n9Ø¢_n9††e¢††
28-04-2009, 09:41 PM
a men, lớp 10 còn nhớ j` chik lun
tình hình kinh tế Việt Nam TK XVI-XVIII
1. Tình hình nông nghiệp ở các thế kỷ XVI - XVIII.
- Từ cuối thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XVII, nông nghiệp sa sút, mất mùa đói kém liên miên.
- Từ nửa sau thế kỷ XVII, tình hình chính trị ổn định, nông nghiệp 2 Đàng phát triển.
+ Ruộng đất ở cả 2 đàng mở rộng, nhất là ở Đàng Trong.
+ Thủy lợi được củng cố.
+ Giống cây trồng ngày càng phong phú.
+ Kinh nghiệm sản xuất được đúc kết.
+ Ở cả 2 Đàng chế độ tư hữu ruộng đất phát triển. Ruộng đất ngày càng tập trung trong tay địa chủ.
2. Sự phát triển của thủ công nghiệp.
- Nghề thủ công cổ truyền tiếp tục phát triển đạt trình độ cao: dệt, gốm...
- Một số nghề mới xuất hiện như: Khắc in bản gỗ, làm đường trắng, làm đồng hồ, làm tranh sơn mài.
- Khai mỏ - một ngành quan trọng rất phát triển ở Đàng Trong và Đàng Ngoài.
- Các làng nghề thủ công xuất hiện ngày càng nhiều.
- Nét mới trong kinh doanh: ở các đô thị thợ thủ công đã lập phường hội, vừa sản xuất vừa bán hàng
3. Sự phát triển của thương nghiệp.
* Nội thương: ở các thế kỷ XVI-XVIII buôn bán trong nước phát triển:
- Chợ làng, chợ huyện... xuất hiện làng buôn.
- Buôn bán lớn (buôn chuyến, buôn thuyền) xuất hiện.
- Buôn bán giữa các vùng miền phát triển.
* Ngoại thương phát triển mạnh.
- Thuyền buôn các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp, Anh đến VN buôn bán ngày càng tấp nập.
+ Bán vũ khí, thuốc súng, len dạ, bạc, đồng.
+ Mua: tơ lụa, đường gốm, nông lâm sản.
- Thương nhân nhiều nước đã tụ hội lập phố xá, cửa hàng buôn bán lâu dài.
- Giữa thế kỉ XVIII ngoại thượng suy yếu dần do chế độ thuế khóa của nhà nước ngày càng phức tạp.
4. Sự hưng khởi của các đô thị.
- Nhiều đô thị mới hình thành phát triển: Thăng Long - Kẻ chợ, Phố Hiến (Hưng Yên), Hội An (Quảng Nam), Thanh Hà (Phú Xuân - Huế)
- Đầu thế kỉ XIX đô thị suy tàn dần.
hình kinh tế Việt Nam nửa đầu TK XIX
Nhà Nguyễn hết sức coi trọng vấn đề ruộng đất và sản xuất nông nghiệp. Năm 1803, ngay khi mới lên ngôi, Gia Long đã ra lệnh đo đạc lại toàn bộ ruộng đất, lập địa bạ cho từng xã, thôn ở Bắc Hà. Đến năm 1839, dưới thời Minh Mạng, việc lập địa bạ các thôn, xã trên phạm vi toàn quốc đã được hoàn thành. Năm 1804, Gia Long ban hành chính sách quân điền. Mặc dù nhà Nguyễn đã có nhiều cố gắng, nhưng vẫn không thoát khỏi lối mòn của các triều đại phong kiến trước trong chính sách bảo vệ công điền, khi ruộng đất công chỉ còn lại khoảng 20% tổng diện tích ruộng đất cả nước. Chính sách quân điền của nhà Nguyễn, do đó, chỉ mang ý nghĩa tượng trưng; về thực chất, chỉ là một hình thức cấp ruộng cho các quan lại và binh lính.
Trong các biện pháp trọng nông, chính sách khai hoang dưới hình thức doanh điền là có hiệu quả hơn cả.
Những người lưu tán và không có ruộng đất cày cấy được tập hợp lại dưới sự chỉ đạo của một quan chức nhà nước, được nhà nước cấp vốn ban đầu để tiến hành khai hoang, lập làng trên những vùng đất mới bồi lấp ở ven biển. Chỉ tính riêng vùng hạ lưu sông Hồng, Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ đã tổ chức khai khẩn, lập ra hai huyện mới là Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình).
Tuy số ruộng đất khai khẩn thêm là khá lớn, nhưng vẫn không thể bù đắp được số ruộng đất để hoang hoá. Chính sách doanh điền, khai hoang của nhà Nguyễn không thể giải quyết được những mâu thuẫn đang đặt ra cho nông nghiệp Việt Nam.
