PDA

Xem đầy đủ chức năng : [VN] - Những điểm du lịch ở Huế



Má Lúm
13-05-2009, 07:10 PM
Tổng quan về du lịch Huế


Sơ lược :

Huế ở miền Trung và là kinh đô của triều đại phong kiến.

Huế gắn bó mật thiết với các vị vua triều Nguyễn, triều đại nhà Nguyễn kéo dài từ 1804 đến 1945, khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị không điều kiện trước chính quyền cách mạng của Hồ Chí Minh.


Đến :
Bằng máy bay :

Sân bay Phú Bài có những chuyến bay hàng ngày đến và từ TpHCM và Hà Nội, nhưng các chuyến bay này thường bị trì hoãn do thời tiết xấu vào mùa mưa (giữa tháng 10 – giữa tháng 12). Khoảng 25 phút bằng taxi để đến trung tâm.

Sân bay Đà Nẵng, tốn khoảng hai giờ đi xe hơi từ đường hầm Hải Vân.
Giá tham khảo
+ Jetstar: từ HCM - Huế: Jet Saver 450.000 - Jet Flex 850.000

Bằng xe lửa/ tàu hoả :

Có vài chuyến tàu mỗi ngày đến Hà Nội, TpHCM, Đà Nẵng (4 giờ). Các chuyến xuôi miền nam qua đèo Hải Vân thì quang cảnh rất ngoạn mục, và từ Đà Nẵng bạn có thể đi taxi hoặc xe gắn máy đến Hội An.

Một vé tàu nằm hạng hai từ TpHCM đến Huế tốn 455.000đ và bạn có thể ngắm cảnh dọc đường suốt chuyến đi.

Bằng xe buýt :

Hầu hết các xe và open tour đều đi qua Huế. Từ Huế có thể đi Hội An, Đà Nẵng hoặc ra Hà Nội.


* Sinh Café, 7 Nguyễn Tri Phương. Xe đi từ Hội An mất 4 giờ tốn 4USD, ngày hai lần. Xe buýt đi Hà Nội lúc 17h30 mỗi ngày (9USD) và dừng ở Đông Hà và một hai nơi khác.

Ngoài ra còn có xe buýt thường xuyên đi Savanakhet và Vientiane ở Lào. Xe đi lúc 6 giờ sáng và 18hPM. Chuyến đi Savanakhet mất 12 tiếng và giá 12USD, đi Vientiane mất 20 tiếng và vé từ 15-20USD. Phương tiện có thể là minibus, xe máy lạnh hoặc một xe 30 tuổi đời. Đôi khi phải đổi xe 3,4 lần. Vé có thể mua ở bất cứ đại lý vé nào ở trung tâm Huế.


Dạo quanh :
Bằng taxi :

Một chuyến xe đi 2 lăng mộ, tính cả thời gian chờ sẽ tốn khoảng 200.000đ.

Bằng xe gắn máy :

Thuê một xe gắn máy và gia nhập vào dòng người địa phương dọc đường. Mỗi ngày thuê giá 5USD, thuê từ các khách sạn và cửa hàng.

Xe đạp cũng là một sự lựa chọn khoảng 20-30.000đ ngày.

Bằng xích lô

Đi bộ :

Huế tương đối nhỏ, vì thế bạn có thế đi bộ đến các khách sạn nhà hàng và kinh thành. Nhưng cần phải đi xe đến các lăng mộ.


Ở :

Nhà trọ Hoàng Hương
Giá phòng từ 60 - 200 ngàn.
46/2D Lê Lợi. ĐT: 054.3828509

Nhà trọ Mimosa
Giá phòng từ 12-15US$
46/6D Lê Lợi. ĐT: 054.3828068

Khách sạn Phượng Hoàng
Giá phòng từ 10-25 US$.
48/3Đ Lê Lợi. ĐT: 054.3826736

Khách sạn Hoa Sen
Giá phòng từ 15-25US$
33Đ Đinh Công Tráng. ĐT: 054.3525997

Century Riverside Hotel
Giá phòng từ 70-200 US$
49Đ Lê Lợi. ĐT: 054.3823390


Những điểm du lịch ở Huế


A


B

Bãi biển Lăng Cô (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4608972&postcount=86)
Bảo tàng và hệ thống di tích của Bác Hồ ở Huế (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4646814&postcount=96)
Biển Cảnh Dương (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4427528&postcount=25)
Biển Thuận An (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4428247&postcount=28)

C

Cầu ngói Thanh Toàn (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4477947&postcount=40)
Cầu Trường Tiền (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4425699&postcount=2)
Chùa Ba La Mật (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4819795&postcount=126)
Chùa Báo Quốc (http://www.matnauhoctro.com/4rum/showpost.php?p=4660388&postcount=99)
Chùa Diệu Đế (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4557892&postcount=66)
Chùa Huyền Không Sơn Thượng (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4637443&postcount=92)
Chùa Thiên Mụ (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4654282&postcount=99)
Chùa Từ Ðàm (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4689364&postcount=105)
Cồn Ràng (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4884164&postcount=134)
Cung An Định (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4491020&postcount=44)

D

Duyệt Thị Đường (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4750067&postcount=112)

Đ

Đan viện Thiên An (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4821988&postcount=127)
Đàn Nam Giao (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4776799&postcount=117)
Đầm Chuồn (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4425844&postcount=14)
Điện Hòn Chén (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4425721&postcount=6)
Điện Voi Ré (http://www.matnauhoctro.com/4rum/showpost.php?p=4664730&postcount=102)
Đình Bàn Môn (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4580326&postcount=73)
Đồi Thiên An (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4425773&postcount=9)
Đồi Vọng Cảnh (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4590757&postcount=79)

E


F


G


H

Hồ Tịnh Tâm (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4425713&postcount=4)
Hồ Truồi (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4425817&postcount=11)

I


K

Khu du lịch Nước khoáng nóng Mỹ An (http://66.96.217.85/4rum/showpost.php?p=4448505&postcount=36)
Kinh thành Huế (http://66.96.217.85/4rum/showpost.php?p=4456926&postcount=37)

L

Làng cổ Phước Tích (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4897474&postcount=135)
Làng hoa giấy Thanh Tiên (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4839296&postcount=130)
Làng rèn Hiền lương (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4630193&postcount=90)

Lăng các chúa Nguyễn (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4535135&postcount=58)
Lăng Cơ Chánh (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4507089&postcount=47)
Lăng Dục Đức (An Lăng) (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4509735&postcount=48)
Lăng Đặng Huy Trứ (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4574083&postcount=72)
Lăng Đồng Khánh (Tư Lăng) (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4531067&postcount=55)
Lăng Gia Long (Thiên Thọ Lăng) (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4512202&postcount=50)
Lăng Hiếu Đông (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4542240&postcount=60)
Lăng Khải Định (http://66.96.217.85/4rum/showpost.php?p=4466854&postcount=39)
Lăng Minh Mạng (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4494321&postcount=45)
Lăng Thiệu Trị (Xương Lăng) (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4524393&postcount=51)
Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng) (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4529922&postcount=54)
Lầu Tàng Thơ (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4624289&postcount=89)

M


N

Nam Châu hội quán và 7 ngôi nhà vườn Huế (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4650459&postcount=98)
Ngọ Môn (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4463163&postcount=38)
Nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4566788&postcount=69)
Nhà thờ Phủ Cam (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4569021&postcount=70)
Những ngọn đồi thiêng (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4426244&postcount=23)
Những ốc đảo trên sông Hương (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4427152&postcount=24)
Núi Ngự Bình (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4589889&postcount=76)
Núi Túy Vân (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4425793&postcount=10)

O


P

Phá Tam Giang (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4442629&postcount=34)
Phong Điền - Điểm hẹn cho du lịch sinh thái (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4617510&postcount=88)
Phu Văn Lâu (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4710249&postcount=107)
Phủ An Thường công chúa (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4565034&postcount=68)

Q


R


S

Sông Hương (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4587385&postcount=74)
Suối Voi (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4447308&postcount=35)

T

Thác A-nô (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4432179&postcount=31)
Thác Kazan (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4425831&postcount=13)
Thác Nhị Hồ (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4432664&postcount=33)
Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4556627&postcount=64)
Trường Quốc Học (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4754999&postcount=113)

U


V

Vịnh Lăng Cô chính thức (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4487358&postcount=43)
Vườn Quốc gia Bạch Mã (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4595837&postcount=85)

X


Y

---



Ẩm thực Huế

A


B

Bánh bèo, nậm, lọc (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4801071&postcount=122)
Bánh canh cá lóc (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4757076&postcount=114)
Bánh canh Nam Phổ (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4783268&postcount=118)
Bánh khoái Huế (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4797052&postcount=121)
Bún bò Huế (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4745620&postcount=109)
Bún mắm nêm Huế (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4816447&postcount=125)

C

Cafe Huế : Chiều – Nơi gặp gỡ ngày và đêm (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4787559&postcount=119)
Cơm hến (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4747780&postcount=111)

D


Đ


E


F


G


H


I


K


L


M

Mắm Sò Lăng Cô (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4806261&postcount=123)
Mắm tôm chua (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4829054&postcount=129)
Mè xửng (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4761603&postcount=115)

N

Nuốc Huế (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4865821&postcount=133)

O

Ô

Ốc – Món ngon xứ Huế! (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4794404&postcount=120)

P


Q


R


S


T

Thanh Trà xứ Huế (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=4811655&postcount=124)

U


V

Vả Huế (http://www.hoahoctro.com/4rum/showpost.php?p=5064410&postcount=171)

X


Y

Má Lúm
13-05-2009, 07:39 PM
Cầu Trường Tiền (Tràng Tiền)


Cầu Trường Tiền là cây cầu sắt đầu tiên bắc qua sông Hương nằm giữa lòng thành phố Huế. Cầu được xây dựng từ năm 1897 và hoàn thành vào năm 1899. Khi chưa có cầu, tại đây có một bến đò gọi là bến đò Trường Tiền, và sông Hương chảy qua đoạn này cũng gọi là sông Trường Tiền.



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/1/16/Truong_Tien_Bridge_.jpg


Cầu Trường Tiền ban đầu làm bằng gỗ, còn mặt cầu thì lát bằng ván gỗ lim. Đến năm 1904, bão lớn làm hư mất hai vài. Năm 1906 thì cầu được sửa chữa lại bằng sắt và xi măng kiên cố. Đến năm 1938, cầu được mở rộng thêm hai bên cho khách bộ hành đi lại.

Tên cầu thì cũng có nhiều thay đổi. Ban đầu có tên gọi là cầu Thành Thái vì cầu được xây dựng dưới thời vua Thành Thái. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất thì cầu lại mang tên Clémenceau, tên vị Thủ tướng nước Pháp đương thời. Năm 1945, cầu lại đổi tên là cầu Nguyễn Hoàng. Nhưng rồi tên cầu Trường Tiền vẫn được thông dụng trong dân gian vì vị trí cầu nằm cạnh xưởng đúc tiền cũ nằm sát bờ sông Hương.





http://www.huefestival.com/upload/Image/thuvienanh/cau%20trang%20tien1.jpg

http://vybuuluu.vnweblogs.com/gallery/10289/M%C6%B0a%20bay%20tr%C3%AAn%20c%E1%BA%A7u%20Tr%C6%B 0%E1%BB%9Dng%20%20Ti%E1%BB%81n.jpg

http://support.cauduongbkdn.com/upload/out.php/i3734_CauTruongTien1.jpg


Cầu Trường Tiền gồm 6 vài, mỗi vài dài 66 thước 8 tấc 5 phân, rộng 6 thước 2 tấc. Tổng chiều dài cây cầu là 401 thước 1 tấc. Cầu có 12 nhịp được thiết kế theo kiến trúc Gô tích, mỗi nhịp có thành hình bán nguyệt. Các nhịp kế tiếp nhau làm thành một dải sóng đều đặn, mềm mại. Với kiểu kiến trúc đẹp, hài hoà lại ở vị trí trung tâm thành phố, nơi rộng lòng nhất của Hương Giang.Cầu Trường Tiền là thắng cảnh nổi tiếng đã đi vào thơ ca dân gian xứ Huế, là đề tài của biết bao ca khúc trữ tình, là biểu tượng của Huế thơ mộng và cổ kính.


Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại
Cầu Trường Tiền đúc lại xi-mon
Ơi người lỡ hội chồng con
Về đây gá nghĩa vuông tròn nước non...

-::- ïŋ√ïʂîߣȝ -::-
13-05-2009, 07:41 PM
:vui: nhìn cảnh lung linh wa' :hihi: hok bik ra ngoài có thật còn lung linh thơ mộng vậy hok hen :D

Má Lúm
13-05-2009, 07:44 PM
Hồ Tịnh Tâm


Một số công việc chỉnh trang sơ bộ khu vực hồ Tịnh đang được xúc tiến gấp rút hầu tạo thêm một trung tâm “vệ tinh” nữa cho Festival Huế 2004. Hồ Tịnh Tâm đã trở thành một danh thắng quen thuộc nhưng còn nhiều điều thú vị về hồ Tịnh mà ít ai biết được...



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/f/f3/H%E1%BB%93_T%E1%BB%8Bnh_T%C3%A2m1.jpg


Đệ nhất Thượng uyển từng là điểm… biệt giam

Vốn là khu thượng uyển nổi tiếng hàng đầu của vương triều Nguyễn, Tịnh Tâm từng được vua Minh Mạng làm thơ ca ngợi 10 bài liền với tiêu đề Bắc hồ thập cảnh. Vua Thiệu Trị lại xếp hạng Tịnh Tâm vị thứ 3 trong danh mục Thần Kinh nhị thập cảnh.


Ngự chế áng thơ Tịnh hồ mạn hứng (Cảm hứng mùa hè ở hồ Tịnh Tâm), vua Thiệu Trị ghi mấy dòng chú dẫn: “Hồ Tịnh Tâm trong veo muôn khoảnh, man mác hai hồ. Một dải đê dài, cầu cao như mống. Vui chơi khúc đàn Nam Phong trên gác Nam Huân, thỏa thích một trời, của nhiều no đủ. Xứng đáng cõi Thọ chốn Tây Trì, rõ ràng là danh thắng kinh đô. Phong quang vô hạn, chưa tận mắt ngắm trông e khó hình dung cảnh trí”.

Ngô Văn Phú chuyển ngữ áng thơ Tịnh hồ mạn hứng như sau:


Trong vắt hồ giăng mấy khoảng xa,
Thềm soi đáy nước, loáng tinh hà.
Cây hoa, lầu gác, dường tiên cảnh,
Đất nước, non sông, thuộc mọi nhà.
Quạt chúa để suông, trời mát mẻ,
Đàn vua tiếng ngọt, nhập thơ ca.
Lâng lâng nhân trí, tình sâu rộng,
Cảnh sắc yêu người, chớ bỏ qua!

Quả thật, Tịnh Tâm không phải một, mà là hai hồ nước hình chữ nhật, cái nhỏ kề cái to; từ trên cao nhòm xuống nom y hệt bức “siêu thư pháp” viết giữa thiên nhiên một đại tự "Minh" – chữ Hán nghĩa là “sáng tỏ”.

Nguyên ủy, đây là khúc sông Kim Long (một chi lưu của sông Hương) chảy qua làng Phú Xuân. Năm Ất Sửu 1805, vua Gia Long quyết định nắn dòng Kim Long để tạo mặt bằng xây dựng Kinh thành Huế. Thoạt tiên là cả dải hồ rộng, mang tên hồ Ký Tế. Vua Minh Mạng nối ngôi, tiếp tục quy hoạch cảnh quan kinh đô, chia hồ Ký Tế làm đôi: một bên là hồ Học Hải – nơi sẽ thiết lập Tàng Thư Lâu; còn một bên là hồ Tịnh Tâm – chỗ dành cho “đấng thiên tử” cùng hoàng thân quốc thích tiêu dao thưởng ngoạn và di dưỡng tinh thần. Vua Minh Mạng lại cho đắp đê Kim Oanh băng ngang hồ Tịnh Tâm và tiến hành kế hoạch sửa sang tôn tạo khu vực này.

Dưới sự chỉ huy của Đô thống hữu quân Nguyễn Tăng Minh và Tham tri bộ Hộ Đào Trí Phú, cả lực lượng 8.000 binh lính đã dốc sức xây dựng Tịnh Tâm thành một công trình to lớn nhất và xinh đẹp nhất so với tất cả ngự viên ở đế đô nói riêng, toàn quốc nói chung.


Trong hồ Tịnh Tâm có ba hòn đảo. Đảo Phương Trượng nằm giữa hồ nhỏ phía bắc, giữa http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=32341hồ lớn phía nam là đảo Doanh Châu và đảo Bồng Lai. Trên đảo Bồng Lai có điện Bồng Doanh nguy nga tráng lệ - còn gọi Bồng Dinh - lại là nơi mà về sau, năm Quý Tị 1893, các quan phụ chính tuân lệnh lưỡng tôn cung đã đưa vua Thành Thái ra đó “an dưỡng tâm thần”. Vì sao? Nguyễn Phúc tộc thế phả (Nxb Thuận Hóa, Huế 1995; tr. 391) giải thích lý do: bởi đức vua “ tính tình bất thường, ham chơi bời, ít chịu nghe lời can gián”. Chốn thượng uyển xinh tươi trở thành chỗ biệt giam hoàng đế!

Mấy đặc sản hồ Tịnh Tâm

Hồ Tịnh Tâm còn âm khác là hồ Tĩnh Tâm. Người dân xứ Huế xưa nay quen gọi một cách vắn tắt: hồ Tịnh. Và nhắc tới hồ Tịnh, ai nấy liền nghĩ ngay tới đặc sản lừng danh của địa phương: sen. Ca dao miền Hương Ngự có câu:



Hồ Tịnh Tâm nhiều sen bách diệp,
Đất Hương Cần ngọt quýt, thơm cam…

Sen bách diệp có hoa nhiều cánh nhỏ màu hồng, được thiên hạ tôn vinh là “giống sen quý nhất trong tất cả giống sen”. Có khả năng sen bách diệp chỉ thắm sắc khoe hương vào giai đoạn thịnh thời của thượng uyển Tịnh Tâm. Chứ thực tế bấy lâu, sen trồng trong hồ này chẳng phải giống sen bách diệp, mà là giống sen trắng bình thường.

Lạ thay, sen thường mọc ở hồ Tịnh cũng thành sen quý! Dễ dàng kiểm chứng điều ngỡ http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=32340“khó tin nhưng có thật” kia nếu so sánh hạt sen hồ Tịnh với hạt sen nơi khác bằng cách xơi thử đồng thời. Kinh nghiệm ẩm thực kia đã được khá đông người thừa nhận. Chẳng hạn trong sách Nguyễn triều cố sự (Nxb Đà Nẵng in lại, 1997; tr.17), Bửu Kế khẳng định: “Huế nổi tiếng về hạt sen vừa bở vừa thơm, nhưng phải nếm hạt sen Tịnh Tâm mới thưởng thức được mùi vị tuyệt vời của nó”.

Nấu chè sen, cơm sen, súp sen, phụ nữ cố đô kén chọn bằng được hạt sen Tịnh làm nguyên liệu mới mong món ăn đạt phẩm tính ưu việt. Gửi biếu bà con bè bạn sành điệu ở phương xa, bên cạnh nón bài thơ, mè xửng, tôm chua, nem tré, v.v., hạt sen hồ Tịnh tươi hay khô luôn được dân Huế coi là món quà quê hương trang nhã và ý vị vô ngần. Phải chăng nhờ hồ Tịnh có những yếu tố thủy thổ nào đấy phù hợp tối ưu với loài hoa nhị vàng, bông trắng, lá xanh thuộc họ thực vật Nelumbonaceae mà khoa học chưa phân tích thật đầy đủ?

Cùng với hạt sen quá lừng danh, hồ Tịnh còn đôi sản phẩm khác cực kỳ đáo khẩu nhưng ít ai biết, ngoại trừ nguyên người quanh quất đâu xa. Gì thế nhỉ? Xin thưa: rau muống và cá – đặc biệt cá rô.

Ở hồ Tịnh Tâm cũng như nhiều ao hồ khác tại miền Hương Ngự, thời gian trồng và khai thác sen với muống thường tạo thành hai vụ gối nhau. Xuân hè dành cho sen. Thu đông dành cho muống.

Tháng 5 đúng kỳ sen nở rộ. Người ta tranh thủ đổ bông – từ nghề nghiệp chỉ việc hái hoa, để bán cho thiên hạ cắm độc bình đơm cúng bàn thờ hay chưng phòng khách, phòng văn. Rồi phải khẩn trương đổ hột – tức ngắt gương sen về gỡ lấy hạt, thương lái sẽ mua sỉ, đoạn phân phối hạt tươi cho khách nấu ăn ngay hoặc sơ chế hạt khô mà tiêu thụ dần. Hầu như toàn bộ cây sen chẳng có bộ phận nào phải bỏ phí. Nhị sen và tim sen được các cơ sở Đông y Đông dược thu gom làm thuốc. Ngó sen cùng củ sen là thứ mà các tiệm ăn, quán nhậu liên tục đặt hàng. Cả lá sen, người ta cũng cắt bán cho cánh tiểu thương dùng gói cốm, gói bún, gói…hoa sen hay hạt sen. Cuống lá và gương sen sau khi tách hạt lại được dân chúng tận dụng, phơi làm chất đốt.

Cho tới nay, đấu thầu hồ Tịnh Tâm để canh tác sen cùng muống lâu nhất e chẳng ai hơn gia đình ông Nguyễn Văn Vỹ, tên thường gọi là ông Ba Cu. Theo sách Chuyện khảo về Huế của Trần Kiêm Đoàn (Nxb Trẻ, 2000; tr.109 – 110) thì ông Ba Cu đã trồng sen thả muống ở hồ Tịnh suốt 40 năm ròng, kể từ thời điểm 1965 trở về trước. Thập niên kế đó, vài hộ quanh vùng thay nhau đấu thầu hồ Tịnh. Sau năm 1975, Hợp tác xã sản xuất hoa màu hai phường Thuận Thành và Thuận Lộc quản lý hồ này, tiếp tục phân công một số xã viên trồng sen, trồng muống…

Chuyện đắp đập, ngăn thửa liên tục diễn ra. Lòng hồ dần cạn. Các miệng cống bố trí quanh bờ bị tắc nghẽn, nên chức năng điều tiết nước giữa hồ Tịnh với hơn 40 hồ ao khác trong phạm vi Thành Nội 520ha và với hệ thống Ngự hà cũng như Hộ thành hà không còn đảm bảo. Đấy là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây úng ngập cục bộ ở Kinh thành Huế lâu nay mỗi khi mưa lớn kéo dài. Lại thêm tình hình lấn chiếm đất ven hồ để xây nhà, dựng quán, khiến diện tích mặt hồ ngày càng thu hẹp. Nạn ô nhiễm môi sinh ở khu vực này gia tăng là lẽ tất nhiên. Di tích lịch sử bị xâm hại, cảnh quan văn hóa bị triệt tiêu - hiện trạng ấy ai ai cũng đều thấy rõ. Tham quan hồ Tịnh, khách gần xa phải áy náy thốt lên cái câu không mới:

- Tịnh Tâm à! Răng chừ cho tới… ngày xưa?

Muộn còn hơn không. Dự án tu sửa và phục hồi cảnh quan hồ Tịnh Tâm vừa ra đời, do Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế làm chủ đầu tư với các bước thực hiện như sau: quy hoạch chống lấn chiếm, giải tỏa mặt bằng có trọng điểm, sắp xếp lại nhà dân (ở sát khuôn viên Đại học Nghệ thuật Huế tọa lạc cạnh hồ) để lập bãi đậu xe, nạo vét lòng hồ, khôi phục tuyến cấp thoát nước, tiến tới phục chế lần lượt các hạng mục công trình kiến trúc cổ. Dự án đã được chính quyền tỉnh Thừa Thiên – Huế phê duyệt.


* Danh thắng Tịnh Tâm hình thành bao giờ

Đại Nam nhất thống chí (sđd) ghi nhận: trong hồ Ký Tế có hai gò cồn, trên đó là hai kho hỏa dược và diêm tiêu lập từ đời Gia Long, đến năm Minh Mạng XIX thì dời hai kho ấy qua phía đông, lấy chỗ làm hồ Tịnh. Tin tưởng tư liệu kia, nhiều sách báo, nhiều trang web cùng các tài liệu hướng dẫn du lịch thời gian qua vẫn khẳng định danh thắng Tịnh Tâm vốn khởi dựng từ niên hiệu Minh Mạng XIX, tức năm Mậu Tuất 1838. Tiếc thay, chi tiết này chưa chính xác.

Trong bài Quelques coins de la Citadelle de Hué (Vài góc Kinh thành Huế) đăng trên Bulletin des Amis du Vieux Hué năm 1922, Léopold Cadièrre và Nguyễn Đình Hòe đã chứng minh rằng trước thời điểm 1838, một số hạng mục kiến trúc cơ bản ở Tịnh Tâm đã hoàn tất và được đưa vào sử dụng. Bằng cớ là qua hồi ký Souvenir de Hué (Kỷ niệm xứ Huế) công bố năm 1867, Michel Đức Chaigneau từng mô tả cảnh sắc hồ Tịnh Tâm với lầu đài cùng tên, thêm non bộ, những bồn hoa to nhỏ, cầu gỗ sơn màu, v.v., khi ông hân hạnh được vời tới đấy tiếp kiến vua Minh Mạng nhiều lần trong giai đoạn 1821 – 1822.

letue
13-05-2009, 07:46 PM
Sông Hương , Núi Ngự còn gì bằng nào. đây là thiên đường là cảnh đẹp tuyệt vời trên trần giang
:confuse:

Má Lúm
13-05-2009, 07:47 PM
Điện Hòn Chén


Vị trí: Điện Hòn Chén tọa lạc trên núi Ngọc Trản, thuộc làng Ngọc Hồ, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Đặc điểm: Ðiện Hòn Chén là nơi ngày xưa người Chàm thờ nữ thần Pô Nagar, sau đó người Việt theo Thiên Tiên Thánh Giáo tiếp tục thờ bà dưới xưng Thánh Mẫu Thiên Y A Na.



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/f/f7/%C4%90i%E1%BB%87n_H%C3%B2n_Ch%C3%A9n1.jpg


Từ năm 1954, Liễu Hạnh Công Chúa, tức là Vân Hương Thánh Mẫu cũng được đưa vào thờ ở đây. Ngoài ra, tại điện Hòn Chén, người ta còn thờ Phật, thờ Thánh Quan Công và hơn 100 vị thần thánh khác thuộc vào hàng đồ đệ của các thánh thần nói trên. Vua Ðồng Khánh cũng là một trong những đồ đệ ấy. Điện Hòn Chén được vua Minh Mạng cho tu sửa và mở rộng vào tháng 3/1832. Sau đó hai năm, đền lại được trùng tu.

Từ năm 1883 đến năm 1885, vì gặp một giai đoạn éo le của lịch sử triều Nguyễn, vua Ðồng Khánh chờ đợi mãi vẫn chưa được lên nối ngôi cha nuôi là vua Tự Ðức. Ông nhờ mẹ là bà Kiên Thái Vương lên đền Ngọc Trản cầu đảo và hỏi Thánh Mẫu Thiên Y A Na xem mình có làm vua được không. Mẫu cho biết ông sẽ toại nguyện.



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/a/ae/%C4%90i%E1%BB%87n_H%C3%B2n_Ch%C3%A9n.jpg
Điện Hòn Chén nhìn từ sông Hương

http://vietnamtravelsolutions.com/photos/Image/Tieu%20diem%20VN%20-%20HanhtrinhxuyenViet/H.jpg


Bởi vậy, sau khi tức vị, năm 1886, vua Ðồng Khánh liền cho xây lại đền này một cách khang trang, làm thêm nhiều đồ tự khí để thờ, và đổi tên ngôi đền là Huệ Nam Ðiện để tỏ lòng biết ơn Thánh Mẫu. Huệ Nam nghĩa là ban ân huệ cho nước Nam, vua Nam. Có một điều kỳ lạ, chính vua Ðồng Khánh đưa cuộc lễ hằng năm tại đây vào hàng quốc lễ và tự nhận mình là đồ đệ của Thánh Mẫu, mặc dù nhà vua chỉ gọi thánh mẫu bằng "Chị". Theo nguyên tắc xưa, ông vua nào cũng đứng trên các thánh thần trong cả nước, nhưng ở đây vua Ðồng Khánh lại hạ mình xuống làm "em" của Mẫu. Hiện nay trong đền vẫn còn thờ vài bức tranh ảnh của chính nhà vua.

Ngày nay, điện Hòn Chén được nhiều người biết đến không phải vì đó là một di tích tôn giáo cho bằng đó là một di tích kiến trúc phong cảnh. Công trình kiến trúc tôn giáo ấy đã được người xưa lồng vào trong một cảnh thơ mộng hữu tình của núi sông xứ Huế.

Có một dãy núi thấp ăn từ chân Trường Sơn chạy về phía đồng bằng của Huế, bị một đoạn của sông Hương chặn đầu tả ngạn. Cả dãy núi như bị dồn ép nguồn sinh lực ở đây, tạo thành một ngọn núi có vẻ biệt lập, cây cối mọc xanh um, đứng cheo leo bên bờ vực thẳm, đó là chỗ sâu nhất của sông Hương. Người xưa đã chọn hòn núi Ngọc Trản ấy để dựng đền thờ.

Trên đỉnh núi có một chỗ đất trũng xuống, đường kính vài mét, chung quanh có vòng đá dựng như bờ giếng, hễ gặp mưa thì nước đọng lại trông như cái chén đựng nước trong. Cho nên từ xa xưa, hòn núi được đặt tên Ngọc Trản (núi Chén Ngọc) và dân gian gọi là Hòn Chén.

Trong một tờ thần sắc ban cho đền năm 1886, vua Ðồng Khánh đã ví toàn cảnh thiên nhiên ở đó như hình thế một con sư tử đang nằm thò đầu xuống sông uống nước.

Khoảng 10 công trình kiến trúc xinh xắn của ngôi đền đều nằm ở lưng chừng sườn đông nam thoai thoải của ngọn núi, ẩn mình dưới bóng dâm của một khóm rừng cổ thụ tán lá xum xuê. Những hệ thống bậc cấp chạy từ đền cao xuống tận bến nước trong xanh. Mặt sông phẳng lặng như gương, được dùng cho toàn cảnh thiên nhiên và kiến trúc nghiêng mình soi bóng. Dù thuyền cập bến, đứng nhìn lên, khách dễ tưởng mình đang lạc vào chốn thần tiên.

Mặt bằng kiến trúc của toàn bộ ngôi đền không rộng, gồm điện thờ chính là Minh Kính Ðài nằm ở giữa, mặt hướng ra sông; bên phải là Nhà Quan Cư, Trinh Cát Viện, Chùa Thánh; bên trái là Dinh Ngũ Vị Thánh Bà; bàn thờ Các Quan, động thờ ông Hạ Ban (tức ông Hổ - con cọp), Am Ngoại Cảnh. Dưới bờ sông, cuối đường bên trái là Am Thủy Phủ. Trên mặt bằng kiến trúc ấy, còn có một số bệ thờ và am nhỏ khác nằm rải rác đó đây, như Am Cô Ngọc Lan, Am Trung Thiên...

Nhưng đáng để ý nhất trong tất cả vẫn là Minh Kính Ðài. Xây dựng năm 1886 dưới thời vua Ðồng Khánh với mặt bằng 15mx17m, nó được chia làm 3 cung (theo thứ tự từ cao xuống thấp và từ sau đến trước căn cứ vào chức năng thờ phụng).

Minh Kính Cao Ðài Ðệ Nhất Cung, còn gọi là Thượng Cung hay Thượng Ðiện, chia làm 2 tầng. Tầng trên thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na, Thánh mẫu Vân Hương, ảnh vua Ðồng Khánh và một số thần thánh cao cấp khác trong tôn giáo; tầng dưới dùng làm chỗ tiếp khách và nơi ở của người thủ từ...

Minh Kính Trung Ðài Ðệ Nhị Cung, còn gọi là Cung Hội Ðồng, giữa xây bệ thờ cao và lớn, cung này thờ hàng chục tượng thần thánh khác nhau, có cả tượng Phật nữa, và dùng làm nơi thiết trí các đồ thờ dùng để rước sắc trong những dịp lễ lớn: Võng Cung Nghinh Mẫu, Phụng Liễn, Long Ðình.

Minh Kính Tiểu Ðài Ðệ Tam Cung, còn gọi là Tiền Ðiện - nơi có xây một hương án lớn, hai bên đặt trống chuông, là chỗ cử hành tế lễ. Nơi đứng cúng lạy của khách hành hương còn được nới rộng thêm bằng một mái hiên và cái sân ở mặt trước tòa nhà.

Trên bờ nóc quyết của Minh Kính đài cũng như các công trình kiến trúc khác ở chung quanh, hình ảnh con phụng được dùng nhiều để trang trí, vì con phụng tượng trưng cho đàn bà, ở đây là các nữ thần. Nó cũng được dùng để trang trí rất nhiều trên các đồ tự khí.

Phần lớn các đồ thờ quý báu ở Minh Kính Ðài đều ghi rõ là làm ra dưới thời vua Ðồng Khánh. Nhìn chung thì thấy trang hoàng rất bề bộn, nhưng có nhiều thứ lạ mắt đối với người xem.

Ðứng ở các hệ thống bậc cấp dẫn xuống bến để nhìn ra viễn cảnh trước mặt, người ta thưởng thức được một bức tranh sơn thủy vẽ bằng gam màu xanh với các độ đậm nhạt khác nhau của dòng sông, làng mạc, núi non, hàng hàng lớp lớp trải rộng vươn dài. Gần nhất bên phải là hòn núi Kim Phụng uy nghi đồ sộ. Ngay bên trái đền, vách đá cheo leo trên bờ dốc thẳm, cùng với tượng cọp trừng mắt đứng nhìn dưới vòm động thâm u, dường như được dùng làm mối nguy hiểm đe dọa thường xuyên đối với những người yếu bóng vía và làm tăng thêm vẻ linh thiêng thần bí của các thần thánh đối với "con tôi đệ tử" của Thiên Tiên Thánh Giáo.

Có một điều thú vị nữa đối với du khách, nhất là các nhà nghiên cứu dân tộc học, là trong khi ở Hổ Quyền bên kia sông Hương, con cọp phải đưa ra đấu trường để bị tiêu diệt, thì ở điện Hòn Chén bên này sông, con cọp lại được thờ cúng kính cẩn như một vị thần linh.

-::- ïŋ√ïʂîߣȝ -::-
13-05-2009, 07:48 PM
ước chi có ai đó dắt mình đi ra thăm nhg thắng cảnh íh nhỉ :hihi:

letue
13-05-2009, 07:50 PM
ước chi có ai đó dắt mình đi ra thăm nhg thắng cảnh íh nhỉ :hihi:

Ước gì 2 má con mình có dịp về thăm Huế nhỉ :so_funny:

Má Lúm
13-05-2009, 08:13 PM
Đồi Thiên An


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/stdn/thongthienan_resize.jpgCó một địa danh mà khi nhắc đến thì có nhiều người đã có thời thanh xuân ở Huế đều dấy lên trong lòng những kỷ niệm khó quên. Ðó là Thiên An - một vùng đồi hoang vắng với những bước chân dài mấy mươi năm để đi vào thơ ca, với những chiếc lá thông rơi vương kín áo tình nhân; Với những giọt nước thủy chung ở Hồ Thủy Tiên huyền thoại; Với những mối tình xanh dưới bóng thông già.

Thiên An là một vùng đồi núi nhấp nhô nằm ở phía Nam thành phố Huế, trên tuyến đường đi thăm lăng Khải Ðịnh, qua khỏi ngã ba Cầu Lim chừng 2km. Thiên An hiện ra trước mặt bạn một màu xanh của ngàn thông , với lô nhô triền đồi, mái lá và con đường dốc ngoằn ngèo chạy vào ký ức.

Quần sơn này gồm 140 ngọn đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 60ha. Ðường bình đồ, xê dịch từ 60m-125m, điểm cao nhất chính là ngọn đồi có đan viên Thiên An tọa lạc. Chính các đan sĩ người Pháp thuộc dòng tu khổ hạnh Bénedictine đã khai phá và đặt tên cho Thiên An. Ngày 25-1-1935 tu viện Pierre de Vire ở Pháp phái cha Wandrelle đến Việt Nam để xem xét một việc thành lập đan Viện. Cha đã chọn khu Bất động sản Vielle ở Ðà Lạt để xây dựng đan viện vào tháng 10 năm đó. Sau đó Ðức cha tu viện trưởng Fulbert Gloreces ở Pháp đã cử cha Romain Guillaume đến cai quản Ðan Viện ở Ðà Lạt, chính cha Romain là người sáng lập ra đan viện Thiên An vào 3-1940- trong quá trình mở rộng ảnh hưởng dòng Bénédictine lên phía Bắc Việt Nam. Ngày 6-10-1940 Lễ khánh thành Ðan Viện Thiên An bằng một lễ MiSa được cha Romain tổ chức và ông đã chọn Thánh tâm chúa Jêsu như là vị bảo hộ của đan viện . Dòng tu được xây dựng và đặt trên Thiên An.

Song song với việc kiến tạo đan viện, các đan sĩ sư huynh và những người giúp việc đã xúc tiến việc trồng thông, đào hồ, lập vườn, biến vùng rừng núi khô cằn này thành một vùng rừng núi trù phú. Trước 1968 lúc đông nhất tu viện có đến 80 tu sĩ, 250 đệ tử và 60 người giúp việc. Ðan viện lập được ba vườn cam ở ba thung lũng hẹp bao quanh hồ Thủy Tiên.

Những vườn cam này được mua giống từ Angerie về, lại được chăm sóc tốt nên trái lớn và rất sai.Ngày trước trên những sọt hoa trái ở chợ Ðông Ba, có những quả cam có đóng dấu T.A chính là giống cam quý từ Ðan viện Thiên An. Hai hồ nước trong Ðan Viện được các cha Romain và Cadet Phạm Quang Ðiện cho đào vào năm 1940 -1960 đã cung cấp nước cho toàn khu vực và trở thành thắng cảnh đặc biệt là hồ Thủy Tiên và huyền thoại về những giọt nước thủy chung.

Ðến thăm Thiên An bạn sẽ bắt gặp những địa danh một thời nằm sâu trong ký ức giới trẻ Huế. Ðó là đồi Ðức Mẹ rợp bóng thông già mà mỗi góc cây vẫn còn in hằn dấu "Yêu" của những đôi tình nhân xứ Huế. Ðó là dốc "Mạ ơi" quanh co khúc khuỷa. Ðó là hình ảnh đôi chân lạc lối vườn cam tìm đến lăng Ba Vành nơi mà lịch sử vẫn tàng ẩn một nghi vấn. Phải chăng đó là lăng mộ vua Quang Trung Bạn sẽ bắt gặp từng đôi trai gái khóac nhau đi dưới gốc thông già để nhặt đi tìm quả rụng như nhặt tìm kỷ niệm của thời yêu nhau. Bạn sẽ nghe chuông nhà thờ văng vẳng gọi lòng người hướng thiện tâm về với chúa dẫu cánh cửa dòng tu vẫn khép kín và bên bờ hồ Thủy Tiên xanh ngắt là những vũ hội sôi động của đám học trò...

Có lẽ vì thế mà Thiên An đã có nguồn cảm hứng, để nữ thi sĩ học trò Hồ Huê viết lên những vần thơ dễ thương nhất của một thời áo trắng

Không hiểu sao trời hôm ấy mênh mông
Cánh én vẫy tôi ngỡ chừng vô định
Gió luồn qua gốc cây vẳng tiếng chuông thành kính
Tiếng chuông và gió trốn tìm nhau

..........

Chiều Thiên An rất mơ dù rất thực
Ðể đêm về tôi gọi mớ Thiên An.

Đồi Thiên An, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế.

Má Lúm
13-05-2009, 08:21 PM
Núi Túy Vân


Chỉ cách thành phố Huế chừng 50km về phía nam, Túy Vân - Núi Rùa (xã Vinh Hiền, Phú Lộc) có cái tinh khiết, trong trẻo gần như tuyệt đối của một vùng trời, nước và đảo hoang sơ, ít dấu chân người.



http://www.quangduc.com/Thanhtich/22chuathanhduyen6.jpg
Núi Túy Vân


Du khách đến tham quan núi Túy Vân thường đi theo hai đường: từ thành phố Huế về Thuận An, rồi đi theo đường ven biển để đến núi; hoặc từ Huế qua quốc lộ 1A về Đá Bạc, từ đây đi đò máy qua đầm Cầu Hai thì đến nơi, đường dài khoảng 30km

Tuý Vân là một ngọn núi nhỏ gần cửa Tư Hiền, nổi lên giữa một hòn đảo xanh, hùng vĩ, ngày xưa có tên gọi là Mỹ Am Sơn. Núi có dáng dấp đẹp, trong một lần chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) đi qua đây, thấy phong cảnh thơ mộng, hữu tình, bèn lập một ngôi chùa nhỏ làm nơi cầu phúc cho dân địa phương.

Đến đời vua Minh Mạng cho xây dựng lại và đổi tên là chùa Tuý Ba. Năm vua Minh Mạng thứ 17 (1837), chùa được tùng tu và xây dựng thêm lầu. Đến năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), chùa được tiếp tục trùng tu và đổi tên chùa Tuý Vân.

Vua Thiệu Trị liệt Tuý Vân vào thắng cảnh của đất thần kinh trong bài thơ "Vân Sơn thắng tích" và cho khắc bia đá dựng bên chùa đặt tên "Linh Thái, Tuý Vân hệ nhị quốc gia chi thắng cảnh" (Linh Thái, Tuý Vân đều là thắng cảnh của quốc gia).

Qua bao năm tháng chiến tranh, chùa, lầu gác hư hại nhiều, hiện nay công tác bảo tồn vẫn đang được thực hiện.



http://www.vietime.com/pic/news/phuonganh/7/30/tuyvan2.jpg
Tháp Điều Ngự


Trên đỉnh Tuý Vân, nổi lên có ngọn tháp ba tầng là Điều Ngự. Đứng ở tầng 2 và 3, có thể nhìn thấy hết toàn cảnh của huyện Phú Lộc.

Giữa lưng chừng núi là chùa chính, dưới chân núi còn có ngôi Chùa Lớn làm chỗ ở cho chư tăng, trước và sau chùa có nhiều cây lá sum suê. Đặc biệt, trên hàng trăm tầng cấp của chùa có nhiều cây thông cổ thụ sừng sững.

Từ núi Tuý Vân nhìn phía đông khoảng 700m có núi Linh Thái, còn gọi là Quy Sơn hay Núi Rùa. Một lần chúa Nguyễn Phúc Tần đến đây, thấy ở đỉnh núi có ngôi tháp Chàm được người dân địa phương cho biết rất linh, bèn cho dời ngôi tháp đi nơi khác rồi lập chùa thờ Phật với tên gọi Vĩnh Hoà.

Từ chân núi Tuý Vân sang bãi biển đá dưới chân Núi Rùa chỉ mất chừng 10 phút. Ở đây, các quần thể đá to nhỏ chồng xếp lên nhau tạo ra những hốc động thật kỳ thú. Từng mảng sóng bạc đầu dội vào hốc đá vút lên cao mù mịt liên hồi. Tiếng sóng, gió biển hoà với tiếng reo của lá cây tạo nên một sự cộng hưởng của âm thanh hoang dã.

Trên một dải cát hẹp của bờ biển, các quần thể đá hình như những con rùa là nơi tập trung nhiều loại vỏ hải sản tấp vào bờ, tạo dáng như một hòn non bộ rất bắt mắt.

Du khách đến đây sẽ thích thú khi đi dạo quanh núi rừng và ven theo con đường ven biển rợp bóng dương, đọc sách, bơi, ăn đồ biển và ngủ trên cát. Những người thích mạo hiểm hơn thì băng qua những tảng đá và phải "chịu trận" của từng đợt sóng để đứng trên tảng đá cao ngất ngưỡng giữa không gian bao la.



http://www.vietime.com/pic/news/phuonganh/7/30/tuy%20van3.jpg
Một góc chủa Thanh Duyên (Túy Vân)


Theo ông Lâm Văn Sơn, phó chủ tịch xã Vinh Hiền: mỗi năm khu du lịch này chỉ thu hút từ 45 đến 50 ngàn lượt khách tham quan và nghỉ dưỡng.

Sở dĩ số lượng khách đến ít xuất phát từ việc triển khai dự án trùng tu di tích quốc gia chùa Thánh Duyên (Tuý Vân) và tháp Điều Ngự còn diễn ra chậm.

Hy vọng sau khi dự án khu du lịch sinh thái: Đông Dương-Hàm Rồng- núi Linh Thái hoàn thành, (tổng vốn đầu tư trên 14 tỷ đồng), đây sẽ là điểm đến lý tưởng của du khách.



http://www.vietime.com/pic/news/phuonganh/7/30/thuy4.jpg
Đầm Cầu Hai nhìn từ đỉnh núi Túy Vân

Má Lúm
13-05-2009, 08:28 PM
Hồ Truồi


Cách Huế chưa tới 30 cây số. Không biết tự bao giờ cái tên xứ Truồi đã tồn tại cùng với địa danh xứ Huế để rồi ta có núi Truồi, sông Truồi, làng Truồi, dâu Truồi, cả gái Truồi nữa và giờ đây có thêm hồ Truồi.



http://images.travel.channelvn.net/Images/Uploaded/Share/2008/12/16/2788416814_e645d77070_b.jpg
Hồ Truồi


Quang cảnh hồ Truồi kỳ vĩ hoang sơ và ấn tượng. Khởi công xây dựng từ năm 1996, đập Truồi cao 50 mét tạo nên dung tích lòng hồ đến 60 triệu mét khối nước. Và nữa, từ bên này hồ Truồi nhìn sang, chúng tôi bắt gặp toàn cảnh thiền viện Trúc Lâm – Bạch Mã đẹp như một bức tranh thuỷ mặc.

Lại một chuyến đò qua bên kia thiền viện. Chậm mất rồi! Không sao, chủ đò là một thanh niên nhanh nhảu rút chiếc điện thoại di động và a lô. Năm phút đã thấy có ngay một chiếc đò mới. Đò từ từ tiến ra giữa lòng hồ. Phía bên kia, những tổ đường, chính điện, lầu chuông… của thiền viện quần tụ trên khu đồi nguyên sinh, dưới chân ngọn Linh Sơn dần dần hiện ra, rõ mồn một.



http://images.travel.channelvn.net/Images/Uploaded/Share/2008/12/16/2787569901_f85cf10172_b.jpg


Thoáng chốc đến nơi. Trước mặt phía ở trên cao đã là thiền viện Trúc Lâm – Bạch Mã. Chầm chậm bước chân lên 172 bậc tam cấp để đứng trước tam quan thiền viện. Khi đã ở cái vị thế trên cao mới có dịp quan sát một cách đầy đủ và toàn cục hồ Truồi. Cái lòng hồ rộng lớn kia giờ nằm gọn trong tầm mắt, làn nước trong xanh, cảnh vật tĩnh lặng, có cây xanh bao bọc, có núi cao che chắn, có cả giữa lòng hồ một đảo chơi vơi mà thơ mộng.

Tiếp tục cuộc hành trình đi ngược lên phía đầu nguồn. Nắng đã lên cao. Quang cảnh núi rừng cứ rộng mở dần, có cảm giác như dạo nào viếng thăm Phong Nha động ở Quảng Bình hay Tam Cốc ở Ninh Bình. Mười lăm phút lênh đênh trên sông nước đã nghe tiếng nước chảy róc rách. Nước từ trên cao, chảy theo những con khe, con suối đổ vào lòng hồ. Một bãi đá cũng là bãi tắm hiện ra. Chúng tôi bắt gặp nhiều nhóm người đã có mặt nơi đây để thư giãn trong ngày hè cuối tuần.

Sunshine*
13-05-2009, 08:34 PM
Bạn hướng dẫn viên du lịch ơi, tớ muốn đi tới tất cả mấy cái chỗ mà bạn post, có đc ko? Bạn là hướng dẫn viên cho tớ nhé :so_funny:

Má Lúm
13-05-2009, 08:35 PM
Hùng thiêng dòng thác Kazan


Ẩn mình bên vùng đệm rừng quốc gia Bạch Mã, mới đây, thác Kazan hùng vĩ (Thừa Thiên Huế) đã được những đồng bào Tà Ôi ở thôn Dỗi "đánh thức". Đây là điểm du lịch sinh thái kết hợp văn hoá đặc sắc mà đồng bào vùng trung du Thừa Thiên Huế tổ chức khai thác để giới thiệu đến du khách.



http://www.khachsanexpress.com/imagedb/news/143/14312/thac%20Kazan%20hung%20vi.jpg
Thác Kazan


Khởi hành từ thành phố Huế buổi sáng, sau hơn 60 phút đi ô tô vượt đèo La Hy, du khách sẽ tới thôn Dỗi, thuộc xã Thượng Lộ, huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế. Ở đây, du khách được đắm mình trong tiếng chim ríu rít gọi đàn, tiếng hú của bầy vượn, tiếng róc rách của suối… Ở cổng làng, trước sân ngôi nhà Guơl truyền thống, khách sẽ được chào đón bằng những tiết mục múa, hát, thổi nhạc cụ truyền thống rất đặc sắc của đồng bào dân tộc.

Nếu đã quen nghe những âm thanh từ dưới xuôi, chắc hẳn, khách khó lòng nhịn cười khi thấy cảnh ông Trần Văn Đinh, trưởng Ban quản lý khu du lịch, người thổi kèn sừng dê hay nhất thôn Dỗi, nói oang oang bằng một tràng tiếng Việt lơ lớ: "Bà con thôn Dỗi kính chào khách quý. Mời khách quý thưởng thức các điệu múa, lời ca của đồng bào Tà Ôi...".

Tiếng cồng chiêng nổi lên ngay sau lời giới thiệu. Tốp múa của trẻ em thôn Dỗi từ từ tiến ra giữa sân. "Diễn viên" vừa diễn, ông Trần Văn Đinh lại say sưa thuyết minh, khách say sưa hoà mình nhún nhảy trong tiếng nhạc.



http://biethet.com/imagescontent/tg_2E26AD_thac-bai-2.jpg
Màn tấu nhạc "chào khách" của người Tà Ôi


Ông Đinh nói nếu chép ra kín cả trang giấy, người phiên dịch chỉ dịch lại có mấy câu cụt ngủn nhưng khách vẫn gật gật đầu xem chừng hiểu và thích thú. Không có vấn đề gì, tiếp nhận văn hoá đôi khi không cần phải có ngôn ngữ! Đến giờ phút này, giữa chủ và khách, khoảng cách về địa lý, ngôn ngữ, văn hoá... chỉ còn lờ mờ như sương khói.

Sau màn "chào hỏi", du khách sẽ giao lưu với người dân địa phương trong ngôi nhà Guơl, đi thăm làng, qua đám lá mục, đi lắt léo qua những tảng đá gập ghềnh để đi chơi thác Kazan, cùng nấu ăn chung với nhau. Đồng bào mời khách những món ăn mà chỉ nghe đã thấy … "khoái", như lợn nướng, cơm ống tre, cá suối nướng … Đặc biệt, tại đây, du khách sẽ được mua sản vật địa phương gồm mật ong rừng, thổ cẩm, hàng đan lát chính hiệu của người Tà Ôi.

Nếu có cơ hội, bạn nên thử nán lại một đêm, ngủ trong nhà Guơl truyền thống. Du khách ngồi quanh bếp lửa bập bùng, nghe chuyện từ thời mở đất của người Tà Ôi ở Nam Đông. Đêm khuya, khi tiếng nói của con người đã bắt đầu hoà trong sương khuya lạnh buốt, thì từ chốn rừng sâu, tiếng tác của con mang, con nai lại cất lên.

Nếu là người may mắn, giữa đêm khuya, bạn có thể nghe được tiếng kèn sừng dê, tiếng gió rít qua vách đá cùng xào xạc của gió rừng… Kết thúc giấc ngủ muộn giữa vùng trung du, bạn sẽ thức dậy cùng tiếng chim muông và hương rừng thoảng trong sương gió…


Bạn hướng dẫn viên du lịch ơi, tớ muốn đi tới tất cả mấy cái chỗ mà bạn post, có đc ko? Bạn là hướng dẫn viên cho tớ nhé :so_funny:

Bạn gì đó ơi, thật ra có chỗ mình cũng chưa đi :blushing:.


:vui: nhìn cảnh lung linh wa' :hihi: hok bik ra ngoài có thật còn lung linh thơ mộng vậy hok hen :D

Ở Huế ít ảnh hưởng bởi những phát triển ngày càng nhanh của xã hội, vậy nên ở đây gần như vẫn giữ được vẻ lung linh và trầm tư vốn có của nó :D.

Má Lúm
13-05-2009, 08:40 PM
Sông Hương , Núi Ngự còn gì bằng nào. đây là thiên đường là cảnh đẹp tuyệt vời trên trần giang
:confuse:

Ùi, có nói quá kô vậy :sr:.

Đầm Chuồn đêm ngàn sao...


Đầm Chuồn không xa lắm, bởi chỉ mười cây số đi xe máy từ trung tâm thành phố Huế là đến nơi. Trên đường đi, tiện thể ghé qua làng Chuồn (xã Phú An, Phú Vang, Huế) đong vài xị “đệ nhất danh tửu”, chọn một vài đòn bánh tét đặc sản lúc nào cũng có ở chợ làng này.



http://farm3.static.flickr.com/2083/2527230627_e5ced2c338.jpg


Ra đến bến đò Đồng Miệu, mấy anh bạn lái thuyền cặp đôi hai chiếc ghe nan, đủ chỗ cho tám người, gắn máy đuôi tôm hẵn hòi. Khuôn mặt khách háo hức, bởi trừ hai anh bạn thuyền “thổ địa”, những người còn lại đều lần đầu được rong chơi giữa vùng đầm phá bao la này.

Con thuyền phăng phăng lướt sóng. Anh bạn lái thuyền khéo léo điều khiển thuyền luồn lách giữa đám “nò” sáo ken dày như bàn cờ trên mặt phá, lúc rẽ phải, lúc rẽ trái, chuyển hướng điệu nghệ như một tay lái “lụa” điều khiển xe hơi giữa thành phố đông đúc với nhiều ngã ba, ngã tư...



http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=295214
Nhà chồ của ngư dân


Nửa giờ sau, thuyền đến nơi và cặp vào một nhà “chồ” (nhà tạm trên sông). Hai ông thổ địa bảo, việc đầu tiên thú vị nhất là đi giở nò (đổ nò). Chiếc nò hình trụ, được làm bằng tre đan, đặt ở đầu chóp hình chữ V của các tấm sáo trên mặt phá với độ sâu chừng hai mét. Anh bạn thuyền khỏe mạnh, bặm môi kéo nò lên, tôm cá thi nhau quẫy đạp. Mọi người háo hức, lăng xăng chuẩn bị cho bữa tiệc đầy hứa hẹn.

Rượu làng Chuồn được rót ra, mùi ngất ngây của loại “đệ nhất danh tửu” này quyện với mùi cá tươi thoang thoảng hình như đã kích thích bụng dạ mọi người đói cồn cào. Vừa nhấm nháp thưởng thức, vừa xuýt xoa khen ngon, anh bạn quả quyết rằng, ăn con cá trên suốt dọc chiều dài đất nước, không ở đâu ngon bằng cá trên phá Tam Giang, bởi nó có mùi... đầm phá. Một anh khác giải thích thêm, đó là nhờ mùi rong tảo đặc trưng, chỉ có ở vùng nước lợ... Mùi của biển, mùi rong tảo đầm phá vừa quen vừa lạ, phảng phất đâu đây. Đêm khuya, nước trời lồng lộng, không còn xác định được phương hướng nữa.



http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=295212
Thuyền đi giữa nò sáo


“Trăng lên!”. Ai đó reo. Mảnh trăng thượng tuần được mắc sẵn trên bầu trời, ánh bạc lấp lóa trên mặt nước. Phong cảnh đẹp lạ lùng. Không khí loãng ra. Mấy xị rượu và bánh tét làng Chuồn đã đưa mọi người vào trạng thái lâng lâng rồi nhanh chóng rơi vào giấc ngủ sâu.

Gió biển mơn man nhè nhẹ, mang theo cảm giác se lạnh, tưởng chừng như mùa hè oi bức đã rời xa. Giữa vùng đầm phá mênh mông bốn bề sóng nước, đêm trên nhà chồ thoáng mát, hư ảo trong một khung cảnh khá lạ lùng, bỗng quên mùa hè hanh hao miền Trung.



http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=295211


Người Huế gọi đêm ngủ nhà chồ trên phá Tam Giang là đi ngủ “khách sạn nghìn sao”. Ranh giới giữa trời và nước không còn. Chỉ tiếng sóng vỗ về mạn thuyền nghe rì rào, và thi thoảng có tiếng quẫy của con cá hanh, cá kình.



http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=295215
Bình mình trên đầm Chuồn


Tam Giang nay đã hòa vào dòng chảy của đời người...

letue
13-05-2009, 08:43 PM
Ùi, có nói quá kô vậy :sr:.

mình quăng giùm cho dân Huế mình mờ bạn Má lún :so_funny:

kem dâu mút
13-05-2009, 08:55 PM
Ừm, đang suy nghĩ là làm sao Hồ Truồi có tên là Truồi mà không phải là Chuồi?
Giá cả về chỗ ở thì là giá hiện nay hay mới vậy Lúm? Nếu du lịch mà bụi bặm thì nên ở khu nào gần trung tâm mà giá rẻ, ăn uống khu nào thì rẻ hả Lúm?

-::- ïŋ√ïʂîߣȝ -::-
13-05-2009, 09:17 PM
KDM: nghhĩ chắc đem đồ theo ăn là rẻ nhứt :hihi:

Cú mèo
13-05-2009, 11:46 PM
đi sông hương một chuyến thử sem nghe nói ở đó đẹp và thơ mộng lắm :D

Má Lúm
14-05-2009, 12:07 AM
Ừm, đang suy nghĩ là làm sao Hồ Truồi có tên là Truồi mà không phải là Chuồi?
Giá cả về chỗ ở thì là giá hiện nay hay mới vậy Lúm? Nếu du lịch mà bụi bặm thì nên ở khu nào gần trung tâm mà giá rẻ, ăn uống khu nào thì rẻ hả Lúm?

Vì sao gọi là Truồi, chứ không phải Chuồi thì em cũng chịu :D.
Theo như thời gian ở chỗ em copy, thì giá này áp dụng cách đây khoảng độ 4 tháng. Nói chung, đồ ăn ở Huế thuộc loại rẻ chị à. Như cơm hến, bún hến chỉ 3K-4K/1 tô. Những quán cơm bình dân cũng mọc lên rất nhiều, kiểu cơm bụi ấy thì tầm 10K/1 suất là ăn căng bụng rồi :D. Còn về việc nhà nghỉ/ khách sạn thì cũng không đắt. Nhà nghỉ thì dao động khoảng 100-150K/1 ngày 1 đêm :D.


đi sông hương một chuyến thử sem nghe nói ở đó đẹp và thơ mộng lắm :D

Ngắm sông Hương thì được, chứ du thuyền sông Hương nghe ca Huế thì buồn ngủ lắm :D.

kem dâu mút
14-05-2009, 12:41 AM
KDM: nghhĩ chắc đem đồ theo ăn là rẻ nhứt :hihi:

ôi giời ôi đi cả mấy ngày đồ ăn đâu mà vác cho nổi :dien:

P/s Lúm: thông thường thì nếu đến Huế thì mình nên ở khu nào mới thuận tiện cho việc đi lại và tham quan :D Nếu đến Huế thì nên đi ăn món gì tại quán nào để biết được rõ văn hoá ẩm thực dân dã của Huế :D và về nhà không phải tiếc :hihi:

À quên, đúng là biển Lăng Cô rất đẹp, nhìn cứ như tranh vẽ í (dù chỉ nhìn qua khung cửa kính của tàu hoả thui :hihi:)

Má Lúm
14-05-2009, 12:56 AM
P/s Lúm: thông thường thì nếu đến Huế thì mình nên ở khu nào mới thuận tiện cho việc đi lại và tham quan :D Nếu đến Huế thì nên đi ăn món gì tại quán nào để biết được rõ văn hoá ẩm thực dân dã của Huế :D và về nhà không phải tiếc :hihi:

À quên, đúng là biển Lăng Cô rất đẹp, nhìn cứ như tranh vẽ í (dù chỉ nhìn qua khung cửa kính của tàu hoả thui :hihi:)

Mấy chỗ tham quan ở Huế (như ở trên em đã post) đều ở khá xa trung tâm thành phố nên sẽ phải đi bằng xe oto :D. Nếu để tiện cho việc tham quan Huế vào buổi tối (ngắm cầu Trường Tiền, ngắm sông Hương) thì có lẽ chọn mấy nhà nghỉ & khách sạn ở đường Lê Lợi hoặc Hùng Vương là hợp lý nhất, ở chỗ đó đi bộ ra cầu Trường Tiền có tí tẹo.

Ăn thì Huế có nhiều chỗ lắm chị :
- Bún bò : ở đường Lý Thường Kiệt (đối diện bưu điện Lý Thường Kiệt )
- Cơm/bún/cháo hến & chè bắp : đường Hàn Mặc Tử
- Muốn mua mè xững : mè xững Thiên Hương ở đường Chi Lăng
- Bánh khoái/ nem lụi/ bún thịt nướng : đường Điện Biên Phủ, ngày gần ngã tư Nguyễn Huệ
- Bánh bèo/ nậm/ lọc : Quán bà Cư ở gần Cung An ĐỊnh - đường Nguyễn Huệ

Đặc sản Huế nhiều quá, tạm thời em nhớ không nổi, nhớ đc nhiêu đó :sr:.

kem dâu mút
14-05-2009, 01:01 AM
ùi, zị là đc òi, đủ để có thể ta ba lô trong vài ngày rùi :hihi:

Má Lúm
14-05-2009, 01:04 AM
Những ngọn đồi thiêng



http://i389.photobucket.com/albums/oo337/dongtahdsu/DSC_0483.jpg


Từ những con dốc dẫn dắt chúng ta lên những phố đồi vùng Thuỷ Bằng, Thủy Xuân, Trường An, An Lăng, Ngự Bình,... Trước đây, quanh những vùng đất này là các nghĩa địa. Từ cầu Nam Giao lên đường Điện Biên Phủ là một con dốc dài khiến những người xe thồ, xích lô mất rất nhiều năng lượng để vượt qua. Ngày xưa, vùng đất này là những ngọn đồi nối nhau chập chùng, có thể Đàn Nam Giao thiêng liêng được triều đại nhà Nguyễn xây dựng để làm nơi tế trời xưa kia là một đỉnh đồi lớn. Những vùng lân cận Đàn Nam Giao là những ngọn đồi thấp hơn, khuất dưới những tán cây đại thụ lá xanh um tùm những góc ngọn đồi là các ngôi chùa cổ.
Từ đầu cầu Phủ Cam nhìn lên một đoạn dốc ngắn thuộc đường Nguyễn Trường Tộ, hình ảnh đập vào mắt chúng ta, là hai ngọn tháp chuông phía trước nhà thờ Chánh toà Phủ Cam vút cao dưới nền trời trong xanh. Ẩn núp dưới những tàng cây màu lục là những ô cửa vuông nho nhỏ của người dân xóm đạo hướng về khuôn viên nhà thờ, như một xác tín về sự tồn tại của thượng đế. Trên con dốc Bến Ngự thuộc đường Phan Bội Châu có ngôi cổ tự Từ Đàm, Linh Quang,… có di tích lịch sử về danh nhân văn hoá Phan Bội Châu, bên trong khuôn viên di tích có bức tượng lớn, tạc gương mặt nhân sĩ đang suy tư về con đường canh tân đất nước do nhà điêu khắc Lê Thành Nhơn kỳ công tạo nên. Rồi từ cầu Kho Rèn lên dốc Trần Phú có Dòng mến Thánh Giá và một lối nhỏ dẫn vào ngôi vườn có người thiếu phụ sống ẩn mình trong tàng kinh các như một nữ tu.

http://khamphahue.com.vn/Upload/DVDULICH/DIEMTQ/DTQ/vuonquocgiabachma1.jpgCách xa trung tâm thành phố Huế chưa đến 10 km về phía tây nam có đồi Vọng Cảnh, một trong những góc nhìn dòng Hương lý tưởng nhất mà người xưa đã chọn. Khi mặt trời ngã dần về phía Tây, từ đồi Vọng Cảnh chúng ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp lung linh, kỳ ảo của sông Hương. Thời khắc này, gương mặt của sông gợi lên hình ảnh một thiếu phụ đang che dấu nỗi buồn trong thăm thẳm cõi lòng mênh mang. Từ góc nhìn ở đồi Vọng Cảnh, dòng sông uốn lượn mềm mại như dáng hình một vũ nữ đang hoà mình trong tiết điệu tình yêu một cách cuồng nhiệt. Cách đồi Vọng Cảnh hơn 1 km là khu lăng tẩm của vua Tự Đức toạ lạc trên một ngọn đồi thơ mộng.

