đế quốc băng giá bao gồm hầu như toàn bộ Bắc Bán cầu. Chúng buộc những nô lệ mang dáng vóc con người phải tôn kính chúng như những vị thần và thậm chí đòi buộc những vật hiến tế, Những cuộc khởi nghĩa bị triệt hạ tàn nhẫn. Khi Kỷ Băng hà siết chặt gọng kiềm hơn, cũng là lúc Disir bắt đầu nhìn xa hơn về phía nam, đặt tầm mắt chúng lên những phần còn xót lại của nền văn minh đang phải sống rất chật vật lúc bấy giờ.
Những hình ảnh nhào lộn và nhảy múa trong đầu cô bé, Sophie nhìn xem triều đại của Disir sụp đổ trong chỉ một đêm. Cô biết được những gì đã diễn ra nhiều thiên nhiên kỷ qua.
Bà Phù thủy Endor đã làm việc với các Elder lạnh lùng, Chronos, kẻ có thể đi xuyên qua bản than thời gian. Cần thiết phải hy sinh đôi mắt của Bà để nhìn thấy những dải xoắn của thời gian, nhưng đây chính là sự hiến dâng mà bà không bao giờ hối tiếc. Sục tìm trong thời gian một vạn năm, trong từng thiên nhiên kỷ bà chỉ chọn đúng một chiến binh, và rồi Chronos đã cho tay vào từng kỷ nguyên để kéo những chiến binh trở lại thời kỳ Cực Lạnh.
Sophie biết rằng Bà Phù thủy đã đặc biệt yêu cầu cô cháu gái của bà, Scathach, được mang trở lại để chiến đấu chống Disir.
Chính Bóng tối là người đã lãnh đạo cuộc tấn công vào sào huyệt của Disir, một thành phố bị đóng băng đặc cứng gần đỉnh thế giới. Cô đã giết tan xác nữ hoàng Valkyrie, Brynhildr, ném mụ ta vào giữa lòng núi lửa đang cháy rừng rực.
Lúc mặt trời vừa nhô lên khỏi chân trời, sức mạnh của các Valkyrie bị phá vỡ vĩnh viễn, thành phố đóng băng của chúng nằm vùi trong những đóng đổ nát chảy tan tác, và chỉ chưa đầy một dúm tay còn sống sót. Chúng đã tan biến vào Vương quốc Bóng tốgiai bangs khủng khiếp mà tậm chí Scathach cungx không muốn dấn thân vào. Disir sống sót gọi đêm đó là Ragnarok, Phán quyết của Thần thánh, và thề sẽ báo thù Bóng tối cho đến đời đời.
Sophie úp hai bàn tay lại với nhau và một cơn gió lốc cỡ nhỏ hiện ra trong lòng bàn tay cô.
Lửa và băng đã tiêu diệt Disir trong qúa khứ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô dùng một chút Pháp thuật Lửa để nung nóng cơn gió? Vừa khi ý tưởng này xẹt qua tâm trí Sophie, cũng là lúc Disir nhảy tới trước, thanh kiếm của ả giơ cao khỏi dầu trong tư thế nắm chặt hai tay.
“Dee muốn mi sống, nhưng hắn không hề nói mi vô sự..,” cô ả hầm hè.
Sophie đưa hai tay lên miệng, ấn ngón cái của ta trái và mồi lửa trên cổ tay và hổi mạnh.
Cơn gió lốc vặn xoắc ốc trên sàn và lớn đần lên. Nó nảy lên một lần, hai lần… rồi đụng vào Disir.
Sophie nung không khí đến tầm nóng hơn lò lửa một chút. Cơn gió lốc mang sức nóng phồng da ấy vồ lấy Valkyrie, quay tròn cô ả, cuộn lại và ném tung cô ả lên không trung. Ả đụng vào ngọn chúc đài pha lê, làm vỡ hết những cái bóng chỉ còn giữ lại có một. Gian phòng đột ngột tối sầm lại, ngọn gió lốc nhảy múa trên sàn bừng sáng với làn hơi nóng màu da cam lung linh. Valkyrie ngã vật người xuống đất nhưng ngay trong tức khắc đứng dậy, vừa đúng lúc những mảnh vỡ của bầu pha lê dội lên trên mình ả như mưa thủy tinh. Nước da xanh tái của ả đỏ bừng trông như người bị cháy nắng dội, cả hai chân mày màu vàng đều cháy sém. Không nói lời nào, cô ả chém thanh kiếm xoạc ra, lưỡi kiếm nặng nề rạch ngang qua thành lan can ngay chỗ Sophie đang đặt tay.
“Scatty!”
Sophie nghe tiếng cậu em trai gọi từ nhà bếp. Cậu ấy gặp chuyện rồi.
“Scatty!” cô lại nghe cậu gọi lần nữa.
Valkyrie lao tới. Một đợt gió lốc đã được nung nóng khác úp chụp lấy cô ả, giật phang thanh kiếm khỏi tay và xoáy ả đi, ném cả than người đang nhào lộn của ả ta vào cô chị đang dồn Joan vào một góc và đập liên hồi vào đầu gối cô ấy bằng những cú rất hung ác.
Hai Disir ngã lăn xuống sàn trong tiếng loảng xoảng của vũ khí và áo giáp.
“Joan – quay lại!” Sophie hét lên.
Sương mù chạy từ những ngón tay cô gái nhỏ và cuộn khắp sàn nhà; những dải băng và thừng quấn dày cộp làm bằng không khí bốc khói phủ lên những cô gái kia, quấn chúng trong lớp dây xích không khí nỏng bỏng. Phải dùng đến một nỗ lực ý chí rất lớn, nhưng Sophie cố làm cho sương mù dày lên, quấn nhanh hơn, nhanh hơn nữa khi hai Disir đang loay hoay xoay sở cho tới khi chúng được tẩm liệm trong một cái kén dày ken như xác ướp.
Sophie có thể tự cảm thấy là mình yếu đi hẳn đi, sự kiệt sức trầm trọng và làm đôi mắt cô khô như có sạn và hai vai nặng trịch. Kéo chút tàn lực lên, cô bé vỗ tay và hạ nhiệt độ trông cái ken mù mịt nhanh đến nỗi nó đông cừng đột ngột thành một khối nước đá kêu răng rắc.
“Đó. Các cô sẽ thấy thoải mái như ở nhà,” Sophie thì thầm bằng giọng khàn khan. Cô chúi người xuống, rồi tự buộc mình phải đứng dậy và định lao vào nhà bếp thì Joan mở rộng cánh tay, ngăn cô bé lại. “Ồ không, em không được vào. Để tôi đi trước.” Cô gái nhảy một bước về phía cửa bếp, rồi liếc ra sau lưng nơi có khối nước đá, thấy rõ ràng hai Disir nằm bên trong. “Em cứu mạng tôi,” cô nói khẽ khàng.
“Chị hẳn sẽ đánh bại cô ả thôi mà,” Sophie nói một cách tin tưởng.
“Có lẽ có,” Joan thừa nhận, “và cũng có lẽ không. Tôi không còn trẻ như ngày trước nữa.
Dù sao em vẫn cứu mạng tôi,” cô lập lại, “và đó là món nợ tôi không bao giờ quên.” Xòe bàn tay trái ra, cô đặt nó nằm bẹp trên cánh cửa bếp và ấn một lực nhẹ. Cánh cửa bật mở kêu một tiếng tách.
Và rồi mấy cái bản lề bung ra.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5 Copyright © 2025 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.