Đối với sản xuất thủ công nghiệp, cùng với sự phát triển của các nghề thủ công truyền thống trong dân gian, nhà Nguyễn có khuynh hướng tăng cường xây dựng các quan xưởng, chủ yếu tập trung ở Huế. Trong chính quyền, hình thành những cơ quan chức năng chuyên trách về từng loại sản phẩm. Quản lý chung các ngành, nghề thủ công của nhà nước là ti Vũ khố chế tạo, gồm 57 cục trông coi từng ngành cụ thể như đúc súng, làm đồ trang sức, làm gạch ngói, khắc in… Làm việc trong những quan xưởng đều là những thợ giỏi, được trưng tập từ các địa phương nên sản phẩm làm ra đều có kỹ thuật cao.
Một trong những hoạt động kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn này là khai khoáng. Phần lớn số mỏ được giao cho các thương nhân (chủ yếu là Hoa kiều), các tù trưởng miền núi lĩnh trưng, hằng năm nộp thuế cho nhà nước. Đối với một số mỏ quan trọng, nhà Nguyễn trực tiếp tổ chức khai thác. Tuy nhiên, các mỏ do nhà nước khai thác thường kém hiệu quả và chỉ hoạt động được trong một thời gian ngắn rồi lại phải giao cho tư nhân lĩnh trưng.
Sang thế kỉ XIX, thương nghiệp có chiều hướng suy thoái. Nhà Nguyễn thi hành chính sách thuế khoá phức tạp và chế độ kiểm soát ngặt nghèo đối với các hoạt động buôn bán. Về ngoại thương, nhà Nguyễn thi hành chính sách độc quyền và hết sức dè dặt với các tàu buôn phương Tây. Thương nhân ngoại quốc đến buôn bán ở nước ta giai đoạn này chủ yếu là người Hoa, Xiêm, Mã Lai.
Cùng với sự sa sút của kinh tế thương nghiệp, các đô thị ngày càng suy thoái. Ở Thăng Long, đến cả khu vực 36 phố phường sầm uất, cũng nhanh chóng bị nông thôn hoá. Phố Hiến, Thanh Hà, Hội An sa sút không còn khả năng phục hồi. Cho đến thế kỉ XIX, nền kinh tế đất nước đã trở nên hết sức trì trệ.
2/Kinh tế đối ngoại là lĩnh vực kinh tế thể hiện phần tham gia của nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới và là phần phụ thuộc về kinh tế giữa các quốc gia hay “phần giao” của những giao dịch kinh tế giữa các nước. Đây là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa một quốc gia với phần còn lại của thế giới dựa trên cơ sở sự phát triển phân công lao động quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ, di chuyển lao động quốc tế, các quan hệ tiền tệ và tín dụng quốc tế và các dịch vụ quốc tế khác. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại có thể được xem xét từ bản chất kinh tế của quan hệ và giao dịch, ý chí điều chỉnh của Chính phủ thông qua chính sách, cơ chế và các công cụ và đội ngũ nhân lực thực hiện các quan hệ.
Sự phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển và sự phát triển các quan hệ kinh tế trong nước tạo đà cho sự phát triển của lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Việc phát triển mạnh của lĩnh vực kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế đất nước trở thành một măt khâu quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu và do đó, sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu làm tăng giá trị nền kinh tế. Động lực phát triển kinh tế toàn cầu, lúc đó, sẽ trở thành động lực tăng trưởng trực tiếp của nền kinh tế
3/
Khởi nghĩa Phan Bá Vành (1821 - 1827)
Phan Bá Vành người làng Minh Giám (Thái Bình), thuở nhỏ đi ở chăn trâu cho nhà địa chủ. Năm 1821, ông kêu gọi nông dân trong vùng nổi dậy chống địa chủ, quan lại. Hoạt động của nghĩa quân lan khắp Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Quảng Yên.
Phan Bá Vành lập căn cứ chính ở Trà Lũ (Nam Định), đánh nhau hàng chục trận lớn với quân triều đình. Sử nhà Nguyễn ghi : “Khi lâm trận thì đàn bà con gái cũng cầm giáo mác mà đánh”.
Năm 1827, nhà Nguyễn huy động hàng chục viên tướng đem hàng vạn quân bao vậy, tấn công căn cứ Trà Lũ. Phan Bá Vành chống không nổi, định thoát ra biển, chẳng may bị bắt. Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp.
[sửa] Khởi nghĩa Nông Văn Vân (1833 - 1825)
Nông Văn Vân là tù trưởng dân tộc Tày, giữ chức tri châu Bảo Lạc (Cao Bằng). Không chịu nổi sự chèn ép của triều đình nhà Nguyễn, Nông Văn Vân cùng một số tù trưởng tập hợp dân chúng nổi dậy.