Bên kia đồi Vọng Cảnh là điện Hòn Chén linh thiêng tồn tại từ thời xa xưa. Điện Hòn Chén toạ lạc trên sườn núi Ngọc Trản, thực ra Ngọc Trản có hình dáng một quả đồi hơn ngọn núi. Từ đồi Vọng Cảnh chúng ta mất hơn mười phút đi xe máy để đến Thiên An; gồm những ngọn đồi thông rất lãng mạn nối nhau dập dìu, có những con đường quanh co dẫn vào những hồ nước trong xanh và những cánh rừng thông hun hút.
Dọc theo đường Minh Mạng lên Thiên An, xuất hiện lác đác vài ngôi nhà vườn kiểu lai tạp và những trà thất, nhà hàng, biệt phủ,… phục vụ cho du khách. Vừa vào khuôn viên đan viện Thiên An, bên phải có đồi Đức Mẹ, ẩn sâu một cách kín đáo trong rừng thông ở phía trái Thiên An là đồi Thánh Giá và trên đỉnh ngọn đồi cao nhất là một nhà thờ dòng có lối kiến trúc hài hoà với thiên nhiên, phía bên trái trước nhà thờ là tháp chuông vút cao rất kiêu hãnh của đan viện.

Một sớm mùa thu, khi màu nắng nhạt mỏng manh choàng lên những ngọn đồi, những lá thông xanh rung rinh óng ánh trong nắng ban mai, những con đường còn dư vị ươn ướt của mùi sương trộn lẫn với xác lá thông già. Lúc này, nhìn những ngọn đồi uốn lượn, nhấp nhô trong màu nắng nhạt trông như một người mẹ đang vỗ về đàn con thơ trong giấc ngủ yên bình. Đa phần, những ngọn đồi ở Huế là nơi an nghĩ cuối cùng của người đã khuất, ngoài ra còn là nơi tĩnh tâm, soi chiếu lại cõi lòng của người đang sống. Thiên An, Vọng Cảnh, Ngự Bình,… và nhiều vùng đất thiêng khác là nơi chốn u linh, tĩnh lặng, mọi người đến viếng để cảm nghiệm và sửa mình, không phải là nơi để khuấy động, ồn ào,…

Cách Thiên An 3 km là nơi yên nghĩ của vua Khải Định, trên đường đến lăng Khải Định, xa xa chúng ta có thể nhìn thấy, thấp thoáng giữa màu xanh cây lá um tùm hiện ra một toà lâu đài thu nhỏ án ngự trên một ngọn đồi, được che đậy bởi vòm trời trong veo, bàng bạc những áng mây trắng hồng đang trình diễn cuộc sắp đặt của gió. Trên đường từ Thiên An đến lăng Khải Định, bên đường phía trái, có một ngọn đồi khiêm cung là nơi an nghĩ của điêu khắc gia Điềm Phùng Thị và phu quân của bà là ông Bửu Điềm. Những ngọn đồi rất gần thành phố Huế là Nam Giao, Phủ Cam. Tiếc rằng, dọc trên những sườn đồi đó, phố thị mọc lên tự do, không theo mô thức nào cả, kể cả những khu phố mới ở Trường An. Nếu được quy hoạch để tạo thành những khu phố đồi, sẽ tạo thêm điểm tham quan cho du khách.
Ngoài các ngọn đồi ở phía nam sông Hương, còn có đồi Hà Khê ở phía bắc sông Hương ở cách trung tâm thành phố khoảng 5 km, một địa danh đi vào trong dân gian qua câu hò:


“Kim Liên ơi hỡi Kim Liên
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê
Hà Khê nước chảy đường nghê
Chim kêu vượn hú bốn bề nước non”

Qua câu hò trên, chúng ta có thể hình dung, từ thời xưa vùng đồi Hà Khê rất hoang vắng. Tương truyền rằng, trên đồi Hà Khê ngày xưa đã có một ngôi chùa nhỏ của người Champa, sau này được chúa Nguyễn cho xây dựng lại để trở thành ngôi linh tự Thiên Mụ vang tiếng ngày nay. Và xa hơn nữa bên kia sông Bạch Yến là chùa Kim Sơn xưa cổ nằm trên một ngọn đồi đất đỏ, Kim Sơn tự ngày xưa là nơi tạo ra các bậc tăng tài của xứ Huế, dọc theo con đường đất đỏ và bụi mù để vào trong hun hút của núi rừng là Huyền Không Sơn Thượng, một cơ sở Phật giáo Nguyên Thuỷ vừa mới hình thành vài thập niên trở lại.
Ở Huế, ngoài những ngọn đồi bằng đất đá gắn liền với những cơ sở tôn giáo thiêng liêng, trong sâu thẳm của Huế, ẩn chứa ngọn đồi tâm linh tiềm ẩn trong tâm thức mỗi người dân Cố đô, thể hiện lòng tri ân tổ tiên, đất trời qua những nét văn hoá biểu hiện trong các nghi lễ chạp, giỗ, cúng đất, cúng trời,… Một ngày mưa, đi theo dòng người, đưa tiễn người O ruột về nơi an nghĩ cuối cùng trên độn cát trắng của làng quê, tôi nhận ra rằng độn cát đó là một ngọn đồi thiêng của biển, được chọn làm nơi an nghĩ của tổ tiên các dòng họ và cư dân đang cư ngụ trong những ngôi làng ven biển.

Má Lúm
14-05-2009, 07:47 PM
Những ốc đảo trên sông Hương


Những ốc đảo trên sông Hương từ lâu đã làm nên những điểm nhấn tuyệt vời trong kiến trúc hài hòa của Huế. Có điều, ít ai có thể ngờ rằng trên sông Hương không chỉ có hai hòn đảo Dã Viên- Cồn Hến từng mệnh danh là “Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ”, mà có đến 5 ốc đảo xuôi dòng nước xanh, chứa đựng trong nó biết bao dấu tích rêu phong của cố đô Huế và bao số phận con người...



http://www.nld.com.vn/img/3877/19-chot.jpg
Cồn Hến, nơi người dân làm nghề cào hến để nấu cơm Hến


“Dữ dã viên ký” và tâm sự người cồn Hến
Về địa lý phong thủy, cồn Dã Viên cũng như cồn Hến đã đóng vai trò tâm linh trong kiến trúc cố đô, các nhà quy hoạch kiến trúc đầu thế kỷ thứ 19 đã siêu nhiên hóa và hình tượng hóa chúng thành con rồng và con cọp ở trong thế rồng chầu hổ phục để bảo vệ vương quyền. Không hiểu vì đâu mà người Huế gọi “Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ” là hai cái cồn, song lại gọi những cồn khác cũng trên con sông này là đảo Cũng không biết cồn Dã Viên hình thành từ bao giờ, chỉ biết nó được nhắc đến nhiều trong các văn tự thời Nguyễn và ngày 5-1-1750 đã từng có trận đấu giữa voi và cọp do chúa Nguyễn tổ chức. Hôm đó 40 con voi đã quật chết hết 18 con cọp. Một trong những tư liệu quan trọng khác gắn với Dã Viên là bài “Dữ dã viên ký” do vua Tự Đức viết sau khi vườn ngự trên cồn này xây dựng xong. Trong đó có nói rằng khởi thủy của cồn này có bảy ngôi nhà dân ở, nhỏ hẹp và xiêu vẹo. Lầu ngự của vua nghe nói tồn tại đến năm 1900, còn từ 1925 thì bỏ mặc cho mưa nắng. Ngày nay, trên đảo cũng chỉ có 8 hộ dân sinh sống. Các di tích xưa đều đã biến mất, chỉ có tháp nước Dã Viên cung cấp nước cho dân thành phố là còn đứng sững giữa sông xanh.

Xuôi về phía dưới không xa, cồn Hến lớn hơn nhiều so với Dã Viên, cũng chia sông Hương ra làm hai nhánh. Nhánh phía Đông là ranh giới giữa Vĩ Dạ và cồn Hến, nhánh phía Tây là ranh giới giữa cồn Hến và phường Phú Cát. Ngày xưa, hai khe nước giữa cồn phù sa lấp cạn, tôm cá rất nhiều, đêm đêm người đến đây soi, đơm bắt, đèn đuốc sáng cả góc trời nên người ta còn gọi là “xứ cồn cạn”. Phường Giang Hến ra đời trên đất “xứ cồn cạn” lại không theo nghề tôm cá mà lại làm nghề cào hến dọc sông Hương. Bởi nghề này mà cồn Hến trở thành cái nôi của món cơm không nơi nào có được là cơm hến Huế. Từ một ốc đảo nhỏ thuở xưa, nay cồn Hến đã là một vùng đất đai cao ráo với diện tích gần 33 ha, gồm 5 tổ của khu vực 6, phường Vĩ Dạ. Ở đó dân cư đông đúc, có trường học, đền chùa. Từ sau khi bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử được truyền tụng, với câu: “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”, cồn Hến ngoài nổi tiếng cơm hến, còn nổi tiếng món chè bắp với tên gọi “chè bắp xứ cồn” thơm và rất chi thanh ngọt. Kể từ sau khi đất nước mở cửa, kinh tế thị trường tràn ra đảo thì cồn Hến ngoài nơi cào hến và trồng bắp ra, còn là “đảo ẩm thực”. Du khách ra đảo này có thể vừa soi mặt mình xuống sông Hương vừa ăn cơm hến, chè bắp... Bởi vậy năm 1997, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế dự định mở khu du lịch ở ốc đảo này nhưng chưa thực hiện được do không có vốn. Người cồn Hến mấy năm trở lại đây thất bát vì nghề cào hến không còn cho thu nhập như xưa. Do đánh bắt ráo riết với các dụng cụ không hợp lý, hến trên sông Hương đang ít dần. Một người đàn ông Giang Hến tên là Trai đã khóc trong bóng chiều, nói rằng thật đáng buồn khi một vài năm lại đây hến ở cồn Hến không còn là hến sông Hương nữa, mà người ta đi mua hến từ xứ khác về thay vào. Bây giờ con hến sông Hương đã bỏ đi, biết bao giờ nó sẽ quay về...


Cụm đảo bên cạnh cồn Hến
Phía trên cồn Hến, ngang qua phường Phú Cát có cụm đảo 5 cồn nổi nhỏ, người Huế gọi đó là “Đảo ông Sắt”. Tên gọi này xuất phát từ việc ông Võ Sắt là người dân vạn đò thường xuyên kè chắn, lập miếu thờ Thiên Y A na và lo hương đèn trên đảo rồi sau đó trở thành người vạn đò đầu tiên ở khu vực này lên đảo làm nhà ở. Bây giờ trên đảo này còn có một lớp học tình thương với khoảng 50 chỗ ngồi do UBND phường Vĩ Dạ xây dựng. Có một người thầy đã nhiều năm, dù mưa hay nắng, ngày nào cũng đi ghe ra đảo để dạy những đứa trẻ rất mê học chữ ở đây. Học tập ông Sắt, ông Võ Mốc cũng kè chắn những hòn đảo nhỏ xung quanh, dựng miếu thờ Thiên Y A na và đàn Âm hồn. Năm cụm đảo này bây giờ là đất lành cho 400 thuyền thuộc tổ 21, 22 khu vực 7, phường Vĩ Dạ neo đậu, sinh sống. Các hộ đò ở đây giờ đã biết hình thành các quỹ tiết kiệm, chẳng hạn mỗi đò một ngày đóng 200 đồng, đến cuối năm “đổ ống” ra mổ heo ăn Tết. Cũng có một số chương trình xã hội do thanh niên Huế thực hiện ở đây, đưa được một số thanh niên trên đảo vào đất liền học các nghề may, điện lạnh... Đảo đang ngày càng gắn với đất liền.


Hai ốc đảo khác
Đứng ở Đập Đá nhìn về hướng Đông Nam, cách không xa (khoảng 600 m) có một hòn đảo nhỏ là đảo Bảo An Định. Đảo này nằm giữa dòng sông Như Ý, một nhánh của sông Hương mà cả khởi đầu và kết thúc đều ở sông Hương. Khởi thủy, đảo chỉ là một mô đất cạn giữa dòng, ông Võ Văn Đồng, làm nghề sông nước đã nhọc công lặn đá chắn kè khiến đảo ngày một lớn. Lúc rộng nhất của đảo là 150 m2, ông Đồng đưa cả gia đình ra đảo sống. Năm 1967, ông Đồng xin chính quyền hồi ấy lập miếu thờ thần rắn trên đảo và được chấp nhận. Hiện, con trai ông Đồng là Võ Văn Thư đã xây một ngôi nhà trên đảo. Tuy nhiên, sống ở trên đảo vào mùa lũ là rất nguy hiểm. Năm 1999, lũ đã cuốn trôi 4 mạng người trên đảo Bảo An Định cùng với 50% diện tích đảo (đảo giờ chỉ còn 80 m2). UBND TP Huế đã quyết định cấp tốc giải tỏa các hộ ở trên đảo này và đã cấp đất cho gia đình ông Đồng, ông Thư ở phường Vĩ Dạ. Dù đã nhận đất, dựng nhà, con cháu đã đến ở, ông Thư vẫn cứ sống và làm ăn trên đảo.


http://www.nld.com.vn/img/3877/19-con-da-vien-1.jpg
Cồn Dã Viên, nơi từng tổ chức trận đấu giữa voi và cọp do chúa Nguyễn tổ chức năm 1750

Xuôi dọc sông Như Ý, về đến ngã ba sông Vân Dương có một hòn đảo nhỏ gọi là đảo Phao Võng. Vào thời Gia Long, ông Nguyễn Hữu làm nghề sông nước ở thôn Phao Võng, xã Hiền Vinh (Phú Lộc) cùng 5 gia đình khác chuyển lên vùng đất nổi ở ngã ba sông này làm nơi neo đậu, sinh sống bằng nghề chài lưới, lập nên thôn mới gọi tên là Phao Võng (để nhớ thôn cũ). Hòn đảo nhỏ giữa ngã ba sông này cũng mang tên Phao Võng từ đó. Lâu ngày, đảo hẹp dần, hậu sinh của họ Nguyễn lên cạn làm ăn sinh sống, chỉ còn lại một hòn đảo nhỏ với cây mân trên trăm tuổi và một am thờ Thiên Y A na khá lâu đời.


Lãng mạn cùng ốc đảo
Trên những ốc đảo đó, người ta thờ thần Thiên Y A na, thần rắn cầu mong mưa thuận gió hòa, thuận thuyền xuôi chèo để làm ăn, đánh bắt tôm cá... Lâu ngày, người trên cạn cũng ra đảo thờ cúng các lễ như: cúng bạc vớt, cúng xai-phan (cầu hồn), lễ thành, đám chay... Bởi vậy, những ốc đảo nói trên ngoài việc tạo vẻ mỹ quan độc đáo cho sông Hương, còn là những vùng đất tâm linh trên sông nước.

Năm 1995, giữa lúc các đảo, cồn trên sông Hương mai một dần, có một người chợt nhớ ra là kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn. Bấy giờ, với tư cách là chủ nhiệm đồ án “Quy hoạch tôn tạo cảnh quan hai bờ sông Hương”, ông Huấn đề nghị đưa cồn Dã Viên vào khai thác văn hóa du lịch. Trong đó, có đề xuất chuyển tuyến đường sắt qua Dã Viên sang hướng khác, giải tỏa tháp nước Dã Viên trên cồn... hình thành một hoa viên trên sông Hương, tháp nước cao 35 m sẽ cải tạo thành một khu vui chơi, giải trí, nhà hàng trên cao... Rất tiếc là những ý tưởng ấy giờ vẫn còn nằm trên giấy. Nhưng rõ ràng trong mắt nhiều nhà du lịch, rất có thể thiết kế một tour du lịch bằng thuyền đến các đảo trên sông Hương. Có thể tận mắt nhìn thấy những phế tích về một lầu đài xưa kia cực kỳ hoa lệ trên Dã Viên, những con người trên các đảo, những làng nghề sông nước ở cồn Hến và tất nhiên, thưởng thức tại đây những món ăn hải sản tươi sống vừa đánh bắt từ sông Hương lên, hay cũng chỉ cần ăn cơm hến, chè bắp xứ cồn là đủ... Nếu may mắn hơn, có thể dự một buổi lễ cúng tâm linh miền sông nước. Đó không phải là những cái thú sao .

Má Lúm
15-05-2009, 12:41 AM
Biển Cảnh Dương


Trên tuyến quốc lộ 1 từ Huế vào Đà Nẵng, cách Huế khoảng 60km, nằm giữa mũi Chân Mây Tây và Chân Mây Đông là bãi tắm và khu nghỉ mát lý tưởng mang tên Cảnh Dương.



http://www.tinhuyhue.vn/portal/UploadFiles/tinhuyhue.vn/TinTuc/tin_tuc_trong_tinh/Bai%20bien%20canh%20duong.jpg
Biển Cảnh Dương


Bãi biển Cảnh Dương dài 8km, rộng 200m, hình vòng cung, có độ dốc thoai thoải, cát trắng mịn, tương đối kín gió, rất thuận lợi cho việc tổ chức các loại hình du lịch và thể thao.

Kế bên bãi biển đẹp này là một Chân Mây với làn nước yên ả, bãi tắm rộng, bằng phẳng hòa hợp cùng làn nước biển trong xanh và âm thanh reo ca của rừng dương nằm sát bãi tắm.

♥ Tiểu Phương ♥
15-05-2009, 04:50 AM
Đẹp quá, muốn đi Huế ghê.

Phải để dành tiền mới được.

Thiên Thần Bay
15-05-2009, 07:26 AM
thì Huế có nhiều chỗ lắm chị :
- Bún bò : ở đường Lý Thường Kiệt (đối diện bưu điện Lý Thường Kiệt )
- Cơm/bún/cháo hến & chè bắp : đường Hàn Mặc Tử
- Muốn mua mè xững : mè xững Thiên Hương ở đường Chi Lăng
- Bánh khoái/ nem lụi/ bún thịt nướng : đường Điện Biên Phủ, ngày gần ngã tư Nguyễn Huệ
- Bánh bèo/ nậm/ lọc : Quán bà Cư ở gần Cung An ĐỊnh - đường Nguyễn Huệ


khoái nhất đoạn này :dance:

Má Lúm
15-05-2009, 06:06 PM
Biển Thuận An



http://vnexplore.net/files/hue/hue_bien_thuanan.jpg


Vị trí: Bãi biển Thuận An thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Đặc điểm: Thuận An là nơi tắm biển thú vị cho du khách sau một ngày tham quan kinh thành, lăng tẩm, chùa chiền, phong cảnh ở Huế.

Bãi biển Thuận An nằm bên cạnh cửa biển Thuận An, nơi dòng sông Hương đổ ra phá Tam Giang rồi thông ra biển. Bãi biển cách Tp. Huế 15km và du khách có thể đi đến đó bằng ô tô.

Chuyến đi bằng ô tô vừa nhanh và thú vị với một bên là cảnh dòng sông còn bên kia là quang cảnh nhà cửa, am miếu, đền chùa và những cánh đồng lúa.

Thuận An là nơi thu hút rất đông người dân xứ Huế về hóng mát và tắm biển vào dịp hè. Thời kỳ tấp nập nhất ở đây thường kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9 lúc tiết trời nóng bức nhất.

Ngoài ra du khách có thể đến tham quan miếu Thái Dương ở gần đó với sự tích nữ thần Thái Dương được dân làng hết sức sùng bái, hoặc thăm miếu Âm Linh thờ thần cá voi, con vật linh thiêng của dân miền biển.

Má Lúm
16-05-2009, 06:01 AM
Ừm, đang suy nghĩ là làm sao Hồ Truồi có tên là Truồi mà không phải là Chuồi?
Giá cả về chỗ ở thì là giá hiện nay hay mới vậy Lúm? Nếu du lịch mà bụi bặm thì nên ở khu nào gần trung tâm mà giá rẻ, ăn uống khu nào thì rẻ hả Lúm?

Sáng nay, em có việc đi qua Truồi và cũng tiện thể hỏi chú lái xe về gốc tích của cái tên này.
Dân ở đây, người ta truyền miệng với nhau một tích như thế này : Hồi xưa, khi Nhà nước mở đường ở vùng này, những cột mốc đo đường ở đây không làm bằng xi-măng mà làm bằng thân cây ổi (vì ở vùng này có một quả đồi trồng rất nhiều ổi - nhưng giờ thì không còn nữa). Người ta gọi những cây cột mốc đo đường bằng thân cây ổi đó là trụ ổi. Do hồi xưa hay có thói quen nói trại, nói chệch đi nên trụ ổi được đọc trại thành Truồi. Gốc tích hồ Truồi, núi Truồi, làng Truồi ... được bắt nguồn từ đó.

:D

.APPLE.
18-05-2009, 02:01 AM
Ở Huế, mấy nơi đó đi hết rồi. Cơ mà Hồ Truồi thì tao chưa ngó qua :sr:

Má Lúm
18-05-2009, 06:54 PM
Thác A-nô


Nếu một lần lạc bước đến khu du lịch sinh thái thác A-Nô (xã Hồng Kim huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế), du khách có cảm tưởng đang bước vào một thế giới đa sắc màu. Một bên là tiếng suối róc rách chảy từ khe núi, bên kia là dàn hợp xướng hoành tráng, oai nghiêm của muôn loài chim giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ.


http://www.namphuongtourist.com/images/travelnews/Thac%20Na%20no%20(Custom).jpgTheo đường tỉnh lộ 49 và cách Huế 70km về phía Tây, sẽ đưa bạn đến khu du lịch sinh thái thác A-Nô. Có diện tích khoảng10 ha, Khu du lịch A Nô bao gồm ba thác nước nằm không xa nhau tựa như bức rèm voan trắng muốt lung linh trước gió. Cuối thác là những hồ nước nhỏ trong veo in bóng mây trời.

Từ cách xa hàng trăm mét, du khách có thể cảm nhận được những bọt nước trắng xóa, thoảng nghe tiếng tù và của các chàng trai Pa Cô í ới gọi bạn tình. Xung Quanh thác là những lùm hoa dại nhấp nhô khoe sắc, các mỏm đá phủ dày rêu xanh. Sáng sớm, du khách khó nhận ra đâu là thác, đâu là cây cối, núi đồi... bởi tất cả đều ẩn hiện dưới màn sương trắng. Buổi trưa, dưới ánh nắng của rừng đại ngàn, làn sương tan dần để lộ một khung cảnh trong trẻo, tươi xanh. Có lẽ đây là thời điểm đẹp nhất để du khách ngắm nhìn, tận hưởng vẻ quyến rũ của cảnh quan sơn thủy đẹp như tranh. Chiều về, khi bóng mặt trời chìm dần sau đỉnh thác cũng chính là lúc ánh lửa bập bùng dưới khu nhà sàn An Sinh được thấp sáng. Những bình rượu cần và đùi gà nướng cùng với món cơm lam, canh cá hanh nấu măng rừng đang chờ đón mọi người trở về, sau một ngày thả hồn mình bên dòng thác A-Nô.

Đến khu du lịch sinh thái này, du khách không những chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên tươi mát mà còn được cùng chung sống, sinh hoạt, hòa nhập với đồng bào Pa Cô, Cơ Tu, giúp mọi người hiểu và biết thêm về lịch sử đấu tranh anh dũng, bản sắc văn hóa của người dân vùng cao A Lưới. Đằng sau cái dáng vẻ sơn thủy hữu tình, vùng đất này còn lừng danh một thời là "đất thép" - căn cứ địa cách mạng của khu ủy Trị - Thiên trong kháng chiến chống Mỹ. Một số địa danh nơi đây đã đi vào lịch sử như "Ngã tư giao liên đỏ máu", Suối A-riêng - nơi che giấu khí tài vận tải chi viện chiến trường...

Khu du lịch sinh thái thác A-nô sẽ là điểm hẹn lý tưởng của du khách khi tham quan, khám phá đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại.

matxanhbuon
19-05-2009, 02:08 AM
Má Lúm ở đâu mà rành về Huế thế , nhưng còn một vài điểm nửa nên nói về việc lên lăng và tham quan bằng thuyền rồng nửa thì tuyệt hơn đó...........

Má Lúm
19-05-2009, 03:04 AM
Má Lúm ở đâu mà rành về Huế thế , nhưng còn một vài điểm nửa nên nói về việc lên lăng và tham quan bằng thuyền rồng nửa thì tuyệt hơn đó...........

Lúm ở Huế :D. Từ từ rồi những chỗ đó cũng sẽ đc post :D.

Thác Nhị Hồ

http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/stdn/thac-nhi-ho.jpgThác Nhị Hồ cách Huế 43km về phía Nam, cách Quốc lộ 1A (tuyến Huế - Ðà Nẵng) 3km đường đất.

Thác Nhị Hồ là một ngọn thác nước nhỏ đổ xuống từ trên vách núi tạo nên hai cái hồ nước gần nhau. Mỗi hồ rộng khoảng 30x30 m, hai hồ nhận nước từ ngọn thác tích nước lại và chảy theo quy trình đập tràn. Vì có hai hồ nên người dân địa phương gọi là Nhị Hồ. Khác với những thác khác, độ dốc của nhị Hồ thấp nên du khách có thể lên đỉnh thác để tắm. Vừa ngâm mình - bơi thỏa thích dưới hai hồ nước mát lạnh vừa tắm mình dưới dòng thác đổ, cảm giác như được massage. Xung quanh thác là rừng nguyên sinh.

Từ bãi đậu xe du khách đi theo con đường mòn nhỏ dưới những tán cây dừng khoảng 200 m là đến Nhị hồ và đỉnh thác. Ở các sườn núi là dãy hàng quán của cư dân địa phương dựng lên những lán trại để phục vụ cho du khách nghỉ ngơi và ăn uống. Vào khoảng tháng 2-4 hoa mua và hoa sim nở tím cả đường đi. Du khách có thể dừng chân nơi cánh rừng sim để thưởng thức những trái sim chín thỏa thích.

Má Lúm
22-05-2009, 06:11 PM
Phá Tam Giang


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/stdn/images93637_phatamgiang281004.jpg

Ðồng bằng ven biển Thừa Thiên Huế có nhiều đầm phá, vũng như phá Tam Giang, đầm Thanh Lam, đầm Thuỷ Tú, đầm Cầu Hai, vũng Lập An. Ðây là tụ hội của hầu hết các con sông trước khi đổ ra biển.



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/40/Tam_Giang_lagoon.jpg

Vị trí: Phá Tam Giang giới hạn phía bắc là cửa sông Ô Lâu, phía nam là cửa sông Hương thông với biển qua cửa Thuận An, thuộc địa phận 12 xã của ba huyện Quảng Ðiền, Phong Ðiền và Hương Trà.

Đặc điểm:
Tam Giang và Cầu Hai là 2 đầm phá nước lợ lớn nhất, tiêu biểu nhất ở Việt Nam với chiều dài gần 70 km đã án ngữ hầu hết chiều dài của tỉnh Thừa Thiên Huế là vùng nước lợ lý tưởng cho nhiều loại thủy sản sinh sống

Phá Tam Giang có độ sâu từ 2 đến 4m, có nơi sâu tới 7m, mặt nước rộng mênh mông là địa bàn hoạt động kinh tế quan trọng mang lại những giá trị tài nguyên to lớn. Hàng năm khai thác trên vùng đầm phá hàng nghìn tấn hải sản, cá, tôm các loại. Những năm gần đây, trên vùng đầm phá đã phát triển nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi tôm và trồng rau câu. Hiện nay tỉnh đang nghiên cứu đầu tư xây dựng cầu qua phá Tam Giang để có điều kiện phát triển kinh tế và du lịch tại vùng này.

Được hình thành và tồn tại hơn 2000 năm. Đây là loại hình thủy vực rất độc đáo, được coi như là một vùng biển - một lagoon ven biển nhiệt đới.

Đã đến Phá Tam Giang thì không nên bỏ qua món hải sản với rất nhiều loại như cá chình, cá lụy, cá lệt khoai, cá lệt cú, cá vượt, cá dìa cá nâu, tôm sú, tôm đất, tôm bạc, trặc (rất hiếm). Cá lệt cú um với măng, chuối chát ăn với bún hoặc cơm. Còn cá chình và cá lụy thì nướng, cuốn bánh tráng chấm nước mắm hay mắm ruốc. Cá trặc kho sệt ăn với cơm rất ngon. Theo người dân địa phương thì canh cá bong thệ nấu với thơm ăn mát cả mùa hè, hoặc đĩa bánh khoái cá kình thì khộng thể nào quên được. Người ta nói không ngoa, cá có rất nhiều suốt chiều dài đất nước, nhưng không có cá nào ngon và thơm như cá Tam Giang

:)
24-05-2009, 07:13 PM
Suối Voi



http://www.phunuonline.com.vn/dulich/2009/Picture/CN14/lensuoi2.jpg
Tảng đá hình y hệt một con voi thật đang thả vòi uống nước dưới chân thác.

Suối Voi nằm trên địa phận Thừa Thiên - Huế, tên địa phương gọi thân mật là suối Mệ. Theo cách gọi dân gian, mệ có nghĩa là con voi khổng lồ.

Từ thành phố Huế chạy về phía Nam 60 km, hay Đà Nẵng chạy ra 40 km, rồi thêm 3 km chạy lên phía tây, ngang địa phận Thừa Lưu, xã Lộc Tiến, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, men theo con đường nhỏ được phủ lớp bê tông, du khách sẽ đến suối Voi, một con suối thật nhiều nước với nhiều ngọn thác lớn tuôn ra dưới một cánh rừng nguyên sinh khá dày thảm thực vật.

Vào mùa xuân tiết trời ấm áp, mát mẻ, các “mệ” từ đỉnh Bạch Mã, hàng trăm con kéo thành từng đoàn đến đây ăn củ sắn dây rừng, duy nhất vùng này mới có, nhưng sau đó đàn voi đã biến mất hút vào rừng, chỉ còn lại những vũng nước lớn và con suối chảy qua hàng trăm khối đá khổng lồ.

Tại điểm được đặt tên Suối Voi, có một tảng đá hình y hệt một con voi thật đang thả vòi uống nước dưới chân thác, nơi có một hồ nước được đặt tên là Đầm Voi. Đây là một hồ tắm thiên nhiên tuyệt vời rộng chừng 30 m2, sâu trên 2 m, nằm giữa hai ngọn thác. Hồ nước mát lạnh trong xanh có thể nhìn tận đáy.

Từ đây ngược lên khoảng trên 1 km là suối Đá Bàng, hay còn gọi là Hang Nai, nằm dưới chân một rặng núi cao trong dãy Trường Sơn. Đây là một con đường kỳ thú với nhiều hồ thác lách qua những vách đá đủ hình dạng trải dài bên một khu rừng nguyên sinh.

Tại đỉnh đầu của thác Đá Bàng, du khách tha hồ thoả chí “tang bồng” bằng những dự định cùng bạn bè thích mạo hiểm, hoặc vui thú với gia đình, tự mình khám phá thiên nhiên, rồi sau đó đi bắt cá nia, hái lá giang để nấu món canh chua, hay luộc rau tàu bay chấm với nước cá bóng thệ cùng với mọi người.

Ở phía thượng nguồn, du khách sẽ có điều kiện chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ diệu của khu rừng nguyên sinh. Đây là tài sản vô giá của suối Voi, nơi còn giữ lại những cây sến cổ thụ và quần tụ những loài chim thú quý hiếm như vượn quàng, sơn dương, nai, hoẵng, heo rừng, khướu, sáo, trĩ sao.

Từ khi hình thành du lịch sinh thái Suối Voi (1994), chỉ hoạt động vào mùa nắng, nhưng khu du lịch này đã giải quyết việc làm cho hơn 310 hộ là người dân địa phương trong thời gian nông nhàn. Cả mùa, mỗi hộ lời từ 12-15 triệu đồng.

Theo ước tính của anh Nguyễn Văn Tâm, chủ nhiệm Hợp tác xã Song Thuỷ, đồng thời phụ trách khu vực suối Voi, hàng năm, có khoảng 40.000 lượt khách đến tham quan và nghỉ dưỡng tại đây. Đại đa số là khách nội địa ở Đà Nẵng và Thừa Thiên - Huế. Đông nhất vẫn là những ngày lễ lớn, ngày cuối tuần.

:)
25-05-2009, 06:52 AM
Khu du lịch Nước khoáng nóng Mỹ An


http://images03.olx.com.vn/ui/2/51/06/26224506_1.jpg

Khu Du Lịch Nước Khoáng Nóng Mỹ An,Huế cách trung tâm thành phố Huế 7km về phía biển Thuận An, là địa chỉ ngâm nước khoáng kết hợp nghỉ dưỡng, tham quan di sản Cố đô Huế được du khách trong và ngoài nước chọn làm nơi nghỉ trong chuyến du lịch tham quan Huế của du khách và gia đình.Tại sao du khách chọn chúng tôi ? Theo các khảo sát gần đây của khách du lịch, chất lượng phục vụ ngày càng được nâng cao, chất lượng dịch vụ khá tốt, đây là nơi duy nhất có nguồn nước khoáng nóng thiên nhiên với hàm lượng lưu huỳnh đặc trưng và các khoáng chất khác có khả năng chữa các bệnh ngoài da, da khô, vảy da, thấp khớp, đau xương, mỏi cơ và nơi rất thuận tiện tham quan các di sản Cố Đô Huế, tắm biển Thuận An trong ngày. Chúng tôi hân hạnh giới thiệu địa chỉ đã và đang thu hút du khách khi đến tham quan Huế với quý cơ quan ban ngành trong và ngoài tỉnh, chúng tôi rất mong được đón tiếp và phục vụ du khách gần xa.

:)
29-05-2009, 08:48 PM
Kinh thành Huế


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/dn/hue%203(1).jpg

Đặc điểm: Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc của phương Tây kết hợp một cách tài tình với kiến trúc thành quách phương Đông.

Vị trí: Kinh thành Huế nằm ở bờ bắc sông Hương và thuộc địa phận Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.




Huế từ xa xưa đã được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của xứ "Ðàng Trong" và chính thức trở thành kinh đô dưới triều Tây Sơn. Trong gần 4 thế kỷ, Huế đã trở thành một quần thể di tích kiến trúc và thắng cảnh vĩ đại, tổng thể di tích này đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.


http://img181.imageshack.us/img181/1805/camthanhuz0.jpg

http://vnexplore.net/files/hue/hue_kinhthanh2.jpg


Kinh thành Huế - tổng thể kiến trúc của Cố đô Huế được xây dựng trên một mặt bằng diện tích hơn 500ha và được giới hạn bởi 3 vòng thành theo thứ tự ngoài lớn, trong nhỏ: Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành.

Tổng thể kiến trúc này dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng hai hòn đảo nhỏ trên sông Hương là Cồn Hến và Dã Viên làm 2 yếu tố phong thuỷ rồng chầu hổ phục (Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ Cố đô.

Kinh Thành Huế: Do vua Gia Long xây dựng từ năm 1805 và sau này được vua Minh Mạng tiếp tục hoàn thành vào năm 1832. Tại đó các vua triều Nguyễn đã cho xây dựng khá nhiều thành quách, cung điện và các công trình của hoàng gia. Trải qua gần 200 năm khu kinh thành hiện nay còn hầu như nguyên vẹn với gần 140 công trình xây dựng lớn nhỏ.



http://img102.imageshack.us/img102/3064/cotrongsq5.jpg


Kinh thành hình vuông với chu vi 10km, cao 6,6m, dày 21m, gồm có 10 cửa để ra vào. Xung quanh và ngay trên thành có thiết lập 24 pháo đài để phòng thủ. Ngoài ra còn có một cửa phụ thông với Trấn Bình Ðài gọi là Thái Bình Môn.


http://img204.imageshack.us/img204/8061/hiennhanbo6.jpg
Cửa Hiển Nhơn

Hoàng Thành (Ðại Nội): Nằm ở khoảng giữa kinh thành là nơi đặt các cơ quan cao nhất của chế độ quân chủ và là nơi thờ tự các vua chúa đã quá cố. Hoàng Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600m, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào, riêng Ngọ Môn chỉ dành để cho vua đi. Ðại Nội gồm có hơn 100 công trình kiến trúc đẹp được chia ra nhiều khu vực:

* Từ Ngọ Môn đến Điện Thái Hoà: nơi cử hành các lễ lớn của triều đình.
* Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và Điện Phụng Tiên: nơi thờ các vua chúa nhà Nguyễn.
* Phủ Nội Vụ: nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng cho hoàng gia.
* Vườn Cơ Hạ và Điện Khâm Văn: nơi các hoàng tử học tập và chơi đùa.
* Tử Cấm Thành: là vòng thành nằm trong Hoàng Thành ngay sau lưng Điện Thái Hoà. Tử Cấm Thành dành riêng cho vua và gia đình vua. Tử Cấm Thành được xây dựng năm 1804. Thành cao 3,72m xây bằng gạch, dày 0,72m, chu vi khoảng 1.230m, phía trước và phía sau dài 324m, trái và phải hơn 290m, bao gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ và có 7 cửa ra vào. Ðại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua đi vào. Cần Chánh (nơi vua làm việc hàng ngày). Càn Thành (nơi vua ở), Cung Khôn Thái (chỗ ở của Hoàng Quý Phi). Duyệt Thị Ðường (nhà hát), Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua), Thái Bình Lâu (nơi vua đọc sách)…

Ngoài ra Huế còn nổi tiếng bởi khu lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn. Bảy lăng, mỗi lăng mang một sắc thái riêng nhưng đều là những kỳ công tạo tác của con người phối hợp với cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ tươi đẹp và thơ mộng của xứ Huế.

Cố đô Huế với sông Hương, núi Ngự và các cung điện lâu đài, lăng tẩm, đền, miếu, chùa chiền đã có hàng mấy trăm năm lịch sử giờ đây đang được nhân dân Việt Nam cùng cộng đồng Quốc tế đóng góp công sức và tiền của để tôn tạo tu bổ giữ cho kiến trúc cố đô Huế mãi mãi là di sản văn hoá của nhân loại.

:)
01-06-2009, 07:08 AM
Ngọ Môn


Mặc dù đã trải qua hơn một thế kỷ rưỡi với bao cơn bão táp của thiên nhiên và chiến tranh tàn phá, nhưng nhờ có kỹ thuật xây dựng khéo léo và nhất là nghệ thuật kiến trúc rất thành thạo, cho nên, Ngọ Môn vẫn còn đứng vững với thời gian để trở thành một trong những công trình kiến trúc cổ tiêu biểu của miền núi Ngự Sông Hương.


Vị trí: Ngọ Môn là cổng chính vào Đại Nội trong kinh thành Huế, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Đặc điểm: Ngọ Môn là một trong những công trình kiến trúc cổ tiêu biểu của miền núi Ngự sông Hương.
Ngọ Môn xây dựng vào năm 1833, khi vua Minh Mạng cho quy hoạch lại mặt bằng và hoàn chỉnh hóa tổng thể kiến trúc trong Ðại Nội.

Vì Kinh Dịch quy định, ông vua bao giờ cũng quay mặt về phía nam để cai trị thiên hạ, cho nên, ngay từ thời Gia Long (1802 - 1810), khi xây dựng Kinh đô Huế, các nhà kiến trúc đã cho hệ thống thành quách và cung điện ở vào vị trí thế “tọa càn hướng tốn” (tây bắc đông nam). Hướng này cũng được xem như hướng bắc - nam. Ðối với ngai vàng trong Điện Thái Hòa được xem như vị trí trung tâm của mặt bằng tổng thể, Ngọ Môn nằm ở phía nam của nó. Căn cứ trên la kinh (la bàn) của khoa địa lý phong thủy Ðông Phương, phía nam thuộc hướng "ngọ" trên trục "tý ngọ" (nghĩa là bắc - nam). Do đó, triều Minh Mạng đã đặt tên cho cái cổng mới xây ở chính giữa mặt trước Hoàng Thành là Ngọ Môn, thay cho tên cũ là Nam Khuyết Ðài. Chúng ta nên hiểu Ngọ Môn là cổng phía nam với ý nghĩa mang tính không gian, chứ không nên cho rằng chữ "ngọ" ở đây mang tính thời gian là giờ "ngọ", lúc mặt trời đứng bóng giữa ngày. Thành thử không thể dịch chữ Ngọ Môn ra thành "Noon time gate" như có người đã dịch. Có hiểu đúng ý nghĩa của người xưa khi đặt tên, mới thấy rõ hơn vị trí của Ngọ Môn trong tổng thể kiến trúc Ðại Nội. Ngày xưa, cổng này thường đóng chặt quanh năm, chỉ được mở khi vua ra vào Hoàng Thành có đoàn ngự đạo đi theo, và trong những dịp tiếp kiến các sứ ngoại quốc quan trọng trong hoàng cung...


http://farm1.static.flickr.com/210/491002630_b40e60c3bf.jpg

Tuy nhiên, Ngọ Môn không phải chỉ là một cái cổng, mà nó là cả một tổng thể kiến trúc khá phức tạp: bên trên còn có Lầu Ngũ Phụng được xem như một lễ đài, dùng để tổ chức một số lễ hàng năm của triều đình, như lễ Truyền Lô (đọc tên các sĩ tử thi đỗ tiến sĩ), lễ Ban Sóc (phát lịch), lễ Duyệt Binh...và đây cũng là nơi diễn ra lễ thoái vị của vua Bảo Ðại vào ngày 30/8/1945.

Về mặt kết cấu kiến trúc, có thể chia tổng thể Ngọ Môn ra làm hai hệ thống: hệ thống nền đài ở dưới và hệ thống Lầu Ngũ Phụng ở trên, mặc dù cả hai đều đã được thiết kế ăn khớp nhau một cách chặt chẽ và hài hòa từ tổng thể đến chi tiết.

Hệ thống nền đài: Cao gần 5m, nền đài Ngọ Môn xây trên một mặt bằng hình chữ U vuông góc, đáy dài 57,77m và cánh 27,06m. Vật liệu kiến trúc chính là gạch vồ, đá thanh và đồng thau. Ở phần giữa của nền đài trổ ra ba lối đi song song nhau: Ngọ Môn (dành cho vua đi), Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn (dành cho quan văn võ theo hầu trong đoàn Ngự Ðạo). Ở trong lòng mỗi cánh chữ U có trổ một lối đi như đường hầm chạy xuyên suốt từ trong ra ngoài, rồi thẳng góc vào phía đường Dũng đạo. Hai lối đi này được gọi là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn (dành cho lính tráng và voi ngựa theo hầu trong đoàn Ngự đạo). Ở phần trên của 5 lối đi đều xây cuốn thành vòm cao, nhưng ở riêng ở hai đầu 3 lối đi giữa thì các kiến trúc thời Minh Mạng lại kết cấu những hệ thống xà ngang và xà dọc bằng đồng thau với tiết diện 15x12 để gia cố cho sự chịu lực từ Lầu Ngũ Phụng nằm trên đài. Nơi nào chịu đựng trọng lượng càng lớn thì số lượng xà ngang càng nhiều và khoảng cách giữa chúng càng thu hẹp lại, nghĩa là mật độ xà càng cao. Và để giữ vẻ thẫm mỹ, họ đã bọc thêm một lớp đồng lá dát mỏng ở ngoài mặt các hệ thống xà đồng này. Họ đã tỏ ra rất thành thạo trong việc tính toán tải trọng, sức bền vật liệu, cũng như trong việc sử dụng thích hợp các phương thức và các loại vật liệu xây dựng.

Còn ở tầng trên thì mặt trước nhà giữa dựng cửa lá sách, chung quanh nong ván, nhưng có trổ nhiều cửa sổ với những dạng khác nhau: hình tròn, hình cái quạt, hình cái khánh...

Có thể chia 9 bộ mái của Lầu Ngũ Phụng ra làm 3 dãy, mỗi dãy gồm 3 nóc: dãy chính chạy ngang theo đáy hình chữ U và hai dãy phụ chạy dọc theo hai cánh hình chữ U. Hai dãy này được gọi là Tả Dực Lâu và Hữu Dực Lâu.

Từ mặt đất thường, người ta đi lên trên nền đài bằng hai hệ thống bậc cấp xây bằng đá thanh ở hai bên, nằm lộ thiên nhưng rất kín đáo. Quanh trên nền đài là hệ thống nữ tường (tường hoa, lan can) được trang trí bằng nhiều kiểu gạch hoa đúc rỗng tráng men ngũ sắc.

Hệ thống Lầu Ngũ Phụng : Lầu Ngũ Phụng có hai tầng, dưới lớn trên nhỏ. Bộ sườn làm bằng gỗ lim. Lầu gồm chín bộ mái ngói ống tráng men vàng và xanh lá cây, gọi là ngói hoàng lưu ly và ngói thanh lưu ly. Ngói được lợp theo kiểu âm dương. Lầu dựng ở một nền cao 1,14m xây trên đài. Tòa nhà lầu có 100 cây cột chẵn, trong đó có 48 cột ăn suốt cả hai tầng. Mái tầng dưới đơn giản, nối liền nhau chạy quanh một vòng khắp tất cả các phía để che mưa nắng cho các dãy hồi lang của tầng này. Nhưng ở tầng trên thì mái lầu chia ra thành 9 bộ khác nhau, trong đó, bộ mái ở giữa cao hơn 8 bộ mái ở hai bên. Quanh các phía tầng dưới đều để trống chỉ trừ chính giữa có hệ thống cửa gương ở mặt trước, dựng đố bản ở hai bên và mặt sau chỗ thiết Ngự tọa để vua ngồi dự lễ.

Sở dĩ tổng thể Ngọ Môn được xây dựng trên một mặt bằng hình chữ U và hệ thống Lầu Ngũ Phụng được chia ra thành 9 bộ mái lớn nhỏ, cao thấp, nằm nhấp nhô trông vui mắt như thế là vì để tránh sự nặng nề của một công trình kiến trúc hình khối tương đối đồ sộ. Hệ thống nền đài đều xây bằng các loại vật liệu cứng (đá, gạch, đồng), nhưng nhờ tạo dáng mềm mại, bố trí hài hòa và trau chuốt khéo léo, nên trông vẫn rất nhẹ nhàng. Ðá thanh mài nhẵn, gạch vồ nung kỹ, vừa trộn mật mía và nhựa cây với tỷ lệ cao, cho nên độ bền rất lớn. Các lối đi trổ xuyên qua thân nền đài thành những đường hầm khá dài, nhưng ánh sáng thiên nhiên vẫn chiếu dọi vào đầy đủ nhờ những dạ cửa được nâng cao và trổ thêm các cửa sổ tròn trang trí hình chữ "thọ". Các hệ thống lan can con tiện bằng gỗ (ở tầng trên Lầu Ngũ Phụng) và bằng gạch hoa đúc rỗng (nữ tường quanh trên nền đài) càng làm cho tổng thể kiến trúc trở nên thanh tú. Ở các ô hộc trên bờ nóc, bở quyết và các đầu hồi của tòa nhà lầu được trang trí nhiều hình ảnh rồng, giao, dơi ngậm kim tiền, thơ văn, hoa lá, làm cho phần mái càng thêm xinh.

Căn cứ vào số đo của mọi kích thước mặt bằng, các mặt đứng và mặt cắt, cố họa sĩ Phạm Ðăng Trí đã chứng minh rằng tổng thể cũng như từng bộ phận kiến trúc Ngọ Môn đều được thiết lập theo “tỷ lệ vàng” của nền mỹ học Tây phương; mặc dù các nhà kiến trúc vào nửa đầu thế kỷ 19 chỉ làm theo mỹ cảm trực giác của mình.

Mặt khác, những số đếm trên kiến trúc Ngọ Môn cũng được áp dụng theo nguyên tắc của Dịch học Ðông phương, chẳng hạn như số 5, số 9, số 100. Năm lối đi tượng trưng cho “ngũ hành”. Chín nóc lầu biểu hiện con số 9 trong hào “cửu ngũ” ở Kinh Dịch, ứng với mạng thiên tử. Một trăm cây cột nhà ở Lầu Ngũ Phụng cho thấy đó là số cộng của “Hà Đồ” và “Lạc Thư” trong sách ấy.

Số của "Hà Đồ" là 55 (do các số từ 1 đến 10 cộng lại : 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10); số của “Lạc Thư” là 45 (do các số từ 1 đến 9 cộng lại: 1 2 3 4 5 6 7 8 9). Như vậy số thành của Hà Đồ và Lạc Thư cộng lại (55 45) là 100. Và nói đến Dịch học là phải nói đến âm dương, vì “Nhất âm nhất dương chi vị Ðạo”.

Số dương của Hà Đồ là 25 (do các số lẻ từ 1 đến 10 cộng lại: 1 3 5 7 9; số âm của Hà Đồ là 30 (do các số chẵn từ 1 đến 10 cộng lại: 2 4 6 8 10) và số dương của Lạc Thư là 25 (do các số lẻ từ 1 đến 9 cộng lại: 1 3 5 7 9); số âm của Lạc Thư là 20 (do các số chẵn từ 1 đến 9 cộng lại: 2 4 6 8)

Hai số dương của Hà Đồ và Lạc Thư cộng lại là 50 (tức 25 25); hai số âm của chúng cộng lại cũng là 50 (tức là 30 20). Thành ra âm và dương của Dịch học là bằng nhau, đều 50. Nghĩa là : (25 25) (20 30)= 100.

Trên thực địa, nếu dùng đường trục chính của Ðại Nội là Dũng đạo để chia mặt bằng Lầu Ngũ Phụng ra làm hai phần thì chúng ta thấy mỗi bên có 50 cột đối xứng nhau.

Ðạo âm dương ngũ hành của nền triết học Ðông Phương đã biểu hiện thật cụ thể trên kiến trúc Ngọ Môn. Cho hay, trong các công trình kiến trúc cổ của chúng ta, người xưa đã gửi gắm nhiều ẩn số, ẩn ngữ, ẩn ý rất sâu xa.

Ngoài ra, sự để trống chung quanh tầng dưới Tả Dục Lâu và Hữu Dục Lâu làm lộ rõ các hàng cột thon nhỏ ở Lầu Ngũ Phụng gây cho người xem một cảm giác, một ấn tượng thanh thoát, nhẹ nhàng, dễ chịu.

Tổng thể Ngọ Môn tuy đồ sộ nguy nga, nhìn từ xa như một tòa lâu đài tráng lệ, nhưng khi tiếp cận, chúng ta thấy các kiến trúc sư thời Minh Mạng đã tỏ ra rất cao tay nghề trong việc thiết kế và trang trí, cho nên, nó trở thành một công trình kiến trúc xinh xắn đáng yêu, gần gũi với phong cảnh thiên nhiên và tâm hồn, tình cảm của con người xứ Huế.

Ngọ Môn xứng đáng được liệt vào hàng những công trình kiến trúc nghệ thuật xuất sắc nhất của triều Nguyễn nói riêng và của nền kiến trúc cổ Việt Nam nói chung.

Mặt bằng kiến trúc của hệ thống Lầu Ngũ Phụng ăn khớp với mặt bằng của hệ thống nền đài, như đã nói trên, tạo thành một vòng tay của chủ nhân dang ra phía trước để đón khách vào.

:)
03-06-2009, 06:42 AM
Lăng Khải Định (Ứng Lăng)


http://www.thvl.vn/data/upload_file/Image/Truong%20Son%20-%20DSVHTG/Khai%20Dinh%201.jpg

hôn Châu Chữ, Xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế là địa chỉ của lăng Khải Định. Lăng Khải Định là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11-12-1993.

So với 6 khu lăng của các vua nhà Nguyễn, lăng Khải Định là lăng sau cùng, và mặt bằng kiến trúc nhỏ nhất, nhưng lại là lăng có thời gian xây dựng dài nhất - 11 năm (1920 - 1931), và chi phí tốn kém nhất.


http://www.vapa.org.vn/vie/images/content/Lang%20Khai%20Dinh.jpg

Năm 1920, sau khi các thầy địa lý đi coi đất và chọn địa điểm xong, triều đình huy động nhiều tù nhân và binh lính ở Huế lên làm việc khổ sai như mở đường, phá núi, làm toại đạo, tạo ra một mặt bằng xây dựng ở triền phía tây của một ngọn núi thuộc vùng Châu Chữ - là nơi rừng thiêng, nước độc nền tù nhân và binh lính lên xây dựng lăng bị chết khá nhiều.

Triều đình đã đưa tất cả thợ thủ công giỏi nhất trong “Nê ngõa tượng cuộc” lên làm việc dài hạn ở đây, trong số đó có nghệ nhân nổi tiếng nhất về tài trang trí bằng cách vẽ những bức họa long vân trên trần và đắp nổi cảnh vật lên tường là cụ Phan Văn Tánh, về sau được tặng hàm Bát phẩm.

Trong lăng Khải Định có hai pho tượng bằng đồng tạc hình vua: tượng ngồi trên ngai vàng được thực hiện ở Paris vào năm 1920, do hai người Pháp là P.Ducuing tạc tượng và F.Barbedienne đúc tượng, trong lòng rỗng, sau đó đưa về Huế mới mạ vàng bên ngoài. Tượng đứng đúc tại Huế do một người lính thợ quê ở Quảng Nam thực hiện. Làm tượng xong ông được tặng hàm Bát phẩm. Tượng này nguyên đặt trong nhà bát giác trước cổng cung An Định, năm 1960 đưa lên đặt tại Bi đình ở lăng Khải Định, từ năm 1975, cất vào phòng kín trong lăng.

Để thực hiện các công trình kiến trúc và trang trí tốn kém ở lăng Khải Định, nhà nước đương thời đã tăng thuế điền trên toàn quốc lên 30%. Kinh phí lớn nhất là mua vật liệu từ nước ngoài. Sắt, xi măng, ngói ác - đoa phải mua từ Pháp. Sành ngang chở từ Hà Đồng vào, nhưng sành kiểu, sứ tốt, vỏ chai, thủy tinh phải nhập từ Trung Quốc, Nhật Bản.

Dưới thời Khải Định (1916 - 1925), chủ quyền Việt Nam đã lọt hẳn vào tay thực dân Pháp, văn hóa phương Tây đang thâm nhập mạnh vào Việt Nam, nên lăng Khải Định mang nhiều yếu tố kiến trúc phương Tây. Thoạt nhìn, lăng Khải Định giống như một lâu đài ở châu Âu bởi những vật liệu hiện đại đã lấn át những vật liệu truyền thống. Và các yếu tố kiến trúc đã không còn giữ lại được tính đặc trưng của kiến trúc dân tộc nói chung, kiến trúc Nguyễn nói riêng. Hình khối bê tông nặng nề của tổng thể lăng, của các con rồng to lớn, cứng đã làm cho lăng Khải Định khác hắn các lăng vua Nguyễn trước đó.

Tuy nhiên, tất cả núi đồi, khe suối của một vùng rộng lớn chung quanh lăng đều được dùng làm các yếu tố phong thủy địa lý: tiền án, hậu chẩm, hổ phục, rồng chầu, minh đường, thủy tụ, tạo ra cho lăng Khải Định một ngoại cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ.
Giá trị nghệ thuật kiến trúc đặc trưng nhất ở lăng Khải Định là cung Thiên Định - công trình chính của lăng. Về hội họa: các nghệ nhân xưa đã sử dụng màu xanh sẫm vẽ lên xi măng giả cẩm thạch ở các tường và trần trực phòng. Những bức họa long vân với diện tích hàng chục mét vuông trên trần 3 phòng giữ cung Thiên Định được coi là những bức họa hoành tráng có giá trị nghệ thuật đặc biệt của nền hội họa Việt Nam.

Về nghệ thuật ghép mảnh lên tường, những nghệ nhân đầu thế kỷ XX đã dùng hàng vạn mẫu sành, sứ, thủy tinh đủ màu để đắp nổi thành hàng ngàn hình ảnh cung đình và dân gian sinh động, vui mắt; các bộ tranh tứ thời, ngũ phúc, bát bửu, bộ khay trà, mâm ngũ quả, ngọn đèn dầu hỏa, những chiếc đồng hồ, mấy cái mề đay,... tất cả đều được tạo nên bằng những chất liệu cứng, nhưng dưới bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân, chúng đều trở nên mềm mại, lóng lánh, thanh nhã, biểu cảm. Việc tạo hình và tạo dáng chiếc bửu tán che trên ngự tọa cho người xem cảm nhận sự nhẹ nhàng, thanh thoát không nặng nề. Nhiều hình họa trang trí ở pa nô, các chữ “phúc”, chữ “thọ” cách điệu là sự thông minh, sáng tạo và kiên trì của những nghệ nhân xưa tham gia kiến trúc phần mỹ thuật ở lăng Khải Định. Người thợ thủ công tài bà Việt Nam đã thổi một luồng sinh khí mới vào nền mỹ thuật Việt Nam thời Nguyễn với nghệ thuật làm phù điêu bằng sành sứ tinh xảo, độc đáo và hấp dẫn.

Tượng đồng, bia đá, cung Thiên Định nằm trong tổng thể lăng Khải Định là một công trình xây dựng mang hai dòng kiến trúc Á - Âu tuyệt vời giữa cảnh quan thiên nhiên đặc sắc tuyệt mỹ đã làm cho lăng Khải Định trở thành một công trình kiến trúc độc đáo của đất nước Việt Nam nói chung, của các lăng tẩm vua triều Nguyễn nói riêng.

- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin về việc công nhận di tích số 54QĐ/VHTT ngày 29-4-1979

(Theo tư liệu từ Thư viện Tổng hợp tỉnh Thừa Thiên Huế)

Má Lúm
09-06-2009, 08:20 PM
Cầu Ngói Thanh Toàn



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/2/25/C%E1%BA%A7u_ng%C3%B3i_Thanh_To%C3%A0n1.jpg

Vị trí: Cầu ngói Thanh Toàn bắc qua một con mương chảy từ đầu làng đến cuối làng Thanh Toàn, thuộc xã Thuỷ Thanh, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách trung tâm Tp. Huế chừng 8km theo đường bộ về phía đông.
Đặc điểm: Cầu ngói Thanh Toàn vào loại hiếm và có giá trị nghệ thuật cao nhất trong các loại cầu cổ ở Việt Nam. Cầu ngói Thanh Toàn là một di tích kiến trúc cổ, rất có giá trị về mặt lịch sử, văn hoá và còn là một thắng cảnh.


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/c/c5/C%E1%BA%A7u_ng%C3%B3i_Thanh_To%C3%A0n2.jpg

Làng Thanh Toàn được thành lập vào thế kỷ 16. Những di dân từ đất Thanh Hoá theo chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá, có 12 vị tộc trưởng đã dừng chân lập nghiệp ở đây, tạo nên 12 họ khai canh của làng.
Một người cháu gái thuộc thế hệ thứ sáu của họ Trần là bà Trần Thị Ðạo đã cúng tiền cho làng xây dựng chiếc cầu gỗ để dân làng qua lại được thuận tiện. Ðây cũng là nơi cho lữ khách cùng người tha phương tạm dừng chân lỡ bước. Bà Trần Thị Ðạo là vợ một vị quan cao cấp dưới triều vua Lê Hiển Tông nhưng không có con. Bà muốn dùng tiền của mình để làm phúc cho dân làng, cho xứ. Bà được dân làng tôn sùng, thờ phụng. Năm 1776, vua Lê Hiển Tông đã ban sắc khen ngợi bà Trần Thị Ðạo. Năm 1925, vua Khải Ðịnh cũng ban sắc phong thần cho bà là Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò và lệnh cho dân lập bàn thờ ngay trên cầu để thờ cúng bà.
Cầu ngói Thanh Toàn là chiếc cầu vồng bằng gỗ, có chiều dài 17m và chiều rộng 4m, hai bên thân cầu có hai dãy bục gỗ và lan can để ngồi tựa lưng. Trên cầu có mái che, lợp ngói ống tráng men chia làm 7 gian.
Chiếc cầu được xây dựng cách đây hơn hai thế kỷ, đã bao lần bị gió bão, lụt lội và chiến tranh tàn phá. Tuy nhiên, sau các lần hư hỏng, nhân dân xã đều chung nhau tu sửa, tôn tạo và gìn giữ nó.
Với tinh thần "uống nước nhớ nguồn" và tôn trọng di sản văn hoá, nhiều thế hệ dân làng Thanh Toàn đã gìn giữ một công trình kiến trúc độc đáo của Huế. Tháng 9/1991, cầu được trùng tu lớn theo qui mô cũ và chính thức được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận Di tích quốc gia, trở thành danh thắng quý hiếm của cả nước.

AnhRatDepChai
11-06-2009, 08:35 PM
Đẹp lắm Lúm ơi, em vẫn bình an chứ?????

KIM SAO CHI
12-06-2009, 08:07 PM
chao ui ai ở húe thì thích ghê

:)
15-06-2009, 05:46 AM
Vịnh Lăng Cô chính thức



http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/dulich/diemthamquan/sinhthaidangoai/2009/6/langco3.jpg
Vịnh Lăng Cô nằm yên bình ngay dưới chân đèo Hải Vân Ảnh C.M.T

Kể từ ngày 6/6, Lăng Cô đã chính thức trở thành thành viên của Câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất thế giới. Lễ trao giấy chứng nhận đã diễn ra tại thành phố Setubal - Bồ Đào Nha, trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh lần thứ V với chủ đề "Đại dương kết nối chúng ta".


Cùng với vịnh Hạ Long và vịnh Nha Trang, Lăng Cô là vịnh thứ ba của Việt Nam trở thành thành viên của Câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất thế giới (hiện Câu lạc bộ này có 30 vịnh thành viên, trong đó có 3 vịnh của Việt Nam).


http://img.thethaovanhoa.vn/Images/Uploaded/Share/2009/06/05/langco4.jpg
Vào mỗi buổi chiều, trẻ em nơi đây chẳng có gì chơi ngoài vài thú chơi đơn giản ngoài bãi biển tuyệt đẹp
Ảnh C.M.T

Thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên - Huế) là một vùng đất giàu tiềm năng bởi thiên nhiên, phong cảnh đẹp. Đèo Hải Vân, non xanh nước biếc, núi chạy dài ra sát mép biển. Bên dưới là bãi tắm Lăng Cô phẳng lì, gần như nguyên sơ, nước xanh trong.


http://img.thethaovanhoa.vn/Images/Uploaded/Share/2009/06/05/langco5.jpg
Thời gian gần đây Lăng Cô đã được đầu tư mạnh hơn, khang trang hơn
Ảnh C.M.T

Trước đây, người ta biết đến Lăng Cô như một điểm dừng chân của khách trước khi qua đèo, với vài dãy hàng cơm, một vài điểm bán hàng hải sản khô lèo tèo. Từ khi hầm đường bộ Hải Vân được khởi công xây dựng, thị trấn Lăng Cô mới trở nên nhộn nhịp hơn. Các lợi thế của vùng đất giàu tiềm năng này bắt đầu được khai thác.


http://img.thethaovanhoa.vn/Images/Uploaded/Share/2009/06/05/langco1.jpg
Hoàng hôn trên đỉnh đèo Hải Vân luôn là cảnh tuyệt vời đối với các du khách
Ảnh C.M.T

Hiểu và đón trước thời cơ đến với vùng đất Lăng Cô, Công ty Cổ phần khách sạn Hương Giang đã có chiến lược đầu tư dài hơi. Khu du lịch Lăng Cô vừa hình thành trên diện tích rộng hơn 10.000 m² với 60 phòng nghỉ dạng nhà biệt thự hướng ra biển, phục vụ ăn uống, vui chơi, giải trí, thể thao, hội họp theo tiêu chuẩn quốc tế 4 sao và đều có chung lợi thế là gần quốc lộ 1A, hầm đường bộ Hải Vân và cách cảng nước sâu Chân Mây 8 km.


http://img.thethaovanhoa.vn/Images/Uploaded/Share/2009/06/05/langco2.jpg

Đồng hành với Công ty du lịch Hương Giang là Khách sạn Công Đoàn (Liên đoàn lao động Thừa Thiên - Huế) cũng được xây dựng, tạo thành một cụm du lịch đón và phục vụ cùng lúc hàng trăm khách.

Sau khi hầm đường bộ Hải Vân được đưa vào sử dụng, các đơn vị làm du lịch ở đây còn kết hợp mở thêm tuor du lịch Huế tham quan hầm đường bộ Hải Vân, vào Đà Nẵng mua sắm và ngược ra nghỉ đêm tại Lăng Cô trước khi về lại Huế thật hấp dẫn.


http://img.thethaovanhoa.vn/Images/Uploaded/Share/2009/06/05/langco7.jpg
Cảnh hoàng hôn trên đầm phá Lăng Cô nhìn từ quốc lộ 1A.
Ảnh C.M.T

Trong tương lai, Lăng Cô còn có thể phát triển du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch ngắm cảnh đèo Hải Vân, để tránh sự đơn điệu trong từng tuor, tuyến du lịch, chứ không chỉ là du lịch tắm biển, nhằm thu hút lượng lớn khách du lịch nước ngoài đến với vùng đất giàu tiềm năng này.


http://img.thethaovanhoa.vn/Images/Uploaded/Share/2009/06/05/f3alangco6.jpg

Nhìn ra xa, thị trấn Lăng Cô còn có vùng đầm phá, có đầm Lập An trải rộng trên địa bàn, với hệ động thực vật phong phú. Bà con ngư dân ở đây hết sức năng động trong việc du nhập các nghề mới trên đầm phá để tăng giá trị thu nhập trên cùng một đơn vị diện tích, như nuôi ốc hương, vẹm xanh, nuôi cá giò, nuôi các loại cá đặc sản có giá trị kinh tế cao như các dìa, cá mú, cá hồng. Điều này cũng đồng nghĩa với việc làm cơ sở dịch vụ hậu cần cho du lịch phát triển.



Theo Báo TT&VH Online

:)
17-06-2009, 07:05 AM
Cung An Định


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/lt/cuacungandinh.jpg
Cung Môn, Cung An Định

An Định là cung điện riêng của vua Khải Định, tọa lạc bên bờ sông An Cựu, xưa thuộc phường Đệ Bát - Thị xã Huế, nay mang số 97 đường Phan Đình Phùng, Thành phố Huế. Nguyên tại vị trí này từ năm Thành Thái 14 (1902), Phụng Hóa Công Nguyễn Phúc Bửu Đảo (tức vua Khải Định về sau) đã lập phủ, đặt tên là phủ An Định.

Năm Khải Định 2 (1917), vua mới dùng tiền riêng cải tạo lại thành cung theo lối kiến trúc hiện đại. Đầu năm 1919, công việc xây dựng hoàn tất, cung vẫn giữ nguyên tên gọi. Từ ngày 28/2/1922, cung An Định trở thành tiềm để của Đông Cung Thái tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại về sau). Sau Cách mạng tháng Tám 1945, gia đình cựu hoàng Bảo Đại đã chuyển từ Hoàng cung qua sống tại cung An Định. Sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tịch thu cung An Định. Sau năm 1975, bà Từ Cung đã hiến cung An Định cho chính quyền cách mạng. Đến nay di tích cung An Định đang được phục hồi trùng tu.

http://www.khamphahue.com.vn/Upload/DVDULICH/DIEMTQ/cungandinh1.jpgCung An Định quay mặt về hướng nam, phía sông An Cựu. Cung có địa thế bằng phẳng, tổng diện tích mặt bằng 23.463m2, chung quanh có khuôn viên tường gạch, dày 0,5m, cao 1,8m trên có hàng rào song sắt bao bọc. Khi còn nguyên vẹn cung có khoảng 10 công trình. Từ trước ra sau là: Bến thuyền, Cổng chính, đình Trung Lập, lầu Khải Tường, nhà hát Cửu Tư Đài, chuồng thú, Hồ nước... trải qua thời gian và sự tàn phá của chiến tranh, đến nay cung chỉ còn lại 3 công trình khá nguyên vẹn là Cổng chính, đình Trung Lập và lầu Khải Tường. Cổng chính làm theo lối tam quan, hai tầng, trang trí bằng sành sứ đắp nổi rất công phu. Đình Trung Lập, nằm phía trong cửa, kết cấu kiểu đình bát giác, nền cao. Trong đình nguyên có đặt bức tượng đồng vua Khải Định, tỷ lệ bằng người thật, đúc từ năm 1920.

http://www.khamphahue.com.vn/Upload/DVDULICH/DIEMTQ/noithatcad.jpgLầu Khải Tường nằm phía sau đình Trung Lập, là công trình kiến trúc chính của cung An Định. Chữ Khải Tường (nghĩa là nơi khởi phát điềm lành), tên lầu là do vua Khải Định đặt. Lầu 3 tầng, xây dựng bằng các vật liệu mới theo kiểu lâu đài châu Âu, chiếm diện tích tới 745m2. Lầu được trang trí rất công phu, đặc biệt là phần nội thất của tầng 1 với các bức tranh tường có giá trị nghệ thuật cao.

Cùng với các công trình kiến trúc khác thời Khải Định như lăng Khải Định, lầu Kiến Trung, cửa Hiển Nhơn... cung An Định được xem là một đại diện tiêu biểu của phong cách kiến trúc Việt Nam trong giai đoạn tân - cổ điển (Néo - Classique).



Theo Trung tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Đô Huế

:)
19-06-2009, 07:58 AM
Lăng Minh Mạng (Hiếu Lăng)


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/lt/langminhmang1.jpg
Lăng Minh Mạng

Lăng Minh Mạng là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11-12-1993. Nằm ở xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế.

Vị trí: Lăng Minh Mạng thuộc địa phận núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch tạo thành sông Hương chảy qua Tp. Huế. Lăng cách Tp. Huế 12km.

Đặc điểm: Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm khoảng 40 công trình lớn nhỏ. Lăng Minh Mạng toát lên vẻ đường bệ, uy nghiêm nhưng rất hài hòa giữa các công trình kiến trúc và thiên nhiên.

Từ năm Minh Mạng thứ 7 (1826), nhà vua đã sai tìm đất xây lăng, nhưng đến 14 năm sau mới chọn được địa điểm và đồ án thiết kế kiến trúc. Quan Lê Văn Đức là người tìm ra địa cuộc tốt lành đó và đã được nhà vua thăng cho hai cấp.

Tháng 4 - 1840, vua lên xem lại chỗ đất và đổi tên vùng núi Cẩm Kê ở đó thành ra Hiếu Sơn. Vua sai các đại thần Trương Đăng Quế, Bùi Công Huyên đem Giám Thành Vệ (xem như một đơn vị công binh) lên tiến hành khảo sát địa thế, đo đạc đất đai. Họ vẽ toàn bộ núi đồi, khe suối, sông ngòi ở đây, và sơ đồ các dự án kiến trúc từ la thành, Bửu thành, điện, lầu đình, tạ, đường, viện cho đến những nơi đào hồ, làm cầu, dựng cửa... Xem xong, nhà vua rất đắc ý, liền thưởng tiền và vải cho họ.

Đến tháng 9 - 1840, triều đình huy động 3.000 lính và thợ lên điều chỉnh mặt bằng và xây vòng La thành chung quanh khu vực kiến trúc. Hai Đổng lý đại thần Trương Đăng Quế và Hà Duy Phiên thay nhau lên giám sát công trường.

Đầu năm sau 20-1-1841, nhà vua thăng hà giữa lúc mới 50 tuổi.

Một tháng sau (20-2-1841), vua Thiệu Trị cho các đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Hữu Lễ, Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Đường đứng ra lo liệu việc tiếp tục xây lăng. Triều đình điều gần 1 vạn lính và thợ ở Bộ Binh và Bộ Công lên làm việc: 7 viên quản vệ, 140 viên suất đội, 7000 biền binh, hơn 2000 lai dịch và thợ. Riêng binh sĩ cứ hai tháng 1 lần thay phiên nhau về nghỉ. Vua ra lệnh cho Trương Đăng Quế thường xuyên lên kiểm tra đôn đốc để công việc xây lăng được chu đáo.

Quan tài của vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu thành bằng đường toại đạo ngày 20-8-1841, và tấm bia “Thánh đức thần công” dựng ngày 25-1-1842, nhưng công việc xây lăng mãi đến năm sau 1943 mới hoàn tất theo đồ án của vua Minh Mạng để lại.

Lăng Minh Mạng là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm 40 công trình lớn nhỏ, nằm trên một khu đồi núi, sông hồ thoáng mát. Toàn bộ lăng giống như một cơ thể con người nằm gối đầu lên một ngọn đồi cao trong vùng, tứ chi duỗi ra ngã ba sông gần đó.

Khu lăng có chiều sâu, từ Đại Hồng Môn đến điểm tận cùng của La thành cách nhau đến 700 mét. Vòng La thành tuy cao nhưng không hạn chế được tầm nhìn từ trong lăng ra đến vùng núi non đẹp đẽ ở bên ngoài, cảnh vật in bóng xuống hồ Trừng Minh trông như bức tranh thủy mặc.

Bên trong La thành, các công trình kiến trúc được bố trí đăng đối, đối xứng nhau từng cặp qua trục chính xuyên tâm lăng. Tất cả được xếp đặt theo một trật tự chặt chẽ, có hệ thống, nói lên cá tính và phong cách của chính vua Minh Mạng. Bửu thành xây theo hình tròn biểu thị vua là mặt trời, là đấng chí tôn có quyền lực chi phối toàn bộ xã hội quân chủ. Ở phần trước lăng, mật độ kiến trúc thưa, thoáng, cành vào sâu, kiến trúc càng dày. Các nhà kiến trúc đương thời đã đưa ba khu kiến trúc ở lăng Gia Long nằm theo chiều ngang nhập làm một, cho nằm theo chiều dọc trong một trục duy nhất ở lăng Minh Mạng. Họ cùng lợi dụng thế đất và các ngọn đồi để nâng dần chiều cao của các công trình kiến trúc.

Ngoài tính cách đăng đối uy nghiêm đường bệ, lăng Minh Mạng còn có những nét quyến rũ của thiên nhiên đã được chỉnh trang lại để làm bối cảnh cho các công trình kiến trúc.

Các kiến trúc sư bậc thầy ngày nay, cũng phải khâm phục trước nghệ thuật tạo hình tuyệt diệu của lăng Minh Mạng.

- Quyết định của Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa Thông Tin về việc công nhận di tích số 54-QĐ/VHTT ngày 29-4-1979



(theo tư liệu từ Thư viện Tổng hợp tỉnh Thừa Thiên Huế)

Một số hình ảnh về lăng Minh Mạng :


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/5/54/Minh_M%E1%BA%A1ng_mausoleum.jpg
Minh Lâu - Hiếu Lăng


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/9/9d/Minh_M%E1%BA%A1ng_mausoleum%2C_back.jpg

http://i14.photobucket.com/albums/a347/kuiensan/11Hue_LangMinhMang_Statues.jpg

http://files.myopera.com/Hoang%20Ngoc%20Hung/blog/111.jpg

*[£iµ £i€]*
26-06-2009, 09:58 PM
Nói chung tớ chả biết Huế có chỗ mô đẹp nhưng vô Huế bạn Lúm làm hướg dẫn viên cho tớ là đc rầu :sr:

:)
27-06-2009, 07:27 AM
Lăng Cơ Chánh


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/lt/langcothanh-netcodo.jpg
Lăng Cơ Chánh

Làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế là địa chỉ của lăng Cơ Thánh.L ăng Cơ Thánh là di tích lăng mộ của ông Nguyễn Phúc Côn (1733-1765), thân sinh vua Gia Long.

Tục thường gọi là lăng Cao Hoàng, Lăng Sọ. Lăng mộ Nguyễn Phúc Côn được xây dựng từ năm 1765, mặt sau dựa vào núi, mặt trước nhìn ra sông. Năm Canh Tuất (1790) quân Tây Sơn quật hài cốt ngài đổ xuống sông. Một ngư dân tên Nguyễn Ngọc Huyên và con lặn hài cốt đem lên chôn chỗ khác. Đến đời vua Gia Long, do Nguyễn Ngọc Huyên chỉ chỗ, hài cốt được đưa về táng chỗ cũ, đầu đời Gia Long được làm lại. Năm Gia Long thứ 5 (1806) lăng được nâng cấp về quy mô và có tên gọi chính thức là Lăng Cơ Thánh. Vị trí tọa lạc của lăng thuộc làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy. Kiểu thức xây dựng lăng Cơ Thánh có nhiều điểm tương tự lăng các chúa Nguyễn, tuy nhiên lăng có quy mô lớn hơn và không có vòng la thành bao bọc bên ngoài. Lăng Cơ Thánh toạ lạc ở khu đất bằng phẳng rộng 2000m2, bình phong cao 2,50m, dày 0,47m. Mộ Nguyễn Phúc Luân xây đơn giản gồm 4 tầng.

Năm Minh Mệnh thứ 2, phong tên núi là An Nghiệp sơn và thờ phụ ở đàn Nam Giao.

- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin về việc công nhận di tích số 874QĐ/BVHTT ngày 12-5-1997.

:)
28-06-2009, 07:42 AM
Lăng Dục Đức (An Lăng)


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/lt/langvuaducduc-netcodo.jpg
Lăng Dục Đức

Lăng Dục Đức là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11-12-1993. Lăng được đặt tại Phường An Cựu, thành phố Huế.

Lịch sử xây dựng lăng Dục Đức cũng phức tạp theo những biến động trong nội bộ triều đình và hoàng gia nhà Nguyễn, kể từ khi vua Tự Đức thăng hà vào ngày 19-7-1883. Vì vua Tự Đức không có con để nối ngôi, cho nên ngai vàng của triều đình Nguyễn trở nên đẫm máu do sự thao túng để nắm giữ quyền hành giữa một bên là các Phụ Chính Đại thân Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, và một bên là Tòa Khâm sứ Pháp. Cái ngai vàng ấy đã được ba đời vua là Dục Đức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc thừa kế liên tục chỉ trong vòng 4 tháng, sử gọi là “Tứ nguyệt tam vương”, rồi tiếp tục được chuyển cho 4 đời vua nữa trong vòng thời gian ngắn là Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái và Duy Tân.

Vua Dục Đức tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Chân, sinh năm 1852, khi lên 2 tuổi, được vua Tự Đức chọn làm con nuôi và làm Dục Đức Đường trong kinh thành cho ở. Vị hoàng trưởng tử này lấy con gái của đại thần Phan Đình Bình; đến năm 1879, sinh ra Bửu Lân tức vua Thành Thái sau này. Khi vua Tự Đức qua đời, vị hoàng trưởng tử 32 tuổi lên nối ngôi, nhưng chỉ sau ba ngày thì bị phế (23-7-1883) và bị quản thúc tại Thái Y Viện, cuối cùng chết đói ở nhà ngục Thừa Thiên sau 7 ngày không cho ăn uống (6-10-1883); để lại 8 bà vợ, 11 người con trai và 8 người con gái. Mộ chôn tạm tại khe cồn Phước Quả, gần chùa Tường Quang. Mấy hôm sau triều đình mới cho người vợ chính là bà Từ Minh được phép lên thăm mộ và làm lễ chịu tang ở chùa Tường Quang.

Sau nhiều biến cố khó dự đoán, trong điều kiện cụ thể của bối cảnh lịch sử bấy giờ, người con trai của vua Dục Đức là Nguyễn Phúc Bửu Lân được đưa lên ngôi vua vào năm 1889, với niên hiệu Thành Thái. Sau khi lên ngôi, Thành Thái liền cho xây lăng mộ của cha đàng hoàng và đặt tên là An Lăng. Nơi thờ thì có chùa Tường Quang cách 200 mét. Năm 1891, triều đình vua Thành Thái cho xây dựng một ngôi miếu ở phường Thuận Cát, gần bên phải Hoàng thành để thờ vua Dục Đức, đặt tên là Tân Miếu (Năm 1897, đổi tên là Cung Tôn Miếu). Năm 1892, bà Từ Minh Hoàng Thái Hậu - mẹ vua Thành Thái xuất tiền đúc tượng Phật và mở rộng nhà tăng của ngôi chùa Tường Quang, năm sau vua Thành Thái cho đổi tên thành chùa Kim Quang và ban cho chùa tấm hoành phi đề 5 chữ “Sắc Tứ Kim Quang Tự”.

Đến tháng 7 năm Thành Thái thứ 11 (8-1899), nhà vua cho xây dựng điện Long Ân gần khu vực lăng mộ vua Dục Đức để thờ cha. Trong khuôn viên này có xây dựng thêm một số nhà của phụ thuộc như Tả, Hữu phối đường, Tả Hữu tòng viện dành cho 7 bà vợ thứ của vua Dục Đức ăn ở để lo hương khói phụng thờ. Năm 1906, bà Từ Minh tạ thế, triều đình cho quy hoạch lại khu vực lăng mộ vua Dục Đức, làm thành một khu lăng kép, xây mộ bà gần mộ ông theo kiểu “song táng”, “càn khôn hiệp đức” như ở lăng Thế tổ Cao Hoàng Đế và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu (lăng Gia Long). Cuối năm 1945, ngay sau khi vua Duy Tân tử nạn máy bay ở châu Phi, một cuộc lễ truy điệu nhà vua được tổ chức tại điện Long Ân và thờ chung vua tại đây. Năm 1954, khi vua Thành Thái mất, thi hài được đưa về chôn tại địa điểm hiện nay trong khu vực An Lăng và được thờ ở ngôi điện Long Ân. Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được đưa về an táng cạnh lăng Thành Thái. Gần hai bên lăng vua Thành Thái và Duy Tân còn có lăng mộ của ba bà vợ vua Thành Thái. Và năm 1994, hài cốt bà Mai Thị Vàng (mất năm 1980), vợ vua Duy Tân được đưa vể chôn gần lăng mộ của vị vua yêu nước - Duy Tân.

Ngoài ra, trong khu vực lăng Dục Đức hiện nay còn có 39 lăng mộ các ông hoàng bà chúa và 121 ngôi mộ đất thuộc Đệ tứ Chánh hệ.

Theo địa bộ cũ, lăng Dục Đức chiếm một vùng đất rộng 56.144 m2, trong đó có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ; chia ra làm hai khu vực: lăng và tẩm, nằm cách xa nhau khoảng hơn 50 mét. Cả hai khu vực kiến trúc đều xây thành bao bọc chung quanh. Lăng quay mặt về hướng tây bắc, dùng một ngọn đồi thấp, thường gọi là cồn Phước Quả làm tiền án; lấy dòng khe chảy ngang trước mặt làm yếu tố "minh đường" và dùng ngọn núi Tam Thai ở đằng sau làm "hậu chẩm".

Đi vào khu lăng mộ - diện tích 3.445m2 bằng một cửa tam quan khá lớn xây bằng gạch, trên làm mái giả. Sau cửa là Bái đình, không có tượng đá như các lăng khác, mà chỉ xây lan can bằng vôi gạch để trang trí. Trung tâm của lăng mộ nằm ngay sau cửa tam quan thứ hai, có ngôi nhà Huỳnh Ốc được xây dựng trên một nền hình vuông mỗi cạch 8 mét. Nhà xây như một phương đình với dạng cổ lầu, mái lợp ngói hoàng lưu ly. Bờ nóc bờ quyết chắp hình rồng và phụng, nội thất trang hoàng đơn giản.

Các công trình kiến trúc nằm trong khu tẩm điện với diện tích mặt bằng 6.245m2. Công trình chính là điện Long Ân là một tòa nhà kép làm theo kiểu cung điện Huế, với 6 bộ vì kèo nóc ở 5 gian nhà trước được kết cấu theo lối “chồng rường giả thủ”, trang trí mặt hổ phù rất tinh xảo. Đây là một công trình kiến trúc gỗ có giá trị nghệ thuật trong hệ thống công trình kiến trúc cung đình triều Nguyễn ở Huế.

- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin về việc công nhận di tích số 2890/ QĐVH ngày 27-9-1997


(Theo tư liệu từ Thư viện Tổng hợp tỉnh Thừa Thiên Huế)

casper
29-06-2009, 03:18 AM
nghe mấy cái lăng là ko mún đi , chả có gì hay ho :nhi:

:)
29-06-2009, 08:14 AM
Lăng Gia Long (Thiên Thọ Lăng)


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/lt/langgialong.jpg
Lăng Gia Long

Lăng Gia Long là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11-12-1993. Lăng được đặt tại xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế.

Lịch sử xây dựng lăng Gia long rất phức tạp, vì ở đây không phải chỉ có lăng Gia Long, mà lại có cả một quần thể lăng tẩm của nhiều thành viên trong gia đình và dòng họ của nhà vua... Quần thể lăng tẩm ấy nằm rải rác trên địa bàn rộng lớn thuộc làng Định Môn. Tất cả được xây dựng vào nhiều thời điểm khác nhau và trước sau cách nhau gần hai thế kỷ (thế kỷ XVII - XIX).

Riêng Thiên Thọ Lăng, tức lăng vua Gia Long và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu, việc xây dựng cũng không diễn ra trong một thời điểm đơn giản, mà lại kéo dài nhiều năm dưới 3 đời vua từ Gia Long đến Thiệu Trị.

Vào năm 1814, sau khi người vợ chính của vua Gia Long là Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu mất, nhà vua bàn với đình thần về việc làm một cái “hiệp lăng” để “song táng” bà và ông về sau vào một chỗ theo cái lệ xưa “càn khôn hiệp đức”. Lê Duy Thành (con trai của Lê Quý Đôn) phụ trách công việc coi đất. Tống Phúc Lương, Phạm Như Đăng được giao nhiệm vụ điều khiển xây dựng lăng.

Công tác xây dựng bắt đầu từ ngày 11-5-1814 với 547 người lính lấy trong 3 đơn vị quân đội tại kinh đô Huế. Sau đó, triều đình mới huy động nhiều thợ giỏi ở các địa phương về làm. Sau khi tìm được cuộc đất tốt và trong khi thi công, nhà vua thường đến giám sát việc làm tại chỗ. Vua đã phong cho vùng núi đó là Thiên Thọ Sơn, gồm 42 ngọn núi đồi cao thấp được đặt 42 tên riêng.

Điện Minh Thành nói riêng và khu vực tẩm nói chung được xây dựng năm 1915. Công tác xây dựng lăng tẩm kéo dài trong 6 năm, từ năm 1814 đến năm 1820. Ngoài ra, còn có một số bộ phận kiến trúc được thực hiện sau đó nữa.

Tấm bia “Thánh đức thần công”, ở bên trái do vua Minh mạng viết xong ngày 10-8-1820 và dựng ngày 18-9-1820. Hai hàng văn võ quan viên và voi ngựa bằng đá ở bái đình mãi đến tháng 4-1833 mới hoàn tất. Hai cánh cửa ở “Bửu Thành môn” lúc đầu làm bằng gỗ. Đến đời Thiệu Trị, ông vua này bảo Bộ Công làm hai cánh cửa bằng đồng để thay thế (1845).

Điện Minh Thành mặc dù đã được tu sửa lớn vào năm 1922 thời vua Khải Định và trùng tu nhiều lần sau đó, nhưng thời gian và nhất là chiến tranh đã làm cho nó lâm vào tình trang có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Hiện nay, ngôi điện vừa được tu sửa lại.

Lăng Gia Long ở vị trí xa nhất, so với các lăng vua Nguyễn ở Huế, nhưng lại là lăng có quy mô hoành tráng nhất về cảnh trí thiên nhiên. Lăng Gia Long hoành tráng, nhưng đơn giản như cuộc đời của một võ tướng. Mật độ kiến trúc tương đối thưa. Các công trình được trải ra theo chiều ngang. Rộng rãi mênh mông, nhưng ở đây không có lầu đài đình tạ và cũng không xây dựng la thành. Núi đồi chung quanh giăng ra như một vòng thành thiên nhiên bao bọc. Đơn giản nhất trong khu mộ táng thi hài vua và hoàng hậu. Hai nấm mộ bằng đá nằm song song, cách nhau chỉ một gang tay, có cùng khuôn khổ và kích thước, bên trên đều có hai mái chảy xuôi trông như những mái nhà mà thời gian đã nhuộm đen thành màu than đá. Không một nét chạm trổ, sơn son thếp vàng, tất cả chỉ là những tấm đá thanh phẳng lỳ, trơ trụi, tạo ra giữa chốn hoàn liêu này một không khí tĩnh mịch và uy nghiêm. Hai ngôi mộ nằm sát bên nhau biểu hiện tình cảm thủy chung cao đẹp giữa vua và hoàng hậu đã từng vào sinh ra tử với nhau trong suốt cuộc đời chinh chiến. Đó là điểm độc đáo của lăng Gia Long mà không tìm thấy ở lăng vua Nguyễn nào khác.

Điện Minh Thành, công trình kiến trúc chính trong khu vực tẩm, nơi thờ vua và hoàng hậu, cũng không hoa mỹ, rườm rà. Sườn điện chạm trổ đơn sơ nhưng chắc khỏe. Các Pa - nô trang trí trong nội thất đều chạm trổ hình chữ “thọ” ở giữa và dây lá cách điệu ở chung quanh. Có một đặc điểm đáng chú ý là tất cả những con rồng ở các tầng sân, bậc thềm ở lăng Gia Long đều được đắp bằng vôi gạch chứ không chạm bằng đá như ở các lăng khác về sau.

Tấm bia “thánh đức thần công” ở lăng Gia Long tuy không lớn, nhưng là một tấm bia đẹp, được trang trí công phu, tỷ mỷ.

Các công trình kiến trúc thành quách, cung điện thời Gia Long thể hiện bản chất của một ông vua có tài về chinh chiến và tổ chức đất nước. Đây là mô thức lăng tẩm đầu tiên ở Huế, để sau đó các vua kế nhiệm tham khảo và phỏng theo để xây lăng của mình. Lăng Gia Long góp phần thể hiện phong cách của một ông vua khai sáng triều đại.

- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin về việc công nhận di tích số 2890/ QĐVH ngày 27-9-1997.

:)
03-07-2009, 06:56 AM
Lăng Thiệu Trị (Xương Lăng)


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/lt/langthieutri1-netcodo.jpg
Lăng Triệu Trị

Nằm tại thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế, Lăng Thiệu Trị là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11-12-1993. Trầm mặc mà thanh thoát, lăng Thiệu Trị khiêm tốn ẩn mình giữa chốn núi đồi rộng lớn dưới bầu trời bao la.


Sau khi ở trên ngai vàng được 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh mất ngày 4-11-1847, giữa lúc mới 41 tuổi. Trong khi hấp hối, nhà vua đã dặn người con trai sắp lên nối ngôi rằng: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Còn đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cho kiêm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân”.

Vị tiên đế ấy vừa thăng hà thì vua Tự Đức liền bảo các thầy địa lý trong triều đi coi đất để xây lăng. Họ tìm được địa cuộc tốt tại chân một dãy núi thấp thuộc làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, cách Kinh thành không xa như hai lăng vua tiền nhiệm. Sau đó núi ấy được đặt là núi Thuận Đạo, còn lăng được gọi là Xương Lăng.

Vào ngày 11 - 2 - 1948, vua Tự Đức sai đại thần Vũ Văn Giai, sung chức Đổng lý, đứng ra trông coi công việc xây dựng lăng. Nhà vua dặn cứ 10 ngày một lần phải báo cáo cho vua biết tiến độ xây dựng lăng.

Theo lời dặn của vua cha, vua Tự Đức căn dặn Vũ Văn Giai phải bắt chước cách làm “toại đạo” giống như trên lăng Minh Mạng, công việc xây dựng các công trình mang tính thờ phụng ở lăng như điện, đình, các, viện... thì phải bắt chước theo quy chế của lăng Gia Long, và tùy theo địa thế tại chỗ để châm chước định liệu mà làm. Toại đạo, tức là đường hầm đưa quan tài nhà vua vào huyệt mộ, được xây vào ngày 24-3-1848.

Số binh lính và thợ thuyền do triều đình huy động lên đây làm việc rất đông, cho nên, chỉ sau 3 tháng thi công, các công trình kiến trúc chính trong lăng đã làm xong. Trong một bài dụ của vua Tự Đức viết vào tháng 5-1848, có đoạn nói: “Nay mọi việc đã đâu vào đấy, sớm báo cáo hoàn thành”. Ngày 14-6-1848, tức là 10 ngày trước khi làm lễ an táng vua cha, vua Tự Đức thân hành lên lăng để kiểm tra công việc một lần cuối. Mặc dù vua Thiệu Trị đã căn dặn là phải làm lăng như thế nào cho “kiệm ước”, không nên quá tốn kém tiền của và sức dân, sức binh. Và trong bài văn bia ở Xương Lăng, vua Tự Đức đã nhắc lại điều đó và nói thêm rằng: “ Lời vàng ngọc văng vẳng bên tai, con nhỏ này đâu dám trái chí”; nhưng hôm ấy khi lên xem công trình lăng, thấy “công trình có phần phiền phức to lớn”, nhà vua vẫn tỏ ra thỏa mãn.

Sau khi vua Thiệu Trị thăng hà, quan tài nhà vua được quàn tại điện Long An trong cung Bảo Định ở bờ bắc Ngự Hà, mãi đến gần 8 tháng sau mới đưa lên an táng ở lăng.

Riêng tấm bia “Thánh đức thần công” với bài bi ký dài hơn 2.500 chữ do vua Tự Đức viết, thì mãi đến 5 tháng sau, tức là ngày 19-11-1848 mới dựng được.

Như vậy, tính từ ngày bắt đầu xây dựng (11-2-1848) đến ngày hoàn tất, lăng Thiệu Trị đã được thi công trong vòng chưa đầy 10 tháng.

Ngoài ra, ở gần lăng Thiệu Trị còn có 3 ngôi lăng mộ khác của những người trong gia đình vua. Nằm chếch phía trước là lăng Hiếu Đông của mẹ vua - bà Hồ Thị Hoa; gần phía sau bên trái là Xương Thọ Lăng của vợ vua - bà Từ Dũ; phía trước bên trái là khu lăng “Tảo thương” là những ngôi mộ của con vua Thiệu Trị chết lúc còn nhỏ.

Vua Tự Đức đã cho xây dựng lăng vua Thiệu Trị theo mô thức kiến trúc và phần lớn ý đồ do vua cha để lại. Trước thời điểm khởi công xây dựng lăng này, ở Huế chỉ mới có hai lăng là lăng Gia Long và Minh Mạng. Khi còn sống vua Thiệu Trị đã tham khảo nghệ thuật kiến trúc lăng tẩm của hai vua tiền nhiệm để đưa ra đồ án xây dựng ngôi nhà vĩnh cửu, nơi mình sẽ an giấc ngàn thu.

So với hai lăng Gia Long và Minh Mạng, lăng vua Thiệu Trị gần Kinh thành hơn, là sự dung hòa hai mô thức kiến trúc của hai lăng vua tiền nhiệm bằng cách thiết kế thành hai trục: Trục lăng nằm bên phải và trục tẩm - khu vực điện thờ nằm bên trái. Hai trục cách nhau khoảng 100 mét. Nói cách khác, các nhà kiến trúc lăng Thiệu Trị đã cắt phần giữ của lăng Minh Mạng - điện thờ đặt riêng ra một bên và nối hai phần trước và sau của lăng ấy lại với nhau làm một. Dĩ nhiên, về các đơn vị công trình kiến trúc riêng lẻ thì có thêm bớt, đổi thay đôi chút, nhưng cách xây Bửu thành, Toại đạo, các cầu bằng đá, nghi môn, nghê đồng và các hồ bán nguyệt thì giống lăng Minh Mạng.

Lăng Thiệu Trị khác lăng Minh Mạng là không xây La thành, nhưng giống lăng Gia Long là lợi dụng những dãy núi đồi chung quanh để làm nên một vòng La thành thiên nhiên rộng lớn. Trong vòng La thành hùng vĩ đó, lăng Thiệu Trị dựa lưng vào chân núi Thuận Đạo, gần trước mặt lăng là một vùng đất bằng phẳng cỏ cây xanh tươi, ruộng đồng mơn mởn trải dài từ bờ sông Hương đến tận cầu Lim. Xét về phong thủy, lăng Thiệu Trị ở vào vị thế “sơn chỉ thủy giao”. Lăng quay mặt về hướng tây bắc, một hướng chưa bao giờ được dùng trong các công trình kiến trúc lớn ở Huế bấy giờ. Phía trước, cách lăng khoảng 1 km có đồi Vọng Cảnh, bên trái có núi Ngọc Trản chầu về trước lăng theo vị thế “tả long hữu hổ”. Ngọn núi Chằm cách đó khoảng 8 km đứng làm “tiền án” cho khu vực lăng, động Bàu Hồ ở gần hơn làm bình phong thiên nhiên cho khu vực tẩm. Ở đằng sau, ngoài ngọn núi Kim Ngọc ở xa, người xưa đã đắp một mô đất cao lớn làm “hậu chẩm” cho lăng. Trong phạm vi lăng có ba hồ bán nguyệt là Hồ Điện, hồ Nhuận Trạch, và hồ Ngưng Thúy cùng dòng khe từ hồ Thủy Tiên chay ra bên phải, giao lưu với nhau bằng những đường cống xây ngầm dưới các lối đi.

Trầm mặc mà thanh thoát, lăng Thiệu Trị khiêm tốn ẩn mình giữa chốn núi đồi rộng lớn dưới bầu trời bao la.

- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin về việc công nhận di tích số 2890/QĐVH ngày 27-9-1997.


(Theo tư liệu từ Thư viện Tổng hợp tỉnh Thừa Thiên Huế)

Du Mục
03-07-2009, 08:29 PM
mai Mục đi nè, có bạn nào ở Huế dắt Mục đi tham quan mí chổ này với :5:

lầm_lỡ2
05-07-2009, 05:32 AM
u`mmmm .. đẹp wá.. Huế đẹp.. Huế mộng mơ.. quê tui đi mừ....:tim:

uii chua choaaa. đẹp waaaa...

:)
05-07-2009, 05:40 AM
mai Mục đi nè, có bạn nào ở Huế dắt Mục đi tham quan mí chổ này với :5:

Ý, chị đi Huế thật à :5:.

Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng)


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/lt/lang1.gif
Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng)

Lăng Tự Ðức là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc thời Nguyễn. Ông vua giỏi thi phú Tự Ðức đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, phù hợp với sở nguyện của con người có học vấn uyên thâm và lãng tử bậc nhất trong hàng các vua chúa nhà Nguyễn. Lăng tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế.

Làm vua trong bối cảnh xã hội khó khăn, bên ngoài giặc ngoại xâm tấn công, bên trong huynh đệ lục đục tranh giành ngôi báu, bản thân nhà vua lại ốm đau, bệnh hoạn nên không có con. Tự Ðức quả là một số phận của những bi kịch éo le. Ðể trốn tránh cuộc đời khắc nghiệt đó, Tự Ðức cho xây dựng khu lăng tẩm này như một hành cung thứ hai để tiêu sầu và phòng lúc ra đi bất chợt.

Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Ðức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình. Nhưng sau khởi nghĩa chày vôi do anh em Ðoàn Hữu Trưng khởi xướng, vua đổi tên thành Khiêm Cung, sau vua mất gọi là Khiêm Lăng.

Toàn cảnh lăng Tự Ðức như một công viên rộng lớn. Yếu tố được tôn trọng triệt để trong lăng Tự Ðức là sự hài hòa của đường nét. Gần 50 công trình trong lăng ở hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi.

Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Ðức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Ðường - nơi cất đồ ngự dụng. Ðặc biệt phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn bảo lưu.

Ngay sau Bái Ðình với hai hàng tượng quan viên văn võ uy nghi là Bi Ðình với tấm bia bằng đá thanh, nặng 20 tấn có khắc bài Khiêm cung ký 4.935 chữ do nhà vua soạn thảo tự thuật về cuộc đời, vương nghiệp, cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình.
Lăng Tự Ðức là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc cung đình thời Nguyễn.


Theo Festival Hue


Một số hình ảnh về lăng Tự Đức :


http://www.tropicalisland.de/DAD%20Hue%20%20Royal%20Tombs%20-%20Tomb%20of%20Tu%20Duc2_b.jpg

http://www.donatourist.com/images/ho%20ha%20khiem%20lang%20tu%20duc.jpg

http://img81.imageshack.us/img81/7758/p1020227qh2.jpg

:)
05-07-2009, 08:20 PM
Lăng Đồng Khánh (Tư Lăng)


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/lt/langdongkhanh.jpg
Lăng Đồng Khánh

Lăng Đồng Khánh là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11-12-1993. Lăng nằm tại xã Thủy Xuân, thành phố Huế

Quá trình xây dựng lăng Đồng Khánh khá phức tạp. Nhà vua không ngờ mình chết sớm giữa lúc mới 25 tuổi sau khi tại vị chỉ 3 năm (1886-1888), cho nên chưa nghĩ đến việc xây lăng.

Nguyên trước đó, ở gần khu vực lăng Đồng Khánh ngày nay đã có lăng mộ của Kiên Thái Vương (1845 - 1876), cha đẻ của 3 vua Kiến Phúc (1884), Hàm Nghi (1885) và Đồng Khánh (1886 - 1888). Sau khi lên ngôi, thấy lăng mộ cha chưa có điện thờ, vua Đồng Khánh hạ lệnh cho Bộ Công xây dựng điện Truy Tư để thờ cha. Ngôi điện này nằm cách lăng Kiên Thái Vương khoảng 50 mét về phía đông - đông nam, được khởi công làm từ tháng 2-1888. Đến tháng 10 năm ấy, dù công trình chưa hoàn tất, vua Đồng Khánh cũng đã cho tổ chức lễ rước bài vị của Kiên Thái Vương từ một nhà thờ trong Thành Nội lên thờ ở đây. Trong khi công việc xây dựng đang tiến hành thì vua Đồng Khánh ngã bệnh, chết vào ngày 28-1-1889. Vì vậy điện Truy Tư được đổi làm Tư Lăng biệt điện, rước thánh vị nhà vua về thờ, gọi là điện Ngưng Hy. Bấy giờ, bài vị Kiên Thái Vương được đưa về thờ bên Hân Vinh từ đường xây dựng từ tháng 3-1888, bên bờ sông An Cựu, nay vẫn còn, nằm sát cung An Định.

Sau khi vua Đồng Khánh đột ngột mất, vua Thành Thái nối ngôi trong hoàn cảnh lịch sử và kinh tế đất nước khó khăn, phức tạp. Vì vậy, triều đình phải dùng ngôi điện đang xây dang dở làm nơi thờ vua Đồng Khánh và chọn chỗ đất cách đó khoảng 100 mét về phía tây nam để an táng ông luôn.

Sau khi vua Đồng Khánh chết hơn 20 ngày, quan tài nhà vua được đưa lên quàng tại điện Ngưng Hy từ ngày 19-2-1889, đến ngày 18-4-1889 mới đưa qua chôn tại khu lăng mộ đã chọn gần đó, mặc dù các công trình kiến trúc tại khu vực này làm chưa xong.

Phần lớn các công trình kiến trúc còn tồn tại ở lăng Đồng Khánh đều thực hiện dưới thời vua Khải Định (1916 - 1925). Sau khi lên ngôi được 3 tháng, vua Khải Định bảo Bộ Công lo việc tu sửa lăng (tháng 8-1916).

Vào tháng 3-1917, Bái đình mới được làm xong; thiết lập hai hàng tượng văn, võ quan viên và voi ngựa, lát gạch giữ sân chầu, xây lan can chung quanh và dựng cửa Nghi Môn ở mặt trước.

Bài văn bia do vua Khải Định viết xong ngày 8-10-1916 để ca tụng vua cha, được khắc vào hai mặt một tấm bia bằng đá thanh, rồi dựng ở Bi đình vào khoảng tháng 7-1917.

Điện Ngưng Hy và các nhà cửa phụ thuộc cũng đã được vua Khải Định cho trùng tu vào tháng 2-1921 và vào tháng 5-1923.

Tóm lại công việc xây dựng lăng tẩm của vua Đồng Khánh đã được bắt đầu từ cuối đời của chính ông (1888 - xây dựng khu vực điện Truy Tư sau đổi thành điện Ngưng Hy), làm thêm từ đầu đời vua Thành Thái (1889 - khu vực lăng mộ), rồi sửa chữa và mở rộng thêm quy mô dưới thời vua Khải Định các năm 1916, 1917, 1921 và 1923. Thực tế công cuộc xây dựng lăng vua Đồng Khánh diễn ra nhiều đợt, trong thời gian dài 35 năm (1888 - 1923), qua 4 đời vua: Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định. Điều kiện lịch sử thời bấy giờ đã ảnh hưởng không nhỏ đến các yếu tố kiến trúc nghệ thuật xây dựng lăng, nền nghệ thuật thuần túy dân tộc đã bị phôi pha, trộn lẫn với các giá trị kiến trúc phương Tây.

Về mô thức kiến trúc, lăng vua Đồng Khánh không khác gì các lăng vua Nguyễn trước đó, ở cả hai khu vực lăng và tẩm có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ với mật độ tương đối dày. Khu vực tẩm quay về hướng đông - nam, ngay trước mặt có đào ao hồ bán nguyệt để làm yếu tố “minh đường”, ngọn đồi Thiên An cách đó khoảng 3 km được dùng làm tiền án. Khu vực lăng mộ quay về hướng đông - đông nam, tiến án là núi Thiên Thai. Tương quan viên ở lăng Đồng Khánh được đắp bằng vôi gạch với dáng cao, nhưng gầy.

Công trình kiến trúc nổi bật ở lăng vua Đồng Khánh là điện Ngưng Hy, có giá trị cao về kiến trúc, hội họa và trang trí. Đây là một tòa nhà kép làm theo kiểu thức chung của loại cung điện Huế, nhưng ở phần sau lại được gia tăng thêm một nhà thứ ba, nhà hậu. Vì vậy, ở đây có ba hệ thống vì kèo được ghép lại với nhau theo hình chữ “tam” với hai hệ thống máng xối ở giữa.

Bên trong điện là không gian nội thất vàng son lộng lẫy. Hàng trăm hình ảnh và câu thơ được chạm khắc hoặc viết vẽ lên các pa-nô và hệ thống liên ba đố bản. Một loạt hình ảnh trang trí độc đáo ở nội điện Ngưng Hy là vẽ cảnh sinh hoạt của 24 câu chuyện trong “nhị thập tứ hiếu”. Điện Ngưng Hy đã bảo lưu được nền nghệ thuật sơn mài truyền thống của dân tộc, phát huy tối đa những hình ảnh nổi bằng đất nung tráng men màu vào trong trang trí ngoại thất để có thể chịu đựng nắng mưa xứ Huế. Và cũng là lăng mở đầu cho sự pha trộn hai nền kiến trúc nghệ thuật Á - Âu.

- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn Hóa Thông tin về việc công nhận di tích số 2009-1998QĐ/BVHTT ngày 26-9-1998


(Theo tư liệu từ Thư viện Tổng hợp tỉnh Thừa Thiên Huế)

Một số hình ảnh về lăng Đồng Khánh :


http://dulich.tuoitre.com.vn/Tianyon/Cache/Thumbnail/842/276842.jpg

http://vnexplore.net/files/hue/hue_lang_dongkhanh.jpg

http://www.hanhtrinhyeuthuong.com/uploaded/53.jpg

GRTL
05-07-2009, 09:05 PM
- Huế đẹp thật, người cũng đẹp ... duy chỉ có phong cách làm ăn, kinh doanh là quá xấu và vô lối ! chém như chém chuối ...

..::Anh Khờ::..
06-07-2009, 12:14 PM
Chưa được đến Huế lần nào...........
nhưng nhìn qua ảnh đúng là Huế............mộng mơ.

:)
07-07-2009, 12:57 AM
- Huế đẹp thật, người cũng đẹp ... duy chỉ có phong cách làm ăn, kinh doanh là quá xấu và vô lối ! chém như chém chuối ...

Đừng vơ đũa cả nắm chứ :D.

----------------------------

Lăng các chúa Nguyễn



Cụm lăng các chúa Nguyễn gồm 9 lăng, nằm tập trung tại xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế

Cụm lăng các chúa Nguyễn gồm 9 lăng:



- Lăng Trường Cơ - Lăng Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế Nguyễn Hoàng (1526-1613) ở làng La Khê
- Lăng Trường Diễn - Lăng Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng Đế Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) ở thôn Cát Hải
- Lăng Trường Diên - lăng Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng Đế Nguyễn Phúc Lan (1601-1648) ở thôn Kim Ngọc
- Lăng Trường Hưng - lăng Thái Tôn Hiếu Triết Hoàng Đế Nguyễn Phúc Tần (1620-1687) ở thôn Cát Hải
- Lăng Trường Mậu - Lăng Anh Tôn Hiếu Nghĩa Hoàng Đế Nguyễn Phúc Thái (1650-1691) ở thôn Kim Ngọc
- Lăng Trường Sanh - lăng Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng Đế Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) ở thôn Kim Ngọc
- Lăng Trường Phong - lăng Túc Tôn Hiếu Minh Hoàng Đế Nguyễn Phúc Thụ (1697-1783) ở làng Định Môn
- Lăng Trường Thái - lăng Thế Tôn Hiếu vũ Hoàng Đế Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765) ở làng La Khê
- Lăng Trường Thiệu - lăng Duệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế Nguyễn Phúc Thuần (1754-1777) ở thôn La Khê.

- Quyết định của Bộ Trưởng Bộ Văn hóa Thông tin về việc công nhận di tích số 2009-1998/QĐ-BVHTT ngày 26-9-1998.

GRTL
08-07-2009, 01:58 AM
- Đúng vậy mà ! ở đâu cũng vậy cả ... từ quán ăn, xe thồ, taxi .... cho đến khách sạn !!! tốt nhất là bà con nên đi theo tua của mấy cty Du Lịch ... không thì bị chém tả tơi ráng chịu ! :D .

:)
09-07-2009, 01:53 AM
Lăng Hiếu Đông


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/lt/tongthelanghieudong1.jpg
Tổng thể lăng Hiếu Đông

Lăng Hiếu Đông là lăng mộ của bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa, Nguyên Phi của vua Minh Mạng (sau được truy tôn là Hoàng hậu), thân mẫu của vua Thiệu Trị. Dưới thời Nguyễn, lăng Hiếu Đông thuộc đất xã Cư Chánh, huyện Hương Thuỷ, phủ Thừa Thiên; nay thuộc thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tuy là một di tích quan trọng trong quần thể lăng tẩm hoàng gia Nguyễn nhưng lại không nhiều người biết tường tận về lăng Hiếu Đông. Nhờ những phát hiện qua đợt thám sát khảo cổ học mới diễn ra gần đây (và “nhờ” cả sự kiện chiếc cột hoa biểu báo hiệu lăng bị đập phá ngày 28/4/2005) được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, người ta mới thực sự quan tâm về khu lăng khá đặc biệt này.

Bà Hồ Thị Hoa vốn người huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa, con gái của Phúc Quốc Công Hồ Văn Bôi và bà mẹ họ Hoàng. Bà sinh ngày 30 tháng 11 năm 1791 (ngày 5 tháng 11 năm Tân Hợi). Tiểu sử của bà Hồ Thị Hoa cùng những sự kiện liên quan đến bà được không ít tư liệu sách vở từ thời Nguyễn đến nay đề cập, đặc biệt sách Đại Nam liệt truyện của Quốc Sử Quán triều Nguyễn đã dành đến hơn chục trang để viết về bà, đủ biết bà là một nhân vật quan trọng, dù chỉ hưởng dương xấp xỉ 17 năm.

Được đưa vào cung từ năm 16 tuổi (1806), do đích thân vua Thế Tổ - Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn, bà đã nhanh chóng được chú ý bởi tính dịu dàng, thận trọng và nổi tiếng hiền đức, hiếu thảo. Bà được vua Thế Tổ rất ngợi khen và ban cho tên Thật. Vua bảo: “Phi nguyên có tên Hoa là lấy ý nghĩa ở 4 chữ “ đặc dĩ phương văn” (để truyền hương thơm) sao bằng tên Thật gồm cả phúc lẫn quả."

Tháng 5 năm Đinh mão (1807) bà sinh hoàng tử, người sau này trở thành Hiến Tổ Chương Hoàng Đế-Thiệu Trị. Nhưng mới được 13 ngày thì bà mất (ngày 28.6.1807), lúc mới 17 tuổi.

Tẩm mộ của bà được xây ngay sau đó tại xã Cư Chánh, huyện Hương Thuỷ, nhưng quy mô còn khá khiêm tốn.

Tháng 6 năm Tân tỵ (1812), bà được truy tặng sách Chiêu Nghi, thuỵ Thuận Đức, hợp thờ tại đền Gia Phi (đền thờ họ Phạm).

Tháng 5 năm Bính Thân (1836), bà được truy tặng là Thân Phi. Tháng 10 năm Mậu tuất (1838), được sắc lập nhà thờ tại làng Vạn Xuân phía tây sông Hữu Hộ Thành. Năm Kỷ hợi (1839), bài vị bà được đưa về thờ tại đấy.

Năm Tân sửu (1841), sau khi vua Hiến Tổ-Thiệu Trị lên ngôi đã dâng tôn thuỵ là Tá Thiên Lệ Thánh Đoan Chính Cung Hoà Đốc Khánh Từ Huy Minh Hiền Thuận Đức Nhân Hoàng Hậu (thường gọi tắt là Tá Thiên Nhân Hoàng hậu), đặt tên nhà thờ là Vĩnh Tư Điện, tên lăng là Hiếu Đông.

Ngày 9 tháng 1 năm Quý mão (1843) bài vị của bà được đưa về phối thờ với Thánh Tổ-Minh Mạng ở Thế Miếu, tại gian thứ nhất bên trái.

Bà chỉ sinh được một hoàng tử là Nguyễn Phúc Tuyền (Hiến Tổ Chương Hoàng Đế).

Thân sinh của bà là ông Hồ Văn Bôi, vào năm Bính tuất (1826) đã được truy tặng Nghiêm Vũ Tướng Quân Thượng Hộ Quân Đô Thống, thân mẫu được tặng nhị phẩm phu nhân. Đến năm Tân sửu (1841) Hiến Tổ truy phong ông làm Đặc Tiến Tráng Vũ Tướng Quân Đô Thống Phủ Đô Thống Chưởng Phủ Sự Thái Bảo, thuỵ Trung Dũng, tước Phúc Quốc Công và bà là Nhất phẩm Quốc Công phu nhân, thuỵ Ý Thuận. Ngoài ra cho lập nhà thờ ở xã Xuân Hòa (huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên). Đồng thời cũng lập nhà thờ tại nguyên quán gọi là Hồ tộc từ đường.

Như trên đã nói, sau khi bà Hồ Thị Hoa mất, tẩm mộ bà được xây tại xã Cư Chánh, nhưng quy mô còn khiêm tốn. Chỉ khi vua Thiệu Trị đăng quang (1841), truy tôn bà thành Tá Thiên Nhân Hoàng hậu, việc xây dựng lăng cho bà mới được tiến hành. Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Nội Các triều Nguyễn có chép lại bản Dụ của vua Thiệu Trị nói rõ sự kiện này:
“...dụ rằng: từ xưa Đế Vương lấy hiếu trị thiên hạ, muốn suy tôn nguồn gốc, thì bắt đầu phải tôn xưng huy hiệu, đấy là lệ thường. Vâng lệnh Hoàng khảo Thánh tổ Nhân, Hoàng đế ta đức to nghiệp lớn, rực rỡ xưa nay, hiệu tên sáng tỏ trời đã phú Hoàng tỷ ta (tức mẹ vua) thêm nhiều nguồn phúc, gây nên đức hóa, đức tốt của người mẹ tiêu biểu hơn người. Vừa rồi đặt lễ kính dâng tôn hiệu lên Hoàng khảo Thánh tổ Nhân hoàng đế đã xong, đình thần đều có xin dâng huy hiệu Hoàng tỷ ta, để tỏ đức mẹ vua và thỏa lòng dân nguyện. Trẫm chuẩn y lời đề nghị đó, cho kính chọn giờ lành, đích thân đem quần thần kính đến sân điện Vĩnh Tư làm lễ. Vả lại, đế và hậu cùng suy tôn là lễ chính đáng. Trẫm kính theo chỉ trước, kính cẩn xây dựng lăng tẩm ở đất lành Hiếu Sơn, dâng hiệu lăng là Hiếu Lăng. Nay nên kính dâng hiệu lăng Hoàng tỷ Nhân Hoàng hậu ta là lăng Hiếu Đông.

Lại dụ rằng: Mặt trước lăng Hiếu Đông cần dựng cột hoa biểu, còn bình phong ở mặt sau, bờ suối ở mặt trước, cùng các nơi ngăn cấm đều cần sửa sang. Kính nghĩ đây là việc trọng đại, một phen xây dựng mong sao bền vững nghìn thu. Đã sai Thái sư tra xét phương hướng từng năm, chọn ngày lành cẩn thận, phái thống chế Vũ Văn Giải, chưởng vệ Hồ Văn Lưu đổng lý công việc này”.

Tuy nhiên, ngay sau đó, vua Thiệu Trị lại không yên tâm và phái thêm một vị quan văn là Hữu thị lang Bộ Công Nguyễn Văn Điền cùng sung chức Đổng lý để coi sóc việc xây lăng. Đến năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), công việc xây lăng Hiếu Đông mới tạm hoàn chỉnh. Sau khi hoàn thành, lăng trở thành một công trình khang trang, quy mô bề thế: “Tường trong bảo thành cao 6 thước 2 tấc 7 phân, chu vi 14 trượng 2 thước 8 tấc, giữa xây một nhà đá; lần tường ngoài trước cao 9 thước, cao 7 thước 9 tấc 6 phân, chu vi 21 trượng 1 thước 7 tấc, trước xây cửa đá, cánh cửa bằng đồng, bệ cửa 5 cấp, tả hữu lan can rồng, ngoài làm bái đình 3 cấp, lát đá rắn, đường ống xây đá, 6 lan can rồng uốn, tả hữu lan can gạch hoa; bên ngoài bái đình 3 cấp là sân ngoài, đường ống xếp đá, tả hữu lát gạch rắn, trước là hồ nguyệt, bên ngoài hồ tả hữu đều xây cột hoa biểu. Bên tả lăng dựng đài công sở 5 gian".

Từ khi xây dựng xong trở về sau, chắc chắn lăng Hiếu Đông đã được tu bổ nhiều lần. Việc bảo vệ lăng cũng được thực hiện rất chu đáo. Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán cho biết, quanh chu vi lăng có đến 40 trụ giới cấm (4). Ngoài ra, vào năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), nhà vua còn cho dựng ở sát bến sông vào lăng 2 cột hoa biểu để làm mốc báo hiệu khu vực đất thiêng. Năm Tự Đức thứ 24 (1871), triều Nguyễn còn quy định: " Khi đến trụ gạch (tức cột hoa biểu),... đối với lăng Hiếu Đông... là tại chỗ hõm bờ sông, thì xuống võng, cởi dép đi vào. Người gánh võng, binh lính vẫn ở lại nơi đó, còn kẻ tùy tòng đều đến ngoài mô đất có hàng rào cây thì dừng lại mà chờ. Còn lọng đi theo... đến trụ cấm thì ngừng".

Riêng về lực lượng bảo vệ, khu vực lăng Hiếu Đông có một đội lính (Đội 7) thuộc vệ Hộ Lăng làm nhiệm vụ thường xuyên canh trực, giữ gìn lăng.

Trong thời Nguyễn, hàng năm các vua vẫn thường xuyên viếng thăm lăng tẩm tổ tiên. Phương tiện mà họ sử dụng chính vẫn là ngự thuyền. Để phục vụ cho việc dừng chân, nghỉ ngơi của các vua Nguyễn, triều đình cho dựng những hành cung dọc hai bờ sông Hương. Tại khu vực kề cận lăng Hiếu Đông có hành cung Cư Chánh. Dù tư liệu của triều Nguyễn không thấy đề cập cụ thể nhưng ký ức về hành cung này vẫn được lưu truyền trong cư dân sở tại.

Về cuối triều Nguyễn, do không đủ sức quản lý, bảo vệ các khu lăng nên, tình trạng xuống cấp, hoang hóa của các di tích diễn ra rất phổ biến, trong đó có lăng Hiếu Đông. Khu lăng mộ này gần như bị rơi vào quên lãng.

Từ tháng từ tháng 8/2004 đến giữa tháng 1/2005, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phối hợp với Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tổ chức thám sát khảo cổ học di tích Xương Lăng- lăng Thiệu Trị. Sau đó, theo đề nghị của các nhà chuyên môn, công tác thám sát được mở rộng qua khu vực lăng Hiếu Đông (từ cuối tháng 4/2005-5/2005). Kết quả của đợt thám sát này đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng, bổ sung vào các nguồn thông tin tư liệu vốn có.


(theo hue.vnn.vn)

.APPLE.
10-07-2009, 05:10 AM
đi chơi ở Huế thì toàn là đi mộ ko ih >"< cơ mà ở Huế mà mềnh cũng chả đi dc nhiều mi nhỉ :sr:

KIM SAO CHI
12-07-2009, 04:11 AM
ủa cái này giới thiệu lâu lắm rồi đó nha
he he để tuần sau mình tới xem sao

Du Mục
12-07-2009, 04:41 AM
Ý, chị đi Huế thật à :5:.

uh chị mới về đến SG lúc 2h sáng nay, nhưng vì thời gian gấp quá, ở Huế dc có 2-3 tiếng nên chỉ gặp dc lão Casper có chút xíu ah, ngoài ra ko dám hẹn gặp ai hết trơn, mà cũng chưa đi dc bao nhiêu, tức quá àh, sắp tới phải cố gắng làm ta ba lô Huế 1 chuyến mới dc :)


nghe mấy cái lăng là ko mún đi , chả có gì hay ho :nhi:

sao lại ko hay, tao thích mấy cái lăng đó lắm ah, nhưng mà đi với mày xong dzề tao thành thương binh lun

:)
14-07-2009, 07:44 PM
uh chị mới về đến SG lúc 2h sáng nay, nhưng vì thời gian gấp quá, ở Huế dc có 2-3 tiếng nên chỉ gặp dc lão Casper có chút xíu ah, ngoài ra ko dám hẹn gặp ai hết trơn, mà cũng chưa đi dc bao nhiêu, tức quá àh, sắp tới phải cố gắng làm ta ba lô Huế 1 chuyến mới dc :)



Ủa, có gặp Cá hâm hả chị :rain:. Ok, hẹn chị dịp khác ha :hug:.

Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/chua/tvbachma.jpg
Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã

Chuyến qua phà giữa lòng hồ Truồi mênh mang sóng nước sẽ làm khách hành hương thích thú khi đến thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. Bên kia bờ nước, dưới chân ngọn linh sơn, những tổ đường, chính điện, tăng đường, trai đường, phương trượng, lầu chuông, tháp xá lợi… quần tụ trên khu đồi nguyên sinh bên kia bờ hồ Truồi dưới chân đỉnh Bạch Mã quanh năm chìm trong mây trắng.




Đại đức Thích Tâm Hạnh, trụ trì thiền viện, cho biết trong một lần đi tìm cuộc đất xây thiền viện, từ đỉnh Bạch Mã nhìn xuống chợt gặp một vùng non nước xứ Truồi in bóng trời mây. Thiền viện được khởi công từ tháng 3/2006, sau hai năm thi công trong điều kiện khá khó khăn vì cách trở đường vận chuyển. Với tổng kinh phí gần 15 tỉ đồng từ nguồn đóng góp của giáo hội và phật tử, nay đã nên hình hài một quần thể danh lam giữa vùng sơn thủy hữu tình.
Với khoảng cách chưa đầy 30km từ trung tâm thành phố Huế, xuôi quốc lộ 1A về phía nam đến địa phận xứ Truồi (huyện Phú Lộc) rẽ phải thêm 10km, qua chuyến phà hồ Truồi, bỏ lại sau lưng những bụi bặm trần thế trước khi bước chân lên 172 bậc tam cấp để đứng trước tam quan thiền viện.

Nối dòng thiền phái Trúc Lâm Yên Tử với các thiền viện Yên Tử (Quảng Ninh), Đà Lạt, Tây Thiên (Vĩnh Phúc) và nay thêm thiền viện Bạch Mã ở xứ Huế, Huế có thêm một địa chỉ hành hương không chỉ riêng cho phật tử mà cả du khách khi tìm về cố đô.



Tổng cục Du lịch


Cách thành phố Huế 30km, theo đường quốc lộ 1 xuôi về phía Nam. Đến cầu Truồi (huyện Phú Lộc), rẽ phải thêm 10km, sừng sững trước mắt là đỉnh Bạch Mã quanh năm chìm trong mây trắng, mênh mang dưới chân Bạch Mã là hồ Truồi xanh biết chạy dài hết tầm mắt. Bên kia bờ nước, thấp thoáng giữa ngọn linh sơn là những lầu chuông, phương trượng, chánh điện, tháp xá lợi...sáng rực lên một cách lung linh huyền ảo trong nắng chiều. Bước xuống chuyến phà của nhà chùa luôn luôn chờ sẵn, băng ngang lòng hồ mênh mông nước, bao nhiêu bụi trần như được giũ bỏ hết trước khi đặt chân tới chốn thiền môn.

Sang đến bờ bên kia, cao vút trước mắt là 172 bậc tam cấp như thử thách cuối cùng cho khách hành hương. Sừng sững phía trên cùng là cổng Tam Quan của chùa. Đứng trước cổng phóng tầm mắt nhìn xuống bắt gặp một vùng non nước xứ Truồi in bóng trời mây. Mặt nước hồ Truồi lung linh như dát vàng, dát bạc. Bước chân vào chùa, khách hành hương như ngẩn ngơ trước vẻ hùng vĩ và trang nghiêm của những chánh điện, tổ đường, trai tăng...những mái chùa cong vút in hình trên nền trời xanh hay những ngọn núi mây trắng vờn quanh. Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã nối dòng thiền phái Trúc Lâm Việt Nam với các thiền viện Yên Tử, Tây Thiên, Đà Lạt. Xứ Huế nay có thêm một địa chỉ cho khách hành hương tìm về với cố đô.

Đường vào với đỉnh Bạch Mã với quanh năm mây trắng vờn quanh


http://www.vnphoto.net/data/p12/3066_duong%20vao_02_913.jpg

http://www.vnphoto.net/data/p13/3066_duong%20vao_01_2238.jpg

Thiền viện Trúc Lâm ẩn hiện giữa mênh mang trời nước

http://www.vnphoto.net/data/p10/3066_toan%20canh_5005.jpg

172 bậc tam cấp dẫn lên chùa

http://www.vnphoto.net/data/p8/3066_duong%20len_8362.jpg

Cảnh non nước hữu tình nhìn từ chùa

http://www.vnphoto.net/data/p10/3066_ho%20truoi_4958.jpg

Chánh điện

http://www.vnphoto.net/data/p13/3066_chanh%20dien_8130.jpg

Điện thờ

http://www.vnphoto.net/data/p13/3066_dien%20tho_2735.jpg


Vnphoto

congchuahongtra
14-07-2009, 08:18 PM
oài thik wa',mang tiếng là người Huế mà tớ đã bít được hết những chỗ ni mô

:)
15-07-2009, 02:56 AM
Chùa Diệu Đế


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/chua/chua%20dieu%20de.jpg

Chùa tọa lạc tại số 100B đường Bạch Đằng, phường Phú Cát, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Điện thoại: 0914114798.

Chùa do Vua Thiệu Trị cho xây dựng vào năm 1844 với qui mô đồ sộ trên nền phủ đệ cũ của nhà vua, nhưng qua nhiều cuộc chiến tranh đã hư hỏng. Năm 1889, Hòa thượng Tâm Truyền được Vua Thành Thái ban tiền để trùng tu. Chùa lại bị hỏng do cơn bão năm 1904. Kiến trúc chùa hiện nay được xây dựng vào năm 1953, ở trần chánh điện có bức tranh vẽ "Long Vân khế hội", nét vẽ điêu luyện.

Ở chùa có tấm bia đá cao 1,90m rộng 1m, đặt trên bệ cao 0,65m dựng trong một nhà bia khắc những bài thơ của Vua Thiệu Trị vịnh về chùa Diệu Đế.

Diệu Đế là ngôi Quốc tự thứ ba ở Huế, được Vua Thiệu Trị liệt hạng là một trong 20 thắng cảnh của đất Thần Kinh.


(theo tư liệu của ông Võ Văn Tường cung cấp)

Cyclone*
15-07-2009, 08:55 AM
Em thích đi coi biển với mấy hồ hơn ngắm trong mấy chùa. Ước gì có ai dắt đi :sr:

:)
18-07-2009, 06:53 AM
Thăm phủ An Thường công chúa

http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/dulich/diemthamquan/diemthamquankhac/congchua.jpgCùng với quần thể kiế trúc cung đình triều Nguyễn, Huế còn có một mảng kiến trúc nghệ thuật vừa mang dấu ấn cung đình, vừa hoà hợp trong lối sống dân dã, đó là những kiến trúc phủ đệ mà các Hoàng Tử, công chúa con của các Vua triều Nguyễn khi đến tuổi trưởng thành được Vua cha cho ra lập phủ để ở riêng

Những phủ đệ ấy, lúc sinh thời là nơi ở của các hoàng tử, công chúa. Khi các bậc ấy mất đi, con cháu dùng làm nơi thờ tự được gọi là phủ thờ. Theo Nguyễn Phước tộc thế phả, ở Huế có tất cả 95 phủ đệ của 62 hoàng tử và 33 công chúa. Hiện nay, số phủ đệ ấy còn lại không nhiều, và một trong số ấy là phủ thờ Công chúa An Thường. An Thường là con gái thứ tư của Vua Minh Mạng- một nàng công chúa nổi tiếng về hiếu hạnh

Công chúa An Thường hiệu là Mỹ Thục, huý Lương Đức, hựu huý Nhật Tam Xuân. Công chúa sinh ngày 13 tháng 6 năm Đinh Sửu ( tức ngày 26 tháng 7 năm 1817). Là con thứ tư cuả Vua Minh Mạng, những người chị của bà đều mất sớm nên bà được xem là công chúa trưởng. Bà lập gia đình với phò mã Phan Văn Uýnh- tước hiệu Cáo Thọ Phấn Dõng Tướng Quân Đô Uý- là con trai của Đô Thống Chưởng Phủ sự Chương nghĩa hầu Tăng Thiếu Bảo Phan Văn Tuý- người để lại dấu ấn là công trình sông đào Đông Ba- Huế . Vợ chồng công chúa và phò mã sinh nhiều con nhưng chỉ còn lại một người đó là Phan Văn Huy và từ đó đến nay, dòng dõi đã được kế tục qua 5 đời.