Nông Văn Vân truyền hịch tố cáo vua Minh Mạng của nhà Nguyễn :
“Mười lăm năm đức chính có chi !
Kho hình luật vẽ nên hùm có cánh
Ba mươi tỉnhh nhân dân đều oán
Tiếng oan hào kêu dậy đất không lung !”
Cuộc khởi nghĩa lan khắp miền núi Việt Bắc và một số lang người Mường, người Việt ở trung du. Nhà Nguyễn đã hai lần cử những đạo quân lớn kéo lên đàn áp, nhưng không hiệu quả. Lần thứ ba (năm 1835), quân triều đình tấn công dữ dội từ nhiều phía và bao vây đốt rừng. Nông Văn Vân chết trong rừng. Cuộc khởi nghĩa bị dập tắt.
[sửa] Khởi nghĩa Lê Văn Khôi (1833 - 1835)
Lê Văn Khôi là một thổ hào ở Cao Bằng, sau vào Nam. Tháng 6 - 1833, ông khởi binh chiếm thành Phiên An (Gia Định), tự xưng là Bình Nam Đại nguyên soái, giết viên quan Bạch Xuân Nguyên. Mấy tháng sau, cả sáu tỉnh Nam Kì đều theo ông khởi nghĩa. Sau đó, viên tướng Thái Công Triều làm phản, đầu hàng triều đình. Lê Văn Khôi bị cô lập, lâm bệnh rồi qua đời (1834). Nghĩa quân đưa con trai ông mới 8 tuổi lên thay. Tháng 7 - 1835, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp khốc liệt.
[sửa] Khởi nghĩa Cao Bá Quát (1854 - 1856)
Cao Bá Quát người huyện Gia Lâm (Hà Nội), là một nhà nho nghèo, một nhà thơ lỗi lạc. Căm ghét chính sách cai trị của nhà Nguyễn, ông cùng một số bè bạn tập hợp nông dân và các dân tộc miền trung du, định nổi dậy ở Hà Nội, Bắc Ninh. Nhưng kế hoạch bị lộ, nghĩa quân phải khởi sự sớm hơn dự tính.
Đầu năm 1855, trong một trận chiến ác liệt ở vùng Sơn Tây (Hà Tây), Cao Bá Quát hi sinh. Nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu, đến cuối năm 1856, cuôc khởi nghĩa mới bị dập tắt.
Phong trào đấu tranh của nông dân và nhân dân các dân tộc dưới triều Nguyễn là sự kế thừa truyền thống chống áp bức, cường quyền ở thế kỉ trước, nhất là ở thế kỉ XVIII.
4/
nguyên nhân
Đời sống nhân dân dưới triều Nguyễn
Các tầng lớp nhân dân sống khổ cực vì địa chủ hào lí chiếm đoạt ruộng đất, quan lại tham nhũng, tô thuế phu dịch nặng nề [cần dẫn nguồn]. Nạn dịch bệnh, nạn đói hoành hành khắp nơi.
“Quan coi dân như kẻ thù, dân sợ quan như cọp, ngày đục tháng khoét của dân cho đầy túi riêng”. Năm 1828. viên quan Bắc Thành là Nguyễn Công Trứ dâng sớ tố cáo : cái hại quan là một hai phần, cái hại hào cường đến tám chín phần. Nó làm con cái người ta thành mồ côi, vợ người ta thành goá bụa..., cứ công nhiên không kiêng sợ gì.
ý nghĩaMặc dù các cuộc khởi nghĩa cuối cùng đều bị đàn áo nhưng đã làm rệu rã nền thống trị của nhà Nguyễn. Xã hội Việt Nam dưới thời Nguyễn ngày càng trở nên rối ren và phức tạp.