Trong khi nhiều phủ đệ khác ở Huế bị xuống cấp và không còn giữ được nguyên vẹn kiến trúc ban đầu thì phủ thờ An Thường Công Chúa còn lại cho đến hôm nay là một sự nỗ lực lớn của con cháu trong gia tộc. Đây là chiếc cổng được con cháu phục hồi vào năm 2004 theo đúng như kiểu cách và kích thước ngày xưa. Từ bên ngoài nhìn vào, chiếc cổng gỗ cổ xưa và hai hàng chè tàu xanh mát dẫn vào nhà là một kiểu kiến trúc nhà vườn truyền thống của Huế xưa.


http://www.trt.com.vn//Portals/0/ChuyenDeChuyenMuc/VanHoaHue/VanHoaDuLich/phu-An-thuong-cong-chua.jpg
Phủ An Thường công chúa (Nguồn ảnh: internet)

Du khách sẽ ngạc nhiên vì nhà nền cao mà những cánh cửa bàn khoa lại thấp . Đây chính là một đặc điểm riêng biệt của nhà rường Huế. Ngụ ý của chủ nhân xưa muốn rằng khi bước vào nhà, mọi người phải cúi mình, điều đó thể hiện sự tuân thủ theo nếp nhà, sự tôn trọng với gia chủ. Trong ngôi nhà chính này, phần kiến trúc gỗ với những hoa văn hoạ tiết chạm trổ công phu cho thấy đây là ngôi nhà của hàng con vua cháu chúa . Kiểu trang trí chạm lộng và đặc biệt là những hình chạm nổi này thường thấy ở trong các kiến trúc cung đình. Đây là những bức tranh gương mà dấu thời gian đã làm xoá màu, những hình vẽ không còn rõ nét nhưng nhìn kỹ vẫn thấy đề tài mà hội hoạ xưa thường sử dụng , đó là “ Tây Thi bên cầu giặt lụa”. Thời gian đã làm hư hại nhiều hiện vật quý nhưng vẫn còn lại những dấu tích để cho chúng ta hôm nay hiểu về cuộc sống của người xưa. Đây là chiếc hộp dùng để đựng những sắc phong của Vua ban. Con cháu của Công chúa đã cố gắng giữ gìn cẩn thận. Những giá trị vật chất có thể bị mất đi, hư hao theo thời gian nhưng những giá trị tinh thần , nếp nhà vẫn luôn được gìn giữ . Ngay trước cửa nhà là hai câu đối nói về lối sống của gia đình: “ Truyền kinh giáo tử hoán nhơn văn.

Tích thiện bồi căn miên thế trạch” ( ngụ ý của người xưa dạy rằng: Dạy dỗ con cháu lễ nghi để ngày càng sống tốt hơn. Làm điều thiện để bồi đắp cho sự vững mạnh của gia đình mãi mãi).
Sinh thời công chúa An Thường nổi tiếng là người con hiếu thảo. Theo Đại nam liệt truyện kể rằng: : Năm công chúa lên lên chín tuổi, trong dịp lễ Vạn Thọ, Công chúa được đến dùng cơm với vua cha. Có món thịt vú dê rất ngon, vua cha lấy cho con gái, Công chúa chỉ ngậm mà không nuốt. Vua Minh Mạng lấy làm lạ, truyền hỏi. Công chúa khóc mà thưa rằng: “Mẹ con có bệnh, không được đội ơn; con nghe món này bổ lắm nên con giữ đem về để dâng mẹ con.” Vua cha nghe nói, khen công chúa nhỏ tuổi mà có lòng hiếu thảo sâu sắc, liền truyền lấy riêng một khay nhỏ thịt vú dê sai người đưa sang cho mẹ Công chúa là Mỹ nhân Nguyễn Thị Sâm.

Năm 1840, vua Minh Mạng băng hà , công chúa An Thường đã lên ở tại lăng cha trong ba năm để làm tròn chữ
Nhà thơ Tuy Lý Vương, ông hoàng nổi tiếng hay thơ, là em trai cuả Công chúa An Thường đã viết về chị gái của mình :
“Tốt đẹp thay chị ta
dịu dàng thành thục
đội mũ, gài tóc, khoan thai
nói không ra ngoài bực cửa
là con vua tôn quí
mà cần kiệm, khiêm nhường...” .

Cũng giống như các em của mình, công chúa là một người rất yêu thơ văn. Tiếc thay hiện nay không còn lưu nhiều tài liệu nói về điều này. Nhưng may mắn thay hậu duệ của bà vẫn còn cất giữ được một số bản khắc gỗ. Đó là những bản kinh mà trong những năm tháng cuối đời bà đã chuyên tâm vào việc tu hành. Những bản kinh này , bà in ra và đem đi tặng các chùa hay là cho anh chị em, bà con để cùng đọc kinh và làm điều thiện. Dù có cuộc sống của một bà công chúa quyền quý, cao sang nhưng bà luôn sống và làm việc , hành thiện như bao nhiêu người dân bình thường . Phẩm hạnh của bà đã trở nên nổi tiếng trong giới hoàng tộc ở Huế , con cháu cảu bà đã theo gương người xưa mà tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, đã có nhiều người học hành , đỗ đạt thành tài, làm rạng danh dòng họ./.

Phủ thờ An Thường Công chúa- một trong những ngôi nhà rường đẹp của Huế. Kiến trúc là sự hiển hiện ra bên ngoài , còn cái hồn bên trong đó chính là nề nếp gia phong, là tấm gương đạo đức của chủ nhân xưa. Chính giá trị di sản tinh thần, làm tôn thêm vẻ đẹp của giá trị kiến trúc vật chất. Câu chuyện về cuộc đời của An Thường Công Chúa gợi cho chúng ta phải nhớ rằng dẫu chúng ta có cao sang, học vấn thâm hậu hay phú quí cỡ nào đi nữa, thì đạo làm con lễ hiếu phải làm đầu. Đó cũng chính là đạo lý ngàn năm nay của dân tộc ta.



Theo TRT

:)
19-07-2009, 08:26 PM
Nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/6/6f/Nh%C3%A0_th%E1%BB%9D_D%C3%B2ng_Ch%C3%BAa_C%E1%BB%A 9u_Th%E1%BA%BF,_Hu%E1%BA%BF.jpg

Nhà thờ bắt đầu được xây dựng vào năm 1937 và đến năm 1942 thì xong. Nhà thờ nằm ở cuối đường Nguyễn Huệ, thành phố Huế. Ðiều đặc biệt của kiến trúc ngôi nhà thờ này là cửa rộng và không có vách. Phần hiên của thánh đường được thiết kế rộng để khi đông người đến dự lễ, có thể mở cửa và tạo cho người ở ngoài hiên vẫn có cảm giác đang ở trong lòng thánh đường.

Bàn thờ chính được làm bằng đá cẩm thạch màu hồng, nguyên phiến dài 3,6m rộng 1,25m và cao 28cm. Cạnh bàn thờ chính còn có hai bàn thờ nhỏ hơn cũng làm bằng đá cẩm thạch hồng nguyên phiến. Trong nhà thờ còn có trống, chiêng mang đậm tính cách Á- Ðông.
Phía ngoài hành lang có một phòng nhỏ đựng tro cốt để khi gia đình của những người theo đạo thiên chúa giáo qua đời thì có thể đốt hài cốt thành tro, cho vào tiểu nhỏ để thờ (có thắp hương).
Tháp chuông gồm có 4 quả chuông được điều khiển bằng điện.
Nhà thờ dòng chúa Cứu Thế, đỉnh có chóp nhọn vươn thẳng lên trời, phần thân nhà thờ được lợp ngói có mái, kết hợp hài hoà giữa kiến trúc Tây phương và Ðông phương. Ðây là một ngôi nhà thờ có kiến trúc đẹp ở thành phố Huế.

:)
20-07-2009, 07:47 PM
Nhà thờ Phủ Cam


http://www.simplevietnam.com/uploads/Hue/Nha%20tho%20chinh%20toa%20Phu%20Cam/Hue_NhathoPhucam-1.jpg

Nhà thờ chính toà Phủ Cam hiện tại thuộc phường Phước Vĩnh, thành phố Huế. Ðây là một thánh đường xây theo lối kiến trúc hiện đại, do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Ðầu năm 1963, nhà thờ bắt đầu được khởi công xây dựng. Tới năm 1967 mới lên được phần cung thánh. Tiếp đến 1995 phần thân nhà thờ về cơ bản được hoàn thành.

Thánh đường Phủ Cam được xây theo quan niệm vật lý kết cấu mới. Các trụ đỡ được đúc sát vào tường, chạy uốn cong dần về phía trước, mềm mại. Bốn góc mỗi góc có ba trụ đỡ vươn dần ra, tạo thành một không gian đủ rộng ôm kín cung thánh và bàn thờ.

Lòng nhà thờ được xây theo truyền thống cổ điển có hình thánh giá Latin cộng với lòng căn hai cánh mở rộng. Có hai dãy cửa gương màu nằm ở phần trên bên trong lòng nhà thờ, phía giữa có hình thánh giá bằng xi măng cốt sắt.

Cung thánh là một hình tròn có các cấp đi lên, trên cung là một hình tròn nhưng nhỏ hơn với bàn thờ bằng đá cẩm thạch nguyên khối.

Nhà tạm, được xây sát vào phần hậu thân nhà thờ, nằm gọn vào phần lõm phía sau và được đặt trên một bệ cao ngay chính giữa.

Hai bên cánh hình thánh giá nhà thờ, cánh trái là phần mộ Ðức cố Tổng giám mục Philipphê Nguyễn Kim Ðiền (1921 - 1988), cánh phải đối diện là bàn thờ kinh thánh.

Phía trước nhà thờ Chính toà Phủ Cam có hai tượng đúc: bên phải là thánh Phêrô, bên trái thánh Phaolô cũng là những bổn mạng của giáo xứ Phủ Cam.

Tiền đường của Phủ Cam trông giống như hàm con rồng đang há miệng nhìn tổng thể, nhà thờ Phủ Cam với đỉnh nhà thờ vươn thẳng lên trời trông vẫn hết sức thanh thoát nhẹ nhàng, mang đầy tính nghệ thuật và tôn giáo.


Sưu tầm

BABY QUEEN
21-07-2009, 03:32 AM
Mình là sinh viên năm 1 ở Huế mà chưa có được đi tham quan nhiều về Huế. Huế có quá nhiều chỗ để du lịch nhỉ? thik wa cơ ! :welcome2:
Vào năm học mới phải tích cực đi tham quan mới được.:drive:
Có ai ở Huế đi cùng mình cho zui.:cooll:
Mà Huế còn nhiều nơi đẹp lắm mà chưa thấy giới thiệu qua : Huyền Không Sơn Thượng , đền Huyền Trân....
Phải ghi tất vào sổ tay mới được. khà khà !

:)
23-07-2009, 01:10 AM
Lăng mộ Đặng Huy Trứ


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/lt/huytru.gif
Tượng Đặng Huy Trứ

Đặng Huy Trứ tự Hoàng Trung, hiệu Vọng Tân, Tỉnh Trai, sinh ngày 16-5-1825. Ông là một nhà yêu nước chống Pháp đứng về phía "chủ chiến" từ những ngày đầu. Đồng thời là một nhà văn, nhà thơ lớn giữa thế kỷ XIX. Lăng Đặng Huy Trứ nay thuộc thôn Hiền Sĩ, xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế.

Đặng Huy Trứ xuất thân từ một dòng họ thi thư truyền thống yêu nước, ông nội là Đặng Quang Tuấn hay chữ, hay thơ, suốt đời chọn con đường dạy học trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh đầy xáo trộn. Bác ruột là Đặng Văn Hoà (Con trai trưởng của Đặng Quang Tuấn) cũng là một nhân vật có danh tiếng đỡ đầu trong khoa thi hương đầu tiên của triều Nguyễn, đã làm quan qua nhiều triều Vua, làm tổng đốc nhiều tỉnh. Nhưng điều đáng chú ý là trong cuộc đời làm quan của mình, ông đã làm được nhiều việc ích nước, lợi dân mà sử sách và đời sau còn ghi công tích: Chăm lo đê điều, mở rộng phố xá ở Hà Nội, tu sửa chùa Một Cột (1938)...Thời thơ ấu, Đặng Huy Trứ sống ở Thanh Lương, Hương Trà, được cha dạy học, sau đó còn được thoe học nhiều thầy có danh tiếng: Nguyễn Ngọc Đình, Trương Quốc Dụng. Đồng thời lại được thừa hưởng một tủ sách gồm hơn 2.000 cuốn của bác Đặng Văn Hòa. Vì thế 15 tuổi Đặng Huy Trứ đã thông kinh sử, đã làm nhiều thơ, nhiều bài còn để lại cho thấy được phần nào chí khí mạnh mẽ, tình thương đối với người nghèo khổ và một tâm hồn thơ phong phú sớm nảy nở ở ông. Năm 18 tuổi (1843) Đặng Huy Trứ đổ cử nhân. Năm 22 tuổi (1847) vào thi hội đổ thứ 7. Thi Đình vì phạm huý nên không được công nhận đổ tiến sĩ và bị cách tuột cả cử nhân cũ. Sao đó ông đi thi hương lại, đổ giải nguyên cùng khoá với Ông Ích Khiêm. Năm 1855 (30 tuổi) ông theo nghề dạy học. Quan điểm giáo dục của ông có những điểm khá mới mẻ, ông chủ trương "Sư hữu tương trưởng" nghĩa là thầy vừa dạy, vừa cùng học, cùng trưởng thành với học trò. Với tâm niệm ấy, người thầy Đặng Huy Trứ đã dạy ở nhiều nơi: Quảng Nam, Quảng Trị, Thừa Thiên... Năm 1856 dưới triều Tự Đức thứ 9, Đặng Huy Trứ bắt đầu cuộc đời làm quan và cũng là lúc bọn xâm lăng của thực dân Pháp đang rập rình cửa ngõ, đất nước nguy nan, dân sinh nghiêng ngã vì lụt lội, đói kém... Có lẽ chính ý thức trách nhiệm với dân, với nước đã thôi thúc ông bước chân vào hoạn trường để gánh vác lấy công việc giúp dân, giúp nước. Đặng Huy Trứ đã làm từ huyện Quảng Xương (Thanh Hoá), Tri phủ Thiên trường (Nam Định) về làm Ngự sử trong kinh, nhận chức Bố chánh Quảng Nam. Vào những năm ấy, tình hình đất nước hết sức bi đát. Thực dân đánh chiếm nhiều nơi: Gia Định, Định Tường, Biên Hoà... giặc giã khắp nơi, bão lụt nặng nề, nhân dân xiêu tán. Trong tình hình đất nước rối bời như canh hẹ, với địa vị "quan mọn" nhưng Đặng Huy Trứ đã làm được những việc không nhỏ: Giữ chức Ngự sử giám sát Đạo tả kỳ, ông đã tham hặc viên hữu Tham tri Bộ Binh...

Tháng 11/1873 giặc Pháp đánh thành Hà Nội, Hà Nội thất thủ, Nguyễn Tri Phương tuẫn tiết. Đặng Huy Trứ lên quan thứ Đồn Vàng, Sơn Hưng Tuyên (Vĩnh Phú) do Hoàng Kế Viêm làm Thống đốc quân vụ để tổ chức căn cứ địa đánh Pháp, nhưng chỉ ít lâu thì ông bị bệnh. Ngày 7/8/1874 (tức ngày 25/6 năm Giáp Tuất) tại xã Cao Dắng, chợ Bến Đồn Vàng Đặng Huy Trứ đã từ trần, thọ 49 tuổi.

Ngày 7/8/1874 Đặng Huy Trứ trút hơi thở cuối cùng tại xã Cao Dắng, chợ Bến, Đồn Vàng (Vĩnh Phú). Với ý nguyện được chôn tại mảnh đất nơi ông và bạn bè đã cùng nhau chiến đấu, nhưng Tự Đức bắt đem thi hài về quê chôn tại Hiền Sĩ, xã Phong Sơn, huyện Phong Điền. Ban đầu mộ ông chỉ được đắp bằng một nắm đất nằm trên khu đồi cao với con sông Bồ uốn khúc ở dưới là tháp, đằng xa là dãy núi Trường Sơn trùng trùng điệp điệp, với một phong cảnh hùng vĩ nên thơ. Lăng được xây theo kiểu hình trứng ngỗng (hình tròn). Bề cao của lăng 0.7m với chất liệu là gạch vồ và xi măng. Hình thức kết cấu của lăng đơn giản như mọi cái lăng khác.

- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin về việc công nhận di tích số 2307/QĐ ngày 30-12-1991.

:)
26-07-2009, 07:18 PM
Có ai biết di tích lịch sử - đình Bàn Môn!?


http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/dulich/diemthamquan/diem%20tham%20quan%20khac/2009/7/200709dungmkl-2-9-9-2.jpg
Trầm mặc và hiu quạnh, đình Bàn Môn - một di tích cấp Quốc gia nhưng ít ai biết đến nó.

Đình Bàn Môn thuộc làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc (TT.Huế), nằm cách QL1A khoảng 2km nhưng khó khăn lắm chúng tôi mới dò được đường vào.


http://www.hue.vnn.vn/dataimages/normal/images10474_DinhBanMon.jpg

Là một di tích cấp Quốc gia do Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng theo quyết định số 168-QĐ/VH ngày 2-3-1990, tuy nhiên nếu du khách muốn tham quan thì phải “lần” theo tấm biển chỉ dẫn đặt ngay ngã 3 đầu làng. Ngoài ra, để tìm đúng lối về thì “đi đến đâu hỏi đến đó”, một người dân trong làng nói với chúng tôi như vậy.

Đình Bàn Môn được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX với phong cách kiến trúc độc đáo, mang dấu ấn của văn hóa làng quê Việt. Đình được dùng vào việc thờ cúng các vị thân khai canh, để bà con trong làng sinh hoạt cộng đồng. Chính do vậy, ngôi đình trở thành một di sản văn hóa lâu đời có giá trị về mặt lịch sử, đình là biểu tượng tinh thần của người dân trong làng. Không những thế, đình Bàn Môn còn như một “nhân chứng” lịch sử chứng nhân biết bao thăng trầm trong lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế. Năm 1930, đình được chọn làm nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản do đồng chí Lê Bá Dị làm Bí thư. Đây cũng là nơi bỏ phiếu bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (6-1-1946).

Giá trị nhiều mặt là vậy, tuy nhiên ngôi đình ít được ai biết đến để trân trọng và gìn giữ. Ngay lối vào đình có tấm biển giới thiệu đã bị hoen gỉ, không rõ chữ. Thêm vào đó là cột đỡ đã bị gãy, được thế vào đó là cột... tre còn một bên “bám tạm” vào thân cây. Tuy có được sửa sang nhưng đó là kiểu tu sửa nửa vời, chính điện thì khang trang còn nhà tăng thì nhếch nhác, tồi tàn, nhiều thân cột rệu rạo. Nếu dạo một mình quanh đình chắc ít ai có đủ can đảm vì cái không khí ảm đạm, cô quạnh bao trùm.



Theo Báo QDND

:)
29-07-2009, 06:56 PM
Sông Hương

Sông Hương bắt nguồn từ dãy Trường Sơn hùng vĩ, hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch hợp lưu nơi ngã ba Tuần (dân gian còn gọi Bảng Lảng). Từ đây sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén, Ngọc Trản, chuyển Tây Bắc, uốn quanh bãi Nguyệt Biều, Lương Quán, xuôi về phía Ðông Bắc, lặng lẽ trôi về Huế trong dư vang của Trường Sơn, đi qua chốn yên giấc ngàn thu của các vua Nguyễn.



http://www.baothainguyen.org.vn/UserFiles/image/song%20huong.jpg
Sông Hương


Dòng sông mềm như tấm lụa, sắc nước xanh thẳm, tiếp tục cuộc hành trình đi qua Cồn Hến và những làng quê yên ả, qua ngã ba Sình mảnh đất thủ phủ Châu Hóa xưa rồi đổ ra phá Tam Giang hòa vào lòng biển cả. Dòng sông trắng - Lá cây xanh, Sông Hương như "thanh kiếm bạc dựng giữa trời xanh".



http://www.vanhoahoc.com/site/images/stories/gocanh_video/VNquetoi/18-SongHuong6-sunset.jpg
Hoàng hôn trên sông Hương


Biết bao tao nhân mặc khách lênh đênh trên quãng sông này với một "phiến trăng sầu" "Hương Giang nhất phiến nguyệt, Kim cổ hứa đa sầu..." Sông Hương quả là món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho Huế. Và nếu bỗng dưng Sông Hương biến mất, thành phố vẫn còn, thì có còn ai buồn nhắc đến Huế nữa không.

Ljnhnghy_It's me
29-07-2009, 10:18 PM
Huế đẹp và thanh bình.đến 2 lần rồi..!

:)
30-07-2009, 07:56 AM
Núi Ngự Bình


Sách "Đại Nam Nhất Thống Chí" của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn viết "Phía Đông bắc Hương Thuỷ, nổi vọt lên ở quãng đất bằng " như hình bức bình phong làm lớp án thứ nhất trước kinh thành, tục gọi là núi Bằng, đời Gia Long đặt cho tên hiện nay (Ngự Bình), đỉnh núi bằng phẳng, khắp nơi trồng thông"



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/e/e0/Nui_Ngu_Binh.jpg
Núi Ngự Bình


Núi Ngự Bình cao 105 m, dáng cân đối uy nghi. Hai bên Bằng Sơn có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Vương triều Nguyễn được thành lập, quyết định xây dựng kinh thành Huế, thấy Bằng Sơn như một bức bình phong án ngữ trước mặt, Gia Long chấp nhận đồ án của các thầy địa lý: chọn núi này làm tiền án của hệ thống phòng thành đồ sộ, kiên cố và đổi tên cho ngọn núi này là Ngự Bình.
Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình là quà tặng vô giá thứ hai của tạo hoá, quyện vào nhau tạo nên vẻ sơn thuỷ hữu tình của Huế. Từ lâu, ngọn núi xinh đẹp này cùng với sông Hương trong xanh đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế. Người ta quen gọi Huế là xứ sở của sông Hương - núi Ngự, miền Hương Ngự cũng vì vậy.



http://www.simplevietnam.com/uploads/Hue/Ngu%20Binh/nui%20ngu.jpg


Từ bao thế hệ, lớp lớp tao nhân mặc khách từng coi đây là chốn thưởng ngoạn thiên nhiên kỳ thú. Vào những ngày đẹp trời, đứng trên đỉnh Ngự Bình, có thể thu vào tầm mắt toàn cảnh thành phố với cung điện nguy nga, mái chùa cổ kính và dòng sông Hương xanh biếc uốn lượn quanh co. Ngay trước tầm mắt là các khu đồi, là rừng thông bát ngát tiếp đến một vùng đồng bằng rộng lớn của các huyện: Hương Thuỷ, Phú Vang, Hương Trà cỏ cây xanh rờn...,xa hơn là dãy Trường Sơn trùng điệp một màu tím thẫm ẩn hiện sau những tầng mây bạc. Nhìn về phía Ðông, dải cát trắng mờ phía xa cửa Thuận An với màu xanh thăm thẳm của biển Ðông...
Cách núi Ngự Bình vài km là đồi Vọng Cảnh, một danh thắng khác của Huế, đứng soi bóng duyên dáng bên dòng sông Hương, nhìn qua núi Ngọc Trản. Từ đồi Vọng Cảnh có thể nhìn thấy những khu vườn cây ăn quả mướt xanh của cau, nhãn, cam, quýt, thanh trà,...chen lẫn bóng thông, những mái nhà ngói xám của đền chùa, lăng tẩm cổ kính, trầm mặc....Sông Hương như một dải lụa mềm uốn quanh dưới chân đồi...Du khách có dịp đến đây vào buổi bình minh sương tan hay lúc hoàng hôn, mới hiểu hết và thấm thía vẻ đẹp nên thơ, nên hoạ của một ngọn đồi, một khúc sông, một góc trời xứ Huế.[/CENTER]

Du Mục
30-07-2009, 11:16 AM
mặc dù ở Huế chừng 2 tiếng thôi, nhưng vẫn kịp chộp lại mấy tấm :cr:

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6005.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF5997.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF5991.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6029.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6051.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6108.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6093.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6121.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6139.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6102.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6100.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6072.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6096.jpg

xích lô tím, iu thế!!!

haizzz.... cho hình đồ ăn dzô có lạc đề hok ta, nhưng tự dưng mình thèm cơm hến quá

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6084.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6092.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6090.jpg

http://img.photobucket.com/albums/v469/hienvy084/DSCF6053.jpg

tiếc là chỉ có nửa tiếng nên mình ăn dc có nhiu đây thôi hà :cr:

:)
30-07-2009, 07:41 PM
Úi, chộp cả Đông Ba market nữa hả chị :haha:.
Nửa tiếng mà ăn được chừng đó mà nhiều quá xá là nhiều rồi còn gì :cr:.
Ăn bánh bèo thế không ăn bánh nậm & bánh lọc hả chị :D.

Đồi Vọng Cảnh


Đồi vọng cảnh Nằm ven sông Hương, chỉ cách lăng Tự Ðức và Ðồng khánh chừng 600m, cách trung tâm Thành phố khoảng 7km, không xinh đẹp và nổi tiếng như núi Ngự bình.



http://www.2nmart.com/admin/upload/doanhnghiep/54TC003Doi%20vong%20canh%201.jpg
Đồi Vọng Cảnh


Nhưng đúng như tên gọi, đứng trên đồi Vọng cảnh, du khách có thể bao quát bức tranh phong cảnh thiên nhiên bao la kỳ thú của xứ Huế.



http://www.hue.vnn.vn/dataimages/original/images145633_vongcanh.jpg
Hoàng hôn từ đồi Vọng Cảnh

Doode
30-07-2009, 10:07 PM
Thích nhìn mấy canh nhà - chùa - hoặc cung điện cổ xưa, có dịp sẽ du lịch Huế 1 chuyến, mà không biết chờ đến khi nào :D

Cát
30-07-2009, 10:15 PM
Huế không chỉ cổ kính mà nhìn cũng thơ mộng dữ nhỉ :timup: Không biết bao giờ mới có dịp ghé qua đây

Mắt_lưu_ly
30-07-2009, 10:25 PM
chưa đến Huế bao giờ, nhưng tự dưng xem xong lại mún đến Huế ghê

Du Mục
31-07-2009, 05:07 AM
Úi, chộp cả Đông Ba market nữa hả chị :haha:.
Nửa tiếng mà ăn được chừng đó mà nhiều quá xá là nhiều rồi còn gì :cr:.
Ăn bánh bèo thế không ăn bánh nậm & bánh lọc hả chị :D.


vì ko có thời gian nên chị chỉ chạy ngang qua chợ Đông Ba và chùa Thiên Mụ chộp lại mấy tấm thui chứ chưa dc vô trong đó nữa
lúc đó là buổi trưa người ta chỉ bán có bánh bèo thôi ah :( ko dc vét sạch con heo đất của lão Haff tiếc ghê cơ :so_funny: thôi để dành lần sau
ah mà lần sau ra nhất định phải bắt cả bé Lúm đập heo :so_funny:

Vansunhuy
31-07-2009, 07:49 AM
Mới đi Huế tuần trước
Đi huế thì nên ghé qua 2 chỗ

Quán Bún ông vọng ( góc đường nguyễn Du với chi lăng ) : Quán này không có biển hiệu, không sang trọng gì hết nhẹ Nhưng chất lượng thì khỏi bàn.. mình ghét ăn bún vậy mà cũng làm 1 lúc 2 tô. ngon kinh khủng

cà phê: Vĩ dạ xưa + Nam giao hoài cổ : cả SG tìm không ra một nơi nào ấn tượng như 2 quán đó.. cảm nhận đầu tiên là đỉnh

:)
01-08-2009, 08:27 PM
vì ko có thời gian nên chị chỉ chạy ngang qua chợ Đông Ba và chùa Thiên Mụ chộp lại mấy tấm thui chứ chưa dc vô trong đó nữa
lúc đó là buổi trưa người ta chỉ bán có bánh bèo thôi ah :( ko dc vét sạch con heo đất của lão Haff tiếc ghê cơ :so_funny: thôi để dành lần sau
ah mà lần sau ra nhất định phải bắt cả bé Lúm đập heo :so_funny:

Chị qua mấy quán bánh bèo - nậm - lọc bên đường Nguyễn Huệ, gần Cung An Định á, người ta bán cả ngày :sr:.
Em không bỏ heo đất chị ơi, em toàn bỏ heo sắt à, sao đập được :so_funny:.


Mới đi Huế tuần trước
Đi huế thì nên ghé qua 2 chỗ

Quán Bún ông vọng ( góc đường nguyễn Du với chi lăng ) : Quán này không có biển hiệu, không sang trọng gì hết nhẹ Nhưng chất lượng thì khỏi bàn.. mình ghét ăn bún vậy mà cũng làm 1 lúc 2 tô. ngon kinh khủng

cà phê: Vĩ dạ xưa + Nam giao hoài cổ : cả SG tìm không ra một nơi nào ấn tượng như 2 quán đó.. cảm nhận đầu tiên là đỉnh

Đa phần quán bún ở Huế đều rất bình dân, không dựng biển hiệu vì toàn là phục vụ dân ở Huế ăn :sr:. Cũng có mấy quán phục vụ khách du lịch, mặc dù có tiếng tăm thật nhưng thực chất bún ở mấy chỗ đó không ngon và lại đắt nữa :D.
Thế ấy đã lên Nam Châu hội quán chưa, trên đó cũng tốt :cr:.

Vườn Quốc gia Bạch Mã


Cách Cố Đô Huế 50km về phía nam, vườn quốc gia Bạch Mã với độ cao 1.450m so với mặt nước biển, sừng sững in bóng mình vào trời xanh. Đây là địa điểm du lịch khá lý thú để du khách có thể mang balô, sau bao ngày bộn bề công việc


http://i199.photobucket.com/albums/aa81/nvthieu/Picture030.jpg
Núi Bạch Mã


Thời gian tốt nhất để du khách đến thưởng ngoạn Bạch Mã là mùa hạ và đầu thu. Không khí se se lạnh sẽ làm dịu dàng những bước chân để chúng ta chinh phục hết vẻ đẹp của những địa điểm như địa đạo, sân bay, Vọng hải đài, ngũ hồ, thác Đỗ Quyên...


http://www.go2vietnam.eu/images/Image/article/BM_summit.jpg
Một góc tại vườn quốc gia Bạch Mã


http://3.bp.blogspot.com/_SvrvbFHRZdA/SJ4jbnHkUWI/AAAAAAAABp0/KtEkXFJPz24/s400/bm+(21).jpg

http://dulichvietnam.asia/vn/images/aaaaaaaaaa.jpg
Thác Đỗ Quyên


Ở đây thắng cảnh và di tích hòa quyện vào nhau tạo cho Bạch Mã một địa điểm du lịch có nét duyên riêng. Chinh phục Bạch Mã, du khách có thể liên hệ các tour du lịch từ các tỉnh, hoặc ở dưới chân núi cách đỉnh 15km sẽ có xe của vườn đưa đón. Giá cả hợp túi tiền (đặc biệt, ở đây không được chinh phục Bạch Mã bằng môtô).

Đến với vườn quốc gia Bạch Mã, du khách sẽ thấy những thảm mây mang hình những chú ngựa trắng (nên gọi là Bạch Mã) luôn song hành cùng chúng ta, tạo nên một cảm giác như đang sống ở chốn tiên bồng. Thả bước dưới rừng nguyên sinh, tựa mình vào cội cây già, chúng ta như được sống trong vòng tay của người mẹ thiên nhiên.

Nhìn những cây cổ thụ, thân cây to đến 3-4 vòng tay ôm, chúng ta càng thấm thía hơn công lao của một đời người đời cây. Nơi đây có khách sạn, nhà hàng, quán bar nằm trên đỉnh núi, ngày xưa là biệt thự nghỉ mát của người Pháp và vua Bảo Đại, nay được xây dựng lại theo khuôn mẫu cũ rất khang trang. Đó là nơi nghỉ lưng tốt nhất để du khách yên tâm thong dong thu hết vẻ đẹp Bạch Mã vào lòng.

Tất cả mở ra khi chúng ta đặt chân đến Hải vọng đài. Thả mắt xuống khắp nơi, ta sẽ thấy “Đường vô xứ Huế quanh quanh/ Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”. Một phá Tam Giang no tròn mùa hải sản. Hay hồ Truồi uy nghi bên Thiền viện Trúc Lâm - bầu sữa tươi mát cho vườn Truồi “mít ngọt dâu thơm”...

Vườn quốc gia Bạch Mã có rất nhiều cây gỗ quí hiếm được người Pháp đem qua trồng. Rừng núi nên đường đi có nhiều dốc võng, thế nhưng du khách không hề thấy mệt mỏi mà ngược lại trên môi luôn nở nụ cười. Bởi ở đây có hướng dẫn viên rất tài hoa biết “nói tiếng loài vật”. Anh có thể gọi sao la hoặc hơn mười loài chim về bên chúng ta. Mỗi loài một giọng hót khác nhau, đồng thanh hòa tấu lên những bản nhạc núi rừng líu lo trìu mến. Đêm đến, mọi du khách ở đây không phân biệt lạ quen, màu da, tiếng nói, chỉ biết là đang cùng chung sống dưới mái nhà nguyên sinh Bạch Mã. Và cứ thế họ cùng nhâm nhi trà, rượu, hát cho nhau nghe hoặc thả hồn lắng đọng trong màn đêm Bạch Mã.

Trước khi rời Bạch Mã, điểm cuối cùng mà mọi du khách không thể bỏ qua là thác Đỗ Quyên. Bởi đây là nguồn cảm xúc thăng hoa của du khách đối với Bạch Mã. Để được chiêm ngưỡng thác Đỗ Quyên trọn vẹn, du khách phải đi xuống 689 bậc đá. Thác Đỗ Quyên là dải lụa trắng, là món quà mà Bạch Mã sẽ quàng mãi trong trí nhớ của mọi người đến đây.

:)
07-08-2009, 12:19 AM
Bãi biển Lăng Cô


Nếu ai đã một lần đến Huế cố đô, miền đất mộng mơ với tà áo dài tím, với nhịp cầu Tràng Tiền, sông Hương Bến Ngự, và với những bãi biển thoải dài mang vẻ đẹp hiền hoà thơ mộng thì không thể không ghé thăm bãi biển Lăng Cô, bãi biển được mệnh danh là "người đẹp làng chài".



http://www.baocongthuong.com.vn/Modules/CMS/Uploads/Users/17/2009_6_5/XC2DJTXM5W_bai%20bien.jpg
Bãi biển Lăng Cô


Nhiều du khách khi tới Huế, được đắm mình trong khung cảnh ở Lăng Cô đã nói rằng "Lăng Cô đẹp hơn tranh thủy mặc", và không có gì "quá lời" vì đây là thực tế.

Nơi đây không những mang dấu ấn của 13 đời vua triều Nguyễn, của những di tích lăng tẩm được xem như di sản văn hoá thế giới, của những làn điệu dân ca, của nhã nhạc cung đình Huế được công nhận là di sản văn hoá phi vật thế giới, mà nơi đây còn có những bờ biển và bãi tắm đẹp nổi tiếng nhất Việt Nam.



http://khamphahue.com.vn/Upload/LangCo_02.jpg


Dọc theo chiều dài đất nước, bãi biển Lăng Cô là một danh lam thắng cảnh thiên nhiên của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã từ lâu, nó đã nổi tiếng là một bãi biển có các điều kiện tự nhiên và phong cảnh vào loại đẹp nhất ở Việt Nam. Với bãi cát trắng dài tới hơn 10km, làn n­ước biển trong xanh bao la tuyệt đẹp, bên cạnh những cánh rừng nhiệt đới rộng lớn trên các dãy núi nhấp nhô, đầm Lập An huyền bí cũng góp phần tô điểm thêm cho vẻ đẹp của Lăng Cô.
Bãi tắm Lăng Cô dài khoảng 8km, nằm dọc Quốc lộ 1A, cạnh đèo Hải Vân và cách Vườn Quốc gia Bạch Mã 24km. Ðây là một bãi tắm có bờ biển thoải, cát trắng, sóng vừa và lớn, rất thích hợp cho loại hình du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng, lặn biển, và đã được xác định là một khu nghỉ mát lý tưởng từ mấy chục năm nay.



http://khamphahue.com.vn/Upload/LangCo_03.jpg


Khác với biển Thuận An "ồn ào, quyến rũ", Lăng Cô lại là một vùng biển hiền hòa, nguyên sơ với một dải cát trắng mịn, mặt nước biển xanh trong. Nơi đây còn có rừng nhiệt đới rộng lớn, xa xa là những dãy núi nhấp nhô đầy vẻ hoang sơ và bí ẩn.

Nằm liền kề bãi tắm Lăng Cô là núi Hải Vân - Hải Vân Quan, một thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam. Dọc theo chân núi Hải Vân, biển Lăng Cô có dải san hô, tôm hùm và nhiều loại hải sản có giá trị cao. Trong khu vực đó còn có hòn Sơn Trà, tại đây còn bảo tồn nhiều loại động, thực vật hoang dã. Phía sau bãi tắm là đầm Lập An và dãy núi Bạch Mã. Tất cả những yếu tố đó mang lại cho Lăng Cô tiềm năng to lớn về phát triển nhiều loại hình du lịch như: nghỉ mát, lặn biển, tìm hiểu hệ động - thực vật hoang dã.
Từ Lăng Cô, vào những ngày đẹp trời, du khách có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng cảnh quan khu vườn quốc gia Bạch Mã. Trên tuyến quốc lộ 1 từ Huế vào Đà Nẵng, cách Huế khoảng 60km, nằm giữa mũi Chân Mây Tây và Chân Mây Đông còn có bãi tắm và khu nghỉ mát lý tưởng mang tên Cảnh Dương.

Kế bên bãi biển Lăng Cô là một Chân Mây với làn nước yên ả, bãi tắm rộng, bằng phẳng hòa hợp cùng làn nước biển trong xanh và âm thanh reo ca của rừng dương nằm sát bãi tắm.
Người ta nói rằng xưa kia Lăng Cô là một làng chài phủ có nhiều cò trắng bay về tụ hội sinh sống. Khi người Pháp tới xâm lược và chế ngự Thừa Thiên Huế, lúc ghi địa danh lên bản đồ, người Pháp ghi tiếng Việt là "Làng Cò" nhưng không bỏ dấu, thành ra là "Lang Co", lại đọc lên với giọng cứng ngắt, nghe như "Lang Cô", từ đó phát sinh tên Lăng Cô với giọng nặng người Thừa Thiên. Cũng chính vì thế mà Lăng Cô ngày nay được mệnh danh là "người đẹp làng chài". Bởi Lăng Cô nằm giáp danh giữa Huế và Đà Nẵng, nên nếu lên đỉnh đèo Hải Vân, ngắm nhìn xa xa, du khách sẽ nhận ra làng chài và bãi tắm Lăng Cô đẹp như một bức tranh thủy mặc hay du khách còn có thể thấy được toàn cảnh thành phố Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà. Tại đỉnh đèo du khách không chỉ cảm nhận được không khí trong lành của vùng cao mà còn được thưởng thức nhiều món ăn dân dã mà chỉ nơi đây mới có.

Để khai thác hiệu quả những bãi tắm này, trong những năm gần đây có nhiều dự án đã và đang được triển khai như dự án hệ thống đường của khu du lịch Lăng Cô, đường phía tây đầm Lập An, dự án đường nối cảng Chân Mây đến cửa Tư Hiền và đường xuống Bãi Cả, dự án phát triển khu du lịch Sơn Trà-Hải Vân,...

Và không lâu nữa, Lăng Cô không những sẽ nổi tiếng bởi vẻ đẹp trữ tình thơ mộng mà còn "quyến rũ" du khách bởi nhiều dịch vụ du lịch hấp dẫn khác.

*:Ngây_Thơ:*
07-08-2009, 12:23 AM
huế đẹp quá :tim: :tim:

năm sau về chắc chắn về đi huế :tim:

:)
09-08-2009, 08:39 PM
Phong Điền - Điểm hẹn cho du lịch sinh thái


http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/dulich/diemthamquan/sinhthaidangoai/2009/8/phongdien.jpg
Suối nước ở Khu BTTN Phong Điền. (Ảnh: Khu BTTN Phong Điền)

Nằm sâu ở vùng rừng phía Tây Thừa Thiên Huế, Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền như một cô gái ngủ quên trong rừng, với vẻ đẹp hoang sơ và chất chứa nhiều giá trị tài nguyên sinh thái, môi trường cùng với những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây.

Được thành lập từ năm 2002, với diện tích 41.433ha, thuộc địa bàn hai huyện Phong Điền và A Lưới, giáp ranh với khu bảo tồn Đakrong (Quảng Trị), Phong Điền là một trong số những khu bảo tồn có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái. Tuy nhiên, cũng không ít những thách thức sẽ đặt ra cho Phong Điến trong công tác quản lý, bảo tồn thiên nhiên nhiên nơi đây.

Phong Điền là nơi ẩn chứa bao nhiều điều kì thú,hấp dẫn du khách và các nhà nghiên cứu bởi sự phong phú và độc đáo của các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Khu bảo tồn thuộc vùng núi thấp miền Trung Việt Nam nằm ở phía đông bắc của bán đảo Đông Dương nên hệ sinh thái tự nhiên nơi đây chứa nhiều giá trị về đa dạng sinh học. Những phát hiện kỳ thú về các loài động, thực vật quý hiếm đã được ghi nhận tại đây.

Năm 1924, khi nhà tự nhiên học người Pháp – Cean dela Coul phát hiện ở vùng rừng phía Tây huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế một cặp gà lôi lam mào trắng và đưa về nuôi tại Pháp, từ đó về sau giới chuyên môn về chim trên thế giới cho rằng gà lôi lam mào trắng đã tuyệt chủng tại Việt Nam. Cho đến 72 năm sau, gà lôi lam mào trắng mới xuất hiện trở lại tại vùng rừng phía Tây huyện Phong Điền. Đây cũng là vùng duy nhất trên thế gới có gà lôi lam mào trắng sinh sống.

Nhiều loài chim quý khác cũng được phát hiện ở đây như gà so Trung bộ, gà so ngực gụ, trĩ sao... Từ những phát hiện mới trên cùng với công tác nghiên cứu vùng rừng đặc hữu, các nhà điểu học trên thế giới xác định đây là vùng chim quan trọng của thế giới. . Bên cạnh đó nhiều loài thú quý hiếm cũng liên tục được phát hiện tại khu bảo tồn này như: Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis), Hổ (Panthera tigris), Báo gấm (Pardofelis nebulosa), Gấu ngựa (Ursus thibetanus), Vượn đen má hung (Hylobates gabriellae),...

Trong số các loài thú ghi nhận được có hai loài lần đầu tiên ghi nhận cho khu vực Phong Điền là Sao la và Mang lớn. Hai loài này là hai loài thú lớn hiện tại chỉ được biết từ Việt Nam và Lào. Kết quả khảo sát đã ghi nhận tại đây có 44 loài Thú, trong 7 bộ và 20 họ trong tổng số loài thú có 19 loài được ghi trong sách đỏ (IUCN,1996) chiếm 43% và 16 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam (Anon, 1992) chiếm 34%.

Thành phần loài bò sát - ếch nhái ở Phong Điền cũng phong phú so với toàn khu Bắc Trường Sơn. Kết quả khảo sát đã ghi nhận có 34 loài Bò sát và 19 loài ếch nhái. Trong đó, có 20 loài nằm trong sách đỏ của IUCN và Việt Nam.

Bên cạnh đó, các loài chim ở đây cũng khá đa dạng với 172 loài. Nhiều loài trong đó nằm trong danh sách bị đe dọa toàn cầu, với 3 loài đặc hữu cho Việt Nam.

Với thế mạnh về tài nguyên cùng với nhiều thắng cảnh tự nhiên và những nét văn hóa của đồng bào dân tooch thiểu số sống ở vùng đệm, Khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Phong Điền hoàn toàn có tiềm năng và lợi thế để phát triển du lịch sinh thái.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, việc khai thác du lịch ở đây chưa đúng mức. Vì vậy, để khai thác thành công du lịch sinh thái tại Khu BTTN Phong Điền cần ưu tiên cho việc phát triển đa dạng, có chất lượng các sản phẩm du lịch sinh thái và khai thác tối ưu các tài nguyên du lịch trong khu bảo tồn, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường nhưng không nằm ngoài mục đích bảo tồn.

Thiên nhiên đã ưu đãi cho Phong Điền những vẻ đẹp kì thú, những loài động thực vật đa dạng, và nhiều nét văn hóa của cộng đồng dân tộc. Đó là những thế mạnh để phát triển du lịch sinh thái.Nếu được quan tâm, quản lý đúng mức thì Phong Điền sẽ là điểm hứa hẹn khám phá nhiều điều kì thú đối với du khách qua đó sẽ nâng cao chất lượng sống của người dân trong vùng đồng thời bảo tồn được tính đa dạng sinh học của khu vực Trung Trường sơn nói chung và Khu BTTN Phong Điền nói riêng.



Theo Báo Thanh Niên

:)
12-08-2009, 01:25 AM
Lầu Tàng Thơ



http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/dtq/lau%20tang%20tho.jpg
Lầu Tàng Thơ

Lầu tàng thơ là một trong những kho lưu trữ tài liệu mang tính quốc gia của triều đình Nguyễn tại Huế. Theo sách Ðại Nam Thực Lục và Ðại Nam Nhất Thống Chí cho biết, Lầu Tàng Thơ được xây dựng vào mùa hè năm 1825.

Toà nhà được xây dựng bằng gạch, đá, tầng dưới 11 gian, tầng trên 7 gian , 2 chái trên hòn đảo hình chữ nhật giữa hồ Học Hải, cạnh hồ Tịnh Tâm. Ðảo nằm giữa hồ nước chỉ nối với đất liền bằng một chiếc cầu đá. Không gian thoáng đãng và đẹp đẽ.

Lầu Tàng Thơ gồm có 2 tầng , tầng dưới 11 gian, tầng trên 7 gian 2 chái, mặt trước quay về hướng tây đối diện với hồ Tỉnh Tâm , bên trái là Mang Cá , bên phải hướng ra cửa Thượng Tứ còn gọi là cửa Chính Đông , sau lưng là Lương Y , nó tọa lạc cách biệt trên một đảo nhỏ hình chử nhật với diện tích khoảng non 5 sào nằm giữa ao Ngọc Hải , chung quanh có tường gạch bao bọc cao 2m , chính diện có một cổng tam quan đi vào nối liền với một con đường lát gạch dài khoảng 50m , bên trái của Lầu Tàng Thơ có một đảo nhỏ khác , trên đó có một kiến trúc khác nối liền bởi một cây cầu gổ , nay thì kiến trúc này bị phá hủy người ta đã xây lên đó một ngôi chùa vảo khoảng thâp niên 1960.

Ðể xây dựng công trình này, triều đình Huế đã điều 1000 binh lính, giao cho Thượng thống chế Ðoàn Ðức Nhuận điều khiển công việc thi công. Sau khi xây dựng xong, nhà vua đã lệnh cho các quan chuyên trách kiểm kê, lựa sổ sách, chọn ngày lành, chuyển đến tầng trên của toà nhà tàng trữ tại đây...

Theo tài liệu thời Nguyễn thì tất cả sổ sách của 6 bộ và các nha tại kinh đô sau mỗi năm đưa đến đây để lưu giữ. Sổ sách của bộ Hộ, chỉ riêng sổ điền bạ thời Gia Long và Minh Mạng ở đây đã lưu giữ được 12.000 tập. Ðây quả là kho tư liệu quý giá, giống như cục lưu trữ.


Theo di tích lịch sử - văn hoá và danh thắng Huế

:)
14-08-2009, 12:42 AM
Làng rèn Hiền lương


http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/dulich/diemthamquan/diemthamquankhac/65968227_hgjtibmv_ren.jpg

Hiền Lương là một làng cổ hình thành từ giữa thế kỷ XV, dưới thời Hậu Lê, nay thuộc xã Phong Hiền, huyện Phong Điền, ở bờ Bắc trung lưu sông Bồ. Nơi đây dân làng vốn thành thạo nghề rèn truyền thống, một nghề quan trọng chuyên sản xuất các loại nông cụ rèn từ sắt như cày, cuốc, liễn, hái, dao, rựa, phăng, mỏ xay…

Ngược về quá khứ, ngoài nghề rèn nông cụ, vào cuối thời chúa Nguyễn bước qua thời Tây Sơn và triều Nguyễn, với tay nghề rèn khéo léo, các dân đinh làng thường được tuyển mộ, trưng tập vào Dã Tượng cuộc (một tổ chức thợ rèn nhà nước chuyên chế tác vũ khí, vật dụng của phủ chúa, vương triều). Một số người xuất sắc đã trở thành những vị quan quản lý, đốc công ở tổ chức này hay ở sở vũ khố của bộ Công (sở sản xuất binh khí và vật dụng) như các ông Hoàng Văn Gia, Hoàng Văn Cẩn, Hoàng Văn Lịch. Đặc biệt ông Hoàng Văn Lịch, giữ chức Đốc công sở vũ khí tại Kinh thành Huế, vào năm 1838 đã tổ chức đóng thành công chiếc tàu thủy với cỗ máy hơi nước tái tạo từ bộ máy và chiếc tàu thủymua của Tây phương đã bị hỏng. Hai năm sau, lại đóng thành công 2 chiếc tàu thủy lớn hơn, được vua Minh Mạng ban thưởng. Điều đó khẳng định tay nghề xuất sắc của các hiệp thợ rèn Hiền Lương, và hướng phát triển mới của nghề này.

Do nhu cầu phát triển nghề nghiệp, cư dân làng tỏa đi sinh sống, làm nghề khắp các làng xã ở Thừa Thiên Huế, và đặc biệt là khắp các thị xã, thị trấn từ Quảng Trị vào Nam. Một số ít vẫn giữ nghề rèn nông cụ, và đa số đã mở rộng, chuyển đổi nghề nghiệp thích ứng với nhu cầu mới của xã hội, như các nghề cơ khí, sửa chữa ô tô, nghề kim khí như làm đinh, khóa, lề, làm cửa sắt, cửa nhôm…Ngay tại Huế, cư dân làng còn tập trung thành một xóm nghề rèn, nghề sắt tại làng Bao Vinh, xã Hương Vinh.

Dẫu lập nghiệp nơi đâu, hằng năm vào ngày 18 tháng 2 âm lịch, dân nghề rèn Hiền Lương vẫn trở về, nô nức tập trung làm lễ tế tổ sư và tiên sư của nghề tại làng cũ


Theo Báo Cinet

saobuon***?
15-08-2009, 11:57 AM
nhìn huế cổ kính và đẹp wá :D ước chi đc đến đấy 1 lần ...

:)
17-08-2009, 07:09 PM
Chùa Huyền Không Sơn Thượng bên đồi suối chảy thông reo

http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/chua/huyen%20ko.jpgMột chiều đẹp trời, từ bờ nam của đất cố đô, bạn vòng qua cầu Tràng Tiền, dọc theo con đường rợp bóng phượng vĩ ngược lên vùng ngoại ô Kim Long, đi ngang chùa Thiên Mụ rồi vòng qua ngôi làng bình dị với thông reo vi vu, theo con đường đất gập ghềnh sẽ dẫn đến núi Chằm, nơi có ngôi chùa nhỏ nằm ở lưng chừng núi với vẻ đẹp kỳ lạ, huyền ảo - đó là chùa Huyền Không Sơn Thượng.

Con đường lên chùa Huyền Không Sơn Thượng cách đây vài năm vẫn còn hiu quạnh, nhưng rừng đi mãi cũng thành đường dẫu còn gập ghềnh trắc trở. Dưới chân núi cao 309m so với mực nước biển, là cả một rừng thông hàng vạn cây nên gọi là vạn tùng sơn. Đây là một vùng rừng gần 56 hécta do Nhà nước giao cho nhà chùa từ năm 1989. Trung tâm sơn lũng mở ra tả thanh long là một triền đồi thoai thoải, hữu bạch hổ là một dãy núi cao liền với khối núi mẹ cây cối mọc um tùm. Hướng tây nam có một mỏm núi với cây cổ thụ mọc cheo leo trên đá gọi là độc thụ sơn. Lên thăm Huyền Không Sơn Thượng nơi lưng chừng non xanh chưa phải là xa cố đô nhưng vẻ đẹp hoang sơ của ngôi chùa đã níu chân nhiều du khách mỗi lần ghé Huế. Từ cổng chùa bạn đã bị thu hút bởi một tảng đá lớn trên đó khắc những dòng thư pháp bay bổng. Bước vào khuôn viên, du khách có cảm giác như lạc vào chốn bồng lai. Không gian thiên nhiên được bàn tay con người chăm chút, tạo dáng nên ẩn trong sự hoang dã là nét tinh tế của kiến trúc sân vườn Huế. Nhiều loài hoa và thảo mộc quý được đưa về trồng trong vườn chùa tỏa hương thơm phảng phất xa gần. Những giò phong lan treo lủng lẳng, những cội mai già, những gốc tùng, bách bên thảm cỏ rêu phong khoe vẻ đẹp tao nhã. Dưới gốc cây cổ thụ là bức tượng đá mang dáng vẻ ưu tư của thiền sư trong bóng núi mây ngàn. Những am cốc ẩn cư nằm rải rác sâu trong rừng thông hay quanh quẩn bên sườn núi tạo ra một quần thể kiến trúc tuyệt đẹp. Phật điện bằng gỗ thanh thoát, mộc mạc trên nền xanh hùng vĩ của núi rừng, tuy khiêm nhường về tầm vóc song lại gần gũi với nhân gian, tạo nét thanh thoát giữa chốn hồng trần.


http://www.khamphahue.com.vn/Upload/small_P9200013_KhamphaHue_boho.JPG

http://www.khamphahue.com.vn/Upload/small_DSC05230_KhamphaHue_hohoasung.JPG

http://www.khamphahue.com.vn/Upload/small_DSC05289KhamphaHue_hoalan.JPG


Du khách đến chùa Huyền Không Sơn Thượng là được thưởng thức những bài thơ tuyệt tác. Với nét thư pháp bay bổng tài hoa, những bài thơ được các nhà sư sáng tác, thơ của bằng hữu xướng họa hay của du khách tức cảnh sinh tình khi ghé thăm được chép trang trọng bằng mực tàu giấy trắng treo trên vách các am cốc. Thả bước trên thảm lá mục theo thời gian, lắng nghe trong không gian hương thơm trinh bạch của đóa sen, tiếng gió vi vu qua rừng thông như tiếng đàn tranh vọng lại từ xa xưa là những gì mà du khách được thưởng thức khi đến thăm chùa Huyền Không Sơn Thượng. Ở đây, giữa đất trời bao la, con người như được trải lòng mình ra với thiên nhiên phiêu bồng và sống thật với mình nhất.


Theo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh

hoangtuvancodon
19-08-2009, 11:09 AM
Huế mình tôi đi khá nhiều lần, Những danh lam thắng cảnh ở Huế gần như là biết hết, những cảm nhận ở Huế mỗi lần đến thật đẹp, thật hồi hộp và ngỡ ngàng, Sông Hương vẫn còn đó những áng thơ hay, cầu Trường Tiền vẫn làm người nhớ đến những câu thơ, rồi xa xa Hàm Mạc Tử vẫn phảng phất đâu đó trong Thôn Vĩ Dạ:). Tôi đã từng lang thang bên Đại Nội hàng giờ, ngắm những con thuyền trôi trên sông Hương từ chùa Thiên Mụ, rồi đắm mình trong hồ sen...... Huế trong tôi không biết bao nhiêu cảm súc

Xê Kô
19-08-2009, 09:01 PM
ôi dời cái chùa Thiên Mụ ở Huế là vô địch đấy, đôi nào đi vào nhẹ là cãi nhau , trung bình là chia tay, nặng là dao kéo vs axit :so_funny:

nhõ_péo
22-08-2009, 02:51 AM
Bãi biển Lăng Cô


Nếu ai đã một lần đến Huế cố đô, miền đất mộng mơ với tà áo dài tím, với nhịp cầu Tràng Tiền, sông Hương Bến Ngự, và với những bãi biển thoải dài mang vẻ đẹp hiền hoà thơ mộng thì không thể không ghé thăm bãi biển Lăng Cô, bãi biển được mệnh danh là "người đẹp làng chài".



http://www.baocongthuong.com.vn/Modules/CMS/Uploads/Users/17/2009_6_5/XC2DJTXM5W_bai%20bien.jpg
Bãi biển Lăng Cô


Nhiều du khách khi tới Huế, được đắm mình trong khung cảnh ở Lăng Cô đã nói rằng "Lăng Cô đẹp hơn tranh thủy mặc", và không có gì "quá lời" vì đây là thực tế.

Nơi đây không những mang dấu ấn của 13 đời vua triều Nguyễn, của những di tích lăng tẩm được xem như di sản văn hoá thế giới, của những làn điệu dân ca, của nhã nhạc cung đình Huế được công nhận là di sản văn hoá phi vật thế giới, mà nơi đây còn có những bờ biển và bãi tắm đẹp nổi tiếng nhất Việt Nam.



http://khamphahue.com.vn/Upload/LangCo_02.jpg


Dọc theo chiều dài đất nước, bãi biển Lăng Cô là một danh lam thắng cảnh thiên nhiên của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã từ lâu, nó đã nổi tiếng là một bãi biển có các điều kiện tự nhiên và phong cảnh vào loại đẹp nhất ở Việt Nam. Với bãi cát trắng dài tới hơn 10km, làn n­ước biển trong xanh bao la tuyệt đẹp, bên cạnh những cánh rừng nhiệt đới rộng lớn trên các dãy núi nhấp nhô, đầm Lập An huyền bí cũng góp phần tô điểm thêm cho vẻ đẹp của Lăng Cô.
Bãi tắm Lăng Cô dài khoảng 8km, nằm dọc Quốc lộ 1A, cạnh đèo Hải Vân và cách Vườn Quốc gia Bạch Mã 24km. Ðây là một bãi tắm có bờ biển thoải, cát trắng, sóng vừa và lớn, rất thích hợp cho loại hình du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng, lặn biển, và đã được xác định là một khu nghỉ mát lý tưởng từ mấy chục năm nay.



http://khamphahue.com.vn/Upload/LangCo_03.jpg


Khác với biển Thuận An "ồn ào, quyến rũ", Lăng Cô lại là một vùng biển hiền hòa, nguyên sơ với một dải cát trắng mịn, mặt nước biển xanh trong. Nơi đây còn có rừng nhiệt đới rộng lớn, xa xa là những dãy núi nhấp nhô đầy vẻ hoang sơ và bí ẩn.

Nằm liền kề bãi tắm Lăng Cô là núi Hải Vân - Hải Vân Quan, một thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam. Dọc theo chân núi Hải Vân, biển Lăng Cô có dải san hô, tôm hùm và nhiều loại hải sản có giá trị cao. Trong khu vực đó còn có hòn Sơn Trà, tại đây còn bảo tồn nhiều loại động, thực vật hoang dã. Phía sau bãi tắm là đầm Lập An và dãy núi Bạch Mã. Tất cả những yếu tố đó mang lại cho Lăng Cô tiềm năng to lớn về phát triển nhiều loại hình du lịch như: nghỉ mát, lặn biển, tìm hiểu hệ động - thực vật hoang dã.
Từ Lăng Cô, vào những ngày đẹp trời, du khách có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng cảnh quan khu vườn quốc gia Bạch Mã. Trên tuyến quốc lộ 1 từ Huế vào Đà Nẵng, cách Huế khoảng 60km, nằm giữa mũi Chân Mây Tây và Chân Mây Đông còn có bãi tắm và khu nghỉ mát lý tưởng mang tên Cảnh Dương.

Kế bên bãi biển Lăng Cô là một Chân Mây với làn nước yên ả, bãi tắm rộng, bằng phẳng hòa hợp cùng làn nước biển trong xanh và âm thanh reo ca của rừng dương nằm sát bãi tắm.
Người ta nói rằng xưa kia Lăng Cô là một làng chài phủ có nhiều cò trắng bay về tụ hội sinh sống. Khi người Pháp tới xâm lược và chế ngự Thừa Thiên Huế, lúc ghi địa danh lên bản đồ, người Pháp ghi tiếng Việt là "Làng Cò" nhưng không bỏ dấu, thành ra là "Lang Co", lại đọc lên với giọng cứng ngắt, nghe như "Lang Cô", từ đó phát sinh tên Lăng Cô với giọng nặng người Thừa Thiên. Cũng chính vì thế mà Lăng Cô ngày nay được mệnh danh là "người đẹp làng chài". Bởi Lăng Cô nằm giáp danh giữa Huế và Đà Nẵng, nên nếu lên đỉnh đèo Hải Vân, ngắm nhìn xa xa, du khách sẽ nhận ra làng chài và bãi tắm Lăng Cô đẹp như một bức tranh thủy mặc hay du khách còn có thể thấy được toàn cảnh thành phố Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà. Tại đỉnh đèo du khách không chỉ cảm nhận được không khí trong lành của vùng cao mà còn được thưởng thức nhiều món ăn dân dã mà chỉ nơi đây mới có.

Để khai thác hiệu quả những bãi tắm này, trong những năm gần đây có nhiều dự án đã và đang được triển khai như dự án hệ thống đường của khu du lịch Lăng Cô, đường phía tây đầm Lập An, dự án đường nối cảng Chân Mây đến cửa Tư Hiền và đường xuống Bãi Cả, dự án phát triển khu du lịch Sơn Trà-Hải Vân,...

Và không lâu nữa, Lăng Cô không những sẽ nổi tiếng bởi vẻ đẹp trữ tình thơ mộng mà còn "quyến rũ" du khách bởi nhiều dịch vụ du lịch hấp dẫn khác.

woa.. biển Lăng Cô đây mu`m :flyingangel3:hôm nay vừa mới được lên TV đấy :flyingangel3:

:)
23-08-2009, 07:10 AM
Bảo tàng và hệ thống di tích của Bác Hồ ở Huế - Điểm đến lí tưởng của du lịch Văn hóa lịch sử

http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/dulich/diemthamquan/diemthamquankhac/dthcm_batanghcm.jpgNgoài những danh làm thắng cảnh, quần thể Cố đô Huế là di sản văn hoá Thế giới thì di tích lịch sử, văn hoá và hệ thống di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh ở nơi đây là địa chỉ tìm đến của không ít du khách một lần đến Huế.

Có thể nói di sản văn hoá vật thể và phi vật thể ở Thừa Thiên Huế đang là thế mạnh, tạo đà cho sự phát triển kinh tế tỉnh nhà. Ngoài những danh làm thắng cảnh, quần thể Cố đô Huế là di sản văn hoá Thế giới thì di tích lịch sử, văn hoá và hệ thống di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh ở nơi đây là địa chỉ tìm đến của không ít du khách một lần đến Huế.
Hoà chung vào không khí của cuộc vận động " Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM" mà toàn Đảng và toàn dân ta đang tích cực thực hiện. Các bảo tàng, di tích lưu niệm chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước nói chung và TTHuế nói riêng đã phát huy tính chủ động, sáng tạo, tổ chức nghiên cứu , tuyên truỳên, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh bằng những hình thức sinh động, phong phú, thu được những kết quả thiết thực trong các hoạt động như hướng dẫn khách tham quan, đổi mới cách trưng bày, sưu tầm hiện vật và các loại tài liệu quý khác ...
Mỗi một hiện vật, tài liệu về cuộc đời và sự nghiệp của Bác là một tài sản quý của nhân dân Việt nam bởi chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của nhân Việt nam. Di sản văn hoá mà người để lại cần được lưu giữ và bảo tồn dưới nhiều hình thức khác nhau để nhân dân trong nước và bạn bè gần xa trên thế giới có thể đến tham quan và chiêm ngưỡng.

Tại bảo tàng Hồ Chí Minh nhiều du khách cảm thấy xúc động trước tình thương bao la ấy của Bác khi nghe kể về chiếc radio mà Bác vẫn dùng hàng ngày nhưng đã dành tặng lại cho bà Kanlich người dân tộc A lưói khi Bà ra Hà nôị dự lễ báo công với Bác trong phong trào Diệt Mỹ, chiếc áo bông bác đã gửi tặng công an TThuế vì đã lập thành tích xuất sắc trong năm 1949, rồi những vật dụng Bác được tặng hay chính phủ trang cấp đều được Người gìn giữ cẩn thận để tặng thưởng cho đồng bào chiến sĩ vì Bác nghĩ rằng chính họ đã làm nên thành công trong mỗi chíen thắng của dân tộc, là nền tảng của cách mạng. Tất cả những hiện vật và tư liệu về cuộc đời và nhân cách của Bác đã làm xúc động du khách đến tham quan , đặc biệt là các bạn trẻ.
Thực tế trong những năm qua cho thấy lượng khách đến Huế tham quan ngày một tăng, trong đó bảo tàng và di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh thu hút ngày càng đông lượng khách đến tham quan nghiên cứu, học tập. Tuy nhiên, nếu so với số lượng khách của các Tour du lịch đến Huế thì lượng khách đến Bảo tàng và di tích Bác Hồ còn quá khiêm tốn, vài năm trở lại đây chỉ dừng lại con số 65.000 đến 68.000 lượt khách trong năm. Trong khi đó lượng khách đến các lăng tẩm, các địa điểm thuộc quần thể di tích Cố đô Huế lên tới trên dưới 1.600.000 người lượt/năm. Vì vậy, cần tìm ra những giải pháp tích cực để phát huy mạnh mẽ giá trị của di tích là làm sao bảo tàng và các di tích của Bác thực sự trở thành những điểm tham quan hấp dẫn của nhiều du khách trong nước và quốc tế, đó là điều trăn trở hiện nay của những người trực tiếp quản lí các di tích của Bác Hồ ở Thừa Thiên Huế.
Với những định hướng như vậy chắc chắn trong thời gian đến công tác giáo dục, tuyên truyền, giới thiệu về tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua hệ thống bảo tàng và các di tích của chủ tịch HCM ở TTHuế - nơi Bác đã có nhiều năm gắn bó và có tình cảm sâu nặng sẽ được đẩy mạnh và có những kết quả tích cực để đây sẽ là điểm dừng chân đầy ý nghĩa của người dân và du khách mỗi lần đến thăm Huế.



Theo TRT

sasa
24-08-2009, 08:13 AM
Món ăn Huế cũng ngon lành ko kém cảnh :D
Đề nghị bạn : ) post cả hình ẩm thực nha. :D

:)
25-08-2009, 07:26 AM
Món ăn Huế cũng ngon lành ko kém cảnh :D
Đề nghị bạn : ) post cả hình ẩm thực nha. :D

Từ từ rồi sẽ có cả, mụ đừng lo :sr:.

Nam Châu hội quán và 7 ngôi nhà vườn - Huế

http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/nv/nha%20vuon.jpgKhu ẩm thực văn hoá Kim Long sẽ khôi phục lại ý nghĩa và hình ảnh của Nam Châu hội quán xưa, nơi gặp gỡ và vui chơi giải trí của các quan lại phía nam xưa trước lúc vào triều. Cùng với 7 ngôi nhà vườn ở Kim Long, đây sẽ là một tour du lịch trọng điểm, nhằm giới thiệu nghệ thuật ẩm thực và văn hoá nghệ thuật Huế.


Khu văn hoá ẩm thực Kim Long

Với diện tích hơn 8000m2 ở số 7 Vạn Xuân, Huế, khu ẩm thực văn hoá Kim Long được Cty du lịch Huế đầu tư với tổng số vốn giai đoạn 1 hơn 2,5 tỉ đồng. Theo chị Lê Thị Nhân - Giám đốc Cty du lịch Huế, Cty xây dựng khoảng 3-4 ngôi nhà rường cổ, khu văn hoá trung tâm, khu ẩm thực dân dã và nhiều cảnh quan, vườn cây ăn quả. Về ẩm thực, du khách sẽ được thưởng thức ẩm thực lễ hội, ẩm thực cung đình, ẩm thực dân dã và các món ăn của Huế xưa. Sau phần ẩm thực, du khách được thưởng thức các hoạt động văn hoá, nghệ thuật của cung đình, văn nghệ truyền thống và văn hoá dân gian. Ở đây còn là nơi giới thiệu và bán các mặt hàng như thêu, may, dệt, chằm nón... do các phụ nữ trực tiếp sản xuất tại chỗ.

Với mục đích xã hội hoá du lịch từng bước và khai thác tiềm năng du lịch cộng đồng, dịp này, Cty du lịch Huế sẽ phối hợp với CLB Nữ công gia chánh, Hội Phụ nữ phường Kim Long (thuộc Thành hội Phụ nữ Huế) sẽ làm sống lại nghệ thuật ẩm thực và văn hoá truyền thống của Huế bằng những sản phẩm đạt chất lượng cao. Dự kiến mở đầu cho hoạt động của của khu ẩm thực văn hoá Kim Long sẽ là Hội chợ ẩm thực khéo tay tổ chức trong dịp khai mạc lễ hội.

7 ngôi nhà vườn

Khu ẩm thực văn hoá Kim Long chỉ là một mắt xích khá quan trọng trong tour du lịch nhà vườn mà Cty du lịch Huế chuẩn bị đưa vào khai thác. Thực tế, đưa nhà vườn Huế vào khai thác du lịch là việc làm không phải mới. Năm 2000, tỉnh TT-Huế đã đưa tour nhà vườn đầu tiên gồm 4 nhà như vườn An Hiên, Lạc Tịnh Viên, Ngọc Sơn Công chúa từ... vào khai thác rất thành công. Nhưng nhược điểm của tour này là các nhà vườn nằm rải rác rất xa nhau. Lợi thế lần này là các ngôi nhà vườn ở Kim Long đều nằm sát nhau trong một quần thể, có kiến trúc cổ điển hình của Huế và những vườn cây, cảnh quan rất đẹp. Đáng chú ý là ngôi nhà rường trên 150 năm tuổi của ông Nguyễn Ngọc Trình do tú tài Nguyễn Lương Chánh xây dựng - một trong rất ít nhà ở Huế còn lại hai câu đối được sơn thếp bằng vàng thật và một án thờ nội phủ có hình rồng năm móng. Có một thuận lợi bước đầu là chủ nhân những ngôi nhà vườn nói trên rất đồng tình ủng hộ, họ sẽ tham gia vào việc biểu diễn thư pháp, tổ chức các câu lạc bộ thơ, ca Huế, câu cá... Để hỗ trợ, bước đầu, phường Kim Long sẽ đứng ra tín chấp, thành phố hỗ trợ lãi vay cho các hộ vay vốn để chỉnh trang nhà cửa, vườn tược... theo yêu cầu của tour du lịch. Theo chị Lê Thị Nhân, sắp tới, tour này sẽ được hoàn chỉnh hơn bằng việc Cty du lịch Huế cho khơi thông sông Lấp - một nhánh của sông Hương rẽ vào Kim Long - đã bị bồi lấp từ nhiều năm nay. Và như thế, du khách muốn tham quan nhà vườn Kim Long có thể đi bằng đường bộ và đường sông tuỳ theo sở thích.


Theo Báo Du Lịch

:)
27-08-2009, 01:38 AM
Chùa Thiên Mụ

http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/chua/thienmu3.jpgCó khá nhiều câu chuyện thần thoại liên quan đến lịch sử của chùa Thiên Mụ. Một trong những chuyện ấy kể rằng từ xa xưa, dân chúng địa phương đêm đêm thường thấy một bà già mặc áo đỏ, quần lục xuất hiện trên ngọn đồi mà chùa tọa lạc ngày nay, và nói :

Rồi sẽ có chân chúa đến lập chùa ở đây để tụ long khí cho bền long mạch. Hễ nói xong là bà biến mất. Từ đó ngọn đồi được gọi tên là Thiên Mụ Sơn (núi Bà Trời). Sau khi vào trấn thủ Thuận Hóa, chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613) một lần đi qua đây chơi nghe kể chuyện, liền tự nhận mình là vị chân chúa ấy, nên cho xây chùa và đặt tên là Thiên Mụ Tự.
Thật ra, ngôi chùa đã có tại chỗ từ trước năm 1555, vì trong sách Ô Châu Cận Lục viết vào thời điểm ấy, tác giả Dương Văn An đã từng nói đến ngôi chùa cổ này rồi. Có lẽ hồi ấy ngôi chùa còn đơn sơ nhỏ hẹp, kiến trúc chưa qui mô to lớn như về sau. Thế rồi, sau khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam (1558), một dạo đến chơi đây, vừa có được những gợi hứng tốt đẹp từ ngôi chùa cổ, vừa có thấy rõ ở đấy phong cảnh thoát tục hữu tình, nên năm 1601, chúa cho xây lại ngôi chùa một cách chính thức, chùa trở thành khang trang hơn.


http://www.khamphahue.com.vn/Upload/thienmu1.jpg
Một góc nhìn chùa Thiên Mụ

Năm 1665, chùa được chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu. Cuối năm 1695, Hòa thượng Thạch Liêm (Thích Ðại Sán) ở Quảng Ðông được chúa Nguyễn Phúc Chu (*) mời qua hoằng dương chánh pháp tại đây. Chùa càng trở nên nổi tiếng.

Năm 1710, vị chúa Nguyễn ấy cho đúc Ðại Hồng Chung và viết một bài ký để khắc chuông. Năm 1714, chúa sai Chương Cơ Tống Ðức Ðại đứng ra trông coi việc trùng tu và mở rộng ngôi chùa: xây thêm nhiều điện đài,đình viện, nhà cửa. Tất cả có đến vài chục công trình kiến trúc, nơi nào cũng huy hoàng tráng lệ. Công tác kéo dài 1 năm. Khi xong, chúa lại viết một bài ký, cho khắc bia đá để kỷ niệm, và nhờ người qua Trung Quốc thỉnh hơn 1.000 bộ kim sách Phật giáo về tàng trữ ở chùa.

Dưới thời Tây Sơn (1786-1801) chùa Thiên Mụ bị binh hỏa tàn phá rất nặng nề. Theo sử gia Phan Huy ích, đã có lúc triều đại ấy dùng chùa làm đàn Xã Tắc.

Vào năm 1815 và 1831, vua Gia Long và vua Minh Mạng cho tu sửa lại. Năm 1844, để kỷ niệm bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ vua Gia Long) thọ 80 tuổi (Bát tuần Thánh thọ) vua Thiệu Trị cử Thống Chế Hoàng Văn Hậu đứng ra điều khiển công cuộc kiến trúc lại ngôi chùa một cách qui mô: xây thêm tháp Phước Duyên, đình Hương Nguyện, dựng hai tấm bia ghi chép thơ văn của nhà vua. Dưới thời Tự Ðức, sau những thất bại dồn dập trong việc nước, việc nhà, vua nghĩ có lẽ dùng chữ "thiên" đã động đến trời, cho nên danh từ "Thiên Mụ" có đổi ra "Linh Mụ" trong thời gian (1862-1869).
Năm 1899, để đóng góp công đức cho chùa nhân dịp lễ Cửu tuần Ðại Khánh Tiết (mừng thọ 90 tuổi) của bà Từ Dũ (vợ vua Thiệu Trị), vua Thành Thái cho Bộ Công "đại gia tu bổ" tháp Phước Duyên và dựng bia kỷ niệm.


http://www.khamphahue.com.vn/Upload/thapPhuocDuyentaichuaThienMu.jpg
Tháp Phước Duyên tại chùa Thiên Mụ

Tháp Phước Duyên tại chùa Thiên MụNăm 1904, một trận bão dữ dội nhất xưa nay ở Huế, đã gây cho chùa nhiều thiệt hại nặng nề, trong đó có đình Hương Nguyện bị sụp đổ. Ba năm sau (1907), chùa được trùng tu. Năm 1920, vua Khải Ðịnh lại cho dựng bia đá gần tháp để khắc một bài thơ ngự chế ca ngợi cảnh chùa. Cuối cùng, chùa Thiên Mụ được tu sửa lớn một lần nữa vào cuối năm 1957. Trong đợt này, phần lớn các bộ phận kiến trúc trong điện Ðại Hùng đều được thay thế bằng bê tông giả gỗ.

Xưa nay, bất cứ ai đến viếng cảnh chùa cũng đều thừa nhận rằng người chọn vị trí làm chùa là một Phật Tử có trình độ thẩm mỹ rất cao. Kiến trúc ngôi chùa được lồng vào trong một ngoại cảnh thiên nhiên nên thơ tĩnh mịch. Nó thích hợp với Phật tính ở chỗ vừa cách biệt với những sinh hoạt tục lụy của thế nhân, nhưng lại gần gũi đối với những người con Phật mộ đạo ở chốn thị thành cách đó chưa đầy 4km.
Ngọn đồi đột khởi giữa quảng đất bằng, được nâng lên thêm bởi ngọn tháp Phước Duyên uy nghi cao cả. Dòng sông Hương thanh khiết uốn khúc trước chùa như để rửa sạch bụi đời cho tâm hồn và thể xác những người hướng đến và tìm về đạo pháp.

Toàn bộ các công trình kiến trúc của chùa đều được nằm trên một ngọn đồi có bề mặt hình chữ nhật (280m x 100m) chạy vào hướng bắc nam. Chùa lại được bao bọc khuôn tường thành xây bằng đá mang hình dạng một con rùa thò đầu xuống bến để uống nước sông Hương.

Vào thời cực thịnh của chùa, mật độ kiến trúc nơi đây thật dày đặc, vì có đến mấy chục công trình. Ngay từ bấy giờ, các nhà qui hoạch đã chia khuôn viên chùa ra làm hai khu vực, cách biệt nhau bởi cửa tam quan: khu vực ở trước có mặt bằng như cái đầu rùa, là nơi xây dựng những công trình kiến trúc mang tính kỷ niệm, như bia đá, chuông đồng... và khu vực ở sau, thân rùa, dành để xây cất các điện thờ Phật và các nhà tăng, nơi các nhà sư ăn ở để tu hành, tụng niệm.

Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1715), mật độ kiến trúc ở phần sau dày hơn ở phần trước, nhưng từ thời vua Thiệu Trị (1846) và nhất là thời Thành Thái (1904) thì ngược lại, vì phần sau bị hư hại nhiều, phần trước xây dựng thêm.
Hiện nay, được đánh giá cao nhất trong chùa là các công trình nghệ thuật sau đây:

Phước Duyên Bửu Tháp: Tháp hình bát giác cao 7 tầng (21m), dưới lớn trên nhỏ. Số 7 là con số linh của đạo Phật. Hệ thống bậc cấp trước chùa cũng tính theo số 7. Trong tháp có hệ thống bậc thấp thang xây cuốn từ dưới lên trên, chỉ trừ giữa tầng thứ 6 và tầng thứ 7 là phải dùng cái thang di động bằng gỗ và cái cửa với chìa khóa đặc biệt, vì ở tầng trên cùng này xưa kia có thờ tượng Phật bằng gỗ.

Ðại Hồng Chung: Chuông cao 2,5m, đường kính 1,4m, nặng 2.052kg, là một tác phẩm nghệ thuật bằng đồng rất xuất sắc của Việt Nam đầu thế kỷ XVIII. Mặt trên quả chuông có 8 chữ "Thọ" khắc theo lối chữ triện; ở giữa thân chuông chia làm 4 khoảng, khắc bài minh của chúa Nguyễn Phúc Chu và chạm nổi những hình ảnh long, vân, nhật, tinh, ở phần dưới khắc hình bát quái và thủy ba.

Bia thời Nguyễn Phúc Chu: đây là một tấm bia đá thanh khá lớn, cao 2,6m, dựng trên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch dài 2,2m, rộng 1,6m đều được khắc chạm hình uyển chuyển, tinh vi. Bộ tác phẩm bằng đá này mang giá trị cao và nghệ thuật của thời các chúa Nguyễn.

Ðiện Ðại Hùng: đây là ngôi điện chính trong chùa; một công trình kiến trúc đồ sộ nguy nga. Trong lần trùng tu năm 1957, ngoại trừ hệ thống rui và đòn tay,còn tất cả cột, kèo, băng, bệ... đều xây bằng bê tông và phủ bên ngoài một lợp sơn giả gỗ.Trong điện ngoài những tượng Phật bằng đồng sáng chói, còn treo một cái khánh bằng đồng khá lớn chạm hình nhật nguyệt, tinh tú và khắc những dòng chữ cho biết khánh này do một vị quan người Quảng Trị là Trần Ðình Ân thuê đúc năm 1677 để cúng cho chùa, và treo một bức hoành phi bằng gỗ sơn son thếp vàng do tự tay chúa Nguyễn Phúc Chu đề năm 1714.

Ðình Hương Nguyện cũ: một trong những công trình kiến trúc bằng gỗ rất đặc biệt của thời vua Thiệu Trị (1841-1847) mà hiện nay còn được bảo lưu ở chùa Thiên Mụ là bộ sườn của đình Hương Nguyện. Ðình nguyên được xây ngay trước mặt tháp Phước Duyên. Trong trận bão năm Thìn (1904) đình bị đổ. Ðể cho không gian tại đây được thoáng, sau đó người ta đã đem ngôi đình cũ ấy vào dựng lại tại nền điện Di Lặc xưa để thờ Ðức Ðịa Tạng. Ðây là nguyên mẫu một ngôi nhà tứ giác độc đáo của 150 năm trước. Ðứng trong nhà nhìn lên, chúng ta thấy hình bát quái được cấu trúc khéo léo ở cái nóc duy nhất ở chính giữa. Có một số thơ chữ Hán được khảm nổi trên 56 pa-nô trang trí ở các liên ba.

Chùa Thiên Mụ bảo lưu được một số văn vật quí báu lâu đời của Phật giáo. Thiên nhiên và kiến trúc ở đây hài hòa với nhau đến mức hoàn chỉnh. Với kiến trúc uy nghiêm cổ kính, với cảnh trí thanh thoát nên thơ, chùa Thiên Mụ có thể xem là một danh lam thắng cảnh tuyệt vời của đất nước.
(*) Nguyễn Phúc Chu có sách đọc là Nguyễn Phước Châu.


Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế

:)
29-08-2009, 10:00 PM
Chùa Báo Quốc


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/chua/055%20cbqhue.jpg

Chùa tọa lạc trên đồi Hàm Long, kiệt 1, đường Báo Quốc, phường Phường Đúc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Điện thoại: 054.3822287.


Chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong dựng vào cuối thế kỷ XVII, đời chúa Nguyễn Phúc Tần, nơi ngài Liễu Quán đến học đạo và ở lại trong 11 năm. Tổ Giác Phong viên tịch năm 1714.

Đến năm 1747, Võ vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc Tứ Báo Quốc Tự”, bên trái có ghi hàng chữ Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề, bên phải có dòng lạc khoản Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật.

Vào thời Nguyễn, chùa đã được trùng tu nhiều lần. Năm 1808, Hoàng hậu Hiếu Khương cho tái thiết ngôi chùa, xây tam quan, đúc đại hồng chung (nặng 836 cân), bảo khánh... và đổi tên là chùa Thiên Thọ. Thiền sư Phổ Tịnh được cử làm trụ trì trong thời gian này.

Năm 1824, Vua Minh Mạng ngự thăm chùa và sắc lấy tên “Báo Quốc Tự”. Nhà vua đã tổ chức đại giới đàn tại chùa nhân lễ tứ tuần khánh thọ vào năm 1830.

Đến năm 1858, do chùa bị hư hỏng nhiều, Vua Tự Đức và Hoàng Thái hậu Từ Dũ đã ban tiền trùng tu ngôi chánh điện và các công trình khác. Chùa đã được liên tiếp trùng tu, mở rộng đến thế kỷ XIX.

Trong phong trào chấn hưng Phật giáo, vào những năm 1930, chùa đã có nhiều đóng góp về mặt đào tạo tăng tài cho Phật giáo. Năm 1935, Trường sơ đẳng Phật học được mở tại chùa. Đến năm 1940, Trường cao đẳng Phật học cũng lại được mở tại đây. Chùa trở thành một trung tâm đào tạo Tăng Ni cho đến ngày nay.

Năm 1957, Giáo hội Tăng gia Thừa Thiên và Ban Quản trị chùa đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Hòa thượng Thích Trí Thủ, vừa là Giám đốc Phật học đường, vừa là trụ trì chùa, đã có những đóng góp to lớn cho Phật giáo nói chung và cho việc tái thiết ngôi tổ đình trang nghiêm với nét kiến trúc cổ kính nói riêng.

Chùa là ngôi cổ tự nổi tiếng ở Huế xưa nay.


(theo tư liệu của ông Võ Văn Tường cung cấp)

nguyen_na
30-08-2009, 05:26 AM
hjjjjjjjjjj,tự hào wuas vì mình đang ở Huế!!!!Yêu vô cùng H ta ơi!!!!

.APPLE.
30-08-2009, 05:37 AM
Sao nhiều dữ ri trời :phu: đi chưa hết nữa
bạn ý ở Huế mà hổng vào topic Huế ta????

:)
01-09-2009, 02:54 AM
Điện Voi Ré

http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/dtq/dien%20voi%20re%202.jpgĐịa chỉ: Thôn Trường Đá - xã Thủy Biều - Tp Huế
Nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía Tây-Nam, trên địa phận thôn Trường Đá thuộc xã Thủy Biều, điện Voi Ré vừa là chứng tích một thời của đội Kinh tượng nhà Nguyễn, vừa là một di tích độc đáo thuộc quần thể di tích cố đô Huế.

Theo truyền thuyết, dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, trong một trận giao tranh với quân đội Đàng Ngoài, một dũng tướng của Đàng Trong hy sinh giữa trận tiền. Đau buồn trước cái chết của chủ, con voi của vị dũng tướng đã chạy trên một quãng đường dài hằng trăm dặm từ chiến địa về tận thủ phủ Phú Xuân, đến địa điểm phía đông của đồi Thọ Cương, nó đã rống lên một tiếng vang trời như phẫn uất, như đau thương cùng cực rồi phủ xuống trút hơi thở cuối cùng. Cảm động trước sự trung thành của một con vật có nghĩa, dân địa phương đã làm lễ an táng, xây mộ cho nó, nguời ta vẫn gọi một cách mộc mạc là mộ Voi Ré. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã cho xây dựng bên cạnh mộ con voi một ngôi điện thờ với tên gọi là Long Châu Miếu để thờ các vị thần bảo vệ và miếu thờ bốn con voi dũng cảm nhất trong chiến trận của triều Nguyễn. Từ truyền thuyết và sự kiện lịch sử như vậy, dân gian quen gọi ngôi miếu này là điện Voi Ré.

Điện Voi Ré tọa lạc trên một khu đất rộng, diện tích chừng 2.000m2, nằm về phía Đông-Nam đồi Thọ Cương. Cũng theo những nguyên tắc chung về thuật phong thủy của Đông phương, người ta vận dụng Thành Lồi (thành cũ của người Chàm) có sẵn để làm bình phong che chắn cho ngôi điện; tiếp đến là hồ Điện tạo nên yếu tố thủy (minh đường) và tăng thêm giá trị mỹ học cho công trình. Với diện tích khoảng 1.000m², độ sâu chừng 3m, hai bên không kè đá, mặt hồ từng tràn ngập những đóa sen thơm ngát. Tương truyền các Quản tượng ngày xưa thường đưa voi đến uống nước ở chiếc hồ này trước mỗi trận đấu giữa voi và cọp tổ chức tại Hổ Quyền. Đây là một hành động mang tính lễ nghi và tâm linh, có thể người ta nghĩ rằng làm như vậy khiến những con voi sẽ tăng thêm dũng khí và sự may mắn sẽ đến với chúng trong trận quyết đấu.


Theo Trung tâm bảo tồn di tích Cố Đô Huế

_Juliet_
11-09-2009, 08:02 PM
đi ngang wa Huế mà chưa ghé thăm lần nào đc....

missfrienld91
14-09-2009, 08:32 AM
miss mới ra huế sống muốn tham quan ai chỉ cho miss biết thêm nào.mới ra đi lạc mấy lần khó khăn lám mới lần mò bò về được chổ ở cực khổ lắm,bây h thì cũng tạm tạm thui

:)
15-09-2009, 07:40 PM
Chùa Từ Ðàm



http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/chua/cvn-hue-tudam-01.jpg

Mặc dầu không phải là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nhưng Từ Ðàm được nhiều người khắp đất nước biết đến do vai trò quan trọng của chùa trong công cuộc chấn hưng, phát triển của Phật Giáo Việt Nam thời kỳ cận đại và cuộc đấu tranh vì hòa bình, tự do tín ngưỡng

Chùa tọa lạc ở phường Trường An, cách thành phố Huế khoảng 2 km về hướng Nam.
Cấu trúc chung của chùa được gọi là "kiểu chùa Hội" phối hợp giữa đường nét nghệ thuật kiến trúc mới và cũ, với yêu cầu rộng rãi, cao ráo, cổ kính nhưng đơn giản, Chùa Từ Ðàm có ba bộ phận quan trọng là tam quan, chùa chính và nhà Hội.

missfrienld91
15-09-2009, 10:46 PM
miss có đi sinh hoạt chùa rùi.mà hok phải chùa từ đàm nhưng chùa này cũng ở huế ,từ đàm nấu ăn ngon lắm có nêm thử rùi tháng 7 vừa rùi

:)
30-09-2009, 07:02 AM
Phu Văn Lâu



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/a/a6/Phu_van_lau.jpg
Phu Văn Lâu


Phu Văn Lâu được xây dựng vào năm 1819 dưới thời vua Gia Long, dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức.

Năm 1829, vua Minh Mạng dùng nơi đây làm địa điểm tổ chức cuộc đấu giữa voi và hổ. Năm 1830 ông lại tổ chức cuộc vui chơi, yến tiệc suốt 3 ngày để mừng sinh nhật của mình.

Phu Văn Lâu là ngôi nhà hai tầng duyên dáng, quay mặt về hướng Nam. Dưới thời vua Thiệu Trị, triều đình cho dựng ở hai bên hai tấm bia đá khắc 4 chữ "khuynh cái hạ mã", nghĩa là bắt buộc ai đi qua đều phải cởi mũ và xuống đi bộ.

Phía trước mặt Phu Văn Lâu có một ngôi nhà thuỷ tạ nằm kế bên sông Hương tên là Nghinh Lương Ðình. Ðây là nơi dùng để các vua tắm sông, hóng gió, ngắm cảnh.


Theo nhohue.net

Vô _Tình
10-10-2009, 10:52 PM
mấy anh chị cho em hỏi ở Huế có quán nào
yên tĩnh, kô ồn ào mà bình dân cho sinh viên kô?

nếu có thì nhắn tin cho em giúp nha.
cám ơn trước!

:)
05-11-2009, 09:23 PM
Bún bò Huế

http://www.nhohue.net/image/mon_an/bun_bo1.jpgBún không phải chỉ đơn thuần là một món ăn truyền thống của Huế, nhưng đối với người Huế, bún còn là một phần lối sống “Kiểu Huế”. Kiểu Huế là nghèo mà vẫn sang, vui rộn rã mà vẫn man mác buồn, ngoài mặt phẳng lặng mà trong lòng dậy sóng, không soi bóng mình trong gương mà soi bóng mình trong đôi mắt của người thương, bè bạn, xóm giềng. Người ngọai quốc như ông Foulon cũng nhận xét về sự mâu thuẫn của Huế: “Tóc tang cười nụ, vui mừng thở than!”(Lê Văn Lân dịch)

Huế mâu thuẫn từ buổi mới vào đời, đài các từ ngày mới có tên. Tên đất thì nhỏ như nốt ruồi son: Ô, Rí, Huế... mà tên người lại dài lướt thướt như mái tóc mây dài chấm gót: Công Tằng Tôn Nữ Thị Sông Hương, Nguyễn Khoa Hoàng Thành, Tôn Thất Quỳnh Phương... Huế quá trầm lặng và chật như cái bể cạn mà phải chứa những tâm hồn bão nổi sông hồ, nên dân Huế ngoài mặt hiền khô mà trong lòng cưu mang những bến bờ viễn xứ, sẵn sàng phản kháng và rực lửa đấu tranh “dấy loạn” như Lục Vân Tiên ra đường thấy việc bất bằng chẳng tha. Cái dấy loạn bão liệt nhưng nên thơ và lý tưởng quá đà của những tâm hồn lãng mạn kiểu Huế chỉ làm cho Huế thành đất dấy nghĩa nhưng không thể nuôi lớn Huế thành căn cứ địa, chiến khu như Tân Sở, Ba Lòng. Xưa vua Hàm Nghi và vua Duy Tân chỉ có những phút huy hoàng và chợt tắt ở Huế, để rồi suốt canh thâu le lói ở phương nào.

Tô bún bò Huế cũng là một biểu hiện của văn hóa Huế vì đây cũng là một sự “dấy nghĩa” trong truyền thống nấu ăn khi cho bò nổi heo chìm trong cùng một nồi, trộn lẫn hai tính chất mâu thuẩn “bò nấu thì teo, heo nấu thì nở” thành một thể hài hòa. Huế đã dùng sả để “chuyên trị” thịt bò chứ không dùng ngủ vị hương để chuyên trị như truyền thống lâu đời ở Trung Hoa và miền Bắc. Tô bún Huế mang hưong vị “rất Huế” để mà cảm nhận và thưởng thức như cảm nhận và thưởng thức mùi khói sóng buổi chiều trên sông Hương. Tự nhiên như: “Nó ngon thì tại nó ngon. Có chồng thì phải nuôi con, thờ chồng”. Cái dễ giận nhất của người Huế là "mình cảm thấy..." mà không cần lý luận. Bởi vậy, hình như càng đem lý tính để phân tích các món ăn Huế, cái hiểu về hương vị thực tế càng xoải cánh bay xa...

Bún Bò Huế. Ai ở xa nghe như thể Huế là vùng đất thổ sản của bò, giống miền Nam Mỹ Texas. Thật ra, tìm một trại bò trên đất Huế cũng khó như tìm lá Diêu Bông của Hoàng Cầm. Tô bún bò Huế cũng là phản ánh cái tham vọng thu nhỏ của người Huế vì muốn dùng cái “lượng” giới hạn để đạt tới cái “phẩm” vô cùng. Bởi vậy, ngoài những chất liệu cay chua ngọt bùi của trần gian, tô bún Huế còn được “nêm” thêm ít nhiều gia vị vô hình của cái tâm chủ quan và cái linh của hoàn cảnh

Bà Bún

Suốt cả thời thơ ấu, tôi sống ở làng, quanh năm chỉ có “Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên...” là đẹp nhất.

Hàng năm, sau dịp Tết, người trong làng lại bắt đầu chuẩn bị lễ đầu năm. Mẹ tôi lễ vào ngày19 tháng giêng để kịp ngày 20 đi coi giò gà và dự lễ tế Bà Bún tại làng Vân Cù.

Mỗi năm, tôi được ăn bún khá nhiều lần nhưng hai lần trọng đại nhất và ngon nhất là trong dịp lễ đầu năm của mẹ tôi và trong ngày lễ tế Bà Bún tại Vân Cù.

Làm sao tôi quên được những buổi sáng hai mươi tháng giêng. Từ sáng tinh mơ còn lạnh cóng, mẹ tôi đã cẩn trọng nhúng bộ giò gà khô queo trong tô rượu trắng, gói trong giấy bổi, lâm râm cầu nguyện rồi chuẩn bị lên đường bói quẻ đầu năm. Tôi là con trai út, nên được thương nhất nhà và thường bị gọi là “cái đuôi của mạ” vì mẹ tôi đi đâu tôi cũng lon ton dòi chạy theo.

http://www.nhohue.net/image/mon_an/bun_bo2.jpgSau vụ coi giò gà tại nhà thầy Kiên ở Hương Cần thì mặt trời đã lên quá đọt tre. Mẹ tôi tiếp tục cuộc hành hương cuốc bộ đầu năm về làng Vân Cù. Từ Hương Cần về Vân Cù phải qua một cánh đồng lúa rộng, tôi phải chạy lúp xúp theo mẹ mướt mồ hôi, mặc dầu trời tháng giêng trên quê tôi lạnh đến nỗi “giêng hai cắn tay không ra máu!”. Sau nầy tôi bỗng khám phá ra thêm một bí mật về cái ngọn tuyệt vời của bún xáo Vân Cù trong ngày lễ Bà Bún một phần cũng là do cánh đồng trống nầy vì vượt qua cho được dặm trường thiên lý nầy thì cái bụng đã trống trơn.

Muốn nói đến Bún Bò Huế thì đừng quên trước hết phải nói đến con bún, vì tô bún là một tổng hợp hài hòa giữa con bún và nước bún. Thiếu một trong hai là kể như có Adam mà không có Eva, có Phạm Lãi mà thiếu Tây Thi! Và, nói đến con bún Huế thì không thể không nhắc đến chiếc nôi của bún là làng Vân Cù. Làng Vân Cù nằm cạnh sông Bồ, là con sông ăn thông với sông Hương qua nhánh sông Đào. Vân Cù cách Huế chừng 10 cây số về phía Tây Bắc. Từ xưa, Vân Cù là lò bún tập thể cung cấp bún cho cả Huế, Thừa Thiên, ra tới Quảng Trị và có khi vào đến Quảng Nam, Đà Nẵng. Hầu hết người làng Vân Cù tuy sống về nghề nông nhưng ai cũng có lò bún trong nhà.

Cũng như rất nhiều nghề thủ công khác ở Huế như nghề Thợ Rèn ở Làng Hiền Lương, nghề Đan Thúng Mủng ở làng Bồ La, nghề Thợ Vàng ở làng Kế Môn, nghề Nuôi Tằm ở làng Dương Sơn, nghề Chằm Nón ở làng Hương Cần, nghề Đan Nôi Bội ở làng Liễu Hạ, nghề Gạch Ngói ở làng Nam Thanh... nghề Làm Bún ở làng Vân Cù là một công việc làm ăn truyền thống và độc đáo riêng của từng đơn vị sản xuất gia đình trong làng, có tính cách cha truyền con nối từ đời nầy qua đời khác. Tất cả dây chuyền sản xuất đều làm bằng tay với những dụng cụ thô sơ, nhưng thành phẩm thường đạt đến mức tinh luyện mà người khác làng khó lòng bắt chước nổi.

http://www.nhohue.net/image/mon_an/bun_bo3.jpgThủy tổ của nghề làm bún tại Vân Cù là một bà, tục gọi là Bà Bún. Thời gian đã xoá nhòa danh sách của những người muôn năm cũ nên chẳng còn ai nhớ tên thật của Bà Bún. Trong những câu chuyện dân gian truyền miệng về cuộc đời của Bà Bún, tôi còn nhớ mãi chuyện kể của bác Cửu Am với mẹ tôi rằng:

Vào một thời xa lắc xa lơ, khi có những người Đàng Ngoài theo chân chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp, có một nhóm người đến định cư trong vùng những Tháp Chàm cổ xưa đã đổ nát nên sau nầy có tên là làng Cổ Tháp, thuộc huyên Hương Điền. Trong số đó có một người thiếu nữ đẹp, có lẽ cũng mắt lá răm, môi cắn chỉ, má lúm đồng tiền... nên rất được nhiều người mến chuộng. Trong lúc mọi người chuyên sống bằng nghề canh tác làm ruộng thì người thiếu nữ nầy miệt mài chuyên nghề làm bún. Bún nàng ngon quá hay vì nàng xinh quá mà làm cho bao người ăn quên cả đường về. Rượu không say bún say mới ngại... Vì vậy nên nhiều người ganh tỵ. Rồi một dạo dân trong vùng bị mất mùa liên tiếp 3 năm. Người ta cúng, tế cầu thần linh cứu giúp. Gặp cơ hội nầy, kẻ xấu bụng tung tin rằng, mất mùa là do thần linh quở phạt vì Cô Bún đã đem gạo là “hạt ngọc của Trời, phơi mao ngậm sữa” ra mà ngâm, mà chà, mà xát, mà nghiến nát ra để làm bún. Thế là nhà nông bắt đầu nổi giận. Hội Đồng Thị Tộc của làng họp bàn và ra lệnh cho Cô Bún phải bỏ nghề làm bún hay sẽ bị trục xuất ra khỏi làng, nhưng Cô Bún quyết sống chết với nghề nên chấp nhận ra đi.

Vì bản chất hiền lương và thuần hậu nên Cô Bún được làng ban ân cho phép chọn lựa hướng đi và cử năm người thanh niên mạnh nhất trong làng theo áp tải. Mỗi thanh niên sẽ cõng cái cối đá làm bún của Cô đi một chặng đuờng cho đến khi mệt đuối sức thì người khác tới thay cho đến hết người thứ năm là vùng đất mới của Cô Bún. Cứ thế, đoàn người đi về hướng Đông cặp theo sông Bồ không nghỉ. Nơi người trai làng thứ năm khuỵu xuống với cái cối đá trên vai là làng Vân Cù sau nầy. Nơi đây đã trở thành “đất lành chim đậu” cho Bà Bún lập nghiệp và truyền nghề làm bún đời đời qua bao nhiêu biến cố thăng trầm của đất nước và dân tộc.

Người ta thường ví von “mềm như bún” nhưng cái mềm Đông Phương lại là cái dẻo dai bền bỉ để sống còn trên bước đường vạn dặm. Thân gái dặm trường, Bà Bún đã vượt Hoành Sơn vào Huế. Chim đã về núi, Bà đã về dất nhưng Bún Huế vẫn còn tươi rói với nhân gian như có người đã hát nửa chơi, nửa thiệt: “Hoành sơn nhất đái chim về cội. Vạn đại dung thân đọi bún bò”.

Một “xưởng bún” điển hình ở làng Vân Cù thường bao gồm một cái xay để xay bột, một cái cối có chày đạp, lò nấu , chảo lớn, rây bột, khuôn bún và một số dụng cụ để khuấy, vớt, đong, đựng bột và bún trong từng chặng đường sản xuất.

http://www.nhohue.net/image/mon_an/bun_bo4.jpgTừ hột gạo măng tơ biến ra con bún nõn nà cũng phải cần đến bàn tay, không phép mầu nhưng cũng phải khéo léo và cần cù, của bà tiên lao động. Sợi bún bắt đầu từ hột gạo. Gạo trắng ngâm nước lạnh qua đêm sẽ “mục” ra và được đem xay hay giã nhuyễn thành bột. Tiếp theo, bột gạo được “rây” để lọc ra phần mịn nhất tinh bột của gạo. Bột gạo nguyên chất được rưới nước sôi để nhồi thành một khối bột gọi là “trái bột”. Trái bột gạo được luộc chín sơ, rồi vớt ra và đem trộn với bột lọc theo tỷ lệ cứ 30 lon gạo (khoảng 10 ki-lô), trộn với 2 ki-lô bột lọc. Tổng hợp bột gạo và bột lọc nầy lại được giã, trộn rất nhuyễn cho tới khi trái bột đạt tới mức “vừa đai, vừa đẻo” là đuợc. Giai đoạn cuối cùng là khối bột mượt mà và dẻo quẹo được đưa vào khuôn bún. Dưới sức ép, những đường bột tuôn ra theo lỗ đục sẵn dưới đáy khuôn bún, rơi vào nồi nước sôi và chín thành bún. Bún được vớt ra, xả sạch với nước lạnh và sẵn sàng để ăn.

Bún tự nó đã là một món ăn thanh đạm của người Huế, nhất là vùng quê. Bún Vân Cù được làm ra dưới ba hình thức: Bún con, bún lá và bún mớ.

Bún con hay bún vắt là một lọn bún quấn lại với nhau, dài vừa nắm tay như cuộn chỉ thêu, rất tiện lợi cho việc ăn uống đơn giản và đạm bạc trên nương, ngoài đồng, giữa đường. Chỉ cần một chút nước mắm ớt và năm, bảy con bún vắt thì bác nông phu trên đường về, chị chủ quán rộn ràng giữa chợ, em bán hàng rong lang thang... có thể tay cầm con bún chấm vào nước mắm ăn ngon lành ngay trên “hiện trường” vừa ngon miệng, vừa ấm lòng, vừa khỏi lơ là công việc.

Bún lá là một lớp bún trải trên lá chuối tươi, cuộn tròn cỡ bằng cái bánh tráng trung bình. Bún trắng nổi trên lá xanh mang vẻ đẹp trinh nguyên nên vừa bắt mắt, vừa bắt miệng. Bún lá thường là đơn vị bún cho cá nhân và gia đình: Mỗi người một rá, mỗi lá một tô.

Bún mớ, còn gọi là bún “ngảo” hay bún kí-lô. “Ngảo” là cái rổ nhỏ thường dùng như một đơn vị đo lường ở các vùng quê của Huế trong khi “kí lô” là đơn vị đo lường mới xuất hiện sau này. Bún mớ là bún sản xuất đại trà với số lượng lớn để buôn bán, đổi chác trên thị trường.

Thật ra cả ba loại bún cơ bản là giống nhau, đều có màu ngà đục khi sống và màu trắng trong khi đã luộc chín. Người ta thường dùng danh từ “bún tươi” để chỉ bún mang trực tiếp ra từ lò và “bún luộc” để chỉ con bún được luộc chín từ bún khô. Con bún Huế điển hình có độ dai vừa phải, không “đai hoai” như bột lọc nhưng cũng không bở rệt như bột gạo. Thường người ta dùng đinh 3 phân ( khoảng 1/8 inch) để đục lỗ thoát trong khuôn bún hay để ước lượng độ lớn của con bún. Trong thực tế, bún lớn hay nhỏ là do bàn tay khéo léo của người cầm “rây”. Muốn sợi bún nhỏ, ngay khi những con bún sống đang chảy xuống nồi nước sôi để thành bún chín, chỉ cần đưa cái khuôn đầy bột lên cao; muốn có con bún to thì hạ khuôn xuống thấp. Bún nhỏ là bún kim để làm bún khô hay bún Tàu dùng nấu canh và bún to hơn là bún thô dùng để xào trộn thức ăn trong những dịp giỗ, Tết. Bún con và bún lá thường được cho là ngon hơn có lẽ vì được sản xuất đầu nước nên láng lẩy và tươi tắn hơn: “Bún đầu nước thì ngon, con đầu nước thì dại (?)”.

Ngoài cơm và khoai sắn, có thể nói rằng, bún nói chung là món ăn truyền thống được phổ biến rộng rãi nhất đối với người Việt Nam ở trong nước cũng như khắp năm châu. Các loại bún truyền thống miền Bắc thì có bún riêu, bún thang, bún mộc, bún ốc... Bún từ Đàng Ngoài đã theo bước chân Nam tiến đi vào Đàng Trong, rồi chọn đất Thuận Hóa làm nơi nghỉ bước và đâm chồi nẩy lộc thành bún Huế. Bún Huế gồm nhiều loại, mỗi loại có một lịch sử và tính chất độc đáo khác nhau: Bún nước mắm, bún mắm nêm, bún giấm nuốc, bún riêu, bún xáo, bún măng, bún thịt nướng, bún chả tôm, bún bò, bún giò... và bún bò giò heo. Bún bò Huế, tức là bún bò giò heo được ưa chuộng và phổ biến nhất.

Theo thời gian và không gian, bún bò Huế có lúc và có nơi chỉ còn là một cái tên nhưng phẩm chất, đặc tính, mùi vị... đã hoàn toàn biến đổi. Nhiều người vẫn tẩn mẩn tự hỏi, không biết tô bún bò Huế thời vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và tô bún thời vua Bảo Đại thoái trào năm 1954 có gì khác nhau trong cung đình và ngoài phố chợ. Có điều rõ ràng là khách ăn bún Huế sẽ cảm thấy tô bún An Hoà khác hẳn tô bún An Cựu, nơi nầy có thêm lát chả, nơi kia có thêm miếng huyết, nơi nọ có chút rau thơm và chuối cây xắt mỏng lơ thơ. Càng đi xa, tô bún ở Đà Nẵng không giống tô bún Sài Gòn; tô bún Huế Ca-li khác xa tô bún Huế Texas.

Trước 1975, tôi có một người ông bà con, quê ở làng Lương Quán, Nguyệt Biều. Mọi người kêu ông là “Ôn Tứ”, có lẽ vì ông làm quan tứ phẩm của triều đình. Cứ một năm vài ba lần, ông sai tôi chở qua cung An Định để vấn an “Đức Từ”, đó là bà Từ Cung, thân mẫu của cựu hoàng Bảo Đại. “Ôn Tứ” tuổi trên 70 mà vẫn còn đẹp lão như một tiên ông với da dẻ hồng hào và tóc trắng như mây, nhưng hễ cứ mỗi lần tôi khen ông là ông lại nói với giọng nửa như tự hào, nửa như ân năn:

- Ôn sống thọ đây là tại trời đày vì tội phạm thượng, dám ăn đồ ăn của vua!

Ai cũng biết thuở trước, ông là người hầu cận thân tín của vua Bảo Đại từ Việt Nam qua đến Pháp. Tôi nghe lạ, hỏi ông, ông giải thích:

- Ngài Ngự làm vua, nhưng là người Tây học. Ngài xử sự công bằng và lịch sự với tất cả mọi người. Hồi còn ở trong Đại Nội, thường có các cận thần hay hoàng thân quốc thích nấu đủ món sơn hào hải vị dâng lên Ngài ăn khuya. Ngài nhận, nhưng sau đó sợ bị mập nên Ngài cứ đưa hết cho ôn ăn. Con coi, ôn ăn hoài cao lương mỹ vị của hoàng đế, “tội to” như rứa mà Trời không phạt răng được!

Trong những lần ngồi đợi ông vấn an đức Từ Cung, trong cái mát lạnh thâm u của cung An Định, tôi có dịp nghe các cuộc mạn đàm của giới thân cận cung đình về các món ăn Huế mà giới quý tộc quan tâm. Bún bò Huế vẫn thường được nhắc đến nhiều nhất. Đặc biệt là cuộc thi nấu các thức ăn đem ra đấu xảo tại chợ Tết Gia Lạc có từ thời Minh Mạng, do Định Viễn Công Nguyễn Phước Bình, con thứ tư của vua Gia Long lập ra. Chợ Gia Lạc nằm giữa chợ Mai và chợ Nam Phổ ngày nay và cũng là vùng đất có Tùng Thiện Vương và Tuy LýVương, hai vị hoàng thân nghệ sĩ đã vang bóng một thời. Lúc đầu chợ chỉ mở ra cho các người trong thân nhân phủ đệ, sau thấy đông vui hấp dẫn, dân thường trong vùng lân cận như Dương Nổ, Nam Phổ, Thế Lại, Ngọc Anh... tìm đến và cũng được các ông hoàng bà chúa cho vào tham gia buôn bán và tổ chức các trò chơi. Hàng năm đến ngày 23 tháng Chạp, chợ Mai đông buổi sáng và chợ Nam Phổ đông buổi chiều để nhường chỗ cho chợ Gia Lạc tưng bừng vui hội Tết. Đông vui và nhộn nhịp nhất là trong ba ngày mồng một, mồng hai và mồng ba Tết Nguyên Đán. Đây là phiên chợ của hàng con vua cháu chúa, nhưng đồng thời cũng mở rộng ra cho bàng dân thiên hạ đến vui Xuân. Theo tương truyền, trong một năm, món bún bò giò heo của Mệ Lựu đã chiếm giải nhất và được phê là “Thập toàn. Ngũ đắc”. Thập toàn là mười diều hoàn thiện của một món ăn ngon, đại khái như: ngọt ngào, thơm tho, đậm đà, bổ dưỡng, tinh khiết, bắt mắt, khéo chọn, khéo tay, khéo nấu, khéo bày, bún bò Huế còn được đánh giá cao là vì tính chất bình dân và phổ thông trong bá tính: Mọi người ai cũng biết được, ai cũng ăn được, ai cũng nấu được, ai cũng tìm được vật liệu ngay tại địa phương, ai cũng có thể có dịp mua được (ngũ đắc). Phải chăng vì bún bò giò heo cũng mang tính truyền thống dân gian như bánh chưng, bánh dày thuở trước.

Nếu gặp một người Huế nào đó ở vào lứa tuổi trung niên hoặc già hơn mà hỏi thăm thế nào mới thật là bún bò Huế và bún bò nơi mô ở Huế là ngon nhất, chắc chắn sẽ có hơn chín mươi phần trăm trả lời là, "bún bò Mụ Rớt".

“Bún bò Mụ Rớt có nêm sâm nhung quế phụ vô hay răng mà ngon dữ rứa?”. Một lần nào đó đã có người tò mò lên tiếng. Rồi cũng có người đáp lại, “Có chi mô, mụ Rớt cũng ra chợ Đông Ba mua rau, mua thịt như mình nhưng mụ nấu ngon vì có hoa tay”. Hoa tay? Hoa tay của ông đồ Vũ Đình Liên là để thảo những nét chữ như rồng bay, phượng múa, nhưng hoa tay của mụ Rớt là để nấu những tô bún bò thanh nhã, ngọt ngào “ăn ngậm mà nghe”.

Chừ ri hỉ...!

Cứ tưởng tượng mình đang ở Huế.

Vừa thức dậy sau giấc ngủ trưa, một buổi trưa không biết ở thời nào, một buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao, có cu gáy và bướm vàng nữa chứ... Và, có tiếng ve đất cuối mùa kêu sau vườn nhưng nghe như xa lắc. Nắng xế cuối mùa của Huế thường phai như màu tóc muối tiêu. Rồi có tiếng xe đạp của ai đó phanh lại trước sân, ba bốn đứa bạn thân rủ nhau đi ăn bún. Con đường Chi Lăng dẫn về Gia Hội chen giữa hai hàng phố cũ với những căn nhà xưa kiểu Tàu pha một căn hai chái, cột mệ cột con đề huề trông thâm nghiêm nhưng thấp bé một cách tội tình. Trước khi rẽ qua đuờng Ngự Viên đi ngang "mả ông trạng" sau lưng chùa Diệu Đế, hãy ghé lại một căn nhà dãy phố bên phải: Đó là tiệm bún bò Mụ Rớt. Huế làm ăn theo lối "hữu xạ tự nhiên hương", không bảng hiệu, không quảng cáo mà chỉ cần nghe tiếng tìm vào.

Khách vô tiệm tự nhiên và lặng lẽ như ghé lại bến đò. Cứ tìm bàn nào trống, ngồi xuống trên chiếc ghế đẩu không có chỗ dựa lưng, ngó một loáng bâng quơ người quen và người lạ, sẽ có người hỏi:

- Mấy o, mấy cậu thời bún chi?

Khách chỉ có lựa chọn giữa bún khô và bún nước:

- Dạ, cho mấy tô bún nước

Lát sau, mấy tô bún bò giò heo bốc khói, mùi thơm tỏa ra dìu dịu, được bưng ra đặt trên bàn. Bún được nấu nướng từ sau bức tường của dãy nhà ngang trông vào có vẻ phòng the hơn là bếp núc.

Tô bún bò Huế mới thoạt nhìn, có vẻ đạm bạc và thanh lịch như chiếc áo dài phin trắng nõn nà. Tô bún chỉ lớn hơn bàn tay búp măng xoè ra một tí. Nước bún trong để lộ những tép bún trắng nằm sóng soãi vươn lên miệng tô. Nước bún không mỡ màng, không bị vẩn đục vì gia vị. Vài loáng ớt màu đỏ nhạt, quyện với dầu sả nổi đốm sao trên mặt tô không che được miếng giò heo búp, mỏng bằng hai phần lóng tay. Miếng giò heo trắng ngả màu vàng với lớp da mỏng, ôm khoanh thịt nạc và mảnh xương tròn ở giữa như nhụy hoa nằm bắt mắt và mời gọi, nửa chìm nửa hở trong tô bún. Che mái cho tô bún là ba bốn lát thịt bò bắp xắt mỏng, những lát bò bắp với thớ thịt chắc nịch nâu đỏ và những đường vân vàng nhạt của nạm, gầu, gân, sách.

Trên bàn đã có sẵn đũa tre, muỗng sành, nước mắm, ớt tương và rau hành chanh múi. Một dĩa nhỏ hành củ trắng phau và hành lá, rau thơm xanh mưót điểm thêm ngò ta xắt mỏng để rắc lên mặt tô bún cho thêm nồng nàn hương vị. Rau hành của bún không phải là rau sống cuả phở, rau chỉ đóng vai trò “nước hoa” cho tô bún. Trên một góc dĩa là ớt tươi xắt lát. Cái cay của ướt tươi là đậm đà, mọng nước, đủ sức khống chế những cao thủ ớt đã nếm đủ vị giang hồ mà vẫn còn thấy nhạt. Cạnh đó là dĩa ớt tương nhỏ xíu màu huyết dụ; ớt tương của bún bò Mụ Rớt cũng được liệt vào hàng "gia vị bún bò bắc đẩu", nhìn thì có cái vẻ mềm như nhung với màu đỏ sẫm, điểm những hột ớt vàng hoe nhưng nếm vào mới biết thế nào là cái “hiền” của Huế. Gắp một tí ớt tương đầu múi đũa bỏ vào tô là ớt từ từ bung ra như nhụy hoa trên mặt nước bún. Hoa hồng thường có gai, nên nhụy hoa bún cũng làm cho biết bao người cay giọt ngắn, giọt dài!

Cung cách nêm tô bún trước khi ăn cũng thể hiện phần nào phong thái của người ăn. Vẻ e dè chờ đợi của khách mới, dáng khoan thai của giới nhàn du, sự xông xáo của người đói bụng, cách lịch lãm của kẻ từng quen... là những biểu hiện thường tình trước tô bún.

Khi đã nêm xong, húp một muỗng nước bún khai vị để cảm nhận được cái chất ngọt thanh pha đủ mùi gia vị. Mùi sả, mùi ruốc, mùi xương hầm, mùi thịt luộc, mùi chanh, mùi rau, mùi tiêu hành nước mắm... đã biến chất, đã quyện vào nhau tạo thành mùi bún bò có sức hấp dẫn lạ lùng riêng của nó. Miếng giò heo thanh nhã trong tô bún với lớp da mỏng có bìa da úp quanh miếng thịt nạc như đài hoa chưa nở nên thường gọi là giò “búp”. Cắn miếng giò, những sợi thịt trắng vừa béo, vừa ngọt vẫn còn thơm mùi thịt tươi mới chín nhẹ nhàng bốc hơi trên hai cánh mũi. Gắp lát thịt bò bắp. Lát thịt bò mỏng với những đường gân, sứa thịt và viền mỡ dòn tan giữa hai kẻ răng và vị ngọt béo miên man trên đầu lưỡi. Tô bún bò Huế vơi dần nửa như thách thức, nửa như mời gọi khách rằng, chưa cạn hết tô chưa gác đũa.

Tô bún bò Mụ Rớt được xem là đặc trưng cho tô bún Huế là vì nó mang những nét thanh đạm và đơn giản. Có thể nói cái thanh của bún Huế ví như những nét đan thanh của tà áo trắng, tà áo dài mỏng manh cửa đóng then gài ngỡ như là tử cấm thành của phái đẹp thần kinh, nhưng lại kín đáo phô bày trọn vẹn những nét đẹp trên thân thể của người mặc. Người mặc áo Kimono của Nhật chỉ cần một khuôn mặt đẹp, nhưng người mặc áo dài Việt Nam khó mà che dấu được những nét mỹ miều hay thô thiển của thân hình. Cũng tương tự như vậy, một tay nấu bún “hạng lông” có thể nấu một tô bún thập cẩm với tấp nập thịt thà rau cải rềnh rang như chiếc áo Kimono, nhưng lại khó có thể nấu một tô “bún-bò-áo-trắng” kiểu Huế thoạt nhìn tưởng như là quá đơn giản mà ẩn dấu lắm công phu.

Linh hồn của tô bún bò Huế là nước bún. Nước bún là nước được hầm từ xương heo, xương bò, gà tươi, và có khi là cây, củ... Phần khó nhất trong việc nấu nước bún là giữ cho nước trong, ngọt thanh, không mỡ màng, không lềnh bềnh gia vị. Những “trường phái” bún bò khác nhau ở Huế thường dấu bí quyết nấu nước bún vừa trong vừa ngọt, nhưng tất cả đều có điểm cơ bản khá giống nhau là cách chọn xương hầm, cách luộc tái rồi đổ nước đầu tiên, cách vớt và lọai bỏ bọt thải đúng lúc, đúng điệu, thường là yếu tố quyết định trình độ cao thấp của “tay nghề”.

Bún sợi thật sự là bún tươi, trắng ngà, có độ dẻo và độ lớn vừa phải.

Thịt heo trong tô bún chỉ đơn giản một lát giò có đủ da, đủ nạc và xương. Giò luộc vừa chín, không quá lửa làm cong queo, mềm nhũn, thoang thoảng gia vị vừa ăn; thơm nhưng không mất mùi thịt heo nguyên thủy.

Thịt bò trong tô bún là bò bắp luộc vừa chín, xắt lát mỏng, xào nhẹ lại với đồ màu và tránh tình trạng quá lửa làm “bò teo, heo nở”.

Gia vị chủ lực của bún bò Huế là sả, ruốc và ớt, nước mắm. Tinh dầu của cây sả có mùi thơm rất nồng, đủ mạnh để làm trung hòa mùi ruốc và giúp cho mùi thịt trộn tiêu hành nước mắm trở nên dịu và ngào ngạt hơn. Dầu sả nhẹ hơn dầu mỡ nên làm cho nước bún nổi sao óng ánh, tránh được những váng mỡ nặng nề làm cho người ăn ái ngại. Một cây sả tươi cần chọn đoạn giữa vừa thơm, vừa phong phú tinh dầu. Đừng quên sả gốc nồng và chát, sả ngọn ít thơm và dễ làm cho nước bún nhiễm màu xanh của lá.

Trong nồi bún, nếu sả quyết định cho hương thì ruốc quyết định cho vị. Ruốc phải đánh loãng và thải hết chất bã. Ruốc nêm lúc nước còn lạnh để khỏi nặng mùi. Ruốc nêm đúng phân lượng sẽ làm cho nước bún có vị ngọt đậm đà và mùi thơm phảng phất chất mắm muối quen thuộc của đồ ăn Việt Nam. Ruốc nêm thiếu, nước bún sẽ “ỏn”, nghĩa là lạt lẽo, kém vị, thiếu mùi như nước ốc. Ruốc nêm thừa, nước bún sẽ “hăng”, nghĩa là mùi vị nặng nề, không tỏa ngát quanh tô bún mà có vẻ như chìm lỉm trong nồi nước bún.

Bên cạnh kỹ thuật và kinh nghiệm của người nấu, chất liệu cũng đóng một vai trò quan trọng cho hương vị của tô bún Huế. Chẳng hạn như thịt heo nấu bún Huế thường lấy từ thịt heo cỏ. Đó là giống heo nhỏ nuôi bằng rau, chuối nấu với cám gạo cốt để vừa lấy phân, vừa lấy thịt. Heo càng lớn càng dài ra và thịt rắn lại chứ không phát triển “sồ sề” như giống heo mẹo nuôi trong kỹ nghệ lấy thịt sau nầy. Giò heo do đó vừa chắc, vừa thơm, vừa ít mỡ. Giò heo lý tưởng cho tô bún là giò sau: “Nấu giò sau, cho nhau giò trước”.

Ngoài ra, rau hành, gia vị... thường được các bà Huế nêm theo kiểu “luyện công” nên mọi thứ đều được tính toán chi li vừa đủ phân lượng cần thiết. Có dịp nhìn một bà Mỹ vào bếp với dáng kích động như muốn nhảy “Disco” với soong chảo, một bà Nam nếm đồ ăn trên lò, miệng chưa tắt nụ cười vui sau câu cải lương mùi mẫn... mới thấy được hình ảnh tay cầm đũa, mắt đăm đăm, môi chút chíp nêm đi nếm lại như đang “truyền tâm ấn” của một bà Huế trước nồi bún đang sôi là “thục nữ thần kinh”. Chính yếu tố địa phương, hoàn cảnh và tâm lý đã làm cho tô bún bò Huế trở thành ngon và độc đáo hơn vì nó được chuẩn bị, phục vụ và thưởng thức trong mức độ vừa đủ về lượng cũng như về phẩm.

Sự dễ dãi về hoàn cảnh sinh hoạt và phong phú về điều kiện vật chất có vẻ như có một tác dụng nghịch chiều cho tiến trình tạo nên cái vẻ thanh nhã truyền thống của tô bún bò Huế. Bún bò Huế càng tiến về Nam càng được thêm thắt như tà áo trắng biến thành áo gấm với phượng vẽ rồng thêu. Bún Huế chỉ cần vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng là đã đổi khác: Tô lớn hơn, mỡ màng và thịt, gân, rau hành nhiều hơn. Bún Huế tiến vào Sài Gòn thành tô “phở bún” xe lửa tàu bay với nước béo, rau sống, giá sống, thịt chả ê hề. Chính bún bò Mụ Rớt Huế vào Nam cũng đã chuyển mình thành “bún bò Mụ Rớt Nam Bộ”. Bún bò Huế càng được chiếu cố rộng rãi chừng nào, sự “sáng tạo” và biến thể càng nẩy mầm trăm hoa dua nở chừng đó. Đến nỗi, một người thích “khảo” về các món ăn miền Trung gần đây như ông Đinh Miên đã phải lên tiếng “xóa óa” khi nhắc về bún bò Huế tại Mỹ trong bài “Cơm Việt, Quê Người”: “Đi đâu cũng nghe bún bò Huế chính gốc mà không biết gốc gì, nên gốc gì cũng đặng!” (Việt IX - 95). Ông Đinh Miên thuộc về trường phái “chịu chơi” khi luận về bún Huế. Ông cởi mở đón nhận sự chuyển mình của tô bún với vẻ cười cợt hồn nhiên như người đã biết là không thể tắm hai lần trên cùng một giòng sông. Cũng có người muốn “ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng” lên tiếng cho rằng, tại sao những món ăn truyền thống của thế giới như Pizza của Ý, Kabob của Ba Tư, Taco của Mễ, Kentucky Chicken Fried của Mỹ, Mì Triều Châu của Tàu... đi đâu cũng nghe cùng một hương vị, mà Bún Bò Huế lại có người nấu Sở kẻ nêm Tần như vậy, sợ một ngày kia “mất giống” tìm đâu!? Có lẽ không ai trả lời được câu hỏi đó vì món ăn là một phần của văn hóa mà gốc của văn hóa là con người. Khi đất nước và con người còn đó thì ngại gì tô bún đổi thay.

Những huyền thoại quanh tô Bún Bò Huế

Tuổi già của Huế thích lui về sống ẩn dật với quê hương, gần gũi với bà con làng xóm và mồ mã tổ tiên, nhưng tuổi trẻ lại thích bay xa tới những phương trời mơ ước. Niềm ước mơ của một đứa trẻ lớn lên sau lũy tre làng như tôi là làm sao được lên Huế học. Thành phố Huế cách làng tôi chưa đầy một giờ đi xe đạp nhưng đối với tôi thời nhỏ nó vừa thực vừa mộng như một vùng đất hứa. Có những buổi chiều đứng đầu ngõ nhìn những người lên Huế sắm hàng với các món đồ gói trong giấy, trong hộp đầy màu sắc gọi là “đi Dinh mới về”, tôi ước chi mình sẽ được lên Dinh

Tuy không có quy định thành văn nhưng con đường duy nhất để được lên Dinh ăn học đối với tuổi trẻ ở làng như tôi là phải thi đậu “Càng Cua” (concours) trước đã, đó là kỳ thi tuyển học sinh vào lớp đệ thất trường công mà trong toàn tỉnh Thừa Thiên chỉ có thành phố Huế mới có. Mẹ tôi thường nhắn gởi: “ Chuyến ni mà con thi đậu ỏcàng cuaõ, cực mấy mạ cũng gắng lo cho con lên Dinh học”.

Mẹ tôi dắt tôi lên Huế hai ngày trước khi thi “càng cua”, đi qua đi lại trước trường Hàm Nghi (ngày xưa là Quốc Tử Giám) nhiều lần cho quen đường đi nước bước. Tôi ở lại nhà chị Quyến tôi nơi đường Ô Hồ. Buổi sáng ngủ dậy, chị kêu gánh bún vào ăn điểm tâm. Gánh bún õng ẹo trên đôi vai o gánh bún, có khói và hơi bốc nhè nhẹ xung quanh như một đầu máy xe lửa xuống đèo. Nghe chị đặt hàng, tôi có cảm giác hơi là lạ:

- O múc cho tô “trung”, bún vừa, nước xắp xắp thôi. Cho giò nạc búp, thêm cái ngoéo. Đổi huyết lấy bò bắp xắt vô. Khoát bớt ớt màu, bỏ hành rau răm rươi rươi thôi, ớt tương nước mắm bỏ riêng...