5/
DIỄN BIẾN CỦA CÁCH MẠNG
1. Giai đoạn thống trị của Tư sản Lập hiến: nền quân chủ lập hiến.
1.1. Ngày 14.7.1789 và phong trào cách mạng ở nông thôn. Trưóc hành động cách mạng của toàn thể đẳng cấp Thứ Ba, Louis XVI tìm mọi cách chống đối. Vua đã điều 20.000 quân từ Versailles về Paris với mưu toan bóp chết cách mạng. Trước tình hình đó, giai cấp tư sản tỏ ra bối rối, nhưng QCND đã đứng lên cứu nguy cho cách mạng. Từ ngày 12. 7 đến 13.7. 1789, họ đã xuống đường cướp vũ khí. Ngày 14.7, họ kéo đến ngục Bastille. Sau vài giờ chiến đấu, ngục Bastille bị hạ. Biểu trưng của chế độ chuyên chế bị lật đổ. Lợi dụng công lao của QCND, Tư sản tài chính lên nắm chính quyền, tuyên bố chế độ Quân chủ lập hiến. Dưới ảnh hưởng ngày 14.7 ở Paris, phong trào cách mạng nổ ra ở nông thôn. Nhân dân tự vũ trang bằng cuốc, xẻng, súng săn...kéo về lâu đài của lãnh chúa, đốt những văn bản ghi các nghĩa vụ phong kiến của nông dân . Ở những nơi lãnh chúa tỏ ra ngoan cố thì nông dân thiêu hủy lâu đài, và đôi khi họ còn treo cổ lãnh chúa. Ðây là sự phản kháng mãnh liệt của nông dân ở nông thôn.
1.2. Hoạt động của Quốc Hội Lập Hiến. - Ðêm lịch sử 4.8.1789: những cuộc khởi nghĩa của nông dân đã dẫn đến đêm lịch sử 4.8. Thông qua đề nghị của tư sản và một số quí tộc tự do, QHLH đã tuyên bố sắc lệnh: Bãi bỏ chế độ phong kiến: những đặc quyền, đặc lợi của đẳng cấp I và II được thay bằng sự bình đẳng về pháp lý". Trên thực tế, những nghĩa vụ phong kiến cá nhân được xóa bỏ, nông dân được giải phóng khỏi những ràng buộc phi lý của chế độ phong kiến, nhưng vẫn chưa được quyền sở hữu về đất đai. - Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền. Sau khi giải quyết vấn đề ruộng đất của nông dân, giai cấp tư sản nghĩ đến việc xây dựng nền tảng cho chế độ mới. Ngày 26.8.1789, QHLH thông qua một văn kiện có tính chất cương lĩnh: Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền. Tuyên ngôn gồm 17 điều khoản, được mở đầu với điều I như sau: Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng. Bản Tuyên ngôn đã nêu lên công thức nổi tiếng của cách mạng Pháp Tự do -Bình đẳng -Bác ái. Trong 17 điều khoản của Tuyên ngôn, ta thấy toát lên hai vấn đề chính: công nhận, khẳng định quyền tự nhiên của con người, tuyên bố những nguyên lý tổ chức chính trị nhằm bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Trong khi chế độ phong kiến còn thống trị hầu hết châu Âu, bản Tuyên ngôn đã mạnh dạn tuyên bố nguyên tắc bình đẳng đối với mọi người. Ðó là văn bản khai tử chế độ cũ và là cương lĩnh của chế độ mới. ?- Những tư tưởng cơ bản trong Tuyên ngôn? Ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn? -Hiến Pháp 1791. Bản tuyên ngôn được dùng làm chương mở đầu của Hiến pháp 1791, được thông qua vào tháng 9.1791. Theo Hiến pháp, chế độ QCCC trên pháp lý đã chấm dứt. Quyền lực quốc gia được điều hành bởi Quốc hội Lập pháp. QHLP là cơ quan tối cao ban hành pháp luật, trở thành công cụ thống trị trong tay giai cấp tư sản. Vua chỉ còn quyền hành pháp. Hiến pháp còn qui định chế độ tuyển cử, chia công dân làm hai loại: công dân tích cực và công dân tiêu cực. Chỉ có những công dân tích cực mới có quyền bỏ phiếu: đó là những người từ 25 tuổi trở lên, không làm thuê cho ai, phải có tên trong danh sách vệ quốc quân và phải nộp một số thuế nhất định. Những điều kiện cử tri hạn chế đó đã gạt ra ngoài quyền bầu cử của hàng triệu người lao động. Quốc hội còn thông qua đạo luật Le Chapelier nhằm cấm sự tụ tập và lập hội của công dân. -Chính sách kinh tế: Cùng với Hiến pháp 1791, những pháp chế về hành chính, tư pháp, thuế khóa và công thương nghiệp được ban hành dựa trên khẩu hiệu Hãy để cho làm, hãy để cho đi của phái BKTT. Tự do kinh doanh của cá nhân được đề cao. Quốc hội bãi bỏî các qui chế của phường hội, cho phép tự do buôn bán lúa mì, cấm nhập cảng sợi lanh và các vật liệu kiến trúc để khuyến khích sản xuất trong nước. Quốc hội còn phát hành tín phiếu, xem đó là phương tiện để thanh toán nhằm bảo đảm hệ thống tiền tệ trong nước. Tổ chức hành chính được sửa đổi. Ðặc quyền các tỉnh bị bãi bỏ. Toàn quốc được chia làm 83 quận có diện tích bằng nhau với cơ cấu tổ chức thống nhất. Hàng rào thuế quan nội địa bị bãi bỏ. Những biện pháp về kinh tế, hành chính đã có một ý nghĩa tiến bộ vì nó đã gạt bỏ những nhân tố kìm hãm sự phát triển công thương nghiệp, xóa bỏ ranh giới các khu vực, góp phần vào việc hình thành thị trường dân tộc Pháp.