Người bán bún chừng như đã quá quen thuộc với lối đặt hàng rắc rối đó nên làm thinh múc bún. Nồi bún nóng thân tròn, miệng uốn trông như chiếc lư đồng cổ không nắp không chân, đặt trên lò lửa riu riu đỏ. Tay o cầm cái vá cán dài, quây một vòng trong nồi bún với dáng tay nhẹ nhàng và điệu nghệ như cô vũ nữ Thái múa điệu cánh sen. Cái vá dừng ở đâu trong nồi nước bún là “bắt” được ngay miếng thịt, miếng giò đang cần, chính xác như ra-đa tìm thủy lôi.

Một lát sau o mới hỏi:

- Ai ăn rứa?

Chị tôi trả lời một cách hãnh diện:

- Thằng em tôi dưới làng lên ở lại thi “càng cua”.

Tự nhiên o bán bún coi bộ quan tâm:

- Nì, nói chuyện vô duyên chơ học trò đi thi không nên ăn giò búp: búp hoài không nở thì mần ăn chi nữa. Để tui múc cho một cặp giò ngoéo: ngoéo trước, ngoéo sau thì rớt đi mô được, thi đậu chắc nụi!

Chị tôi coi bộ cảm động ra mặt vì gặp được “Thầy”... bún, nên nhiệt liệt ủng hộ ngay:

- May có o nhắc chớ không thì khổ em tui rồi. Rứa! Múc ngoéo vô đi o!

Thật tôi không ngờ bún Huế “linh” như vậy, nên hôm đó ăn tô bún Huế mà cảm thấy trân trọng và ngất ngây như uống rượu thánh.

http://www.nhohue.net/image/mon_an/bun_bo5.jpgVề làng, tôi thường ăn bún với nước mắm ớt. Mẹ tôi có mấy lu ruốc bự bành ky để ở nhà dưới, nước mắm nhĩ trong vắt nằm một lớp trên mặt. Đem lúa đổi lấy bún vắt hay bún lá, rồi múc nước mắm nhĩ từ trong lu ruốc, ra vườn hái ớt xé vào. Bún tươi chấm với nước mắm nhĩ pha thêm ớt trái mùa Xuân ăn ngon “nhức răng”. Thêm vào đó, một năm đôi ba lần được ăn bún với nước xáo lòng gà, thịt bò nên chú bé quê trong tôi cũng đã bằng lòng lắm với cuộc đời đầy đãi ngộ nầy rồi. Nay được ăn tô bún Huế với những thịt thà thơm phức, với cách nấu bún công phu, cách múc bún điệu nghệ... làm cho tôi cảm thấy được “lây” cái văn minh sang cả của người thành phố.

Ngày đi thi, tôi dậy sớm trước khi gà gáy lại, hồi hộp chờ trời sáng để tới trường thi, nhưng trong lòng cũng cảm thấy thinh thích khi nghĩ đến tô bún Huế với cặp giò ngoéo có lớp da mềm mềm bao quanh những thớ gân dòn tan như ăn ổi đỏ ở làng. Hình như mới có hai buổi sáng trôi qua mà tôi nghe như đã bị phố phường cám dỗ. Buổi sớm tôi nghe mẹ tôi bàn bạc to nhỏ với chị tôi, rồi tiếp theo đó có người gánh gánh xôi vào trước hiên. Nhìn dĩa xôi đậu xanh chấm muối mè bày ra trước mặt, tôi bắt đầu hoang mang. Mẹ tôi hối:

- Ráng ăn xôi đậu muối mè đi con!

Khi tôi ngao ngán ngáp dài kêu mệt quá và muốn ăn bún chứ xôi đậu, muối mè khô khan quá nuốt không vô, mẹ tôi dịu dàng an ủi:

- Con thi xong rồi, ưng ăn bún cả gánh mạ cũng cho. Con di thi “càng cua” mà ăn bún vô trơn, nói trời không nghe lỗ miệng, chớ nó truột di thì thi hỏng mất! Lúc trước mấy cậu con thi chi hỏng nấy là vì không nghe lời mệ ngoại, cứ dè ngày thi cử mà ăn bún không kiêng cử nên thi trợt tuốt luốt, phải xếp sách vở về quê đi cày. Chừ con gắng ăn xôi đậu, xôi muối mè dính mô chắc nấy, trời mới cho con đậu.

Tôi rướn cổ nuốt cho hết dĩa xôi mè vì thương mẹ hơn là sợ thi trượt. Tới ngày treo bảng, nghe loa đọc tên nhưng tôi không tin là mình đậu “càng cua” thứ nhì trường Hàm Nghi trong số hơn một nghìn thi sinh dự tuyển và có hai trăm trúng tuyển năm đó.

Suốt một đời, tôi không làm sao quên được hình ảnh mẹ tôi với hai hàng nước mắt sung sướng chảy dài trên đôi má phong trần vì lặn lội gieo neo nuôi con. Mẹ tôi nói như đã nắm được bí mật cuộc đời:

- Chộ chưa! Con nghe lời mạ, ăn xôi đậu nên mới thi đậu. Còn thằng Tý xóm Bàu, thằng Rô xóm Cụt, Thằng Lúi lò rèn to béo xắp hai con, nghe nói mỗi đứa ăn hai tô bún để đi thi nên trượt tuốt luốt.

Tôi muốn nói cho mẹ tôi biết bọn thằng Tý, thằng Rô, thằng Lúi... suốt cả mùa Xuân trốn học, thu sách vở trong bụi tre lá ngà đầu làng đi chơi; trong khi tôi học thuộc cháo sách Sử Ký của Trần Đinh, giải hết 1000 bài toán đố của Một Nhóm Giáo Viên, đọc nhuyễn 50 Bài Luận Mẫu và Tâm Hồn Cao Thượng của Hà Mai Anh... Thế nhưng nghỉ sao tôi lại thôi, vì mẹ cũng có một khung trời riêng của mẹ mà tôi chỉ dám núp sau áo mẹ để lặng im chiêm ngưỡng chứ không dám thả cánh chim lý luận làm huyên náo khung trời đó và làm mẹ buồn lòng.

Từ đó về sau nầy, tôi thường cố “cữ” ăn bún mỗi lần có thi cử. Ngay cả hơn 30 năm sau, khi tóc đã điểm bạc trên bước đường lưu lạc ở quê người, có những lần đi thi chuyên môn, đi phỏng vấn việc làm, đi thi tốt nghiệp trong trường đại học Mỹ, tôi vẫn “kiêng” ăn bún nhưng chỉ tìm cách né tránh âm thầm chứ không dám nói ra vì sợ bị chọc quê. Thật ra, mỗi lần đụng đến thi cử là tôi lại nhớ mẹ đến quặn lòng, nên tôi cử ăn bún để được cái cảm giác ấm áp thiêng liêng như hôm đó mình đang có mẹ thật gần

Đến khi lên Huế học, những huyền thoại về bún bò Huế càng có vẻ mọc cành mọc lá sum sê hơn. Thế giới học trò cũng nhỏ bé và xinh xinh như thành phố. Phía sau trường Hàm Nghi của tôi là Viện Bảo Tàng và nhà thờ Nguyễn Phước Tộc hay là Tôn Nhân Phủ. Bên kia đường là cửa Hiển Nhơn vào Đại Nội. Kế đó, có hai trường văn nghệ nhất Huế, đó là trường Quốc Gia Âm Nhạc và Cao Đẳng Mỹ Thuật mà lũ học sinh nghịch ngợm của chúng tôi thường chọc mấy anh chị sinh viên bằng cách gọi là “Trường Kèn” và “Trường Cọ”. Sinh viên hai trường Kèn Cọ thường la cà ở quán cà phê Tôn, nơi đó, thật ra chỉ là một chiếc xe kiểu xe sinh tố đặt mé trái trước Tôn Nhân Phủ do vợ chồng bác Tôn đứng bán bún bò và cà phê. Giới nghệ sĩ lang thang thường bàn luận một cách công khai rằng, ngày nào vợ chồng bác Tôn không cãi nhau là ngày đó bún bò không ngon vì thiếu đi cái “tinh thần hào sảng” của cặp vợ chồng bác Tôn khi nấu bún.

Giới văn nghệ sĩ cà phê Tôn còn đi xa hơn khi kháo nhau rằng nếu lỡ một mai kia, lịch sử thành thơ đưa họ lên làm lãnh tụ, thì họ sẽ đặt tên con đưòng từ Vỹ Dạ lên Ga Huế là "Đường Cơm Hến" và đường từ cầu An Cựu lên cầu Trường Tiền là "Đại Lộ Bún Bò" vì mỗi buổi sáng tinh sương, dọc trên con đường nầy có cả đoàn bún gánh phát xuất từ An Cựu tỏa ra khắp thành phố Huế. Khói xanh đun nồi bún bay phơ phất trên đường như một sự mời gọi êm đềm: Bún bò An Cựu, cơm hến Đò Cồn, trứng lộn Chợ Dinh, bánh canh Nam Phổ... Cũng may hay cũng buồn, lịch sử không phải là thơ nên tuy Huế có những con đường tình cảm mang tên kỷ niệm và giai nhân bất thành văn như đường Hàng Me, đường Áo Trắng, nhưng vẫn chưa có tên đại lộ Bún Bò.

Bản thân tôi từ một vùng quê ruộng đồng lên tỉnh học, sau mấy năm học đòi văn hóa Huế, cũng bị nhiễm bún bò rất nặng. Tôi đã ưu tư nhiều về sự hiện diện của bún bò giò heo kể từ khi làm quen với một cô hàng xóm nhân dịp cô đi xe đạp, vạt áo dài tung bay phất phới và cuốn theo chiều gió mà quấn vào trong giây "sên", trong "ổ líp". Tôi bèn ra tay cứu khổn phò nguy gỡ áo em ra và không quên bôi thêm dầu sên lên tay lên mặt cho ra vẻ lẫm liệt, can trường. Tên cô là Mộng Hoàng, tất nhiên có cái họ đi trước rất chi là thế gia vọng tộc. Chỉ mới cái tên thôi cũng đủ biến tôi thành Trương Chi bên cạnh Mỵ Nương đi xe đạp mất rồi. ễ làng, tôi đi từ xóm trong ra xóm ngoài để sưu tầm những tên giai nhân đẹp nhất thì cũng chỉ có những Nguyễn Thị Gái, Trần Thị Chắt, Lê Thị Dẹp... đào đâu ra có Mộng, có Hoàng.

Những buổi sáng, tôi và Hoàng vẫn đạp xe đạp song song chung đường từ Thành Nội, qua cầu Trường Tiền, rồi Hoàng vào Đồng Khánh và tôi vào Quốc Học. Đôi ba lần Hoàng quay sang phía tôi cười, một phiến ớt màu bún bò tí ti đỏ chói nằm trong góc chiếc răng khểnh trắng nõn nà của Hoàng. Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mất đi cái cảm giác thanh thoát khi nhìn sự hiện diện vô duyên của ớt màu nằm trên chiếc răng khểnh duyên dáng đã làm tôi xao xuyến bao lần. Tôi lên tiếng, nhẹ nhàng như nắng, sợ làm vỡ những giọt sương tình cảm long lanh. Rồi cả hai đứa dừng lại, đứng khuất sau gốc cây long não, tôi xé mảnh giấy trắng nhất trong tập vở học trò, vo lại thành cây tăm và nín thở khêu chút ớt màu bún bò vô tình nằm chênh vênh không đúng chỗ. Hai đứa nói nhỏ như ngại hàng long não đứng nghe. Hoàng vùng vằng sợ tôi nhìn sâu hơn đáy mắt:

- Ngó dữ chưa tề, dị chết!

Tôi thanh minh như Vương Tử Trực:

- Coi tề, không ngó chộ mô mà khêu!

Khi lên xe đạp đi tiếp, Hoàng phàn nàn, cái phàn nàn mà tôi cho rằng đáng lẽ ra là một sự biết ơn:

- Me phiền dễ sợ! Sáng mô cũng bắt Hoàng ăn bún bò ớn phát sợ luôn.

Cái "ớn phát sợ" của Hoàng lại là cái ước mơ ngoài tầm tay của đám học trò nghèo như tôi. Cứ tưởng tượng mỗi buổi sáng, khi trời Huế còn lành lạnh mà được ăn một tô bún bò giò heo, có váng mỡ vàng mơ ngã hồng trên mặt, nêm thêm một "múi đũa" ớt tương màu huyết dụ chắc sẽ sáng mắt sáng lòng mà học một nhớ mười. So với một chén cháo gạo với muối trắng của tôi hay một chén cơm chan chút nước mắm ớt của tụi bạn cùng hoàn cảnh ăn điểm tâm trước khi đi học, tự nhiên một cảm giác hơi buồn buồn pha chút tủi thân lặng lẽ dâng lên trong lòng. Bún bò tự nó không có giai cấp, nhưng giai cấp tự nó có bún bò: Phận nghèo bấm bụng nằm co. Giàu thời nem chả, bún bò giò heo!

Tuổi trẻ của Huế êm đềm và dễ hòa diệu sống như giòng sông Hương. Tôi đã quên rất nhanh hình ảnh tô bún bò của Hoàng và chén cháo gạo của tôi. Hai đứa chưa bao giờ dám nói thương nhau mà chỉ lửng lơ nói chuyện đã cùng "thương con đường đi học". Mỗi cô gái Huế đều có một bà chúa trong hồn và mỗi cậu con trai Huế đều có một ông hoàng trong bụng. Bà chúa thì thích sang mà ông hoàng thì thích ngọt, cho nên tôi đã nhẹ dạ nghe Hoàng dỗ ngọt mà hẹn hò lần đầu lên chùa Thiên Mụ và về ăn bún bò Kim Long. Chúng tôi đã phạm vào hai điều tối kỵ làm tan vỡ bao nhiêu mối tình đầu đẹp như mơ của Huế: Đó là hẹn hò lần đầu không được lên chùa Thiên Mụ và không được ăn bún. Đồi Linh Mụ là đất thần kinh, nơi để chiêm bái chứ không phải là nơi tính chuyện ân tình hò hẹn. Tình cảm trai gái chớm mầm trên đất thánh thì sẽ không bén rễ trong tim người. Còn ăn bún là trơn tru, không níu kéo như gừng cay muối mặn, nên cuộc tình rồi cũng theo bún mà trôi đi! Rất có thể bà Linh Mụ đã nhìn thấy tôi và Hoàng hò hẹn, cho nên mới "xui" về Kim Long ăn bún. Bởi vậy, nên tới Hè, Hoàng giã từ Đồng Khánh, chuyển qua Jeanne d'Arc để chuẩn bị đi Tây.

Kỷ niệm chia tay cũng êm đềm mà nhức buốt như những cơn mưa phùn tháng Giêng của Huế. Hoàng gởi cho tôi cuốn sổ lưu bút có giấy pơ-luya màu xanh, màu trắng, màu hồng; có thắt nơ tím với câu thơ tiếng Tây quá quen thuộc với tuổi học trò của Huế ghi nắn nót ở trang đầu: "Partir, c'est mourir un peu!... Ra đi là chết trong lòng một ít. Biết nói sao bây giờ?!". Tôi là học trò ban B (Toán - Lý Hóa toàn ròn) nên trong đầu lúc nào cũng lùng bùng ròng những đạo hàm và ẩn số của thầy Trần Tuệ và thầy Hồng Giũ Lưu. Huế lại là vùng đất ưa hò vay trả. Đào đâu cho ra chút văn chương man mác nòi tình mà đáp lại cho Hoàng đây. Tôi bỏ cả việc đi trại Hè để cố đào cho ra dăm câu thơ nếu không “ác liệt” thì ít ra cũng có vẻ môn đăng hộ đối với Hoàng. Bên tê dẫn thơ Tây thì bên ni phải trích thơ Mỹ. Tôi vô thư viện, tìm mục thơ tình lãng mạn để kiếm vài câu làm thuốc. Thơ tình chết tiệt rủ nhau trốn đâu mất cả. Bí quá, bỗng vớ được vài câu thơ đề tựa cuốn sách của Helen Steiner Rice, tôi thấy như mở cờ trong bụng: “Somebody loves you than you know. And will always be with you wherever you go!” (Ai nào thấu hết tình ai. Chân mây góc biển thương hoài ngàn năm). Và, để phụ đề Việt ngữ tôi chọn hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, đọc đi đọc lại đắc ý nổi da gà: “Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ!”.

Kèm với thơ thẩn là cái lược bằng gỗ trầm hương, vật kỷ niệm của mẹ, tôi xin và tặng lại cho Hoàng mà bỗng tự cảm thấy mình sâu sắc như một người tình trong chuyện thần thoại;Năm 1992 về lại con đường cũ, đọc thơ Xuân Hoàng mà nhớ bâng khuâng đốm ớt bún bò và nét cười răng khểnh:

Tôi đi trên đường Lê Lợi dọc sông Hương

Nắng trong suốt lọc qua hai hàng long não

Đất nước đổi thay qua bao mùa giông bão

Con đường xưa vẫn dáng dấp diệu kỳ...



Hơn mười năm, tôi mới có dịp trở lại chen chân trên đường phố Huế vào một buổi chiều 29 Tết. Đi trong nắng cuối Đông dìu dịu thương quen của Huế mà cứ ngỡ như mình mới xa Huế hôm qua. Nghĩ đến mai xa Huế tự nhiên tôi có cảm gíác như mình là kẻ phụ tình với Huế. Huế vẫn lặng lẽ chờ đợi như người tình trăm năm mà tôi thì cứ dứt áo ra đi lang bạt kỳ hồ.

Rồi quả đất cũng tròn và thế giới nầy cũng nhỏ nên “những kẻ phụ tình với Huế” vẫn có lúc gặp nhau ở quê người như một sự tình cờ của định mệnh. Hơn 30 năm sau, rất tình cờ, tôi gặp lại Mộng Hoàng ở Little Sàigòn, Quận Cam Ca-li. Tôi nhận ra Hoàng, bà chủ tiệm ăn có tên vừa Tây vừa Huế, nhờ chiếc răng khểnh "thương bắt chết" vẫn tô điểm cho nụ cười duyên dáng ngày xưa. Tất nhiên, tôi từ phương xa ghé vào đây cũng vì món "bún bò Huế chính gốc". Nhắc chuyện cũ, cả hai đứa cùng cười ngặt nghẽo. Giọng Hoàng tuy phảng phất một chút âm vang trời Tây nhưng vẫn chưa phai màu Huế:

- Thời nớ, răng tụi mình dễ thương dễ sợ hí!

Tôi cười cười nhắc lại:

-Sau nớ, còn ai khêu ớt trên răng cho Hoàng nữa không?

Mắt Hoàng bỗng thoáng một chút trầm tư "nhắc làm chi sương khói thuở xa xăm" và ánh lên màu kỷ niệm:

- Lạ chưa tề. Nhắc chi nữa, dị chết!

Tôi nhìn Hoàng. Mắt bâng quơ đậu trên vài ba sợi tóc loà xòa điểm bạc. Hoàng biết và ngúng nguẩy che đi. Hoàng nói thật bất ngờ, giọng trang đài như đọc câu thơ tình thời cổ:

- Chải lược trầm hương nên sớm thành tóc bạc!

Tôi hiểu Hoàng nói gì nhưng phản ứng như anh học trò cả ngố:

- Thơ của ai rứa Hoàng?

Hoàng trả lời “mần đày”:

-Thơ ai? Thơ ông cai bến đò!

Đàn bà Huế mà đã “mần đày” thì Tần Thủy Hoàng cũng phải biết rằng mình đã lỡ vô tình, cần lẳng lặng chui vào ổ rơm nằm ngủ qua đêm.

Rứa đó! Dân Huế suốt đời vẫn là những đứa trẻ thơ mỗi lần nhớ Huế, nhớ những kỷ niệm đã thiu thiu ngủ trong ký ức và trên quê mẹ của mình.

Xa quê, rủ nhau ăn một tô bún bò Huế nấu bằng heo Mỹ, bò Anh, ruốc Tàu, bún Nhật... Miếng ăn có thể khác nhau vì ngon hay dở, nhưng nỗi nhớ quê nhà thì vẫn hiu hắt giống nhau trong cùng thẳm của mỗi tấm lòng. Bún bò Huế đã vượt sông Mỹ Chánh ra Bắc, vượt đèo Hải Vân vô Nam, vượt trùng dương sang Âu tới Mỹ. Giữa những phố phường xa lạ quê người, đọc trên một tấm biển của một tiệm ăn nào đó có ghi “Bún Bò Huế”, người Việt tha hương nào mà khỏi thấy lòng mình ấm lại. Bún Bò Huế không còn là riêng của Huế mà hương sả nồng, vị ớt cay, mùi ruốc mặn đã thấm vào mạch đất quê hương và lòng dân tộc Việt đầy yêu thương nhưng cũng lắm đoạn trường chưa có ngày sum họp.


Trần Kiêm Đoàn

THIÊN TỬ
06-11-2009, 08:59 AM
Bún bò huế coi như là số dách của mình, đặc biệt là mami nấu ngon kinh:clap:

:)
08-11-2009, 02:28 AM
Cơm hến


http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/amthuc/dacsan/2009/10/3_comhenea0.jpg

Đã có nhiều người viết về cơm hến Huế. Nhưng những câu chuyện dưới đây mới thật vừa quen vừa lạ. Quen vì chuyện cơm hến thì ai cũng ít nhiều được biết, lạ là vì có những chuyện quả nhiên không phải ai cũng đã từng... Cái thuở ban đầu "cơm hến" nớ!...


Cơm Hến Huế cũng giống như tình cảm của người con gái Huế: Chắt chiu mà hào sảng, đơn giản mà thâm trầm.
Làm người Huế là một cái “nghiệp” vì nói như mấy o nữ sinh trường Đồng Khánh - những nàng tiên áo trắng dịu hiền, cắn cơm không bể cắn tiền bể tư - rằng: "Huế là quê hương đi để mà nhớ, chứ không phải ở để mà thương". Trái lại, biết ăn Cơm Hến Huế là một cái “duyên” vì dù ở bất cứ phương trời nào, cơm hến cũng là một tấm giấy thông hành tình cảm để cho những người có chút duyên nợ với Huế tìm về nhau mà chan, mà húp, mà nghẹn ngào và rơm rớm nưóc mắt vì... cay!

Không phải người Huế nào cũng biết ăn, thích ăn và ghiền ăn cơm hến, cũng như không phải ngưòi Bắc nào cũng khoái rau muống bảy món và người Nam nào cũng mê cá rô kho tộ. Ăn cơm hến có “ăn dòng” và “ăn theo”. Ăn dòng là những người Huế chính thống, sinh ra từ miệt An Hòa, An Lăng, An Cựu, Bao Vinh, Vỹ Dạ, Chợ Dinh, Chợ Nọ trở vào thành phố, đó là những người mới sinh hôm trước, sáng hôm sau đã có o bán cơm hến gánh triêng gióng, nồi niêu ngồi lù lù ngay trước cửa nêm cơm hến rồi.Còn ăn theo là dân Huế thuộc phận gái chữ tòng hay thân trai dài lưng tốn vải từ quê lên tỉnh học hoặc trong Quảng ra thi rồi “lỡ bước sang ngang” mà ở lại đất Thần Kinh. Với những gã si tình nhưng tình không si lại mà gặp những trận mưa héo úa tâm hồn của Huế, thì cơm hến là cơm "phù thủy" và đây là đất Thất Kinh.

Nhất ẩm nhất trác còn giai do tiền định- ăn một miếng, uống một hớp đều có trời cao định đoạt- huống chi là cái sự... ăn cơm hến. Luận về cái tính tiên thiên tiền định trong cơm hến tôi cảm thấy đã đến lúc cần phải phát huy tinh thần “về nguồn” của một người con dân xứ Huế, nghĩa là thử nhớ lại mình đã tìm đến với cơm hến khi mô, như Ngưu Lang đã gặp và mê Chức Nữ trong trường hợp nào.

Làng tôi ở cách Thành Phố Huế khoảng 10 cây số. Quanh làng có đủ sông hồ ao lạch với nhiều loại hến trùng trùng điệp điệp, rứa mà chẳng hề nghe ai trong làng tự nấu cơm hến cả. Bao nhiêu hến bắt được đều đem ra nấu canh, nấu cháo và xào hến. Thỉnh thoảng tôi vẫn nghe nam thanh nữ tú trong làng nói đến “cơm hến bên Cồn” một cách trang trọng và hào hoa như khi nói đến cơm ngọc Giang Châu hay cơm chiên Thượng Hải. Tuổi thơ, tôi vẫn mơ một ngày nào đó lên Huế học, được dắt tay một cô nàng áo trắng, đội nón bài thơ trên mái tóc thề thần thoại để hai đứa cùng qua ăn cơm hến bên Cồn.

Ngày đó tới, khi tôi 17 tuổi, học lớp Đệ Nhị trường Quốc Học. Tôi đến thăm nhà một người bạn cùng lớp ở vùng Chợ Xép, người bạn có cô em gái xinh xinh học ban C trường Đồng Khánh. Tôi thuộc loại con nhà nghèo, trai quê, học giỏi nên cũng dễ dàng lọt qua mắt xanh của mấy cô tiểu thư chợ Xép có bà già là tiểu thương chợ Đông Ba. Bởi vậy ngay hiệp sơ ngộ ra mắt, tôi đã được chiêu đãi cơm hến, sau khi bà già mời “phủ đầu” một cách rất chi là... Huế:
- Nì, buổi sáng con ưng ăn chi hè? Cơm hến hỉ?

Một thoáng, tôi nghĩ nhanh về hình ảnh cơm hến bên Cồn mà cảm thấy lặng người vì xúc động. Tôi trả lời, không phải với bà già đứa bạn, mà với một hình ảnh trong mơ nào đó:
- Điểm tâm mà được ăn cơm hến bên Cồn thì tuyệt.

Bà già khen một cách ngọt ngào làm tôi chột dạ:
- Ngó bộ con cũng rành ăn cơm hến dữ hí!

Bà bỗng cất tiếng gọi với vào bên trong:
- Út của mạ mô rồi? Ra kêu thím Bòng Cồn Hến gánh cơm vô đây con.

Có tiếng “dạ” nhỏ nhắn vọng ra từ bên trong. Rồi cô em gái người bạn học bước ra phòng ngoài, nơi có những “bậc rành ăn cơm hến” đang ngồi đợi. Thấy tôi, cô bé cất tiếng chào lí nhí, cái “lí nhí” chết người của những cô gái Huế.

Cái ngõ có hai hàng gia tàu xanh bỗng sáng lên vì màu áo lụa hồng và mái tóc dài vờn bay miên man của cô bé tìm cơm hến. Tôi chưa ăn mà đã cảm nhận được “răng mà cơm hến ngon dễ sợ!”.

Thím Bòng đặt cả giang sơn cơm hến trên đôi vai gầy guộc của thím. Trời mùa hạ, nắng tháng tám nám trái bưởi, vậy mà thím vẫn mặc chiếc áo dài nâu, chân chạy, vạt áo dài bay lất phất. Lần đầu tiên tôi được tận mắt nhìn một gánh cơm hến truyền thống của Huế. Thực tế không lãng mạn và nên thơ như tôi tưởng tượng “trong cơm hến có xác sông Hương và có hồn núi Ngự”.

Gánh cơm hến nhỏ nhắn thế kia mà chứa đủ cả một giang sơn khói lửa đủ mắm ruốc tiêu hành. Một đầu là nồi nước luộc hến đặt trên bếp lửa có sức nóng vừa phải, nóng quá thì nồi nước bốc hơi mà nguội quá thì nước hến không đủ ấm. Đầu gánh bên kia là cả một “câu lạc bộ” thu nhỏ: “Tầng trệt” là thúng cơm, tầng hai là rau đủ màu, đủ loại. Tầng “chót vót” vừa ngang tầm tay người ngồi là cái trẹc lớn bày biện hơn chục cái chai, thẩu, tô, chén. Mỗi cái đựng một thứ gia vị đặc biệt; từ ruốc, muối, mè, ớt, bột ngọt, tóp mỡ đến hến luộc, hến xào, hến trộn... Quanh hai chiếc gióng mỏng manh vẫn còn chỗ để treo ba bốn cái đòn cho khách sang không quen ngồi chò hõ. Đặc biệt nhất là cái thau nước rửa chén cỏn con mà rữa hoài không cạn vì thím Bòng “chùi” nhiều hơn là rữa!

Bà mẹ người bạn giục thím Bòng:
- Thím làm cho một tô đặc biệt để đãi khách quý. Cháu ni ở miệt dưới làng nên ăn cơm hến rành rõi lắm. Thím gia đồ màu sơ sơ thôi, rồi để đó cháu Út nêm lại cho mặn miệng.

Thím Bòng nhìn tôi một phát từ đầu tới chân và vừa hỏi vừa chuẩn bị tô cơm hến:
- Rứa “chơ” cậu ở mô lên?

Tôi đáp không một chút e dè hay đề phòng gì cả:
- Dạ, con ở vùng Quận Hương Trà.

Nghe xong, thím Bòng cười tủm tỉm một cách bâng quơ mà kiêu bạt như ca sĩ Paris By Night cười ca sĩ Karaoké hát trong quán cóc Sài gòn. Thím phát biểu làm tôi giật mình:
- Dân miệt ruộng có người bạc “trốt” chưa biết cơm hến mặt ngang mặt dọc ra răng, rứa chơ cậu ni biết ăn cơm hến hồi mô?

Tôi liền trả lời ra cái vẻ anh hùng sành điệu mà sau nầy nghĩ lại, thấy mình u mê không thể tả:
- Dạ, con biết ăn cơm hến từ lúc mạ con mới đẻ.

Thím hỏi lại:
- Ngó bộ hồi nớ cậu bú sữa hến chơ chi nữa!

Biết là đang gặp đại chưởng môn cơm hến, tôi im re luôn. Bà già người bạn thắc mắc:
- Khi hồi thím nói chi hè? Dân ở miệt dưới làng không biết ăn cơm hến răng?

Thím Bòng lên giọng nói làm đày:
- Hử, khỏi nói cũng biết! Dân trưa ruộng ăn chắc mặc bền, ăn cơm hến vô, ra làm mạnh tay vài tráo là cái bụng xép ve, còn hơi sức mô nữa mà cuốc đất lật cỏ.

Câu trả lời rất bình dân học vụ của thím Bòng đã giải đáp được sự thắc mắc nhiều năm của tôi rằng, “Tại sao cơm hến thịnh hành quanh thành phố Huế và vùng phụ cận nhưng lại vắng bóng trên quê tôi?” Câu trả lời rõ ràng là tại vì cơm hến dễ tiêu, mau đói, không thích hợp cho những người làm lao động nặng như nông dân.

Thím Bòng miệng nói nhưng tay vẫn thoăn thoắt múc, trộn, thêm, bớt, pha chế để đưa tất cả hương vị chuẩn bị sẵn vào tô cơm. Nhìn bàn tay cần cù và vẻ mặt đam mê của thím, tôi có cảm tưởng đang xem nhạc trưởng của một giàn nhạc giao hưởng.

Cô em gái người bạn chừng như đã quen rơ “nhạc trưởng” sẽ điều khiển ban nhạc chơi tấu khúc nào tiếp nên đã lẹ làng đón tô cơm hến từ tay thím Bòng. Cô múc một chút nước từ trong tô và tự nhiên đưa lên miệng nếm “chíp” một cái ngon ơ. Tôi có thể nghe tiếng gió gào và nước cuốn chạy qua đôi môi chín mọng chúm lại tròn xoe của cô. Tôi có thể “nhìn” được hương vị của cơm hến qua nét mặt với cái cau mày, cái nhăn mặt, cái gật gù, cái đăm chiêu...của ngưòi nếm. Biết có người đang theo dõi từng động tác của mình, cô em quét một cái nhìn nhanh như điện. Tôi bắt kịp tia nhìn ấy và nói thầm trong bụng: “ Nếu đời mà có em nêm cơm hến, tôi sẽ ăn cơm hến suốt 100 năm, mỗi năm 365 ngày và mỗi ngày 4 bữa!”.

Chừng như để mở màn cho ước mơ “hoang dại” đó, cô em đưa cho tôi tô cơm hến có sẵn cái muỗng sành mà em đã đưa lên môi, lên lưỡi nếm nhiều lần. Tơi nhìn cô em như muốn hỏi: “Em có muốn tôi ăn chung muỗng với em không?”. Bà mẹ giục:
- Ăn đi con. Cơm hến phải ăn nóng, ăn xốc vác mới ngon. Để lâu cơm nở, rau xìu, hến nguội mất ngon.

Tôi “dạ” ngoan ngoãn, nhưng hơi ngỡ ngàng vì chưa biết cơm hến phải ăn như thế nào cho đúng điệu. Nhìn lớp ớt đỏ như phù sa sông Hồng phủ trên mặt tô mà tôi chột dạ. Đến nước nầy thì tôi hết đường lựa chọn. Đã trót lên ngựa thì phải ra roi nên tôi xúc muỗng cơm hến đầu tiên đưa lên miệng. Cảm giác tức thời là mùi thơm ngây ngất của các lọai rau, khế, chuối cây, chuối bắp hòa với vị ngọt mượt mà của nước hến, vị mặn nồng nồng của ruốc, vị béo ngầy ngậy của tóp mỡ, vị chua thanh thanh của khế, vị chát the the của chuối và nổi bật nhất vị cay quỷ khốc thần sầu của ớt tương. Muỗng cơm hến “khai hỏa” đối với tôi có một mùi vị nồng nàn vừa quen vừa lạ. Cái quen đến từ những chất liệu truyền thống của quê hương và cái lạ phát ra từ cách pha trộn và chế biến.

Muỗng cơm hến thứ hai vừa ăn xong hình như có một cái gì làm tôi chững lại. Một cảm giác nóng bỏng chạy dài râm ran từ cổ họng, lên hai mang tai, tràn qua mắt, trôi vào mũi. Tôi chợt nhận ra đây là cái cay ác liệt của ớt tương mà cả thím Bòng và cô em gái bạn tôi đã thi đua trỗ tài nêm vào tô cơm hến.
Muỗng cơm hến thứ ba đủ sức đánh tan những mộng mơ và thành sầu chất ngất trong tôi. Mồ hôi, nước mắt, nước mũi chan chứa chảy dài. Mẹ người bạn lên tinh thần cổ võ:
- Ăn cơm hến phải cay hít hà như rứa mới ngon!

Nhìn phần còn lại của tô cơm hến, tôi thấy mênh mông như biển hồ lai láng. Để rút ngắn con đường chịu đựng gian khổ, tôi nghiến răng nhắm mắt ăn một lèo sạch tô cơm hến như Kinh Kha phi ngựa sang Tần. Than ôi! hành động chạy làng nầy lại được diễn dịch như một người khát khao ăn cơm hến nhiệt tình. Mắt tôi muốn hoa lên khi nghe mẹ người bạn kêu thím Bòng: “Cho thêm tô nữa nhanh lên ăn cho kịp”. Và, lòng tôi chùng xuống, sũng nước mưa Thành Nội, khi nghe cô em gái người bạn hỏi nũng nịu: “Em nêm cơm hến như rứa anh có thích không?”. Tôi dám chắc rằng, cho dù Từ Hải với râu hùm, hàm én, mày ngài có sống dậy, cũng không đủ can đảm trả lời “không” với một người con gái Huế đã mở lời qua nét nhìn e ấp nhưng sâu thẳm, với đôi môi cười chúm chím và đôi má ửng hồng, cho nên tôi đã trả lời giống như mấy tỷ thanh niên đa tình mà dại dột trên trái đất nầy:
- Có, anh thích lắm!

Hậu quả của câu trả lời nầy là tôi bị “ban” cho một tô cơm hến nữa. Tôi chỉ kịp van vái: “Bà mụ ơi, cứu con với!”. Trước khi bà mụ kịp ra tay cứu độ thì tô cơm hến long lanh màu ớt đỏ đã sẵn sàng trước mắt. Tôi ở trong tình thế phải giữ gìn tiết tháo của chàng trai nước Việt “thà chết chớ không hề lui” nên âm thầm lên phương án: Bước một là múc xác ăn trước cho đỡ cay và bước hai là húp một lèo cạn tô tới mô thì tới. Tiến trình bước một đang tiến hành đẹp như mơ thì bị bà mẹ bạn phát hiện:
- Người ta nói “khôn ăn ‘nác’, dại ăn xác”. Cơm hến, phải ăn đều nước, đều xác mới ngon. Út mô rồi? Thêm cơm cho anh đi con!

Dưới sức ép đầy tình cảm thân thương của gia đình người bạn, tôi chỉ còn biết trân trọng chìa tô cơm hến lõng bõng toàn cả nước ra cho cô em thêm chén cơm đầy vào. Tô cơm hến lại đầy như xưa! Dẫu sao, tôi cũng phải đi cho trọn đường trần may ra thoát hiểm bằng cách ngồi nhích ra xa, hít một hơi thật sâu để nâng cao tinh thần chiến sĩ và húp một hơi dài cho đến khi nước cạn trong tô. Tưởng đã qua cơn sóng gió, ngờ đâu tôi húp kỹ quá, âm thanh nước cạn réo lên như hút thuốc lào đã làm bà mẹ bạn chú ý. Tôi chỉ còn biết kêu lên nho nhỏ “mẹ ơi!” khi nghe lời ra lệnh như điệu nhạc thúc quân của bà mẹ:
- Út ơi! Thêm nước và nêm đồ màu vô tô cơm hến của anh đi con!

Trên đường về lại, bụng tôi cồn cào vì quá tải cơm hến và cái cay giờ lưu lại một cảm giác tê tê ở đầu lưỡi. Giá như nhà thơ Thế Lữ có đi ăn cơm hến Huế lần đầu, thưởng thức cái cay và cái ngọt ngào của Huế thì cũng phải kêu lên:

Cái thuở ban đầu... “cơm hến” ấy,
Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên (!)

Bắt đầu làm quen với cơm hến Huế là kể như bị trúng độc hoa tình giống trong truyện kiếm hiệp, nghĩa là sẽ đi đến chỗ thích cơm hến Huế, thèm cơm hến Huế và ghiền cơm hến Huế cho hết cả một đời sau. Trúng độc hoa tình thì khó tìm ra thuốc giải, nhưng ghiền cơm hến Huế thì “giải” rất dễ. Muốn biết cách giải như thế nào, xin xem tiếp hồi sau sẽ rõ.

Luận về cơm hến Huế

Cơm hến Huế, thật ra, là món cơm đạm bạc của con nhà nghèo mà nguyên thủy, theo cụ Trần Văn Tường, giáo sư Hán văn trường đại học sư phạm Huế, thì chỉ gồm có canh hến chan với cơm nguội, thêm một chút rau tươi và gia vị. Thường thường canh và cơm ăn còn thừa hay cố ý để dành lại từ bữa cơm chiều hôm trước cho sáng hôm sau, vì vậy cơm hến truyền thống phải ăn với cơm nguội mới ngon. Mỗi hột cơm nguội qua đêm sẽ nằm ngoan ngoãn trong tô cơm như cô dâu ngày cưới, không nhão nhoẹt, không bốc hơi nóng làm cho rau bớt dòn và gia vị bớt hương thơm. Cơm hến là món ăn điểm tâm “cây nhà lá vườn” mang tính “kinh tế và kiệm ước” cao nhất của người bình dân xứ Huế. Những món ăn điểm tâm của Huế, nếu xếp loại theo giá cả từ thấp đến cao sẽ là:

-Cháo gạo
-Khoai sắn
-Cơm hến
-Xôi bắp
-Xôi chấm muối mè
-Bún nước mắm hay bún mắm nêm
-Bánh bột lọc
-Bánh bèo
-Bánh nậm
-Xôi thịt hon
-Bún bò
-Mì phở...

Giá cả có thể thay đổi chút đỉnh tùy theo mùa, theo “thời thế” và theo vùng, nhưng cơm hến vẫn chiếm giải xuất sắc, không nhất cũng nhì, về giá cả bình dân và phẩm chất hảo hạng, nói một cách nôm na là hội đủ “tứ khoái”: No, ngon, bổ, rẻ.

Cơm hến Huế gắn liền với Cồn Hến. Cồn Hến thường được coi như là quê hương nguyên thủy của cơm hến. Cơm hến “chánh hiệu nai vàng phải là cơm hến bên Cồn”. Mấy thím, mấy o bán cơm hến gia truyền thường có cái tưóc hiệu “Cồn Hến” kèm bên cạnh tên cúng cơm” như Thím Bồng Cồn Hến, O Gái Đò Cồn để khỏi lầm với Bà Năm Sa Đéc, Người Đẹp Bình Dương.

Theo tương truyền do mấy cụ già địa phương có tổ tiên là các bậc khai canh, khai khẩn kể lại thì Cồn Hến là do xác hến bốn phương từ suối khe của dãy Trường Sơn đi xuống; từ ao hồ, sông lạch đổ ra sông Hương đi lên; từ biển Đông qua cửa Tư Hiền, Thuận An đi vào, tụ lại qua nhiều đời, nhiều giai đoạn mà thành cái gò nổi có một vị trí về địa lý rất cao sang, được mệnh danh là “Tả Thanh Long” để đối lại với “Hữu Bạch Hổ” chiếu theo khoa Địa Lý và Dịch Lý Đông Phương. Dân chúng thấy cái cồn với vô số hến xung quanh bờ nên gọi một cách nôm na là Cồn Hến. Cồn Hến còn được coi như là một “thánh địa” của hến. Dân chúng sống trên Cồn thường có lễ tế long trọng hàng năm vào tháng bảy. Xưa kia có nhiều năm mất mùa, hến di chuyển đâu mất không còn một con, dân sống ở Cồn Hến tin rằng, hến bỏ Cồn rủ nhau ra đi là vì người dân Cồn “thất lễ” với hến.

Thế là các vị bô lão, các vị tộc trưởng, các thân hào nhân sĩ địa phương tổ chức nghi lễ trang trọng có đủ cờ quạt, lọng tàn, có phường nhạc bát âm đi theo các ngã rẽ của giòng sông Hương tiếp cận với sông Bồ trước khi ra biển Đông để khấn vái, cầu xin hến trở về. Sau đó, không ai giải thích được là do hiện tưọng di chuyển tự nhiên theo mùa hay do “linh ứng” mà hến trở lại dồi dào như xưa. Dẫu sao thì tín ngưỡng và thần thoại cũng góp phần làm cho tô cơm hến có thêm một chút hương thơm phảng phất mơ hồ của gia vị “Đào Nguyên”.

Giống hến lý tưởng cho món cơm hến Huế phải là loại hến nhỏ xíu nằm dưới sông Hương chung quanh vùng Cồn Hến. Có một đơn vị đo lường không hợp với tinh thần toán học nhưng lại nên thơ vô cùng được dùng để mô tả vóc dáng của loài hến này là “lớn bằng móng tay út của ba cô trong nội”. Dĩ nhiên không phải là “công tằng bà chằng Đại Nội” mà phải là một nàng tôn nữ xinh xinh như cô công chúa ngủ trong rừng hay ít ra cũng là:

Công tằng tôn nữ trong cung,
Con út, chưa chồng, mình hạc xương mai.

Bởi hến nhỏ nhưng mà nhìn dễ thương, nên một số dân Huế quen gọi là hến “chép chép”. Cũng có người gọi là hến gạo hay hến sẻ.

Có dịp so sánh về mùi vị giữa hến Cồn và hến các nơi khác mới thấy được cái vị ngọt rất thanh và mùi thơm nhẹ nhàng độc đáo của hến Cồn. Ai cũng biết hến là giống sống trong bùn đất nằm sâu dưới nước. Vì vậy, đặc tính thủy thổ của môi trường sống khác nhau đã làm cho màu sắc và mùi vị hến của vùng nầy khác với vùng kia. Giải thích về tính chất đăc biệt của hến Cồn, ông Nguyễn Khoa An trong cuốn sách nghiên cứu về sinh vật học “Hiện Tượng Thiên Di” (Nam Sơn, 1976) có viết rằng: “Nước sông Hương trong vắt quanh năm vì thượng nguồn phát nguyên từ vùng núi đá già Trường Sơn, mang rất ít phù sa và chất phèn trong nước. Rong rêu dưới lòng sông xanh mướt và phát triển một cách đầy sức sống dưới ánh sáng mặt trời không bị giòng nước che khuất. Các giống sinh vật sống dưới sông Hương như tôm cá và nghêu, sò, ốc, hến cũng nhờ vậy mà có được phẩm chất rất ngọt và thơm hơn các vùng sông biển khác...”

Có người đi xa hon trong việc nhận xét cái “khoái khẩu” của hến Cồn. Họ cho rằng Cồn Hến là giao điểm giữa sông và biển trên giòng Hương Giang vì hàng năm, vào mùa Hạ, nước mặn Biển Đông tràn qua cửa Thuận An lên tới Cồn Hến... nên con hến vùng Cồn tiếp thu và kết tụ tinh hoa của cả Trường Sơn và Nam Hải. Và, họ kết luận một cách dễ dãi như hò ru em: “Hến Cồn ngon hơn chỗ mô hết là vì rứa!”

Trong những cuốn sách dạy nấu món ăn Việt Nam, do các “Hỏa đầu quân Bắc Đẩu” của cả ba miền Bắc, Trung, Nam như Triệu Thị Chơi, Hoàng Thị Kim Cúc, Thanh Vân cũng không nghe ai nói về cơm hến. Vì vậy, người viết bài nầy phải dày công nghiên cứu về cái “mẹo” nấu cơm hến bằng cách gặp bà nào có vẻ giống... Thị Hến là xin phỏng vấn liền. Thêm vào đó, kinh nghiệm bản thân có duyên nợ với cơm hến cũng khá dày dạn phong trần. Vả lại, kỹ thuật nấu cơm hến nó không giống với công thức luyện thuốc trường sinh, nếu có trật chút đỉnh thì cũng chẳng chết ai nên xin trình bày như vầy:


http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/amthuc/dacsan/2009/10/conhenhue-1.jpg

Cơm Hến Huế

I- Nguyên liệu:

- Hến tươi
- Mỡ heo tươi
- Bún tàu
- Mè
- Đậu phụng
- Rau đủ loại
- Cơm

II- Gia vị:

- Ruốc
- Ớt bột
- Muối
- Gừng
- Dầu
- Bột ngọt
- Tiêu, hành, nước mắm

III- Cách thực hiện:

* Giai đoạn 1: Sửa soạn.

- Hến tươi rửa sạch. Nếu hến vừa mới bắt, cần nhốt vào nước trong vài ba hôm để hến có thời gian thải những chất bùn trong ruột. Nước trong pha chút muối nấu sôi và cho hến vào luộc chừng 30 phút. Xong vớt hến ra và giữ lại nồi nước luộc hến. Nếu muốn để dành hến lâu hơn thì cần cho vài lát gừng tuoi vào nồi nước hến để giữ mùi thơm và ăn khỏi “lạnh bụng”
- Tách hến ra khỏi vỏ. Xào hến với gia vị (tiêu, hành, nước mắm) và bún tàu cắt ngắn chừng vài ba phân.
- Nấu cơm chín xong, bới ra, để nguội.
- Mỡ heo xắt mỏng và nhỏ, đem lên rán cho vàng và chỉ lấy xác, đổ nước mỡ. Món nầy được gọi là tóp mỡ.
- Rang muối mè chín và để nguội.
- Nấu vài ba muỗng dầu cho sôi, rồi bỏ ớt bột vào để làm thành ớt tương dầu.
- Xắt nhỏ và trộn tất cả các loại rau lại với nhau.
- Trộn ruốc tươi với một phần tư chén nước lọc hay nước sôi để nguội, khuấy đều.

* Giai đoạn 2: Trình bày.

- Cho rau thập cẩm vào tô, trộn với vài ba muỗng canh đầy hến xào. Chan nước luộc hến nóng vào tô.
- Nêm các loại gia vị chuẩn bị sẵn như tóp mỡ, muối, ruốc, mè, ớt và trộn đều.
- Cho cơm để nguội vào tô nước hến có đủ rau và gia vị.
- Kiểm điểm lại lần chót lượng gia vị cần thêm bớt cho hợp với khẩu vị của từng người.
- Hít một hơi thật nồng nàn để cảm nhận hết cái hương vị “liêu trai” của cơm hến, với một chút... hít hà, và... ăn! Ăn cơm hến cũng như thương người Huế, cần thương thật tình và ăn thật bụng. Đừng thử! Vì thử là chưa hết mình: Tình sẽ không nồng và ăn cũng mất ngon.

Có thể nói rằng, rau là linh hồn của cơm hến Huế. Mặc dầu rau trên quê hương xứ Huế không hẳn đã dồi dào như các nơi khác, nhưng mỗi loại rau dùng trong cơm hến đều có cái giá trị đặc biệt về “đất lề quê thói” của nó. Những loại rau, cây, lá... truyền thống thường dùng nhất trong cơm hến là: rau thơm, bạc hà, ngò, khế, bắp chuối và thân cây chuối sứ còn non. Ngoài ra, một số loại rau có mùi vị đặc biệt như rau má, rau giáp cá với mùi nồng thoang thoảng như cá tươi, rau tía tô với mùi vị cay cay như quế, rau húng với mùi dầu bạc hà... cũng được dùng tùy theo sở thích của mỗi người. Tất cả những món rau nhiều mùi, nhiều màu và nhiều vị hợp lại được cắt nhỏ để trên dĩa sẽ tạo ra một đài hoa xanh-tim tím-trắng với mùi hương “cơm hến” nồng nàn và vị “cơm hến” tuyệt vời tê tê đầu lưỡi làm mê man vị giác của khách sành điệu mới nếm lần đầu.

Hành trình cơm hến

Lịch sử Cơm Hến Huế gắn liền với lịch sử của Thừa Thiên - Huế. Số phận của xứ này được đánh dấu từ tháng ba năm 1558, khi Nguyễn Hoàng xin anh rễ là Trịnh Kiểm vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Sau đó là cả một làn sóng người vào Đàng Trong để khai hoang lớp lớp. Với bàn tay cần cù và óc sáng tạo, họ đi đến đâu, đất cát nở thành hoa quả áo cơm đến đó. Cuộc hành trình của cơm hến cũng lắm gian nan như bước đi của lớp người khai phá về Nam. Xuất thân là sản phẩm của dân nghèo, cơm hến vào tận cung đình và trở lại với đám bình dân, tuy vóc dáng có vẻ đài trang hơn, nhưng bản chất đạm bạc của người dân chân bạc dấu phèn vẫn còn nguyên vẹn.

Một ngày dựa mạn thuyền rồng,
Còn hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài.

Trước quan niệm ngang tàng thần thánh hóa giai cấp vua chúa và quý tộc thuở xưa, người dân chân đất đã phản pháo lại:

Con vua lấy thằng bán than,
Nó lên trên ngàn cũng phải lên theo.

Cơm hến đã đi vào cung cấm! Hoa đồng cỏ nội mà đã đi vào cung vua rồi cũng sẽ thành cành vàng lá ngọc. Cái huyền thoại nầy chỉ đúng với những cô gái quê hương sắc được tuyển vào cung và được vua sủng ái nhưng lại không đúng với trường hợp của cơm hến Huế. Chén trân châu không làm cho hến thành rồng và đũa ngọc không làm cho mớ rau- xanh- tim tím -trắng thành đuôi phụng. Một trăm năm triều Nguyễn rồi cũng qua đi, nhưng cơm hến vẫn còn mãi với nhân gian như quan trạng vinh quy mà không quên gốc gác của mình:
Cờ quạt long bào rền vó ngựa,
Công hầu một bước đời đang mơ.
Cây đa bến cũ, con đò nhỏ,
Ta vẫn là ta: Anh khóa xưa.
( Huyền Trân - Ngày đó)

Theo học giả Bửu Kế, giáo sư Đại Học Văn Khoa Huế (1968) trong giáo trình về lịch sử triều Nguyễn, thì những món ăn bình dân như bánh bèo, bánh khoái, cơm hến... sau khi được đưa vào cung vua, đã được tận dụng mọi phương tiện và kỹ xão trong nghệ thuật ẩm thực đương thời để biến chế, bày biện thế nào cho có vẻ sang trọng, cầu kỳ, đài các, thích hợp với khung cảnh và nếp sinh họat trưởng giả, vàng son của giới vua quan, quý tộc.

Cơm hến cũng không thoát khỏi cái số phận “áo xiêm ràng buộc lấy nhau” đó. Hến sau khi bắt ở Cồn về, chỉ lựa những con nào có vỏ màu vàng cháy, ba đêm dầm vào nước trong cho sạch chất bùn, ba đêm tiếp hến được thả vào trong nước mưa lọc kỹ để “thụ tính âm duong” và sau đó hến được đen dầm vào nước gạo loãng cho “thuần”. Qua giai đoạn nầy, hến mười phần chết bảy còn ba. Sau cùng hến được thả vào nước sâm pha chế với nước lọc trước khi đem vào luộc. Cơm để ăn với hến phải là cơm nguyên hột nấu từ gạo “de” An Cựu, để nguội từ nửa đêm cho đến sáng. Các loại gia vị gần ba chục món khác nhau và rau ăn với hến hết sức cầu kỳ, tỉa gọt và tuyển chọn. Cũng theo cụ Bửu Kế thì “cơm hến” trong cung vua chỉ còn là một cái tên chứ thực chất là một loại cao lương nấu với hến nặng mùi sâm nhung, quế phụ. Các “mệ” thích nhìn “cơm hến ngài ngự” hơn là thích ăn nên vẫn thường lân la ra vùng ngoại thành thưởng thức cơm hến nguyên chất với giới bình dân.

Nhờ các vị thầy Tàu mà cơm hến Huế đã được “giải phóng” và lưu truyền một cách vừa đầy quê hương tính và cũng vừa đầy hương vị tính cho đến ngày nay.

Theo tài liệu được ghi trong "Ô Châu Cận Lục" của Lễ Thiên Dương Văn An và cũng theo tài liệu ghi chép trong Đại Nam Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán triều Nguyễn (1835) biên soạn thì sau khi Nguyễn Phúc Ánh thống nhất sơn hà và lên ngôi hoàng đế năm 1802, lấy hiệu là Gia Long, đặt kinh đô tại Huế, đất nước cũng như vương quyền đã trãi qua một thời kỳ thanh bình và thịnh trị. Đây là giai đọan mà các hàng vương tôn công tử thi đua tạo dựng một đời sống cực kỳ xa hoa và diễm lệ. Căn bệnh “thời đại” lúc bấy giờ là sự tổ chức tiệc tùng, ăn uống quá đà. Có quá nhiều người thuộc tầng lớp quan quyền và quý tộc bị mắc chứng vàng da, thình bụng, khó tiêu vì ăn uống quá độ mà thiếu vận động.

Các thầy thuốc Nam thì quen quy vào cái khái niệm y học truyền thống quá mơ hồ và đơn giản như: “Tỳ suy vị yếu” và khuyến khích uống thêm thuốc bổ và ăn thêm đồ bỗ dưỡng. Kết quả là càng làm suy yếu hơn tình hình thể chất của giới con vua cháu chúa vốn đã quá tồi tệ vì thặng dư nhiều chất kích thích và dầu mỡ tích lũy trong người. Do đó, triều đình phải cho các sứ bộ đích thân đi mời những thầy thuốc người Tàu về chữa trị. Trong Nam Du Ký Sự của Lâm Chấn Trung (The Hong Kong Press, 1958), với tư cách là một vị thầy thuốc nổi tiếng vùng Hoa Nam được mời vào cung , kết hợp với kinh nghiệm của các danh y đương thời như Kiều Hành, Sử Kính Liêu... đã nhận xét rằng: “Người Nam Bang có thuốc mà nằm chết trên thuốc vì không biết dùng thuốc Nam để trị liệu.

Cứ ỷ y vào thuốc Bắc nên hoặc là không có tiền để mua hoặc có tiền mà không có thuốc.” Lâm Chấn Trung đã khuyên giới quý tộc thời bấy giờ là muốn có sức khỏe tốt, không cần phải uống thuốc bổ hay ăn sâm nhung quế phụ mà cần phải giữ “sự bình hành âm dương trong việc ăn uống” bằng cách tận dụng những sinh vật, ngủ cốc, rau cỏ ngay trong môi trường mình đang sinh sống, không nên mất công tìm kiếm đâu xa.

Xuất phát từ uy tín và lời khuyên của các vị thầy thuốc danh tiếng người Tàu, món cơm hến bình dân trước được đưa vào cung để chế biến thành sơn hào hải vị, nay lại được xem như là món ăn dưỡng sinh tốt nhất, hợp với thiên nhiên gồm những chất liệu mọc lên từ lòng đất của môi trường sống địa phương. Nhờ vậy, con hến bên Cồn được giới quý tộc rữa sạch và thả lại trong nước mát sông Hương trước khi luộc thành cơm hến. Các loại rau, chuối cũng giới hạn trong các loại rau quen thuộc trồng quanh vùng Thành Nội. Gia vị không còn đơn giản như xưa, nhưng cũng không bắt chước theo cách chuẩn bị kênh kiệu của cung đình.

Thật ra, cơm hến Huế ngày nay là một hình ảnh tổng hợp giữa cái đơn giản của “canh hến cơm nguội” nguyên thủy và cái xa hoa cầu kỳ của “cơm hến ngài ngự” ngày xưa. Nếu chỉ nói đến sự chi phí về tiền bạc cho một bữa cơm thân mật gia đình đãi khách thì cơm hến Huế là môi trường gặp gỡ bình đẳng và lý thú giữa giàu sang và nghèo khổ. Nếu chỉ bàn về nghệ thuật nấu nướng của một bà nội trợ trung bình thì cơm hến là một hình ảnh chung giữa cung cách thầm lặng tế nhị và thái độ phô trương kiểu cách. Nếu muốn nói đến ý nghĩa của một món ăn mang nặng tính quê hương thì cơm hến là sự kết hợp hài hòa giữa bình dân và quý tộc.

Năm 1992, sau hơn 10 năm xa quê, tôi về lại Huế. Buổi sáng đầu tiên thức dậy, chị tôi biết ý nên đã kêu một gánh cơm hến đợi sẵn. Buồn ngủ mà gặp chiếu manh, sớm mai trên đất Huế mà có cơm nguội và “cao lầu Cồn” thì còn nói năng chi nữa. Tôi ăn liền một lúc gần bốn tô cơm hến. Thật ra, bốn tô cơm hến Huế nho nhã và thanh lịch góp lại chưa đầy một tô xe lửa phở Hòa tại Mỹ, nhưng cũng đủ cho bà con hôm đó đồn rằng: "Cái chú nớ ăn cơm hến thiệt như thúng lủng khu!". Mẹ tôi già trên 90 tuổi, trí nhớ đã phôi pha, không còn đủ nhớ tên dăm đứa cháu xa nhà, nhưng vẫn còn sót lại bao ký ức yêu thương của những ngày tháng cũ khi nhìn tôi ăn cơm hến, mẹ nói một cách đơn giản mà thiết tha bằng hơi ấm phương Đông huyền diệu của tất cả những bà Mẹ Việt Nam:

- Hồi nớ, có khi mô mà hắn ăn cơm hến nhiều dữ rứa. Tội nghiệp thằng ni chắc đói thắt ruột lâu ngày ở bên tê. Mai mốt con đừng bỏ mạ mà đi mô nữa, ở lại với mạ, để mạ bán "ló", bán tre mạ nuôi.

Nghĩ đến ba tuần nữa, tôi lại bỏ mẹ mà đi và có lẽ gặp mẹ lần nầy là lần vĩnh biệt, tự nhiên miếng cơm hến sau cùng nghẹn lại trong cổ. Tôi để tô cơm hến xuống, hít hà kêu cay và chạy vội ra hè sau lặng lẽ khóc một cách ngon lành cho hết những giọt nước mắt nổi trôi. Tôi nói trong câm lặng, nói với mẹ, nói với bụi tre và cây dừa trước ngõ, nói với chính mình và nói với những tô cơm hến: "Thiệt đó mạ. Con đã thấm thía với cái đói ở quê người. Con đói không phải vì thiếu miếng cơm manh áo nhưng đói vì thiếu mạ, thiếu những khuôn mặt thân thương, thiếu mùi vị nồng nàn của đồng chua nước mặn và hơi hám của quê mình".

Hến cũng như người, nơi đâu mà chẳng có. Từ những con hến thoang thoảng mùi diêm sinh giữa vùng khe suối nhiều núi lửa quanh trại tỵ nạn Bataan heo hút, xứ Phi Luật Tân; những con hến Hồng Kông to bằng hột mít, đến những con hến tròn trịa vùng định cư xứ New Orleans bắt lên từ giòng sông Mississippi dài nhất thế giới, và hến nặng mùi bùn non đầy dẫy ven bờ sông American bao quanh thủ phủ xứ California, tiểu bang có đông người Việt nhất ở nước ngoài... đều có một bản chất chung là "hến", nhưng mỗi loài hến đều có cái mày vẻ riêng tư và độc đáo của giang sơn sinh ra nó như "Nam quốc sơn hà Nam đế cư " rứa đó.

Thử ăn một tô "cơm hến nước ngoài" mới cảm nhận được tinh thần sáng tạo “Anh phải sống” của những nhà... cơm hến bên ni. Thiếu hến Cồn, người ta dùng loại sò xanh (Green Mussel) nhập cảng từ Thụy Sĩ là nơi có non xanh nước biếc không thua gì xứ Huế. Sò xanh Thụy Sĩ luộc lấy nước và xắt nhỏ thay hến rất dễ làm cho khách ghiền cơm hến xa Huế ngàn dặm "lạc bước bên Cồn". Thiếu khế thì dùng cây cần Tây (Celery) xắt mỏng dầm vào giấm. Thiếu bắp chuối sứ thì dùng bắp su tím cắt thành sợi thế vào. Thúy Vân còn thay được Thúy Kiều huống chi là cơm hến, miễn sao khách tha hương ăn cơm hến cũng "dễ nuôi mau lớn" như chàng Kim Trọng là được!

Dân Huế và những người yêu Huế xa quê, có tô cơm hến nằm ở một góc nào đó trong mớ hành trang của ký ức. Trên quê người, nhất là tại các nước Âu Mỹ phồn vinh bậc nhất ngày nay, với những món ăn tinh hoa truyền thống lừng lẫy của nhiều nước trên thế giới, cơm hến trở thành khiêm tốn và đơn sơ như một cụm hoa bưởi, hoa ngâu trong vườn thượng uyển. Nhưng vườn thượng uyển là đất chung của cuộc đời mà hoa bưởi hoa ngâu là ngõ sau để ngó về Quê Mẹ. Cơm hến cũng như bà mẹ quê Việt Nam: Lui cui lút cút thế thôi, đơn sơ chất phác thế thôi, nhưng không có một kỳ quan nào của vũ trụ nầy sánh được với trái tim của Mẹ.


GS. Trần Kiêm Đoàn

:)
11-11-2009, 12:09 AM
Duyệt Thị Đường


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/6/6b/Duy%E1%BB%87t_Th%E1%BB%8B_%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng. JPG

Duyệt Thị Đường (Duyệt : xem xét để phân biệt điều phải trái; Thị : xem; Đường: ngôi nhà) là một nhà hát dành cho vua, hoàng thân quốc thích, các quan đại thần và là nơi biễu diễn các vở tuồng dành cho quan khách, sứ thần thưởng thức. Tuồng biễu diễn trong Duyệt Thị Đường là các vở tuồng cung đình. Đây được xem là nhà hát cổ nhất của ngành sân khấu Việt Nam.

Quá trình xây dựng : Duyệt Thị Đường được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 7 (năm 1826) nằm bên trong Tử Cấm Thành

Miêu tả :

Duyệt Thị Đường có tổng diện tích 11.740 m². Diện tích xây dựng nhà hát 1.182 m². Toàn bộ khuôn viên nhà hát trước đây được dùng để trồng các loại cây thuốc Nam quí hiếm. Bên hữu nhà hát là Ngự y viện, nơi để sao chế thuốc chữa bệnh cho nhà vua và hoàng gia. Bên tả là sở Thượng Thiện, nơi dùng để chế biến các món ăn phục vụ nhà Vua. Tất cả đều được ngăn với nhà hát bằng bức tường.

Nhà hát hình chữ nhật rộng rãi với bộ mái có những bờ quyết cong giống như những đình chùa ở Huế, được chống đỡ bởi hai hàng cột lim sơn son có chiều cao 12 m, vẽ rồng ẩn mây cuốn chung quanh chia làm 2 tầng. Ở lưng chừng mỗi cột treo thêm một bức tranh sơn thuỷ vẽ cảnh Huế với khung chạm rồng nổi thiếp vàng. Trên cao hơn, mặt trời, mặt trăng, tinh tú tượng trưng cho vũ trụ được vẽ hoặc chạm nổi lên trần nhà màu xanh lơ. Tòa nhà nối liền với các cung điện của nhà vua và các bà hoàng bằng một dãy hành lang có mái khúc khuỷu, quanh co.

Sân khấu chính làm nơi biễu diễn ở giữa nhà hát, vị trí tốt nhất dành cho vua ngồi là ở vị trí lầu hai, phía trước hai bên vòm có treo hai câu đối bằng chữ Hán của vua Minh Mạng:

Âm nhạc tinh trần hòa kỳ tâm dĩ dưỡng kỳ chí
Nghiên xuy tề hiến thủ kỳ thị nhi giới kỳ phi

Dịch nghĩa:

Âm nhạc cùng phô bày, hoà lòng người để nuôi dưỡng chí khí
Thiện ác đồng trình diện, khiến giữ được cái tốt (cái đúng) mà giới hạn cái xấu (cái sai).

Sân khấu có ba mặt. Phần bức tường ở cuối sân khấu trổ hai cửa. Các diễn viên vào ở phía phải và ra ở phía trái. Phía sau bức tường là một phòng rộng đựng tủ kệ để chứa các bản tuồng, hia, mão và đạo cụ biểu diễn. Ở vị trí cao nhất trong phòng là một khám thờ hai ông làng tổ sư của nghề hát bội. Phòng này lại trổ cửa hướng ra sân ở mé đông Tử Cấm Thành (các nghệ nhân ra vào bằng lối này). Ðối xứng với bức tường qua sân khấu là một đài cao chia ra làm hai bậc. Bậc cao nhất nằm sát tường phía tây dành cho các bà hoàng và cung tần mỹ nữ. Bậc thấp đặt ngự tọa, nơi nhà vua ngồi xem hát. Hai bậc này được ngăn bởi một lớp sáo trúc thưa làm cho người ngồi bên trong nhìn rõ được người bên ngoài, nhưng người xem ở bên ngoài không thấy mặt người đẹp trong cung cấm. Hai bên chỗ tả và bên hữu của chỗ vua ngồi là dành cho quốc khách, các quan của triều đình ngồi hai bên .


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/0/0e/S%C3%A2n_kh%E1%BA%A5u_ch%C3%ADnh_c%E1%BB%A7a_Duy%E 1%BB%87t_Th%E1%BB%8B_%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng.JPG
Sân khấu chính của Duyệt Thị Đường

Tình trạng :

Duyệt Thị Đường được tu bổ nhiều lần dưới thời các vua Nguyễn. Năm 1962, khi chính quyền Sài Gòn cải tạo, sửa chữa Duyệt Thị Đường để làm cơ sở giảng dạy của Trường Quốc gia âm nhạc Huế, các công trình chung quanh bị triệt hạ để xây chỗ ở cho giáo viên và sinh viên, cấu trúc của nhà hát bị thay đổi không còn như cũ. Trải bao năm chiến tranh, thiên tai và cả sự vô ý thức của con người, Duyệt Thị Đường bị xuống cấp nghiêm trọng. Từ năm 1995 đến năm 2002, nhà hát được trùng tu, phục chế hoàn chỉnh lần cuối, và chính thức đi vào hoạt động thường xuyên từ tháng 3/2003. Phần ghế của quan khách và phần ghế dành cho các quan xưa kia nay được sữa chữa lại để phục vụ khách du lịch .

Từ năm 2004, Duyệt Thị Đường được trung tâm bảo tàng di tích cố đô Huế khôi phục và đưa vào hoạt động phục vụ khách du lịch với thể lại nhã nhạc cung đình Huế khá thu hút du lịch. Nhà hát đã sưu tầm và khôi phục 8 trong số 11 điệu múa cổ, 40 bài nhã nhạc và nhiều trích đoạn tuồng cổ, trong đó có nhiều tiết mục được dàn dựng công phu như Trống Thái Bình, Tam luân cửu chuyển (đại nhạc), Phú lục địch, Kim tiền (Tiểu nhạc), Vũ phiến, Lục cúng hoa đăng và các trích đoạn tuồng Kỷ Lan Anh, Ôn Đình chém Tá , Lục cúng hoa đăng, Nữ tướng xuất quân, Lân mẫu xuất Lân nhi... các trích đoạn Tuồng Cung đình tiêu biểu trong vở Sơn Hậu, Tam Nữ Đồ Vương ,.. ,.. Nhà hát cũng đã sáng tạo, dàn dựng hàng chục tác phẩm mới trên chất liệu cổ, phù hợp với thị hiếu người xem, trong đó có vở "Người khởi nghiệp đàng trong" được công chúng đánh giá cao.


● Giờ biễu diễn trong nhà hát Duyệt Thị Đường :
Sáng:
Xuất 1: 9h00 - 9h45
Xuất 2: 10h00 - 10h45
Chiều:
Xuất 1: 14h30 - 15h15
Xuất 2: 15h30 - 16h15


● Giá vé :
Từ 2- 20 khách xem trong 50- 60 phút giá 6.000.000 đồng
Từ 2- 50 khách xem trong 50 -60 phút giá 8.000.000 đồng


- Sưu tầm -

:)
16-11-2009, 07:37 AM
Trường Quốc Học


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/3/35/Qu%E1%BB%91c_H%E1%BB%8Dc_Hu%E1%BA%BF.jpg
Lầu chuông - Cổng trường Quốc Học

Trường Quốc Học là một ngôi trường nổi tiếng ở Huế. Trường được thành lập vào ngày 23 tháng 10 năm 1896 theo chỉ dụ của vua Thành Thái giao cho Ngô Đình Khả làm trưởng giáo và được Toàn quyền Đông Dương ký quyết định ngày 18 tháng 11 năm 1896. Trường được xây dựng ngay trên mảnh đất của dinh Thuỷ sư cũ- một trại thuỷ quân Hoàng gia làm năm Gia Long thứ 5 ( 1806).

Trường đặt dưới quyền kiểm soát của viên Khâm sứ Trung Kỳ. Trong nghị định của Phủ Toàn quyền Ðông dương cũng quy định rõ điều kiện của học sinh được nhận vào trong trường Quốc Học là:
- Công tử con các Hoàng thân
- Tôn sanh con các Hoàng gia
- ấm tử con các quan
- Học sinh các trường Thành nhơn và Quốc tử giám

Năm 1915 khi có sắc lệnh bãi bỏ các kỳ thi hương hội ở Bắc Kỳ thì trường Quốc Học được xây dựng lại. Những dãy nhà tranh được phá bỏ, thay thế vào đó là hai dãy lầu xây gạch, lợp ngói kiên cố đầy đủ tiện nghi theo kiểu Tây Âu. Về cơ bản các kiến trúc đó được duy trì đến ngày nay.

Trường Quốc học có biệt tích là trường trung học đệ nhất cấp đầu tiên ở Huế. Ngay từ lúc sáng lập, giáo trình được dạy bằng tiếng Việt cùng với tiếng Pháp.

Trường đã đổi tên qua nhiều thời kỳ: École Primaire Supérieure, tức Trường Cao đẳng Tiểu học nhưng thường gọi là Quốc Học (1896-1936), Trung học Khải Định (1936-1954), Trung học Ngô Đình Diệm (1955-1956) và được trở về với tên gốc vào năm 1956 cho đến nay. Tên lúc mới thành lập là "Pháp Tự Quốc Học Trường Môn", đến nay vẫn còn bảng ghi tên đó được lưu tại Phòng Truyền thống của trường.

Thành tích

Quốc Học Huế là ngôi trường đào tạo rất nhiều học sinh ưu tú và sau này là những lãnh tụ nổi tiếng của Việt Nam như: Nguyễn Sinh Cung (sau là Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), Ngô Đình Diệm (sau là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa), Trần Phú (sau là Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam), Hà Huy Tập (sau là Tổng bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam), Phạm Văn Đồng (sau là thủ tướng), Võ Nguyên Giáp (sau là đại tướng), Nguyễn Chí Diểu (bí thư Thành uỷ Sài Gòn), Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (nhà lí luận Marxist) và nhiều nhà khoa học, văn hóa, nhà văn, nhà thơ như: Tạ Quang Bửu, Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Nguyễn Lân, Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Thúc Hào, Võ Liêm Sơn, Lê Văn Miến, Hoàng Ngọc Cang, Lê Trí Viễn, bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà thơ Xuân Diệu, nhà thơ Huy Cận, nhà thơ Lưu Trọng Lư, nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị, nhạc sĩ Trần Hoàn, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, nhạc sĩ Tôn Thất Tiết... Trường có rất nhiều học sinh đoạt giải cao ở trong các kỳ thi quốc tế như: Hồ Đình Duẩn, Lê Bá Khánh Trình,...

Nhiều giáo sư đầu ngành đã từng giảng dạy ở đây như GS Nguyễn Thúc Hào, Nguyễn Lân. Bên cạnh truyền thống học tốt, dạy tốt, Quốc Học Huế còn là nơi xuất phát các cuộc đấu tranh yêu nước với tên tuổi các thầy giáo Hoàng Thông, Lê Văn Miến, Võ Liêm Sơn...

Hiện nay, trường được Chính phủ Việt Nam chọn để xây dựng thành một trong ba trường phổ thông trung học chất lượng cao của Việt Nam (cùng với trường Lê Hồng Phong tại Thành phố Hồ Chí Minh, trường Chu Văn An tại Hà Nội).

Lịch sử


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/4/46/Bia_Chien_si_tran_vong.jpg
Đài tưởng niệm chiến sĩ Trận Vong thường gọi là "Bia Quốc Học" nằm đối diện với cổng trường

Quốc Học được thành lập trên nền của Dinh Thủy Sư (nơi huấn luyện binh lính đường thủy của quân đội triều Nguyễn), ban đầu trường được xây dựng theo kiểu cũ, nhà tranh vách đất, tổng cộng có 3 tòa nhà. Trường Quốc Học hiện nay là công trình được xây dựng theo kiểu kiến trúc Pháp, được xây dựng chủ yếu trong thời gian sau này.

Nguyễn Sinh Cung (Hồ Chí Minh) từng là học sinh của trường, ông học tại Quốc Học năm 1908, tham gia nhiều vào các phong trào của sinh viên và học sinh chống Pháp vào thời gian đó. Tháng 9 năm 1989, trong sân trường có đặt bức tượng Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Sinh Cung) bằng thạch cao ở giữa sân trường để tưởng nhớ người học trò này. Bức tượng hiện nay đã được phủ đồng.


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/f/f4/T%C6%B0%E1%BB%A3ng_Nguy%E1%BB%85n_T%E1%BA%A5t_Th%C 3%A0nh_t%E1%BA%A1i_Qu%E1%BB%91c_H%E1%BB%8Dc_Hu%E1% BA%BF.jpg
Tượng Nguyễn Tất Thành tại sân trường

:)
19-11-2009, 06:32 AM
Bánh canh cá lóc Huế


http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/amthuc/dacsan/2009/9/banhcanhcaloc2.jpg

Bánh canh cá lóc phải ăn khi đang thật nóng, khi ăn có thể cho thêm ớt bột loại cay, hành thái nhỏ, hạt tiêu, mì chính. Người ăn vừa "khoái khẩu" vì con bánh giòn, bùi, cá lóc thơm ngon, nước ngọt, lại vừa xuýt xoa toát mồ hôi vì ớt cay, càng ngon…

Ở Huế có nhiều làng nấu bánh canh nổi tiếng như Nam Phổ (xã Phú Thượng, Huế), Thuỷ Dương, An Cựu… Bánh canh Nam Phổ nấu với chả tôm. Bánh canh An Cựu lại nấu tổng hợp bánh canh với da lợn, chả lợn viên nhỏ, huyết vịt, chả cua. Còn bánh canh Thuỷ Dương là bánh canh cá lóc nổi tiếng, thường bán ở các tiệm hẳn hoi. Ở Huế cứ sáng tinh mơ từng tốp năm ba thanh nữ, nón móc đầu gánh, gánh bánh canh thoăn thoắt từ phía Chợ Mai qua Đập Đá lên phố, phía cầu An Cựu cũng từng tốp gánh bánh canh toả ra khắp các phố, đến từng địa bàn quen thuộc của mình. Ưng Bình Thúc Dạ Thi, nhà thơ người Hoàng Tộc nổi tiếng của Huế đã ca ngợi hết lời món bánh canh Nam Phổ mà ông rất ưa thích trong một lời ca Huế:

Mời anh chị chén bánh canh Nam Phổ
Xơi vô bổ khoẻ, có chất bổ có mùi hương
Lại thêm bát mẻ can trường
Sâm Cao Ly cũng sút, rượu Quỳnh Tương cũng không bì!

Nay ở Huế đã có nhiều "phố bánh canh". Phố Mai Thúc Loan, có gần chục quán bánh canh cá lóc; “phố bánh canh” dọc đoạn quốc lộ 1A trước cổng Nhà máy dệt Thuỷ Dương. Ở đường Đống Đa đối diện với khách sạn Đống Đa cũng có quán bánh canh cá lóc buổi sáng, buổi chiều đều đông nghẹt. Bánh canh Nam Phổ, An Cựu chỉ phục vụ bà con dân phố ăn điểm tâm sáng. Còn khánh ăn bánh canh cá lóc không chỉ là bình dân, mà đa phần là dân đi xe con, khách du lịch… có người “nghiện” đến mức, cứ đúng giờ quán mở buổi sáng hoặc buổi chiều là có mặt để làm vài tô, dù phải đi ăn xa tới bảy tám cây số. Ăn xong đứng dậy ai cũng lau mồ hôi, hít hà sảng khoái lắm!

Bánh canh Nam Phổ hay Thuỷ Dương hấp dẫn người ăn vì cách chế biến công phu và hương vị đặc biệt của nó. Các "mê Huế" bảo rằng nguyên liệu chính để làm bánh canh là bột gạo. Gạo ngâm đủ độ mới xay, sau đó sú bột và đưa vào cối giã như giã giò. Người ta giã bột tới hai ba giờ sáng, giã cho tới lúc "bột chín". Tức là bột chặt, dai mà không dính tay. Khi nấu nước vẫn trong, bột không nhão. Sau này người ta xay bột và nhào bột bằng máy thay cho "quết" (giã). Bột gạo quết chín, lăn mỏng cắt rời từng con. Một số quán nấu bánh canh bằng bột mì, hoặc bột gạo giã "không" chín nên thường tan vào nước quánh đặc, không ngon. Người bán bánh canh Nam Phổ, An Cựu nấu nồi nước sôi, bỏ vào các thứ chả tôm cắt thành miếng, chả cua, da lợn, chả lợn… Nêm các thứ gia vị xong phủ một lớp nước màu (gồm ớt hột, dầu, màu thực phẩm), khi nồi nước sôi kỹ thì cắt bột đã nhồi thành từng con bỏ vào. Phải giữ lửa sao cho nồi bánh lúc nào cũng nóng, nhưng không sôi để khỏi nhão con bột. Trên gánh bánh canh có một mẹt gia vị gần chục loại như mì chính, muối, nắm ớt, ớt tương, hạt tiêu, ớt thái lát, hành lá thái nhỏ… đựng trong các bát nhỏ. Khi người bán mở vung nồi bánh canh, dùng môi múc bánh canh cho khách ăn, một mùi thơm thanh nhẹ quyện lên theo gió. Đó là sự hoà quyện của mùi bột, mùi chả tôm, cua, mùi hành rất đặc trưng, quyến rũ và các màu sắc hồng, xanh, trắng, vàng lấp lánh.

Còn bánh canh cá lóc thì chế biến cầu kỳ hơn. Sau khi nhào bột "chín", phải xử lý cá lóc. Cá lóc (cá đô, cá tràu theo cách gọi của miền Trung) được hấp vừa chín tới, săn từng thớ thịt. Tách riêng thịt cá, lòng cá và xương, đầu. Xương, đầu cá giã nhỏ gói vào vải màn cho lên nồi nấu để lấy "nước ngọt". Lòng cá lóc là loại mồi nhậu quý, bỏ riêng bán cho những người đặt hàng trước, hoặc để riêng phục vụ những người sành điệu gọi bánh canh lòng cá lóc. Còn thịt cá ướp tiêu, mắm, ớt, hành cho thơm. Khi khách gọi mới cán bột và cắt bánh thành từng con bột vừa đủ số bát mà khách gọi. Xong dùng môi chao cho con bánh chín xong đổ vào bát, gắp thịt cá lóc vào, xong múc nước dùng rưới cho vào.

Bánh canh cá lóc phải ăn khi đang thật nóng, khi ăn có thể cho thêm ớt bột loại cay, hành thái nhỏ, hạt tiêu, mì chính. Người ăn vừa "khoái khẩu" vì con bánh giòn, bùi, cá lóc thơm ngon, nước ngọt, lại vừa xuýt xoa toát mồ hôi vì ớt cay, càng ngon. Một tô bánh canh cá lóc ba ngàn mà làm cho người ăn có cảm giác mình đang thưởng thức món cao lương mỹ vị nào đó. Ăn xong lại muốn ăn nữa. Ăn nhiều lần thì “nghiền”. Loại đọi (tô) đặc trưng để ăn bánh canh là loại tô bèo, tức lòng tô nhỏ, hẹp, nhưng miệng tô thì loe rộng. Có lẽ vì ăn nóng lại nấu bằng bột gạo nên nếu múc loại tô lòng lớn, ăn lâu hết, bánh canh sẽ kém ngon.

Cá lóc và gạo, cả hai sản vật đều ở trên cánh đồng quê, không chỉ nuôi sống còn người mà còn làm sang thêm danh tiếng các món ăn Huế, món ăn thuần Việt bao đời./.

:)
23-11-2009, 09:22 PM
Mè xửng Huế


http://farm4.static.flickr.com/3201/3058180456_f94583f2a4.jpg

Mè xửng là một trong những đặc sản đã trở thành biểu tượng văn hóa của Huế, giống như cơm hến, tôm chua hay chùa Thiên Mụ hay Sông hương, Núi Ngự vậy Thấy trong hành lý của ai có mè xửng tức là người đó vừa ở Huế. Người Huế đi vô Sài Gòn, ra Hà Nội, hay ra nước ngoài ai cũng mang theo mấy chục gói mè xửng làm quà cho người thân, bạn bè.

Khi đi mua mè xửng ở chợ, ở ga tàu, du khách chỉ cần cầm miếng mè xửng lên thấy màu vàng trong suốt, bóp (hoặc bẻ) thấy mềm nhẹ nhưng không gãy, thả tay ra lại trở về hình dạng cũ, lại thơm hương vị đậu mè quyến rũ là loại mè xửng dẻo loại tốt.

Những người Huế đài các phong lưu xưa thường uống trà và ngậm nhâm nhi miếng mè xửng nhỏ. Vị thơm của trà ướp sen Tịnh Tâm pha bằng sương hứng trên lá sen hòa quyện với hương vị mè xửng tạo nên cái thú thanh tao vô cùng. Người xưa vừa uống trà, nhai mè xửng, vừa xem sách, vừa ngẫm nghĩ sự đời. Có bài thơ của một người Huế ở Sài Gòn tên là Nguyễn Thị Kim Chi viết, có câu thơ rất ấn tượng: Kẹo mè xửng vừa nhai vừa hát. Hình tượng thơ đẹp, nhưng người Huế thì gọi Mè xững, không gọi là kẹo mè xửng bao giờ. Tôi hỏi thăm, có người bảo rằng bài thơ ấy là do anh chồng, một nhà thơ người miền Bắc làm, ký tên người vợ Huế của mình cho thỏa sự yêu Huế Không biết sự thể ra sao. Mè xửng: xửng là cách nấu, còn mè thì rõ rồi. Như thế mè xửng đúng là một loại kẹo rồi, nhưng không biết tại sao người Huế lại không gọi là kẹo. Có lẽ vì nó mềm dai, giọng Huế phải diễn đạt sự dẻo quẹo đó bằng vần ở đầu tên gọi chăng.

Mè xửng là một trong những đặc sản đã trở thành biểu tượng văn hóa của Huế, giống như cơm hến, tôm chua hay chùa Thiên Mụ hay Sông hương, Núi Ngự vậy Thấy trong hành lý của ai có mè xửng tức là người đó vừa ở Huế. Người Huế đi vô Sài Gòn, ra Hà Nội, hay ra nước ngoài ai cũng mang theo mấy chục gói mè xửng làm quà cho người thân, bạn bè. Người Hà Nội bây giờ khi uống trà Thái Nguyên cũng thích nhai mè xửng. Hồi mới giải phóng miền Nam, từ Sài Gòn ra Huế, tôi có dịp tiếp xúc nhiều ngày với các hàng mè xửng như Nam Thuận ở đường Hàng Bè (Huỳnh Thúc Kháng), Song Hỷ ở đường Phan Bội Châu (nay là Phan Đăng Lưu) cạnh cửa Đông Ba. Ngày nào cũng được ông chủ trẻ mời trà sen – mè xửng. Ông chủ cho biết đây là nơi sản xuất mè xửng lớn nhất Huế. Nói là lớn nhưng tôi thấy chỉ có hai chảo nấu do hai anh công nhân đảm nhận. Tiệm mè xửng này nghe nói có hàng bán sang tận Paris, Hồng Kông. Mè xửng Song Hỷ dẻo mà dai, không bao giờ cứng do lại đường. Ngậm nhai ngỡ như nhai kẹo gôm của Pháp ngày xưa. Cạnh mè xửng Song Hỷ có mè xửng Hồng Thuận cũng là thương hiệu nổi tiếng từ những năm 50. Từ khi khách du lịch trong nước, nước ngoài đổ đến Huế, các lò mè xửng mọc lên nhan nhản.

Bây giờ ở Huế có tới gần hai mươi lò mè xửng to, nhỏ như Nam Thuận, Hồng Thuận, Song Hỷ, Thiên Hương, Thanh Bình, Song Nhân… Có khi lò này làm ra mè xửng nhưng lại đóng nhãn của lò khác để bán cho chạy. Bây giờ thì Nam Thuận, Hồng Thuận, Thiên Hương nổi tiếng hơn Song Hỷ bởi khi ông chủ đã sang Mỹ, những người thợ năm xưa đã về quê, không có vốn để mở lò. Du khách muốn mua mè xửng "rin" xin về phố Huỳnh Thúc Kháng bên bờ sông Gia Hội, tới số nhà 135 – đó là mè xửng Nam Thuận. Ngay bên cạnh là mè xửng Hồng Thuận, đều là anh em một nhà.


(sưu tầm)

xdozemon
02-12-2009, 03:06 PM
Nếu mà từ Hà nội mà đến huế tầm 3 ngày thì chuẩn bị cash tầm bao nhiêu các bạn nhỉ ^^

:)
08-12-2009, 02:21 AM
Nếu mà từ Hà nội mà đến huế tầm 3 ngày thì chuẩn bị cash tầm bao nhiêu các bạn nhỉ ^^

Cái đấy còn phải tùy bạn sẽ đi những đâu, ở khách sạn nào, ăn gì ... vân vân và vê vê :sr:.

Đàn Nam Giao

Đàn Nam Giao được xây dựng từ đời vua Gia Long, cách kinh thành Huế về phía nam 3 km, song song với núi Ngự Bình. Khi xưa, đây là một thắng cảnh của kinh đô Huế.


http://www.simplevietnam.com/uploads/DI%20SAN%20VIET%20NAM/QUAN%20THE%20DT%20HUE/dannamgiao/dannamgiaotc-1.jpg

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/b/b1/Dan_Nam_Giao_Hue.jpg

Khuôn viên đất Đàn Nam Giao hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, giới hạn bởi một vòng tường thành xây bằng đá bọc xung quanh. Đàn có bốn cửa quay ra bốn hướng. Trong khuôn viên trồng toàn thông, mỗi vị đại thần trồng một cây. Trong ngày tế, các cây thông đều đeo tên các vị đại thần đã trồng.

Đàn tế được xây dựng thành 3 tầng, dưới lớn trên nhỏ chồng lên nhau, tượng trưng cho thuyết tam tài: Thiên, Địa, Nhân. Mỗi tầng có hình dạng và màu sắc riêng: trời tròn, đất vuông, thiên thanh, địa hoàng. Tầng trên cùng hình tròn, gọi là Viên Đàn, tượng trưng cho trời. Tầng kế có hình vuông, gọi là Phương Đàn, tượng trưng cho đất.

Tế Nam Giao là lễ tế trời, đây là lễ tế quan trọng nhất của vua chúa ngày xưa trong dịp xuân về. Trong lễ tế Nam Giao, nhà vua giữ địa vị chủ tế. Ba ngày trước khi tế, nhà vua phải xa giá tới Trai cung cho thanh tịnh.

Trong những ngày diễn ra cuộc lễ, từ triều đình cho đến dân chúng ở kinh đô đều nô nức hớn hở. Người ta kéo nhau đi xem đông như hội. Hiện nay, Đàn Nam Giao đã trở thành một di tích lịch sử và văn hóa của cố đô Huế và của đất nước.

_7:30_PM_
14-12-2009, 02:59 AM
Bánh canh Nam Phổ


http://caravanviet.com/forum/imagehosting/204887ee1eeca18.jpg

Một bát bánh canh Nam Phổ đỏ sậm, cho lên vài thìa nước mắm ớt, vừa ăn vừa xuýt xoa, mới hay cái ngon ở đời nào phải chỉ là nem công, chả phượng
Từ hàng trăm năm nay, nấu bánh canh bán dạo đã trở thành nghề gia truyền của người làng Nam Phổ. Một gánh bánh canh là đủ chạy gạo cho cả gia đình. Có năm thịnh, cả làng Nam Phổ nấu bánh canh bán dạo khắp vùng Huế. Dù đơn giản, nhưng để nấu được một nồi bánh canh Nam Phổ cũng khá công phu. Từ buổi sáng các bà, các chị dạy sớm để đi chợ, lựa mua cho được những mớ tôm tươi nhất. Tôm nấu bánh canh phải là tôm đầm, thịt đậm đà, đặc biệt là không tanh. Thịt lợn cũng phải là thịt ba chỉ vừa nạc nhưng mỡ phải dày. Tôm và thịt heo mua về được trộn đều giã nhỏ, ướp gia vị vừa phải và viên tròn thành chả. Trong quá trình giã, có trộn lẫn một ít hạt điều để tạo mầu.

Thường đứng trưa mới nhen lửa nấu bánh canh. Ðợi nước sôi vùng mới bắt đầu cho bột vào và hạ dần lửa. Khi bột đã vừa chín, bỏ tôm và thịt đã viên tròn vào nồi. Do hạt điều trong chả viên, từ mầu trắng nồi bánh canh chuyển dần sang đỏ sậm. Ngay cả phần thịt heo nạc giã nhỏ trông cũng có mầu đỏ như tôm. Dùng vá khoắm chậm và đều cho đến khi đáy nồi sên sết, là vùi lửa để giữ nóng. Về cơ bản đến đây bánh canh đã chín. Có thể múc ra cái bát trẹt sức chứa bằng một chén lớn, vừa thổi vừa ăn. Nhưng muốn ngon phải cầm lòng đợi một tí để các mẹ làm cho chén nước mắm ớt. Ðây mới thực là một tuyệt chiêu bởi nước mắm ăn kèm với bánh canh Nam Phổ là thứ nước mắm cốt đực làm từ con huyết Cửa Thuận, có mầu vàng sậm như rượu vang, bỏ hạt cơm vào vẫn cứ nổi lên trên. Giữa trời đông, Huế lạnh như cắt, cứ một bát bánh canh Nam Phổ đỏ sậm, cho lên vài thìa nước mắm ớt, vừa ăn vừa xuýt xoa, mới hay cái ngon ở đời nào phải chỉ là nem công, chả phượng.

Trong xu hướng đô thị hóa, ẩm thực Huế cũng có nhiều thay đổi. Các quán phở, quán bún mọc lên nhan nhản. Người mê bánh canh Nam Phổ chỉ còn là những người lao động nghèo, mà bát canh hợp với túi tiền. Riêng với người sành ăn, gánh bánh canh của mệ Dự, mệ Bê là ngon nhất. Mới đây, mệ Dự sau gần 60 năm trong nghề, tuổi cao sức yếu mệ đã giải nghệ. Gánh bánh canh bây giờ mệ chuyền tay cho con gái. Còn mệ Bê do ở Huế vắng khách, mệ chuyển sang bán ở khu vực phố cổ Bao Vinh. Cứ vào đầu giờ chiều, nhiều người thấy mệ đi đò ngang, gánh bánh canh đặt trên sạp ghe, thoang thoảng mùi tôm đầm Chuồn và vị nước mắm Cửa Thuận.


(Sưu tầm)

:)
18-12-2009, 08:19 AM
Cafe Huế : Chiều – Nơi gặp gỡ ngày và đêm


http://www.khamphahue.com.vn/upload/amthuc/tracafe/trong%20quan%20chieu.jpg
Trong quán Chiều

Nếu hỏi người Huế “rặt”, chỗ nào uống café cho yên tĩnh, có nhạc xưa thật hay và nằm bên góc phố cũ, họ sẽ được chỉ đến café “Chiều”


Quán nằm phía sau Hoàng thành, nhìn ra cửa Hòa Bình. Từ Đại Nội, men theo đường Phượng Bay (đường Đoàn Thị Điểm), đến ngã giao nhau Mai Thúc Loan, rẽ tay trái vào Đặng Thái Thân đi hơn 100m là đến Chiều. Nhìn qua không có gì đặc biệt, quán nằm lụp xụp dưới tán cây bàng già nua, không bảng hiệu, đơn giản, mộc mạc. Nhưng bước vào, dường như mọi bộn bề đều được vứt bỏ. Ở đây gợi lên ý niệm thời gian lặng lẽ trôi. Chỗ nào cũng cũ, nhuốm màu thời gian tới từng bộ ghế, cái bàn gỗ, lọ đất cắm những hoa dại vừa được vớt từ dòng sông Hương lên, nhiều bức tranh sơn dầu do người thân bạn bè vẽ tặng chủ quán.

Nhạc Trịnh, Vũ Thành An, Lam Phương, Cung Tiến, Đoàn Chuẩn - Từ Linh… lúc nào cũng văng vẳng trong quá Đặc biệt các ca khúc thu âm trước năm 1975 rất đơn giản mà hay vì không có âm thanh điện tử. Khung cảnh và nhạc buồn buồn cứ đi vào lòng mà chẳng ai biết.

Dùng đèn vàng bóng nhỏ, ấm áp, thứ đèn mờ dìu dịu đủ tạo một khoảng riêng tư trong mỗi người. Quán thắp thêm nến trắng sau 7 giờ tối. Cảm nhận sự ấm áp từ “lửa nguyên thủy” ta dễ nhìn ra mình cùng những thiếu vắng bấy lâu: Sự yên tĩnh tâm hồn.

Hoa dại nhiều màu sắc được thay mỗi tuần là một đột phá từ đôi bàn tay khéo léo của ba chị em nổi tiếng nhan sắc Huế xưa: chị Hà, chị Bạch, chị Tuyết. Những cúc dại trắng, tigôn... nếu sang hơn là hồng tỷ muội hay sen trắng, sen hồng hồ Tịnh Tâm.

Nhìn ra khung cửa gỗ, lầu Tứ Phương Vô Sự đổ nát như một bức tranh thủy mặc hoang tàn gợi nỗi trống vắng xa xăm trong chiều tím huyễn hoặc xứ Huế. Hết hàng hiên che nắng mưa là phố xá thật gần với tiếng xe đạp, xích lô cóc cách, còi xe máy, tiếng xôn xao người qua lại. Ngoài nữa, hàng phượng vĩ gầy guộc che chở cho quán đã hơn 10 năm nay.

Chiều đâu chỉ là thời gian nghỉ ngơi sau một ngày làm việc. Tới chiều lúc ta cần một không gian tĩnh lặng, ngắm nhìn màu sắc giao thoa từ ngày qua đêm và lắng nghe tình cảm đất Huế còn đọng mãi trên nét xưa cũ.

Chiều buồn len lén tâm tư
Mơ hồ nghe lá thu mưa
Dạt dào tựa những âm xưa
Thiết tha ngân lên lời thơ
(Hoài cảm - Cung Tiến)

Thông tin quán:
Địa chỉ: 44 Đặng Thái Thân - Tp.Huế
Điện thoại: 054.515845


Theo Baodulich.com.vn

:)
24-12-2009, 02:49 AM
Ốc – Món ngon xứ Huế!

http://www.khamphahue.com.vn/upload/amthuc/diemtam/oc1.jpgỐc - nguyên liệu dân dã, cách chế biến không cầu kì, rẻ tiền nhưng lại làm nên một món ăn hấp dẫn và khoái khẩu cho người dân lẫn du khách đến Huế.


Nguồn gốc và hiện trạng

Ốc được lấy từ những nơi có mực nước không cạn cũng không sâu, thường ở lưng chừng sông hoặc đồng ruộng. Vì thế người ta mới gọi là “mò ốc”. Sông nước ở Huế có “vị” rất riêng làm cho ốc và hến ở đây định hình một hương vị đặc trưng mà không nơi nào có được. Ngày nay, do nhu cầu tiêu thụ quá lớn, lượng ốc trên các sông hồ trong nội thành đã trở nên khan hiếm, nguồn cung cấp chủ yếu là từ các vùng quê ven thành phố.

Là một thành phố nổi tiếng về du lịch, Huế ngày càng đa dạng và đặc trưng hơn trong phong cách ẩm thực. Từ lâu, ốc đã là một đặc sản, là một món ăn phổ biến và rất được chuộng của người dân Huế. Hiển nhiên theo quy luật phát triển tất yếu, buôn có chợ bán có phường, từ những ngày đầu với một quán, hai quán, ba quán…đến bây giờ đã trở thành một phố ốc san sát nhau, yên vị tại Trường An. Thỉnh thoảng ta vẫn có thể tìm thấy rải rác một số quán trên các con đường quanh thành phố. Và ngày nay, thương hiệu ốc Huế đã được ghi tên mình lên bản đồ ẩm thực Huế.

Ốc Huế - một hương vị đặc trưng riêng

Không như ốc ở những nơi khác, ốc Huế có đủ các vị mặn, ngọt, chua, cay, nồng. Một chút cay của tiêu ớt, một chút nồng và thơm của gừng sả, một chút mặn mà của nước mắm, một chút vị ngọt toát ra từ thịt ốc. Tất cả làm nên một món ăn vừa ngon vừa thơm. Chỉ cần nhìn thấy đĩa ốc nóng hổi bốc khói ngùn ngụt và mùi thơm ngào ngạt là chúng ta có cảm giác “thèm” và bị quyến rũ ngay.


http://www.khamphahue.com.vn/Upload/Oc.jpg
Ốc Hút

http://www.khamphahue.com.vn/Upload/OcBuou.jpg
Ốc Bươu

Có hai loại ốc, ốc hút và ốc bươu mà người Huế thường gọi là ốc nhỏ và ốc to. Ốc thường được ăn kèm với chén nước mắm ớt tỏi cay và chua, đĩa rau sống tươi ngon có thêm vài lát vả và chuối chát. Thêm vào đó là món bánh tráng hoặc bánh phông tôm chiên giòn. Để giảm bớt vị cay từ ốc Huế, thực khách luôn phải ăn kèm theo một ca trà đá. Dụng cụ để ăn ốc, người Huế gọi là “cây khươi ốc” không phải là tăm như những nơi khác mà là gai của cây bồ kết, nó nhọn nên rất dễ “khươi”.

Mỗi lần ăn ốc xong, ai nấy đều hít hà vì cay và nóng. Họ hít hà còn vì ngon quá nữa. Người nào người nấy môi đỏ lên, mồ hôi lấm tấm nhưng vẫn ăn ngon lành. Có người ăn đến chảy nước mắt, nước mũi nhưng vẫn ăn đến cùng và cảm giác “tuyệt cú mèo”. Cũng khuyến cáo đối với những ai không phải là người Huế, khi thưởng thức món này, nên gọi kèm bát nước chấm không cay, nếu không là phải “bỏ của chạy lấy người” vì quá trời là cay.


http://www.khamphahue.com.vn/Upload/Oc1.jpg
Ốc Huế vừa nóng vừa cay

Món ốc thu hút rất nhiều đối tượng từ học sinh, sinh viên, người lao động bình dân đến những người sành điệu và cả khách du lịch. Tất cả đều có chung một cảm nhận ốc là món rất khoái khẩu, ăn rồi nhớ mãi và muốn ăn nhiều lần hơn.

An toàn thực phẩm

Tuy ốc thuộc vào dạng thức ăn mát dễ gây đau bụng, để loại trừ yếu tố đó món ốc Huế đã được chế biến một cách cẩn thận. Ốc được ngâm ba lần qua nước muối, nước gạo, nước sạch để loại đi chất bẩn. Thêm vào đó là các gia vị ớt, gừng, sả… mang yếu tố nóng có tác dụng giảm đau bụng. Đặc biệt, ốc được nấu chín kĩ nên rất an toàn.

Người Huế thích ăn ốc đã đành mà nhiều khách du lịch, việt kiều, người nước ngoài cũng rất mê món này. Ốc là món mà họ nghĩ đến đầu tiên khi đặt chân đến Huế. Trở lại sau chuyến du lịch, biết đâu họ sẽ giới thiệu cho bạn bè về một đặc sản dân dã của cố đô.

:)
27-12-2009, 07:21 AM
Bánh khoái Huế

http://mfo.mquiz.net/IMAGES/thumb.aspx?size=3&img=/images/uploaded/QuynhTam.Lb08jK1Xw28pE23Tg19/097309-cbbBanhKhoai2.jpgTheo giải thích của những người làm bánh khoái, ở Huế, ban đầu món ăn này có tên là bánh “khói”, bởi ngày xưa người ta thường đổ bánh trên bếp củi, khói cay xè cả mắt. Sau này, dân Huế đọc chệch đi thành "bánh khoái", rồi quen. Mà gọi là bánh khoái cũng có lý vì đây quả là một món khoái khẩu.

Cách làm bánh khoái xứ Huế gần giống cách làm bánh xèo ở Nam bộ, nhưng khác ở chỗ bột làm bánh là bột gạo pha với bột năng được xử lý qua nước vôi trong cùng một số thành phần khác theo bí quyết gia truyền của từng quán để tạo hương vị riêng. Nhân bánh gồm thịt heo, tôm bóc vỏ, giá đỗ và nấm rơm hoặc nấm hương đã xào qua.

Làm bánh khoái, ngoài công thức bột được gia giảm kỹ lưỡng, còn phải kể đến lửa – một yếu tố không kém quan trọng để có bánh ngon.

Chiên bánh khoái phải cẩn thận từng thao tác, từ canh chừng độ nóng của lửa, đổ bánh vừa đủ bột... Thời gian tráng một cái bánh trung bình phải từ 12 đến 18 phút bánh mới có được độ giòn… Khi đổ bánh, người ta “tráng” thêm trên bột một lớp lòng đỏ trứng gà, vừa để thêm chất dinh dưỡng, vừa để bánh có màu sắc hấp dẫn hơn.

Sự khác biệt lớn nhất giữa bánh khoái Huế với món bánh xèo chính là chén nước chấm đặc sánh màu nâu nhạt. Nước chấm này được làm từ gan và thịt nạc heo băm nhuyễn cùng với tương đậu nành chính gốc Huế, có hột mịn, sắc vàng nâu.

Tương rất quan trọng trong chén nước chấm, chỉ có tương Huế mới làm cho chén nước chấm dậy hương thơm và độ mặn – ngọt đặc biệt, mới ra cái hồn xứ Huế. Nước lèo ngon có vị bùi bùi của gan heo, vị béo của đậu phộng giã nhuyễn và mùi thơm của vừng.

Ăn kèm với bánh nhất thiết phải có trái vả xắt nhuyễn và chuối xanh, ngoài ra còn có khế, đu đủ và cà rốt ngâm giấm chua ngọt, cải con, xà lách, rau thơm, ngò rí cùng mấy trái ớt chỉ thiên cay xé lưỡi.

Tất cả tạo nên một món ăn đầy màu sắc và hòa quyện nhiều hương vị, đủ chua, cay, chát, ngọt, mặn, béo, bùi… Bánh khoái thể hiện rõ nét phong cách ăn uống và triết lý ẩm thực của người Huế - một món ăn gói trọn bao nhiêu vị của đời.

Bánh khoái xưa vốn cũng là món ăn cung đình. Theo dòng thời gian và những thay đổi của thời cuộc, món bánh này đã lan truyền ra dân gian và trở thành một món ăn phổ biến, dân dã và đặc trưng của xứ Huế. Trong cái se lạnh của tiết trời Huế đầu mùa mưa này, ăn chiếc bánh khoái mới đổ còn nóng hổi, vàng rộm, giòn tan thì còn gì khoái hơn!

Huế có nhiều quán bánh khoái nổi tiếng: Lạc Thiện (ngay gần cửa Thượng Tứ), Hồng Mai (78 Đinh Tiên Hoàng), Bánh khoái 222 Chi Lăng, quán Hạnh 11 Phó Đức Chính… Cùng là một món “bánh khoái” nhưng bột bánh và nước lèo được các quán chế biến theo những bí quyết riêng. Khám phá vị ngon của mỗi quán thành ra cũng là một điều thú vị cho người sành ăn!


Theo afamily

:)
30-12-2009, 02:59 AM
Bánh bèo, nậm, lọc :


http://dulich.tuoitre.com.vn/Tianyon/Cache/Thumbnail/857/295857.jpg
Bánh bèo

Ở Huế có nhiều quán bánh bèo, nậm lọc nhưng không ai là không biết đến quán bánh lọc bà Đỏ. Dân Huế thường gọi quán bánh bèo, nậm, lọc Bà Đỏ là quán bánh lọc Mụ Đỏ. Ngoài các loại bánh như bánh lọc, bánh bèo, bánh nậm, ở đây còn có món bánh lá chả tôm rất ngon.

Bánh bèo, nậm lọc là món ăn vào bữa xế chiều đầy cảm hứng. Món bánh này rất dễ làm, nguyên vật liệu đơn giản. Bánh bèo đúng nghĩa với chữ bèo bởi mỗi chiếc bánh nhỏ tròn như mỗi cánh bèo, làm bằng bột gạo, rắc thêm tôm chấy, ăn với nước mắm ngọt. Bánh bột lọc là loại bánh vừa dai vừa dẻo lại vừa mềm, làm bằng bột lọc bọc nhụy tôm thịt ăn với nước mắm biển, càng cay càng hấp dẫn, bánh được gói bằng lá chuối hay để trần luộc chín, mỗi dạng đều có một hương vị độc đáo riêng. Bánh nậm giống như bánh lá, về cách chế biến và cả nguyên vật liệu nữa, chỉ khác ở chỗ là bánh lá thường được gói bằng lá dong, bánh nậm gói bằng lá chuối.


http://a8.vietbao.vn/images/vn888/Tra/thang11/hueh.jpg
Bánh nậm

Ngoài các loại bánh như bánh lọc, bánh bèo, bánh nậm, ở đây còn có món bánh lá chả tôm rất ngon. Bánh lá chả tôm là món ăn bữa lỡ làm lưu luyến bao người. Bánh làm bằng bột gạo, nhân tôm thịt, hấp chín, chả làm bằng những con tôm tươi sống nguyên chất. Chiếc bánh lá của Huế mềm mỏng (người Huế vốn ăn lấy hương lấy hoa mà). Chả tôm Huế ngon nhờ tôm của sông Huế ngọt, biển Thuận An tươi.


http://files.myopera.com/naninonu/blog/Banh%20bot%20loc%204.jpg
Bánh lọc

Chiều chiều cùng bạn bè hàn huyên tâm sự, thưởng thức món bánh lá chả tôm thì không còn gì thú vị hơn Người Huế thường ghé quán vào buổi xế chiều. Quán nằm cách xa thành phố nhưng vẫn luôn đông khách

:)
03-01-2010, 05:45 AM
Mắm Sò Lăng Cô

Vùng Lăng Cô, huyện Phú Lộc, ngoài nổi tiếng là 1 trong 30 vịnh đẹp nhất của thế giới-có bãi biển cát mịn trải dài 12 km, cùng đầm An Cư rộng chừng 1800 ha thông ra biển, non nước hữu tình, điểm đến của du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng bậc nhất của Việt Nam. Còn vang danh về phong vị ẩm thực với vô số hải sản đặc sắc như: tôm, cua, cá, mực, ốc và sò huyết. Nhưng ấn tượng hơn cả là món mắm sò, chỉ cần thưởng thức một lần thôi ai cũng sẽ nhớ mãi hương vị của mắm đặc trưng này.


http://netcodo.com.vn/dataimages/200909/original/images322641_mamso.jpg
Mắm sò lăng cô

Sò đầm An Cư ở Lăng Cô có quanh năm và chất lượng chẳng thua gì sò huyết đầm Ô Loan (Phú Yên). Vào chợ Lộc Hải, thôi thì ngày nào cũng có sò vun từng ụ tướng đại. Được biết, khi tiết trời vào hạ là mùa sò đổ về chợ nhiều nhất. Đây cũng là lúc nghề làm mắm sò của người dân nơi đây hoạt động rộn rã trong mỗi cảnh nhà.

Sò làm mắm thường là sò răng, sò nhọn, sò bi và sò lông. Để có mắm ngon, phải qua các công đoạn chế biến kể cũng lắm công phu và lành nghề của con dân miệt đầm An Cư. Sò bắt về đem rửa sạch vỏ, cho vào chiếc thau nhựa ngập nước rồi lấy mũi dao nhọn cạy miệng, chẻ vỏ. Chẻ vỏ sò phải khéo tay, thao tác phải nhanh nhẹn. Bởi muốn có mắm ngon, sò chẻ vỏ phải giữ nguyên cả ruột. Công đoạn này tất thảy từ người già đến trẻ quê đây không ai lại không thuần thục. Sò chẻ xong đem sàng rửa sạch cho hết nước đục, lại bỏ hết cát xong để cho ráo. Sau đó, lấy ớt trái đỏ đã xay nhuyễn, củ riềng xắt chỉ và muối hột, tất cả cho vào thau sò trộn đều. Và tuỳ theo lượng sò ruột, người làm mắm với cảm quan kinh nghiệm gia truyền có thể gia giảm thêm bớt muối, ớt, riềng để đảm bảo chất lượng mùi vị cho mắm. Tiếp theo cho mắm vào 2/3 chai thuỷ tinh có dung tích 0,65lít rồi đậy nắp thật kín không cho lọt gió để nuôi sò lên nước chừng 10 đến 15 ngày. Khi thấy nước sò đọng lại ở đáy chai cở 2 lóng tay, còn thịt sò thì nổi lên trên mặt, như vậy là mắm sò đã chín, có thể đem ra dùng được.

Cũng như mắm rò, mắm tôm, mắm sò cũng thích hợp với rau sống, càng nhiều vị rau như: xà lách, cải con, rau thơm, tầng ơ... và quả xắt mỏng gồm: chuối chát, vả, khế chua, dưa leo...kẹp cùng lát thịt heo ba chỉ luộc xắt mỏng chấm với mắm ăn càng ngon, tăng thêm khẩu vị. Chỉ nghe thôi đã thấy đây là món ăn lạ miệng “bắt” cơm.

Người sành điệu không cần nếm thử mà chỉ cần nhìn qua là đã biết mắm ngon hay dở, bởi coi chổ màu sắc của mắm. Mắm ngon nhất là loại mắm sò sặc với màu đỏ trắng, do làm từ sò răng, sò nhọn sống ở môi trường đất cát nên có vị ngọt, mùi thơm. Còn mắm sò bi có màu đỏ thẩm, được xem là mắm loại hai do được làm từ sò bi, sò lông sống ở môi trường đáy nước nhiều bùn, kém vị ngọt và mùi thơm. Theo đó, hiện một chai mắm sò sặc có giá từ 30-35.000 đ/chai. Mắm sò bi chỉ có giá 20.000đ/chai. Đến Lăng Cô, trong bửa cơm nhiều người chọn món mắm sò dù chỉ để ăn chơi cho biết, nhưng khi rời không ít người nhất định phải mua cho bằng được một vài chai mắm sò đem về, như là một món đặc sản vùng để khoe với người nhà vậy.

Cũng như tâm trạng nhà văn Đoàn Giỏi, sau những năm tháng xa cách quê hương Nam bộ thời gian tập kết ở miền Bắc, nhớ tha thiết các món mắm trứ danh đặc sản quê hương Nam bộ, đã ký thác qua tác phẩm “Đất rừng phương Nam”, thì những người dân Lăng Cô nói chung và thôn An Cư Đông I xa xứ nói riêng hễ nghe nhắc đến An Cư-Lăng Cô đã thấy dậy lên trong tiềm thức mùi thơm cực kỳ hấp dẫn của mắm sò. Cảm thấy đói bụng, đồng thời cũng hiện ra theo bao nhiêu hình ảnh kỷ niệm khiến lòng rưng rưng xao xuyến, lởn vởn hiện ra chung quanh món ăn thuần phát đậm đà, mang đặc tính tiêu biểu của mùi vị quê hương xứ đầm An Cư-Lăng Cô này.


http://farm4.static.flickr.com/3634/3449878798_412b7c4d35.jpg


Võ Triết (TRT

:)
08-01-2010, 06:51 PM
Thanh Trà xứ Huế

http://thuathienhue.gov.vn/Upload/HueXuaNay/ThanhTra.jpgHuế vốn nổi tiếng là miền đất nhiều hoa trái tươi ngon ý vị, nào thơm, mít, dâu… chua chua ngọt ngọt… song ấn tượng nhất vẫn là thanh trà – chỉ riêng cái tên gọi mỹ miều này thôi đã làm cho bao người háo hức. Đây là một loại quả mà người Huế rất thích, họ luôn muốn ăn cho bằng được, ăn đến khi trên cành không còn một quả nào, ăn đến tận cuối mùa… mà lòng vẫn còn thòm thèm tiếc rẻ!

Hàng năm, cứ vào độ tháng 7, 8 là mùa thanh trà chín đẹp, quả thanh trà tươi xanh tròn trĩnh, múi thanh trà mọng nước gợi cho ta bao nhiêu cảm hứng về điều ăn sự uống. Người sành ăn thường chọn thanh trà Nguyệt Biều, họ cho rằng cái ăn cốt để cho thơm miệng, ngọt lưỡi, mát họng mới gọi là đúng gu thưởng thức hương vị cây trái, đặc biệt với quả thanh trà Nguyệt Biều hội đủ các yếu tố tuyệt hảo ấy.

Phong cách ẩm thực mỗi người mỗi kiểu – với thanh trà, người năng nổ nhiệt tình sẽ nhanh nhẹn gọt vỏ, xẻ làm tư hoặc sáu tùy vào độ lớn bé của quả, lột vỏ, bỏ hột và cho vào miệng nhai ngấu nghiến – thao tác ăn như vậy mới khoái khẩu, người khác nhẹ nhàng hơn dù lòng rạo rực nhưng cứ thủng tha thủng thỉnh, lột từng múi nhỏ, tách ra những tép nguyên, đủng đỉnh cho vào miệng nhỏ nhẻ nhai thong thả, ăn thật chậm rãi dường như sợ hương vị sớm tan đi, thú vui nhâm nhi sẽ chóng qua vậy.

Đặc sắc nhất là món thanh trà trộn mực khô, còn gọi là gỏi thanh trà, cách làm đơn giản, chế biến gọn nhẹ nhưng vị ngon thì rất độc đáo khiến người đã ăn, biết ăn muốn được ăn thêm nhiều lần nữa… Này nhé: nướng mực khô trên bếp than hồng chỉ vừa chín để có được vị ngọt thơm và độ mềm, nếu mực chưa chín thì xem như hỏng mà quá lửa thì thịt mực sẽ bị khô cứng và không còn vị ngọt, xé mực ra thành từng sợi nhỏ, thanh trà bóc ra từng múi, tách múi ra thành tép nhỏ, giã ớt, tỏi càng cay càng ngon, pha nước mắm, đường, bột ngọt, tất cả hòa tan và trộn chung vào một dĩa, trang trí trên mặt dĩa một cành hoa ớt, hoa hành vô cùng đẹp mắt và ngon lành đáo để.

Món này ăn với cơm cũng ngon song độc chiêu hơn cả vẫn là để làm mồi uống với rượu làng Chuồn, thật là “ấm dậm”, với bia Huda thì càng thích thú.

Đến mùa thanh trà, trong thực đơn của các khách sạn sang trọng, các tiệm ăn và cả những quán ven đường bình dân đều có món thanh trà trộn mực khô, độ ngon tùy vào giá tiền, cụ thể là tiền nào của nấy. Tuyệt vời nhất là thanh trà loại 1, mực khô loại 1, nước mắm loại 1… và cứ thế thế, với thanh trà, mực, nước mắm loại 2 thì ít ngon hơn, rẻ tiền hơn. Giá cả của mỗi dĩa thanh trà trộn mực khô, còn tùy thuộc vào độ sang hèn của nơi ăn chốn ở, tại khách sạn và quán bình dân – là cả một sự chênh lệch đáng kể.

Thanh trà là món ăn ngon ngày hè – là món tráng miệng của mỗi gia đình, sau bữa cơm đầm ấm, cả nhà cùng nhau ăn một vài múi thanh trà nhiều vitamin bồi bổ cơ thể thì không còn gì sung sướng hơn – quả là đôi khi hạnh phúc không ở đâu xa và cũng chỉ là điều đơn giản nếu con người biết tận hưởng.

:)
13-01-2010, 06:03 AM
Bún mắm nêm Huế

http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/amthuc/dacsan/2009/7/bunmamnem2.jpg
Chỉ một ít rau, ít bún và thêm vài miếng thịt (hoặc chả, nem…) và quan trọng là mắm nêm, chừng ấy thôi đã có thể làm nên một món bún khá đặc sắc Bún mắm nêm. Nhắc tới đã thèm, cái món ăn hoài không chán.

Ở Huế, mắm là đặc sản có quanh năm suốt tháng. Mỗi mùa mỗi hương vị riêng, độc đáo, hấp dẫn! Mắm Huế rất phong phú, có cả loại bình dân và loại quý tộc. Bình dân và phổ biến nhất là mắm nêm. Mắm nêm có thể được làm bằng các loại cá biển như: cá cơm thang, cá nục nhỏ, cá me. Mắm nêm làm để trong chum, vại nhỏ. Chờ đến ngày mắm chín, màu mắm đỏ hây hây dưới nắng vàng, thơm nức mũi một vùng. Thứ mắm ấy, để lắng lại, phía trên là nước mắm trong màu hổ phách, phía dưới lại đùng đục xương cá, xác cá còn sót lại. Thứ còn sót lại ấy lại được lọc, gạn thêm lần nữa, qua một lần đun sôi, lại ra đựợc thứ mắm sền sệt, màu xám nâu thơm và ngon được gọi là mắm nêm. Mắm nêm có mùi thơm nức, hơi khẳn, một hương vị độc đáo không bất cứ loại mắm nào có.

Mắm nêm để chấm với rau luộc, mít luộc, bò tái, bò nhúng, bánh đúc… Nhưng hấp dẫn nhất phải kể đến món bún mắm nêm. Mắm nêm kết hợp với bún, rau, thịt lại mang đến một món ăn đặc biệt của Huế. Bún mắm nêm Huế khác những nơi khác bởi con bún, nhưng cái làm nên hương vị đặc trưng vẫn chính là mắm nêm. Mắm ở Huế không quá mặn, không quá ngọt mà đậm đà và lúc nào cũng cay. Mắm nêm ngon là loại mắm nêm đen, không pha chế, mắm được làm theo công thức đặc biệt, phù hợp với sở thích cũng như pha chế theo bí quyết riêng. Mắm ngon ở chỗ muối ngon, tạo nên loại mắm sền sệt có mùi thơm nức mũi. Mắm khi ăn với bún thường được thêm vào rất nhiều gia vị như tỏi băm nhuyễn, ớt băm nhuyễn, thơm băm nhỏ và cho cả xác vào. Gia vị sẽ làm dịu vị mặn và tạo mùi thơm cho mắm nêm. Khi pha chế còn thêm chanh để mắm nêm có vị chua chua rất ngon.

Ngoài rau thông thường, tô bún mắm nêm ở Huế còn ăn kèm với dưa giá, có vị chua chua giòn giòn rất hấp dẫn. Thịt ăn kèm bún mắm nêm có thể là thịt đầu, thịt ba chỉ, chả da, chả lụa, nem, bò tái…tùy sở thích và khẩu vị riêng. Người Huế thường ăn rất cay, tô bún mắm nêm thường được cho thêm muỗng ớt màu, trộn đều lên, vắt thêm ít chanh và thưởng thức. Tô bún mắm nêm vừa bưng ra, mùi thơm nồng nàn quyến rũ đã kích thích ngay vị giác của thực khách. Mùi mắm nêm thoang thoảng, vị đậm đà, sợi bún mềm dai, rau và dưa giá giòn giòn. Tất cả tạo nên vị cay cay, the the, béo béo, đậm đà ở đầu lưỡi khiến bạn ăn một cách ngon lành. Ăn đến đâu cảm giác khoái khẩu đến đó. Bún mắm nêm là món được nhiều người dân Huế yêu thích. Mỗi lần ăn là ăn liền một mạch hai, ba tô. Đi đâu xa là nhớ và thèm chịu không nổi, ở gần thì dăm bữa nửa tháng phải đi ăn cho đã thèm.

Bún mắm nêm là món ăn bình dân và phổ biến ở Huế. Cách làm rất dễ nên có thể tự làm ăn ở nhà và ít mất thời gian. Nếu muốn ăn ngon thì ghé các quán bún mắm nêm ở đường Bà Triệu, ở đó nhiều quán san sát nhau tạo nên con đường bún mắm nêm. Đặc biệt, quán Mệ Thẻo lâu năm và có hương vị đặc biệt riêng nên rất đông khách. Ở Thành Nội thì phải kể đến quán ở góc ngã ba Đoàn Thị Điểm và Đặng Thái Thân, quán nằm trên đường Yết Kiêu. Ngoài ra trong các chợ, tại các hàng ăn cũng bán món này, hương vị rất ngon mà giá cũng phải chăng.

Bún mắm nêm không những hấp dẫn đối với người dân địa phương mà còn quyến rũ những ai đã từng đến Huế và từng một lần thưởng thức. Mỗi lần có dịp đi Sài Gòn là mấy đứa bạn lại í ới “Ê mi, đem bún mắm nêm vô được không? Tao thèm quá!”

Nhớ lúc chở cô bạn đại học quê Nghệ An đi ăn bún mắm nêm lần đầu tiên. Thấy tôi bỏ ớt và nói bún mắm nêm phải ăn cay mới ngon nên cũng bắt chước cho ớt vào tô, nhưng ăn đến đâu thì cô ấy phát khóc đến đó. Tôi không thể nhịn cười được. Hết tô thứ nhất, tôi hỏi ăn nữa không, nó lấy giấy quẹt mặt, quẹt mũi rồi cười mếu máo thêm một tô nữa. Sau này cứ lúc mô đi ăn là lại đòi ăn bún mắm nêm.
Người không quen thì cho rằng mùi mắm nêm hôi, người ăn được thì lại cảm thấy thơm – cái mùi thơm nức mũi mà chỉ cần ngửi thôi là đã thèm rỏ nước miếng rồi.

Mặn mặn, chua chua, cay cay, thơm thơm, béo béo là những hương vị đặc biệt món ăn này. Đặc biệt, ăn bún mắm nêm không những thỏa mãn vị giác mà tất cả các cảm giác đều cảm nhận được. Từ mùi thơm ta có thể cảm nhận được những hương vị được trộn lẫn trong đó. Hơn nữa màu sắn của tô bún mắm nêm nhìn rất hấp dẫn, có màu đỏ của ớt, màu xanh của rau... Cái thú vị của việc ăn bún mắm nêm còn là thao tác trộn đều trước khi ăn. Mùi mắm nêm từ từ bay lên mũi gây hưng phấn cho người thưởng thức.

Ai đã từng ăn bún mắm nêm Huế ắt hẳn sẽ không quên được mùi vị đặc biệt ở nơi đây. Bởi nó mang hương vị mặn mà, đậm đà khó quên như tình cảm của người Huế. Lạ thay, cứ nhắc đến là thèm, món bún mắm nêm Huế!

Kim Điệp (Khám phá Huế)

:)
17-01-2010, 01:00 AM
Chùa Ba La Mật


http://www.khamphahue.com.vn/upload/dvdulich/diemtq/chua/000021%20chuabalamat.gif


Chùa tọa lạc ở đường Nguyễn Sinh Cung, xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Điện thoại: 054.860521.

Chùa do Đại sư Viên Giác khai sơn vào năm 1886. Đại sư tên là Nguyễn Khoa Luận, làm quan Bố chánh Thanh Hóa. Sau đó, ngài treo ấn từ quan, làm lễ xuất gia với Hòa thượng Hải Thiệu ở chùa Từ Hiếu. Chùa được trùng tu năm 1934. Đến năm 1943, Hòa thượng Thích Trí Thủ đã tổ chức trùng tu, kiến trúc ngôi chùa như ngày nay.

Chùa Ba La Mật hiện nay đặt văn phòng Ban đại diện Phật giáo huyện Phú Vang.


(Theo tư liệu của ông Võ Văn Tường cung cấp)

:)
20-01-2010, 02:30 AM
Đan viện Thiên An


Đan viện Thiên An chốn hoang sơ trầm lắng

http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/tintuc/2009/3/danvienthienan.gifNằm trên ngọn đồi thơ mộng quanh năm gió mát với ngàn thông reo xanh vi vút suốt đêm ngày, lô nhô triền đồi, mái lá và con đường dốc ngoằn ngoèo chạy vào ký ức, vẻ đẹp Thiên An còn sâu lắng, quyến rũ lòng người bởi khí hậu mát mẻ, trong lành.

Chỉ cách trung tâm thành phố Huế 10km về phía nam, bạn có thể đặt chân vào cõi riêng ở Thiên An, địa phận xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế.

Quần sơn này gồm 140 ngọn đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 60ha, điểm cao nhất chính là ngọn đồi có đan viện tọa lạc. Vừa vào khuôn viên đan viện Thiên An, bên phải có đồi Đức Mẹ, ẩn sâu một cách kín đáo trong rừng thông bên là đồi Thánh Giá. Chính các đan sĩ người Pháp thuộc dòng tu khổ hạnh Bénedictine đã khai phá và đặt tên cho Thiên An (bình an từ trời). Ngày 6-10-1940, lễ khánh thành đan viện Thiên An bằng một lễ Misa được cha Romain tổ chức. Các đan sĩ sống hoàn toàn trong nội vi của đan viện, không có những hoạt động với bên ngoài.

Song song với việc kiến tạo đan viện như xây dựng một nhà thờ dòng có lối kiến trúc hài hoà với thiên nhiên, phía bên trái trước nhà thờ là tháp chuông vút cao đầy kiêu hãnh, các đan sĩ sư huynh và những người giúp việc đã xúc tiến việc trồng thông, đào hồ, lập vườn, biến vùng rừng núi khô cằn này thành một vùng rừng núi trù phú. Hai hồ nước trong đan viện được đào năm 1940 - 1960, cung cấp nước cho toàn khu vực và trở thành thắng cảnh, trong đó có hồ Thủy Tiên huyền thoại với những giọt nước thủy chung.

Những sớm mùa thu, khi màu nắng nhạt mỏng manh choàng lên ngọn đồi, lá thông xanh rung rinh lấp lánh trong nắng mai, những con đường còn dư vị ươn ướt của mùi sương trộn lẫn với xác lá thông già làm Thiên An càng quyến rũ. Đan viện nằm giữa một khung cảnh trầm lắng, yên tĩnh chính là nơi để các đan sĩ đi vào chiều sâu của đời tu trì cũng như tạo điều kiện cho những ai đến đây để tĩnh tâm, cầu nguyện và tìm kiếm sự bình an.


Theo Báo CATPHCM

NguyenHieu1994
24-01-2010, 08:43 AM
haha tui dân huế nè có điều huế không đẹp như các bạn tưởng đâu những điểm đến trên là những nơi đẹp thôi các ban chưa thấy những nơi kinh khủng của huế đâu :nono: hãy :typing: với tôi qua nick boyhandome_hieu để biết thêm 1 số nơi xấu của huế:goodjob:

:)
27-01-2010, 01:48 AM
Mắm tôm chua


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/7/7a/M%E1%BA%AFm_t%C3%B4m_chua.JPG

Tôm chua có ở nhiều nơi, nhưng ngon vào bậc nhất phải kể đến món tôm chua xứ Huế. Khi chế biến, người ta chuẩn bị đầy đủ các nguyên liệu như tôm, măng, tỏi xắt lát mỏng, củ riềng, ớt trái xắt lát dài. Đối với tôm, phải chọn loại tôm tươi, cắt râu, rửa sạch để ráo, ngâm với rượu cho đến khi hết mùi rượu, vớt ra, sau đó trộn đều tôm, măng, tỏi, ớt, riềng, nước mắm ngon hoặc muối, cho vào lọ thủy tinh hoặc lọ men, lấy vài thanh tre mỏng gài lại và đậy nắp, để nơi có nắng ấm độ 3 ngày rồi đưa vào nơi khô ráo và mát.

Từ 5 đến 7 ngày, bạn đã có một lọ mắm tôm rực màu đỏ hồng, thơm phức. Gói trọn trong món tôm chua Huế là vị ngọt bùi của tôm, vị béo của thịt, vị cay, thơm của riềng, tỏi ớt, vị chua của khế, vị chát của vả, hương thơm của rau... tất cả sẽ mang đến cho bạn hương vị một ngày tết rất Huế, rất ngon.