1.3. Chiến tranh giữa Pháp và Châu Âu. Sau khi ngục Bastille thất thủ, quí tộc phản cách mạng lần lượt bỏ trốn khỏi nước Pháp. Louis XVI cũng tìm cách vượt biên nhưng bị bắt lại. Sau khi bị bắt, Louis XVI vẫn tiếp tục chống phá cách mạng. Ông tìm cách liên minh với các nước phong kiến châu Âu để đưa nước Pháp vào một cuộc chiến tranh. Ngày 20.4.1792. QHLP tuyên chiến với Aïo. Phổ cũng theo Aïo chống Pháp. Mặc dù thái độ phản bội của Louis XVI và chính sách hiếu chiến của phái Girondins, chiến tranh khi nổ ra vẫn là chiến tranh chính nghĩa về phía Pháp và phi nghĩa về phía châu Âu. Vua và Hoàng hậu giao kế hoạch tác chiến cho quân địch. Trong khi đó, dưới áp lực của QCND, QH ra sắc lệnh "Tổ quốc lâm nguy" quyết tâm bảo vệ đất nước. Trước thái độ không kiên quyết chống ngoại xâm của giai cấp tứ sản, QCND đã đứng lên khởi nghĩa, lật đổ sự thống trị không những của QHLP mà cả sự thống trị của nhà vua.
2. Giai đoạn thống trị của Tư sản Girondins: nền Cộng Hòa I.
2.1. Quốc ước. Sau khi tư sản tài chính bị lật đổ do cuộc khởi nghĩa của QCND ngày 10.8.1792, tư sản công thưong nghiệp lên nắm chính quyền. Bên cạnh chính quyền của tư sản, công xã cách mạng (ra đời trong cuộc khởi nghĩa 10.8.1792.) đã tồn tại như một chính quyền cách mạng của nhân dân. Dưói áp lực của công xã, QH phải đề ra những biện pháp cách mạng, bất chấp ý muốn của phái Girondins. Với những biện pháp biệt lệ do công xã đề ra, nhân dân vô cùng phấn khởi, quyết tâm chiến đấu. Ngày 20.9.1792, họ đã dánh tan quân Phổ ở Valmy. Ðây là một chiến thắng nhỏ nhưng có ý nghĩa vì là lần đầu tiên quân Pháp giáp chiến với quân địch mà không bỏ chạy. Cũng ngày 20.9.1792, QHLP tuyên bố giải tán. Ngày 20.9.1792, một Quốc Ước được bầu theo lối phổ thông đầu phiếu ra đời. Trong phiên họp đầu tiên của mình, Quốc ước tuyên bố nền Cộng Hòa I vào 22. 9. 1792. Việc tuyên bố nền Cộng Hòa đã xóa bỏ vĩnh viễn sự thống trị của chế độ phong kiến và đưa nước Pháp vào một kỉ nguyên mới dưới sự thống trị của giai cấp Tư sản.
2.2. Việc xử tử Louis XVI. Lúc mới cầm quyền, phái Girondins chiếm ưu thế trong quốc hội, nhưng phái này ngày càng tỏ rõ sự ích kỷ của mình. Trong khi đó, phái Núi tuy ít ghế trong Quốc ước nhưng là một phái kiên quyết cách mạng, tích cực bảo vệ quyền lợi cho QCND. Ngay từ đầu đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa phái Girondins và phái Jacobins trong Quốc ước. Phái Girondins cho rằng những mục tiêu của mình đã đạt được, không cần phải triệt để đấu tranh. Trái lại, phái Jacobins cho rằng cần phải tiến hành nhiều biện pháp tích cực cách mạng hơn. Cuộc xung đột giữa hai phái còn thể hiện trong việc luận tội Louis XVI. Pháí Girondins tìm mọi lý lẽ để bênh vực, tránh tội tử hình cho Louis XVI. Trong khi đó, phái Núi đề nghị xử tử vua Louis XVI. Cuối cùng, bất chấp thái độ phản động của phái Girondins, ngày 15.1.1793, Quốc ước bỏ phiếu kết án tử hình Louis XVI và sau đó, ngày 21.1.1793 Louis XVI bị xử tử.
2.3. Những khó khăn của cách mạng: ngoại xâm và nội phản. Ðầu tháng 1.1793, cách mạng Pháp gặp rất nhiềìu khó khăn.Tháng 2.1793, nước Anh tư bản chủ nghĩa tham gia vào liên minh chống Pháp, gây nhiều khó khăn về quân sự cho Pháp. Trong nưóc, loạn Vendée nổ ra ở miền tây nam nước Pháp (tháng 3.1793). Ðây là một cuộc bạo động lớn của nông dân lạc hậu do sự xúi giục của cha cố phản động. Họ đã nổi lên giết hại nhân viên của chính quyền địa phương và từ đó cuộc nội chiến lan rộng. Loạn Vendée là một đe dọa nghiêm trọng cho cách mạng Pháp, đến nỗi Robespierre đã kêu lên: muốn cứu nguy cách mạng, cần phải đập tan Vendée. Như vậy, nền Cộng Hòa non trẻ của Pháp phải đương đầu với nhiều khó khăn. Thêm vào đó, đời sống nhân dân ngáy càng khó khăn. Họ đòi thi hành những biện pháp kinh tế và xã hội tích cực hơn. Yêu cầìu đó thể hiện ở sự xuất hiện của phái Hóa dại. Dưới áp lực của QCND và phái Hóa Dại, những người Jacobins đã yêu cầu Quốc ước phải thông qua những biện pháp cách mạng, đặc biệt là đạo luật về giá tối đa. Những mâu thuẫn giữa hai phái Girondins và Jacobins trong việc giải quyết những vấn đề của cách mạng cho thấy rằng phái Girondins ngày càng tỏ ra bảo thủ và ngoan cố, ngày càng đi vào con đường phản cách mạng. Robespierre và các đồng chí của ông đã kêu gọi nhân dân đứng lên khởi nghĩa. Trong đêm 31.5 rạng ngày 1.6.1793, QCND đã đứng lên lật đổ sự thống trị của Tư sản Girondins, đưa cách mạng tiến lên một giai đoạn mới.
3. Nền Chuyên Chính Dân Chủ Cách Mạng của phái Jacobins.
3.1. Sự thành lập chính quyền CCDCCM. Với việc lật đổ phái Girondins, cách mạng Pháp chuyển sang đỉnh cao: Nền Chuyên Chính Dân Chủ Cách Mạng Jacobins. Chính quyền thuộc về một bộ phận tiến bộ nhất trong giai cấp tư sản, gắn bó với quyền lợi của QCND, do đó, họ nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của QCND. Lãnh đạo phái Jacobins phần lớn là những trí thức tiểu tư sản, có tư tưởng tiến bộ, gần gũi với QCND. Ðại diện cho chính quyền này là Robesspierre, Marat, Saint Just, Danton.
3.2. Tổ chức chính quyền CCDCCM. Cơ quan tối cao của chính quyền là Quốc Ước, tập trung trong tay quyền Hành Pháp và Lập Pháp. Dưới nó là các ủy ban, hai ủy ban quan trọng là Ủy ban An ninh và Ủy ban Cứu Quốc. Ủy ban Cứu quốc có dưới quyền trực thuộc của nó tất cả các cơ quan của chính quyền và những viên chức nhà nước. Ủy ban An ninh toàn quốc lãnh đạo các cơ quan cảnh sát và tòa án cách mạng, chủ yếu là cơ quan thực hiện chính sách khủng bố đối với kẻ thù bên trong của cách mạng, nhất là việc thi hành luật những người tình nghi.
3.3. Những biện pháp của phái Jacobins.
Sau khi nắm chính quyền, phái Jacobins đã thông qua một loạt những biện pháp nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách của cách mạng. Dựa trên nguyện vọng của QCND và phát huy được tính tích cực của họ, phái Jacobins đã đạt được những thành quả đáng kể trong việc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ những thành quả của cách mạng Pháp.
- Hiến Pháp 1793. HP được thông qua vào 24.6.1793. HP xóa bỏ việc phân biệt hai loại công dân tích cực và tiêu cực, qui định quyền phổ thông đầu phiếu cho nam công dân trên 21 tuổi. Theo Hiến pháp, quyền Hành pháp giao cho một Hội Ðồng gồm 24 người do QHLP cử ra. Hằng năm 1/2 số thành viên của uỷ ban được đổi mới. Hiến pháp 1793 được xem là hiến pháp dân chủ nhất. Nó tuyên bố những nguyên tắc tự do và dân chủ. Hiến pháp 1793 được thông qua nhưng không được thi hành do nước Pháp đang ở trong hoàn cảnh dặc biệt.
- Vấn đề ruộng đất : Quốc ước đã giải quyết triệt để vấn đề ruộng đất để lôi kéo nhân dân về phía cách mạng. Ngày 3.6.1793, chính quyền cách mạng ban hành đạo luật chia tài sản của bọn lưu vong thành lô nhỏ, bán trả góp kéo dài trong 10 năm để nông dân nghèo có thể mua được. Ngày 10.7.1793, Quốc ước ra sắc lệnh chia đều đất công cho nông dân. Ngày 17.7.1793, Quốc ước ra sắc lệnh thủ tiêu các đặc quyền phong kiến, nông dân được giải phóng khỏi mọi nghĩa vụ phong kiến mà không phải bồi thưòng. Những đạo luật ruộng đất đã có tác dụng tích cực trong nhân dân, biến họ thành lực lượng trung thành với cách mạng.
- Luật giá tối đa: phái Jacobins đã thõa mãn những yêu sách của phái Hóa Dại trong việc giải quyết vấn dề lương thực, thực phẩm cho nông dân. Quốc ước đã qui định các đạo luật trừng trị bọn đầu cơ tích trữ, hạn chế việc tự do mua bán, trưng thu và định giá lưong thực, thực phẩm, tổ chức phân phối công bằng, định giá tối đa đối với mọi nhu yếu phẩm của nông dân. Tháng 7.1793, Quốc ước thông qua sắc lệnh xử tử bọn đầu cơ lương thực. Tháng 9. 1793 Quốc ước thông qua đạo luật giá tối đa về các loại ngũ cốc và bột mì trong toàn quốc. Tháng 10.1793, đạo luật giá tối đa phổ biến được ban hành. Quốc ước cũng qui định lương tốïi đa đối với công nhân. Ðạo luật Le Chapelier vẫn được duy trì, đó là hạn chế hạn chế của phái Jacobins.
- Thanh toán thù trong giặc ngoài: Việc khẩn trương trừng trị bọn phản cách mạng và dập tắt các ổ bạo động là điều bức thiết. Tòa án cách mạng được thành lập, bắt đầu hoạt động khẩn trương và kiên quyết. Những phần tử phản cách mạng lần lượt lên máy chém. Các cuộc bạo động phản cách mạng ở Vendée và những nơi khác đều bị trấn áp một cách kiên quyết. Song song với quá trình đấu tranh thắng lợi chống kẻ thù bên trong, nhiệt tình yêu nước của quần chúng cũng tăng lên.
Phấn khởi trước những biện pháp tích cực của chính quyền cách mạng, họ hăng hái phục vụ cho tiền tuyến, ra sức sản xuất, cung cấp súng đạn, nhu cầu ăn mặc cho quân lính. Ngày 23.8.1793, Quốc ước thông qua sắc lệnh "tổng động viên", qui định nghĩa vụ cho từng nhóm tuổi, từng giới. Chiến thuật quân sự mới "vận động theo hàng dọc" được áp dụng. Quân đội cách mạng được tổ chứïc lại. Nhờ những yếu tố đó, quân đội Pháp đã giành được thắng lợi lớn. Cuối tháng 12.1793, quân địch ở khắp nơi đều bị đánh bật ra ngoài biên giới Pháp.
- Ðấu tranh chống Giáo hội. Các nghi lễ như lễ rửa tội, hôn lễ, tang lễ... đều được cử hành không có linh mục. Nhà thờ bị đóng cửa. Công xã thay thế tôn giáo bằng sự tôn thờ lẽ phải và tổ chức những ngày lễî long trọng để giáo dục ý thức cách mạng trong nhân dân. Chính quyền còn đặt ra lịch mới gọi là lịch cách mạng, chống lại lịch Giáo hội. Một năm chia làm 12 tháng, tháng chia làm 30 ngày, các tháng được gọi tên theo từng mùa. Mỗi tháng chia thành 3 tuần, các ngày trong tuần được gọi tên theo các loại thảo mộc, rau cỏ, súc vật... Ngày 22.9 là ngày tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa, được xem là tháng thứ nhất của lịch cách mạng. ?
- Vì sao nền CCDCCM của phái Jacobins được xem là đỉnh cao của CM?
4. Thoái trào của Cách mạng.
4.1. Cuộc đảo chính Thermidor. Cuộc chiến đấu chống ngoại xâm và nội phản đã tập hợp các lượng xã hội có quyền lợi khác nhau chung quanh phái Jacobins, nhưng khi những nguy cơ cách manûg bị đẩy lùi, thì những mâu thuẫn trong hàng ngũ phe cách mạng lại nổ ra. Tư sản làm giàu trong cách mạng, mong muốn hơn bao giờ hết việc xóa bỏ những đạo luật về giá tối đa để được tự do kinh doanh, họ muốn chấm dứt cách mạng. QCND thì đòi thỏa mãn hơn nữa những quyền lợi của mình. Ðó là nguồn gốc sinh ra hai phái đối lập: phái Khoan Dung và phái Cực Ðoan. Trong khi tuyến bố cương lĩnh của mình, cả hai phái đều tấn công vào Robespierre. Trước tình thế đó, Robespierre đã đàn áp cả hai phái. Do sự chia rẽ nội bộ và mất sự ủng hộ tích cực của QCND, phái Jacobins suy yếu hẳn. Thừa dịp này, tư sản phản cách mạng tổ chức cuộc chính biến lật đổ Robespierre và đồng đội của ông. Ðó là cuộc chính biến ngày 27.7.1794, chấm dứt sự thống trị của phái Jacobins. Sau khi lật đổ phái Jacobins, tư sản phản cách mạng Thermidor lên nắm chính quyền. Họ tìm mọi cách để thanh toán nền CCDCCM, thủ tiêu những thành quả của phái Jacobins. Họ tuyên bố bãi bỏ luật giá tối đa, cho tự do kinh doanh. Giá lương thực, nhu yếu phẩm tăng vọt, đời sống công nhân, thợ thủ công, nông dân vô cùng khó khăn.
4.2. Chế độü Ðốc chính. Tháng 10.1795, Quốc Ước Thermidor thông qua một hiến pháp mới thành lập chế độü Ðốc chính. Theo hiến pháp, quyền Hành pháp nằm trong tay ban Giám đốc gồm 5 ủy viên. Quyền Lập pháp thuộc hai viện: viện 500 và viện những người kỳ cựu, có khả năng hạn chế quyền hành lẫn nhau. Dưới chế độ Ðốc chính, đời sống nhân dân tiếp tục sa sút, nhiềìu cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, quan trọng nhất là cuộc khởi nghĩa của Babeuf. Babeuf chủ trương xây dựng một xã hội mới dựa trên nguyên tắc bình đẳng, trong đó mọi ngưòi đều có nghĩa vụ lao động và hưởng thụ như nhau. Ông là người đầu tiên yêu cầu xóa bỏ chế độ tư hữu, cộng đồng hóa lao động và phân phối sản phẩm. Tư tưởng của ông tiến bộ vượt hẳn tư tưởng của Rousseau và những người Jacobins. Tuy nhiên, kế hoạch khởi nghĩa của Babeuf không thành công và ông đã bị bắt. Tuy thất bại, nhưng khởi nghĩa của Babeuf đã ảnh hưởng khá lớn trong phong trào cách mạng của QCND.
4.3. Cuộc đảo chính của Napoléon Bonaparte. Lo sợ trước phong trào cách mạng của QCND và sự phục hồi của vương triều Bourbons, giai cấp tư sản thấy cần phải có một chính quyền mạnh, họ đã nhờ đến Napoléon. Napoléon làm cuộc đảo chính ngày18 tháng Sương mù 1799. Chế độ Ðốc chính chấm dứt, nền độc tài quân sự của Napoleon bắt đầu.
III. TÍNH CHẤT VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG PHÁP
Ðây là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, nó đã lật đổ những quan hệ lỗi thời của nền QCCCPK. Cuộc Cách mạng này đã tuyên bố một chế độ chính trị mới ở Pháp, đã giải phóng nông dân khỏi những ràng buộc phi lý của chế độ phong kiến, mở đường cho CNTB phát triển. Trong cuộc cách mạng này, giai cấp tư sản đã đóng vai trò lãnh đạo cách mạng, QCND là lực lượng chủ yếu đã tham gia vào tiến trình của cách mạng và đã đưa cách mạng tiến lên, vượt ra ngoài ý muốn của giai cấp tư sản. Chính sự tham gia của QCND đã làm cho cách mạng Pháp mang tính dân chủ rộng rãi và triệt để cách mạng so với những cuộc cách mạng trước nó. Cách mạng Pháp có một ý nghĩa lịch sử quan trọng không những đối với lịch sử nước Pháp mà cả đối với lịch sử châu Âu lúc bấy giờ. Những tư tưởng dân chủ của CM Pháp ảnh hưởng đến các nước châu Âu và làm cho chế độ phong kiến ở các nước này bị lung lay. "Cách mạng Pháp xứng đáng là một cuộc đại cách mạng. Nó đã làm biết bao nhiêu việc cho giai cấp của nó, tức là giai cấp tư sản, đến nỗi trọn thế kỉ XIX là thế kỉ đem lại văn minh và văn hóa cho toàn thể nhân loại đã diễn tiến dưới dấu hiệu của cách mạng Pháp"
có nhiu tư liệu cho bạn hết, tự xử nha
Powered by vBulletin® Version 4.2.5 Copyright © 2025 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.