:)
07-02-2010, 02:32 AM
Rực rỡ hoa giấy Thanh Tiên đón Tết


http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/dulich/diemthamquan/diem%20tham%20quan%20khac/thang%2012/langhoathanhnien.jpg
Những người thợ khéo tay của làng hoa giấy Thanh Tiên

Những người thợ khéo tay của làng hoa giấy Thanh Tiên Bên cạnh các làng hoa tươi nổi tiếng đất Phú Xuân, người ta luôn đính kèm thêm một ngôi làng được tôn vinh là đất hoa tết của cố đô Huế- làng hoa giấy Thanh Tiên.

Cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10km về phía Đông Bắc, những ngày cuối năm này của làng Thanh Tiên rực rỡ sắc màu của muôn hoa, các thế hệ trong ngôi làng nổi tiếng này đang dùng đôi tay khéo léo của mình làm nên những bông hoa giấy đủ chủng loại toả đi muôn phương...

Khoảng hơn 10 phút xe máy từ trung tâm thành phố, chúng tôi đặt chân đến ngôi làng có tên gọi rất dễ thương- làng Thanh Tiên. Làng chỉ có khoảng 100 hộ gia đình, nhưng họ là chủ nhân của hàng chục loại hoa giấy phục vụ cho nhu cầu của người Huế và vùng phụ cận: hoa quỳ, tường vi, hoa lan, hoa chùm, hoa búp, hoa cúc, bông lùng, bông đũa...

Nghề làm hoa giấy của làng Thanh Tiên có từ 300- 400 năm trước, xuất phát từ nhu cầu làm sang bàn thờ gia tiên, đi tế lễ đình chùa, thờ phụng ngày Tết từ trong cung đình cho đến nhà dân. Hoa Thanh Tiên được dùng để cắm trên bàn thờ, trang thờ bổn mạng của nhiều gia đình ở Huế, hoặc trang trí trên vách giữa- tô vẽ, điểm xuyết phần nào cho sự trống trải của ngôi nhà.

Trong các sản phẩm của làng hoa Thanh Tiên, bông lùng, bông đũa có thể xem là tác phẩm tạo hình đầy thú vị. Bông lùng được làm từ ruột một loài cây thân thảo- cây lùng; bông đũa được vót từ thanh tre thân xơ tua tủa. Nhìn bàn tay nắn từng cánh hoa thoăn thoắt nhưng đều răm rắm của chị Nguyễn Thị Nga- một người dân làm nghề lâu năm của làng, chúng tôi không khỏi ngưỡng mộ. Qua đôi tay của chị từ những tờ giấy màu vô tri nhiều cánh hoa, đài hoa, nhụy hoa đã trở thành những bông hoa khoe sắc, đầy biểu cảm. Chị Nga cho biết: hoa giấy tuy đơn giản nhưng lại không dễ làm, bởi ngoài sự khéo tay, người thợ cần phải có sự tài hoa, óc thẩm mỹ mới có thể cho ra đời những sản phẩm đẹp và tinh tế.

Để làm nên một cành hoa giấy rực rõ, đẹp mắt mà chúng ta thấy trên thị trường, người thợ phải trải qua rất nhiều công đoạn. Nghề làm hoa giấy cũng đòi hỏi công phu, tỷ mỷ không kém gì trồng hoa tươi, bởi nguyên liệu làm hoa phải chuẩn bị từ mấy tháng mùa khô nắng ấm. Người làng Thanh tiên thường tranh thủ ánh nắng chói chang, rực lửa của thời tiết mùa Trung để hong khô cho những cành hoa, cuốn hoa đã được chẻ cẩn thận, tỉ mẫn từ những cây tre trong làng. Cũng ánh nắng ấy sẽ tiếp tục hong khô cho các cành, thân, giấy làm hoa đã được nhuộm nhiều màu rực rỡ. Tất cả đều mất khá nhiều thời gian và công sức bởi những người thợ phải canh từng “con nắng” để làm sao cho thân, cành, giấy làm hoa được hong khô vừa phải, không bị ánh nắng làm mất màu chuẩn. Ngày nay, giấy làm hoa có thể là những tờ giấy do người thợ tự nhuộm bằng những loại màu pha chế từ cây cỏ cũng có thể là những tờ giấy đủ sắc màu được bán sẵn tuỳ theo đơn đặt hàng và tuỳ theo nhu cầu của thị trường. Đồng thời, để đỡ tốn nhiều công sức và mất thời gian, bên cạnh các công đoạn làm thủ công như phải ráp nhuỵ hoa, cánh hoa thành từng bông hoa khoe sắc thì những người thợ của làng đã sử dụng những chiếc đục sắt có nhiều khuôn hình khác nhau với các mẫu đài hoa, cánh hoa, búp hoa và lá của nhiều loài hoa khác nhau như mai, cúc, lan, đồng tiền, hồng, tường vy… Người thợ chỉ xếp chồng giấy và chắn đục cho ra sản phẩm theo ý mình. Tiếp đến là công đoạn chún, bấm các cánh hoa sao cho đúng kiểu, đúng tông màu. Tuy nhiên cong đoạn ráp cánh hoa, nhuỵ hoa để trở thành một bông hoa khoe sắc thì chỉ có thể làm bằng tay. Những người thợ của làng sẽ dùng đôi tay khéo léo của mình bẻ những cánh hoa sao cho có nếp nhăn li ti sống động như cánh hoa thật, đây cũng là công đoạn khó nhất, đòi hỏi sự khéo léo và con mắt tinh tế của người thợ. Cuối cùng là kết thành cành, mỗi cành thường là kết 9- 10 bông theo quan niệm con số “hên” của người Huế.

Đầu tháng 12 âm lịch, hoa giấy Thanh Tiên bắt đầu toả khắp phố phường xứ Huế và các tỉnh lân cận như Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Bình… Với nhiều công đoạn để làm nên một cành hoa như thế nhưng mỗi cặp hoa có giá chỉ 2.500- 3.000 đồng. Hiện nay, không chỉ làng Thanh Tiên kết hoa giấy mà nghề này đã được mở rộng ra các làng lân cận như Tiên Nộn, Mậu Tài.

Hoa giấy Thanh Tiên nổi tiếng bởi có nguồn gốc- giá trị sâu xa về mặt tín ngưỡng trong nếp sống cổ truyền của người dân đất thần kinh xưa này nói riêng, người dân việt Nói chung. Bên cạnh đó, trái ngược với sự nhộn nhạo của chốn thị thành, làng quê này hàng năm vẫn mang lại cho Huế những hình ảnh thật vui mắt trong dịp Tết với những bó hoa sặc sỡ sắc màu cắm trên một thân tre- phần đầu bó bằng rơm hoặc chổi được mang đi rao bán khắp nơi. Và một không gian đẹp tinh khôi của cố đô Huế khi tết về, với hình ảnh mỗi gia đình ở Thanh Tiên vào ngày tết thường kết những cây hoa thật lớn với 300 - 500 cành, có gia đình kết được 7 - 10 cây, có nhà kết được đến 30 cây. Đến Thanh Tiên dịp này, trông cả làng như một rừng hoa rực rõ lung linh nhiều sắc màu kỳ diệu.

Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu thờ cúng hoa giấy đã giảm nhiều và sự lấn át của các loại hoa nhựa nhiều chủng loại, đẹp mắt đang tràn nhập trên thị trường với ưu điểm có thể dùng qua nhiều năm chứ không như hoa giấy chỉ có thể dùng trong vài ba ngày tết. Tuy thế, làng hoa giấy Thanh Tiên vẫn cố duy trì hoạt động của mình trên quy mô đáng kể. Nhiều hộ dân trong làng mà đi đầu là trưởng thôn Nguyễn Hoá đã thử nghiệm làm hoa gỗ và các loại hoa trang trí nghệ thuật, loại hoa lưu niệm khác như một cách nuôi nghề làm hoa giấy truyền thống của làng đã thu được nhiều kết quả phản hồi khả quan từ sự thích ứng của thị trường và bước đầu đã có một vài hộ dân trong làng đang học tập làm theo. Nói như cụ Nguyễn Rô- một cao niên của làng: Ngôi làng được đặt tên là Thanh Tiên bởi chính sự nho nhã, khéo tay của người dân làng bao đời nay vì thế dù xã hội không còn tiêu thụ nhiều như trước nhưng các con cháu của làng vẫn cố gắng duy trì nghề như một cách nhớ ơn tổ tiên đã truyền nghề lại nuôi dưỡng cho biết bao thế hệ con cháu của làng.


Theo Báo Thương Mại

THIÊN TỬ
07-02-2010, 05:16 PM
@bé lúm: bé lúm ơi, cái bánh khói nó có phải là bánh xèo không vậy? nhìn hao hao :sr:

:)
08-02-2010, 06:02 PM
@bé lúm: bé lúm ơi, cái bánh khói nó có phải là bánh xèo không vậy? nhìn hao hao :sr:

Lúm nghe nhiều người bảo bánh khoái ấy nhìn nó giống bánh xèo ở trong Nam. Mà Lúm thì chưa ăn bánh xèo đó nên cũng chả biết là có giống thật không :sr:.

:)
10-03-2010, 08:22 PM
Mát lòng nuốc Huế

Mùa nuốc chỉ xuất hiện ngắn vào mùa hè mà nuốc thì vốn chỉ ngon khi dùng đúng nuốc tươi, nuốc đang mùa, không phải loại đã làm khô rồi ngâm nở có màu vàng đùng đục teo héo.
Mát lòng nuốc Huếhttp://netcodo.com.vn/dataimages/200910/original/images268852_nuoc.jpg

Ẩm thực Huế đã có quá nhiều món ngon đãi du khách thập phương như bún bò, tôm chua, bánh bèo nậm lọc, chè cung đình… Tuy nhiên có món ăn mà rất ít người biết đến, ngay cả người dân xứ Huế đã nghe tên nhiều lần mà cũng không nhiều lần thưởng thức: Nuốc Huế

Phải lòng từ một cái tên…

Nuốc là tên một loại sứa gồm có hai loại: nuốc tai và nuốc chân. Những con nuốc trong xanh mơn mởn, nhỏ chỉ bằng một vòng tròn ngón tay này sinh sản ở vùng đầm phá nước lợ đầm Cầu Hai, phá Tam Giang khác với con sứa ở biển. Mỗi loại có một kiểu ăn riêng: nuốc tai giòn mềm, nuốc chân giòn sần sật, thanh thanh.

Giống như việc nói trại từ bánh “Khói” thành bánh “Khoái” trong dân gian xứ Huế, có lẽ con sứa này rất dễ ăn, dễ… nuốt thế nên tên nó cũng được gọi thành con “Nuốt”, mà vần “t” người Huế thường đọc trại thành vần “c” vì vậy “Nuốt” bị biến thành “Nuốc” từ khi nào không hay.

Con nuốc vốn lành, ăn mát và không ngứa như sứa nên dễ được người dân nơi đây dùng để chế biến. Mùa nuốc chỉ xuất hiện ngắn vào mùa hè mà nuốc thì vốn chỉ ngon khi dùng đúng nuốc tươi, nuốc đang mùa, không phải loại đã làm khô rồi ngâm nở có màu vàng đùng đục teo héo. Hơn nữa, chúng chỉ dùng trong một ngày, qua ngày hôm sau sẽ bị “ngót” lại và không còn ngon. Thế nên đây cũng là cách thử tài khéo tay của các bà, các cô nội trợ đất Cố Đô bởi loài này đã làm nên một trong những món ngon nổi tiếng của đất kinh kỳ. Con nuốc đến mùa không những điểm tô màu sắc cho các bữa ăn thêm đa dạng mà còn là vị “thuốc” giải nhiệt cấp kỳ, làm mát lòng mát dạ người trẻ người già, làm lặn hết rôm sảy trên da trẻ nít.

Các món ăn bình dân từ nuốc

Nuốc là món ăn dân dã mà người Huế chính gốc thường thấy nôn nao mong chờ mỗi khi mùa hè đến…

Thân hình be bé xinh xinh bằng quả bóng bàn với những cái chân răng cưa hơi giống xúc tu ở mực, người dân Huế mua từng loong bơ (hộp sữa bò) nuốc 5, 6 ngàn về rửa sạch. Sau khi rửa kỹ, ngâm nuốc trong nước sạch, lúc gần ăn mới vớt nuốc ra khỏi nước, vắt ráo. Nuốc được ăn sống chấm với mắm ruốc Huế vắt chanh bỏ ít bột ngọt, đường, ăn kèm lát vả tươi, chuối chát, khế chua và rau thơm, cùng với các thứ rau húng lủi, bạc hà, tía tô... xứ Huế nhỏ lá, the the, thơm nồng. Người dân cũng thường ăn nuốc tươi chấm ruốc kèm với dưa gang tươi, căng mọng, giòn tan xắt lát hơi dày.

Ngoài ra còn có thêm món bún giấm nuốc mà tuy gọi là bún giấm, nhưng người Huế không dùng giấm để tạo độ chua cho món này, mà dùng những vị tạo chua tự nhiên như cà chua bi, thơm hoặc chanh tươi.

Nguyên liệu làm bún giấm nuốc không có gì cao sang, chỉ vài trái vả, ớt, tôm, thịt, ruốc, rau thơm, ngò, cà chua, bún, chả cá, đậu phụng và nuốc nhưng cách làm thì không kém phần phức tạp. Nuốc tươi thường phải ngâm với lá ổi cho giòn tan. Khó nhất là khâu chế biến nước chấm cho món này: nước tôm thịt hầm gia vị. Thịt ba chỉ và tôm tươi sau khi ướp với tiêu, hành, mắm, muối sẽ được um trên lửa nhỏ một hồi lâu cho thấm để tiết ra thứ nước sóng sánh sắc vàng của gạch và màu đỏ tươi của thịt tôm béo ngậy. Nồi tôm thịt còn được bổ sung một ít ruốc Huế cho đậm đà, vài trái cà chua bi để tạo vị chua nhẹ tự nhiên.

Những thành phần trong tô giấm nuốc ngoài việc tạo ra những mùi vị khá nhau, làm cho tô bún hết sức tuyệt, vừa chua, béo và thơm, tạo ra một bức tranh phối nhiều màu. Màu trắng của bún, màu đỏ, vàng của tôm, cua, cà chua, ớt, màu trắng ngà của bắp chuối, màu xanh của rau thơm, màu hồng của chả cá, màu trắng xanh của nuốc, màu nâu nâu của bánh tráng nướng chiên giòn quyện cùng lớp đậu phụng giã nhỏ... Khi ăn thực khách nhớ bỏ thêm nhiều ớt tương và ăn kèm với tỏi để tránh cho những trường hợp lạ bụng vì nuốc không phải khi nào cũng nằm yên vị trong bụng khách thập phương!

Ôi chao, ngồi ăn nuốc Huế bình dân mà nghe cô bán hàng nhỏ nhẹ “Dạ thưa, anh ăn có vừa miệng không rứa?” làm cho miếng nuốc đã ngọt lại càng ngọt thêm…

Ở Huế, khu vực chợ Đông Ba có quán chị Hiền (sân nhà C4 cạnh mấy quầy bán đồ mã) hoặc phố ẩm thực đầu cầu Gia Hội có nhiều quán bán bún giấm nuốc ngon nổi tiếng, nức nở khách sành ăn. Còn ở Sài Gòn, muốn thưởng thức nuốc Huế, bạn có thể đến những nhà hàng chuyên về món Huế như Phú Xuân, Ruốc Huế… (phải gọi điện đặt trước).


Theo Món ngon Việt Nam

:)
05-04-2010, 01:34 AM
Cồn Ràng - khu mộ chum thuộc văn hoá Sa Huỳnh

http://www.web-du-lich.com/pictures/medium_ari1217491741.jpgVị trí: Cồn Ràng được tìm thấy ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Đặc điểm: Cồn Ràng là một trong những khu mộ lớn nhất của văn hoá Sa Huỳnh từ khoảng 2.500 năm trước.

Huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách sông Hương 4,5km về phía nam, cách sông Bồ 3km về phía bắc, xung quanh có nhiều bàu ruộng với những tên gọi cổ xưa như Lang Hồ, Cửa Trữa, La Lả, Hạ Lang... Ngoài ra, ở phía bắc Cồn Ràng là Rú Cấm, nơi có những huyền tích, huyền thoại về một vùng đất thiêng như Lửa Cồn, Chợ Ma, cồn Thu Lo, miếu Ông Ầm... Trong quá trình làm ruộng và xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, người dân Hương Chữ đã phát hiện thấy rìu đá, hạt mã não, đồ gốm... của người xưa.

Năm 1987, trong mùa điền dã khảo cổ, thầy trò khoa lịch sử trường Đại học Khoa học Huế đã đến Cồn Ràng, thử khai quật một số điểm, phát hiện 3 chum kích thước lớn và các di vật gốm, hạt trang sức bằng đá mã não và thủy tinh. Tiếp đến là các cuộc khai quật của Viện khảo cổ học Việt Nam kết hợp với Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thừa Thiên Huế. Vừa qua, các cơ quan này đã tiến hành khai quật xong đợt 3, với tổng diện tích khai quật 2.300m², chia thành 14 hố có kích thước trung bình 150m²/hố. Kết quả cho thấy: Mộ táng phân bổ chủ yếu ở độ sâu 0,5m đến 1,5m. Địa tầng di tích khá thuần nhất, các lớp chủ yếu là cát, cát pha sét, cát thô mịn và bị laterit do địa hình chịu ảnh hưởng của phù sa sông biển và những đợt xâm thực bào mòn trước núi.

Đến nay, các nhà khảo cổ đã khai quật được 217 ngôi mộ, chủ yếu là mộ chum phân bổ thành từng cụm thẳng hàng, tứ giác, tam giác, ngũ giác. Mộ chum Cồn Ràng có 4 dạng: Dạng hình trụ, hình trứng, hình cầu; giữa trụ và trứng, được trang trí nhiều loại hoa văn, có chum trang trí văn đập xung quanh vai, có chum trang trí văn thừng toàn thân, đa số các chum để trơn phần thân và đáy. Nắp mộ chum có 3 loại: Loại nón cụt, đáy bằng, hình cầu đáy lòng chảo và loại nón chóp đáy nhọn. Cách thức bài trí: Trên nắp, quanh vai và thân mộ chum thường đặt đồ gốm như nồi bình niên, bát đèn; bên trong là đồ trang sức như khuyên tai hình bông hoa rau muống, hình đầu thú...

Nhìn chung, mộ chum Cồn Ràng được chôn không tuân theo một quy luật nào cả. Đa số các mộ chưa tìm thấy xương cốt, cả trong và ngoài mộ chỉ phát hiện thấy than củi... Tiến sĩ Bùi Văn Liêm, Trưởng đoàn khai quật, cho biết: Đây là cuộc khai quật một di tích khảo cổ lớn thứ hai trong lịch sử khảo cổ học Việt Nam, chỉ sau di chỉ Lung Leng ở tỉnh Kon Tum. Qua nghiên cứu từ tư liệu lòng đất Cồn Ràng với khối lượng lớn hạt mã não làm đồ trang sức, đồ sắt làm công cụ sản xuất, đồ gốm làm đồ gia dụng..., có thể dự đoán Cồn Ràng là một trong những khu mộ lớn nhất của văn hóa Sa Huỳnh từ khoảng 2.500 năm trước. Nghiên cứu cũng cho thấy cư dân Cồn Ràng vào thời kỳ này đã đạt được những thành tựu lớn trong đời sống kinh tế vật chất và văn hóa tinh thần; thạo nghề nông, chăn nuôi và giỏi trong nghề đánh bắt thủy hải sản; biết đến thẩm mỹ làm đẹp cho bản thân và cộng đồng.

Trong thời gian khai quật di tích Cồn Ràng, được sự giúp đỡ của bà con địa phương, đoàn khảo cổ còn phát hiện ra di tích mộ chum ở nhiều địa điểm khác thuộc vùng lân cận Cồn Ràng như Cồn Dài, Bàu Dưng, Cửa Thiền, Phú Ốc... Ngoài ra, Cồn Ràng cách xóm Tháp, thôn An Đô, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà khoảng 2.500m về phía đông bắc có nhà thờ họ Chế có gia phả từ 14 đến 16 đời, và nơi đây còn có nhiều huyền thoại, huyền tích như miếu Bà Yàng, điện thờ Bà Lồi... là những tư liệu quý trong quá trình nghiên cứu giai đoạn tiền sơ sử ở tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng và Cồn Ràng ở thôn các tỉnh ven biển miền Trung nói chung. Tỉnh Thừa Thiên Huế tự hào có di sản văn hóa thế giới là Cố đô Huế, nay thực sự có thêm niềm tự hào nữa là khu mộ chum lớn thuộc văn hóa Sa Huỳnh ở Cồn Ràng.


Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam

:)
21-04-2010, 01:39 AM
Làng cổ Phước Tích

http://www.web-du-lich.com/pictures/medium_ylg1217491856.jpgVị trí: Ngôi làng cổ này nằm bên bờ sông Ô Lâu, thuộc xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Đặc điểm: Điều làm Phước Tích hấp dẫn mọi du khách chính là những ngôi nhà cổ làm bằng gỗ mít.

Phước Tích có hơn 100 ngôi nhà cổ, trong đó có đến 30 nhà được xếp vào loại độc đáo nhất của các làng cổ Việt Nam. Ngày xưa, để làm được ngôi nhà như thế này công thợ phải mất hàng năm trời. Thợ làm nhà không tính công, tính tháng.

Nhà cụ Trương Công Bậc được thiết kế theo kiểu ba gian hai chái. Mái lợp ngói liệt đã thắm nâu, tường gạch rêu phong cổ kính. Hàng cửa bản khoa sậm đen mầu thời gian tạo nét thâm nghiêm. Cái sân trước nhà rộng thênh thang được lót bằng gạch Bát Tràng còn khá nguyên vẹn.

Cạnh nhà cụ Bậc là nhà ông Hồ Đình Lan. Làm quan, nhưng suốt đời ông sống thanh liêm, trong sạch, không tham của công một cắc bạc nên khi về già được vua Duy Tân ban cho bức hoành ca ngợi công đức.
Sự phát hiện làng cổ Phước Tích được đánh giá ngang với sự phát hiện phố cổ Hội An vào những năm tám mươi của thế kỷ 20. Ngay lập tức, ngành du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế đưa vào khai thác tour du lịch làng cổ Phước Tích và đã có nhiều đoàn du khách quốc tế đến Phước Tích và họ đánh giá rất cao về làng cổ này.

Về Phước Tích, du khách được thấy dân trong làng ai cũng thuộc lịch sử làng quê mình như bài học vỡ lòng và người dân nào của làng cũng làm được hướng dẫn viên du lịch. Bà Trương Thị Thú, con gái cụ Bậc dù tuổi cao nhưng vẫn nói năng lưu loát. Trong nhà bà có đầy đủ bộ đồ gốm cổ của ngôi làng hơn 500 tuổi này.

Không một du khách nào đến Phước Tích mà không tìm đến nhà bà Thú để nghe bà kể về câu chuyện làng gốm cổ và chính mắt nhìn thấy những đồ vật quý giá mà chính tay bà lưu giữ được đến tận bây giờ.
Ngày xưa, làng Phước Tích có một nghề làm gốm rất nổi tiếng. Gốm làm bằng đất sét pha bùn, có mầu nâu đen. Sự giàu sang, xây dựng lên được nhiều ngôi nhà gỗ trong làng độc đáo, bề thế, tồn tại đến bây giờ cũng nhờ vào nghề gốm.


Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam

~*ẢO ẢNH*~
25-04-2010, 12:49 AM
hic. quê gốc của mình ở huế mà chưa 1 lần dc về.

☆ snow flowers ☆
25-04-2010, 01:07 AM
hic. quê gốc của mình ở huế mà chưa 1 lần dc về.

Ba mẹ mình cũng là ng Huế, nhưng mình sinh ra ở sài gòn, họ hàng ở dưới đó còn ít lắm, hu...hu...
Lần gần đây nhất mình về là hè lớp 6, giờ cũng đã gần 6 năm. Lúc ấy mình chỉ được đi có mỗi cầu Trường Tiền, nhìn sông Hương.
Bạn hãy cố gắng xin về chơi đi, tuyệt lắm. Theo những địa điểm của chị Lúm chỉ thì ok à.
Sau này làm có tiền sẽ theo 1 tua về Huế cho sướng :)

Xê Kô
03-05-2010, 05:49 PM
Đi ngắm đại nội quả thật là hùng vĩ, ông cha ta ngày xưa ăn chơi còn ghê gớm hơn chúng ta nhiều :hihi: lần này hơi gấp chỉ đi đc đại nội, chùa thiên mụ, ăn bánh huế cũng ngon :hihi: có chùa huyền không và các lăng thì tiếc quá chưa đi

Rabit
18-05-2010, 06:45 AM
Đã quá!có tiền nhất định phải đi tham quan cho biết mới được,xem thành phố mộng mơ và tốn nhiều giấy mực của các nhà văn nhà thơ này ở ngoài đời thế nào mới đươc.hihi:step:

Xê Kô
19-05-2010, 01:20 AM
Uh nên đi Huế một lần cho biết, ở Huế yên bình đến nỗi ở thêm 1 tuần nữa chắc mình phát rồ mất :D

:)
19-05-2010, 08:21 PM
Uh nên đi Huế một lần cho biết, ở Huế yên bình đến nỗi ở thêm 1 tuần nữa chắc mình phát rồ mất :D

Lần sau mò vào bà sút nha ku :gian:.

vecon.thuhien
19-05-2010, 08:26 PM
tui thì ước rằng nhanh nhanh...go go đi du lịch nha!

h2th2t
24-05-2010, 09:26 PM
Mục F bạn lập thành Festival Huế cũng được đấy. Hè tới rồi mà không đi Festival đúng là bỏ phí nửa cuộc đời.

Xê Kô
25-05-2010, 06:01 PM
Ông ko sút lại bảo phí :so_funny:
festival Huế thì có gì :rain: có mấy em mặc bikini đi dọc cầu Tràng Tiền thì đi

h2th2t
26-05-2010, 02:42 AM
Cần gì sexy kiểu vây. Mình thấy sexy nhất là mặc áo dài, đi thướt tha, vòng nào ra vòng đó:bangxiu:. Đi xem lễ hội áo dài thì cứ gọi là mê ly, mấy cô gái Huế bữa nay xinh phết, dáng cao, chân dài. Nãy mới xem hình vài em có biểu diễn trong lễ hội áo dài sắp tới, cứ gọi là thích:high_five:

12.6
26-05-2010, 08:56 AM
Lễ hội áo dài mà ko xem thì còn j nữa. Con gái Huế mặc áo dài nhìn còn sướng hơn bikini nhìu :>

Xê Kô
26-05-2010, 09:35 PM
Áo dài ở đâu chả nhìn, haizzz, cơ mà cái trò buổi tối ở Huế ngồi chỗ ga uống cafe trêu mấy em Quốc học Huế hay phết :haha:

h2th2t
27-05-2010, 03:27 AM
Nhưng áo dài ở lễ hội áo dài thì nó khác chứ;))
Mấy em gái Quốc Học chưa xinh bằng mấy em Đồng Khánh đâu. Festival năm nay không tổ chức áo dài ở Hai bà Trưng nữa chứ không là càng có cơ hội chiêm ngưỡng mấy bé đấy ,
Mà bạn Xê kồ ở Huế hay sao. Trà ga cũng là 1 loại hình văn hoá thú vị ở Huế đấy

Xê Kô
27-05-2010, 06:08 PM
Vào đấy hôm 30/4 mà, chỉ tiếc là ko đi xem hết đc thôi, mà nói chung là t nhìn áo dài mãi chán lắm rồi, có show bikini trên cầu Tràng Tiền thì dzô, ko thì thôi :))

h2th2t
28-05-2010, 03:01 AM
Thì có phải Festival Huế chỉ có áo dài không đâu.
Bạn có mê nghệ thuật không? Có thích xem thao diễn thủy quân không? Xem bắn pháo hoa rồi đi cà kheo, chơi các trò chơi dân gian. Có bao nhiu thứ để xem. CỨ phải là bikini à:-"

japanll
28-05-2010, 09:59 AM
http://www.facebook.com/photo.php?pid=193318&id=1720569399
http://www.facebook.com/photo.php?pid=193318&id=1720569399
dễ thương chưa này :X
http://www.facebook.com/photo.php?pid=193318&id=1720569399
http://sphotos.ak.fbcdn.net/hphotos-ak-snc3/hs411.snc3/24851_1094874508329_1720569399_193318_6552976_n.jp g
con gái huế có khác
http://sphotos.ak.fbcdn.net/hphotos-ak-snc3/hs411.snc3/24851_1094874548330_1720569399_193319_6064148_n.jp g

japanll
28-05-2010, 10:07 AM
http://sphotos.ak.fbcdn.net/hphotos-ak-snc1/hs090.snc1/4641_1015050112769_1720569399_31200_1503757_n.jpg

Lễ hội áo dài trong Festival Huế lần này là giới thiệu về nét đẹp truyền thống của con gái Huế và tà áo dài dịu dàng, nhiều em người mẫu rất xinh xắn sẽ tụ họp về đây :so_funny:
Hôm qua nhờ đứa bạn mua 1 vé để xem rồi, tốn cha 100k luôn nhưng hi vọng sẽ xứng với số tiền bỏ ra

h2th2t
29-05-2010, 01:30 AM
Hai bạn này là Lê Giang và Na Uy, mặc áo dài đẹp mê tơi.
Bạn có mua vé áo dài rồi a? Không biết vé còn nhiều không nhỉ. Mình phải đi mua 1 cái mới đươc. Năm nay có chương trình Hơi thở của nước mới lạ nè, 50k thôi:D

japanll
29-05-2010, 02:36 AM
Uầy đúng rồi 2 bạn í đấy!
Bạn h2t chắc là người Huế đúng k?
năm này có Hơi thở của nước đáng để háo hức :D :D :D bởi nó chỉ là một chương trình thôi mà quy tụ sự tham gia của 300 nghệ sĩ, diễn viên với sự kết hợp của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau như chèo, ca trù, quan họ diễn xướng cùng tốp múa. Chương trình dự kiến sẽ hoàn thành vào cuối tháng 5.2010. Hình như Hơi thở của nước sẽ trình diễn 3 đêm 6 – 9 – 11.6.2010 trên sân khấu ngập dưới nước 3 cm tại hồ Tịnh Tâm – Huế.

Còn để book vé bạn có thể vào web của Festival Huế để xem địa điểm bán và giá cả ^^

Xê Kô
29-05-2010, 06:32 AM
Hơ hơ, nhìn nik 2 ông này thì có vẻ là cò vé hoặc volun của hội nào trong H nhể :D

japanll
29-05-2010, 10:07 AM
Hơ hơ, nhìn nik 2 ông này thì có vẻ là cò vé hoặc volun của hội nào trong H nhể :D

Hơ bạn nói ghê vậy :spin2: mình vẫn xì tin chán, giới thiêụ tí về giá vé fes cho mọi người biết thôi. Mà bạn đến Huế bây giờ đi đâu cũng thấy không khí festival, TV đài báo toàn về festival, chủ đề tán gẫu cũng là festival, rảnh thì chạy tới mấy địa điểm sẽ diễn ra festival để chụp ảnh..
Nhiễm nhiều thông tin về festival quá nên bây giờ cũng muốn giới thiệu cho mọi người :P Bây giờ bạn hỏi thông tin gì về fes mình cũng sẵn lòng trả lời hết cả :P

Xê Kô
30-05-2010, 06:06 PM
Ừ nếu thế thì chắc Huế còn đỡ buồn 1 tí, 30/4 vào mà buồn thấy ớn :bay:

h2th2t
30-05-2010, 07:59 PM
Hic, 2 ngày k vào mới biết là mình bị hiểu lầm tai hai. Thấy bạn Japan nào đó vào hưởng ứng thì bắt tay bắt chân thân mật vậy thôi mà=.=
Bạn Xeko monho ơi, Huế chỉ vui vào những dip lễ hội thôi, như lễ Phật Đản vừa thôi, tắc đường xảy ra như cơm bữa luộn Festival hứa hẹn còn đau khổ vì tắc đường hơn ấy chứ, hehe

:)
30-05-2010, 08:49 PM
như lễ Phật Đản vừa thôi, tắc đường xảy ra như cơm bữa luộn

Hơn nửa tiếng mới lết qua được cầu Tràng Tiền, ngồi sau ê bàn toạ tội luôn :cry:.

Xê Kô
30-05-2010, 11:52 PM
Hn đã tắc lòi ra rồi vào đấy tắc nữa thì chết :so_funny: em Bi lái lụa thế mà vẫn tắc à, chắc tại béo :haha:

h2th2t
31-05-2010, 10:46 AM
Cái bác này đúng là
Vắng bác kêu buồn, tắc bác kêu thôi
Bó tay bác:))
Có vậy mới không khí lễ hội chứ

Xê Kô
31-05-2010, 05:32 PM
Vắng thì buồn là đúng rồi, tắc thì hít khói bụi chứ sung sướng gì, mình thấy người vừa vừa là hay, nhiều bikini hay nhất :haha:

12.6
31-05-2010, 09:06 PM
Lễ hội mà người vừa vừa thì chứng tỏ đâu có thu hút :)) Tắc đường 1 tí nhưng được tận hưởng ko sướng à?

Xê Kô
01-06-2010, 03:58 AM
Tính mình ko thik xô bồ, cái gì quá đều ko tốt, ng ta đi du lịch để lấy cái thanh thản va nghỉ ngơi chứ k phải rước bực vào thân, bạn thấy đúng ko? Nhưng kể ra ko đi xem cái festival này cũng tiếc nhỉ :D

h2th2t
02-06-2010, 10:44 AM
Uhm, vào Facebook của mấy bạn trong HUế, mấy bạn đó quay chương trình tổng duyệt khai mạc, sân khấu công nghệ 3D j đó, rồi cả xoay trượt nâng, nhìn mà thèm rỏ dãi, ực ực

Xê Kô
02-06-2010, 06:55 PM
Hì, du lịch qua màn ảnh nhỏ vậy

japanll
03-06-2010, 08:56 AM
Link này có đủ thông tin về festival như bản đồ trực tuyến, giá vé, lịch, nội dung chính các chương trình lễ hội; ngoài ra còn thông tin về nơi bán vé, khách sạn, ATM. Các bạn có thể vào tham khảo, đặc biệt dành cho những ai nhác :step: và chỉ muốn ôm màn hình để theo dõi :theluoi:


p/s xin đừng để link của chỗ khác vào comment

TT

_moon_
06-06-2010, 05:46 AM
Mình có biết 1 diễn đàn này hay lắm nhé, có riêng 1 topic nói tất cả thông tin về Festival huế 2010 các chủ đề khác cũng cập nhật liên tục về festival nữa đó

Ngoài ra ở trang chủ của site đó bạn có thể tìm mọi thứ ở Huế du lịch, dịch vụ, phương tiện đi lại, ăn ở ...

Nếu bạn có thắc mắc thì có thể hỏi trực tiếp trong diễn đàn luôn, mọi người ở đó rất niềm nở với khách, trả lời rất nhanh và chân thành.

Mình cũng đang du lịch ở Huế nè, những gì mình ko biết đều vào đó hỏi cả và rất hài lòng.


p/s xin đừng để link ở chỗ khác vào comment

TT

japanll
07-06-2010, 07:49 AM
Vậy là chơi Fes đc 3 ngày rồi, quá thoả mãn luộn. Chỉ tiếc mỗi đêm khai mạc bị mưa ko đúng lúc, vậy mà phần lớn khán giả vẫn trụ từ đầu đến cuối buổi (có mình ^^)
Thích nhất tiết mục của đoàn Nga, mấy em bé nhảy dễ thương quá luôn, trượt chân vì sân khấu trơn mãi mà vẫn cười toe toét >:D<

be_boo_heo
06-09-2010, 11:19 PM
mình thật cám ơn bạn rất nhiều ! Huế và những danh lam thật sự rất rất đẹp ! Nhà mình cách vườn quốc gia Bạch Mã 5km.Bưổi trưa mà đi bộ ở khu vực Chùa Thiên Mụ thì không còn gì để nói . Biển Lăng Cô thì tuyệt vời nước trong veo.Đèo Hải Vân hơi sợ tí nhưng đi lúc sáng sớm có sương và nắng vừa lên thì nhất Việt Nam.........................ĐẸP chỉ có thể khen thui.Mặc dù người Huế nói chuyện hơi khó hiểu (mi ,mô ,răng ,rứa ,mạ ,mệ ,o ,ôn ,en ,.......) hì nhưng cũng có thể bỏ qua điều đó vì tỉnh nào mà chả vậy

:)
08-09-2010, 07:59 PM
Vả Huế

http://www2.vietbao.vn/images/vn45/doi-song/45211047-10c.jpgVả là món ăn dân dã của Huế và vả cũng trở thành món ăn thượng lưu của du khách khi đến Huế. Vả đã để lại trong lòng người xa quê nỗi nhớ quê nhà.

Thiên nhiên dành cho Huế một loài cây thuộc họ sung nhưng trái lớn, đó là cây vả. Vả cho trái ăn vừa ngọt vừa bùi. Vả tạo thêm hương vị đậm đà ngon miệng cho các món ăn từ xào, nấu, kho cho đến ăn sống.

Món rau sống kèm với những món ăn như bún thịt nướng, bún thịt kẹp tôm chua, bánh khoái, thịt bò nhúng dấm... thì vùng miền nào cũng như nhau, nhưng ở đây kẹp với miếng vả trắng hồng chấm với mắm nêm trộn với ớt xanh vừa giòn vừa cay đến độ hít hà thì không gì ngon bằng.

Để có một đĩa rau bắt mắt, trái vả non rửa sạch, gọt vỏ dày bên ngoài, xẻ làm hai lấy dao cạo sạch ruột rồi thái mỏng cho vào chậu nước sạch có muối để giữ vả không bị thâm đen, khi bắt đầu ăn mới vớt ra. Bẹ cải xanh trải dài, chuối chát trắng tròn bên cạnh những lát vả trắng hồng điểm những trái ớt đỏ làm hoa, làm nhụy - thật quyến rũ.

Đặc biệt là món vả trộn. Để có món vả trộn xúc ăn với bánh tráng, luộc vả trong nước sôi cho đến lúc nào có thể dùng tay chà bóc lớp vỏ xanh, xong cho vào nồi luộc tiếp cho thật nhừ, bóp tơi quả vả cho thật nhuyển. Mè đem rang vàng chà vỏ, thịt nạc và da heo luộc chín xắt hạt lựu, ướp gia vị nước mắm, hành tiêu, bột ngọt, muối, ớt bột... Các thứ trên trộn đều thành hỗn hợp, thái nhỏ rau thơm, hành, ngò rải trên mặt. Vả trộn ăn với bánh tráng (bánh đa) nướng.

Chưa dừng ở món vả trộn, vả còn cho vào kho chung với thịt heo, thịt bò nhưng hấp dẫn hơn cả là vả kho với cá rô, cá nục, cá ngừ...

☆ snow flowers ☆
16-09-2010, 07:21 AM
Ở miền nam này cũng có bán vả, mẹ mình cũng hay mua về kho với thịt.

Nhưng vả sống ăn hơi chát, chị mình ăn sống nó với mưối ớt, mình thử rồi, tuyệt nhiên không ăn được :D

Năm sau nếu muốn, mẹ mình cho ra Huế chơi . Khổ nỗi là đi một mình, mình rủ thêm bạn đi.

Nơi đầu tiên mình thăm không đâu khác sẽ là cầu Trường Tiền với sông Hương :)

~*ẢO ẢNH*~
20-09-2010, 01:46 AM
huế là quê gốc của mình mà chưa có dịp dc đi . quả vả là quả j vậy ?

50830
05-10-2010, 06:48 PM
Nhà vườn An Hiên - Ghé thăm ngôi nhà đẹp nhất xứ Huế



http://www.khamphahue.com.vn/upload/image/dulich/diemthamquan/nhavuon/2010/10/nhavuonhue.jpg
Những gốc mơ cổ thụ toát lên vẻ rêu phong.

Đang trên đường đến chùa Thiên Mụ thì bất chợt trời đổ mưa, vội táp xe vào lề đường, tôi đưa mắt tìm chỗ tránh mưa. Đây rồi, cánh cổng bằng gạch cao đến 5m quả là lý tưởng để trú mưa. Đưa mắt nhìn cảnh vật phía trong cánh cổng ngả màu rêu phong, tôi lặng người, cảm giác một thế giới thần tiên đang ẩn mình sau tấm bình phong phía xa.

Ngôi nhà của danh gia vọng tộc

Lúc này, tôi mới để ý tấm biển treo trước cửa nhà đề dòng chữ Nhà vườn An Hiên. Thoáng giật mình, không lẽ đây là nhà vườn An Hiên, một trong ba ngôi nhà vườn đẹp nhất, tiêu biểu nhất của xứ Huế. Nhìn cảnh đẹp như cõi thiên thai trong nhà vườn, thì đích thị là An Hiên nức danh rồi.

Nhà vườn An Hiên có lịch sử lâu đời. Trước năm 1895, nhà vườn An Hiên nguyên là Phủ của Công chúa thứ 18 con vua Dục Ðức. Sau 1895 nhường lại cho ông Phạm Ðăng Thập, con trai của một Ðại thần thời Gia Long. Năm 1920, Phủ nhường lại cho ông Tùng Lễ. Năm 1936, Phủ lại qua tay Tuần vũ Nguyễn Ðình Chi. Ông Nguyễn Đình Chi mất, vợ ông, bà Ðào Thị Xuân Yến thừa kế. Bà Đào Thị Xuân Yến năm 1927 đã dẫn đầu cuộc bãi khóa chống thực dân Pháp của nữ sinh Ðồng Khánh. Sau bà là Hiệu trưởng Trường Ðồng Khánh, đại biểu Quốc hội khóa VI, khóa VII và Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam. An Hiên vì vậy gắn liền với tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của vị chủ nhân, một nhà hoạt động chính trị xã hội tích cực, một nhân sĩ yêu nước có nhiều công lao đóng góp với quê hương Huế. Con trai ông bà Nguyễn Đình Chi là Nguyễn Đình Ký mất sớm, giờ ngôi nhà thuộc quyền thừa kế của người con dâu Phan Thị Hoàng Oanh và bốn người cháu nội (hiện đang sinh sống bên Pháp).

Ngôi nhà rường với kiến trúc độc đáo

Nhà vườn An Hiên rộng chừng 5.000m vuông, nhìn ra sông Hương thơ mộng. Chính giữa là ngôi nhà rường ba gian, hai chái cổ kính, đặc trưng của xứ Huế, với những vì kèo chạm trổ công phu, những bờ nóc rồng cuộn cùng mái ngói liệt cổ đến 4-5 lớp. Ngôi nhà có diện tích 135m2, với 48 cột gỗ mít chắc khỏe, tựa trên những tảng đá hình vuông. Vách nhà làm từ gỗ lim. Còn những đòn tay được làm bằng gỗ kiềng kiềng trông thật bề thế. Trên cột gỗ ở gian giữa, ngắm đôi liễn chữ chân pha thảo: “Chí ấy ở non cao nước chảy/ Người kia như trúc biếc ngô xanh”, cảm giác con người với cỏ cây hoa lá như hòa quyện cùng nhật nguyệt.


http://www.qdnd.vn/Upload//phucthang/2010/5/6/060510Thang03.jpg
Chị Thạnh bên cây hồng cụ Nghè Mai tặng Tuần vũ Nguyễn Đình Chi.

Phía trước nhà rường có tấm bình phong và ao hoa súng. Tấm bình phong dùng để chắn gió độc, chống tà ma. Trên bình phong cổ kính chính giữa trang trí chữ thọ, hai bên trổ chữ song hỷ thì đúng là mang đến may mắn cho gia chủ và khách rồi. Rảo bước qua tấm bình phong là hồ nước ngậm hoa súng, soi bóng cả mây trời xứ Huế. Với người dân đất thần kinh, hồ nước trước nhà biểu tượng cho yếu tố minh đường, mát mẻ, âm dương hài hòa. Dẫn tôi đi thăm quan ngôi nhà, chị Nguyễn Thị Thạnh, từ năm 16 tuổi đã theo hầu bà Đào Thị Xuân Yến, nay là người trông coi nhà vườn An Hiên giới thiệu: “Đây là gian giữa để thờ cúng. Gian trên (phía trái nhà rường) để tiếp khách đàn ông. Còn gian dưới (bên phải nhà rường) dùng tiếp khách nữ. Hai chái cũng tương tự. Chái trên là nơi đàn ông ngủ. Còn chái dưới là chỗ đàn bà ngủ vì thời phong kiến, phụ nữ không được đi qua bàn thờ”.

Hoa thơm quả ngọt bốn mùa

Nhà vườn An Hiên còn nổi tiếng với bộ sưu tập đặc sắc các loài cây ăn quả, các loài hoa khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Cây ăn quả có hàng chục loại quý hiếm. Chếch bên trái tấm bình phong là cây hồng do cụ Nghè Mai, chắt nội của đại thi hào Nguyễn Du, từ quê nhà Nghi Xuân-Hà Tĩnh mang tặng Tuần vũ Nguyễn Đình Chi. Chị Nguyễn Thị Thạnh tự hào kể: “Cây hồng này quả không hạt, vỏ mỏng, ăn có vị ngọt thanh như đường phèn. Từ cây hồng ông Nghè Mai mang tặng, cụ Đào Thị Xuân Yến đã nhân giống, trồng thêm trong vườn 9 cây nữa. Ngay cả giống mơ Hương Tích chùa Hương đưa về trồng hơn nửa thế kỷ vẫn cho quả đều. Quý hơn nữa, trong vườn còn có 13 gốc măng cụt Giáng Châu, loại măng cụt xứ Huế nổi tiếng chuyên dâng cho Vua”.


http://www.qdnd.vn/Upload//phucthang/2010/5/6/060510Thang04.jpg
Chị Panetta, du khách người I-ta-li-a nâng niu bông ngọc lan.

Vườn An Hiên quanh năm quả ngọt nhưng nức danh hơn cả vẫn là hoa. Thôi thì đủ loại, từ trà mi, mộc, sói, hải đường, mẫu đơn, nhài, đến hoàng mai, bạch mai, tường vi, sứ, súng, dạ lý hương, thiên lý... Mấy du khách người I-ta-li-a vào thăm An Hiên cứ đứng mãi cạnh gốc ngọc mai để tận hưởng hương thơm dìu dịu. Ngay cạnh tấm bình phong là những dò lan kiếm, thủy tiên thân vuông trổ hoa vàng rực rỡ.

Trời tạnh mưa từ lúc nào không hay. Chị Thạnh tiễn tôi ra tận cổng. Chúc chị mạnh khỏe, tôi đưa mắt ngắm lần nữa nhà vườn An Hiên. Gần 30 gốc mơ cổ thụ dẫn lối vào nhà vườn như níu kéo tôi quay trở lại…


Theo Báo Quân Đội Nhân Dân

50830
11-10-2010, 09:29 PM
Phủ Tuy Lý Vương



http://farm4.static.flickr.com/3164/2477363193_e2796636e6_o.jpg

Dưới triều Nguyễn (1802 - 1945), ở Huế có rất nhiều phủ đệ của các ông hoàng bà chúa. Phủ là nơi ăn ở của một hoàng tử và đệ là nơi ăn ở của một công chúa sau khi họ được dựng vợ gả chồng. Các phủ đệ nằm ở những xóm phường yên ả trong Thành Nội và các làng mạc ở ven đô, nhưng tập trung nhất là ở Kim Long, Vỹ Dạ, Gia Hội và bên bờ sông An Cựu. Phủ đệ nào cũng đã được quy hoạch và xây dựng theo nguyên tắc kiến trúc truyền thống, giống như bao nhiêu khu nhà vườn khác trong dân gian.

Một trong những phủ đệ tiêu biểu nhất hiện nay là phủ Tuy Lý ở Vỹ Dạ. Cơ ngơi này đang mang địa chỉ số 140 đường Nguyễn Sinh Cung, thành phố Huế. Tên chính thức của nó là "Tuy Lý Vương Từ" như được ghi trên một bức hoành phi sơn son thếp vàng treo ở ngôi nhà chính bên trong khuôn viên. Bốn chữ ấy có nghĩa là nơi thờ Tuy Lý Vương. Tuy nhiên, dân chúng địa phương thì chỉ quen gọi đó là phủ Ba Cửa, vì ở mặt tiền của khuôn viên phủ này, ngày xưa có đến ba cái cửa: 1 cửa chính và 2 cửa phụ. Tuy Lý Vương sinh năm 1820, tên thật là Nguyễn Phúc Miên Trinh, con thứ 11 của vua Minh Mạng (1820 - 1840); có tên chữ là Khôn Chương và Quý Trọng, hiệu là Vỹ Dạ và Tịnh Phố. Tuy Lý Vương là tước được vua ban về sau. Năm 13 tuổi, ông đã nổi tiếng giỏi về thơ, cho nên, người đương thời gọi ông là "Ông hoàng thơ".

Năm 1851, ông được giao trông coi Tôn Học Đường là trường học dành riêng cho các con em trong hoàng tộc. Năm 1865, ông được cử kiêm nhiệm chức Hữu Tôn Chánh. Đó là những chức vụ cao cấp trong Tôn Nhơn Phủ, cơ quan quản lý hoàng tộc.

Năm 1883, sau khi vua Tự Đức thăng hà, ông được triều đình vua Hiệp Hòa ủy nhiệm giao thiệp với tòa Khâm sứ Pháp. Đây là thời điểm phe phủ chiến trong triều đình Huế gây ra cảnh lật đổ các vua nhà Nguyễn như trở bàn tay (tứ nguyệt tam vương), làm cho nhân tâm dao động. Cũng trong năm đó, người con thứ 6 của ông là Hồng Sâm tỏ thái độ chống đối sự chuyên quyền của hai quan Phụ chính Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Hồng Sâm và một số người bị bắt, bị giết. Tuy Lý Vương bị truy nã. Ông phải trốn xuống một tàu chiến Pháp ở Thuận An nhờ che chở, nhưng bị phe chủ chiến đòi lại, rồi bị đưa vào an trí tại Quảng Ngãi. Sau khi vua Đồng Khánh lên ngôi (1885), ông mới được trở về sống ở Huế. Vào đầu thời Thành Thái (1889), ông được cử làm Phụ chính thân thần. Đến năm 1897, vì tuổi cao sức yếu, ông xin về vui thú điền viên ở phủ riêng tại Vỹ Dạ, rồi qua đời vào cuối năm ấy, thọ 78 tuổi, được con cháu chôn bên cạnh mộ của mẹ ông tại làng Dương Xuân.

Tuy Lý Vương là em cùng cha khác mẹ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Đều rất sành thơ văn, hai ông thường lui tới thăm nhau, cùng liên ngâm xướng họa và đã lập ra Mạc Vân Thi Xã, hội thơ nổi tiếng một thời ở đất Thần kinh. Ông để lại một khối lượng thơ văn khá đồ sộ bằng chữ Hán và chữ Nôm. Văn ông thường đề cập đến vấn đề đạo đức, luân lý. Thơ ông phần nhiều nói lên cảm xúc trước thiên nhiên, đối với người thân và bạn bè. Một số là những bài thơ thù tạc hoặc nói về sinh hoạt nhàn nhã của giới quý tộc.

Về thơ văn chữ Hán, ông để lại bộ "Vỹ Dạ hợp tập" gồm 11 quyển cả văn và thơ, được khắc in năm 1875, trong đó có một bài thơ trường thiên nhan đề là "Nam cầm khúc" đã được con là Hồng Sâm dịch ra chữ Nôm theo thể lục bát.

Về thơ Nôm của Tuy Lý Vương, ngoài những bài xướng họa với các danh sĩ đương thời, hiện còn truyền lại các tác phẩm "Nữ phạm diễn nghĩa từ", "Nghinh tường khúc" và "Hòa lạc ca" (làm chung với anh là Miên Thẩm và em là Miên Bửu).

Văn tài của ông cũng như của anh ông đã được nhiều văn nhân Việt Nam và Trung Quốc ca ngợi, chẳng hạn như trong câu: "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán. Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường". Sự nghiệp văn chương của ông đã được ghi vào trong tất cả sách văn học sử của nước nhà và trong các bộ từ điển danh nhân Việt Nam xuất bản trong mấy chục năm qua, kể cả bộ "Từ điển văn học" ấn hành vào năm 1984.


http://img713.imageshack.us/img713/1148/p1030223.jpg

Khuôn viên của phủ Tuy Lý rộng 4 sào 6 thước 3 tấc, tức là hơn 2000m2. Lúc sinh thời, ông ở với mẹ là bà Lê Thị Ái trong một ngôi nhà tranh ở vườn Tịnh Phổ. Mẹ ông mất vào năm 1863; sau 3 năm mãn tang, vào năm 1866, ông xin vua Tự Đức cho cải tạo ngôi nhà tranh thành nhà gỗ lợp ngói để thờ mẹ. Biết ông là người rất có hiếu với mẹ, nhà vua y cho và ngôi từ đường được xây dựng xong ngay trong năm ấy. Đây là ngôi nhà rường một gian hai chái đã trải qua 140 năm (1866 - 2006), hiện nay vẫn còn, bên trong treo tấm hoành phi đề dòng chữ "Tiền triều Lê tiệp dư từ". Cách sau đó một cái sân là ngôi nhà mang tên "Tuy Lý Vương Từ", nơi thờ ông. Đây là ngôi nhà rường ba gian hai chái được làm theo kiểu nhà kép, gồm hai bộ mái được nối lại với nhau bằng trần thừa lưu. Ơ dải cổ diêm và các bờ nóc bờ quyết được trang trí bằng mảnh sành sứ với nhiều đề tài cổ điển rất phong phú, đặc biệt là hình ảnh: long, lân, quy, phụng. Ở nội thất, ngoài các bàn thờ và khám thờ Tuy Lý Vương, còn thiết trí khá nhiều đồ tự khí, các hình ảnh của ông và một số hiện vật quý báu liên quan, đặc biệt là hơn 150 mộc bản đã từng được khắc in một số tác phẩm thơ văn của ông. Hai bên sân trước của tòa nhà này còn có hai ngôi nhà nhỏ hơn, gọi là Tả vu và Hữu vu nằm đối diện nhau, dùng làm nơi hào soạn trong những dịp cúng kỵ; nhưng đã hư hỏng từ lâu, nay chỉ còn móng nhà. Ở bên phải nhà thờ bà mẹ của Tuy Lý Vương, có một ngôi nhà xây bằng bê tông để thờ một bà vợ thứ của ông là bà phủ thiếp Nguyễn Thị Lựu.

Vì phủ Tuy Lý là một công trình kiến trúc mang những giá trị cao về lịch sử văn hóa và văn học nghệ thuật, cho nên, nó đã được công nhận là di tích quốc gia vào năm 1991.

Các thế hệ con cháu của "ông hoàng thơ" là cả một dòng chảy văn chương nghệ thuật không dứt cho đến ngày nay.

50830
14-10-2010, 06:49 PM
Chợ Đông Ba



http://www.vfej.vn/public/Images/content_img/cho_dong_ba.jpg

Vị trí: Chợ Đông Ba nằm dọc theo bờ bắc sông Hương, bên đường Trần Hưng Đạo, thành phố Huế, cách cầu Trường Tiền khoảng 100m về phía bắc.
Đặc điểm: Chợ Đông Ba là trung tâm thương mại lớn nhất của tỉnh Thừa Thiên - Huế và khu vực.

Trước khi có chợ Ðông Ba, bên ngoài cửa Chánh Ðông (tức cửa Ðông Ba theo cách gọi dân gian) dưới thời Gia Long có một cái chợ lớn mang tên "Qui giả thị". Tên cái chợ này đánh dấu sự kiện trở lại Phú Xuân của quan quân nhà Nguyễn. Thời Quang Toản loạn lạc, nhân dân chạy tứ tán, đến đầu triều Nguyễn thái bình, nhân dân trở lại từ khắp nơi. Qui Giả là ngôi chợ của những người trở về. Gần một thế kỷ sau, mùa hè năm 1885, Kinh đô thất thủ, chợ Qui Giả bị giặc Pháp đốt sạch. Ðến năm 1887 vua Ðồng Khánh cho xây lại chợ và đổi tên là Ðông Ba. Chợ cung cấp thực phẩm cho cung điện, nhà thương, đồn lính, ký túc xá các trường Quốc học, Ðồng Khánh, Bình Linh, Thiên Hựu. Ðến năm 1899, trong công cuộc chỉnh trang đô thị theo phong cách phương Tây, vua Thành Thái cho đem chợ ra chỗ bây giờ, đình chợ cũ trở thành trường Pháp Việt Ðông Ba. Chợ Ðông Ba thời Thành Thái gồm có 4 dãy quán: trước, sau, phải, trái. Mặt trước một dãy 8 gian, mặt sau một dãy 12 gian, dãy phía tay phải 13 gian... đều lợp ngói. Giữa chợ có một toà lầu vuông, ba tầng. Tầng dưới có 4 bức tường, mỗi tường có 2 cửa. Tầng trên 4 mặt đều có cửa, đều có mặt đồng hồ để điểm giờ khắc. Trong chợ xây một giếng đá, có hệ thống máy giúp cho việc múc nước. Khi lấy nước dùng tay quay máy, tự nhiên nước trong giếng tràn lên, phun ra.
Ðầu thế kỷ 20, chợ Ðông Ba được tu sửa nhiều lần nhưng vẫn giữ cốt cách cũ. Ðến năm 1967, chính quyền Sài Gòn cho triệt hạ chợ cũ và xây lại chợ mới. Công trình đang dang dở thì bị bom pháo Mỹ trong chiến dịch Huế Xuân 1968 bắn phá tan tành. Sau đó chính quyền Sài Gòn cho sửa chữa tạm để buôn bán. Ðến năm 1987, chợ Ðông Ba được đại trùng tu. Ngoài lầu chuông ở trung tâm, chợ Ðông Ba mới có 9 dãy nhà bao quanh cùng 4 khu hàng mới, như chợ cá, khu hàng tự sản, tự tiêu, khu hàng dịch vụ... với tổng diện tích mặt bằng xây dựng 15.597m². Ngoài ra ban quản lý chợ còn quản lý khu Hoa Viên Chương Dương, các bến bãi đỗ xe ôtô, xe lam, nơi giữ xe đạp, xe máy... nâng tổng diện tích mặt bằng thuộc chợ lên trên 47.614m² với 2.543 hộ kinh doanh cố định, 141 lô bạ, 500 - 700 hộ buôn bán rong. Bình quân mỗi ngày có từ 5.000 đến 7.000 khách đến chợ. Vào những dịp lễ tết, chợ đông hơn, có trên 1,2 vạn người.

Những tinh tuý văn hoá vật chất của Thừa Thiên - Huế còn giữ được cho đến nay đều có thể tìm thấy ở chợ Ðông Ba như: nón lá Phú Cam, dao kéo Hiền Lương, đồ kim hoàn Kế Môn, mè xửng Song Hỷ, dâu Truồi, chè Tuần, quít Hương Cần, thanh trà Lại Bằng, sen khô hồ Tịnh, hàng mã hoa giấy làng Sình… và cả những món ăn Huế truyền thống, bình dân như: cơm hến, bún bò, bánh lá, chả tôm, bánh khoái, chè đậu ván...Chợ Ðông Ba đã trở thành trung tâm cung cấp những sơn hào hải vị cho các nhà hàng, khách sạn quốc tế, bán các món đặc sản Huế cho khách du lịch từ bốn bể năm châu đến tham quan di sản thế giới tại Huế.
Ngày nay chợ Ðông Ba giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Ngoài nhiệm vụ cung cấp thực phẩm và hàng tiêu dùng cho thành phố, chợ Ðông Ba còn là nơi tạo việc làm cho hàng ngàn người thất nghiệp và đóng vào ngân sách nhà nước mỗi năm hàng chục tỷ đồng tiền thuế. Chợ Ðông Ba, cầu Trường Tiền cùng với sông Hương là biểu tượng của xứ Huế thơ mộng.


Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam

50830
29-10-2010, 11:16 PM
Cửu vị thần công


Vị trí: Cửu vị thần công được đặt gần cửa Thể Nhơn và cửa Quảng Ðức bên trong kinh thành Huế, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Đặc điểm: Cửu vị thần công là chín khẩu súng thờ, tượng trưng cho những vị thần linh bảo vệ kinh thành.



http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/a/a9/C%E1%BB%ADu_v%E1%BB%8B_th%E1%BA%A7n_c%C3%B4ng1.jpg


Ngày 31/01/1803, Gia Long hạ lệnh thu hết tất cả đồ dùng bằng đồng của triều đại Tây Sơn đúc thành 9 khẩu súng. Ðến cuối tháng Giêng năm 1804 thì công việc đúc hoàn thành. Người ta lấy tên bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Ðông và ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ để đặt tên cho 9 khẩu súng. Tất cả chín khẩu đều được phong "Thần Oai vô địch thượng tướng quân". Mỗi khẩu dài 5,1m, nặng trên 10 tấn.
Trọng lượng của từng khẩu (tính theo cân ta):
Súng thứ 1: Xuân, nặng 17.700 cân
Súng thứ 2: Hạ, nặng 17.200 cân
Súng thứ 3: Thu, nặng 18.400 cân
Súng thứ 4: Ðông, nặng 17.800 cân
Súng thứ 5: Mộc, nặng 17.000 cân
Súng thứ 6: Hoả, nặng 17.200 cân
Súng thứ 7: Thổ, nặng 18.800 cân
Súng thứ 8: Kim, nặng 17.600 cân
Súng thứ 9: Thủy, nặng 17.200 cân

Thân súng chạm trổ tỉ mỉ, khắc danh hiệu, vị thứ, trọng lượng, cách dùng súng, bài ký về việc tranh chấp với Tây Sơn cùng việc thu đồng đúc súng.
Chín khẩu súng này chưa hề dùng trong trận mạc, chúng chỉ có tính cách tượng trưng, xem như những vị thần linh bảo vệ kinh thành.
Lúc mới đúc xong, Cửu vị thần công được đặt dưới chân Hoàng Thành, trước cửa Ngọ Môn. Ðến đời Khải Ðịnh mới dời ra vị trí như ta thấy hiện nay.


Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam

50830
04-11-2010, 09:11 PM
Phường đúc đồng

http://www.web-du-lich.com/pictures/medium_mgc1217492304.jpgVị trí: Phường nằm ở ven bờ nam sông Hương, đoạn từ cầu Giã Viên lên phía Long Thọ, cách thành phố Huế khoảng 3km về phía tây nam, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Đặc điểm: Nghề đúc đồng là một trong những nghề thủ công truyền thống lâu đời và nổi tiếng ở Việt Nam.

Phường đúc ở Huế ra đời có nguồn gốc từ tổ chức của những thợ thuyền cùng nghề đúc thời Chúa Nguyễn. Vào thời Chúa Nguyễn, đã ra đời được một công tượng đúc đồng, những người thợ đến từ nhiều nơi làm việc trong những công tượng của Chúa ở Trường Đồng. Phường đúc gồm có 5 xóm, Trường Đồng, Kinh Nhơn, Bổn Bộ, Giang Dinh, Giang Tiền nhưng chỉ có Kinh Nhơn và Bổn Bộ là hai làng nghề đúc đồng lớn nhất và có danh tiếng.

Khi Chúa Trịnh và Tây Sơn đánh chiếm Phú Xuân thì các công tượng đúc đồng bị tan rã. Riêng chỉ có họ Nguyễn ở Kinh Nhơn vẫn ở lại tại chỗ và tiếp tục nghề đúc của cha ông. Từ những lò đúc của các anh em trong dòng họ Nguyễn, nghề đúc vẫn được duy trì và phát triển cho tới ngày nay.
Theo gia phả của dòng họ Nguyễn Kinh Nhơn thì thuỷ tổ của nghề này là ngài Nguyễn Văn Lương quê ở Kinh Bắc và nghề này đã được truyền thừa qua 13 đời, hiện nay đang là đời thứ 14.

Những người thợ tài hoa phường đúc đã để lại cho cố đô Huế các tác phẩm danh tiếng như Đại Hồng Chung, chùa Thiên Mụ; những chiếc vạc đồng, nghi môn bằng đồng trong Đại Nội; Cửu vị thần công đặt trước Ngọ Môn và đặc biệt là Cửu Đỉnh - bộ tác phẩm nghệ thuật với 162 hình khắc chạm nổi. Đó là những thành tựu rực rỡ nhất của nghệ thuật đúc đồng Việt Nam 2 thế kỷ trước.
Ngày nay tại phường đúc có tới 60 lò đúc với khoảng 150 người làm nghề này. Ngoài các sản phẩm thông thường như đúc Đại Hồng Chung, lư hương, các mặt hàng mỹ nghệ, các cơ sở đúc đồng ở phường đúc còn có thể sản xuất những chi tiết máy dùng trong công nghiệp và những linh kiện có tính chính xác cao.


Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam