Ðăng Nhập

Xem đầy đủ chức năng : Mật mã Da Vinci - Dan Brown, Người dịch: Nguyễn Thu Hà



the_warm_winter
13-06-2008, 06:29 PM
Phần mở đầu

10h46' tối
Jacques Saunière, người phụ trách nổi tiếng của bảo tàng Lourve, loạng choạng qua cửa tò vò có mái vòm trong hành lang lớn của bảo tàng. Ông lao tới bức tranh gần nhất ông có thể nhìn thấy, 1 bức Caravaggio. Nắm lấy vành khung dát vàng, ông già bảy mươi sáu tuổi nhấc bức kiệt tác kéo về phía mình cho đến khi nó bật tung khỏi tường và Saunière ngã ngật người dưới tấm toan.
Như ông đã tính trước, 1 cánh cổng sắt đổ đánh rầm ngay gần đó, chặn lối vào dãy hành lang. Sàn gỗ rung lên. Đằng xa, chuông báo động bắt đầu ré lên.
Ông phụ trách bảo tàng nằm yên 1 lúc, thở hổn hển, nhận định tình hình. Mình vẫn còn sống. Ông trườn ra từ phía dưới bức tranh và nhìn trân trân vào khoảng trống hoác xem có nơi nào ẩn trốn được.
Một giọng nói cất lên, gần đến ớn lạnh: "Không được động đậy"
Trong tư thế bò, ông phụ trách bảo tàng sững người, từ từ quay đầu lại.
Chỉ cách ông khoảng 5m, bên ngoài cánh cổng chặn lối, cái bóng khổng lồ của kẻ tấn công chằm chằm nhìn qua song sắt. Hắn to cao, nước da trắng nhợt như ma và mái tóc bạch kim thưa. Tròng mắt hồng với đồng tử đỏ sậm. Gã bạch tạng rút từ áo khoác ra 1 khẩu súng lục và chĩa nòng súng qua chấn song, thẳng vào ông phụ trách bảo tàng:
- Đáng lẽ vừa nãy ông không nên chạy - Giọng hắn không dễ gì xác định được là người vùng nào - Giờ thì nói cho tôi biết nó ở đâu?
- Tôi đã nói với ông rồi, - ông phụ trách bảo tàng lắp bắp, quỳ chơ vơ trên sàn hành lang lớn. - Tôi không biết ông nói về chuyện gì nữa.
- Ông nói dối? - Hắn nhìn ông chằm chằm, bất động trừ tia sáng loé lên trông đôi mắt ma quỷ. - Ông và các đạo hữu của ông sở hữu thứ gì đó không phải của mình.
Ông phụ trách bảo tàng cảm thấy sợ thót người. Làm sao hắn có thể biết điều này?
- Tối nay Châu sẽ về Hợp Phố. Nói cho tôi biết nó được giấu ở đâu thì ông sẽ sống.
Hắn chĩa súng vào đầu ông. - Đó có phải là 1 bí mật cho ông chết vì nó không?
Saunière nghẹt thở.
Hắn nghiêng đầu, ngắm qua nòng súng.
Saunière giơ tay lên che chắn - Khoan đã. - Ông nói chậm rãi. -Tôi sẽ nói cho ông những gì ông cần biết. - Người phụ trách bảo tàng nói những lời tiếp theo 1 cách cẩn trọng. Điều ông nói là 1 lời nói dối mà ông đã ôn tập nhiều lần và lần nào ông cũng cầu sao sẽ không bao giờ phải dùng đến nó.
Khi người phụ trách bảo tàng nói xong, kẻ tấn công ông tủm tỉm cười đắc ý: -Phải. Đó chính xác là những gì mà mấy người kia đã nói với tôi.
Saunière giật bắn người. Mấy người kia?
- Tôi cũng đã tìm thấy bọn họ, - tên to con chế giễu, - cả 3 người. Họ khẳng định những gì ông vừa nói.
Không thể thế được! Nhân thân thật của người phụ trách bảo tàng, cùng với nhân thân của 3 pháp quan cũng thiêng liêng gần như điều bí mật cổ xưa mà họ bảo vệ. Giờ đây, Saunière hiểu ra rằng những pháp quan của ông, theo 1 thủ tục nghiêm khắc, đã nói dối hệt như ông trước khi họ chết. Đó là 1 phần của nghi thức.
Kẻ tấn công lại ngắm súng: - Khi ông chết đi, tôi sẽ là người duy nhất biết sự thật.
Sự thật. Trong giây lát, người phụ trách bảo tàng chợt hiểu ra sự kinh khủng thực sự của tình thế. Nếu mình chết, sự thật sẽ biến mất mãi mãi. Theo bản năng, ông cuống cuồng bò tìm chỗ trốn.
Súng nổ, và Saunière cảm thấy bỏng rát khi viên đạn găm vào bụng. Ông ngã về phía trước, vật lộn với cái đau. Từ sau, Saunière lật ngửa người, ngoái nhìn kẻ tấn công qua song sắt. Tên này đang ngắm phát súng kết liễu vào đầu Saunière.
Saunière nhắm mắt lại, những ý nghĩ của ông như 1 cơn bão lốc lẫn lộn cả sợ hãi và tiếc nuối.
Tiếng "cạch" của ổ đạn rỗng vang vọng trong hành lang. Ông phụ trách bảo tàng mở choàng mắt.
Tên kia liếc nhìn khẩu súng, vẻ thích thú. Hắn toan nạp kẹp đạn thứ 2, nhưng dường như suy tính lại, hắn cười khẩy nhìn bụng Saunière: - Công việc của tôi ở đây đã hoàn tất.
Người phụ trách bảo tàng nhìn xuống và thấy vết đạn trên áo sơ mi lanh trắng của mình. Một vòng tròn máu viền quanh vết đạn bên dưới xương ức khoảng dăm phân. Trúng bụng mình.
Tệ thay, viên đạn đã không trúng tim ông. Là cựu chiến binh của La Guerre d'Algerie, trước đây ông đã từng chứng kiến cái chết kéo dài khủng khiếp này. Trong vòng 15 phút, ông sẽ sống cho đến khi axit trong dạ dày thấm vào khoang ngực và đầu độc ông từ bên trong.
- Đau đớn là tốt, thưa quý ông, - hắn nói.
Rồi bỏ đi.
Giờ đây khi chỉ còn lại 1 mình, Jacques Saunière quay sang nhìn trân trối vào cánh cổng sắt. Ông đã mắc kẹt và các cánh cổng không thể mở lại ít nhất trong vòng 20 phút.
Đến khi có ai đó đến được chỗ ông, thì ông đã chết. Ngay cả như thế, thì nỗi sợ hãi giờ đây đang siết chặt tim ông còn lớn hơn nhiều so với nỗi sợ về cái chết của chính bản thân ông.
Mình phải truyền lại bí mật này.
Chệnh choạng đứng dậy, ông tưởng tượng ra cảnh 3 giáo hữu của mình bị sát hại. Ông nghĩ về các thế hệ trước họ... về sứ mệnh mà tất cả bọn họ đã được uỷ thác.
Một chuỗi kiến thức liên tục không bị đứt đoạn.
Đùng 1 cái, giờ đây, bất chấp mọi phòng ngừa... bất chấp mọi cơ cấu an toàn... Jacques Saunière là mắt xích duy nhất còn lại, là người bảo vệ duy nhất của 1 trong những bí mật có quyền năng nhất từng được lưu giữ.
Run rẩy, ông cố đứng lên.
Ta phải tìm cách nào đó...
Ông bị kẹt trong hành lang lớn, và chỉ có 1 người duy nhất trên thế giới này ông có thể trao lại ngọn đuốc. Saunière nhìn lên những bức tường phòng giam lộng lẫy của mình. Một bộ sưu tập những bức tranh nổi tiếng nhất thế giới đang cúi xuống mỉm cười với ông tựa như những người bạn cũ.
Nhăn nhó vì đau đớn, ông huy động hết sức lực và khả năng của mình. Cái nhiệm vụ cực kỳ nghiêm trọng trước mắt ông - ông biết - sẽ đòi hỏi mỗi phút giây còn lại của đời ông.

the_warm_winter
19-06-2008, 07:00 PM
Chương 1
Robert Langdon từ từ tỉnh giấc. Điện thoại reo trong bóng tối - tiếng chuông leng keng nghe lạ lẫm. Ông dò dẫm lần tìm ngọn đèn cạnh giường và bật lên. Nheo mắt nhìn xung quanh ông nhận thấy đó là 1 phòng ngủ kiểu Phục Hưng sang trọng với đồ đạc theo phong cách thời Louis XVI với những bức tranh vẽ thẳng lên tường, và 1 chiếc giường gỗ gụ đồ sộ 4 cột.
Mình đang ở chỗ quái quỷ nào thế này?
Chiếc áo tắm trên cột giường mang dòng chữ: Hotel Ritz Paris.
Màn sương tan dần.
Langdon nhấc ống nghe: "Hello?"
- Ông Langdon phải không ạ? - 1 giọng đàn ông vang lên. - Tôi hi vọng là không đánh thức ông chứ ạ?
Ngạc nhiên, Langdon nhìn đồng hồ cạnh giường. 0 giờ 32' sáng. Ông mới ngủ được 1 tiếng mà cảm thấy như lâu lắm.
- Tôi là người trực khách sạn, thưa ông. Tôi xin lỗi vì sự đường đột này, nhưng vì có 1 vị khách khăng khăng đòi gặp ông, nói là có việc khẩn cấp.
Langdon vẫn cảm thấy lơ mơ. Một vị khách? Tia mắt ông tập trung vào 1 tờ bướm bị vò nhàu trên bàn cạnh giường.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ TẠI PARIS
Trân trọng giới thiệu
MỘT TỐI GẶP GỠ VỚI ROBERT LANGDON
GIÁO SƯ KHOA KÝ TƯỢNG TÔN GIÁO, ĐẠI HỌC HARVARD
Langdon hầm hừ. Buổi thuyết giảng tối nay - 1 bài giảng về hệ kí tượng phi tôn giáo ẩn chứa trong các phiến đá của nhà thờ lớn Chartres, có minh hoạ bằng phim đèn chiếu - chắc đã làm xù lông 1 số vị bảo thủ trong đám thính giả. Rất có thể là 1 học giả nghiên cứu tôn giáo nào đó đã bám theo ông về tận khách sạn để đòi tranh luận.
- Tôi xin lỗi, - Langdon nói, - nhưng tôi rất mệt và...
- Mais monsieur..., - người trực khách sạn nằn nì, hạ thấp giọng thành 1 tiếng thì thào khẩn thiết, - ... vị khách này là người rất quan trọng.
Langdon hơi nghi ngờ. Các cuốn sách của ông về tôn giáo và ký tượng thờ cúng đã làm ông nổi danh trong giới nghệ thuật khiến mọi người miễn cưỡng phải công nhận ông và năm ngoái danh tiếng của của Langdon đã tăng lên gấp trăm lần sau khi ông tham gia vào 1 sự kiện được công chúng biết đến rộng rãi ở Vatican. Từ đó, các nhà sử học và chuyên gia nghệ thuật tự cao tự đại nườm nượp kéo đến nhà ông không ngớt.
- Xin ông vui lòng, - Langdon nói, cố gắng hết sức để giữ lịch sự - ghi lại tên và số điện thoại của vị khách đó, và nói với ông ta rằng tôi sẽ gọi cho ông ta trước khi tôi rời Paris vào thứ ba. Cảm ơn ông. - Ông gác máy trước khi người trực khách sạn kịp phản đối.
Lúc này Langdon đã ngồi dậy, ông cau mày nhìn cuốn sổ tay liên hệ với khách có bìa ghi những lời huyênh hoang: "hãy ngủ như 1 hài nhi ở kinh đô ánh sáng. Hãy liên hệ với khách sạn Ritz Paris". Ông quay đầu và nhìn 1 cách mệt mỏi vào tấm gương soi cả người ở đầu kia căn phòng. Người đàn ông đang nhìn ông là 1 người xa lạ - tóc tai rối bù và mệt mỏi.
Anh bạn cần 1 kỳ nghỉ đấy, Robert.
Năm làm việc vừa qua đã tiêu hao sức lực nặng nề, nhưng ông không khoái nhìn thấy bằng chứng của điều đó trong gương. Đôi mắt màu xanh thường ngày sắc sảo đêm nay có vẻ lờ đờ và mệt mỏi. Một lớp râu đen lởm chởm phủ kín quai hàm và cái cằm chẻ. Quanh thái dương, những sợi hoa râm đang tăng lên, thâm nhập sâu hơn vào mái tóc đen dày. Mặc dù các đồng nghiệp nữ 1 mực nói rằng tóc bạc chỉ làm tăng thêm sức quyến rũ bác học của ông, nhưng Langdon thừa biết là đâu phải thế. Giá Boston Magazine nhìn thấy mình lúc này.
Tháng trước, Langdon rất bối rối khi tờ Boston Magazine xếp ông vào danh sách 10 người đàn ông hấp dẫn nhất thành phố - 1 vinh dự đáng ngờ khiến ông trở thành mục tiêu trêu chọc không dứt của các đồng nghiệp ở trường Harvard. Tối nay, ở cách xa đất nước 3 ngàn dặm, sự đề cao đó vẫn trở lại ám ảnh ông ngay trong buổi thuyết giảng ông vừa thực hiện.
- Thưa quý ông quý bà..., - người giới thiệu tuyên bố trước thính phòng đầy ắp của Cung Dauphine của trường Đại học Mỹ ở Paris. - Khách mời tối nay của chúng ta chắc tôi không cần giới thiệu. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách: Hệ kí hiệu của các giáo phái bí mật, nghệ thuật của dòng Chúa Khai sáng, ngôn ngữ tượng hình thất truyền, và khi tôi nói ông đã viết Khoa nghiên cứu thánh tượng và hình ảnh tôn giáo, là nói đúng theo nghĩa đen. Nhiều người trong số các bạn đang dùng những giáo trình của ông trên lớp.
Các sinh viên trong đám đông gật đầu nhiệt liệt tán thưởng.
- Tối nay tôi đã định giới thiệu ông bằng cách chia sẻ với các bạn lí lịch đầy ấn tượng của ông. Tuy nhiên ... - Cô ta tinh nghịch nhìn Langdon, lúc này ông đã ngồi trên sân khấu, - 1 khán giả vừa đưa cho tôi 1 lời giới thiệu ... có thể nói là ... hấp dẫn hơn nhiều.
Cô ta giơ lên 1 cuốn Boston Magazine.
Langdon co rúm người lại. Cô ta kiếm đâu ra cái của nợ này?
Người giới thiệu bắt đầu đọc những đoạn trích chọn lọc từ bào báo sáo rỗng kia và Langdon cảm thấy càng lúc mình càng lún sâu thêm trong ghế. 30 giây sau, đám đông nhăn nhở cười và người phụ nữ kia không hề tỏ dấu hiệu muốn dừng lại:
- Và việc ông Langdon từ chối công bố vai trò đặc biệt của ông trong cuộc họp kín bầu Giáo hoàng ở Vatican năm ngoái chắc chắn sẽ ghi thêm điểm cho ông trên hấp-dẫn-kế của chúng ta.
Người giới thiệu kích động đám đông: - Các bạn có muốn nghe thêm không?
Đám đông vỗ tay tán thưởng.
Ai đó hãy ngăn cô ta lại, Langdon thầm cầu xin khi cô ta lại đọc tiếp bài báo.
- Dù giáo sư Langdon có thể không được xem là người đẹp trai tuyệt vời như 1 vài người được bầu chọn trẻ hơn, nhưng vị giáo sư ngoài 40 tuổi này có cái gì đó ngoài phong độ học giả của ông. Vẻ ngoài quyễn rũ của ông được tôn thêm bởi giọng nói trầm và âm nam trung hiếm có, điều mà các sinh viên nữ miêu tả là "ngọt như mía lùi".
Cả phòng cười phá lên.
Langdon cố gượng cười vụng về. Ông biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo - lại 1 tràng những câu lố bịch kiểu "Harrison Ford trong chiếc áo tuýt hiệu Harris" - và bởi vì tối nay ông mặc áo tuýt hiệu Harris và áo cao cổ hiệu Burberry, nên ông quyết định hành động.
- Cảm ơn, Monique. - Langdon nói, vội vã đứng lên và đẩy cô ta ra khỏi bục diễn đàn,
- Boston Magazine quả có năng khiếu hư cấu. - Ông quay về phía cử toạ với 1 tiếng thở dài bối rối.
- Và nếu tôi tìm ra ai trong số các bạn đã cung cấp bài báo đó, tôi sẽ bảo tổng lãnh sự trục xuất các bạn.
Đám đông cười rộ.
- Vậy thưa các bạn, như các bạn đã biết, tối nay tôi tới đây để nói về quyền năng của biểu tượng...
Chuông điện thoại trong phòng của Langdon 1 lần nữa lại phá tan im lặng.
Càu nhàu, bán tín bán nghi, ông nhấc máy: - Vâng?.
Quả nhiên, lại là người trực khách sạn: - Ông Langdon, 1 lần nữa xin lỗi ông. Tôi gọi để thông báo với ông rằng vị khách của ông bây giờ đang trên đường đến phòng ông. Tôi nghĩ là nên báo trước cho ông.
Langdon lúc này đã tỉnh hẳn: - Ông cho phép ai đó lên phòng của tôi?
- Tôi xin lỗi, thưa ông, nhưng 1 người như vậy ... tôi không dám mạo quyền ngăn lại!
- Chính xác thì ông ta là ai?
Nhưng người trực khách sạn đã gác máy.
Gần như ngay lập tức, một nắm tay nặng nề đập cửa phòng Langdon thình thình.
Phân vân, Langdon tụt khỏi giường, cảm thấy những ngón chân nhấn sâu trên tấm thảm. Ông mặc áo choàng của khách sạn và đi tới cửa: - Ai?
- Ông Langdon? Tôi cần nói chuyện với ông. - Tiếng Anh của người này trọ trẹ - 1 giọng sủa gắt, hách dịch. - Tôi là trung uý Jérôme Collet. Direction Centrale Police Judiciaire DCP.
Langdon dừng lại. Cục cảnh sát Pháp. Đại loại như FBI của Mỹ.
Vẫn để nguyên dây xích an toàn, Langdon hé cửa ra vài phân. Gương mặt đối diện ông mỏng và nhợt nhạt. Người đàn ông gầy khác thường này mặc 1 bộ đồng phục màu xanh chính quy.
- Tôi có thể vào được không?, - viên cảnh sát hỏi.
Langdon do dự, cảm thấy không thoải mái khi đôi mắt xám của người lạ mặt nhìn ông chăm chú: - Chuyện này là thế nào?.
- Capitaine của tôi cần đến sự giám định của ông trong 1 vấn đề riêng tư.
- Ngay bây giờ? - Langdon hỏi. - Đã quá nửa đêm rồi.
- Ông có 1 buổi hẹn gặp mặt với ông phụ trách bảo tàng Louvre tối nay, đúng không?.
Langdon chợt cảm thấy bồn chồn. Ông và ông phụ trách bảo tàng đáng kính Jacques Saunière đã sắp xếp chương trình gặp nhau uống chút gì sau buổi thuyết giảng tối nay của ông nhưng Saunière đẫ không đến. - Vâng. Làm thế nào mà ông biết chuyện đó?
- Chúng tôi thấy tên ông trong sổ ghi công việc hàng ngày của ông ấy.
- Chắc không có gì bất ổn chứ?
Viên cảnh sát buông 1 tiếng thở dài dễ sợ và luồn 1 tấm ảnh chụp lấy ngay Polaroid qua khe cửa hé mở.
Khi Langdon nhìn thấy tấm ảnh, toàn thân ông cứng sững.
- Tấm ảnh này được chụp cách đây chưa đầy 1 tiếng. Trong bảo tàng Louvre.
Khi Langdon nhìn kĩ hình ảnh kì quái đó, sự ghê tởm và choáng váng ban đầu nhường chỗ cho 1 cơn giận trào lên đột ngột: - Ai có thể làm chuyện này?
- Chúng tôi hy vọng ông có thể giúp chúng tôi trả lời chính câu hỏi đó, bằng kiến thức của ông về khoa ký tượng học và việc ông định gặp ông ấy.
Langdon trân trân nhìn tấm ảnh, sự kinh tởm giờ đây hoà cùng nỗi sợ hãi. HÌnh ảnh khủng khiếp và quái lạ đó kèm theo 1 cảm giác bất an về 1 điều đã thấy ở đâu đó. Hơn 1 năm trước, Langdon nhận được tấm ảnh 1 xác chết và 1 lời đề nghị giúp đỡ tương tự. Hai mươi tư giờ sau, ông suýt mất mạng trong thành phố Vatican. Bức ảnh này hoàn toàn khác, tuy nhiên có 1 cái gì quen thuộc trong kịch bản khiến ông lo lo.
Viên cảnh sát nhìn đồng hồ: - Capitaine của tôi đang chờ, thưa ông.
Langdon chỉ nghe thấy loáng thoáng. Mắt ông vẫn dán vào tấm ảnh. - Cái biểu tượng này và cách đặt thi thể ông ấy thật kì lạ...
- Vị trí? - Viên cảnh sát hỏi.
Langdon gật đầu, cảm thấy ớn lạnh khi ông ngẩng lên
- Tôi không thể tưởng tượng là ai có thể làm việc này đối với người khác.
Viên cảnh sát có vẻ nghiêm nghị: - Ông không hiểu sao, ông Langdon. Những gì ông thấy trong bức ảnh này ..., - anh ta dừng lại, - Ông Saunière đã tự làm điều đó với chính mình.

the_warm_winter
19-06-2008, 07:17 PM
Chương 2
Cách đó 1 dặm, tên bạch tạng to con có tên Silas tập tễnh qua cổng trước của toà nhà bằng đá xám sang trọng ở phố La Bruyère. Chiếc dây lưng hành xác bằng vải lanh có ngạnh mà hắn quấn quanh bắp đùi cứa vào thịt hắn, nhưng tâm hồn hắn lại đang ca hát với niềm thoả mãn với việc phụng sự Chúa.
Đau đớn là tốt.
Đôi mắt đỏ ngàu của hắn rà khắp sảnh khi hắn vào nhà. Vắng tanh. Hắn lặng lẽ lên cầu thang không muốn đánh thức ai trong số bạn đồng môn. Cửa phòng ngủ của hắn mở, việc khoá cửa ở đây bị cấm. Hắn vào phòng, đóng cửa lại sau lưng.
Căn phòng rất đơn giản - sàn gỗ cứng, 1 cái tủ áo bằng gỗ thông, 1 cái chiếu vải bạt ở trong góc dùng làm giường ngủ.
Hắn là khách ở đây trong tuần này, nhưng nhiều năm nay, hắn có ân phước được ở 1 thánh đường tương tự ở New York City.
Chúa cho ta chỗ ở và lẽ sống cho cuộc đời ta.
Cuối cùng, tối nay, Silas cũng cảm thấy bắt đầu đền đáp được món nợ đó. Hối hả chạy đến tủ áo, hắn tìm chiếc điện thoại di động giấu dưới ngăn đáy và bấm số gọi.
- Hử? Một giọng đàn ông trả lời.
- Trình Thầy, con đã trở về.
- Nói đi, - giọng nói kia ra lệnh, có vẻ hài lòng khi nghe hắn nói.
- Cả bốn đều đã chết. Ba pháp quan ... và cả Đại sư.
Giọng nói ngừng lại trong chốc lát, như để cầu nguyện:
- Vậy ta chắc ngươi đã lấy được thông tin?
- Cả 4 đều nói giống nhau. Riêng rẽ từng người.
- Và ngươi tin chúng?
- Họ nói y hệt nhau nên không thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Một nhịp thở phấn khích: - Tuyệt. Hội kín này nổi tiếng là kiên định bảo vệ bí mật, ta đã lo chúng nêu cao tinh thần ấy.
- Cái chết kề cổ là 1 động cơ mạnh mẽ buộc họ phải nói ra.
- Vậy thì, học trò của ta, hãy nói những gì ta cần phải biết.
Silas biết những thông tin hắn lượm được từ những nạn nhân của hắn sẽ là 1 cú sốc:
- Thưa Thầy, cả 4 đều khẳng định sự tồn tại của viên đã đỉnh vòm ... viên đá đỉnh vòm trong truyền thuyết.
Hắn nghe thấy tiếng hít sâu bên kia đầu dây và có thể cảm thấy sự phấn khích của Thầy: - Viên đá đỉnh vòm. Đúng như chúng ta ngờ ngợ.
Theo truyền thuyết, hội kín này đã tạo ra 1 bản đồ bằng đá - 1 viên đá đỉnh vòm - và khắc vào đó bảng chỉ dẫn tới vị trí cuối cùng của bí mật lớn nhất của tổ chức ... thông tin này có quyền lực lớn đến mức sự bảo vệ nó chính là lý do tồn tại của hội.
- Khi chúng ta có được viên đá đỉnh vòm. - Thầy Giáo nói, - thì chỉ còn cách bí mật đó 1 bước.
- Chúng ta đang ở gần hơn Thầy nghĩ đấy ạ. Viên đá đỉnh vòm đó ở tại đây, tại Paris này.
- Tại Paris? Thật không thể tin được. Vậy thì quá dễ.
Silas lần lượt kể lại những sự kiện hồi đầu buổi tối ... cả 4 nạn nhân của hắn, ít phút trước khi chết, đã cố gắng tuyệt vọng như thế nào để hòng giữ cái mạng sống vô đạo lý của họ bằng cách nói ra bí mật. Mỗi người đều khai với Silas cùng 1 điều y hệt nhau - rằng viên đá đỉnh vòm đã được giấu khéo léo ở 1 vị trí trong 1 nhà thờ cổ của Paris - Nhà thờ Saint-Sulpice.
- Bên trong 1 ngôi nhà của Chúa, - Thầy Giáo la lên, - Chúng giễu chúng ta làm sao!
- Như chúng đã làm từ nhiều thế kỉ nay.
Thầy Giáo im lặng như để niềm đắc thắng của giây phút này tràn ngập mình. Cuối cùng, ông ta nói: - Con đã làm 1 việc lớn phụng sự Chúa. Chúng ta đã chờ đợi điều này nhiều thế kỉ. Con phải lấy lại viên đá đó cho ta. Ngay lập tức. Đêm nay. Con biết số tiền thưởng rồi đấy.
Silas biết số tiền thưởng nhiều không đếm xuể, tuy nhiên điều Thầy Giáo ra lệnh có vẻ là bất khả thi. - Nhưng nhà thờ đó là 1 pháo đài, nhất là vào ban đêm. Con sẽ vào bằng cách nào?.
Với giọng tự tin của 1 người có thế lực lớn, Thầy Giáo giảng giải những việc phải làm.
Khi Silas gác máy, da hắn râm ran đợi.
Một giờ, hắn tự bảo, thầm cảm ơn Thầy Giáo đã cho hắn thời gian để thực hiện sự sám hối cần thiết trước khi bước vào 1 ngôi nhà của Chúa. Mình phải gột rửa linh hồn khỏi những tội lỗi của ngày hôm nay. Những tội lỗi hắn phạm phải trong ngày hôm nay có mục đích thiêng liêng. Người ta đã phạm những hành động chiến tranh trong nhiều thế kỉ để chống lại kẻ thù của Chúa.
Sự tha thứ đã được đảm bảo.
Mặc dù thế, Silas biết sự miễn xá đòi hỏi hy sinh.
Kéo rèm che, hắn cởi quần áo và quỳ xuống giữa phòng. Nhìn xuống, hắn kiểm tra chiếc dây lưng hành xác cột quanh bắp đùi. Tất cả những môn đồ chân chính theo Đạo đều mang vật này - 1 dây da có găm những ngạnh kim loại sắc cứa vào da thịt như 1 nhắc nhở thường xuyên về khổ đau của Chúa. Sự đau đớn gây ra bởi vật này cũng giúp họ chống lại những dục vọng về xác thịt.
Mặc dù Silas đã đeo vật này lâu hơn yêu cầu 2 tiếng, hắn biết rằng hôm nay không phải là 1 ngày bình thường. Nắm lấy chiếc khoá, hắn xiết chặt nó lại thêm 1 nấc nữa, nhăn mặt khi những ngạnh sắc đâm sâu hơn vào da thịt. Thở ra từ từ, hắn khoan khoái tiếp nhận lễ thức thanh lọc bằng đau đớn.
Đau đớn là tốt. Silas thì thầm, nhắc lại những lời thiêng liêng của Cha Josemaria Escrivá - Người Thầy của mọi Thầy. Dù Escrivá đã chết năm 1975, minh triết của ông vẫn sống mãi, những lời của ông vẫn được hàng nghìn tôi tớ trung thành của Chúa trên toàn thế giới nhắc tới khi họ quỳ gối trên sàn để thực hành cái thông lệ thiêng liêng gọi là "tự hành xác".
Silas chuyển sự chú ý đến sợi dây thừng to thắt nút cuộn gọn gàng đặt trên sàn bên cạnh. Kỷ luật. Nững nút thắt bết máu khô.
Khao khát được thấy tác dụng gột rửa của nỗi đau đớn của chính mình, Silas đọc nhanh 1 lời cầu nguyện. Sau đó, nắm chặt 1 đầu sợi dây, hắn nhắm mắt và vung sợi dây qua vai, cảm nhận những nút thắt quất mạnh vào lưng. Hắn lại giật nó qua vai, quất mạnh vào thịt hắn. Giật đi, giật lại! cứ thế hắn quất hoài.
Castigo Corpus meum
Cuối cùng, hắn cảm thấy máu bắt đầu chảy.

the_warm_winter
20-06-2008, 08:53 PM
Chương 3
Không khí khô hanh tháng tư táp qua cửa xe để mở của chiếc Citroen ZX khi nó theo hướng Nam qua nhà hát opera và quảng trường Vendôme. Ngồi ở ghế cạnh ghế tài xế, Langdon cảm thấy thành phố vùn vụt qua trong khi ông cố soạn lại ý nghĩ của mình cho rành rọt tỏ tường. Sau khi tắm và cạo râu ù 1 cái, nom ông đã tương đối bảnh, nhưng trong lòng vẫn không nguôi lo lắng. Những hình ảnh đáng sợ về thi thể của ông phụ trách bảo tàng vẫn chốt lại trong tâm trí ông.
Jacques Saunière đã chết.
Langdon không khỏi cảm thấy sâu sắc sự mất mát to lớn với cái chết của người phụ trách bảo tàng. Mặc dù Saunière có tiếng là ưa biệt lập, nhưng sự công nhận đối với lòng tận tuỵ vì nghệ thuật của ông đã khiến ông được kính yêu. Những cuốn sách của ông về những mật mã bí mật ẩn chứa trong những bức hoạ của Poussin và Teniers nằm trong số những giáo trình ưa thích của Langdon.
Cuộc gặp mặt tối nay là điều mà Langdon rất mong đợi, và ông đã rất thất vọng khi ông phụ trách bảo tàng không xuất hiện.
Một lần nữa hình ảnh thi thể của người phụ trách bảo tàng vụt hiện lên trong tâm trí ông, Jacques Saunière đã làm điều đó với chính mình sao? Langdon quay đầu và nhìn qua cửa xe, cố xua hình ảnh đó ra khỏi tâm trí.
Bên ngoài, thành phố đang ngơi nghỉ - những người bán hàng rong đang đẩy những chiếc xe chở hạnh đào ướp đường, các bồi bàn mang bao rác ra vỉa hè, 1 đôi tình nhân ấp ủ nhau để giữ ấm trong gió nhẹ hoà quyện với hương hoa nhài.
Chiếc Citroen uy nghi đi giữa hỗn độn, tiếng còi 2 âm chối tai sẻ đôi dòng xe cộ như 1 lưỡi dao.
- Capitaine rất hài lòng khi biết ông vẫn còn ở Paris tối nay, - viên cảnh sát nói, lần đầu tiên mở lời kể từ lúc họ rời khách sạn. - Một sự trùng lặp may mắn.
Langdon tuyệt nhiênkhông hề cảm thấy may mắn, và sự trùng hợp là 1 khái niệm mà ông không hoàn toàn tin tưởng.
Là 1 người dành cả đời để khảo sát tính tương liên tàng ẩn giữa những biểu tượng và ý thực hệ khác hẳn nhau, Langdon xem thế giới như 1 mạng lưới bện xoắn những lịch sử và sự kiện 1 cách sâu sắc. Những mối liên hệ có thể là vô hình, ông thường hay giảng vậy cho các lớp khoa ký tượng học tại trường Harvard, nhưng chúng luôn ở đó, lấp ngay dưới bề mặt. - Tôi đoán, - Langdon nói, - rằng trường đại học Mỹ ở Paris đã nói cho các ông biết chỗ tôi đang ở.
Người lái xe lắc đầu: - Interpol.
Interpol (cảnh sát quốc tế), Langdon nghĩ thầm. Tất nhiên rồi. Ông đã quên mất rằng yêu cầu có vẻ vô hại của tất cả các khách sạn châu Âu đòi xem hộ chiếu khi nhận phòng còn quan trọng hơn 1 thủ tục kì quái - nó là luật. Vào bất kỳ buổi tối nào, trên toàn châu Âu, các quan chức Interpol có thể định vị chính xác ai đang ngủ ở đâu. Việc tìm ra Langdon ở khách sạn Ritz chắc chắn chỉ mất 5 giây.
Khi chiếc Citroen tăng tốc độ hướng về phía nam thành phố, mặt nghiêng sáng rực của tháp Eiffel hiện ra, đâm thẳng lên trời ở bên phải. Thấy nó Langdon nghĩ tới Vittoria, chợt nhớ lời hứa hẹn vui giữa 2 người 1 năm trước rằng cứ 6 tháng 1 lần, họ sẽ gặp nhau tại 1 địa điểm lãng mạn khác nhau trên thế giới. Tháp Eiffel, Langdon nghĩ, có thể cũng nằm trong danh sách của họ. Buồn thay, lần cuối cùng ông hôn Vittoria là ở 1 sân bay náo nhiệt tại Roma cách đây hơn 1 năm.
- Ông đã trèo lên bụng nó chưa? - viên cảnh sát liếc mắt hỏi.
Langdon ngước lên, chắc chắn là mình đã hiểu lầm. - Xin lỗi tôi nghe chưa rõ?
- Đẹp tuyệt vời phải không? - Viên cảnh sát hất hàm qua kính chắn gió về phía tháp Eiffel. - Ông đã từng leo lên đó chưa?
Langdon đảo mắt: - Chưa, tôi chưa từng trèo lên tháp.
- Đó là biểu tượng của nước Pháp. Tôi nghĩ nó thật hoàn hảo.
Langdon lơ đãng gật đầu. Các nhà ký tượng học thường nhận xét rằng Pháp - 1 đất nước nổi tiếng về thói tự đắc với cái chất đàn ông của mình, về thói giăng hoa và về những lãnh tụ tướng ngũ đoản như Napoléon và Pepin Lùn - ắt không thể chọn 1 biểu tượng quốc gia nào thích hợp hơn 1 cái dương vật cao cả ngàn mét.
Khi họ tới ngã tư phố Rivoli, đèn giao thông bật đỏ, nhưng chiếc Citroen không đi chậm lại. Viên cảnh sát nhấn ga cho chiếc xe nhỏ vọt qua ngã tư và tăng tốc đi vào khu vực nhiều cây cối của phố Castiglion, lối vào phía bắc của vườn Tuileries nổi tiếng - 1 thứ Central Park của Paris. Hầu hết khách du lịch đều dịch nhầm cụm từ Jardin des tuileries là có liên quan đến cảnh hàng nghìn bông hoa tulip nở rộ ở đây, nhưng thực tế Tuileries liên quan đên 1 vài điều ít lãng mạn hơn nhiều.
Công viên này từng là 1 cái hố mênh mông, rất ô nhiễm mà từ nó, các nhà thầu khoán ở Paris đã đào đất sét để sản xuất những viên ngói đỏ nổi tiếng của thành phố, gọi là tuiles.
Khi vào trong công viên trống vắng, viên cảnh sát với tay xuống dưới bảng điều khiển, tắt cái còi đang rú ầm ĩ. Langdon thở phào, thưởng thức sự im lặng đột ngột. Bên ngoài chiếc xe, ánh sáng nhạt của những ngọn đèn pha halôgien lướt trên con đường rải sỏi vụn, tiếng lốp xe nghiến lạo xạo thành 1 nhịp ru ngủ. Langdon luôn coi khu vườn này như 1 nơi linh thiêng. Đây là khu vườn mà Claude Monet đã thể nghiệm khối hình và màu sắc, và thực sự truyền cảm hứng cho sự ra đời của trào lưu ấn tượng chủ nghĩa. Tối nay, tuy nhiên, chỗ này lại mang 1 hào quang khác thường của điềm gở.
Chiếc Citroen lúc này rẽ trái, chếch hướng tây, xuôi đại lộ trung tâm của công viên. Đang chạy quanh 1 cái hồ hình tròn, người lái xe cắt ngang qua 1 đại lộ vắng vẻ và đi vào 1 cái sân vuông rộng mở ra bên ngoài. Langdon giờ đây có thể nhìn thấy chỗ cuối của vườn Tuileries, đánh dấu bởi 1 cổng tò vò lớn bằng đá gọi là Arc du Carrousel.
Mặc dù những lễ thức truy hoan đã từng được tổ chức ở Arc du Carrousel, những người hâm mộ nghệ thuật sùng kính nơi này vì 1 lý do hoàn toàn khác. Từ nơi dạo mát ở cuối vườn Tuileries, người ta có thể nhìn thấy 4 trong số những bảo tàng nghệ thuật tuyệt vời nhất trên thế giới ... ở bốn hướng đông, tây, nam, bắc.
Nhìn ra ngoài cửa xe bên phải, theo hướng nam bên kia sông Seine và bến Voltaire, Langdon có thể thấy mặt ngoài sáng trưng của nhà ga xe lửa cũ - nay là bảo tàng Orsay sang quý.
Đưa mắt sang trái, Langdon có thể thấy đỉnh của trung tâm Pompidou tối tân, là nơi đặt bảo tàng nghệ thuật hiện đại. Đằng sau ông về phía tây, Langdon biết đó là đài tưởng niệm cổ xưa của Ramses vươn lên trên cây cối, đánh dấu chỗ của bảo tàng Jeu de Paume.
Thẳng trước mặt, về hướng đông, qua cái cổng tò vò, Langdon có thể nhìn thấy toà lâu đài kiểu Phục Hưng làm bằng đá nguyên khối giờ đây đã trở thành 1 trong những lâu đài nghệ thuật nổi tiếng nhất thế giới.
Bảo tàng Louvre.
Langdon cảm thấy 1 thoáng ngỡ ngàng thường thấy khi mắt ông cố gắng tột bậc vẫn không bao quát hết toàn bộ khối nhà đồ sộ. Bên kia 1 plaza rộng mênh mông, mặt tiền uy nghi của Louvre vút lên như 1 toà thành trên nền trời Paris.
Được tạo hình như 1 cái móng ngựa khổng lồ, bảo tàng Louvre là toàn nhà dài nhất châu Âu, dài hơn 3 cái tháp Eifel nối liền với nhau. Thậm chí, cả mười vạn mét vuông diện tích của cái plaza nằm giữa 2 cánh của toà nhà cũng không đọ nổi sự bề thế của chiều ngang toà nhà. Langdon đã từng đi bộ quanh toàn bộ Louvre, 1 chuyến đi dài 3 dặm đầy thú vị.
Mặc dù, theo ước tính, 1 khách thăm quan phải mất khoảng 5 tuần mới chiêm ngưỡng hết toàn bộ 65.500 tác phẩm nghệ thuật trong toà nhà này, phần lớn du khách đều chọn con đường rút ngắn là Langdon gọi là "Louvre thu nhỏ" - 1 cuộc chạy nước rút qua bảo tàng để ngắm 3 kiệt tác nổi tiếng nhất: Nàng Mona Lisa, Thần vệ nữ Milo, thần chiến thắng có cánh. Art Buchard từng khoe khoang rằng ông ta đã xem cả 3 kiệt tác đó trong vòng 5 phút 56 giây.
Người lái chiếc xe lôi ra chiếc máy bộ đàm cầm tay và nói bằng tiếng Pháp rất nhanh: "Monsieur Langdon esl arrivé. Deux minutes".
Đáp lại là 1 câu xác nhận lạo xạo nghe không rõ.
Viên cảnh sát cất máy, quay sang Langdon: - Ông sẽ gặp capitaine ở lối vào chính.
Người lái xe không đếm xỉa đến những biển báo cấm ô tô đi trên plaza, cứ rồ ga, và phóng chiếc Citroen qua lề đường. Lối vào chính của bảo tàng Louvre bây giờ đã có thể nhìn thấy, sừng sững ở đằng xa, với 7 hồ nước phun lung linh ánh sáng.
Kinh đô ánh sáng lối vào mới của bảo tàng Louvre Paris cũng trở nên nổi tiếng gần như chính bảo tàng vậy. Kim tự tháp bằng kính theo lối hiện đại và gây nhiều tranh cãi do kiến trúc sự người Mỹ gốc Hoa I.M Pei thiết kế vẫn còn bị các vị bảo vệ truyền thống phỉ báng, họ cảm thấy nó phá huỷ vẻ trang nghiêm của cái sân theo phong cách Phục Hưng. Cloethe đã miêu tả kiến trúc như là âm nhạc ngưng đọng, và những người chỉ trích Pei miêu tả Kim tự tháp này như những móng tay trên cái bảng đen. Tuy nhiên, những người ngưỡng mộ tiến bộ, thì ca ngợi Kim tự tháp trong suốt cao 24 mét như 1 sự kết hợp gây sửng sốt giữa kiến trúc cổ điển và phương pháp hiện đại - 1 mối liên kết tượng trưng giữa cái cũ và cái mới - góp phần đưa bảo tàng Louvre vào thiên niên kỉ mới.
- Ông có thích Kim tự tháp của chúng tôi không? Viên cảnh sát hỏi.
Langdon cau mày. Người Pháp có vẻ thích hỏi người Mỹ câu này. Tất nhiên đó là 1 câu hỏi đầy hàm ý. Thừa nhận là mình thích cái Kim tự tháp đó sẽ biến bạn trở thành người Mỹ vô vị, còn nói không thích thì là 1 sự lăng mạ đối với người Pháp.
- Tổng thống Mitterrand là 1 người bạo gan, - Langdon đáp đánh bài trung dung. - Người ta bảo vị cựu tổng thống Pháp người đã đặt làm Kim tự tháp này - bị mắc cái "mặc cảm Pharaong". Một mình gánh trách nhiệm làm cho Paris tràn ngập những bia tưởng niệm, nghệ thuật và đồ tạo tác Ai Cập, Francois Mitterrand mê thích văn hoá Ai Cập cuồng nhiệt đến nỗi người Pháp đến giờ vẫn còn gọi ông là Nhân Sư.
- Tên ông đại uý là gì nhỉ?, - Langdon hỏi, chuyển đề tài.
- Bezu Fache, - người lái xe nói, đi về phía lối vào chính của Kim tự tháp. - Chúng tôi gọi ông ấy là Bò mộng.
Langdon liếc nhìn anh ta, tự hỏi liệu có phải mỗi người Pháp đều có 1 biệt danh đặt theo tên các con vật huyền bí không:
- Ông gọi capitaine là Bò mộng sao?
Người kia nhướn mày: - Tiếng Pháp của ông khá hơn là ông tự nhận đấy, thưa ông Langdon.
Tiếng Pháp của tôi rất tệ, Langdon nghĩ thầm, nhưng hiểu biết về các hình vẽ miêu tả cung hoàng đạo của tôi thì khá tốt. Chòm sao Taurus bao giờ cũng được tượng hình bằng con bò đực. Thuật chiêm tinh luôn là 1 hằng số tượng trưng khắp thế giới.
Viên cảnh sát dừng xe và chỉ giữa 2 đài phun nước 1 cánh cửa lớn ở mé kim tự tháp:
- Đó là lối vào. Chúc may mắn, thưa quý ông.
- Ông không cùng đi sao?
- Tôi được lệnh để ông lại đây. Tôi có nhiệm vụ khác để làm.
Langdon thở dài và ra khỏi xe. Đó là trò chơi của các ông mà.
Viên cảnh sát rồ ga và phóng đi.
Khi Langdon đứng 1 mình và nhìn những đèn hậu xe xa dần, ông nhận ra rằng ông có thể dễ dàng suy xét lại, rời khỏi cái sân này, bắt 1 chiếc taxi và đi thẳng về lên giường đi ngủ.
Một điều gì đó nói với ông rằng đó là 1 ý chẳng hay ho gì.
ĐI về phía đám sương của đài phu nước, Langdon có 1 cám giác lo lắng như thể ông đang bước qua 1 cái ngưỡng ảo về 1 thế giới khác. Cái tính chất như mơ của buổi tối nay lại vây lấy ông. Hai mươi phút trước ông đang ngủ trong phòng khách sạn. Giờ đây ông đang đứng trước 1 Kim tự tháp trong suốt do Nhân Sư xây nên, chờ 1 tay cảnh sát mà người ta gọi là Bò mộng.
Mình bị mắc kẹt trong 1 bức Calvador Dali, ông nghĩ.
Langdon đi thẳng tới lối vào chính - 1 cánh cửa quay đồ sộ. Phòng chờ bên ngoài ánh sáng lờ mờ và vắng vẻ.
Mình có phải gõ cửa không nhỉ?
Langdon tự hỏi không biết đã có nhà Ai Cập học tôn kính nào của Harvard gõ cửa 1 Kim tự tháp và chờ đợi sự đáp lại chưa. Ông giơ tay toan đập vào tấm kính, nhưng từ trong bóng tối phía dưới, 1 người đã xuất hiện, chạy lên chiếc cầu thang cong. Người chắc nịch và da sậm, gần giống như người Neanderthal, mặc chiếc áo vét cài chéo màu tối căng ra ôm chặt lấy đôi vai rộng. Dáng đi của ông ta trên đôi chân mập lùn, lực lưỡng rõ ra là người có uy quyền. Ông ta đang nói chuyện điện thoại di động nhưng kết thúc cuộc gọi ngay khi tới nơi. Ông ra hiệu mời Langdon vào.
- Tôi là Bezu Fache, - ông ta tuyên bố khi Langdon qua cánh cửa quay, - Đại uý của cục cảnh sát tư pháp trung ương. - Giọng ông ta thật phù hợp - 1 thứ âm cổ họng ì ầm ... như trời sắp có giông.
Langdon giơ tay ra bắt: - Robert Langdon.
Bàn tay kếch xù của Fache bao lấy tay Langdon với sức mạnh như nghiền nát.
- Tôi đã xem tấm ảnh, - Langdon nói. - Nhân viên của ông nói rằng Jacques Saunière đã làm việc đó....
- Ông Langdon, - đôi mắt đen như gỗ mun của Fache nhìn như xoáy vào da thịt, - Điều ông nhìn thấy trong ảnh chỉ là khởi đầu của những gì ông Saunière đã làm.

Chương 4
Đại uý Bezu Fache quả có phong thái của 1 con bò đang cơn giận với bờ vai rộng ngửa về phía sau và cái cằm ấn chặt vào ngực. Mái tóc đen chuốt dầu bóng càng làm nổi bật đường ngôi thẳng như mũi tên chia đôi cái trán dô ra phía trước như mũi chiến hạm. Khi ông dấn bước, đôi mắt đen dường như thiêu đốt mặt đất phía trước, toả ánh rực lửa, báo trước tính cách nghiêm khắc không khoan nhượng nổi tiếng của ông trong mọi vấn đề.
Langdon theo viên đại uý xuống chiếc cầu thang cẩm thạch nổi tiếng đi vào lòng nhà hõm sâu bên dưới Kim tự tháp bằng kính. Trên đường đi xuống, họ qua giữa 2 vệ binh của cục cảnh sát tư pháp lăm lăm súng máy. Thông điệp rất rõ ràng: không ai có thể ra vào tối nay mà không có sự cho phép của đại uý Fache.
Xuống dưới sâu hơn mặt đất, Langdon phải cố dẹp 1 cơn run đang dâng lên. Sự hiện diện của Fache không có chút gì là nồng nhiệt, và vào giờ phút này, bản thân bảo tàng Lourve cũng nhuốm 1 màu tang tóc. Cầu thang, tựa lối đi trong 1 rạp chiếu bóng tối om, chỉ có đèn gắn ở mỗi bậc chiếu sáng lờ mờ. Langdon có thể nghe thấy tiếng chân của chính mình dội lại từ tấm kính trên đầu. Ngước lên, ông có thể nhìn thấy những làn sương từ những vòi phun nước tan dần phía bên ngoài mái nhà trong suốt.
- Ông thấy có được không? - Fache hỏi, hất cái cằm rộng về phía trên.
Langdon thở dài, quá mệt mỏi để chơi trò đánh đố: - Vâng, Kim tự tháp của các ông thật lộng lẫy.
Fache lầm bầm: - 1 cái sẹo trên bộ mặt Paris.
Lạ đấy, Langdon có cảm nhận vị chủ nhân này là người khó có thể làm vừa lòng. Ông tự hỏi liệu Fache có biết rằng kim tự tháp này, theo yêu cầu rõ ràng của tổng thống Mitterrand, đã được xây dựng bằng đúng 666 tấm kính - 1 yêu cầu kỳ quái luôn là chủ đề tranh luận nóng bỏng trong các chuyên gia, họ cho rằng con số 666 là số của quỷ Satan.
Langdon quyết định không nói điều ấy ra.
Khi họ đi xa hơn vào phòng chờ dưới đất, khoảng không rộng mở từ từ hiện ra từ trong bóng tối. Nằm dưới mặt đất 19m, đại sảnh rộng khoảng 7600m vuông mới xây dựng của bảo tàng Lourve trải ra như 1 cái hang bất tận. Được xây bằng đá cẩm thạch màu vàng nâu ấm áp để tương hợp với màu đá mật ong của mặt tiền bên trên, đại sảnh dưới mặt đất thường rung lên bởi ánh sáng mặt trời và khách du lịch. Tuy nhiên, tối nay, sảnh trống rỗng và tối tăm, khiến cho toàn bộ đắm trong 1 không khí lạnh lẽo tựa như hầm mộ.
- Còn đội bảo vệ thường trực của bảo tàng thì sao? - Langdon hỏi.
- En quarantaine - Fache đáp, cứ như thể Langdon đang nghi ngờ tính chính trực của đội ông ta. - Hiển nhiên là đã có kẻ đột nhập. Tất cả những người canh đêm ở Louvre bên cánh Sully đều đang bị thẩm vấn. Việc đảm bảo an ninh buổi tối nay cho bảo tàng được chuyển giao cho các nhân viên của tôi.
Langdon gật đầu, đi nhanh để theo kịp Fache.
- Ông biết Jacques Saunière đến mức nào? - Viên đại uý hỏi.
- Thực ra là chẳng mấy tí. Chúng tôi chưa từng gặp nhau.
Fache có vẻ ngạc nhiên: - Tối nay mới là buổi hẹn gặp đầu tiên ư?
- Vâng. Chúng tôi dự định gặp nhau tại buổi chiêu đãi của trường đại học Mỹ sau bài giảng của tôi nhưng không thấy ông ấy tới.
Fache ghi nguyệch ngoạc vài dòng vào 1 cuốn sổ nhỏ. Khi họ đi tiếp, Langdon thoáng thấy khối kim tự tháp ít nổi tiếng hơn của bảo tàng Lourve - kim tự tháp đảo ngược -1 cửa mái khổng lồ lộn ngược rủ xuống từ trên trần tựa 1 thạch nhũ ở khu vực kế đó. Fache dẫn Langdon đi lên 1 vài bậc thang đến cửa 1 hành lang có khung vòm, phía trên có biển đề dòng chữ: DENON. Cánh Denon là phần nổi tiếng nhất trong 3 phần chính của Louvre.
- Ai là người yêu cầu có cuộc gặp mặt tối nay?- Fache đột ngột hỏi. - Ông hay ông ấy?
Câu hỏi có vẻ kì lạ. - Ông Saunière, - Langdon đáp khi họ vào đường hầm. - Thư kí của ông ấy đã liên lạc với tôi vào tuần trước bằng thư điện tử. Cô ấy nói rằng ông phụ trách bảo tàng biết tôi sẽ thuyết giảng ở Paris tháng này và muốn bàn chuyện gì đó với tôi trong khi tôi ở đây.
- Bàn chuyện gì?
- Tôi không biết. Chắc là về nghệ thuật. Chúng tôi có cùng mối quan tâm.
Fache có vẻ không tin: - Ông không hề biết cuộc gặp của các ông nhắm việc gì?
Langdon không biết. Lúc đầu ông cũng tò mò nhưng thấy không tiện hỏi cụ thể. Tôn ông Jacques Saunière nổi tiếng là thích sự riêng tư và rất ít khi cho ai gặp, chỉ riêng việc có cơ hội gặp ông cũng đủ khiến Langdon phải cảm ơn rồi. - Ông Langdon, chí ít ông có thể đoán xem nạn nhân bị giết của chúng ta có thể muốn bàn luận gì với ông vào cái đêm ông ấy bị giết chứ? Điều đó có thể sẽ rất có ích.
Sự thẳng thừng của câu hỏi đó làm cho Langdon cảm thấy không thoải mái.
- Tôi thực sự không thể đoán được. Tôi đã không hỏi. Tôi cảm thấy vinh dự được tiếp xúc với ông ấy. Tôi là người ngưỡng mộ công trình của ông Saunière. Tôi thường dùng các bài viết của ông ấy trên lớp.
Fache ghi điều đó vào sổ.
Hai người đã đi được nữa đường hầm dẫn vào cánh Denon và Langdon có thể nhìn thấy những cầu thang cuốn kép đôi ở phía xa, cả 2 bên lên, xuống đều đứng im.
- Vậy là ông có cùng những mối quan tâm với ông ấy? - Fache hỏi.
- Vâng, trên thực tế, năm ngoái tôi đã giành nhiều thời gian soạn thảo 1 cuốn sách bàn về lĩnh vực giám định chủ yếu của ông Saunière. Tôi mong sao lượm lặt được chút tri thức của ông ấy.
Fache ngước mắt: - Gì cơ?
Rõ ràng ông ta không hiểu câu thành ngữ.
- Tôi mong sao học hỏi những suy nghĩ của ông ấy về đề tài này.
- Tôi hiểu. Và đề tài đó là gì?
Langdon do dự, không biết diễn tả như thế nào cho chính xác. - Về cơ bản, bản thảo viết về khoa nghiên cứu các hình tượng thờ nữ thần - khái niệm về tính thánh nữ và nghệ thuật cùng những biểu tượng gắn kết với nó.
Fache giơ bàn tay mập ú vuốt tóc. - Và Saunière rành về đề tài này?
- Không ai hơn ông ấy.
- Tôi hiểu.
Langdon cảm thấy Fache chẳng hiểu gì hết. Jacques Saunière được xem là nhà mô tả các hình tượng về nữ thần hàng đầu trên thế giới. Saunière không chỉ có niềm đam mê cá nhân đối với những thánh tích có liên quan đến sự phồn thực, các nghi lễ cúng tế nữ thần, Wicca và tính nữ thiêng liêng, mà trong suốt 20 năm phụ trách bảo tàng, Saunière đã giúp Louvre tập hợp được bộ sưu tập nghệ thuật nữ thần lớn nhất thế giới - những cái rìu của các nữ tu ở những điện thờ cổ xưa nhất của Hy Lạp ở Delphi, những cây quyền trượng bằng vàng, hàng trăm thập giá hình khoá giống như những thiên thần nhỏ của vùng Tjet, những chiếc trống lắc được sử dụng ở Ai Cập cổ đại để xua đuổi tà ma, và 1 bộ tượng kỳ thú miêu tả cảnh Horus được nữ thần Isis cho bú.
- Có lẽ Jacques Saunière nghe nói về bản thảo của ông? - Fache gợi ý. - Và ông ấy sắp đặt cuộc gặp gỡ để đề nghị giúp đỡ ông cho cuốn sách của ông.
Langdon lắc đầu: - Thực sự, chưa ai biết về bản thảo này. Nó vẫn ở dạng nháp, và tôi không đưa nó cho bất kỳ ai trừ người biên tập của tôi.
Fache im lặng.
Langdon không nói thêm lý do khiến ông chưa cho ai xem tập bản thảo. Bản nháp dày 300 trang - tạm đặt tên là Những biểu tượng của tính nữ thiêng liêng bị thất truyền - đưa ra 1 số diễn giải rất khác thường về hệ hình tượng tôn giáo đã chế định, những diễn giải chắc chắn sẽ gây tranh cãi.
Khi Langdon đi gần đến chiếc cầu thang cuốn vẫn đứng im, ông dừng lại, nhận thấy Fache không còn ở bên cạnh mình.
Quay lại, Langdon nhìn thấy Fache đang đứng cách đó vài mét về phía sau ở chỗ thang máy dành cho người phục vụ.
- Ta sẽ đi thang máy - Fache nói khi cửa thang máy mở ra. - Tôi chắc ông biết hành lang lớn khá xa nếu đi bộ.
Tuy Langdon biết đi thang máy lên 2 tầng dài để đến cánh Denon sẽ nhanh hơn, ông vẫn đứng im.
- Có chuyện gì không ổn? - Fache giữ cửa, có vẻ sốt ruột.
Langdon thở hắt ra, quay lại nhìn đầy thèm muốn về phía cầu thang cuốn ngoài trời. Chẳng có chuyện gì không ổn cả, ông tự dối mình, lụi hụi trở lại thang máy. Hồi bé, Langdon đã ngã xuống 1 cái giếng bỏ đi và suýt chết vì ngâm nước trong cái khoảng hẹp đó nhiều giờ trước khi có người đến cứu. Kể từ đó, ông bị ám ảnh bởi chứng sợ những khoảng khép kín - thang máy, đường điện ngầm, sân chơi bóng quần. Thang máy là 1 cái máy tuyệt đối an toàn, Langdon tự nhủ nhưng không bao giờ tin điều đó cả. Nó là 1 hộp kim loại nhỏ xíu treo bên trong 1 cái ống thông khép kín. Nín thở, ông bước vào buồng thang, cảm thấy cái giật thon thót quen thuộc mỗi khi cửa thang máy khép lại.
Hai tầng. 10 giây.
- Ông và ông Saunière - Fache nói khi thang máy bắt đầu chuyển - các ông chưa hề nói gì với nhau? Chưa hề thư từ? Chưa hề gửi cho nhau bất cứ thứ gì qua bưu điện?
Lại 1 câu hỏi kỳ lạ. Langdon lắc đầu. - Không. Chưa bao giờ.
Fache nghếch đầu, như thể ghi thẳng vào đầu sự việc đó. Không nói gì, ông ta nhìn trân trân vào cánh cửa bằng crôm.
Khi họ lên cao, Langdon cố tập trung vào những cái khác hơn là 4 bức vách xung quanh. Qua sự phản chiếu của cánh cửa thang máy sáng bóng, ông thấy cái kẹp cavát của viên đại uý 1 cây thánh giá bằng bạc có gắn 13 viên mã não có vân đen. Langdon thấy hơi là lạ. Biểu tượng này gọi là crux gemmata - 1 cây thánh giá gắn 13 viên ngọc - 1 biểu tượng Thiên chúa giáo ám chỉ Chúa và 12 vị thánh tông đồ của Ngài. Không hiểu sao, Langdon không ngờ người chỉ huy của Cảnh sát Pháp lại phô bày tôn giáo của ông ta quá lộ liễu như vậy. Hơn nữa, đây là Pháp, ở đây Thiên chúa giáo không phải là 1 tôn giáo được xem như quyền tự nhiên.
- Đó là 1 crux gemmata - Fache đột nhiên nói.
Giật mình, Langdon ngước lên thấy Fache dán mắt vào mình trong ánh phản chiếu.
Thang máy dừng sững, cửa mở ra.
Langdon bước vội ra, đi nhanh vào hành lang, thèm khát khoảng không rộng thoáng tạo nên bởi những trần cao nổi tiếng của những phòng tranh trong Louvre. Tuy nhiên, thế giới ông bước vào chẳng có gì giống với những gì ông mong đợi.
Ngạc nhiên, Langdon dừng sững lại.
Fache liếc sang: - Tôi rút ra kết luận là ông chưa bao giờ thấy Louvre sau giờ công sở, ông Langdon?
Tôi đoán là thế. Langdon nghĩ, cố định thần lại.
Vốn được chiếu sáng hoàn hảo nhưng tối nay, các phòng trưng bày của Louvre đột nhiên tối om. Thay cho ánh sáng trắng toả tuôn xuống từ bên trên, là 1 vầng đỏ lừ dường như toả ra từ ván chân tường - những vệt sáng đỏ lập loè đổ tràn trên sàn lát đá.
Khi nhìn dọc theo hành lang tối tăm, Langdon nhân ra đáng lẽ ông nên hình dung trước cảnh tượng này. Hầu như tất cả các phòng trưng bày đều để đèn đỏ vào buổi tối - những ngọn đèn được đặt ở tầm thấp theo chủ định, không toả sáng rộng đủ để cho các nhân viên đi lại trong các hành lang mà vẫn giữ cho các bức hoạ trong bóng tối tương đối để hãm chậm tác động phai màu do phơi sáng quá nhiều. Tối nay, bảo tàng có vẻ gần như ngột ngạt. Bóng tối lan dài xâm lấn mọi nơi, và những trần vòm thường khi cao vút bỗng có vẻ như những khoảng trống thấp tối đen.
- Đường này - Fache nói, rẽ phắt sang phải và đi qua 1 dãy dài các phòng trưng bày nối liền với nhau.
Langdon đi theo, mắt ông cũng dần quen với bóng tối. Xunh quanh, những bức tranh sơn dầu khổ to bắt đầu hiện ra trước mắt ông như tiến trình rửa ảnh trong 1 buồng tối khổng lồ. Mắt các nhân vật trong tranh dõi theo ông khi ông đi qua các phòng. Ông có thể ngửi thấy mùi vị quen thuộc của không khí bảo tàng - mùi tinh dầu giải iôn hăng hắc thoang thoảng chút carbon - sản phẩm của máy hút ẩm công nghiệp, với bộ lọc chạy bằng than, các máy này chạy suốt ngày để trung hoà khí CO2 gây ăn mòn, toả ra theo hơi thở của khách tham quan.
Lắp đặt cao trên tường, các camera an ninh lộ liễu gửi thông điệp rõ ràng đến khách tham quan: Chúng tôi nhìn thấy bạn, đừng chạm vào bất cứ vật gì.
- Có cái nào là thật không? - Langdon hỏi chỉ về phía các camera.
Fache lắc đầu - Tất nhiên là không.
Langdon không ngạc nhiên. Sự giám sát bằng video trong các bảo tàng cỡ này chi phí cao và không có tác dụng gì. Để giám sát các phòng trưng bày rộng hàng ngàn mét vuông, Louvre ắt phải cần đến hàng trăm kỹ thuật viên, chỉ đơn thuần để theo dõi liên tục các hiện vật. Hầu hết các bảo tàng lớn đều dùng biện pháp "an ninh ngăn chặn". Hãy quên đi việc giữ các tên trộm ở ngoài, hãy giữ chúng ở bên trong. Thiết bị ngăn chặn hoạt động sau giờ công sở, nếu 1 kẻ xâm nhập tháo đi 1 tác phẩm nghệ thuật, các lối ra sẽ được đóng kín quanh phòng trưng bày đó, và tên trộm sẽ thấy mình bị cầm tù ngay cả trước khi cảnh sát đến.
Nhiều giọng nói vang vọng trong hành lang cẩm thạch phía trước. Tiếng ồn dường như đến từ 1 khoang hõm rộng đằng trước mé tay phải. Một ngọn đèn toả xuống cả hành lang.
- Văn phòng của ông phụ trách bảo tàng - viên đại uý nói.
Khi họ đến gần khoang hõm hơn, Langdon dõi mắt qua đoạn hành lang ngắn nhòm vào phòng làm việc sang trọng của Saunière - gỗ ấm, những bức hoạ của các bậc thầy thời xưa, và 1 bàn giấy kiểu cổ đồ sộ, trên đó có mô hình 1 hiệp sĩ mặc giáp trụ đầy đủ cao khoảng 0.60m. Một nhóm cảnh sát bận rộn trong căn phòng, nói chuyện điện thoại và ghi chép. Một trong số họ ngồi ở bàn của Saunière, đang sử dụng máy tính xách tay.
Rõ ràng tối nay, phòng riêng của ông phụ trách bảo tàng đã trở thành sở chỉ huy tạm thời của DCPJ.
- Messieurs - Fache gọi và mọi người quay lại - Ne nous dérangez pas sous aucun prétexte. Entendu?
Mọi người trong văn phòng gật đầu hiểu ý.
Langdon đã từng treo khá nhiều biển mang dòng chữ NE PAS DÉRANGER trên các cửa phòng khách sạn đủ để hiểu nội dung mệnh lệnh của viên đại uý. Fache và Langdon sẽ không bị quấy rầy trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Để nhóm nhỏ nhân viên lại phía sau, Fache dẫn Langdon đi xa hơn nữa vào hành lang tối. Lù lù trước mặt, cách khoảng 30m là cổng vào phần nổi tiếng nhất của Louvre - hành lang lớn - 1 hành lang dường như vô tận, nơi để những kiệt tác quý nhất của Ý tại bảo tàng Lourve. Langdon đã nhận ra đây là nơi thi thể Saunière nằm, sàn gỗ nổi tiếng của hành lang lớn không thể lẫn đi đâu trong bức ảnh chụp lấy ngay.
Khi họ đến gần, Langdon nhìn thấy lối vào bị chắn bởi 1 hàng rào thép khổng lồ giống như ở các lâu đài thời trung cổ nhằm ngăn chặn kẻ thù cướp bóc.
- An ninh ngăn chặn - Fache nói, khi họ tới sát những thanh thép.
Ngay cả trong bóng tối, hàng rào chắn vẫn có vẻ như có thể chặn được cả xe tăng. Từ bên ngoài, Langdon nhìn qua song sắt vào các hộc lờ mờ sáng của hành lang lớn.
- Mời ông qua trước, ông Langdon - Fache nói.
Langdon quay lại. Qua trước, qua chỗ nào chứ?
Fache ra hiệu về phía sàn nhà, phần dưới của rào chắn. Langdon nhìn xuống. Trong bóng tối, ông không nhận thấy. Hàng rào chắn đã được nâng cao lên khoảng 60 phân, tạo ra 1 khoảng trống xệch xẹo bên dưới.
- Khu vực này ngoài tầm kiểm soát an ninh của Louvre - Fache nói. - Đội của tôi từ cục cảnh sát khoa học và kỹ thuật cảnh sát vừa hoàn thành cuộc điều tra của họ. - Ông ta chỉ vào khe hở. - Xin hãy luồn mé dưới.
Langdon nhìn vào khoảng hẹp có thể trườn qua được dưới chân mình và rồi lại nhìn hàng rào kếch xù bên trên. Ông ta đang đùa đúng không? Hàng rào chắn trông giống như 1 cái máy chém chờ đợi để nghiền nát những kẻ đột nhập.
Fache lầm bầm điều gì đó bằng tiếng Pháp và xem đồng hồ. Sau đó, ông ta quỳ xuống và lách cái thân hình đồ sộ của mình dưới hàng rào. Sang tới bên kia, ông ta đứng dậy và nhìn Langdon qua song sắt.
Langdon thở dài. Chống tay lên sàn gỗ bóng lộn, ông nằm sấp và trườn về phía trước. Trong khi lách qua, cổ áo tuýt hiệu Harris chạm vào đáy của hàng rào, và ông va gáy vào đó.
Lịch sự nhỉ, Robert, ông nghĩ, dò dẫm và rồi cuối cùng cũng kéo được người qua. Đứng dậy, Langdon bắt đầu tin chắc đây sẽ là 1 đêm rất dài.

Chương 4
Đại uý Bezu Fache quả có phong thái của 1 con bò đang cơn giận với bờ vai rộng ngửa về phía sau và cái cằm ấn chặt vào ngực. Mái tóc đen chuốt dầu bóng càng làm nổi bật đường ngôi thẳng như mũi tên chia đôi cái trán dô ra phía trước như mũi chiến hạm. Khi ông dấn bước, đôi mắt đen dường như thiêu đốt mặt đất phía trước, toả ánh rực lửa, báo trước tính cách nghiêm khắc không khoan nhượng nổi tiếng của ông trong mọi vấn đề.
Langdon theo viên đại uý xuống chiếc cầu thang cẩm thạch nổi tiếng đi vào lòng nhà hõm sâu bên dưới Kim tự tháp bằng kính. Trên đường đi xuống, họ qua giữa 2 vệ binh của cục cảnh sát tư pháp lăm lăm súng máy. Thông điệp rất rõ ràng: không ai có thể ra vào tối nay mà không có sự cho phép của đại uý Fache.
Xuống dưới sâu hơn mặt đất, Langdon phải cố dẹp 1 cơn run đang dâng lên. Sự hiện diện của Fache không có chút gì là nồng nhiệt, và vào giờ phút này, bản thân bảo tàng Lourve cũng nhuốm 1 màu tang tóc. Cầu thang, tựa lối đi trong 1 rạp chiếu bóng tối om, chỉ có đèn gắn ở mỗi bậc chiếu sáng lờ mờ. Langdon có thể nghe thấy tiếng chân của chính mình dội lại từ tấm kính trên đầu. Ngước lên, ông có thể nhìn thấy những làn sương từ những vòi phun nước tan dần phía bên ngoài mái nhà trong suốt.
- Ông thấy có được không? - Fache hỏi, hất cái cằm rộng về phía trên.
Langdon thở dài, quá mệt mỏi để chơi trò đánh đố: - Vâng, Kim tự tháp của các ông thật lộng lẫy.
Fache lầm bầm: - 1 cái sẹo trên bộ mặt Paris.
Lạ đấy, Langdon có cảm nhận vị chủ nhân này là người khó có thể làm vừa lòng. Ông tự hỏi liệu Fache có biết rằng kim tự tháp này, theo yêu cầu rõ ràng của tổng thống Mitterrand, đã được xây dựng bằng đúng 666 tấm kính - 1 yêu cầu kỳ quái luôn là chủ đề tranh luận nóng bỏng trong các chuyên gia, họ cho rằng con số 666 là số của quỷ Satan.
Langdon quyết định không nói điều ấy ra.
Khi họ đi xa hơn vào phòng chờ dưới đất, khoảng không rộng mở từ từ hiện ra từ trong bóng tối. Nằm dưới mặt đất 19m, đại sảnh rộng khoảng 7600m vuông mới xây dựng của bảo tàng Lourve trải ra như 1 cái hang bất tận. Được xây bằng đá cẩm thạch màu vàng nâu ấm áp để tương hợp với màu đá mật ong của mặt tiền bên trên, đại sảnh dưới mặt đất thường rung lên bởi ánh sáng mặt trời và khách du lịch. Tuy nhiên, tối nay, sảnh trống rỗng và tối tăm, khiến cho toàn bộ đắm trong 1 không khí lạnh lẽo tựa như hầm mộ.
- Còn đội bảo vệ thường trực của bảo tàng thì sao? - Langdon hỏi.
- En quarantaine - Fache đáp, cứ như thể Langdon đang nghi ngờ tính chính trực của đội ông ta. - Hiển nhiên là đã có kẻ đột nhập. Tất cả những người canh đêm ở Louvre bên cánh Sully đều đang bị thẩm vấn. Việc đảm bảo an ninh buổi tối nay cho bảo tàng được chuyển giao cho các nhân viên của tôi.
Langdon gật đầu, đi nhanh để theo kịp Fache.
- Ông biết Jacques Saunière đến mức nào? - Viên đại uý hỏi.
- Thực ra là chẳng mấy tí. Chúng tôi chưa từng gặp nhau.
Fache có vẻ ngạc nhiên: - Tối nay mới là buổi hẹn gặp đầu tiên ư?
- Vâng. Chúng tôi dự định gặp nhau tại buổi chiêu đãi của trường đại học Mỹ sau bài giảng của tôi nhưng không thấy ông ấy tới.
Fache ghi nguyệch ngoạc vài dòng vào 1 cuốn sổ nhỏ. Khi họ đi tiếp, Langdon thoáng thấy khối kim tự tháp ít nổi tiếng hơn của bảo tàng Lourve - kim tự tháp đảo ngược -1 cửa mái khổng lồ lộn ngược rủ xuống từ trên trần tựa 1 thạch nhũ ở khu vực kế đó. Fache dẫn Langdon đi lên 1 vài bậc thang đến cửa 1 hành lang có khung vòm, phía trên có biển đề dòng chữ: DENON. Cánh Denon là phần nổi tiếng nhất trong 3 phần chính của Louvre.
- Ai là người yêu cầu có cuộc gặp mặt tối nay?- Fache đột ngột hỏi. - Ông hay ông ấy?
Câu hỏi có vẻ kì lạ. - Ông Saunière, - Langdon đáp khi họ vào đường hầm. - Thư kí của ông ấy đã liên lạc với tôi vào tuần trước bằng thư điện tử. Cô ấy nói rằng ông phụ trách bảo tàng biết tôi sẽ thuyết giảng ở Paris tháng này và muốn bàn chuyện gì đó với tôi trong khi tôi ở đây.
- Bàn chuyện gì?
- Tôi không biết. Chắc là về nghệ thuật. Chúng tôi có cùng mối quan tâm.
Fache có vẻ không tin: - Ông không hề biết cuộc gặp của các ông nhắm việc gì?
Langdon không biết. Lúc đầu ông cũng tò mò nhưng thấy không tiện hỏi cụ thể. Tôn ông Jacques Saunière nổi tiếng là thích sự riêng tư và rất ít khi cho ai gặp, chỉ riêng việc có cơ hội gặp ông cũng đủ khiến Langdon phải cảm ơn rồi. - Ông Langdon, chí ít ông có thể đoán xem nạn nhân bị giết của chúng ta có thể muốn bàn luận gì với ông vào cái đêm ông ấy bị giết chứ? Điều đó có thể sẽ rất có ích.
Sự thẳng thừng của câu hỏi đó làm cho Langdon cảm thấy không thoải mái.
- Tôi thực sự không thể đoán được. Tôi đã không hỏi. Tôi cảm thấy vinh dự được tiếp xúc với ông ấy. Tôi là người ngưỡng mộ công trình của ông Saunière. Tôi thường dùng các bài viết của ông ấy trên lớp.
Fache ghi điều đó vào sổ.
Hai người đã đi được nữa đường hầm dẫn vào cánh Denon và Langdon có thể nhìn thấy những cầu thang cuốn kép đôi ở phía xa, cả 2 bên lên, xuống đều đứng im.
- Vậy là ông có cùng những mối quan tâm với ông ấy? - Fache hỏi.
- Vâng, trên thực tế, năm ngoái tôi đã giành nhiều thời gian soạn thảo 1 cuốn sách bàn về lĩnh vực giám định chủ yếu của ông Saunière. Tôi mong sao lượm lặt được chút tri thức của ông ấy.
Fache ngước mắt: - Gì cơ?
Rõ ràng ông ta không hiểu câu thành ngữ.
- Tôi mong sao học hỏi những suy nghĩ của ông ấy về đề tài này.
- Tôi hiểu. Và đề tài đó là gì?
Langdon do dự, không biết diễn tả như thế nào cho chính xác. - Về cơ bản, bản thảo viết về khoa nghiên cứu các hình tượng thờ nữ thần - khái niệm về tính thánh nữ và nghệ thuật cùng những biểu tượng gắn kết với nó.
Fache giơ bàn tay mập ú vuốt tóc. - Và Saunière rành về đề tài này?
- Không ai hơn ông ấy.
- Tôi hiểu.
Langdon cảm thấy Fache chẳng hiểu gì hết. Jacques Saunière được xem là nhà mô tả các hình tượng về nữ thần hàng đầu trên thế giới. Saunière không chỉ có niềm đam mê cá nhân đối với những thánh tích có liên quan đến sự phồn thực, các nghi lễ cúng tế nữ thần, Wicca và tính nữ thiêng liêng, mà trong suốt 20 năm phụ trách bảo tàng, Saunière đã giúp Louvre tập hợp được bộ sưu tập nghệ thuật nữ thần lớn nhất thế giới - những cái rìu của các nữ tu ở những điện thờ cổ xưa nhất của Hy Lạp ở Delphi, những cây quyền trượng bằng vàng, hàng trăm thập giá hình khoá giống như những thiên thần nhỏ của vùng Tjet, những chiếc trống lắc được sử dụng ở Ai Cập cổ đại để xua đuổi tà ma, và 1 bộ tượng kỳ thú miêu tả cảnh Horus được nữ thần Isis cho bú.
- Có lẽ Jacques Saunière nghe nói về bản thảo của ông? - Fache gợi ý. - Và ông ấy sắp đặt cuộc gặp gỡ để đề nghị giúp đỡ ông cho cuốn sách của ông.
Langdon lắc đầu: - Thực sự, chưa ai biết về bản thảo này. Nó vẫn ở dạng nháp, và tôi không đưa nó cho bất kỳ ai trừ người biên tập của tôi.
Fache im lặng.
Langdon không nói thêm lý do khiến ông chưa cho ai xem tập bản thảo. Bản nháp dày 300 trang - tạm đặt tên là Những biểu tượng của tính nữ thiêng liêng bị thất truyền - đưa ra 1 số diễn giải rất khác thường về hệ hình tượng tôn giáo đã chế định, những diễn giải chắc chắn sẽ gây tranh cãi.
Khi Langdon đi gần đến chiếc cầu thang cuốn vẫn đứng im, ông dừng lại, nhận thấy Fache không còn ở bên cạnh mình.
Quay lại, Langdon nhìn thấy Fache đang đứng cách đó vài mét về phía sau ở chỗ thang máy dành cho người phục vụ.
- Ta sẽ đi thang máy - Fache nói khi cửa thang máy mở ra. - Tôi chắc ông biết hành lang lớn khá xa nếu đi bộ.
Tuy Langdon biết đi thang máy lên 2 tầng dài để đến cánh Denon sẽ nhanh hơn, ông vẫn đứng im.
- Có chuyện gì không ổn? - Fache giữ cửa, có vẻ sốt ruột.
Langdon thở hắt ra, quay lại nhìn đầy thèm muốn về phía cầu thang cuốn ngoài trời. Chẳng có chuyện gì không ổn cả, ông tự dối mình, lụi hụi trở lại thang máy. Hồi bé, Langdon đã ngã xuống 1 cái giếng bỏ đi và suýt chết vì ngâm nước trong cái khoảng hẹp đó nhiều giờ trước khi có người đến cứu. Kể từ đó, ông bị ám ảnh bởi chứng sợ những khoảng khép kín - thang máy, đường điện ngầm, sân chơi bóng quần. Thang máy là 1 cái máy tuyệt đối an toàn, Langdon tự nhủ nhưng không bao giờ tin điều đó cả. Nó là 1 hộp kim loại nhỏ xíu treo bên trong 1 cái ống thông khép kín. Nín thở, ông bước vào buồng thang, cảm thấy cái giật thon thót quen thuộc mỗi khi cửa thang máy khép lại.
Hai tầng. 10 giây.
- Ông và ông Saunière - Fache nói khi thang máy bắt đầu chuyển - các ông chưa hề nói gì với nhau? Chưa hề thư từ? Chưa hề gửi cho nhau bất cứ thứ gì qua bưu điện?
Lại 1 câu hỏi kỳ lạ. Langdon lắc đầu. - Không. Chưa bao giờ.
Fache nghếch đầu, như thể ghi thẳng vào đầu sự việc đó. Không nói gì, ông ta nhìn trân trân vào cánh cửa bằng crôm.
Khi họ lên cao, Langdon cố tập trung vào những cái khác hơn là 4 bức vách xung quanh. Qua sự phản chiếu của cánh cửa thang máy sáng bóng, ông thấy cái kẹp cavát của viên đại uý 1 cây thánh giá bằng bạc có gắn 13 viên mã não có vân đen. Langdon thấy hơi là lạ. Biểu tượng này gọi là crux gemmata - 1 cây thánh giá gắn 13 viên ngọc - 1 biểu tượng Thiên chúa giáo ám chỉ Chúa và 12 vị thánh tông đồ của Ngài. Không hiểu sao, Langdon không ngờ người chỉ huy của Cảnh sát Pháp lại phô bày tôn giáo của ông ta quá lộ liễu như vậy. Hơn nữa, đây là Pháp, ở đây Thiên chúa giáo không phải là 1 tôn giáo được xem như quyền tự nhiên.
- Đó là 1 crux gemmata - Fache đột nhiên nói.
Giật mình, Langdon ngước lên thấy Fache dán mắt vào mình trong ánh phản chiếu.
Thang máy dừng sững, cửa mở ra.
Langdon bước vội ra, đi nhanh vào hành lang, thèm khát khoảng không rộng thoáng tạo nên bởi những trần cao nổi tiếng của những phòng tranh trong Louvre. Tuy nhiên, thế giới ông bước vào chẳng có gì giống với những gì ông mong đợi.
Ngạc nhiên, Langdon dừng sững lại.
Fache liếc sang: - Tôi rút ra kết luận là ông chưa bao giờ thấy Louvre sau giờ công sở, ông Langdon?
Tôi đoán là thế. Langdon nghĩ, cố định thần lại.
Vốn được chiếu sáng hoàn hảo nhưng tối nay, các phòng trưng bày của Louvre đột nhiên tối om. Thay cho ánh sáng trắng toả tuôn xuống từ bên trên, là 1 vầng đỏ lừ dường như toả ra từ ván chân tường - những vệt sáng đỏ lập loè đổ tràn trên sàn lát đá.
Khi nhìn dọc theo hành lang tối tăm, Langdon nhân ra đáng lẽ ông nên hình dung trước cảnh tượng này. Hầu như tất cả các phòng trưng bày đều để đèn đỏ vào buổi tối - những ngọn đèn được đặt ở tầm thấp theo chủ định, không toả sáng rộng đủ để cho các nhân viên đi lại trong các hành lang mà vẫn giữ cho các bức hoạ trong bóng tối tương đối để hãm chậm tác động phai màu do phơi sáng quá nhiều. Tối nay, bảo tàng có vẻ gần như ngột ngạt. Bóng tối lan dài xâm lấn mọi nơi, và những trần vòm thường khi cao vút bỗng có vẻ như những khoảng trống thấp tối đen.
- Đường này - Fache nói, rẽ phắt sang phải và đi qua 1 dãy dài các phòng trưng bày nối liền với nhau.
Langdon đi theo, mắt ông cũng dần quen với bóng tối. Xunh quanh, những bức tranh sơn dầu khổ to bắt đầu hiện ra trước mắt ông như tiến trình rửa ảnh trong 1 buồng tối khổng lồ. Mắt các nhân vật trong tranh dõi theo ông khi ông đi qua các phòng. Ông có thể ngửi thấy mùi vị quen thuộc của không khí bảo tàng - mùi tinh dầu giải iôn hăng hắc thoang thoảng chút carbon - sản phẩm của máy hút ẩm công nghiệp, với bộ lọc chạy bằng than, các máy này chạy suốt ngày để trung hoà khí CO2 gây ăn mòn, toả ra theo hơi thở của khách tham quan.
Lắp đặt cao trên tường, các camera an ninh lộ liễu gửi thông điệp rõ ràng đến khách tham quan: Chúng tôi nhìn thấy bạn, đừng chạm vào bất cứ vật gì.
- Có cái nào là thật không? - Langdon hỏi chỉ về phía các camera.
Fache lắc đầu - Tất nhiên là không.
Langdon không ngạc nhiên. Sự giám sát bằng video trong các bảo tàng cỡ này chi phí cao và không có tác dụng gì. Để giám sát các phòng trưng bày rộng hàng ngàn mét vuông, Louvre ắt phải cần đến hàng trăm kỹ thuật viên, chỉ đơn thuần để theo dõi liên tục các hiện vật. Hầu hết các bảo tàng lớn đều dùng biện pháp "an ninh ngăn chặn". Hãy quên đi việc giữ các tên trộm ở ngoài, hãy giữ chúng ở bên trong. Thiết bị ngăn chặn hoạt động sau giờ công sở, nếu 1 kẻ xâm nhập tháo đi 1 tác phẩm nghệ thuật, các lối ra sẽ được đóng kín quanh phòng trưng bày đó, và tên trộm sẽ thấy mình bị cầm tù ngay cả trước khi cảnh sát đến.
Nhiều giọng nói vang vọng trong hành lang cẩm thạch phía trước. Tiếng ồn dường như đến từ 1 khoang hõm rộng đằng trước mé tay phải. Một ngọn đèn toả xuống cả hành lang.
- Văn phòng của ông phụ trách bảo tàng - viên đại uý nói.
Khi họ đến gần khoang hõm hơn, Langdon dõi mắt qua đoạn hành lang ngắn nhòm vào phòng làm việc sang trọng của Saunière - gỗ ấm, những bức hoạ của các bậc thầy thời xưa, và 1 bàn giấy kiểu cổ đồ sộ, trên đó có mô hình 1 hiệp sĩ mặc giáp trụ đầy đủ cao khoảng 0.60m. Một nhóm cảnh sát bận rộn trong căn phòng, nói chuyện điện thoại và ghi chép. Một trong số họ ngồi ở bàn của Saunière, đang sử dụng máy tính xách tay.
Rõ ràng tối nay, phòng riêng của ông phụ trách bảo tàng đã trở thành sở chỉ huy tạm thời của DCPJ.
- Messieurs - Fache gọi và mọi người quay lại - Ne nous dérangez pas sous aucun prétexte. Entendu?
Mọi người trong văn phòng gật đầu hiểu ý.
Langdon đã từng treo khá nhiều biển mang dòng chữ NE PAS DÉRANGER trên các cửa phòng khách sạn đủ để hiểu nội dung mệnh lệnh của viên đại uý. Fache và Langdon sẽ không bị quấy rầy trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Để nhóm nhỏ nhân viên lại phía sau, Fache dẫn Langdon đi xa hơn nữa vào hành lang tối. Lù lù trước mặt, cách khoảng 30m là cổng vào phần nổi tiếng nhất của Louvre - hành lang lớn - 1 hành lang dường như vô tận, nơi để những kiệt tác quý nhất của Ý tại bảo tàng Lourve. Langdon đã nhận ra đây là nơi thi thể Saunière nằm, sàn gỗ nổi tiếng của hành lang lớn không thể lẫn đi đâu trong bức ảnh chụp lấy ngay.
Khi họ đến gần, Langdon nhìn thấy lối vào bị chắn bởi 1 hàng rào thép khổng lồ giống như ở các lâu đài thời trung cổ nhằm ngăn chặn kẻ thù cướp bóc.
- An ninh ngăn chặn - Fache nói, khi họ tới sát những thanh thép.
Ngay cả trong bóng tối, hàng rào chắn vẫn có vẻ như có thể chặn được cả xe tăng. Từ bên ngoài, Langdon nhìn qua song sắt vào các hộc lờ mờ sáng của hành lang lớn.
- Mời ông qua trước, ông Langdon - Fache nói.
Langdon quay lại. Qua trước, qua chỗ nào chứ?
Fache ra hiệu về phía sàn nhà, phần dưới của rào chắn. Langdon nhìn xuống. Trong bóng tối, ông không nhận thấy. Hàng rào chắn đã được nâng cao lên khoảng 60 phân, tạo ra 1 khoảng trống xệch xẹo bên dưới.
- Khu vực này ngoài tầm kiểm soát an ninh của Louvre - Fache nói. - Đội của tôi từ cục cảnh sát khoa học và kỹ thuật cảnh sát vừa hoàn thành cuộc điều tra của họ. - Ông ta chỉ vào khe hở. - Xin hãy luồn mé dưới.
Langdon nhìn vào khoảng hẹp có thể trườn qua được dưới chân mình và rồi lại nhìn hàng rào kếch xù bên trên. Ông ta đang đùa đúng không? Hàng rào chắn trông giống như 1 cái máy chém chờ đợi để nghiền nát những kẻ đột nhập.
Fache lầm bầm điều gì đó bằng tiếng Pháp và xem đồng hồ. Sau đó, ông ta quỳ xuống và lách cái thân hình đồ sộ của mình dưới hàng rào. Sang tới bên kia, ông ta đứng dậy và nhình Langdon qua song sắt.
Langdon thở dài. Chống tay lên sàn gỗ bóng lộn, ông nằm sấp và trườn về phía trước. Trong khi lách qua, cổ áo tuýt hiệu Harris chạm vào đáy của hàng rào, và ông va gáy vào đó.
Lịch sự nhỉ, Robert, ông nghĩ, dò dẫm và rồi cuối cùng cũng kéo được người qua. Đứng dậy, Langdon bắt đầu tin chắc đây sẽ là 1 đêm rất dài.

the_warm_winter
22-06-2008, 06:38 PM
Chương 5
Quảng trường Murray Hill - Tổng hành dinh quốc gia mới của Opus Dei, trung tâm hội nghị - toạ lạc ở 243 Đại lộ Lexington, New York. Với giá hơn 47 triệu đô la, nó là 1 toà tháp rộng gần 15.000m vuông được ốp gạch đỏ và đá vôi vùng Indiana. Do May & Pinska thiết kế, toà nhà bao gồm trên 100 phòng ngủ, 6 phòng ăn, thư viện, phòng ở, phòng họp và văn phòng. Tầng 2, tầng 8 và tầng 16 là các nhà nguyện được trang trí đồ gỗ và đá cẩm thạch.
Tầng 17 hoàn toàn là nhà ở. Đàn ông vào toà nhà qua cổng chính ở phía đại lộ Lexington. Phụ nữ vào qua phố bên cạnh và "cách biệt hẳn, không nghe thấy và không nhìn thấy" đám đàn ông vào bất kì lúc nào trong toàn nhà.
Từ chiều nay, giám mục Manuel Aringarosa đã đóng 1 túi đồ du lịch nhỏ và mặc chiếc áo thày tu truyền thống màu đen. Bình thường, ông quấn dây lưng mày tía quanh hông, nhưng tối nay ông sẽ ra nơi công cộng, và ông không muốn gây ra sự chú ý tới chức vụ cao của mình. Chỉ những người với con mắt tinh tường mới có thể để ý đến chiếc nhẫn Giám mục bằng vàng 14 kara với viên thạch anh tím cùng những viên kim cương to, và miếng vải đính mũ tế. Quàng túi du lịch qua vai, ông thầm đọc 1 câu kinh và rời phòng đi xuống sảnh trước - nơi người lái xe đang chờ để đưa ông ra sân bay.
Giờ đây ngồi trên 1 máy bay thương mại đi Roma, Aringarosa biết sao chiếu mệnh của mình đang lên. Tối nay trận chiến sẽ thắng lợi, ông nghĩ, kinh ngạc vì chỉ vào tháng trước, ông vẫn còn cảm thấy chẳng có quyền uy gì chống lại những bàn tay đe doạ phá huỷ đế chế của ông.
Là chủ tịch Opus Dei, Giám mục Aringarosa đã dành 10 năm qua của cuộc đời để truyền bá thông điệp "Tác phẩm của Chúa", nghĩa đen của từ Opus Dei. Giáo đoàn này được thầy tu người Tây Ban Nha Jose Maria Escrivá thành lập năm 1928, nhằm thúc đẩy sự quay về với các giá trị Thiên chúa giáo bảo thủ và khuyến khích các thành viên thực hành các nghi lễ gột rửa hàng ngày để làm Tác phẩm của Chúa.
Triết lý truyền thống của Opus Dei đã bắt rễ ở Tây ban Nha trước chế độ Franco, nhưng với sự xuất bản vào năm 1934 cuốn sách Tinh thần Đạo của Jose Maria Escrivá - 999 điểm về việc thực hiện nhiệm vụ của Chúa trong đời sống cá nhân - thông điệp của Escrivá bùng nổ trên toàn thế giới. Giờ đây, với hơn 4 triệu bản của cuốn Đạo - phát hành bằng 42 ngôn ngữ, Opus Dei đã trở thành lực lượng toàn cầu. Người ta có thể tìm thấy những khu nhà ở, các trung tâm giáo huấn, và thậm chí cả các trường đại học của Opus Dei ở hầu hết các thành phố lớn khắp thế giới, Opus Dei là tổ chức Thiên chúa giáo phát triển nhanh nhất và vững vàng nhất về mặt tài chính trên thế giới. Thật không may, Aringarosa được biết, trong 1 thời đại nghi ngờ tôn giáo, các giáo phái, quyền lực và của cải mỗi lúc 1 leo thang của Opus Dei thành 1 cục nam châm thu hút sự ngờ vực. "Nhiều người gọi Opus Dei là 1 kiểu thờ cúng tẩy não".
Các phóng viên thường chất vấn. "Một số khác lại gọi các ông là tổ chức Cơ đốc giáo bí mật bảo thủ cực đoan. Vậy các ông là gì?"
- Opus Dei không phải cả 2 thứ đó - giám mục kiên nhẫn trả lời. - Chúng tôi là 1 Giáo hội Thiên chúa giáo. Chúng tôi là 1 giáo đoàn của những người Thiên chúa giáo lấy việc tuân theo học thuyết Thiên chúa giáo 1 cách nghiêm ngặt hết mức có thể trong đời sống hàng ngày làm ưu tiên.
- Liệu Tác phẩm của Chúa có nhất thiết bao gồm những nguyện thề giữ gìn sự trong trắng, thu hoa lợi cho nhà thờ, và chuộc tội lỗi bằng tự hành xác?
- Các bạn chỉ mới miêu tả 1 phần nhỏ dân số của Opus Dei - Aringarosa nói. - Có rất nhiều mức độ tham gia. Hàng nghìn thành viên của Opus Dei đã kết hôn, có gia đình và thực hiện các công việc của Chúa trong cộng đồng của chính họ. Những người khác chọn cuộc sống tu khổ hạnh trong các tu viện của chúng tôi. Những lựa chọn này hoàn toàn là cá nhân, nhưng mọi người trong Opus Dei đều chia sẻ mục đích làm cho thế giới tốt đẹp hơn bằng việc thực hiện Tác phẩm của Chúa. Chắc chắn đây là 1 sự tìm kiếm đáng ngưỡng mộ.
Tuy nhiên, lẽ phải hiếm khi phát huy tác dụng, các phương tiện truyền thông luôn xoay quanh các vụ tai tiếng, và Opus Dei, cũng như hầu hết các tổ chức lớn, luôn có 1 vài linh hồn lầm lạc trong số các thành viên của mình, làm ô danh cả nhóm.
Hai tháng trước, 1 nhóm Opus Dei ở 1 trường đại học miền Trung tây nước Mỹ bị bắt quả tang cho những hội viên mới dùng mescaline gây ảo giác nhằm tạo trạng thái khinh khoái mà các tân tín đồ sẽ cảm nhận như là 1 trải nghiệm tôn giáo. Một sinh viên đại học khác dùng chiếc dây lưng hành xác có ngạnh quá mức yêu cầu 2 tiếng mỗi ngày và bị nhiễm trùng gần chết. Ở Boston không lâu trước đây, 1 chủ ngân hàng đầu tư trẻ được giác ngộ đã hiến tất cả tiền tiết kiệm cả đời mình cho Opus Dei trước khi tự tử.
Những con chiên lạc lối, Aringarosa nghĩ, trái tim hướng về họ.
Tất nhiên, mất mặt nhất là phiên toà xử tên gián điệp của FBI Robert Hanssen, 1 vụ được công bố rộng rãi. Ngoài việc là 1 thành viên nổi bật của Opus Dei, tên này hoá ra còn là 1 kẻ bệnh hoạn tình dục. Vụ xét xử hắn đã tiết lộ những chứng cứ cho thấy hắn đã lắp camera quay trộm trong phòng ngủ để các bạn hắn có thể xem cảnh hắn làm tình với vợ. "Thật khó có thể là trò tiêu khiển của 1 người Thiên chúa giáo mộ đạo", quan toà nhấn mạnh.
Đáng buồn là tất cả những sự kiện này góp phần sinh ra 1 nhóm quan sát mới gọi là Mạng nhận thức Opus Dei (ODAN)
Trang web nổi tiếng của nhóm - www.odan.org kể lại những câu chuyện ghê sợ từ miệng những cựu thành viên Opus Dei.
Những người này cảnh báo mối nguy hiểm của việc gia nhập giáo phái. Các phương tiện truyền thông giờ đây gọi Opus Dei là "Mafia của Chúa" và "Sùng bái Kirixitô".
Chúng ta sợ những gì chúng ta không hiểu. Aringarosa nghĩ, tự hỏi liệu những người trỉ trích này có biết có bao nhiêu cuộc đời đã được Opus Dei làm tốt đẹp thêm lên. Giáo đoàn đã được Vatican xác nhận đầy đủ và ban phước. Opus Dei là đoàn giáo sĩ cao cấp của riêng Giáo hoàng.
Tuy nhiên, gần đây, Opus Dei thấy mình đang bị đe doạ bởi 1 thế lực có sức mạnh gấp bội các phương tiện truyền thông ... 1 kẻ thù bất ngờ mà Aringarosa không thể trốn chạy.
Năm tháng trước, sự biến ảo của quyền lực đã bị lung lay, và Aringarosa vẫn còn đang còn đang lảo đảo vì cú đòn.
"Chúng không biết cuộc chiến mà chúng châm ngòi", Aringarosa thì thầm với chính mình, nhìn qua cửa sổ máy bay xuống đại dương tối sẫm bên dưới. Trong giây lát, ông quay lại nhìn hình ảnh phản chiếu gương mặt không cân đối của mình - đen, dài, nổi bật lên là cái mũi khoằm, tẹt dí do đã từng bị đấm gẫy ở Tây Ban Nha khi ông còn là 1 nhà truyền giáo trẻ tuổi. Cái khuyết tật thể chất ấy giờ chả mấy ai để ý. Thế giới của Aringarosa là thế giới của linh hồn, đâu phải của thể xác.
Chiếc phi cơ đi qua bờ biển Bồ Đào Nha, điện thoại trong tấm áo thầy tu của Aringarosa rung lên theo chế độ tắt chuông.
Mặc dù luật hàng không cấm sử dụng điện thoại trong các chuyến bay, nhưng Aringarosa biết đây là cuộc gọi mà ông không thể để lỡ. Chỉ có 1 người biết số này, người đã gửi chiếc điện thoại này qua đường bưu điện cho Aringarosa.
Hồi hộp, giám mục trả lời nhỏ nhẹ: "Vâng?"
- Silas đã biết chỗ của viên đá đỉnh vòm - người gọi nói - nó ở Paris. Trong nhà thờ Saint Sulpice.
Giám mục Aringarosa mỉm cười - Thế thì chúng ta đang ở gần nó.
- Chúng tôi có thể đoạt nó ngay lập tực nhưng chúng tôi cần ảnh hưởng của cha.
- Tất nhiên rồi. Hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì?
Khi Aringarosa tắt máy, tim ông đập thình thịch. Một lần nữa, ông lại nhìn xuống khoảng không đêm tối, cảm thấy mình bé nhỏ hẳn bên cạnh những sự kiện do chính ông đã phát động.
Cách đó 500 dặm, gã bạch tạng tên Silas cúi mình trên 1 bồn nước nhỏ và thấm máu trên lưng, nhìn những vệt đỏ loang tròn trong nước. Gột rửa mình với cây bài hương và ta sẽ sạch sẽ, hắn cầu nguyện, trích dẫn Thánh ca. Hãy gột rửa, và ta sẽ trắng hơn tuyết.
Silas cảm thấy 1 linh tính được thách thức - điều mà hắn chưa từng cảm thấy trong cuộc đời trước đây. Nó vừa gây kinh ngạc và kích thích hắn. Trong thập kỉ vừa rồi, hắn đã đi theo Đạo, gột sạch bản thân khỏi tội lỗi ... xây dựng lại cuộc đời ... xoá sạch bạo lực trong quá khứ. Nhưng tối nay, tất cả đã ào trở lại.
Lòng căm thù mà hắn khó khăn vật lộn để chôn vùi đã được khơi dậy. Hắn bàng hoàng thấy quá khứ lại nổi lên nhanh biết bao. Và cùng với nó, tất nhiên, là kỹ năng của hắn. Đã cùn mòn nhưng còn được việc chán.
Thông điệp của Chúa Jesu là 1 thông điệp về hoà bình ... về phi bạo lực ... về tình yêu. Đây là thông điệp mà Silas được dạy ngay từ đầu và là thông điệp hắn luôn giữ trong trái tim. Nhưng đây cũng là những thông điệp mà kẻ thù của Chúa Jesu đang đe doạ huỷ hoại. Những kẻ đe doạ Chúa bằng vũ lực sẽ được đáp trả bằng vũ lực. Bất di bất dịch và kiên định.
Trong 2 thiên niên kỷ, những người lính của Chúa đã bảo vệ đức tin của họ chống lại những kẻ định gạt bỏ nó. Tối nay, Silas đã được gọi tham gia trận chiến.
Lau khô các vết thương, hắn mặc chiếc áo choàng dài đến mắt cá chân, có mũ trùm đầu. Nó xấu xí, bằng len tối màu, làm nổi bật nước da và mái tóc trắng. Thắt chặt dây áo choàng quanh hông, hắn kéo mũ trùm lên đầu và ngắm nhìn mình trong gương bằng đôi mắt đỏ lừ. Các bánh xe đang chuyển động.

the_warm_winter
22-06-2008, 06:48 PM
Chương 6
Langdon giờ đây đứng bên trong lối vào hành lang lớn. Ông nhìn dõi vào miệng 1 hành lang dài, sâu như hẽm núi. Hai bên hành lang, những bức tường vút lên với độ cao 10m, như tan biến vào bóng tối bên trên, toả 1 ánh sáng mờ không tự nhiên lên bộ sưu tập kỳ vĩ gồm những tác phẩm của Da Vinci, Titian, và Caravaggio treo lơ lửng từ những dây cáp trên trần. Tĩnh vật, các cảnh tôn giáo và phong cảnh đẹp cùng với chân dung của các quý tộc và chính trị gia.
Mặc dù Hành lang lớn cất giữ nghệ thuật Ý nổi tiếng nhất của Louvre, nhiều khách du lịch lại cảm thấy món quà gây ấn tượng nhất của cánh này, trên thực tế, lại là cái sàn gỗ nổi tiếng của nó. Được sắp đặt theo 1 thiết kế ngoạn mục mang tính kỉ hà với những lát gỗ sồi xếp chéo góc, mặt sàn tạo ra 1 ảo giác thoáng qua - 1 mạng lưới đa chiều mang lại cho du khách cảm giác là họ đang trôi trong phòng trưng bày trên 1 bề mặt thay đổi theo mỗi bước đi.
Khi cái nhìn của Langdon bắt đầu dõi theo đường ván lát, mắt ông bỗng dừng phắt trên 1 vật bất ngờ nằm trên sàn chỉ cách ông vài mét về bên trái, khoảnh giữa dải băng đánh dấu của cảnh sát. Ông quay về phía Fache
- Có phải ... 1 bức Caravaggio ở trên sàn không?
Fache gật đầu mà không cần nhìn.
Bức tranh, Langdon đoán, đáng giá tới 2 triệu đô la, mà nằm chỏng chơ trên sàn như 1 tấm quảng cáo vất đi.
- Thế quái nào mà nó lại nằm trên sàn như vậy?
Fache nhìn trừng trừng, rõ ràng không hề xúc động.
- Đây là hiện trường vụ án, ông Langdon ạ. Chúng ta không được đụng vào bất kỳ thứ gì. Bức tranh đó đã bị ông phụ trách bảo tàng kéo xuống. Đó là cách ông ấy khởi động hệ thống an ninh.
Langdon nhìn vào cánh cổng, cố gắng mường tượng những gì đã xảy ra.
- Ông phụ trách bảo tàng bị tấn công trong phòng làm việc, trốn chạy vào hành lang lớn, và khởi động cửa bảo vệ bằng cách kéo bức vẽ đó từ trên tường xuống. Cổng bảo vệ sập ngay lập tức chặn mọi lối vào. Đây là cánh cửa duy nhất để ra vào hành lang lớn.
Langdon cảm thấy không rõ:
- Vậy là ông ta đã thực sự bắt được kẻ tấn công mình trong hành lang lớn sao?
Fache lắc đầu:
- Cổng bảo vệ đã ngăn cách Saunière với kẻ tấn công ông. Tên sát thủ bị chặn lại ở hành lang ngoài và bắn Saunière qua cánh cổng này.
Fache chỉ về phía miếng kim loại màu cam lủng lẳng ở 1 song sắt của cánh cổng mà họ vừa chui qua bên dười..
- Đội cảnh sát khoa học kỹ thuật đã tìm thấy vết khói đạn phụt lại của khẩu súng. Hắn đã bắn qua chấn song. Saunière đã chết 1 mình trong này.
Langdon nhớ lại bức ảnh chụp thi thể sau. Họ nói ông ấy đã làm điều đó với chính mình. Langdon nhìn hành lang mênh mông phía trước.
- Vậy xác ông ấy ở đâu?
Fache chỉnh thẳng cái kẹp cà vạt hình thánh giá và bắt đầu đi.
- Chắc ông đã biết, hành lang lớn này khá dài.
Độ dài chính xác, nếu Langdon nhớ đúng, thì là khoảng 500m, bằng 5 đài tưởng niệm Washington nối liền nhau. Chiều rộng của hành lang cũng hoành tráng như thế, có thể dễ dàng chứa 2 đoàn tàu chở khách xếp hàng ngang cạnh nhau. Điểm cuối dọc trục trung tâm hành lang là những pho tượng hoặc những thạp sứ lớn, tạo thành 1 đường ngăn trang nhã, giữ cho dòng khách tham quan theo chiều đi lên ở 1 bên và theo chiều đi xuống ở bên kia.
Fache im lặng, thoăn thoắt sải bước theo mé bên phải của hành lang, mắt nhìn trân trân về phía trước. Langdon cảm thấy gần như bất kính khi đi qua bao kiệt tác như vậy mà không dừng lại dù chỉ để liếc nhìn.
Không phải bởi mình chẳng nhìn thấy gì trong ánh sáng này, ông nghĩ.
Tệ thay, cái ánh sáng đỏ lịm này lại làm Langdon nhớ đến trải nghiệm lần trước của mình trong ánh sáng mờ ảo của Viện Tư liệu mật Vatican. Đây là lần thứ 2 trong buổi tối hôm nay ông liên tưởng đến lần suýt chết ở Roma. Ông lại chợt nhớ đến Vittoria. Cô đã vắng mặt trong những giấc mơ của ông nhiều tháng nay. Langdon không thể tin rằng chuyện ở Roma mới chỉ cách đây 1 năm, mà đã như hàng thế kỉ rồi. Một cuộc đời khác.
Lần cuối cùng ông nhận được thư Vittoria là vào tháng 12 - 1 bưu ảnh nói rằng cô đang trên đường đến biển Java để tiếp tục nghiên cứu về vật lý của cá đuối - 1 đề tài về việc sử dụng vệ tinh để theo dấu sự di trú của cá đuối. Langdon chẳng bao giờ nuôi ảo tưởng rằng 1 phụ nữ như Vittoria Vetra lại có thể sống hạnh phúc với ông trong 1 học xá đại học, nhưng cuộc gặp gỡ bất ngờ ở Roma mở ra nơi ông 1 khát khao mà ông không bao giờ tưởng tượng là mình có thể cảm thấy. Ham muốn sống độc thân suốt đời của ông cùng những tự do giản đơn mà nó đem lại, chợt lung lay... thay thế bởi 1 cảm giác trống rỗng bất ngờ dường như cứ lớn dần suốt trong năm qua.
Họ tiếp tục bước đi, nhưng Langdon vãn không nhìn thấy cái xác nào hết. Jacques Saunière đi được xa thế sao?
- Ông Saunière bị 1 viên đạn găm vào bụng. Ông ấy chết từ từ. Có thể là trong vòng 15-20 phút. Ông ấy rõ ràng là người có sức chịu đựng tốt.
Langdon quay lại, thất kinh:
- Nhân viên bảo vệ mất 15 phút mới đến được đây sao?
- Tất nhiên là không. Bảo vệ bảo tàng Lourve phản ứng ngay lập tức với tiếng chuông báo động và phát hiện ra hành lang lớn đã đóng. Qua cánh cổng, họ có thể nghe thấy có người đang di chuyển ở đầu đằng kia hành lang, nhưng họ không thể nhìn thấy đó là ai. Họ quát hỏi, nhưng không được trả lời. Đoán chắc rằng đó chỉ có thể là kẻ trộm, họ đã làm theo quy định và gọi điện cho cảnh sát tư pháp. Chúng tôi đã chiếm lĩnh vị trí trong vòng 15 phút. Khi đến, chúng tôi nâng hàng rào chắn lên đủ để có thể trườn qua bên dưới, và tôi đã điều 12 cảnh sát vũ trang vào bên trong. Họ đã kiểm tra hết chiều dài hành lang lớn để vây bắt kẻ đột nhập.
- Và ...?
- Họ chẳng thấy ai bên trong. Trừ ... - ông ta chỉ về phía xa hơn trong hành lang - Ông ấy.
Langdon dõi theo ngón tay chỉ thẳng của Fache. Đầu tiên ông nghĩ Fache đang chỉ 1 bức tượng bằng đá cẩm thạch to ở giữa hành lang. Tuy nhiên, khi họ đi tiếp, Langdon bắt đầu nhìn xa hơn bức tượng. Sâu vào hành lang 30m, 1 ngọn đèn chiếu đơn trên cột di động rọi xuống sàn, tạo thành 1 quầng sáng trắng trong căn phòng đỏ thẫm. Ở giữa quầng sáng đó, như 1 con côn trùng dưới kính hiển vi, là xác của ông phụ trách bảo tàng nằm trần truồng trên sàn gỗ.
- Ông đã xem bức ảnh - Fache nói - vậy thì cảnh tượng này không có gì bất ngờ.
Langdon cảm thấy rợn cả người khi họ tiến về phía thi thể. Trước mắt ông là 1 trong những hình ảnh kỳ lạ nhất mà ông từng thấy.
Thi thể tái nhợt của Jacques Saunière nằm trên sàn gỗ y hệt như trong ảnh. Đứng bên cái xác và nheo mắt trong ánh sáng chói loà Langdon kinh ngạc tự nhắc mình rằng Saunière đã dùng những phút cuối cùng của đời mình để sắp đặt cơ thể mình theo tư thế kỳ lạ như thế này.
Saunière trông đặc biệt tráng kiện đối với 1 người ở tuổi của ông ... và tất cả các cơ bắp nổi lên rõ ràng. Ông đã cởi tất cả quần áo, đặt gọn gàng trên sàn, và nằm ngửa giữa hành lang rộng, chính xác theo trục dọc của căn phòng. Tay chân ông dang ra như đại bàng xoè cánh, tựa 1 đứa trẻ làm 1 thiên thần bằng tuyết ... hoặc, có lẽ ví thế này thì thích hợp hơn, tựa 1 người đàn ông bị phanh thây bởi 1 lực vô hình.
Ngay bên dưới xương ức của Saunière, 1 vết máu đánh dấu nơi viên đạn găm vào da thịt ông. lạ thay, vết thương chảy máu rất ít, chỉ để lại 1 vũng máu nhỏ đã đen lại.
Ngón trỏ tay trái của Saunière cũng dính máu, hiển nhiên là do nhúng vào vết thương để tạo ra cái nét gây hoang mang nhất nơi giường lâm chung ma quái của ông: dùng máu mình làm mực và cái bụng trần làm toan, Saunière đã vẽ 1 biểu tượng đơn giản trên da thịt mình - 5 dòng kẻ thẳng cắt chéo nhau tạo thành 1 hình sao năm cánh.
Hình sao 5 cánh.
Ngôi sao đẫm máu, ở giữa rốn Saunière, mang đến cho thi thể ông 1 hào quang rành là ma quái. Bức ảnh Langdon nhìn thấy đã đủ ớn lạnh, nhưng bây giờ, chứng kiến tận mắt khung cảnh này, Langdon cảm thấy mỗi lúc 1 thêm bồn chồn.
Ông ấy tự làm điều đó cho chính mình.
- Ông Langdon? - Đôi mắt đen của Fache lại nhìn ông.
- Đó là 1 hình sao 5 cánh - Langdon nói - giọng ông nghe vang vọng trong không gian rộng lớn. - Một trong những biểu tượng cổ xưa nhất trên trái đất. Được dùng hơn 4000 năm trước công nguyên
- Và nó có ý nghĩa gì?
Câu hỏi này bao giờ cũng khiến Langdon do dự. Nói với ai đó 1 biểu tượng có ý nghĩa gì giống như nói họ nên cảm nhận 1 bài hát như thế nào - điều đó với mỗi người 1 khác. Chiếc mũ trắng trùm đầu của đảng 3K (Ku Klux Klan) gợi lên ở Mỹ những hình ảnh của căm thù và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nhưng cùng trang phục ấy lại mang ý nghĩa về niềm tin tôn giáo ở Tây Ban Nha.
- Các biểu tượng mang ý nghĩa khác nhau trong từng hoàn cảnh khác nhau! - Langdon nói - Ban đầu, ngôi sao 5 cánh là biểu tượng vô tôn giáo.
Fache gật đầu: - Thờ ma quỷ
- Không - Langdon sửa lại, ngay lập tức nhận ra rằng sự lựa chọn từ ngữ của ông nên rõ ràng hơn. Ngày nay, từ pagan (vô đạo) đã trở thành đồng nghĩa với thờ ma quỷ - 1 cách hiểu sai thô thiển. Gốc của từ này thực sự bắt nguồn từ chữ Latinh paganus, nghĩa là người nhà quê. Pagan là những người dân quê chưa được truyền giáo thực sự nên cứ bám lấy những tôn giáo cổ xưa và thôn dã thờ Tự Nhiên. Trên thực tế, Nhà Thờ sợ những người sống ở làng quê đến nỗi 1 từ vô thưởng vô phạt để chỉ "dân làng" (villain) - cũng bị biến nghĩa thành kẻ xấu.
- Ngôi sao 5 cánh - Langdon cố làm cho nó dễ hiểu hơn - là 1 biểu tượng trước Công Nguyên có liên quan đến tín ngưỡng tôn thờ Tự nhiên. Người cổ đại luôn hình dung thế giới của họ thành 2 nửa - nam tính và nữ tính. Các nam thần và nữ thần của họ cùng nhau giữ cho cân bằng quyền lực âm và dương. Khi tính nam và tính nữ cân bằng thì có sự hài hoà trong thế giới. Khi chúng mất cân bằng, thì sẽ xuất hiện sự lộn xộn.
Langdon chỉ vào bụng của Saunière:
- HÌnh sao 5 cánh này tiêu biểu nửa cái của mọi sự vật - 1 khái niệm mà các sử gia tôn giáo gọi là "tính nữ thiêng liêng" hãy "nữ thần siêu phàm". Saunière ở trong số ít người biết được điều này.
- Saunière vẽ 1 biểu tượng nữ thần trên bụng mình sao?
Langdon phải thừa nhận, điều đó có vẻ kỳ lạ:
- Theo cách diễn giải cụ thể nhất, thì hình sao 5 cánh tượng trưng cho thần vệ nữ - nữ thần của tình yêu xác thịt và sắc đẹp.
Fache nhìn người đàn ông loã thể và lầm bầm.
- Tôn giáo sơ khai dựa trên trật tự thiêng liêng của Tự nhiên. Thần vệ nữ và sao Kim là 1. Nữ thần này có 1 chỗ trên bầu trời đêm và được gọi bằng nhiều tên - Vệ nữ, Ngôi sao phương đông, Ishtar, Astarte - tất cả đều là những khái niệm mang tính nữ đầy quyền uy với mối liên hệ chặt chẽ với Tự nhiên và Mẹ Đất.
Fache lúc này có vẻ còn hoang mang hơn, như thế, cách nào đó, ông ta vẫn thích cái ý nghĩa thờ ma quỷ hơn.
Langdon quyết định không nói cho ông ta biết đặc điểm kỳ lạ nhất của hình sao 5 cánh - nguồn gốc những liên hệ mang tính đồ hoạ của nó với sao Kim. Khi còn là 1 sinh viên trẻ khoa chiêm tinh học, Langdon đã sửng sốt khi biết rằng cứ 8 năm 1 lần, sao Kim lại vẽ lên bầu trời 1 hình sao 5 cánh hoàn hảo. người cổ đại đã quá kinh ngạc khi quan sát hiện tượng này đến mức sao Kim cùng hình vẽ này trở thành biểu tượng của sự hoàn hảo, vẻ đẹp, và những phẩm chất chu kỳ của tình yêu nhục dục. Để tỏ lòng tôn kính đối với phép thuật của sao Kim, người Hy Lạp đã dùng chu kỳ 8 năm để tổ chức thế vận hội Olympic. Ngày nay, rất ít người nhận ra rằng chu kỳ 4 năm của Olympic hiện đại vốn theo nửa chu kỳ của sao Kim. Càng hiềm hơn nữa những người biết rằng hình sao 5 cánh đã từng gần như trở thành con dấu chính thức của thế vận hội Olympic nhưng bị cải biên vào phút cuối - 5 đỉnh của nó chuyển thành 5 vòng tròn giao nhau để phản ảnh tốt hơn tinh thần đoàn kết và hoà đồng của các cuộc chơi.
- Ông Langdon - Fache đột nhiên nói. - Rõ ràng, hình sao 5 cánh chắc cũng liên quan đến ma quỷ. Những bộ phim Mỹ kinh dị của các ông chứng tỏ rõ điểm đó.
Langdon cau mày. Cảm ơn ngài, Hollywood. Giờ đây, trên thực tế hình sao 5 cánh là hình ảnh rập khuôn trong những bộ phim truyền hình nhiều tập thuộc loại dao găm súng lục, thường được vẽ trên tường nhà của những kẻ thờ quỷ Satan cùng với những biểu tượng khác được cho là gắn với ma quỷ.
Langdon luôn luôn thất vọng khi ông thấy biểu tượng sao 5 cánh trong khung cảnh như vậy. Nguồn gốc đích thực của hình sao 5 cánh thực sự thiêng liêng.
- Tôi cam đoan với ông - Langdon nói - dù ông nhìn thấy bất kỳ điều gì trong các bộ phim, thì cách giải thích mang tính ma quỷ về hình sao 5 cánh vẫn là không chính xác về mặt lịch sử. Ý nghĩa nữ tính ban đầu là chính xác, nhưng tính biểu tượng của hình sao 5 cánh đã bị bóp méo qua cả thiên niên kỉ. Trong trường hợp này, là thông qua chém giết.
- Tôi không chắc là tôi hiểu những điều ông nói.
Langdon liếc nhìn cây thánh giá của Fache, không biết làm thế nào để diễn đạt ý tiếp theo của mình.
- Giáo hội, thưa ông. Các biểu tượng thường rất lâu bền nhưng biểu tượng hình sao 5 cánh đã bị giáo hội thiên chúa giáo La Mã cổ thay đổi. Như 1 phần trong chiến dịch của Vatican nhằm tiêu diệt tôn giáo vô thần và cải đạo cho dân chúng sang Thiên chúa giáo, Giáo hội đã thực thi 1 chiến dịch bôi nhọ các nam thần và nữ thần ngoại đạo, biến những biểu tượng thần thành của họ thành ma quỷ.
- Tiếp tục đi.
- Điều này rất phổ biến trong thời loạn - Langdon tiếp tục. Một thế lực mới nổi lên sẽ lấy các biểu tượng đang tồn tại và làm mất giá trị của chúng qua thời gian nhằm xoá đi ý nghĩa của chúng. Trong trận chiến giữa các biểu tượng vô đạo và biểu tượng của Thiên chúa giáo, những người vô đạo đã thua; chiếc đinh ba của thần biển trở thành cái chĩa của quỷ, cái mũ nhọn của bà già thông thái trở thành biểu tượng của 1 phù thuỷ, và hình sao 5 cánh của thần vệ nữ trở thành 1 dấu hiệu của ma quỷ. - Langdon dừng lại - Thật không may, quân đội Mỹ cũng hiểu sai hình sao 5 cánh; giờ đây nó trở thành biểu tượng hàng đầu của chiến tranh. Chúng tôi vẽ nó trên tất cả các máy bay chiến đấu và gắn bó trên vai của mọi tướng lĩnh của chúng tôi - Chừng ấy điều xâm phạm đối với nữ thần tình yêu và sắc đẹp.
- Hay đấy - Fache hất đầu về phía cái xác nằm dang tay dang chân. Còn vị trí của thi thể thì sao? Ông nghĩ gì về điều đó?
Langdon nhún vai - vị trí chỉ đơn giản là để củng cố thêm gợi ý về hình sao 5 cánh và tính nữ thiêng liêng.
Vẻ mặt Fache sa sầm - Làm ơn nhắc lại giùm?
- Bản sao. Việc nhắc lại 1 biểu tượng là cách đơn giản nhất để tăng cường ý nghĩa của nó. Jacques Saunière đặt cơ thể mình trong tư thế của hình sao 5 cánh. Nếu 1 hình sao 5 cánh là tốt thì 2 là tốt hơn.
Mắt Fache nhìn theo 5 đỉnh tay, chân, đầu của Saunière trong khi tay ông ta vuốt mái tóc trơn bóng. - Một sự phân tích thú vị. Ông ta dừng lại. - Còn tình trạng loã thể của 1 người đàn ông có tuổi. Tại sao ông ấy lại cởi hết quần áo ra?
Câu hỏi quá hay, Langdon nghĩ. Ông cũng đã tự hỏi như vậy từ lúc đầu tiên nhìn thấy bức ảnh polariod. Phỏng đoán có lý nhất của ông là 1 hình người khoả thân là 1 dạng biểu hiện khác của thần vệ nữ - nữ thần của nhục tính con người. Mặc dù văn hoá hiện đại đã xoá đi đa phần quan niệm gắn Vệ nữ với sự hoà hợp thể xác nam nữ - 1 con mắt sắc bén về từ nguyên vẫn sẽ phát hiện ra dấu tích ý nghĩa ban đầu của vệ nữ trong từ venereal. Langdon quyết định không nói đến điều đó.
- Ông Fache, tôi thực sự không thể nói cho ông biết tại sao ông Saunière lại vẽ biểu tượng đó trên người mình hay tại sao ông ấy lại xếp mình theo tư thế đó, nhưng tôi có thể nói với ông rằng 1 người như Jacques Saunière ắt coi hình sao 5 cánh là biểu tượng của nữ thần. Sự tương quan giữa biểu tượng này và tính nữ thiêng liêng được biết đến rộng rãi bởi các sử gia tôn giáo và các nhà ký tượng học.
- Tốt. Còn chuyện ông ấy dùng máu mình làm mực việt?
- Chắc chắn là do ông ấy không có gì khác để viết.
Fache im lặng trong giây lát. - Thực ra tôi chắc ông ấy dùng máu như vậy để cảnh sát có thể theo 1 số quy trình pháp lý.
- Xin lỗi, tôi không hiểu.
- Hãy nhìn tay trái của ông ấy.
Mắt Langdon rà suốt chiều dài cánh tay cho đến bàn tay trái trắng nhợt của ông phụ trách bảo tàng nhưng chẳng thấy gì.
Không chắc chắn, ông đi vòng quanh xác chết và cúi xuống, ngạc nhiên nhận thấy ông ta nắm chặt 1 chiếc bút dạ lớn.
- Nó ở trong tay Saunière khi chúng tôi tìm thấy ông ta.
Fache nói, rời khỏ Langdon và đi vài mét về phía 1 cái bàn xách tay bầy đầy các dụng cụ điều tra, các dây cáp, và các đồ điện.
- Như tôi đã nói với ông - ông ta nói, lục tung cái bàn - chúng tôi không động vào bất kỳ vật gì. Ông có biết loại bút này không?
Langdon quỳ xuống thấp hơn để nhìn thấy nhãn của cây bút
STYLO DE LUMLÈRE NOIRE.
Ông ngạc nhiên ngước nhìn.
Bút dùng tia tử ngoại dạng đặc biệt của bút dấu ban đầu được thiết kế bởi các bảo tàng, các nhà phục chế, và cảnh sát chống hàng giả để vạch những dấu không thể nhìn thấy trên hiện vật. Bút này viết bằng mực huỳnh quang làm từ cồn, không ăn mòn mà chỉ có thể nhìn thấy dưới tia tử ngoại. Ngày nay, nhân viên bảo quản của các bảo tàng mang bút này theo trên đường đi kiểm tra hàng ngày để đánh dấu những "dấu kiềm" vô hình trên khung của các bức tranh cần sửa chữa.
Khi Langdon tiến lại, Fache tiến về phía bóng đèn và tắt đi. Căn phòng chìm vào bóng tối.
Loá mắt trong chốc lát, Langdon cảm thấy 1 nỗi hồ nghi dâng lên. Bóng Fache hiện ra, rực trong ánh hồng nhạt. Ông ta tiến đến, mang theo 1 ngọn đèn xách tay, bao quanh ông ta 1 vầng tím.
- Như ông có thể cũng biết - Fache nói - máu ông ta phát quang trong ánh sáng màu tím, cảnh sát dùng tia tử ngoại nghiên cứu hiện trường vụ án để tìm máu và các chứng cứ pháp lý khác. Vì thế ông có thể tưởng tượng ra sự kinh ngạc của chúng tôi... - Ông ta chĩa phắt ngọn đèn về phía xác chết.
Langdon nhìn xuống và giật lùi lại vì sốc.
Tim ông đập dồn dập khi nhìn vào cảnh tượng kỳ quái đang rực lên trước mắt trên sàn gỗ. Những dòng chữ nguệch ngoạc cuồi cùng của ông phụ trách bảo tàng, viết bằng mực phát quang, giờ chuyển sang màu tía bên cạnh xác ông. Khi Langdon nhìn vào những dòng chữ lờ mờ, ông cảm thấy màn sương bao trùm buổi tối hôm nay đang dày thêm lên...
Langdon đọc lại lời nhắn và ngước nhìn Fache:
- Điều này nghĩa là thế nào?
Mắt Fache long lanh:
- Điều đó, thưa ông, chính xác là câu hỏi mà ông có mặt ở đây để giải đáp.
Cách đó không xa, trong văn phòng của Saunière, trung uý Collet đã trở lại Louvre và đang lúi húi trên bảng điều khiển âm thanh đặt trên cái bàn đồ sộ của ông phụ trách bảo tàng.
Ngoại trừ cái mô hình chàng hiệp sĩ thời trung cổ, kỳ bí và giống như rô-bốt, đang nhìn chằm chằm vào mình từ góc bàn, Collet thấy rất thoải mái. Anh điều chỉnh ống nghe và kiểm tra đầu vào trên hệ thống ghi âm đĩa cững. Cả hệ thống đều chạy tốt. Micro hoạt động hoàn hảo và tiếng trong veo.
Le moment de virite, anh lẩm bẩm.
Mỉm cười, Collet nhắm mắt và ngồi yên lắng nghe phần còn lại của cuộc đối thoại đang được ghi âm trong hành lang lớn.

the_warm_winter
24-06-2008, 06:10 PM
Chương 7
Nơi ở khiêm tốn trong nhà thờ Saint Sulpice nằm trên tầng 2 phía bên trái ban công của dàn đồng ca. Một dãy 2 phòng với nền đá và những đồ đạc tối thiểu là nơi ở của Xơ Sandrine Bieil hơn 10 năm qua. Tu viện gần ngay cạnh là chỗ ở trước đây của bà, nhưng bà thích sự yên tĩnh của nhà thờ và tự trang bị thêm cho mình 1 cái giường, điện thoại và 1 lò sưởi nhỏ.
Là quản lý hành chính của nhà thờ, Xơ Sandrine chịu trách nhiệm lo liệu mọi khía cạnh phi tôn giáo như duy tu bảo dưỡng chung, thuê người giúp việc và hướng dẫn viên, giữ an toàn cho toà nhà sau giờ làm việc, đặt mua hàng dự trữ như rượu lễ vào bánh thánh.
Đêm nay, đang ngủ trên chiệc giường nhỏ, bà bị tiếng điện thoại kêu lanh lảnh đánh thức. Mệt mỏi, bà nhấc ống nghe nhận điện.
- Xơ Sandrine, nhà thờ Saint Sulpice
- Xin chào Xơ - người đàn ông nói tiếng Pháp.
Xơ Sandrine ngồi dậy. Mấy giờ rồi? Bà nhận ra giọng bề trên của mình mặc dù trong 15 năm qua, bà chưa bao giờ bị ông đánh thức. Trưởng tu viện là 1 người ngoan đạo sâu sắc! Ông thường về nhà và lên giường ngủ ngay sau lễ chầu.
- Ta xin lỗi nếu ta đánh thức Xơ - trưởng tu viện nói, giọng ông nghe yếu và bồn chồn. - ta có 1 việc phải nhờ Xơ. Ta vừa nhận được 1 cú điện thoại từ 1 giám mục người Mỹ có thế lực. Có thể Xơ cũng biết ông ta? Manuel Aringarosa?
- Người đứng đầu Opus Dei phải không ạ? Tất nhiên là con biết ông ta. Ai trong giáo hội không biết ông ta chứ? Giám mục đoàn bảo thủ của Aringarosa đã trở lên hùng mạnh trong những năm gần đây. Sự thăng tiến của họ đạt được bước nhảy vọt bắt đầu từ năm 1982 khi Giáo hoàng John Paul II bất ngờ nâng họ lên thành 1 "giám mục đoàn riêng của giáo hoàng", phê chuẩn chính thức mọi thông tục của họ. Thật đáng ngờ, việc thăng cấp của Opus Dei xẩy ra vào đúng năm cái giáo phái giàu có chuyển gần 1 tỉ đô la vào Viện Công trình tôn giáo của Vatican - thường được gọi là Ngân hàng Vatican - giúp nó thoát khỏi 1 cuộc phá sản phiền toái. Hành xử thứ 2 cũng gây ngạc nhiên: Giáo hoàng đã đặt người sáng lập Opus Dei trên "đường tắt" đến chức vị thánh, rút ngắn thời gian chờ đợi phong thánh thường là cả thế kỷ xuống còn 20 năm. Xơ Sandrine không khỏi cảm thấy địa vị cao của Opus Dei ở Roma là đáng ngờ, nhưng ai mà dám tranh cãi với Toà Thánh.
- Giám mục Aringarosa gọi đến nhờ ta 1 việc - linh mục nói với bà, giọng e ngại. - Một trong số những môn đồ của ông ấy đang ở Paris tối nay...
Khi Xơ Sandrine nghe thấy yêu cầu kỳ lạ đó, bà càng cảm thấy khó hiểu. - Con xin lỗi, cha nói là chuyến viếng thăm của thành viên Opus Dei không thể chờ đến sáng mai hay sao?
- Ta e là không. Chuyến bay của anh ta sẽ cất cánh lúc sáng sớm. Anh ta luôn mơ ước được ngắm nhìn nhà thờ Saint Sulpice.
- Nhưng nhà thờ ngắm ban ngày ắt thú vị hơn nhiều. Những tia nắng mặt trời chiều qua những mắt kính, những cái bóng được phân độ trên đồng hồ mặt trời, cái ấy mới làm cho Sain Sulpice trở thành có 1 không 2.
- Xơ, ta đồng ý với Xơ, nhưng nếu Xơ để cho anh ta vào tối nay, ta sẽ coi đó là 1 ân huệ cá nhân đối với ta. Anh ta có thể có mặt ở đó lúc ... lúc 1h được chứ? Tức là khoảng 20 phút nữa?
Xơ Sandrine cau mày. - Tất nhiên. Con xin vui lòng.
Linh mục cảm ơn bà rồi gác máy.
Bối rối, Xơ Sandrine ngồi trong cái giường ấm áp thêm 1 chút, cố gắng tống khứ cơn buồn ngủ. Cơ thể 60 tuổi của bà không tỉnh giấc nhanh như trước đây được nữa, mặc dù cuộc điện thoại đêm nay chắc chắn đã đánh thức các giác quan của bà. Opus Dei luôn làm bà khó chịu. Ngoài việc giáo đoàn này 1 mực theo những nghi lễ huyền bí của sự tự hành xác, quan điểm của họ về phụ nữ tiến bộ nhất cũng chỉ ở mức trung cổ.
Bà đã bị sốc khi biết rằng những môn đồ nữ bị buộc phải lau dọn phòng ở của nam giới không công trong khi đám này dự lễ chầu; phụ nữ ngủ trên sàn gỗ cứng, trong khi đàn ông có những chiếc chiếu rơm; và phụ nữ buộc phải chịu thêm những quy định bổ sung trong hành xác ... tất cả những cái đó xem như hình phạt vì tội tổ tông truyền. Có vẻ như việc Eva cắn vào quả táo tri thức là 1 món nợ mà phụ nữ bị kết án phải trả đời đời. Thật đáng buồn, trong khi hầu hết các nhà thờ Thiên chúa giáo đang dần dần đi theo con đường đúng đắn với sự tôn trọng phụ nữ, thì Opus Dei lại đe doạ đảo ngược tiến trình. Mặc dù vậy, Xơ Sandrine đã nhận lệnh.
Ra khỏi giường, bà từ từ đứng dậy, ớn lạnh vì sàn đá dưới đôi chân trần. Khi cảm giác ớn lạnh ngấm vào da thịt, bà cảm thấy 1 nối lo sợ bất ngờ.
Linh cảm của phụ nữ?
Là con chiên của Chúa, Xơ Sandrine biết là phải tìm sự yên bình trong tiếng nói xoa dịu của linh hồn bà. Tuy nhiên, tối nay, những tiếng nói ấy cũng im lặng như nhà thờ trống không bao quanh bà.

the_warm_winter
24-06-2008, 06:35 PM
Chương 8
Langdon không thể rời mắt khỏi những dòng chữ nguệch ngoạc màu tía đang rực lên trên sàn gỗ. Điều truyền đạt cuối cùng của Jacques Saunière xem ra không giống 1 lời trăn trối mà Langdon có thể tưởng tượng. Lời nhắn như sau:
13-3-2-21-1-1-8-5
Ôi quỷ hà khắc!
Ôi thánh yếu đuối.
Mặc dù hoàn toàn không hiểu ý nghĩa của thông điệp này - nhưng Langdon chợt hiểu chính bản năng đã mách Fache rằng hình sao 5 cánh là 1 cái gì đó có liên quan đến sự tôn thờ ma quỷ.
Ôi quỷ hà khắc!
Saunière đã để lại 1 ám chỉ rành rành đến quỷ. Cũng kỳ quái không kém là dãy số.
- Một phần của nó có vẻ giống như mật mã số.
- Đúng - Fache nói. Nhân viên mật mã của chúng tôi đang giải mã nó. Chúng tôi tin rằng những con số này có thể là chìa khoá dẫn đến kẻ sát nhân. Có thể là 1 tổng đài điện thoại hoặc 1 thứ thẻ căn cước nào đó. Liệu những con số này có ý nghĩa biểu tượng nào với ông không?
Langdon nhìn lại những con số, cảm thấy sẽ mất nhiều giờ để rút ra 1 ý nghĩa biểu tượng nào đó. Nếu Saunière định đưa vào 1 ý nghĩa biểu tượng nào đó. Đối với Langdon, các con số trông hoàn toàn ngẫu nhiên. Ông quen với những dãy biểu tượng có vẻ có tương quan ý nghĩa, nhưng mọi thứ ở đây - hình sao 5 cánh, đoạn văn, các con số - dường như hoàn toàn khác biệt về cơ bản.
- Ban nãy ông đã khẳng định - Fache nói - rằng những hành động của Saunière ở đâu đều nhằm nỗ lực gửi lại 1 lời nhắn ngắn gọn ... sự tôn thờ nữ thần hay 1 điều gì tương tự? Lời nhắn này ăn nhập như thế nào?
Langdon biết câu hỏi này chỉ là mỹ tự. Thông điệp kỳ quặc này rõ ràng không ăn khớp với kịch bản về sự tôn thờ nữ thần của Langdon 1 chút nào.
Ôi quỷ hà khắc là gì? Ôi, thánh yếu đuối là gì?
Fache hỏi:
- Đoạn văn này có vẻ như 1 kiểu kết tội. Ông đồng ý không?
Langdon cố gắng tưởng tượng ra những phút cuối cùng của ông phụ trách bảo tàng khi ông mắc kẹt trong hành lang lớn, biết rằng mình sắp chết. Có vẻ lôgic đấy.
- Kết tội kẻ sát hại ông là có lý, tôi cho là như vậy.
- Công việc của tôi, tất nhiên là tìm ra tên của kẻ đó. Cho phép tôi hỏi ông điều này, ông Langdon. Đập vào mắt ông ngoài những con số, thì lời nhắn này có gì lạ nhất?
Lạ nhất. Một người sắp chết dựng hàng rào chắn tự hãm mình trong hành lang, vẽ 1 ngôi sao 5 cánh trên người mình, và viết nguệch ngoạc 1 lời kết tội bí ẩn trên sàn. Có cái gì trong kịch bản này là không lạ?
- Từ "hà khắc" (dracoman) thì sao? - Ông đánh bạo nói ra ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu. Langdon tin chắc chả có lý nào 1 người sắp chết lại nghĩ tới Draco - 1 chính trị gia hà khắc thế kỷ VII trước công nguyên. "Quỷ hà khắc" xem ra là 1 sự lựa chọn từ ngữ kỳ quặc.
- Hà khắc? - Giọng Fache có vẻ hơi sốt ruột. - Việc Saunière chọn từ ngữ khó có thể xem là vấn đề gì trong đầu, nhưng ông bắt đầu ngờ ngợ rằng Draco và Fache có thể ăn ý với nhau.
- Saunière là người Pháp - Fache nói dứt khoát. - Ông ấy sống ở Paris. Nhưng ông ấy chọn viết lời nhắn này...
- Bằng tiếng Anh! - Langdon nói, bây giờ thì ông đã nhận ra ý của viên đại uý.
Fache gật đầu:
- Chính xác. Ông có biết tại sao lại thế không?
Langdon biết Saunière nói tiếng Anh không chê vào đâu được, nhưng lý do khiến ông ta chọn tiếng Anh để viết những lời cuối cùng, hoàn toàn lọt khỏi sự chú ý của ông. Ông nhún vai.
Fache chỉ lại vào hình sao 5 cánh trên bụng Saunière:
- Không có gì liên quan đến sự tôn thờ ma quỷ sao? Ông vẫn chắc như vậy chứ?
Langdon không còn chắc chắn bất kỳ điều gì nữa:
- Hệ ký hiệu và văn bản xem ra không trùng khớp. Tôi xin lỗi là tôi không thể giúp gì hơn.
- Có thể điều này sẽ làm cho mọi sự rõ ràng. Fache lùi xa khỏi thi thể, giơ chiếc đèn tia tử ngoại lên 1 lần nữa, để chùm sáng toả ra 1 góc rộng hơn. - Còn bây giờ thì sao?
Langdon kinh ngạc thấy 1 vòng tròn thô sáng lên quanh thi thể ông phụ trách bảo tàng. Vẻ như Saunière đã nằm xuống, lấy bút khoanh mấy vành cung quanh người, cốt lồng mình trong vòng tròn.
Loáng 1 cái, ý nghĩa của nó vụt trở nên rõ ràng.
- Người Vitruvian - Langdon há hốc miệng. Saunière đã tạo 1 bản sao với kích thước người thật bức ký hoạ nổi tiếng nhất của Leonardo Da Vinci.
Được xem là bức vẽ đúng nhất về mặt giải phẫu học ở thời đại đó, bức người Vitruvian của Da Vinci giờ đã trở thành bức thánh tượng thời nay của văn hoá, xuất hiện trên tranh ảnh quảng cáo, đệm di chuột máy tính, áo phông trên toàn thế giới.
Bức ký hoạ trứ danh này gồm 1 vòng tròn trong đó có 1 hình khoả thân nam.. tay chân dang thẳng.
Da Vinci. Langdon cảm thấy run lên vì sửng sốt. Chủ ý của Saunière đã rõ rành rành không thể chối cãi. Trong những khoảng khắc cuối cùng của đời mình, ông phụ trách bảo tàng đã cởi bỏ hết quần áo và sắp xếp cơ thể mình thành 1 hình ảnh rõ ràng mô phỏng bức Người Vitruvian của Leonardo Da Vinci.
Vòng tròn chính là yếu tố cơ bản bị thiếu. Là biểu tượng nữ về sự bảo vệ, vòng tròn xung quanh người đàn ông khoả thân hoàn tất chủ ý của Da Vinci - sự hài hoà giữa nam và nữ. Tuy nhiên, câu hỏi bây giờ là tại sao Saunière lại mô phỏng 1 bức vẽ nổi tiếng.
- Ông Langdon - Fache nói, chắc chắn 1 người như ông phải biết Leonardo Da Vinci có khuynh hướng thiên về ma thuật.
Langdon ngạc nhiên vì hiểu biết của Fache về Da Vinci, và chắc chắn phải mất nhiều công mới giải thích được những hồ nghi của viên đại uý về sự tôn thờ ma quỷ. Da Vinci luôn là 1 đề tài khó xử đối với các nhà sử học, đặc biệt trong truyền thống Thiên chúa giáo. Mặc dù là 1 thiên tài thấu thị, ông lại là 1 người đồng tính luyến ái phô trương và là người tôn sùng trật tự thần thánh thường xuyên phạm tội với Chúa. Hơn thế nữa, tính lập dị kỳ quái của người nghệ sĩ này phóng chiếu ra 1 vòng hào quang rành là ma quỷ: Da vinci khai quật các xác chết để nghiên cứu giải phẫu con người; ông ghi những cuốn nhật ký kỳ bí bằng chữ viết tay đảo ngược không thể đọc được; ông tin rằng ông có sức mạnh giả kim thuật để biến chì thành vàng và thậm chí lừa dối Chúa bằng việc tạo ra 1 loại rượu thuốc để trì hoãn cái chết và những sáng chế của ông bao gồm các vũ khí chiến tranh và dụng cụ tra tấn khủng khiếp chưa từng ai tưởng tượng ra.
Hiểu lầm sinh ra ngờ vực. Langdon nghĩ.
Thậm chí số lượng lớn những tác phẩm nghệ thuật Thiên chúa giáo kỳ vĩ của Da Vinci chỉ càng khiến ông khét tiếng là giả dối về tâm linh. Nhận hàng trăm đơn đặt hàng béo bở của Vatican, Da Vinci vẽ đề tài Thiên chúa giáo không phải như 1 sự bộc lộ đức tin của chính mình mà thực chất là vì 1 sự kinh doanh thương mại - 1 phương tiện để chu cấp cho 1 lối sống hoang phí. Khốn thay, Da Vinci là kẻ chơi khăm, ông thường hay tiêu khiển bằng cách thản nhiên gặm nhấm bàn tay nuôi sống ông. Ông đưa vào nhiều bức vẽ Thiên chúa giáo của mình các biểu tượng tàng ẩn không mảy may Cơ đốc - những vật cống nạp cho những tín ngưỡng của riêng ông và 1 sự chế nhạo tinh vi đối với Giáo hội. Langdon thậm chí đã từng có bài thuyết giảng ở Bảo tàng quốc gia Lodon nhan đề: Cuộc sống bí mật của Leonardo: hệ biểu tượng vô đạo trong nghệ thuật Thiên chúa giáo.
- Tôi hiểu những lo ngại của ông - bây giờ Langdon mới nói. - Nhưng Da Vinci quả thật chưa bao giờ thực hiện bất kỳ ma thuật nào. Ông là người giàu tâm linh phi thường mặc dù hay có xung đột với Nhà Thờ. - Khi Langdon nói điều này, 1 ý nghĩ kỳ lạ chợt nảy ra trong đầu ông. Ông đưa mắt nhìn xuống lời nhắn trên sàn 1 lần nữa. Ôi, quỷ hà khắc! ÔI, thánh yếu đuối!
- Gì thế? - Fache nói.
Langdon thận trọng cân nhắc từng lời:
- Tôi chỉ đang nghĩ rằng Saunière chia sẻ nhiều hệ ý thức tâm linh với Da Vinci, kể cả mối quan tâm đến việc Nhà Thờ loại bỏ tính nữ thiêng liêng khỏi tôn giáo hiện đại. Có thể, bằng việc bắt chước 1 bức vẽ nổi tiếng của Da Vinci, Saunière chỉ đơn thuần phản ánh 1 điều thất vọng chung của họ đối với việc Giáo hội hiện đại quỷ hoá nữ thần.
Mặt Fache đanh lại:
- Ông nghĩ rằng Saunière gọi Giáo hội là quỷ hà khắc và thánh yếu đuối sao?
Langdon buộc phải thừa nhận rằng ý này có vẻ gượng ép, nhưng hình sao 5 cánh dường như xác nhận ý tưởng đó ở 1 mức độ nào đó. - Tất cả những gì tôi đang nói là ông Saunière đã cống hiến cả cuộc đời cho việc nghiên cứu lịch sử nữ thần, và không ai làm nhiều hơn Giáo hội Thiên chúa giáo để xoá đi lịch sử ấy. Dường như có lý khi cho rằng Saunière có thể đã quyết định biểu lộ sự thất vọng của mình trong lời vĩnh biệt cuối cùng.
- Thất vọng? - Fache hỏi, giọng dữ dằn. - Lời nhắn này nghe có vẻ tức giận hơn là thất vọng, đúng không?
Langdon đã hết kiên nhẫn:
- Đại uý, ông hỏi tôi linh cảm thế nào về điều Saunière định nói ở đây, và đó là câu trả lời của tôi.
- Như vậy thì đây là 1 bản kết tội Giáo hội? - Quai hàm Fache siết lại khi ông nói qua hàm răng nghiến chặt. - Ông Langdon, tôi đã nhìn thấy nhiều cái chết trong công việc của tôi và hãy để tôi nói với ông vài điều. Khi 1 người bị kẻ khác giết hại, tôi không tin rằng những ý nghĩ cuối cùng của người đó và viết ra 1 phát biểu tâm linh mù mờ đến mức không ai hiểu nổi. Tôi tin ông ấy chỉ nghĩ đến 1 thứ mà thôi.
Giọng nói thì thầm của Fache xẻ vào không khí: "La vengeance". Tôi tin Saunière viết những lời này để nói với chúng ta ai là kẻ giết ông ấy.
Langdon nhìn trân trân: - Nhưng như thế chẳng có nghĩa gì hết.
- Không ư?
- Phải. - Ông quặc lại, mệt mỏi và thất vọng. - Ông nói với tôi rằng Saunière đã bị tấn công trong văn phòng ông ấy bởi 1 ai đó mà rõ ràng ông ta đã mời vào.
- Đúng thế.
- Vậy có vẻ hợp lý khi kết luận rằng ông phụ trách bảo tàng biết rõ kẻ tấn công ông ấy.
Fache gật đầu: - Tiếp tục đi.
- Vậy nếu Saunière biết rõ kẻ giết ông ấy, thì đây là 1 bản cáo trạng kiểu gì? Ông chỉ xuống sàn. - Mật mã số? Những vị thánh yếu đuối? Những con quỷ hà khắc? Hình sao 5 cánh trên bụng ông ấy? Tất cả đều kỳ bí.
Fache cau mày như thể ông ta chưa từng nghĩ đến điều đó.
- Ông có lý.
- Xét các tình huống - Langdon nói - tôi cho rằng nếu Saunière muốn nói cho ta biết ai đã giết ông ấy, thì ông ấy tất sẽ viết tên 1 ai đó chứ.
Khi Langdon nói những lời này, lần đầu tiên trong cả buổi tối nay 1 nụ cười tự mãn vụt qua trên môi Fache.
- Précisément - Fache nói - Précisément
Mình đang chứng kiến công việc của 1 bậc thầy, trung uý Collet trầm ngâm khi anh vặn cần máy audio của mình và nghe giọng Fache qua tai nghe. Viên cảnh sát biết những khoảnh khắc như thế này sẽ đẩy viên đại uý lên đến cực điểm trong việc thi hành luật pháp của Pháp.
Fache sẽ làm những việc mà không ai khác dám làm.
Nghệ thuật phỉnh dụ tinh tế là 1 kỹ năng thất truyền trong việc thi hành pháp luật hiện đại, 1 điều đòi hỏi bản lĩnh phi thường dưới áp lực. Rất ít người có được sự bình tĩnh lạnh lùng cần thiết cho loại hoạt động này, nhưng Fache hình như sinh ra là để dành cho nó. Sự kiềm chế và kiên nhẫn của ông ta mấp mé tới độ như người máy.
Xúc cảm duy nhất của Fache trong buổi tối nay dường như là 1 quyết tâm mãnh liệt, tựa hồ cuộc bắt giữ này, cách nào đó, là chuyện cá nhân của ông ta vậy. Thông báo của Fache cho nhân viên của mình 1 giờ trước đây ngắn gọn khác thường và chắc như đinh đóng cột. Tôi biết ai giết Saunière, Fache nói.
Các bạn biết phải làm gì. Tối nay không được phép có sai lầm. Và cho đền bây giờ, chưa 1 sai lầm nào xảy ra.
Collet chưa biết bằng chứng nào đã khiến Fache tin chắc về tội của nghi phạm, nhưng anh không mảy may nghi ngờ trực giác của Bò Mộng. Trực giác của Fache đôi lúc dường như là siêu nhiên. Chúa thì thầm vào tai ông ta, 1 cảnh sát đã nhấn mạnh sau 1 lần giác quan thứ 6 của Fache được biểu thị 1 cách đặc biệt ấn tượng. Collet phải thừa nhận, nếu như có Chúa, thì Bezu Fache ắt nằm trong danh sách loại A của Ngài.
Người đại uý này đi lễ nhà thờ và xưng tội đều đặn nhiệt thành - đều đặn hơn nhiều so với việc dự các cuộc giao tế dân sự cần thiết vào ngày nghỉ mà các viên chức khác thực hiện dưới danh nghĩa quan hệ quần chúng tốt. Khi Giáo hoàng thăm Paris vài năm trước, Fache đã dùng mọi khả năng để được vinh dự là khán giả. Một bức ảnh của Fache với giáo hoàng đang được treo trong phòng làm việc của ông. Con Bò Mộng của Giáo hoàng, các nhân viên ngầm gọi nó như thế.
Điều Collet thấy nực cười là 1 trong những thái độ công khai hợp lòng dân hiếm hoi của Fache trong những năm gần đây, là phản ứng thẳng thắn của ông ta với vụ tai tiếng về lạm dụng tình dục trẻ em trong Thiên chúa giáo. Những thày tu này đáng bị treo cổ 2 lần! Fache tuyên bố. "1 lần vì tội ác của chúng với trẻ con. Và 1 lần vì sự bôi nhọ thanh danh của nhà thờ Thiên chúa giáo". Collet có cảm giác kỳ lạ rằng chính điều thứ 2 lại khiến Fache phẫn nộ hơn.
Quay lại trên màn hình cho thấy sơ đồ mặt sàn chi tiết của cánh Denon, 1 lược đồ cấu trúc lấy từ phòng an ninh Louvre. Đưa mắt dò theo mê cung các phòng trưng bày và hành lang, Collet tìm ra cái anh ra đang tìm kiếm. Sâu trong trung tâm hành lang lớn nhấp nháy 1 chấm đỏ nhỏ xíu.
La marque.
Tối nay Fache đang giữ con mồi trong 1 sợi dây buộc chặt.
Cũng khôn ngoan không kém, Robert Langdon tỏ ra là 1 vị khách điềm tĩnh.

the_warm_winter
26-06-2008, 06:31 PM
Chương 9
Để đảm bảo cuộc trò chuyện của mình với Langdon không bị ngắt quãng, Bazu Fache đã tắt máy di động. Tệ thay, đó là 1 mô-đen mới đắt tiền với chức năng máy thu thanh 2 chiều. Do vậy, trái với mệnh lệnh, 1 nhân viên đang sử dụng nó để gọi cho ông ta.
- Capitaine? Điện thoại kêu lạo xạo như tiếng bộ đàm.
Fache cảm thấy răng mình nghiến chặt giận dữ. Ông ta không thể tưởng tượng có việc gì quan trọng đến mức Collet cắt ngang cuộc urveillance cachée này - đặc biệt vào lúc gay cấn này.
Ông ta nhìn Langdon với ánh mắt xin lỗi: - Tôi xin phép 1 lát thôi. Ông ta rút điện thoại ra từ thắt lưng và nhấn nút nghe: - Vâng?
- Capitaine, un agent du Dépertement de Cryptographie est arrie.
Sự tức giận của Fache tạm lắng xuống. Một người giải mật mã. Dù rơi vào thời điểm tồi tệ này, đây có lẽ là 1 tin tốt lành.
Fache, sau khi tìm thấy cái văn bản khó hiểu của Saunière trên sàn, đã gửi những bức ảnh về toàn bộ hiện trường vụ án đến Phòng mật mã vì hy vọng ai đó có thể cho ông ta biết Saunière định nói điều quái quỷ gì. Nếu chuyên gia mật mã đến, thì rất có thể là ai đó đã giải mã được lời nhắn của Saunière.
- Tôi đang bận vào lúc này - Fache trả lời, bộc lộ rõ qua giọng nói là lệnh của ông ta đã bị vi phạm. - Bảo người giải mã chờ tôi ở trụ sở chỉ huy. Tôi sẽ nói chuyện với anh ta sau khi xong việc.
- Cô ta - giọng nói kia sửa lại - đó là nhân viên Neveu.
Fache trở nên mỗi lúc một kém thích thú với cuộc điện đàm này. Sophie Neveu là 1 trong số những sai lầm lớn nhất của DCPJ. Là 1 déchiffreuse trẻ của Paris từng học qua khoa mật mã ở Anh tại trường Hoàng gia Holloway, Sophie Neveu được ấn vào tay Fache buộc lòng ông ta phải nhận 2 năm trước như là 1 phần trong nỗ lực của Bộ nhằm đưa thêm phụ nữ vào lực lượng cảnh sát. Việc Bộ nhảy vào can thiệp để chỉnh đốn chính trị, Fache lập luận, đang làm cho Cục yếu đi. Phụ nữ không chỉ thiếu thể chất cần thiết cho công việc cảnh sát, mà sự hiện diện của họ còn gây 1 sự phân tâm nguy hiểm cho những người đàn ông trong ngành. Đúng như Fache đã lo sợ, Sophie Neveu đang gây ra sự xao lãng nhiều nhất.
Ở tuổi 32, cô có 1 quyết tâm bướng bỉnh gần đến mức ngoan cố. Việc cô hăm hở theo phương pháp giải mã mới của Anh đã không ngừng làm các nhà mật mã học Pháp kỳ cựu tức tối. Và điều khó chịu nhất đối với Fache là cái sự thật phổ quát không sao tránh khỏi này: trong 1 văn phòng của những người đàn ông trung niên, 1 phụ nữ hấp dẫn luôn khiến họ rời mắt khỏi công việc đang làm.
Người đàn ông trong máy liên lạc vô tuyến nói: - Nhân viên Neuve 1 mực đòi nói chuyện với ông ngay lập tức, thưa đại uý. Tôi đã cố ngăn cô ấy, nhưng cô ấy đang trên đường vào hành lang lớn.
Fache chùn lại, vẻ hoài nghi: - Thật không thể chấp nhận được! Tôi đã nói rất rõ mà...
Trong chốc lát, Robert Langdon nghĩ Bezu Fache đang bị choáng. Viên đại uý ngừng nói giữa chừng, quai hàm thôi chuyển động và mắt lồi ra. Cái nhìn tức giận dường như dính chặt vào 1 cái gì đó qua vai của Langdon. Trước khi Langdon có thể quay lại nhìn xem đó là gì, thì ông nghe thấy giọng phụ nữ nhẹ nhàng phía sau ông.
- Excusez-moi, messieurs
Langdon quay lại nhìn người thiếu phụ đang đi tới. Cô đi xuôi hành lang, tiến về phía họ với những sải chân dài, uyển chuyển... 1 dáng đi đầy tự tin khó quên. Mặc xuề xoà 1 chiếc váy len Ailen màu kem, dài đến đầu gối phủ lên đôi tất đen, trông cô quyến rũ và khoảng 30 tuổi. Mái tóc dày màu đỏ xoã không kiểu cách xuống bờ vai, đóng khung khuôn mặt ấm áp. Không giống những nàng tóc vàng ẽo ợt vô cá tính dán đầy trên tường phòng ngủ tập thể của trường Harvard, người phụ nữ này trông khoẻ mạnh với vẻ đẹp không trang điểm và sự chân chất toả ra 1 vẻ tự tin kỳ lạ.
Trước sự ngạc nhiên của Langdon, người phụ nữ đi thẳng đến chỗ ông và chìa ra 1 cách lịch sự. - Ông Langdon, tôi là Sophie Neveu đến từ phòng mật mã của DCPJ. những từ cô phát âm quyện theo cái giọng Anh lơ lớ Pháp. - Hân hạnh.
Langdon nắm bàn tay mềm mại của cô trong tay mình và cảm thấy mình cứng sững trong cái nhìn mạnh mẽ của cô. Mắt cô màu xanh ôliu - sắc và trong.
Fache hít 1 hơi dài, rõ ràng là chuẩn bị đưa ra lời quở trách.
- Đại uý - cô nói - nhanh chóng quay sang và chặn trước đòn tấn công của ông ta - xin thứ lỗi cho sự xen vào ngắt quãng, nhưng ...
- Ce n'est pas le moment! - Fache lắp bắp.
- Tôi đã cố gọi cho ông - Sophie tiếp tục nói bằng tiếng Anh, như để thể hiện sự lịch thiệp đối với Langdon. Nhưng ông đã tắt điện thoại.
- Tôi tắt máy là có lý do - Fache rít lên. Tôi đang nói chuyện với ông Langdon.
- Tôi đã giải được mật mã số - cô nói dứt khoát.
Langdon cảm thấy phấn khích. Cô ấy đã giải được mật mã số sao?
Fache trông có vẻ phân vân không biết nên phản ứng thế nào.
- Trước khi tôi giải thích - Sophie nói - tôi có 1 lời nhắn khẩn cấp cho ông Langdon.
Thái độ của Fache chuyển sang sự quan tâm sâu sắc: - Cho ông Langdon?
Cô gật đầu, quay sang Langdon. - Ông cần liên lạc ngay với đại sứ quán Mỹ. Họ có 1 tin nhắn cho ông từ Mỹ.
Langdon ngạc nhiên, sự phấn khích về mật mã nhường chỗ cho 1 thoáng lo lắng bất chợt. Một tin nhắn từ Mỹ sao? Ông cố nghĩ xem ai đang cố gắng liên lạc với ông. Chỉ 1 vài đồng nghiệp biết ông đang ở Paris.
Quai hàm rộng của Fache nghiến chặt khi nghe tin đó. - Đại sứ quán Mỹ à? - ông ta hỏi lại, nghe có vẻ nghi ngờ. - Làm thế nào họ biết có thể tìm ông Langdon ở đây?
Sophie nhún vai - Chắc chắn họ đã gọi đến khách sạn của ông Langdon, và người trực đã nói cho họ biết ông Langdon đã bị 1 nhân viên DCPJ đưa đi.
Fache trông có vẻ hoang mang - và đại sứ quán đã liên lạc với Phòng mật mã của DCPJ sao?
- Không thưa ông - Sophie nói, giọng rắn rỏi. Khi tôi gọi đến tổng đài của DPCJ để cố gắng liên lạc với ông, họ đã có lời nhắn cho ông Langdon và nhờ tôi chuyển nếu tôi liên lạc được với ông.
Trán Fache nhăn lại, rõ ràng là bối rối. Ông ta định nói, nhưng Sophie đã quay lại với Langdon.
- Ông Langdon - cô nói, rút ta từ túi áo 1 mảnh giấy, đây là số điện thoại bộ phận dịch vụ nhắn tin của đại sứ quán. Họ bảo ông gọi càng sớm càng tốt. Cô đưa cho ông tờ giấy với cái nhìn chăm chú. - Trong khi tôi giải thích mật mã cho đại uý Fache, ông nên gọi cho số này.
Langdon nhìn chằm chằm vào mảnh giấy nhỏ. Có 1 số điện thoại Paris cùng số máy con nội bộ. - Cảm ơn cô. - Ông nói, cảm thấy lo lắng - tôi có thể tìm thấy điện thoại ở đâu?
Sophie định rút chiếc điện thoại di động ra khỏi túi áo len, nhưng Fache phất tay ra hiệu bảo cô cất đi. Lúc này trông ông như núi lửa Vesuvius sắp phun. Không rời mắt khỏi Sophie, ông lấy điện thoại di động của mình chìa ra. - Đường dẫn này an toàn, ông Langdon. Ông có thể dùng nó.
Langdon cảm thấy bối rối bởi sự giận dữ của Fache với người thiếu phụ. Cảm thấy không thoải mái, ông nhận chiếc điện thoại của viên đại uý. Ngay lập tức Fache kéo Sophie ra cách đó vài bước và bắt đầu thấp giọng quở trách cô. Càng lúc càng không ưa viên đại uý, Langdon ngoảnh đi khỏi cuộc đối đầu kỳ lạ và bật máy điện thoại. Xem lại mảnh giấy Sophie vừa đưa cho, Langdon bấm số. Đường dây bắt đầu đầu đổ chuông.
Một hồi ... 2 hồi ... 3 hồi...
Cuối cùng cũng đã kết nối được.
Langdon chờ đợi giọng người trực tổng đài của đại sứ quán, nhưng ông nhận ra rằng mình đang nghe 1 máy trả lời tự động. Lạ thay, giọng nói trong cuốn băng rất quen. Đó là giọng của Sophie Neveu.
- "Bonjour, vous etes bien chez Sophie Neveu..." giọng người phụ nữ vang lên. "Je suis absente pour le moment, mais..."
Bối rối, Langdon quay sang Sophie: - Xin lỗi, cô Neuve. Tôi nghĩ cô đã đưa cho tôi...
- Không, đó là số đúng đấy - Sophie đột ngột ngắt lời, như thể đoán được sự bối rối của Langdon - đại sứ quán có hệ thống nhắn tin tự động. Ông phải bấm mã vào để nghe thấy tin nhắn của ông.
Langdon ngớ ra nhìn: - Nhưng...
- Nó là mã số gồm ba con số trên mảnh giấy tôi đã đưa cho ông.
Langdon mở miệng toan giải thích sự nhầm lẫn kỳ lạ, nhưng Sophie nhìn ông ra hiệu im lặng trong khoảnh khắc. Đôi mắt màu ôliu của cô gửi đi 1 thông điệp rất rõ ràng. Đừng hỏi. Cứ làm thế.
Hoang mang, Langdon bấm số nội bộ trên mảnh giấy nhỏ: 454.
Lời nhắn của Sophie ngay lập tức dừng lại, và Langdon nghe thấy 1 giọng ghi âm điện tử nói tiếng Pháp: "Bạn có 1 tin nhắn". Vẻ như 454 là mã số kết nối từ xa đế Sophie nhận tin nhắn khi cô đi vắng.
Mình đang nghe các tin nhắn của cô ấy?
Langdon có thể nghe thấy tiếng cuộn băng đang tua. Sau cùng, nó dừng lại và cái máy lại hoạt động. Langdon lắng nghe khi tin nhắn bắt đầu vang lên. Giọng nói trên đường dây lại là của Sophie.
"Ông Langdon - tin nhắn bắt đầu với lời thì thầm dễ sợ. - Đừng phản ứng gì với tin nhắn này. Hãy bình tĩnh lắng nghe. Ông đang gặp nguy hiểm. Hãy làm theo thật sát sao những chỉ dẫn của tôi"

the_warm_winter
26-06-2008, 06:53 PM
Chương 10
Silas ngồi sau tay lái chiếc Audi màu đen mà Thầy Giáo đã xếp đặt cho hắn và nhìn ra bên ngoài, dán mắt vào nhà thờ Saint Sulpice, Được chiếu sáng từ bên dưới bởi những dãy đèn pha, 2 tháp chuông vươn lên như những lính gác lực lưỡng bên trên phần thân chính của nhà thờ. Cả 2 bên sườn, 1 hàng cột trụ mờ tối nhô ra như những chiếc xương sườn của 1 con quái vật.
Bọn vô đạo dùng 1 ngôi nhà của Chúa để cất giấu viên đá đỉnh vòm của Chúa. Một lần nữa hội kín này lại khẳng định tiếng tăm về tài lừa lọc và mưu mô đã thành huyền thoại của nó. Silas mong tìm thấy viên đá và đưa nó co Thầy Giáo để có thể lấy lại những gì mà bao lâu nay hội kín đó đã đánh cắp của các tín đồ.
Điều đó sẽ làm cho Opus Dei hùng mạnh xiết bao.
Đỗ chiếc Audi trên quảng trường Saint Sulpice vắng vẻ, Silas thở mạnh, tự nhủ phải sáng trí cho nhiệm vụ phía trước mắt. Cái lưng rộng vẫn còn đau nhức vì sự hành xác hắn đã chịu đựng trước đó, nhưng đau đớn này thấm vào đâu so với nỗi thống khổ của cuộc đời hắn trước khi Opus Dei cứu sống hắn.
Những ký ức vẫn ám ảnh tâm hồn hắn.
Hãy cởi bỏ lòng hận thù, Silas ra lệnh cho mình. Hãy tha thứ cho những kẻ xúc phạm ngươi.
Nhìn lên những tháp đá của nhà thờ Saint Sulpice, Silas cố dẹp cái đợt sóng ngầm quen thuộc ... cái lực thường kéo tâm trí hắn trở ngược thời gian, 1 lần nữa giam hắn trong nhà tù đã từng là thế giới của hắn khi còn trẻ. Như thường lệ, tựa 1 cơn bão, những ký ức ngục tù trở lại với giác quan của hắn ... mùi thối của bắp cải hỏng, mùi thối của những xác chết, nước tiểu và phân người. Những tiếng khóc tuyệt vọng trên nền cơn gió thét gào trong dãy Pyrenees. Và tiếng thổn thức của những con người bị lãng quên.
Andorra, hắn nghĩ, cảm thấy cơ bắp siết chặt.
Không thể tin được là chính ở nơi khô cằn và bị lãng quên đó giữa Tây Ban Nha và Pháp, run rẩy trong xà lim bằng đá, chỉ muốn chết, Silas đã được cứu sống.
Hắn đã không nhận chân ra điều đó ngay lúc đó.
Sau tiếng sấm hồi lâu mới thấy chớp loé.
Tên của hắn dạo ấy không phải là Silas, mặc dù hắn không thể nhớ nổi cái tên mà bố mẹ hắn đặt cho. Hắn bỏ nhà đi lúc lên 7. Cha hắn nghiện rượu, 1 người bốc vác vạm vỡ, nổi điên bởi sự ra đời của đứa con trai bạch tạng, đã thường xuyên đánh mẹ hắn, đổ lỗi cho bà về khiếm khuyết của đứa trẻ. Khi đứa bé cố gắng bảo vệ mẹ mình, nó cũng bị đánh tàn tệ.
Một đêm, cuộc ẩu đả đến hồi khủng khiếp và mẹ nó không trở dậy nữa. Đứa bé đứng nhìn người mẹ đã chết và thấy cảm giác phạm tội trào dâng không sao chịu nổi vì đã để chuyện đó xảy ra.
Lỗi tại mình!
Như thể ma quỷ đang điều khiển thân xác nó, đứa bé đi vào bếp và chụp lấy con dao thái thịt. Như bị thôi miên, nó đi vào phòng ngủ nơi bố nó nằm trên giường trong trạng thái say xỉn.
Không nói 1 lời, nó đâm vào lưng ông ta. Bố nó la lên đau đớn và cố lăn, nhưng thằng con lại tiếp tục đâm nữa, đâm hoài cho đến khi căn phòng hoàn toàn tĩnh lặng.
Thằng bé bỏ trốn khỏi nhà nhưng nó thấy đường phố của Marseilles cũng không thân thiện. Vẻ ngoài kỳ dị khiến nó trở thành lạc lõng giữa những đứa trẻ bụi đời khác, và nó buộc phải sống trong tầng hầm của 1 xưởng máy đổ nát, ăn những hoa quả và cá sống lấy trộm được ở cảng. Bầu bạn duy nhất của nó là những tờ báo rách nát nó tìm thấy trong đồng rác, và nó tự học để đọc chúng. Thời gian trôi đi, nó lớn lên khoẻ mạnh. Khi nó 12 tuổi, 1 kẻ lang bạt khác - 1 cô gái gấp đôi tuổi nó - đã chế nhạo nó trên đường phố và định ăn cắp đồ ăn của nó. Cô gái bị nó đánh thừa sống thiếu chết. Khi nhà chức trách kéo nó ra khỏi cô ta, họ ra cho nó 1 tối hậu thư: hoặc là rời Marseilles hoặc là vào trại cải tạo thanh thiếu niên.
Đứa bé di chuyển theo bờ biển xuống đến Toulon. Cùng với thời gian, những ánh mắt thương hại trên đường phố chuyển thành những cái nhìn sợ hãi. Đứa bé đã trở thành 1 gã trai hùng sức. Khi mọi người đi qua, hắn có thể nghe thấy họ thì thầm với nhau. Một con ma, họ khẽ nói, mắt giương to hoảng sợ khi nhìn làn da trắng của hắn. Một con ma với đôi mắt của quỷ!
Và hắn cảm thấy mình như 1 con ma ... trong suốt ... trôi giạt từ thành phố cảng này sang thành phố cảng khác.
Mọi người dường như nhìn xuyên qua hắn.
Ở tuổi 18, tại 1 thị trấn cảng, trong khi tìm cách lấy trộm 1 hòm thịt muối từ 1 tàu chở hàng, hắn đã bị 2 thuỷ thủ bắt. Hai người đánh hắn sặc mùi bia, giống bố hắn. Những hồi ức về sự sợ hãi và lòng căm thù nổi lên giống như 1 con quái vật từ trong sâu thẳm. Gã trai mới lớn bẻ gãy cổ người thuỷ thủ thứ nhất bằng tay không, và chỉ sự xuất hiện của cảnh sát mới cứu người thuỷ thủ còn lại thoát khỏi tình trạng tương tự.
Hai tháng sau, bị còng tay, hắn đến 1 nhà tù ở Andorra. Mày trắng như ma vậy, những người bạn tù nhạo báng hắn khi người quản giáo đưa hắn vào, trần truồng và lạnh cóng. Có thể ma sẽ xuyên qua tường được!
Qua 20 năm, thân xác và linh hồn hắn héo hon đến mức hắn biết rằng hắn đã trở nên trong suốt.
Ta là 1 con ma.
Ta không trọng lượng.
Yo say un espectro pdlido como un fantasma caminando este mundo a solas.
Một tối, con ma tỉnh dậy bởi tiếng la hét của những người bạn tù. Hắn không biết sức mạnh vô hình nào đã làm lắc sàn nhà nơi hắn đang nằm ngủ, cũng không biết bàn tay vĩ đại nào đang rung vữa của căn phòng giam bằng đá, nhưng khi hắn đứng dậy, 1 tảng đá cuội khổng lồ rơi xuống rất gần chỗ hắn đang ngủ. Ngước lên để xem hòn đá rơi từ đâu, hắn nhìn thấy 1 lỗ hổng trên bức tường đang rung động, và bên ngoài, 1 hình ảnh mà suốt 10 năm qua hắn không được thấy. Mặt trăng.
Trong khi mặt đất vẫn còn rung chuyển, con ma nhìn thấy mình đang bò qua 1 đường hầm hẹp, lảo đảo bước ra 1 không gian rộng lớn và bổ nhào xuống 1 sườn núi cằn lao vào rừng. Hắn chạy suốt đêm, luôn luôn theo chiều đi xuống, mê sảng vì đói và kiệt sức.
Lúc bình mình, gần tỉnh trí lại, hắn thấy mình đang ở 1 khoảng rừng phát quang nơi đường xe lửa cắt 1 vệt xuyên qua khu rừng. Men theo đường xe lửa, hắn đi tiếp như trong mơ. Nhìn thấy 1 toa xe chở hàng rỗng, hắn bò vào trú và nghỉ ngơi. Khi hắn tỉnh dậy, con tàu đang chuyển động. Bao lâu? Bao xa? Một cơn đau dâng lên trong ruột hắn. Mình sắp chết? Hắn lại ngủ. Lần này hắn bị đánh thức bởi 1 ai đó đang quát tháo, đánh đập hắn, quăng hắn ra khỏi toa xe. Người đầy máu, hắn lang thang ngoài bìa 1 ngôi làng nhỏ, tìm kiếm cái ăn trong vô vọng. Cuối cùng quá yếu không đủ sức bước thêm bước nào nữa, hắn nằm xuống bên vệ đường và rơi vào trạng thái bất tỉnh.
Ánh sáng đến từ từ và con ma tự hỏi hắn đã chết được bao lâu. Một ngày? Ba ngày? Điều đó không quan trọng. Giường hắn nằm êm như mây và không khí xung quanh hắn thơm mùi nến.
Chúa Jesu ở đó nhìn xuống hắn. Ở đây, Người nói. Hòn đá đã được gạt sang 1 bên và con được tái sinh.
Hắn ngủ và dậy. Sương mù bao quanh ý nghĩ của hắn. Hắn chưa từng tin vào thiên đường, vậy mà Chúa Jesu đang chăm sóc hắn. Thức ăn bên cạnh giường và con ma ăn, gần như có thể cảm nhận thấy thịt đầy dần lên trên xương mình. Hắn lại ngủ. Khi hắn tỉnh dậy, Chúa Jesu vẫn mỉm cười và nói. Con đã được cứu sống, con trai của ta. Ta ban phước lành cho những kẻ theo đường của ta. Một lần nữa hắn lại ngủ.
Một tiếng thét đau đớn làm con ma giật mình tỉnh giấc. Hắn nhảy ra khỏi giường, lảo đảo đi theo 1 hành lang hướng về phía có tiếng thét. Hắn đi vào nhà bếp và nhìn thấy 1 người đàn ông to lớn đang đánh 1 người nhỏ con hơn. Không cần biết lý do, con ma túm lấy người đàn ông to lớn và lẳng hắn vào tường. Tên này bỏ chạy, để lại con ma đứng nhìn xuống 1 người đàn ông trẻ tuổi trong chiếc áo thầy tu. Người thầy tu bị vỡ mũi. Bế người thầy tu mình đầy máu lên, con ma đưa anh ta đến 1 cái giường.
Người thầy tu nói bằng 1 thứ tiếng Pháp trọ trẹ. "Tiền cúng nhà thờ là thứ cám dỗ bọn trộm cướp. Anh đã nói tiếng Pháp trong giấc ngủ. Anh biết nói tiếng Tây Ban Nha chứ?"
Con ma lắc đầu.
- Tên anh là gì? Anh ta tiếp tục bằng thứ tiếng Pháp bập bõm.
Con ma không thể nhớ được tên mà bố mẹ hắn đặt cho hắn. Tất cả những gì hắn nghe thấy chỉ là những lời mắng nhiếc chế giểu của những người cai ngục.
Người thầy tu mỉm cười: - No hay problema. Tên tôi là Manuel Aringarosa. Tôi là 1 người truyền giáo đến từ Madrid. Tôi được phái đến đây để xây 1 nhà thờ cho dòng tu Obra de Dios.
- Tôi đang ở đâu? - Giọng hắn nghe oang oang.
- Oviedo. Miền bắc Tây Ban Nha.
- Làm sao tôi đến được đây?
- Ai đó đã để anh ở ngưỡng cửa nhà tôi. Anh ốm. Tôi đã cho anh ăn. Anh đã ở đây nhiều ngày.
Con ma chăm chú nhìn người chăm sóc trẻ tuổi của mình. Đã bao năm mới có người tỏ từ tâm với hắn. Hắn nói:
- Cảm ơn, Cha.
Người thầy tu sờ làn môi tướp máu của mình. - Tôi mới là người phải cảm ơn, bạn của tôi.
Tức giấc vào buổi sáng, con ma thấy thế giới của mình sáng rõ hơn. Hắn nhìn lên cây thánh giá trên tường bên trên giường hắn. Mặc dù nó không nói gì với hắn, hắn vẫn cảm thấy 1 vầng sáng an ủi trong sự hiện diện của nó. Ngồi dậy, hắn ngạc nhiên khi nhìn thấy 1 mảnh báo cắt đặt cạnh giường. Bài báo bằng tiếng Pháp 1 tuần trước. Khi đọc bài đó, hắn sợ hãi. Nó nói về trận động đất trong dãy núi đã phá huỷ 1 nhà tù và giải thoát rất nhiều tù nhân nguy hiểm.
Tim hắn bắt đầu đập thình thịch. Người thầy tu biết mình là ai!
Điều hắn cảm thấy lúc nào là 1 cảm giác đã khá lâu rồi chưa đến với hắn. Xấu hổ. Phạm lỗi. Kèm theo nó là nối sợ bị bắt lại. Hắn nhảy khỏi giường. Mình chạy đi đâu?
"Sách thiên tai", 1 giọng nói từ phía cửa.
Con ma quay đầu lại sợ hãi.
Người thầy tu trẻ tuổi mỉm cười đi vào. Mũi anh ta được băng lại 1 cách vụng về, và anh ta đưa ra 1 quyển Kinh thánh cũ. - Tôi tìm thấy 1 bản bằng tiếng Pháp cho anh. Chương này đã được đánh dấu.
Phân vân, con ma cầm quyển kinh thánh và nhìn vào chương được người thầy tu đánh dấu.
Thiên tai - chương 16.
Những câu thơ nói về 1 người tù tên là Silas nằm trần truồng và bị đánh đập trong xà lim, vẫn hát thánh ca ca ngợi Chúa. Khi con ma đọc đến tiết 26, hắn há hốc mồm ngạc nhiên.
Và đột nhiên, có 1 trận động đất lớn khiến nền nhà tù rung chuyển và tất cả các cánh cửa của nhà tù bật mở.
Hắn nhìn chằm chằm vào người thầy tu đang mỉm cười ấm áp: - Từ giờ trở đi, anh bạn, nếu anh không có 1 cái tên nào khác tôi sẽ gọi anh là Silas.
Con ma gật đầu dứt khoát. Silas. Hắn đã có thể xác, không còn là ma nữa. Tên ta là Silas.
- Đã đến giờ ăn sáng - người thầy tu nói. - Anh sẽ cần đến sức khoẻ nếu anh muốn giúp tôi xây nhà thờ này.
Ở độ cao hơn 6000m bên trên biển Địa Trung hải, chuyến bay Air Italia 1618 rung lên, làm cho các hành khách dao động.
Giám mục Aringarosa hầu như không để ý. Ý nghĩ của ông đang hướng về tương lai của Opus Dei, sung sướng khi biết những kế hoạch ở Paris đang tiến triển tốt, ông ước mình có thể gọi điện cho Silas. Nhưng ông không thể. Thầy Giáo đã lo liệu việc đó.
- Đó là vì sự an toàn của bản thân ông - Thầy Giáo giải thích bằng tiếng Anh lơ lớ giọng Pháp. - Tôi đã khá quen liên lạc điện tử để biết là nó có thể bị nghe trộm. Hậu quả đối với ông có thể là thảm hoạ đấy.
Aringarosa biết ông ta đúng. Thầy Giáo là người cẩn thận hiếm có, ông ta không tiết lộ danh tính của mình cho Aringarosa nhưng ông đã tỏ ra là người đáng được nghe lời. Bằng cách nào đó ông ta đã lấy được những thông tin rất bí mật. Tên của 4 thành viên đứng đầu tu viện Sion. Đây là 1 trong những thành công thuyết phụ giám mục rằng Thầy Giáo thực sự có khả năng mang về chiến lợi phẩm đáng kinh ngạc mà ông ta đã khẳng định là mình có thể moi ra.
- Giám mục - Thầy Giáo nói với ông. - Tôi đã sắp xếp mọi việc. Để kế hoạch của tôi thành công, ông phải để Silas chỉ được nhận điện của tôi trong vòng vài ngày. Hai thầy trò ông không được nói chuyện với nhau, tôi sẽ liên lạc với anh ta qua những kênh an toàn.
- Ông sẽ tôn trọng anh ta chứ?
- Một người trung thành xứng đáng được tôn trọng nhất.
- Tuyệt! Vậy thì tôi hiểu rồi. Silas và tôi sẽ không liên lạc với nhau cho đến khi việc này kết thúc.
- Tôi làm điều này để bảo vệ danh tính của ông, danh tính của Silas, và sự đầu tư của tôi.
- Sự đầu tư của ông?
- Giám mục, nếu vì lòng khát khao muốn sánh ngang tầm sự tiến bộ mà ông phải vào tù thì ông sẽ không thể trả công cho tôi.
Giám mục mỉm cười: - Một điểm tuyệt vời. Khát vọng của chúng ta hợp nhau. Chúc may mắn.
Hai mơi triệu euro, giám mục nghĩ, đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ máy bay. Khoản tiền này quy sang đôla Mỹ cũng xấp xỉ con số đó. Một khoản thù lao nhỏ để đạt được 1 thứ đầy quyền năng đến thế.
Ông cảm thấy lại càng tin rằng Thầy Giáo và Silas sẽ không thất bại, tiền và sự trung thành là những động lực mạnh mẽ.

the_warm_winter
28-06-2008, 02:21 AM
Chương 11
Un plasaniterie numericque, Bezu Fache tái mặt nhìn Sophie Neveu không tin. Một trò đùa bằng số?
- Theo đánh giá chuyên môn của cô thì mật mã của Saunière là 1 loại trò chơi toán học sao?
Fache hoàn toàn không hiểu nổi sự táo tợn của người phụ nữ này. Cô ta không chỉ xông bừa vào chỗ Fache không xin phép mà giờ đây còn đang cố gắng thuyết phục ông ta rằng Saunière, trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời mình đã nổi hứng để lại 1 câu đố toán học?
- Mật mã này - Sophie giải thích nhanh bằng tiếng Pháp - giản đơn đến mức phi lí. Jacques Saunière chắc chắn đã biết chúng ta sẽ hiểu nó ngay lập tức. Cô lôi ra 1 miếng giấy nhỏ từ túi áo len và đưa cho Fache. - Đây là lời giải mã.
Fache nhìn vào tờ giấy.
1-2-3-5-8-13-21
- Đây là nó sao? - Ông ta ngắt lời. - Tất cả những gì cô làm là đặt những con số theo 1 thứ tự tăng dần!
Sophie thực sự có gan mới dám nở 1 nụ cười thoả mãn: - Chính xác.
Giọng Fache hạ xuống thành 1 tiếng gầm gừ trong cổ họng:
- Nhân viên Neveu, tôi không biết cô sẽ đi đến đâu với cái trò ma này, nhng tôi khuyên cô hãy kết thúc cho nhanh.
Ông ta ném 1 cái nhìn lo âu về phía Langdon đang đứng gần đó, điện thoại áp vào tai, hiển nhiên là đang nghe tin nhắn qua điện thoại từ Đại sứ quán Mỹ. Bằng vào vẻ mặt tái mét của Langdon, Fache cảm thấy đó là tin xấu.
- Đại uý - Sophie nói, giọng đầy thách thức, - dãy số mà ông có trong tay ngẫu nhiên lại là 1 trong những cấp số toán học nổi tiếng nhất trong lịch sử.
Fache không biết thậm chí còn có 1 cấp toán học được đánh giá là nổi tiếng, và ông ta chắc chắn không đánh giá cao cái giọng sàm sỡ của Sophie.
- Đây là sãy số Fibonacci - cô tuyên bố, hất đầu về phía mảnh giấy trong tay Fache. - Một dãy số trong đó mỗi số là tổng của 2 số đứng liền trước nó.
Fache nhìn chăm chú các con số. Mỗi số đúng là tổng của 2 số liền trước, nhưng Fache không thể hình dung ra được nó có liên quan gì với cái chết của Saunière.
- Nhà toán học Leonardo Fibonacci đã tạo ra dãy sỗ này vào thế kỷ XIII. Rõ ràng, khi tất cả các con số Saunière viết trên sàn đều thuộc dãy số nổi tiếng của Fibonacci thì không thể là trùng hợp ngẫu nhiên được.
Fache trừng trừng nhìn người thiếu phụ mấy giây: - Tốt, nếu không có sự trùng hợp, cô có thể nói cho tôi biết tại sao Saunière lại làm như thế. Ông ấy định nói gì? Điều này nghĩa là thế nào?
Cô nhún vai: - Tuyệt đối không có nghĩa gì cả. Đó chính là vấn đề. Nó là 1 trò đùa mật mã đơn giản. Giống như lấy những chữ trong 1 bài thơ nổi tiếng xáo trộn lung tung lên để xem liệu có ai nhận ra tất cả các chữ ấy có điểm gì chung nhau.
Fache tiến lên 1 bước đầy vẻ hăm doạ, mặt ông ta chỉ cách mặt Sophie vài phân: - Tôi dứt khoát hy vọng cô có 1 sự giải thích thoả đáng hơn thế nhiều.
Nét mặt dịu dàng của Sophie bỗng trở nên nghiêm nghị lạ lùng: - Đại uý, xét tình thế bất ổn của ông ở đây tối nay, tôi đã tưởng ông có thể hàm ơn khi được biết rằng Jacques Saunière đang chơi trò chơi với ông. Nhưng rõ ràng là không. Tôi sẽ thông báo với chỉ huy phòng Mật mã rằng ông không còn cần đến sự phục vụ của chúng tôi nữa.
Nói xong, cô quay gót và đi ra ngoài theo lối mà cô đã vào.
Choáng váng, Fache nhìn cô biến mất trong bóng tối. Cô ta mất trí hay sao? Sophie vừa định nghĩa lại thuật ngữ le suicide Professionnel.
Fache quay sang Langdon, vẫn đang áp máy điện thoại vào tai, có vẻ lo lắng hơn lúc trước, lắng nghe chăm chú tin nhắn.
Đại sứ quán Mỹ. Bazu Fache khinh thường nhiều thứ... nhưng ít thứ gây phẫn nộ hơn Đại sứ quán Mỹ.
Fache và đại sứ Mý thường xuyên đọ sừng với nhau về những vấn đề nhà nước mà 2 bên cùng quan tâm - đấu trường thông thường nhất là sự tuân thủ luật pháp đối với những du khách người Mỹ - gần như hàng ngày DCPJ bắt giữ các du học sinh người Mỹ sở hữu ma tuý, các thương nhân Mỹ vì khuyến dụ các hành vi mãi dâm trẻ em, các khách du lịch Mỹ vì tội lấy cắp hàng trong các cửa hàng hoặc phá hoại tài sản. Đại sứ quán Mỹ có thể can thiệp 1 cách hợp pháp vào việc trao trả các công dân vi phạm về Mỹ, ở đó họ chẳng phải nhận bất kỳ sự trừng phạt nào ngoài 1 hình phạt lấy lệ.
Và trước sau như 1, đại sứ quán Mỹ chỉ làm có thế.
L'emasculation de la Police Juidiciere, Fache gọi điều đó như vật. Paris Match gần đây đã vẽ 1 bức tranh biếm hoạ miêu tả Fache như 1 con chó cảnh sát, đang cố cắn 1 phạm nhân người Mỹ, nhưng không thể bởi vì nó bị xích vào đại sứ quán Mỹ.
Không phải tối nay - Fache tự nhủ. Có quá nhiều thứ đang bị đe doạ.
Khi Langdon gác máy, trông ông như ốm.
- Mọi chuyện đều ổn cả chứ? - Fache hỏi.
Một cách yếu ớt, Langdon lắc đầu.
Tin xấu từ gia đình, Fache linh cảm, để ý thấy Langdon hơi toát mồ hôi khi Fache nhận lại điện thoại.
- Một tai nạn - Langdon lắp bắp, nhìn Fache với sắc mặt khác lạ, - 1 người bạn..." ông do dự. - Tôi cần phải bay về nhà trong chuyến bay đầu tiên vào buổi sáng.
Fache tin chắc vẻ bàng hoàng trên mặt Langdon là chân thật, nhưng ông ta linh cảm còn có 1 xúc cảm khác ở đó, như thể 1 nỗi sợ hãi xa xăm đột nhiên sôi âm ỉ trong đôi mắt của người Mỹ này. - Tôi rất tiếc - Fache nói, nhìn Langdon kỹ càng.
- Ông có muốn ngồi xuống không? - Ông ta chỉ vào 1 cái ghế dài để ngồi ngắm tranh trong hành lang.
Langdon gật đầu 1 cách lơ đãng và bước vài bước về phía chiếc ghế dài. Ông dừng lại, coi bộ mỗi lúc 1 thêm bối rối. - Thực sự, tôi nghĩ tôi muốn dùng nhà vệ sinh.
Trong thâm tâm, Fache thấy khó chịu vì sự trì hoãn này: - Nhà vệ sinh. Tất nhiên. Ta hãy tạm nghỉ vài phút. Ông ta chỉ trở lui theo hướng họ đã đi vào. - Nhà vệ sinh ở về phía văn phòng của ông phụ trách bảo tàng.
Langdon ngập ngừng chỉ về đầu đằng kia hành lang lớn. - Tôi nghĩ có 1 nhà vệ sinh gần hơn nhiều ở đầu kia.
Fache nhận ra rằng Langdon nói đúng. Họ đã đi được 2 phần 3 quãng đường, và hành lang lớn có 2 nhà vệ sinh ở 2 đầu. - Tôi có cần đưa ông đi không?
Langdon lắc đầu, đã dấn sâu hơn vào hành lang: - không cần thiết. Tôi nghĩ tôi muốn có vài phút 1 mình.
Fache không khoái gì cái ý để Langdon lang thang 1 mình trong quãng đường còn lại của hành lang, nhưng ông ta biết rằng hành lang lớn là 1 ngõ cụt mà mọi người chỉ có thể đi ra ở đầu kia - cánh cổng mà họ đã bò qua. Dù những quy định phòng cháy của Pháp yêu cầu 1 vài cầu thang thoát hiểm cho không gian rộng lớn này, nhưng các cầu thang này đã tự động đóng lại khi Saunière khởi động hệ thống bảo vệ. Cứ cho là hệ thống đó đã được khởi động lại, không khoá các cầu thang thoát hiểm, nhưng cũng không hề gì, các cửa bên ngoài, nếu mở, sẽ khởi động chuông báo cháy và có các nhân viên DCPJ gác ở bên ngoài. Langdon không thể rời đây mà Fache không biết.
- Tôi cần trở lại văn phòng ông Saunière 1 lát – Fache nói. Hãy đến thẳng đó tìm tôi, ông Langdon. Chúng ta cần bàn luận thêm.
- Langdon vẫy tay ra hiệu đồng ý, rồi biến mất trong bóng tối.
Quay gót, Fache bước giận dữ theo hướng ngược lại. Đến cánh cổng bảo vệ, ông trườn qua, ra khỏi hành lang lớn, đi xuống sảnh, và đi vào trung tâm chỉ huy ở văn phòng ông Saunière.
- Ai đã cho phép Sophie Neveu vào toà nhà này? – Fache gầm lên.
Collet là người đầu tiên trả lời: - cô ấy nói với lính gác bên ngoài là cô ấy đã giải được mật mã.
Fache nhìn quanh: - Cô ấy đi khỏi chưa?
- Cô ấy không ở chỗ ông sao?
- Cô ấy đã bỏ đi. Fache nhìn ra hành lang tối tăm. Xem ra Sophie chắc chẳng hứng thú gì dừng lại trò chuyện với những nhân viên khác trên đường ra.
Trong 1 khoảnh khắc, ông nghĩ đến việc gọi cho lính gác trong tầng xép và bảo họ ngăn và lôi cô ta trở lại đây trước khi cô rời khỏi ngôi nhà. Rồi ông ta nghĩ là không nên làm thế. Đó chỉ là tính tự cao của ông đang lên tiếng… muốn giành tiếng nói cuối cùng. Ông đã có quá đủ sự rối trí trong buổi tối hôm nay.
Xử lý nhân viên Neveu sau, ông ta tự nhủ, đã tính tới chuyện sa thải cô ta.
Đẩy Sophie ra khỏi đầu, Fache liếc nhìn bức tượng kỵ sĩ đang đứng trên bàn ông Saunière. Rồi ông ta quay lại phía Collet: - Cậu có thấy ông ta không?
Collet gật đầu rồi quay cái máy tính xách tay về phía Fache.
Chấm đỏ hiện rõ trên tấm bản đồ, nhấp nháy đều đặn trong 1 căn phòng có ghi :Vệ sinh công cộng.
- Tốt – Fache nói, đốt 1 điếu thuốc lá và oai vệ đi vào sảnh. Tôi phải gọi 1 cuộc điện thoại. Phải thật đảm bảo rằng phòng vệ sinh là nơi duy nhất Langdon đến.

Chương 12
Robert Langdon thấy đầu óc quay cuồng khi lên bước về cuối hành lang lớn. Tin nhắn điện thoại của Sophie cứ tua đi tua lại trong tâm trí ông. Ở cuối hành lang, các bảng phản quang với hình vẽ tượng trưng chỉ phòng vệ sinh đã dẫn ông đi qua hàng loạt nhằng nhịt những tấm ngăn đôi hành lang theo chiều dọc, phô những ký hoạ Ý và che phòng vệ sinh khỏi tầm nhìn.
Tìm thấy cửa phòng dành cho nam, Langdon đi vào và bật đèn.
Căn phòng trống rỗng.
Đi tới bồn rửa mặt, ông té nước lạnh lên mặt và cố tỉnh táo.
Những bóng đèn huỳnh quang chói chang chiếu xuống sàn lát đá ảm đạm, căn phòng sực mùi amôniăc. Khi ông lau mặt, cánh cửa nhà vệ sinh kêu kẽo kẹt, mở ra sau lưng ông. Ông quay lại.
Sophie Neveu đi vào, đôi mắt xanh ánh lên nỗi lo sợ.
Đội ơn Chúa, ông đã đến. Chúng ta không có nhiều thời gian.
Langdon đứng cạnh bồn rửa, ngỡ ngàng nhìn nhân viên mật mã của DCPJ Sophie Neveu. Chỉ 1 phút trước, Langdon nghe tin nhắn điện thoại của cô, nghĩ rằng nữ nhân viên mật mã mới đến này chắc là bị mất trí. Nhưng càng nghe, ông càng cảm thấy Sophie đang nói chân thành. – Đừng phản ứng gì với tin nhắn này. Hãy bình tĩnh lắng nghe. Ngay lúc này ông đang gặp nguy hiểm. Hãy làm theo thật sát sao những chỉ dẫn của tôi. Dù còn hoài nghi, Langdon đã quyết định làm đúng theo lời Sophie khuyên. Ông nói với Fache rằng tin nhắn điện thoại liên quan đến 1 người bạn bị thương ở nhà. Sau đó ông hỏi dùng nhà vệ sinh ở cuối hành lang lớn. Bây giờ Sophie đã đứng trước mặt ông, vẫn còn hổn hển lấy lại hơi sau khi vòng lại phòng vệ sinh. Trong ánh đèn huỳnh quang, Langdon ngạc nhiên nhìn thấy vẻ mạnh mẽ thực sự toả ra từ nét mặt dịu dàng đến bất ngờ. Chỉ cái nhìn là sắc, và sự chồng xếp ấy gợi nhớ đến những hình ảnh trong 1 bức chân dung nhiều lớp của Renoir… kín đáo mà rõ rành, với 1 sự táo bạo mà cách nào đó, vẫn giữ được tấm mạng đầy huyền bí.
- Tôi muốn cảnh báo ông, ông Langdon… - Sophie bắt đầu, vẫn hổn hển. – Ông đang sous surveillance cachee dưới sự giám sát chặt chẽ. Những câu tiếng Anh lơ lớ của cô dội vào tường ốp đá khiến giọng cô nghe ồm ồm.
- Nhưng… tại sao? – Langdon hỏi. Sophie đã giải thích với ông trên điện thoại, nhưng ông muốn nghe nó từ chính miệng cô.
- Bởi vì – cô nói, tiến về phía ông – nghi phạm chính của Fache trong vụ án mạng này là ông.
Langdon cố nắm bắt từng lời, nhưng nghe vẫn hết sức kỳ cục. Theo Sophie, đêm nay Langdon bị gọi đến bảo tàng Louvre không phải với tư cách là 1 nhà ký tượng học mà như 1 nghi phạm và hiện tại đang là mục tiêu của 1 trong những phương pháp tra hỏi ưu thích nhất của DCPJ mà không biết – sous surveillance cachee – 1 mánh khoé khéo léo trong đó cảnh sát thản nhiên mời kẻ tình nghi đến hiện trường vụ án và phỏng vấn anh ta với hy vọng anh ta sẽ hoảng sợ và tự buộc tội mình.
- Hãy nhìn vào túi bên trái áo vét-tông của ông – Sophie nói. Ông sẽ tìm ra bằng chứng của việc họ đang theo dõi ông.
Langdon cảm thấy nỗi lo sợ dâng lên. Nhìn vào túi? Nó nghe có vẻ giống 1 trò ảo thuật rẻ tiền.
- Cứ nhìn xem.
Hoang mang, Langdon cho tay vào túi bên trái của chiếc áo vét-tông tuýt – cái túi ông không bao giờ dùng đến. Sờ khắp bên trong 1 lượt, ông không tìm thấy gì. Cô chờ đợi cái quái gì chứ? Ông bắt đầu tự hỏi rút cục, Sophie có điên không. Thế rồi, những ngón tay ông chạm phải 1 vật gì đó. Nhỏ và cứng.
Kẹp vật tí hon giữa các ngón tay, Langdon lôi ra và giương mắt nhìn kinh ngạc. Đó là 1 cái đĩa kim loại, hình khuy, có kích thước bằng viên pin đồng hồ. Ông chưa từng nhìn thấy nó trước đây. - Vật này…?
- Đó là thiết bị theo dấu tích GPS – Sophie nói. – Liên tục truyền vị trí của nó với 1 vệ tinh thuộc hệ thống định vị toàn cầu mà DCPJ kiểm soát được. Chúng tôi sử dụng nó để theo dõi vị trí của mọi người. Nó chuẩn xác tới mức trong bán kính 60cm ở mọi nơi trên thế giới. Họ xích ông bằng 1 sợi dây điện tử. Viên cảnh sát đến đón ông ở khách sạn đã nhét nó vào túi ông trước khi ông rời phòng.
Langdon nhớ lại lúc ở phòng khách sạn… Ông tắm qua, mặc quần áo, nhân viên DCPJ lịch sự đưa cho ông chiếc áo ngoài bằng vải tuýt khi họ rời khỏi phòng. Bên ngoài rất lạnh, ông Langdon – viên cảnh sát nói. Mùa xuân ở Paris không hoàn toàn như trong bài hát đâu. Langdon cảm ơn và mặc chiếc áo vào.
Đôi mắt màu ôliu của Sophie thật sắc sảo. – Tôi đã không nói với ông về thiết bị này lúc trước vì tôi không muốn ông kiểm tra túi áo trước mặt Fache. Ông ta không thể biết là ông đã tìm ra nó.
Langdon không biết phải phản ứng như thế nào.
Họ theo dõi ông với thiết bị GPS vì họ nghĩ ông có thể chạy trốn – cô ngừng lại. Trên thực tế, họ hy vọng ông sẽ chạy, điều đó sẽ làm cho lập luận của họ thêm vững chắc.
- Tại sao tôi phải chạy? – Langdon hỏi. – Tôi vô tội!
- Fache thì nghĩ khác
Tức giận, Langdon đi thẳng về phía thùng rác định vất cái đĩa GPS.
- Không! – Sophie chụp lấy tay ông, ngăn lại. – Hãy để nó vào túi áo ông. Nếu ông vất nó đi, tín hiệu sẽ không di chuyển, và họ sẽ biết là ông đã tìm ra vật nhỏ xíu đó. Lý do duy nhất mà Fache để ông ở 1 mình là vì ông ta có thể kiểm soát ông đang ở đâu. Nếu ông ta nghĩ ông phát hiện ra việc ông ta đang làm… - Sophie không nói hết suy nghĩ của mình. Thay vào đó, cô lấy cái đĩa kim loại từ tay Langdon và cho nó vào túi áo ngoài của ông. - Vật nhỏ này phải ở lại với ông. Ít nhất là trong lúc này.
Langdon cảm thấy hoang mang. – Làm thế quái nào mà Fache có thể tin là tôi giết Jacques Saunière chứ?
- Ông ta có 1 vài lý do tương đối thuyết phục để nghi ngờ ông. Vẻ mặt Sophie nghiêm nghị. – Có 1 tang chứng ở đây mà ông chưa thấy. Fache đã thận trọng giấu khuất mắt ông.
Langdon chỉ biết giương mắt nhìn.
- Ông còn nhớ 3 dòng chữ Saunière viết trên sàn chứ?
Langdon gật đầu. Những con số và chữ ấy đã in sâu trong tâm trí ông. Sophie hạ thấp xuống thành 1 tiếng thì thầm: - Thật không may những gì ông nhìn thấy không phải là toàn bộ lời nhắn. Có 1 dòng thứ tư mà Fache đã chụp ảnh rồi xoá đi trước khi ông tới.
Dù Langdon biết mực hoà tan của loại bút nỉ ngấm nước có thể dễ dàng xoá đi, ông cũng không thể tưởng tượng tại sao Fache lại xoá tang chứng.
- Dòng cuối của lời nhắn – Sophie nói – là điều Fache không muốn ông biết, cô dừng lại – ít nhất cho tới khi ông ta buộc tội được ông. Cô lấy 1 tấm ảnh in từ máy tính ra khỏi túi áo và giở ra. Fache đã gửi những hình ảnh về hiện trường vụ án đến phòng mật mã lúc tối nay với hy vọng chúng tôi có thể chỉ ra lời nhắn của Saunière định nói gì. Đây là ảnh của lời nhắn đầy đủ. – Cô đưa tờ giấy cho Langdon.
Ngỡ ngàng, Langdon nhìn vào hình ảnh đó. Một ảnh cận cảnh phơi bày lời nhắn rực sáng trên sàn gỗ. Dòng cuối cùng làm Langdon lo đến thắt ruột.
13-3-2-2-8-5
Ôi quỷ hà khắc!
Ôi, thánh yếu đuối!
P.S. Tìm Robert Langdon.

Chương 12
Robert Langdon thấy đầu óc quay cuồng khi lên bước về cuối hành lang lớn. Tin nhắn điện thoại của Sophie cứ tua đi tua lại trong tâm trí ông. Ở cuối hành lang, các bảng phản quang với hình vẽ tượng trưng chỉ phòng vệ sinh đã dẫn ông đi qua hàng loạt nhằng nhịt những tấm ngăn đôi hành lang theo chiều dọc, phô những ký hoạ Ý và che phòng vệ sinh khỏi tầm nhìn.
Tìm thấy cửa phòng dành cho nam, Langdon đi vào và bật đèn.
Căn phòng trống rỗng.
Đi tới bồn rửa mặt, ông té nước lạnh lên mặt và cố tỉnh táo.
Những bóng đèn huỳnh quang chói chang chiếu xuống sàn lát đá ảm đạm, căn phòng sực mùi amôniăc. Khi ông lau mặt, cánh cửa nhà vệ sinh kêu kẽo kẹt, mở ra sau lưng ông. Ông quay lại.
Sophie Neveu đi vào, đôi mắt xanh ánh lên nỗi lo sợ.
Đội ơn Chúa, ông đã đến. Chúng ta không có nhiều thời gian.
Langdon đứng cạnh bồn rửa, ngỡ ngàng nhìn nhân viên mật mã của DCPJ Sophie Neveu. Chỉ 1 phút trước, Langdon nghe tin nhắn điện thoại của cô, nghĩ rằng nữ nhân viên mật mã mới đến này chắc là bị mất trí. Nhưng càng nghe, ông càng cảm thấy Sophie đang nói chân thành. – Đừng phản ứng gì với tin nhắn này. Hãy bình tĩnh lắng nghe. Ngay lúc này ông đang gặp nguy hiểm. Hãy làm theo thật sát sao những chỉ dẫn của tôi. Dù còn hoài nghi, Langdon đã quyết định làm đúng theo lời Sophie khuyên. Ông nói với Fache rằng tin nhắn điện thoại liên quan đến 1 người bạn bị thương ở nhà. Sau đó ông hỏi dùng nhà vệ sinh ở cuối hành lang lớn. Bây giờ Sophie đã đứng trước mặt ông, vẫn còn hổn hển lấy lại hơi sau khi vòng lại phòng vệ sinh. Trong ánh đèn huỳnh quang, Langdon ngạc nhiên nhìn thấy vẻ mạnh mẽ thực sự toả ra từ nét mặt dịu dàng đến bất ngờ. Chỉ cái nhìn là sắc, và sự chồng xếp ấy gợi nhớ đến những hình ảnh trong 1 bức chân dung nhiều lớp của Renoir… kín đáo mà rõ rành, với 1 sự táo bạo mà cách nào đó, vẫn giữ được tấm mạng đầy huyền bí.
- Tôi muốn cảnh báo ông, ông Langdon… - Sophie bắt đầu, vẫn hổn hển. – Ông đang sous surveillance cachee dưới sự giám sát chặt chẽ. Những câu tiếng Anh lơ lớ của cô dội vào tường ốp đá khiến giọng cô nghe ồm ồm.
- Nhưng… tại sao? – Langdon hỏi. Sophie đã giải thích với ông trên điện thoại, nhưng ông muốn nghe nó từ chính miệng cô.
- Bởi vì – cô nói, tiến về phía ông – nghi phạm chính của Fache trong vụ án mạng này là ông.
Langdon cố nắm bắt từng lời, nhưng nghe vẫn hết sức kỳ cục. Theo Sophie, đêm nay Langdon bị gọi đến bảo tàng Louvre không phải với tư cách là 1 nhà ký tượng học mà như 1 nghi phạm và hiện tại đang là mục tiêu của 1 trong những phương pháp tra hỏi ưu thích nhất của DCPJ mà không biết – sous surveillance cachee – 1 mánh khoé khéo léo trong đó cảnh sát thản nhiên mời kẻ tình nghi đến hiện trường vụ án và phỏng vấn anh ta với hy vọng anh ta sẽ hoảng sợ và tự buộc tội mình.
- Hãy nhìn vào túi bên trái áo vét-tông của ông – Sophie nói. Ông sẽ tìm ra bằng chứng của việc họ đang theo dõi ông.
Langdon cảm thấy nỗi lo sợ dâng lên. Nhìn vào túi? Nó nghe có vẻ giống 1 trò ảo thuật rẻ tiền.
- Cứ nhìn xem.
Hoang mang, Langdon cho tay vào túi bên trái của chiếc áo vét-tông tuýt – cái túi ông không bao giờ dùng đến. Sờ khắp bên trong 1 lượt, ông không tìm thấy gì. Cô chờ đợi cái quái gì chứ? Ông bắt đầu tự hỏi rút cục, Sophie có điên không. Thế rồi, những ngón tay ông chạm phải 1 vật gì đó. Nhỏ và cứng.
Kẹp vật tí hon giữa các ngón tay, Langdon lôi ra và giương mắt nhìn kinh ngạc. Đó là 1 cái đĩa kim loại, hình khuy, có kích thước bằng viên pin đồng hồ. Ông chưa từng nhìn thấy nó trước đây. - Vật này…?
- Đó là thiết bị theo dấu tích GPS – Sophie nói. – Liên tục truyền vị trí của nó với 1 vệ tinh thuộc hệ thống định vị toàn cầu mà DCPJ kiểm soát được. Chúng tôi sử dụng nó để theo dõi vị trí của mọi người. Nó chuẩn xác tới mức trong bán kính 60cm ở mọi nơi trên thế giới. Họ xích ông bằng 1 sợi dây điện tử. Viên cảnh sát đến đón ông ở khách sạn đã nhét nó vào túi ông trước khi ông rời phòng.
Langdon nhớ lại lúc ở phòng khách sạn… Ông tắm qua, mặc quần áo, nhân viên DCPJ lịch sự đưa cho ông chiếc áo ngoài bằng vải tuýt khi họ rời khỏi phòng. Bên ngoài rất lạnh, ông Langdon – viên cảnh sát nói. Mùa xuân ở Paris không hoàn toàn như trong bài hát đâu. Langdon cảm ơn và mặc chiếc áo vào.
Đôi mắt màu ôliu của Sophie thật sắc sảo. – Tôi đã không nói với ông về thiết bị này lúc trước vì tôi không muốn ông kiểm tra túi áo trước mặt Fache. Ông ta không thể biết là ông đã tìm ra nó.
Langdon không biết phải phản ứng như thế nào.
Họ theo dõi ông với thiết bị GPS vì họ nghĩ ông có thể chạy trốn – cô ngừng lại. Trên thực tế, họ hy vọng ông sẽ chạy, điều đó sẽ làm cho lập luận của họ thêm vững chắc.
- Tại sao tôi phải chạy? – Langdon hỏi. – Tôi vô tội!
- Fache thì nghĩ khác
Tức giận, Langdon đi thẳng về phía thùng rác định vất cái đĩa GPS.
- Không! – Sophie chụp lấy tay ông, ngăn lại. – Hãy để nó vào túi áo ông. Nếu ông vất nó đi, tín hiệu sẽ không di chuyển, và họ sẽ biết là ông đã tìm ra vật nhỏ xíu đó. Lý do duy nhất mà Fache để ông ở 1 mình là vì ông ta có thể kiểm soát ông đang ở đâu. Nếu ông ta nghĩ ông phát hiện ra việc ông ta đang làm… - Sophie không nói hết suy nghĩ của mình. Thay vào đó, cô lấy cái đĩa kim loại từ tay Langdon và cho nó vào túi áo ngoài của ông. - Vật nhỏ này phải ở lại với ông. Ít nhất là trong lúc này.
Langdon cảm thấy hoang mang. – Làm thế quái nào mà Fache có thể tin là tôi giết Jacques Saunière chứ?
- Ông ta có 1 vài lý do tương đối thuyết phục để nghi ngờ ông. Vẻ mặt Sophie nghiêm nghị. – Có 1 tang chứng ở đây mà ông chưa thấy. Fache đã thận trọng giấu khuất mắt ông.
Langdon chỉ biết giương mắt nhìn.
- Ông còn nhớ 3 dòng chữ Saunière viết trên sàn chứ?
Langdon gật đầu. Những con số và chữ ấy đã in sâu trong tâm trí ông. Sophie hạ thấp xuống thành 1 tiếng thì thầm: - Thật không may những gì ông nhìn thấy không phải là toàn bộ lời nhắn. Có 1 dòng thứ tư mà Fache đã chụp ảnh rồi xoá đi trước khi ông tới.
Dù Langdon biết mực hoà tan của loại bút nỉ ngấm nước có thể dễ dàng xoá đi, ông cũng không thể tưởng tượng tại sao Fache lại xoá tang chứng.
- Dòng cuối của lời nhắn – Sophie nói – là điều Fache không muốn ông biết, cô dừng lại – ít nhất cho tới khi ông ta buộc tội được ông. Cô lấy 1 tấm ảnh in từ máy tính ra khỏi túi áo và giở ra. Fache đã gửi những hình ảnh về hiện trường vụ án đến phòng mật mã lúc tối nay với hy vọng chúng tôi có thể chỉ ra lời nhắn của Saunière định nói gì. Đây là ảnh của lời nhắn đầy đủ. – Cô đưa tờ giấy cho Langdon.
Ngỡ ngàng, Langdon nhìn vào hình ảnh đó. Một ảnh cận cảnh phơi bày lời nhắn rực sáng trên sàn gỗ. Dòng cuối cùng làm Langdon lo đến thắt ruột.
13-3-2-2-8-5
Ôi quỷ hà khắc!
Ôi, thánh yếu đuối!
P.S. Tìm Robert Langdon.

the_warm_winter
28-06-2008, 02:56 AM
Chương 13
Trong vài giây, Langdon nhìn vào dòng tái bút của Saunière. Tái bút. Tìm Robert Langdon. Ông thấy như thể nền nhà đang chao đảo dưới chân. Saunière đã để lại lời tái bút với tên mình trên đó? Trong những giấc mơ cuồng dại nhất, Langdon cũng không thể tìm ra lý do tại sao.
- Bây giờ thì ông hiểu chứ - Sophie nói, mắt cô thúc giục. Tại sao Fache yêu cầu ông đến đây đêm nay và tại sao ông là nghi phạm số 1?
Điều duy nhất mà Langdon có thể hiểu lúc này là tại sao Fache lại có vẻ tự mãn đến thế khi Langdon nêu ý kiến rằng lẽ ra Saunière phải chỉ đích danh kẻ giết ông ta.
Tìm Robert Langdon. Tại sao Saunière viết dòng này? Langdon tự hỏi, sự bối rỗi giờ nhường chỗ cho cáu giận. – Tại sao tôi lại muốn giết ông Jacques Saunière chứ?
- Fache còn phải tìm ra 1 động cơ, nhưng ông ta đã ghi âm toàn bộ cuộc nói chuyện của ông ta với ông đêm nay với hy vọng ông có thể để lộ 1 điều gì đó.
Langdon mở miệng, nhưng không nói được lời nào.
- Ông ta cài 1 micro nhỏ xíu trong người – Sophie giải thích. Nó được nối với 1 máy phát trong túi áo ông ta và truyền tín hiệu về sở chỉ huy.
- Điều này là không thể - Langdon lắp bắp. – Tôi có bằng chứng ngoại phạm. Tôi về thẳng khách sạn sau buổi thuyết giảng. Các người có thể hỏi quầy tiếp tân của khách sạn.
- Fache đã làm việc đó. Báo cáo của ông ta chỉ ra rằng ông lấy chìa khoá từ người thường trực lúc khoảng 10h30 tối. Thật không may, thời gian của vụ giết người lại là lúc gần 11h. Ông có thể dễ dàng lẻn ra khỏi phòng khách sạn mà không ai thấy.
- Điều này thật điên rồ. Fache không có bằng chứng.
Mắt Sophie mở to như để nói: không có bằng chứng sao?.
- Ông Langdon, tên ông được viết trên sàn nhà cạnh thi thể nạn nhân, và cuốn sổ ghi các cuộc hẹn của ông Saunière nói rằng ông ở cùng với ông ta gần khớp với thời gian của vụ sát hại. – Cô dừng lại. – Fache có thừa bằng chứng để tạm bắt ông để hỏi cung.
Langdon chợt cảm thấy mình cần 1 luật sư: - Tôi không làm việc này.
Sophie thở dài: - Đây không phải là truyền hình Mỹ, ông Langdon. Ở Pháp, luật pháp bảo vệ cảnh sát, chứ không phải bọn tội phạm. Thật không may, trong trường hợp này, còn có cả sự chú ý của phương tiện thông tin đại chúng. Jacques Saunière là 1 người rất nổi tiếng và là nhân vật được yêu quý ở Paris, vụ sát hại ông sẽ được đưa tin ngay sáng hôm sau. Dưới áp lực tức thời, Fache sẽ phải có 1 kẻ tình nghi trong phòng tạm giam. Dù ông có tội hay không, chắc chắn ông cũng sẽ bị DCPJ giữ cho đến khi họ khám phá ra điều đã thực sự xảy ra.
Langdon cảm thấy như con thú trong chuồng: - Tại sao cô nói cho tôi tất cả những chuyện này?
- Bởi vì, ông Langdon, tôi tin ông vô tội. – Sophie nhìn đi chỗ khác trong 1 khoảnh khắc và rồi lại nhìn vào mắt ông. – Và cũng vì tôi có 1 phần lỗi khi để ông vướng vào chuyện này.
- Tôi xin lỗi? Là lỗi của cô khi Saunière cố mưu hại tôi sao?
- Saunière không cố mưu hại ông. Đó là 1 nhầm lẫn. Lời nhắn trên sàn nhà đó là dành cho tôi.
Langdon cần 1 phút để kịp hiểu: - Cô làm ơn nhắc lại?
- Lời nhắn đó không phải cho cảnh sát. Ông ấy viết nó cho tôi. Tôi nghĩ ông ấy đã bị buộc phải làm mọi thứ trong lúc quá vội vã đến mức ông không nhận ra là nó sẽ được cảnh sát nhìn nhận như thế nào. – Cô dừng lại. - Mật mã số là vô nghĩa. Saunière đã viết nó để đảm bảo rằng cuộc điều tra sẽ cần đến nhân viên giải mã, đảm bảo rằng tôi sẽ biết càng sớm càng tốt những gì đã xảy ra với ông ấy.
Langdon thấy mình nhanh chóng mất liên hệ với thực tại. Việc Sophie Neveu có mất trí hay không, đến thời điểm này, là chuyện dành cho bất cứ ai, nhưng chí ít giờ đây Langdon hiểu tại sao cô cố gắng giúp ông. Tái bút. Tìm Robert Langdon. Rõ ràng cô tin rằng ông phụ trách bảo tàng đã để lại 1 lời tái bút khó hiểu bảo cô ấy tìm Langdon. – nhưng tại sao cô nghĩ lời nhắn của ông ấy là dành cho cô?
- Người Vitruvian – cô nói dứt khoát, - bức ký hoạ đó xưa nay vốn là tác phẩm của Da Vinci mà tôi yêu thích nhất. Tối nay ông ấy đã dùng nó để lưu ý tôi.
- Khoan đã. Cô đang nói là ông phụ trách bảo tàng biết tác phẩm nghệ thuật yêu thích của cô sao?
Cô gật đầu: - Tôi xin lỗi. Chuyện này ra khỏi thói thường. Jacques Saunière và tôi …
Giọng Sophie nghẹn lại, và Langdon nghe thấy 1 sự sầu muộn đột ngột, 1 quá khứ đau thương, âm ỉ ngay dưới bề mặt. Rõ ràng Sophie và Jacques Saunière có mối quan hệ đặc biệt. Langdon chăm chú nhìn người thiếu phụ trẻ đẹp trước mắt ông, biết rõ rằng những người đàn ông có tuổi ở Pháp thường có những cô tình nhân trẻ tuổi. Dù là thế, việc Sophie Neveu là “gái bao” dường như không phù hợp.
- 10 năm trước chúng tôi đã có 1 mối bất hoà – Sophie nói, giọng cô thì thầm. - Từ đó, chúng tôi hầu như không nói với nhau. Đên này khi phòng mật mã nhân được cú điện thoại báo là ông ấy đã bị sát hại, và khi tôi nhìn thấy những hình ảnh của thi thể và những dòng chữ trên sàn của ông, tôi hiểu rằng ông đang cố gửi cho tôi 1 tin nhắn.
- Do người Vitruvian sao?
- Vâng. Và những chữ cái P.S
- Post Scrip?
Cô lắc đầu. – PS là tên viết tắt của tôi.
- Nhưng tên cô là Sophie Neveu.
Cô nhìn đi chỗ khác: P.S là biệt danh ông đặt cho tôi khi tôi sống với ông. Cô đỏ mặt. – Đó là chữ viết tắt của Princesse Sophie (công chúa Sophie)
Langdon không phản ứng gì.
- Thật ngớ ngẩn, tôi biết – cô nói. Nhưng đó là nhiều năm trước đây. Khi tôi còn là 1 cô bé.
- Cô biết ông ấy khi cô là 1 cô bé sao?
- Đúng vậy – cô nói, mắt rưng rưng xúc động, - Jacques Saunière là ông tôi.

the_warm_winter
01-07-2008, 06:19 PM
Chương 14
- Langdon đang ở đâu? Fache hỏi, phả hơi cuối cùng của điếu thuốc khi ông ta quay trở lại sở chỉ huy.
- Vẫn ở trong nhà vệ sinh nam, thưa ông – trung uý Collet trả lời. Fache lầm bầm: - nhẩn nha nhỉ.
Viên đại uý nhìn chấm GPS qua vai Collet, và Collet gần như có thể nghe thấy những bánh xe đang chuyển động. Fache đang cố dẹp nỗi thôi thúc muốn đi kiểm tra xem Langdon còn đó hay không. Về mặt lý tưởng, đối tượng của 1 cuộc giám sát được cho phép tối đa thời gian và tự do trong phạm vi có thể để ru ngủ hắn trong cảm giác an toàn giả tạo. Cần phải để Langdon tự ý trở lại. Tuy nhiên đã gần 10 phút rồi. Quá lâu.
- Liệu có khả năng là Langdon biết chúng ta theo dõi không? – Fache hỏi.
Collet lắc đầu: - chúng ta vẫn đang nhìn thấy những chuyển động nhỏ trong phòng vệ sinh nam, vì thế đĩa GPS chắc chắn vẫn còn trên người ông ta. Có thể ông ta thấy không khoẻ? Nêu ông ta tìm thấy cái đĩa, chắc ông ấy đã vứt nó đi, rồi tìm cách trốn chạy.
Fache nhìn đồng hồ: - Tốt.
Tuy nhiên, Fache vẫn có vẻ băn khoăn. Cả buổi tối, Collet cảm thấy 1 sự hăm hở không xác định được nơi người chỉ huy của mình. Bình thường vốn thản nhiên và tỉnh bơ dưới mọi áp lực nhưng tối nay dường như Fache đầy xúc động, như thể đó là 1 vấn đề cá nhân đối với ông ấy.
Không có gì đáng ngạc nhiên, Collet nghĩ. Fache cần cuộc bắt giữ này ghê gớm. Gần đây, Hội đồng chính phủ và báo chí đã có những chỉ trích công khai hơn đối với những chiến thuật hung dữ của Fache, những va chạm của ông ta với các đại sứ quán của các cường quốc, và sự vượt quá ngân sách cho công nghệ mới. Đêm nay cuộc vây bắt 1 người Mỹ với công nghệ cao sẽ khiến Fache đi được 1 quãng đường dài tiến tới dập tắt những lời chỉ trích, giúp ông ta giữ cương vị này thêm vài năm nữa cho đến khi có thể về hưu với 1 khoản lương hưu hậu hĩnh. Chúa biết rằng ông ấy cần lương hưu. Collet nghĩ. Sự hăng hái của Fache đối với công nghệ gây tổn hại cho ông cả về mặt nghề nghiệp lẫn cuộc sống cá nhân. Người ta đồn rằng Fache đã đầu tư toàn bộ tiền tiết kiệm của mình vào niềm đam mê công nghệ vài năm qua và ông mất sạch, cho đến chiếc áo sơ mi cuối cùng. Mà Fache lại là 1 người chỉ mặc áo sơ mi thượng hảo hạng.
Đêm nay, vẫn còn nhiều thời gian. Sự cắt ngang của Sophie Neveu, dù không may, chỉ là 1 gợn sóng nhỏ. Giờ thì cô ấy đã đi, và Fache vẫn còn những quân bài để chơi. Ông ta chưa nói cho Langdon biết rằng tên ông ấy bị nạn nhân viết lên sàn.
P.S. Tìm Robert Langdon. Phản ứng của người Mỹ này đối với cái chứng cứ nho nhỏ đó sẽ thực sự có tác dụng.
- Đại uý! – 1 nhân viên DCPJ gọi từ phía bên kia văn phòng. – Tôi nghĩ ông nên nghe cuộc gọi này. Anh ta giơ ống nghe ra vẻ lo lắng.
- Ai đó? – Fache nói.
Người nhân viên cau mày: - Chỉ huy của phòng mật mã.
- Thì sao?
- Về Sophie Neveu, thưa ông. Có điều gì đó không ổn.

the_warm_winter
01-07-2008, 06:27 PM
Chương 15
Đã đến lúc rồi. Sillas cảm thấy khoẻ khoắn khi bước ra khỏi chiếc xe Audi màu đen, 1 cơn gió nhẹ ban đêm thổi tung chiếc áo choàng rộng thùng thình của hắn. Những cơn gió của sự thay đổi đang thổi. Hắn biết nhiệm vụ trướcmắt đòi hỏi sự khéo léo hơn là sức lực, và hắn để lại súng trong xe. Thầy Giáo trang bị cho hắn khẩu Heckler 13 băng và khẩu Koch USP 40.
Một vũ khí chết người không có chỗ trong ngôi nhà của Chúa.
Lúc này, quảng trường phía trước nhà thờ vắng vẻ! Những linh hồn hiển hiện duy nhất ở mé kia của quảng trường Saint-Sulpice là 2 gái điếm vị thành niên đang phô “hàng” với khách đi chơi khuya. Thân thể dậy thì của họ đánh thức 1 thèm muốn quen thuộc nơi hông Sillas. Đùi hắn gập lại theo bản năng, làm cho chiếc dây lưng hành xác có ngạnh sắc cứa sâu vào thịt đau nhói.
Cơn khát dục tan biến ngay lập tức. Trong 10 năm qua, Sillas 1 lòng 1 dạ khước từ mọi phóng túng tình dục, thậm chí kể cả thủ dâm. Đó là Đạo. Hắn biết hắn đã hy sinh nhiều khi đi theo Opus Dei, nhưng hắn nhận lại còn hơn thế rất nhiều.
Một lời nguyền sống độc thân và từ bỏ mọi của cải cá nhân hầu như chưa phải là hy sinh. So với xuất thân nghèo khổ và những bạo hành tình dục khủng khiếp mà hắn đã phải chịu đựng trong tù thì cuộc sống độc thân là 1 sự thay đổi thú vị.
Giờ đây, trở về Pháp lần đầu tiên kể từ khi bị bắt và đưa đến nhà tù Andorra, Sillas có thể nhận thấy quê hương đang thử thách hắn, đang gợi lại những ký ức đầy bạo lực từ linh hồn đã được cứu rỗi của hắn. “Mày đã được tái sinh” - hắn tự nhắc nhở mình. Hôm nay, việc phụng sự Chúa buộc phải phạm vào tội lỗi giết người, và nó là 1 sự hy sinh mà Sillas biết sẽ phải lặng lẽ chôn chặt trong tim mình suốt đời.
Thước đo sự trung thành của con là thước đo sự đau đớn mà con có thể chịu đựng – Thầy Giáo, người đã đảm bảo với hắn rằng mọi hành động của hắn đều được sắp đặt bởi 1 quyền lực trên cao.
Sáng danh Chúa ở trên cao, Sillas thì thầm, đi về phía cổng nhà thờ.
Dừng lại trong bóng tối của cánh cổng to đùng, hắn hít 1 hơi thở sâu. Đến tận lúc này, hắn mới thực sự nhận ra hắn sắp làm gì và cái gì đang chờ đợi hắn ở bên trong.
Viên đá đỉnh vòm. Nó sẽ dẫn chúng ta đến đích cuối cùng.
Hắn giơ bàn tay trắng như ma lên và gõ 3 lần vào cánh cửa.
Ngay sau đó, then của cánh cổng gỗ khổng lồ bắt đầu dịch chuyển.

the_warm_winter
03-07-2008, 03:16 AM
Chương 16
Sophie tự hỏi không biết phải mất bao lâu Fache mới nhận ra rằng cô chưa rời khỏi toà nhà. Thấy Langdon rõ ràng đang choáng ngợp, Sophie lại tự hỏi liệu mình có làm đúng không khi dồn ông ấy vào đây, trong phòng vệ sinh nam.
Mình có thể làm gì khác đây?
Cô hình dung xác ông cô, trần truống, chân tay dang ra trên sàn. Đã có thời ông là cả thế giới đối với cô thế mà đêm nay, Sophie ngạc nhiên cảm thấy mình gần như không buồn thương cho ông. Giờ đây Jacques Saunière là 1 người xa lạ với cô.
Quan hệ của họ đã tan biến trong khoảnh khắc vào 1 buổi tối tháng 3 khi cô 22 tuổi. 10 năm trước. Sophie về nhà sớm vài ngày sau khi tốt nghiệp đại học ở Anh và đã vô tình chứng kiến ông ngoại làm 1 việc mà hiển nhiên Sophie không có phận sự gì để thấy. Đó là 1 hình ảnh mà cho đến giờ cô vẫn không thể tin được.
Nếu mình không chính mắt nhìn thấy…
Quá xấu hổ và choáng váng không chịu nỗi những lời giải thích đau đớn của ông, ngay lập tức Sophie đã chuyển ra sống ở ngoài 1 mình, mang theo số tiền dành dụm được, thuê 1 căn hộ nhỏ ở chung với vài người nữa. Cô thề sẽ không bao giờ nói với ai về điều cô đã nhìn thấy. Ông cô cố gắng 1 cách tuyệt vọng để liên lạc với cô, gửi thiếp và thư, van xin Sophie cho gặp để ông có thể giải thích. Giải thích như thế nào? Sophie không bao giờ trả lời trừ 1 lần - để cấm ông không bao giờ được gọi điện thoại cho cô hoặc tìm cách gặp cô ở nơi công cộng. Cô sợ sự giải thích của ông sẽ còn khủng khiếp hơn cả bản thân sự việc.
Thật khó tin, Saunière không bỏ cuộc vẫn đeo đuổi cô, và bây giờ Sophie có cả 1 chồng thư chưa mở của 10 năm trong 1 ngăn tủ. Phải công nhận là ông chưa bao giờ làm trái yêu cầu của cô là gọi cho cô.
Cho đến chiều nay.
“Sophie phải không? - giọng ông nghe già lạ lùng trong chiếc máy trả lời tự động của cô. – Ông đã tuân theo ý muốn của cháu, nhưng ông phải nói chuyện với cháu. Một điều khủng khiếp vừa xảy ra.”
Đứng trong bếp của căn hộ ở Paris của mình, Sophie cảm thấy ớn lạnh khi nghe thấy giọng ông sau từng ấy năm. Giọng nói nhẹ nhàng của ông mang lại cả 1 dòng lũ kỉ niệm mến thương thời thơ ấu.
“Sophie, xin cháu hãy nghe” – Ông đang nói tiếng Anh với cô, như ông vẫn luôn làm khi cô còn là 1 bé gái. Thực hành tiếng Pháp ở trường. Thực hành tiếng Anh ở nhà. “Cháu không thể giận mãi thế được. Cháu đã đọc những bức thư ông gửi trong suốt những năm qua chưa? Cháu chưa hiểu sao?” Ông dừng lại.
“Chúng ta phải nói chuyện ngay lập tức. Xin cho ông của cháu được toại cái ước nguyện duy nhất này. Hãy gọi cho ông ở Louvre. Ngay lập tức. Ông nghĩ ông cháu mình đang trong tình thế nguy hiểm nghiêm trọng.”
Sophie nhìn cái máy trả lời tự động. Nguy hiểm? Ông đang nói về chuyện gì vậy?
“Công chúa”… Giọng ông cô vỡ ra vì 1 xúc cảm mà Sophie không thể gọi tên ra được. “Ông biết ông đã giấu cháu nhiều chuyện và ông biết điều đó đã khiến ông mất tình yêu của cháu. Nhưng đó là vì sự an toàn của cháu. Bây giờ, cháu phải biết sự thật. Xin cháu hãy nghe nhé, ông phải nói với cháu sự thật về gia đình cháu.”
Sophie đột nhiên có thể nghe thấy tiếng trái tim mình. Gia đình mình sao? Cha mẹ Sophie đã chết khi cô mới 4 tuổi. Xe ô tô của họ văng ra khỏi cầu và rơi xuống dòng nước chảy xiết. Bà và em trai cô cũng ở trên xe, và cả gia đình Sophie bị xoá sạch trong phút chốc. Cô có cả 1 hộp các mảnh báo cắt khẳng định điều đó.
Lời nói của ông bất ngờ làm trào lên khát khao trong cô. Gia đình mình! Trong khoảnh khắc thoáng qua đó, Sophie nhìn thấy những hình ảnh trong cái giấc mơ đã đánh thức cô không biết bao nhiêu lần khi cô còn là 1 cô bé. Gia đình mình vẫn còn sống! Họ đang về nhà! Nhưng, giống như trong giấc mơ, những hình ảnh đó tan biến vào quên lãng.
Gia đình mày đã chết, Sophie ạ. Họ không thể trở về nhà.
“Sophie…”, ông cô nói trong máy trả lời tự động, “ông đã chờ nhiều năm để nói với cháu. Chờ thời điểm thích hợp, nhưng bây giờ không còn thời gian nữa. Hãy gọi cho ông ở Louvre. Ngay khi cháu nghe được tin nhắn này. Ông sẽ chờ ở đây cả đêm. Ông e rằng cả 2 ông cháu ta đều đang gặp nguy hiểm. Có quá nhiều chuyện cháu cần biết”.
Tin nhắn kết thúc.
Trong yên lặng, Sophie đứng run hồi lâu, có dễ đến mấy phút. Suy đi xét lại cái tin nhắn của ông cô, chỉ có 1 khả năng có lý và ý định thực sự của ông hé lộ.
Đó là mồi nhử.
Hiển nhiên là ông cô muốn gặp cô ghê gớm. Ông đang thử mọi cách. Sự ghê tởm đối với ông càng thêm sâu sắc. Sophie tự hỏi liệu có phải ông ốm thập tử nhất sinh nên đã quyết định thử mọi kế sách có thể nghĩ ra để làm Sophie đến thăm ông lần cuối. Nếu như vậy, ông đã lựa chọn 1 cách khôn ngoan.
Gia đình tôi.
Giờ đây, đứng trong bóng tối của nhà vệ sinh nam trong bảo tàng Louvre, Sophie có thể nghe thấy tiếng vọng của tin nhắn điện thoại lúc chiều. Sophie, cả 2 ông cháu ta đều có thể đang gặp nguy hiểm. Hãy gọi cho ông.
Cô đã không gọi cho ông. Cũng chẳng có ý định gọi. Tuy nhiên, giờ đây, sự hoài nghi của cô đang lung lay sâu sắc. Ông cô bị giết trong bảo tàng của chính ông. Và ông đã viết 1 mật mã trên sàn.
Một mật mã cho cô. Về điều này thì cô chắc chắn.
Dù không hiếu ý nghĩa lời nhắn của ông, nhưng Sophie chắc chắn tính chất khó hiểu của nó là 1 bằng chứng thêm nữa rằng những dòng chữ đó là dành cho cô. Niềm đam mê và năng khiếu về mật mã của Sophie là kết quả của việc lớn lên bên cạnh Jacques Saunière - bản thân ông cũng mê mật mã, các trò chơi đố chữ. Chúng ta đã dành bao chủ nhật để giải những bảng mã hoá và ô chữ trên báo?
Ở tuổi 12, Sophie đã có thể giải ô chữ trên tờ Le Monde mà không cần ai giúp, và ông cô nâng mức lên các ông chữ tiếng Anh, các câu đồ toán học, các mật mã thay thế.
Sophie giải được hết. Cuối cùng, cô chuyển niềm đam mê thành nghề nghiếp bằng cách trở thành nhân viên giải mật mã của cảnh sát tư pháp.
Đêm nay, người giải mật mã trong Sophie buộc phải kính nể cái cách hiệu quả mà ông cô đã vận dụng 1 mật mã đơn giản để liên kết 2 người hoàn toàn xa lạ - Sophie và Robert Langdon.
Câu hỏi là tại sao?
Khốn thay, bằng vào cái vẻ ngơ ngác trong mắt Langdon, Sophie cảm thấy người Mỹ này cũng chẳng biết gì hơn cô về lý do tại sao ông cô lại đẩy họ lại với nhau.
Cô lại gặng hỏi: - Ông và ông tôi sự định gặp nhau rối nay đúng không. Về chuyện gì vậy?
Langdon có vẻ thực sự lúng túng: - Thư ký của ông cụ đã sắp đặt 1 cuộc gặp mặt và không đưa ra lý do cụ thể nào, mà tôi cũng không hỏi. Tôi đồ rằng ông cụ biết là tôi sẽ thuyết giảng về những hình tượng ngoại đạo trong các nhà thờ lớn của Pháp, rằng ông cụ quan tâm đến đề tài đó và nghĩ sẽ thú vị nếu 2 chúng tôi gặp nhau làm vài ly sau bài nói chuyện của tôi.
Sophie không tin thế. Lý do không thuyết phục. Ông cô biết rõ về hệ hình tượng ngoại đạo hơn bất cứ ai khác trên thế giới. Hơn thế nữa, ông là người sống riêng tư khác thường, không mấy ưa tán gẫu với các giáo sư người Mỹ tình cờ gặp, trừ khi có 1 lý do quan trọng.
Sophie hít 1 hơi thật sâu và thăm dò thêm: - Chiều nay, ông tôi gọi cho tôi, bảo là 2 ông cháu tôi đang trong tình thế rất nguy hiểm. Điều đó có ý nghĩa gì với ông không?
Đôi mắt xanh của Langdon giờ đây bị nỗi lo lắng che phủ: - Không, nhưng xét những gì vừa xảy ra…
Sophie gật đầu. Xét những sự kiện tối nay cô có hoạ là đồ ngu mới không sợ hãi. Cảm thấy cạn kiệt, cô đi về phía cửa sổ làm bằng kính dầy ở cuối phòng vệ sinh và nhìn ra không gian tĩnh lặng bên ngoài qua mạng băng lưới báo động gắn vào cửa kính. Họ đang ở trên cao – ít nhất là 12-13m.
Thở dài, cô đưa mắt nhìn ra khung cảnh tráng lệ của Paris. Bên trái cô, bên kia sông Seine là Tháp Eiffel rực rỡ. Thẳng phía trước là Khải Hoàn Môn. Và bên phải, ở đỉnh đồi Montmanrtre dốc đứng, là mái vòm duyên dáng của nhà thờ Sacré-Coeur, lớp đá mài nhẵn rực lên trắng loá như 1 thánh đường lộng lẫy.
Tại đây, ở đầu mút cực tây của cách Denon, đại lộ Place du Carrousel theo hướng bắc- nam gần như chạy ngang bằng với toà nhà, chỉ trừ 1 vỉa hè hẹp ngăn cách mặt đường với tường bao của Louvre. Tít bên dưới, 1 đoàn xe tải thường giao hàng ban đêm trễ nải đứng, chờ cho đèn giao thông đổi màu, những ngọn đèn nhỏ như nháy mắt trêu chọc Sophie.
- Tôi không biết phải nói gì – Langdon tiến đến đằng sau cô. - Hiển nhiêu là ông cô đang cố nói với chúng ta điều gì đó. Tôi xin lỗi, tôi chẳng giúp được gì.
Sophie quay từ phía cửa sổ lại, cảm thấy sự chân thành trong giọng trầm của Langdon. Thậm chí với tất cả những rầy rà bủa vây ông, ông vẫn thực sự muốn giúp cô. – “Người thầy giáo trong ông” – cô nghĩ, bởi cô đã đọc bản miêu tả chi tiết của DCPJ về kẻ tình nghi của họ. Đây là 1 giáo sư đại học rõ ràng không coi thường sự thông cảm.
Chúng ta có điểm này chung, cô nghĩ.
Là người giải mật mã, cô kiếm sống bằng cách đi tìm ý nghĩa từ những dữ liệu có vẻ như vô nghĩa. Tối nay, dự đoán tối ưu của cô là Robert Langdon, dù hữu thức hay vô thức, đang nắm giữ cái thông tin mà cô rất cần. Công chúa Sophie, tìm Robert Langdon. Lời nhắn của ông cô còn có thể rõ ràng đến thế nào nữa? Sophie cần có nhiều thời gian với Langdon hơn. Thời gian để suy nghĩ. Thời gian giải mã điều bí ẩn này cùng nhau. Thật không may, thời gian đang cạn dần.
Chăm chú nhìn Langdon, Sophie đánh ngón bài duy nhất mà cô có thể nghĩ ra: - Bezu Fache sẽ tạm giam ông bất cứ lúc nào. Tôi có thể đưa ông ra khỏi toà nhà bảo tàng này. Nhưng chúng ta cần hành động ngay bây giờ.
Mắt Langdon mở to: - Cô muốn tôi chạy trốn sao?
- Đó là điều thông minh nhất mà ông có thể làm. Nếu bây giờ ông để cho Fache tạm giam mình, ông sẽ phải ở trong nhà tù của Pháp nhiều tuần trong khi DCPJ và đại sứ quán Mỹ cãi nhau xem toà án nào sẽ xét xử vụ của ông. Nhưng nếu chúng ta đưa được ông ra khỏi đây để giải thích với đại sứ quán Mỹ thì chính phủ ông sẽ bảo vệ quyền lợi của ông trong khi chúng ta chứng minh rằng ông không liên quan gì đến vụ sát hại này.
Langdon có vẻ không mảy may bị thuyết phục: - Quên nó đi! Fache có lính gác vũ trang ở mọi lối ra! Thậm chí nếu chúng ta trốn thoát mà không bị bắn, thì chỉ riêng việc chạy trốn cũng đủ khiến chúng ta giống như có tội. Cô cần nói với Fache rằng lời nhắn trên sàn là dành cho cô, và tên của tôi không phải ở đó như 1 lời cáo buộc.
- Tôi sẽ làm việc đó – Sophie nói, vội vã – nhưng chỉ sau khi ông được an toàn ở trong đại sứ quán Mỹ. Nó chỉ cách đây 1 dặm và xe của tôi đỗ ngay bên ngoài bảo tàng. Đối phó với Fache từ đây là 1 trò may rủi. Ông không thấy sao? Fache đã xác định nhiệm vụ của ông ta đêm nay là chứng minh rằng ông có tội. Lý do duy nhất khiến ông ta trì hoãn việc bắt ông là để tiến hành sự giám sát này với hy vọng ông sẽ làm 1 điều gì đó khiến cho lập luận của ông ta vững vàng hơn.
- Chính xác. Như là chạy trốn.
Điện thoại di động trong túi áo len của Sophie đột nhiên đổ chuông. Chắc là Fache. Cô luồn tay vào túi áo len và tắt máy.
- Ông Langdon – cô nói 1 cách vội vã, - tôi cần hỏi ông 1 câu cuối cùng! Và có thể toàn bộ tương lai của ông phụ thuộc vào nó. Lời viết trên sàn nhà hiển nhiên không phải là bằng chứng kết tội ông, nhưng Fache nói với đội chúng tôi rằng ông ta chắc chắn ông là kẻ gây án. Ông có thể nghĩ ra lý do nào khác nữa khiến ông ta tin chắc rằng ông có tội?
Langdon im lặng trong vài giây: - Hoàn toàn không.
Sophie thở dài. Có nghĩa là Fache đang nói dối. Tại sao, Sophie chưa thể nghĩ ra, nhưng đó không phải là vấn đề vào thời điểm này. Thực tế vẫn cứ là đêm nay Bezu Fache quyết tâm bắt giam Langdon bằng mọi giá. Sophie cần Langdon vì chính bản thân mình, và tính thế nan giải này khiến cô chỉ còn 1 kết luận duy nhất lô-gích.
Mình cần đưa được Langdon đến đại sứ quán Mỹ.
Quay về phía cửa sổ, Sophie phóng mắt qua mạng lưới báo động gắn trên những tấm kính dày nhìn xuống đường từ độ cao chóng mặt khoảng 12m. Một cú nhảy từ độ cao này sẽ khiến Langdon gãy cả 2 chân. Thế đã là may nhất rối. Tuy nhiên Sophie vẫn quyết định. Robert Langdon sắp thoát khỏi Louvre, dù ông có muốn hay không.

the_warm_winter
03-07-2008, 03:59 AM
Chương 17
- Anh nói cô ta không trả lời nghĩa là sao? – Fache có vẻ không tin. – Anh gọi vào máy di động của cô ta đúng không? Tôi biết cô ta có mang theo mà.
Collet đã cố liên lạc với Sophie trong vài phút vừa qua. – Có thể máy cô ấy hết pin. Hoặc hỏng chuông.
Fache có vẻ lo lắng kể từ khi nói chuyện qua điện thoại với chỉ huy phòng mật mã. Sau khi gác máy, ông ta đi đến chỗ Collet và yêu cầu anh liên lạc với Sophie Neveu. Giờ đây Collet đã gọi mãi không được và Fache đi đi lại lại như con sư tử.
- Tại sao phòng mật mã lại gọi tới? – Collet đánh bạo hỏi.
Fache quay lại: - Để nói với chúng ta rằng họ không tìm ra tài liệu tham khảo nào có nhắc đến “quỷ hà khắc” và “thánh yếu đuổi”
- Có thế thôi ư?
- Không, cũng để nói rằng họ đã nhận ra mật mã để lại là dãy số Fibonacci, nhưng họ ngờ rằng dãy số này là vô nghĩa.
Collet bối rối: Nhưng họ vừa cử nhân viên Neveu đến để nói với chúng ta điều đó.
Fache lắc đầu: - Họ không cử Neveu đến.
- Gì cơ?
- Người chỉ huy nói rằng theo mệnh lệnh của tôi, ông ấy đã gọi tất cả đội đến xem những bức ảnh tôi gửi cho ông ta. Khi nhân viên Neveu đến cô nhìn những tấm ảnh chụp Saunière và mật mã rồi rời văn phòng mà không nói 1 lời nào. Người chỉ huy nói ông ta không thắc mắc về ứng xử của cô ấy vì cũng dễ hiểu là cô ta bị xáo đảo bởi những bức ảnh đó.
- Xáo đảo? Cô ấy chưa bao giờ nhìn thấy 1 bức ảnh chụp 1 xác chết sao?
Fache im lặng trong giây lát: - Hình như Sophie Neveu là cháu gái gọi Jacques Saunière bằng ông. Tôi đã không biết điều này và có vẻ như người chỉ huy cũng không biết cho đến khi 1 đồng nghiệp nói với ông ta.
Collet lặng đi.
- Người chỉ huy nói rằng cô ta không bao giờ nhắc đến Saunière với ông ta, và ông ta cho rằng đó có thể do cô ta không muốn được ưu đãi vì có 1 người ông nổi tiếng.
Không có gì là lạ khi cô ấy bị xáo đảo bởi các bức ảnh. Collet khó có thể quan niệm được sự trùng hợp bất hạnh đã xui khiến 1 phụ nữ trẻ đến giải 1 mật mã bí ẩn được viết bởi 1 người thân đã chết trong gia đình. Tuy nhiên, những hành động của cô ấy chẳng có nghĩa gì cả.
- Nhưng rõ ràng cô ta đã nhận ra các con số đó là dãy số Fibonacci bởi vì cô ấy đã đến đây và nói cho chúng ta biết. Tôi không hiểu tại sao cô ấy rời khỏi phòng mật mã mà không nói với ai là cô đã tìm ra nó.
Collet chỉ có thể nghĩ ra 1 kịch bản duy nhất để giải thích cho những diễn biến phức tạp đó: - Saunière đã viết 1 mật mã số liên trên sàn với hy vọng Fache sẽ yêu cầu những người giải mật mã tham gia vào cuộc điều tra, và như thế sẽ có cháu gái của ông ta. Về phần còn lại của lời nhắn, liệu có phải Saunière bằng cách nào đó đang liên lạc với cháu ông ta? Nếu thế, lời nhắn nói với cô ta điều gì?Và Langdon có liên quan như thế nào?
Trước khi Collet có thể suy nghĩ kỹ càng hơn, sự tĩnh lặng của bảo tàng bị phá vỡ bởi tiếng chuông báo động. Tiếng chuông nghe như phát ra từ bên trong hành lang lớn.
- Alarme! 1 trong số các nhân viên hét lên, quan sát con mồi của anh ta từ trong trung tâm an ninh của Louvre” Grande Galerie! Toilettes! Messieurs!
Fache chạy tới chỗ Collet: - Langdon đang ở đâu?
- Vẫn trong phòng vệ sinh nam! Collet chỉ vào chấm đỏ đang nhấp nháy trên bản đồ trong máy tính xách tay: - Chắc ông ta đã phá cửa sổ! Collet biết Langdon sẽ không thể đi xa.
Mặc dù các quy định vệ cứu hoả của Paris yêu cầu các cửa sổ cao trên 15m trong các toà nhà công cộng phải có thể phá vỡ được trong trường hợp hoả hoạn, nhưng việc nhảy qua cửa sổ tầng 2 của Louvre mà không có sự trợ giúp của móc sắt và thang sẽ chẳng khác nào tự sát. Hơn nữa, không có cây cối hay thảm cỏ ở phía tây của cánh Denon để làm đệm cho người ngã. Ngay bên dưới cửa sổ phòng vệ sinh đó là đường Place du Carousel với 2 làn xe chạy chỉ cách tường bao của bảo tàng chừng 1m. - Lạy chúa tôi – Collet kêu lên, nhìn trừng trừng vào màn hình. – Langdon đang đi đến rìa cửa sổ.
Nhưng Fache đã sẵn sàng hành động. Rút khẩu Manurhin MR-93 từ bao súng ở vai, viên đại uý lao ra khỏi văn phòng.
Collet hoang mang nhìn màn hình khi chấp nhấp nháy đến rìa cửa sổ rồi làm 1 điều gì đó hoàn toàn bất ngờ. Điểm sáng đã di chuyển ra bên ngoài chu vi của toà nhà. Điều gì đang diễn ra? Anh tự hỏi. Langdon đang ở rìa cửa sổ hay…
- Chúa ơi! – Collet chồm dậy khi chấm sáng nhảy xa hơn, ra bên ngoài bức tường. Tín hiệu dường như rùng mình trong giây láy rồi sau đó chấm nhấp nháy dừng đột ngột ở 1 điểm cách khoảng 10m bên ngoài chu vi toà nhà. Rờ rẫm với bộ điều khiển, Collet bấm gọi 1 bản đồ đường phố Paris để xác định vị trí của chấm GPS. Sau khi phóng to ra, anh có thể nhìn thấy vị trí chính xác của tín hiệu.
Nó không còn di chuyển nữa.
Nó nằm im ở ngay giữa đường Place du Carrousel.
Langdon đã nhảy xuống

the_warm_winter
04-07-2008, 02:48 AM
Chương 18
Fache chạy hết tốc lực theo hành lang lớn trong khi tiếng Collet oang oang trên điện đàm át cả tiếng chuông báo động đằng xa.
- Ông ta nhảy rồi! Collet la lên. – Tôi nhìn thấy tín hiệu trên đường Place du Carrousel? Bên ngoài cửa sổ phòng vệ sinh? Và nó không di chuyển nữa. Chúa ơi, tôi nghĩ Langdon vừa tự tử!
Fache nghe thấy những lời này, nhưng chúng chẳng có nghĩa gì. Ông ta vẫn chạy. Hành lang dường như bất tận. Khi chạy qua thi thể Saunière, ông ta nhìn về phía những vách ngăn ở phía cuối của cánh Denon. Chuông báo động lúc này kêu to hơn.
- Khoan! Giọng Collet lại vang lên thất thanh trên điện đàm. Ông ta đang di chuyển! Chúa ơi, ông ta còn sống. Langdon đang di chuyển!
Fache vẫn chạy, mỗi bước lại nguyền rủa cái hành lang dài bất tận.
- Langdon đang di chuyển nhanh hơn! Collet vẫn gào lên trên radio. Ông ta đang chạy theo đường Carousel. Khoan… Ông ta đang tăng tốc. Ông ta đang di chuyển quá nhanh!
Đến chỗ những vách ngăn, Fache chạy ngoằn ngoèo qua chúng, nhìn thấy phòng vệ sinh, ông chạy tới đó.
Tiếng điện đàm lúc này rất khó nghe qua tiếng còi báo động: - Chắc là ông ta đang ở trong 1 chiếc ô tô. Tôi không thể…
Những lời của Collet bị nuốt chửng bởi tiếng còi báo động khi cuối cùng Fache xông vào phòng vệ sinh nam với khẩu súng trong tay. Nhăn mặt vì tiếng còi chói tai, ông ta lia mắt nhìn khắp.
Các khoang đều trống không. Phòng vệ sinh không có ai. Mắt Fache ngay lập tức nhìn vào cái cửa sổ bị phá vỡ ở phía cuối phòng. Ông ta chạy tới lỗ hổng và nhìn qua cửa sổ. Chẳng thấy Langdon đâu. Fache không thể tưởng tượng có ai dám liều 1 cú như thế. Nếu rớt xa từ độ cao này, chắc chắn ông ta sẽ bị thương nặng.
Cuối cùng, chuông báo động cũng ngừng kêu, và giọng của Collet lại có thể nghe thấy qua điện đàm.
- Đi về hướng nam… nhanh hơn… vượt qua sông Seine trên cầu Carousel!
Fache quay sang trái. Chiếc xe duy nhất trên cầu Carrousel là chiếc xe tải giao hàng to gồm 2 thùng xe nối nhau hiệu Trailor đang đi về phía nam xa dần khỏi Louvre. Thùng xe được phủ tấm bạt bằng nhựa, giống như 1 cái võng khổng lồ.
Fache cảm thấy sợ hãi. Chiếc xe tải đó, chỉ 1 vài khoảnh khắc trước đây, có thể đã dừng ở cột đèn đỏ thẳng ngay bên dưới cửa sổ phòng vệ sinh.
Một sự liều lĩnh điên rồ! Fache tự nhủ. Langdon không biết cái xe chở gì bên dưới tấm bạt. Điều gì sẽ xảy ra nếu chiếc xe đó chở thép? Hay xi măng? Hoặc thậm chí là rác? Một cú nhảy 13m ư? Đó quả là điên rồ.
Điểm sáng đang chuyển hướng – Collet nói. Ông ta đang rẽ phải vào đường Pont des Saints-Pères?
Chắc chắn rồi, chiếc xe tải Trailor đã lên cầu đang chầm chậm đi xuống và rẽ phải vào đường Pont des Saints-Peres. Đúng là nó rồi. Fache nghĩ. Ngạc nhiên, ông thấy cái xe tải biến mất ở góc phố. Collet đang gọi cho các nhân viên ra ngoài, rút khỏi bảo tàng và lên xe tuần tra đuổi theo, tất cả những thông báo về vị trí đang thay đổi của chiếc xe tải giống như 1 bài phát thanh trực tiếp kỳ lạ. Chuyện này rồi cũng sẽ kết thúc thôi, Fache biết. Linh của ông sẽ bao vây chiếc xe tải sau vài phút. Langdon sẽ không thể đi bất cứ đâu.
Cất khẩu súng, Fache rời khỏi phòng vệ sinh và gọi cho Collet: - Mang xe ra cho tôi, tôi muốn có mặt ở đó khi chúng ta bắt ông ta.
Khi Fache chạy ngược lại dọc hành lang lớn, ông ta tự hỏi liệu Langdon còn sống sau cú ngã không.
Điều đó không quan trọng.
Langdon chạy trốn, vậy là phạm tội như đã cáo buộc.
Chỉ cách phòng vệ sinh 15m, Langdon và Sophie đứng trong bóng tối của hành lang lớn, lưng áp chặt vào 1 trong những vách ngăn che khuất phòng vệ sinh khỏi hành lang. Họ chỉ vừa kịp nấp ngay trước khi Fache phóng qua họ, rút súng ra, và mất hút trong phòng vệ sinh. 60 giây vừa qua như 1 cảnh mờ ảo.
Langdon đã đứng trong phòng vệ sinh nam, không chịu chạy trốn khỏi 1 tội ác mà ông không hề phạm phải, trong khi Sophie quan sát cánh cửa sổ bằng kính dày và mạng lưới báo động dăng trên đó. Sau đó cô nhìn xuống đường như thể đo cự ly rơi.
- Với 1 chút cố gắng nhắm cho trúng, ông có thể ra khỏi đây – cô nói.
- Nhằm trúng! – Lo lắng, ông nhìn qua cửa sổ phòng vệ sinh.
Trên phố, 1 chiếc xe khổng lồ 18 bánh 2 thùng đang chạy về phía trụ đèn giao thông ngay dưới cửa sổ. Một tấm bạt vi-ni-lông màu xanh căng qua thùng chở hàng rộng, che hàng hoá 1 cách lỏng lẻo. Langdon hy vọng Sophie không nghĩ những điều mà có vẻ như cô đang nghĩ tới.
- Sophie, tôi không thể nhảy…
- Ông lấy cái đĩa GPS ra đi.
Ngỡ ngàng, Langdon dò trong túi cho đến khi tìm thấy cái đĩa kim loại tí hon. Sophie đón lấy nó từ tay Langdon và ngay lập tức bước về phía bồn nước. Cô lấy 1 bánh xà phòng to, đặt cái đĩa lên trên rồi lấy ngón tay cái ấn nó vào trong bánh xà phòng. Khi cái đĩa lún sâu vào bề mặt mềm, cô miết cho lỗ hổng kín lại, khép chặt thiết bị đó trong bánh xà phòng.
Đưa bánh xà phòng cho Langdon, Sophie lấy cái thùng rác nặng, hình trụ từ bên dưới bồn nước. Trước khi Langdon kịp phản kháng, Sophie chạy tới cửa sổ, giơ cái thùng ra đằng trước như cây trụ phá thành thời xưa. Thúc mạnh đáy thùng vào giữa cửa sổ, cô phá tan mặt kính.
Chuông báo động kêu như xé tai ngay trên đầu.
- Đưa cho tôi bánh xà phòng! Sophie hét lên, tiếng cô hầu như không nghe thấy qua tiếng chuông báo động.
Langdon nhét bánh xà phòng vào tay cô.
Giữ chặt bánh xà phòng, cô nhìn qua cửa sổ bị vỡ xuống cái xe 18 bánh đang đỗ bên dưới. Mục tiêu rất lớn – 1 tấm bạt rộng, đứng yên – và chỉ cách sườn toà nhà không đến 3m. Khi đèn giao thông chuẩn bị chuyển màu, Sophie thở sâu và ném bánh xà phòng vào màn đêm. Bánh xà phòng lao thẳng về phía xe tải, rơi xuống mép của tấm bạt vào trong thùng hàng nay khi đèn giao thông chuyển sang màu xanh.
- Chúc mừng – Sophie nói, lôi Langdon về phía cửa. Ông vừa thoát khỏi Louvre.
Chạy khỏi phòng vệ sinh nam, họ chìm vào bóng tối ngay khi Fache chạy qua.
Bây giờ, còi báo động đã tắt, Langdon có thể nghe thấy tiếng còi xe của DCPJ đang rời khỏi Louvre. Cảnh sát lũ lượt kéo đi.
Fache cũng vội cã rời đi, để lại hành lang lớn trống không.
Có 1 cầu thang thoát hiểm cách đây khoảng 50m trở lui vào hành lang lớn. Sophie nói. – Bây giờ lính gác đã đi khỏi toà nhà, chúng ta có thể ra khỏi đây.
Langdon quyết định không nói 1 lời nào nữa trong suốt buổi tối. Sophie Neveu rõ ràng thông minh hơn ông rất nhiều.

the_warm_winter
04-07-2008, 03:04 AM
Chương 19
Nghe nói Nhà thờ Saint-Sulpice có lịch sử khác thường nhất so với bất kỳ toà nhà nào khác ở Paris. Xây dựng trên đống đổ nát của 1 đền thờ cổ xưa thờ nữ thần Ai Cập Isis, nhà thờ có mặt bằng kiến trúc xấp xỉ với Nhà thờ Đức Bà chỉ xê xích nhau vài phân. Thánh đường này đã từng là nơi diễn ra lễ rửa tội của Marquis de Sade và Baudelaire, cũng như đám cưới của Victor Hugo. Trường dòng gắn liền với nhà thờ có lịch sử được ghi chép cẩn thận về sự không chính thống, nó đã từng là phòng họp bí mật của nhiều hội kín.
Đêm nay, gian chính thăm thẳm của nhà thờ Saint-Sulpice yên ắng như 1 hầm mộ, dấu hiệu duy nhất của sự sống là mùi thoang thoảng của hương trầm từ buổi lễ trước đó. Sillas nhận thấy sự không thoải mái trong thái độ của Xơ Sandrine khi bà dẫn hắn vào nơi tôn nghiêm. Hắn không ngạc nhiên vì điều này. Sillas đã quen với việc mọi người không thoải mái với sự xuất hiện của hắn.
- Cậu là người Mỹ? – bà nói
- Gốc Pháp – Sillas trả lời. – Con gia nhập dòng tu của mình ở Tây Ban Nha, và hiện con đang học ở Mỹ.
Xơ Sandrine gật đầu. Bà là 1 người nhỏ bé với đôi mắt hiền từ. – Và cậu chưa từng nhìn thấy Saint-Sulpice?
- Con nhận ra rằng điều đó tự thân nó đã gần như là 1 tội lỗi.
- Nhà thờ đẹp hơn vào ban ngày.
- Con chắc chắn là thế. Dù sao, con vẫn đội ơn Xơ đã cho con cơ hội đêm nay.
- Cha trưởng tu viện đã yêu cầu như thế. Cậu rõ ràng là có những người bạn đầy quyền lực.
Bà chẳng hiểu mô tê gì. Sillas nghĩ.
Trong khi theo Xơ Sandrine đi dọc lối đi chính, Sillas ngạc nhiên trước sự khắc khổ của thánh đường này. Không giống Notre Dame với những bức tranh tường nhiều màu sắc, những bàn thờ mạ vàng và gỗ ấm, Saint-Sulpice trơ trụi và lạnh lẽo, mang 1 tính chất gần như cằn cỗi gợi nhớ đến các nhà thờ khổ hạnh của Tây Ban Nha. Sự thiếu vắng các đồ trang hoàng làm cho bên trong càng có vẻ rộng hơn, và khi Sillas nhìn lên mái vòm cao vút, hắn tưởng tượng như đang đứng dưới 1 con thuyền khổng lồ úp xấp.
Một hình ảnh thích hợp. Hắn nghĩ. Con thuyền của hội kín đó sẽ bị úp xấp mãi mãi. Cảm thấy háo hức muốn bắt tay vào việc, Sillas những muốn Xơ Sandrine cứ để mặc hắn. Bà là 1 người nhỏ bé mà Sillas có thể vô hiệu hoá dễ dàng, nhưng hắn đã thề không dùng bạo lực trừ phi thực sự cần thiết. Bà là 1 nữ tu sĩ, đâu phải lỗi tại bà khi hội kín đó chọn nhà thờ của bà làm nới cất giấu viên đá đỉnh vòm. Bà không đáng bị trừng phạt vì tội lỗi của người khác.
- Con thật áy náy đã đánh thức Xơ vì lợi ích cá nhân mình.
- Không sao. Cậu ở Paris trong thời gian ngắn. Cậu không nên bỏ lỡ dịp tham quan Saint-Sulpice. Cậu quan tâm đến nhà thờ này về kiến trúc hay lịch sử?
- Thực chất, thưa Xơ, sự quan tâm của con là tâm linh.
Bà cười vui vẻ: - Điều đó không cần phải nói. Tôi chỉ phân vân không biết bắt đầu dẫn cậu đi xem từ đâu?
Sillas dồn mắt vào bàn thờ: - Không cần thiết phải dẫn đâu ạ. Xơ thật quá chu đáo. Con có thể tự mình đi xem.
- Không sao đâu – bà nói – tôi đã tỉnh ngủ.
Sillas dừng lại. Họ đã đến hàng ghế đầu, và bàn thờ chỉ cách đó 15m. Quay cả thân hình đồ sộ lại phía người đàn bà nhỏ bé, hắn có thể cảm thấy bà co người lại khi ngước nhìn đôi mắt đỏ đọc của hắn. – Nói thế này khí thô lỗ thưa Xơ, con không có thói quen bước vào ngôi nhà của Chúa chỉ đơn thuần để tham quan. Xơ có phiền nếu có muốn thư thả 1 mình để cầu nguyện trước khi đi xem xung quanh không?
Xơ Sandrine do dự. - Ồ, tất nhiên là không, tôi sẽ đợi cậu ở đằng sau nhà thờ.
Sillas đặt bàn tay mềm nhưng nặng lên vai bà và nhìn xuống:
- Xơ ạ con cảm thấy có lỗi vì đã đánh thức Xơ dậy. Giờ lại yêu cầu Xơ thức chờ nữa thì thật quá đáng. Xin Xơ hãy trở lại giường. Con có thể tự thưởng ngoạn thánh đường của Xơ rồi tự ra về.
Bà có vẻ không an tâm: - Cậu chắc là cậu sẽ không cảm thấy bị bỏ rơi chứ?
- Hoàn toàn không. Cầu nguyện là 1 niềm vui cô độc
- Tuỳ cậu thôi.
Sillas rút tay lại: - Chúc ngủ ngon! Xơ. Cầu cho sự an lành của Chúa luôn ở cùng Xơ.
- Và ở cùng cậu nữa. Xơ Sandrine đi về phía cầu thang. Nhớ đóng chặt các cánh cửa khi cậu ra về nhé.
- Con sẽ đảm bảo điều đó, - Sillas nhìn theo cho đến khi bà đi khuất. Sau đó hắn quay lại và quỳ trên ghế băng đằng trước, cảm thấy cái dây lưng hành xác cứa vào chân.
Chúa kính yêu, con dâng lên Người công việc mà con làm hôm nay…
Cúi mình trong bóng tối của ban công dàn thánh ca ở phía trên bàn thờ, Xơ Sandrine lặng lẽ nhìn qua hàng lan can, quan sát người thầy tu mặc áo choàng dài đang quỳ gối 1 mình. Nỗi khiếp sợ bất chợt trong linh hồn khiến bà khó có thể ngủ được.
Trong giây phút thoáng qua, bà tự hỏi liệu vị khách bí ẩn này có thể là kẻ thù mà họ đã cảnh báo bà không, và liệu đêm nay và có phải chấp hành những mệnh lệnh mà bà vẫn ghi nhớ suốt những năm qua không. Bà quyết định ở lại trong bóng tối và theo dõi mọi cử động của hắn.

bapcai_tocxu_2007
06-07-2008, 04:54 AM
rat hay
nhung hok du j ca. dag feu thi cup cai rup

the_warm_winter
06-07-2008, 09:32 PM
truyện phải type chứ có sẵn đâu mà post nhanh được. với lại cứ tưởng ko ai đọc nên đang định ngừng. Đợi nha!

Chương 20
Ra khỏi bóng tối, Langdon và Sophie len lén đi ngược hành lang vắng lặng, tiến về phía cầu thang thoát hiểm. Vừa bước đi, Langdon vừa cảm thấy như đang cố làm 1 trò chơi ghép hình trong bóng tối. Khía cạnh mới sâu sắc: Tay đại uý cảnh sát tư pháp đang cố tạo dựng chứng cớ để khép mình vào tội giết người.
- Cô có nghĩ – ông thì thầm - rằng có thể Fache là người viết tin nhắn trên sàn đó không?
Sophie thậm chí không ngoảnh mặt lại : - Không thể nào.
Langdon thì không chắc chắn như vậy: - Ông ta dường như cố ý chứng minh là tôi phạm tội. Có lẽ ông ta nghĩ viết tên tôi lên sàn sẽ giúp ông ta phá án chăng?
- Thế còn dãy số Fibonacci? Hai chữ P.S? Và cả bức ký hoạ Da Vinci và biểu tượng nữ thần nữa? Tất cả thảy là của ông tôi.
Langdon biết rằng cô ấy đúng. Tính biểu tượng của các đầu mối ăn khớp với nhau quá hoàn hảo hình sao 5 cánh, bức ký hoạ người Vitruvia của Da Vinci, nữ thần và cả cái dãy số Fibonacci ấy nữa. - Một bộ biểu tượng nhất quán – như cách gọi của các nhà nghiên cứu hình tượng minh hoạ. Tất cả kết nối với nhau chặt chẽ không cách chi gỡ ra nỗi.
- Và chiều nay ông tôi đã gọi cho tôi – Sophie nói thêm. Ông bảo ông cần nói với tôi 1 điều gì đó. Tôi chắc lời nhắn của ông tại bảo tàng Louvre là những lỗ nực tối hậu để nói cho tôi biết điều gì đó quan trọng, 1 điều mà ông tôi nghĩ là ông có thể giúp tôi hiểu.
Langdon cau mày. Ôi, quỷ hà khắc! ÔI thánh yếu đuối! Ông ước mình có thể hiểu rõ lời nhắn đó, vừa vì lợi ích của Sophie vừa vì chính ông nữa. Sự thể rành là đã xấu đi kể từ khi ông nhìn thấy lần đâu tiên những từ ngữ khó hiểu đó. Cái kẻ đóng giả ông nhảy qua cửa sổ nhà vệ sinh sẽ chẳng khiến Fache mến mộ Langdon thêm chút nào. Cách nào đó, ông không tin rằng viên đại uý Pháp có thể thấy được nét hài hước trong việc đuổi bắt 1 bánh xà phòng.
- Lối vào không còn xa lắm đâu – Sophie nói.
- Liệu có khả năng những con số trong tin nhắn của ông cô chứa đựng chìa khoá để hiểu những dòng khác không?
Langdon đã từng nghiên cứu 1 loạt văn bản viết tay của người Baconian, những văn tự có kí tự khắc trên bia đá, trong đó mã số nằm ở 1 số dòng nhất định là đầu mối để giải mã những dòng khác.
- Cả tối nay tôi đã nghĩ về những con số đó. Những phép tính, thương số, kết quả. . Tôi chẳng thấy được điều gì cả. Về mặt toán học mà nói, chúng được sắp xếp 1 cách ngẫu nhiên. Một chuỗi ký tự tào lao.
- Nhưng chúng là 1 phần của dãy số Fibonacci. Đó không thể là sự trùng hợp được.
- Đúng thế. Sử dụng dãy số Fibonacci là 1 cách khác để ông tôi thu hút sự chú ý của tôi – cũng như viết lời nhắn bằng tiếng Anh, hoặc sắp xếp thân thể mình theo tư thế hệt như tác phẩm nghệ thuật ưa thích của tôi, hoặc vẽ 1 hình sao 5 cánh lên người mình. Tất cả chỉ để thu hút sự chú ý của tôi.
- Hình sao 5 cánh có ý nghĩ đối với cô?
- Vâng. Tôi chưa có cơ hội để nói với ông, nhưng hình sao 5 cánh là 1 ký hiệu đặc biệt giữa ông cháu tôi hồi tôi còn nhỏ. Chúng tôi thường chơi bào Taro để giải trí, và con bài hiệu do tôi rút bao giờ cũng nằm trong bộ sao 5 cánh. Tôi dám chắc ông đã sắp bài cho nó ra như thế, nhưng những bộ sao 5 cánh chỉ là trò đùa nho nhỏ của chúng tôi thôi.
Langdon cảm thấy rùng mình. Họ đã từng chơi bài Taro ư? Trò chơi bài này của người ý thời trung cổ tự nó đã ẩn giấu quá nhiều những biểu tượng dị giáo đến nỗi Langdon đã dành toàn bộ 1 chương trong bản thảo mới của ông để biết về bài Taro. 22 quân bài của trò chơi này có những cái tên như: nữ giáo hoàng, nữ hoàng và ngôi sao. Thoạt kỳ thuỷ, bài Taro được bày tạo ra như là 1 phương cách bí mật để truyền đi những tư tưởng bị Nhà Thờ cấm đoán. Ngày nay, bí ẩn trên những quân bài Taro được những bà thầy bói thời hiện đại lưu truyền. Bộ bài hiệu Taro hợp với tính nữ thiêng liêng là bộ sao 5 cánh.
Langdon nghĩ, nhận ra rằng nếu Saunière sắp bài cho cô cháu gái như thế cho vui thì bộ sao 5 cánh là trò đùa có nội dung thích hợp.
Họ đã đến cầu thang thoát h iểm, và sồ thận trọng đẩy cửa. Không có chuông báo động nào kêu cả. Chỉ có những cánh cửa dẫn ra bên ngoài là có cài hệ thống báo động. Sophie dẫn Langdon xuống 1 cầu thang hẹp ngoằn nhèo dẫn đến tầng trệt, mỗi lúc 1 rảo bước nhanh hơn.
- Khi nói về hình sao 5 cánh – Langdon nói, vội vã theo sau cô – ông cô có đề cập đến việc thờ nữ thần hay bất cứ phẫn uất nào đối với nhà thờ Cơ Đốc chính thống không?
Sophie lắc đầu: - Tôi quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh toán học của nó - tỷ lệ thần thánh PHI, dãy số Fibonacci, đại loại như thế.
Langdon ngạc nhiên: - Ông cô dạy cô về số PHI à?
- Tất nhiên. Tỷ lệ thần thánh đó. - Vẻ mặt cô trở nên ngượng ngập. - Thực tế, ông thường hay nói đùa rằng nửa phần tôi là thần thánh … ông biết đấy, đó là do những chữ cái trong tên tôi.
Langdon suy nghĩ trong chốc lát rồi lẩm nhẩm.
s-o-P-H-I-e.
Vừa đi xuống Langdon vừa tập trung ngẫm nghĩ lại số PHI. Ông bắt đầu nhận ra rằng những đầu mối của Saunière có thực chất hơn ông tưởng ban đầu.
Da Vinci… dãy số Fibonacci… hình sao 5 cánh.
Không thể tin được, tất cả những điều này đều được kết nối bởi độc 1 khái niệm cơ bản trong lịch sử nghệ thuật mà Langdon thường dành cả mấy tiết học để giảng về nó. PHI.
Ông cảm thấy như đột nhiên quay về đại học Harward, đứng trong giờ giảng Chữ nghĩa tượng trưng trong nghệ thuật của mình, viết con số ưa thích lên bảng đen. 1,618
Langdon quay mặt về phía đám đông sinh viên đầy hào hứng: - Ai có thể nói cho tôi biết con số này là gì?
Một sinh viên chân dài ngành toán học ngồi ở phía sau giơ tay: - Đó là số PHI. Cậu ta dài giọng ph-i-i
- Tốt lắm Stettner – Langdon nói, xin giới thiệu PHI với tất cả.
- Đừng có nhầm lẫn với PI – Stettner thêm vào rồi cười toét. Như cánh toán học chúng tôi thích nói: PHI hơn hắn PI 1 con H.
Langdon cười nhưng dường như không ai hiểu câu nói đùa đó.
Stettner buồn thiu.
- Số PHI này – Langdon tiếp tục - một-phẩy-sáu-một-tám, là 1 con số vô cùng quan trọng trong nghệ thuật. Ai có thể nói cho tôi biết tại sao?
Stettner cố chứng tỏ mình lần nữa: - Bởi vì nó rất đẹp phải không ạ?
Mọi người cười rộ lên.
- Thực ra – Langdon nói – Stettner lại 1 lần nữa nói đúng. Nói tóm lại, PHI được coi là con số đẹp nhất trong vũ trụ.
Tiếng cười đột ngột dứt hẳn, và Stettner đắc chí.
Vừa lắp phim vào máy chiếu Slide, Langdon vừa giải thích rằng số PHI bắt nguồn từ dãy số Fibonacci – 1 cấp số nổi tiếng không chỉ vì tổng số những số hạng kề nhau sẽ bằng số hạng kế tiếp, mà còn bởi thương số của những số hạng kề nhau có 1 đặc tính kỳ lạ là đều suýt xoát số 1,618 – PHI!
- Mặc dù nguồn gốc toán học của số PHI có vẻ như huyền bí, Langdon giải thích, khía cạnh gây sửng sốt thực sự của PHI lại nằm ở vai trò của nó với tư cách là 1 nhân tố xây dựng mang tính nền tảng trong tự nhiên. Thực vật, động vật, và thậm chí cả con người đều có những thuộc tính về kích thước gắn chặt với tỉ sổ giữa PHI và 1 tới 1 độ chính xác kỳ bí!
- Số PHI có mặt khắp nơi trong tự nhiên – Langdon vừa nói vừa tắt đèn – rõ ràng điều đó vượt quá sự trùng hợp, và vì vậy nên người xưa cho rằng con số PHI hẳn là đã được tiền định bởi đấng sáng thế. Các nhà khoa học buổi ban đầu đã tuyên bố “1,618 là tỷ lệ thần thánh”.
- Khoan – 1 cô gái ở hàng ghế đầu lên tiếng – tôi là sinh viên chuyên khoa sinh học và tôi chưa bao giờ thấy tỷ lệ thần thánh này trong tự nhiên cả.
- Chưa à? – Langdon mỉm cười - bạn đã bao giờ nghiên cứu con cái và con đực trong xã hội của loài ong chưa?
- Đương nhiên rồi. Số ong cái luôn nhiều hơn số ong đực.
- Chính xác. Và bạn có biểt rằng nếu bạn chia số ong cái cho số ong đực trong bất cứ 1 tổ ong nào trên thế giới, bạn luôn được cùng 1 số thương không?
- Thầy đã làm rồi ạ?
- Đúng vậy. Số PHI.
Cô gái há hốc miệng: - Không thể nào?
- Hoàn toàn có thể! Langdon quặc lại, rồi mỉm cười chiếu 1 hình vỏ ốc trên slide. - Bạn nhận ra cái này chứ?
- Đó là 1 con ốc anh vũ – cô sinh viên sinh học nói. - Một loài nhuyễn thể có vỏ cứng, có thể đẩy không khí vào trong vỏ để điều chỉnh độ nổi hay chìm trong nước.
- Chính xác. Và bạn có thể đoán được tỉ sổ của mỗi đường kính vòng xoắn này với đường kính vòng xoắn kế tiếp không?
Cô gái có vẻ phân vân khi quan sát những vòng tròn đồng tâm trên vỏ xoắc của con ốc anh vũ.
Langdon gật đầu : - PHI. Tỷ lệ thần thánh. 1,618 trên 1. Trông cô gái đầy vẻ kinh ngạc.
Langdon chuyển sang tấm slide tiếp theo - bản chụp cận cảnh 1 đầu hạt hoa hướng dương. - Hạt hoa hướng dương có những vòng xoáy đối ngược nhau. Bạn có thể đoán được tỷ số giữa đường kính vòng tròn này với đường kính vòng trên kế tiếp không?
- Là PHI? Tất cả đồng thanh.
- Tuyệt. Bây giờ Langdon chiếu nhanh tất cả các tấm slide các đường trôn ốc trên quả thông, cách sắp xếp lá trên những nhánh cây, các vạch trên bụng côn trùng, tất cả đều tuân theo tỷ lệ thần thánh đến mức kinh ngạc.
- Thật kỳ lạ, - ai đó reo lên.
- Phải, - 1 người khác nói, nhưng cái đó có liên quan gì đến nghệ thuật?
- Aha, Langdon reo lên - rất vui vì bạn đã hỏi điều đó. Ông chiếu 1 tấm slide khác – 1 tấm giấy da vàng nhạt có hình người đàn ông khoả thân nổi tiếng của Leonardo Da Vinci – Người Vitruvian được đặt tên theo Marcus Vitruvius, kiến trúc sư lỗi lạc người La mã, người đã đánh giá rất cao tỷ lệ thần thánh trong 1 cuốn sách của ông mang tên Kiến trúc.
- Không ai hiểu cấu trúc thần thánh của con người hơn Da Vinci. Thực tế Da Vinci đã khai quật các ngôi mộ để đo đạc chính xác tỉ lệ các cấu trúc xương trong cơ thể con người. Ông là người đầu tiên chứng minh rằng cơ thể con người, nói 1 cách chính xác theo nghĩa đen, được làm bằng các khối mà tỉ lệ giữa chúng luôn luôn là PHI!
Mọi người trong giảng đường đều nhìn ông với vẻ ngờ vực.
- Không tin tôi phải không? Langdon thách thức. - Lần tới các bạn tắm vòi hoa sen, hãy thử đo mình bằng thước dây xem.
Hai cầu thủ bóng đá cười khúc khích.
- Không chỉ 2 bạn vận động viên kia đâu – Langdon phản ứng lại ngay – Mà tất cả các bạn. Nào các chàng trai, các cô gái. Thử nhé. Hãy đo khoảng cách từ đỉnh đầu các bạn cho đến khi chạm đất. Rồi chia nó cho khoảng cách từ rốn các bạn đến mặt đất. Hãy đoán xem con số mà các bạn đạt được.
- Không phải số PHI! Một trong 2 gã vận động viên thốt lên, không tin.
- Là số PHI – Langdon đáp lại – 1.618. Cần 1 ví dụ khác nữa không? Hãy đo khoảng cách từ vai đến các đầu ngón tay, rồi chia nó cho khoảng cách từ khuỷu tay đến các đầu ngón tay. Lại 1 số PHI nữa. Một ví dụ khác nhé? Hãy chia khoảng cách từ đầu gối đến mặt đất cho khoảng cách từ hông đến mặt đất. Một số PHI nữa. Lòng bàn tay. Ngón chân cái. Các đốt sống. PHI. PHI. PHI. Các bạn của tôi ơi, mỗi người trong các bạn đều là 1 minh chứng sống cho tỉ lệ thần thánh.
Ngay cả trong bóng tối, Langdon cũng có thể nhìn thấy tất cả bọn họ sững sờ. Ông cảm thấy 1 sự ấm nóng quen thuộc trong lòng. Đây chính là lý do tại sao ông dạy học.
- Các bạn của tôi như các bạn đã thấy, bên dưới sự hỗn độn của thế giới, vẫn có 1 trật tự. Khi người xưa phát hiện ra số PHI, họ chắc chắn rằng họ đã tình cờ tìm thấy yếu tố cơ bản mà Chúa Trời dùng để tạo nên thế giới này, và họ tôn thờ tự nhiên vì lí do đó. Và người ta có thể hiểu tại sao trong tự nhiên rõ ràng có bàn tay của Chúa Trời, và cho đến ngày này vẫn còn tồn tại những tôn giáo vô thần thờ Mẹ Đất. Nhiều người trong chúng ta tôn vinh tự nhiên theo cách mà những tín đồ ngoại giáo vẫn làm, mà thậm chí không biết thế. Ngày mồng 1 tháng 5 là 1 thí dụ điển hình, ngày lễ tôn vinh mùa xuân… Trái đất hồi sinh để ban tặng sự hào phóng của mình. Ngay từ buổi sơ khai, người ta đã viết về phép thuật bí ẩn cố hữu nơi tỷ lệ thần thánh. Con người chỉ đơn giản hoạt động theo những quy luật của tự nhiên và bởi vì nghệ thuật chính là nỗ lực của con người để bắt chước cho được vẻ đẹp từ bàn tay Đấng Sáng Thế, các bạn có thể tưởng tượng rằng chúng ta sẽ được tận mắt thấy rất nhiều bằng chứng về tỷ lệ thần thánh trong nghệ thuật học kỳ này.
Hơn 1 nửa giờ nữa trôi qua, Langdon cho đám sinh viên xem những slide về các tác phẩm nghệ thuật của Michelangelo, Albrecht, Dyrer, Da Vinci và nhiều người khác, để minh chứng sự áp dụng triệt để và đầy đủ chủ ý của mỗi nghệ sĩ đối với tỉ lệ thần thánh trong bố cục mỗi tác phẩm nghệ thuật của mình. Langdon cũng chỉ rõ PHI trong các kích thước kiến trúc của đền Parthenon Hy Lạp, của các Kim tự tháp Ai Cập, và thậm chí của cả toà nhà trụ sở Liên Hợp Quốc tại New York. PHI cũng xuất hiện trong cấu trúc tổ chức của các bản sonate của Mozart, bản giao hưởng số 5 của Beethoven, cũng như các tác phẩm của Bartók. Debussy và Schubert. Số PHI, Langdon nói với sinh viên, thậm chí còn được Stradivarios sử dụng để tính toán vị trí chính xác của những khe hình chữ, khi ông tạo ra những cây đàn viôlông nổi tiếng của mình.
- Để khép lại – Langdon vừa nói vừa bước về phía chiếc bảng – chúng ta quay trở về với các biểu tượng. Ông vẽ 5 đường giao nhau, tạo nên 1 ngôi sao 5 cánh. – Đây là 1 trong những hình ảnh đầy quyền năng nhất mà các bạn sẽ thấy trong học kỳ này. Bình thường nó được biết đến như là 1 hình ngôi sao 5 cánh – hay pentacle như tổ tiên ta đã gọi - biểu tượng này được nhiều nền văn hoá coi là linh thiêng và huyền bí. Có ai có thể nói cho tôi biết vì sao lại thế không?
Stettner, anh sinh viên khoa toán đó, lại giơ tay: - Bởi vì nếu thầy vẽ 1 hình sao 5 cánh, các đường thẳng sẽ tự chia nó thành những đoạn theo tỷ lệ thần thánh.
Langdon gật đầu đầy tự hào với chàng sinh viên: - Rất tốt. Đúng thế, tỷ lệ giữa các đoạn thẳng trong hình sao 5 cánh tất cả đều bằng PHI khiến cho biểu tượng này trở thành biểu hiện tối hậu của tỷ lệ thần thánh. Vì lý do này, hình sao 5 cánh luôn luôn là biểu tượng của vẻ đẹp và sự hoàn hảo gắn với các nữ thần và tính nữ thiêng liêng.
Các cô gái trong lớp mỉm cười rạng rỡ.
- Các bạn, xin lưu ý 1 điểm. Hôm nay chúng ta mới chỉ đụng đến Da Vinci 1 chút thôi, nhưng rồi chúng ta sẽ còn tiếp xúc với ông nhiều hơn nữa trong học kỳ này. Leonardo là 1 người say mê những phong cách cổ xưa của các nữ thần, về điều này chúng ta có rất nhiều tài liệu. Ngày mai tôi sẽ cho các bạn xem bức bích hoạ của ông, đó là 1 trong những biểu hiện kỳ diệu nhất sự tôn kính đối với tính nữ thiêng liêng mà các bạn sẽ có dịp được chiêm ngưỡng.
- Thầy đang nói đùa bọn em, phải không ạ? – Ai đó lên tiếng.
- Em nghĩ là về chúa Jesus?
Langdon nháy mắt: - Có những biểu tượng lẩn khuất ở những chỗ mà bạn không thể tưởng tượng nối.
- Đi nào – Sophie thì thầm. – Có chuyện gì thế? Chúng ta đã gần tới đích rồi. Nhanh lên!
Langdon ngước nhìn lên, ông cảm thấy như mình vừa quay trở lại từ 1 nơi xa xăm trong tiềm thức. Ông nhận ra là mình đang đứng đực ra trên cầu thang, sững lại bởi 1 phát hiện đột ngột.
Ôi, quỷ hà khắc! Ôi thánh yếu đuối (O, Dranconian devil! Oh, lame saint!)
Sophie ngoái nhìn ông.
Nó không thể chỉ đơn giản như thế. Langdon nghĩ.
Nhưng ông biết tất nhiên nó là như thế.
Nơi đây, trong lòng viện bảo tàng Louvre… với hình ảnh PHI và Da Vinci xoáy trộn trong tâm trí, đùng 1 cái Robert Langdon bất ngờ đã giả được mật mã của Saunière.
- “O, Draconian devil!” ông nói, “Oh, lame Saint! Đó là loại mật mã đơn giản nhất!
Sophie dừng lại ở vài bậc cầu thang bên dưới Langdon, cô nhìn lên không hiểu. – 1 loại mật mã – Cô đã nghĩ đi nghĩ lại những từ ngữ đó cả tối nay rồi mà chẳng thấy ở đó 1 mật mã nào cả. Nhất là 1 loại mật mã đơn giản.
- Chính cô đã nói điều này - giọng Langdon vang lên, phấn khích. – Dãy số Fibonacci chỉ có ý nghĩa trong trật tự đúng của nó. Nếu không nó chỉ là 1 trò đùa toán học tào lao.
Sophie chẳng hiểu Langdon đang nói gì. Dãy số Fibonacci? Cô chắc chắn rằng nó chẳng nhằm gì khác ngoài việc kéo bộ phận giải mật mã vào cuộc đêm nay. Nó có 1 mục đích khác chăng?
13-3-2-21-1-1-8-5
O, Draconian devil!
Oh lame saint!
Những con số này thì sao?
Dãy số Fibonacci bên trên đó là 1 đầu mối – Langdon vừa nói vừa cầm lấy bản in. – Những con số này ám chỉ cách giải mã phần còn lại của tin nhắn. Ông ấy đã viết nó lộn xộn để nói với chúng ta rằng hãy áp dụng cách tương tự cho phần bên dưới. O, Draconian devil! Oh, lame Saint! ư? Những dòng chữ này chẳng có ý nghĩa gì cả. Đơn giản chúng chỉ là những chữ cái viết lộn xộn thôi.
Sophie chỉ cần 1 thoáng để lĩnh hội hàm ý của Langdon và dường như nó đơn giản đến tức cười. – Ông nghĩ tin nhắn này là …une anagramme? Cô liếc nhìn ông - Giống trò chơi đảo chữ cái trên báo.
Langdon có thể thấy sự nghi ngờ trên mặt của Sophie và tất nhiên ông hiểu điều đó. Ít người nhận biết được rằng anagram, mặc dù là 1 trò giải trí nhàm chán của thời hiện đại, lại có 1 lịch sử phong phú về biểu tượng linh thiêng.
Những giáo lý huyền bí của người Do thái được viết ra hầu hết dựa trên cách đảo chữ cái - sắp xếp lại các âm tiết trong các từ tiếng Hêbrơ sẽ tạo ra những ý nghĩa mới. Trong suốt thời kỳ phục hưng, các vua Pháp tin chắc rằng anagram nắm giữ 1 quyền năng ma thuật đến nỗi họ đã bổ nhiệm những chuyên gia anagram trong hoàng gia để giúp họ đưa ra những quyết định sáng suốt hơn bằng cánh phân tích các từ ngữ trong những tài liệu quan trọng. Người La mã đã thực sự gọi việc nghiên cứu anagram là 1 ars magna - nghệ thuật vĩ đại.
Langdon ngước nhìn Sophie, 4 mắt giao nhau – Ý của ông cô nằm ngay trước mắt chúng ta, ông ấy để lại cho chúng ta quá đủ đầu mối để hiểu rõ nó.
Không nói 1 lời nào nữa, Langdon rút từ trong túi ra 1 cây bút và sắp xếp lại các chữ cái ở mỗi dòng.
O, Draconian devil!
Oh, lame Saint! là 1 trò đảo ngữ hoàn hảo của …
Lenonardo Da Vinci
The Mona Lisa!

Chương 20
Ra khỏi bóng tối, Langdon và Sophie len lén đi ngược hành lang vắng lặng, tiến về phía cầu thang thoát hiểm. Vừa bước đi, Langdon vừa cảm thấy như đang cố làm 1 trò chơi ghép hình trong bóng tối. Khía cạnh mới sâu sắc: Tay đại uý cảnh sát tư pháp đang cố tạo dựng chứng cớ để khép mình vào tội giết người.
- Cô có nghĩ – ông thì thầm - rằng có thể Fache là người viết tin nhắn trên sàn đó không?
Sophie thậm chí không ngoảnh mặt lại : - Không thể nào.
Langdon thì không chắc chắn như vậy: - Ông ta dường như cố ý chứng minh là tôi phạm tội. Có lẽ ông ta nghĩ viết tên tôi lên sàn sẽ giúp ông ta phá án chăng?
- Thế còn dãy số Fibonacci? Hai chữ P.S? Và cả bức ký hoạ Da Vinci và biểu tượng nữ thần nữa? Tất cả thảy là của ông tôi.
Langdon biết rằng cô ấy đúng. Tính biểu tượng của các đầu mối ăn khớp với nhau quá hoàn hảo hình sao 5 cánh, bức ký hoạ người Vitruvia của Da Vinci, nữ thần và cả cái dãy số Fibonacci ấy nữa. - Một bộ biểu tượng nhất quán – như cách gọi của các nhà nghiên cứu hình tượng minh hoạ. Tất cả kết nối với nhau chặt chẽ không cách chi gỡ ra nỗi.
- Và chiều nay ông tôi đã gọi cho tôi – Sophie nói thêm. Ông bảo ông cần nói với tôi 1 điều gì đó. Tôi chắc lời nhắn của ông tại bảo tàng Louvre là những lỗ nực tối hậu để nói cho tôi biết điều gì đó quan trọng, 1 điều mà ông tôi nghĩ là ông có thể giúp tôi hiểu.
Langdon cau mày. Ôi, quỷ hà khắc! ÔI thánh yếu đuối! Ông ước mình có thể hiểu rõ lời nhắn đó, vừa vì lợi ích của Sophie vừa vì chính ông nữa. Sự thể rành là đã xấu đi kể từ khi ông nhìn thấy lần đâu tiên những từ ngữ khó hiểu đó. Cái kẻ đóng giả ông nhảy qua cửa sổ nhà vệ sinh sẽ chẳng khiến Fache mến mộ Langdon thêm chút nào. Cách nào đó, ông không tin rằng viên đại uý Pháp có thể thấy được nét hài hước trong việc đuổi bắt 1 bánh xà phòng.
- Lối vào không còn xa lắm đâu – Sophie nói.
- Liệu có khả năng những con số trong tin nhắn của ông cô chứa đựng chìa khoá để hiểu những dòng khác không?
Langdon đã từng nghiên cứu 1 loạt văn bản viết tay của người Baconian, những văn tự có kí tự khắc trên bia đá, trong đó mã số nằm ở 1 số dòng nhất định là đầu mối để giải mã những dòng khác.
- Cả tối nay tôi đã nghĩ về những con số đó. Những phép tính, thương số, kết quả. . Tôi chẳng thấy được điều gì cả. Về mặt toán học mà nói, chúng được sắp xếp 1 cách ngẫu nhiên. Một chuỗi ký tự tào lao.
- Nhưng chúng là 1 phần của dãy số Fibonacci. Đó không thể là sự trùng hợp được.
- Đúng thế. Sử dụng dãy số Fibonacci là 1 cách khác để ông tôi thu hút sự chú ý của tôi – cũng như viết lời nhắn bằng tiếng Anh, hoặc sắp xếp thân thể mình theo tư thế hệt như tác phẩm nghệ thuật ưa thích của tôi, hoặc vẽ 1 hình sao 5 cánh lên người mình. Tất cả chỉ để thu hút sự chú ý của tôi.
- Hình sao 5 cánh có ý nghĩ đối với cô?
- Vâng. Tôi chưa có cơ hội để nói với ông, nhưng hình sao 5 cánh là 1 ký hiệu đặc biệt giữa ông cháu tôi hồi tôi còn nhỏ. Chúng tôi thường chơi bào Taro để giải trí, và con bài hiệu do tôi rút bao giờ cũng nằm trong bộ sao 5 cánh. Tôi dám chắc ông đã sắp bài cho nó ra như thế, nhưng những bộ sao 5 cánh chỉ là trò đùa nho nhỏ của chúng tôi thôi.
Langdon cảm thấy rùng mình. Họ đã từng chơi bài Taro ư? Trò chơi bài này của người ý thời trung cổ tự nó đã ẩn giấu quá nhiều những biểu tượng dị giáo đến nỗi Langdon đã dành toàn bộ 1 chương trong bản thảo mới của ông để biết về bài Taro. 22 quân bài của trò chơi này có những cái tên như: nữ giáo hoàng, nữ hoàng và ngôi sao. Thoạt kỳ thuỷ, bài Taro được bày tạo ra như là 1 phương cách bí mật để truyền đi những tư tưởng bị Nhà Thờ cấm đoán. Ngày nay, bí ẩn trên những quân bài Taro được những bà thầy bói thời hiện đại lưu truyền. Bộ bài hiệu Taro hợp với tính nữ thiêng liêng là bộ sao 5 cánh.
Langdon nghĩ, nhận ra rằng nếu Saunière sắp bài cho cô cháu gái như thế cho vui thì bộ sao 5 cánh là trò đùa có nội dung thích hợp.
Họ đã đến cầu thang thoát h iểm, và sồ thận trọng đẩy cửa. Không có chuông báo động nào kêu cả. Chỉ có những cánh cửa dẫn ra bên ngoài là có cài hệ thống báo động. Sophie dẫn Langdon xuống 1 cầu thang hẹp ngoằn nhèo dẫn đến tầng trệt, mỗi lúc 1 rảo bước nhanh hơn.
- Khi nói về hình sao 5 cánh – Langdon nói, vội vã theo sau cô – ông cô có đề cập đến việc thờ nữ thần hay bất cứ phẫn uất nào đối với nhà thờ Cơ Đốc chính thống không?
Sophie lắc đầu: - Tôi quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh toán học của nó - tỷ lệ thần thánh PHI, dãy số Fibonacci, đại loại như thế.
Langdon ngạc nhiên: - Ông cô dạy cô về số PHI à?
- Tất nhiên. Tỷ lệ thần thánh đó. - Vẻ mặt cô trở nên ngượng ngập. - Thực tế, ông thường hay nói đùa rằng nửa phần tôi là thần thánh … ông biết đấy, đó là do những chữ cái trong tên tôi.
Langdon suy nghĩ trong chốc lát rồi lẩm nhẩm.
s-o-P-H-I-e.
Vừa đi xuống Langdon vừa tập trung ngẫm nghĩ lại số PHI. Ông bắt đầu nhận ra rằng những đầu mối của Saunière có thực chất hơn ông tưởng ban đầu.
Da Vinci… dãy số Fibonacci… hình sao 5 cánh.
Không thể tin được, tất cả những điều này đều được kết nối bởi độc 1 khái niệm cơ bản trong lịch sử nghệ thuật mà Langdon thường dành cả mấy tiết học để giảng về nó. PHI.
Ông cảm thấy như đột nhiên quay về đại học Harward, đứng trong giờ giảng Chữ nghĩa tượng trưng trong nghệ thuật của mình, viết con số ưa thích lên bảng đen. 1,618
Langdon quay mặt về phía đám đông sinh viên đầy hào hứng: - Ai có thể nói cho tôi biết con số này là gì?
Một sinh viên chân dài ngành toán học ngồi ở phía sau giơ tay: - Đó là số PHI. Cậu ta dài giọng ph-i-i
- Tốt lắm Stettner – Langdon nói, xin giới thiệu PHI với tất cả.
- Đừng có nhầm lẫn với PI – Stettner thêm vào rồi cười toét. Như cánh toán học chúng tôi thích nói: PHI hơn hắn PI 1 con H.
Langdon cười nhưng dường như không ai hiểu câu nói đùa đó.
Stettner buồn thiu.
- Số PHI này – Langdon tiếp tục - một-phẩy-sáu-một-tám, là 1 con số vô cùng quan trọng trong nghệ thuật. Ai có thể nói cho tôi biết tại sao?
Stettner cố chứng tỏ mình lần nữa: - Bởi vì nó rất đẹp phải không ạ?
Mọi người cười rộ lên.
- Thực ra – Langdon nói – Stettner lại 1 lần nữa nói đúng. Nói tóm lại, PHI được coi là con số đẹp nhất trong vũ trụ.
Tiếng cười đột ngột dứt hẳn, và Stettner đắc chí.
Vừa lắp phim vào máy chiếu Slide, Langdon vừa giải thích rằng số PHI bắt nguồn từ dãy số Fibonacci – 1 cấp số nổi tiếng không chỉ vì tổng số những số hạng kề nhau sẽ bằng số hạng kế tiếp, mà còn bởi thương số của những số hạng kề nhau có 1 đặc tính kỳ lạ là đều suýt xoát số 1,618 – PHI!
- Mặc dù nguồn gốc toán học của số PHI có vẻ như huyền bí, Langdon giải thích, khía cạnh gây sửng sốt thực sự của PHI lại nằm ở vai trò của nó với tư cách là 1 nhân tố xây dựng mang tính nền tảng trong tự nhiên. Thực vật, động vật, và thậm chí cả con người đều có những thuộc tính về kích thước gắn chặt với tỉ sổ giữa PHI và 1 tới 1 độ chính xác kỳ bí!
- Số PHI có mặt khắp nơi trong tự nhiên – Langdon vừa nói vừa tắt đèn – rõ ràng điều đó vượt quá sự trùng hợp, và vì vậy nên người xưa cho rằng con số PHI hẳn là đã được tiền định bởi đấng sáng thế. Các nhà khoa học buổi ban đầu đã tuyên bố “1,618 là tỷ lệ thần thánh”.
- Khoan – 1 cô gái ở hàng ghế đầu lên tiếng – tôi là sinh viên chuyên khoa sinh học và tôi chưa bao giờ thấy tỷ lệ thần thánh này trong tự nhiên cả.
- Chưa à? – Langdon mỉm cười - bạn đã bao giờ nghiên cứu con cái và con đực trong xã hội của loài ong chưa?
- Đương nhiên rồi. Số ong cái luôn nhiều hơn số ong đực.
- Chính xác. Và bạn có biểt rằng nếu bạn chia số ong cái cho số ong đực trong bất cứ 1 tổ ong nào trên thế giới, bạn luôn được cùng 1 số thương không?
- Thầy đã làm rồi ạ?
- Đúng vậy. Số PHI.
Cô gái há hốc miệng: - Không thể nào?
- Hoàn toàn có thể! Langdon quặc lại, rồi mỉm cười chiếu 1 hình vỏ ốc trên slide. - Bạn nhận ra cái này chứ?
- Đó là 1 con ốc anh vũ – cô sinh viên sinh học nói. - Một loài nhuyễn thể có vỏ cứng, có thể đẩy không khí vào trong vỏ để điều chỉnh độ nổi hay chìm trong nước.
- Chính xác. Và bạn có thể đoán được tỉ sổ của mỗi đường kính vòng xoắn này với đường kính vòng xoắn kế tiếp không?
Cô gái có vẻ phân vân khi quan sát những vòng tròn đồng tâm trên vỏ xoắc của con ốc anh vũ.
Langdon gật đầu : - PHI. Tỷ lệ thần thánh. 1,618 trên 1. Trông cô gái đầy vẻ kinh ngạc.
Langdon chuyển sang tấm slide tiếp theo - bản chụp cận cảnh 1 đầu hạt hoa hướng dương. - Hạt hoa hướng dương có những vòng xoáy đối ngược nhau. Bạn có thể đoán được tỷ số giữa đường kính vòng tròn này với đường kính vòng trên kế tiếp không?
- Là PHI? Tất cả đồng thanh.
- Tuyệt. Bây giờ Langdon chiếu nhanh tất cả các tấm slide các đường trôn ốc trên quả thông, cách sắp xếp lá trên những nhánh cây, các vạch trên bụng côn trùng, tất cả đều tuân theo tỷ lệ thần thánh đến mức kinh ngạc.
- Thật kỳ lạ, - ai đó reo lên.
- Phải, - 1 người khác nói, nhưng cái đó có liên quan gì đến nghệ thuật?
- Aha, Langdon reo lên - rất vui vì bạn đã hỏi điều đó. Ông chiếu 1 tấm slide khác – 1 tấm giấy da vàng nhạt có hình người đàn ông khoả thân nổi tiếng của Leonardo Da Vinci – Người Vitruvian được đặt tên theo Marcus Vitruvius, kiến trúc sư lỗi lạc người La mã, người đã đánh giá rất cao tỷ lệ thần thánh trong 1 cuốn sách của ông mang tên Kiến trúc.
- Không ai hiểu cấu trúc thần thánh của con người hơn Da Vinci. Thực tế Da Vinci đã khai quật các ngôi mộ để đo đạc chính xác tỉ lệ các cấu trúc xương trong cơ thể con người. Ông là người đầu tiên chứng minh rằng cơ thể con người, nói 1 cách chính xác theo nghĩa đen, được làm bằng các khối mà tỉ lệ giữa chúng luôn luôn là PHI!
Mọi người trong giảng đường đều nhìn ông với vẻ ngờ vực.
- Không tin tôi phải không? Langdon thách thức. - Lần tới các bạn tắm vòi hoa sen, hãy thử đo mình bằng thước dây xem.
Hai cầu thủ bóng đá cười khúc khích.
- Không chỉ 2 bạn vận động viên kia đâu – Langdon phản ứng lại ngay – Mà tất cả các bạn. Nào các chàng trai, các cô gái. Thử nhé. Hãy đo khoảng cách từ đỉnh đầu các bạn cho đến khi chạm đất. Rồi chia nó cho khoảng cách từ rốn các bạn đến mặt đất. Hãy đoán xem con số mà các bạn đạt được.
- Không phải số PHI! Một trong 2 gã vận động viên thốt lên, không tin.
- Là số PHI – Langdon đáp lại – 1.618. Cần 1 ví dụ khác nữa không? Hãy đo khoảng cách từ vai đến các đầu ngón tay, rồi chia nó cho khoảng cách từ khuỷu tay đến các đầu ngón tay. Lại 1 số PHI nữa. Một ví dụ khác nhé? Hãy chia khoảng cách từ đầu gối đến mặt đất cho khoảng cách từ hông đến mặt đất. Một số PHI nữa. Lòng bàn tay. Ngón chân cái. Các đốt sống. PHI. PHI. PHI. Các bạn của tôi ơi, mỗi người trong các bạn đều là 1 minh chứng sống cho tỉ lệ thần thánh.
Ngay cả trong bóng tối, Langdon cũng có thể nhìn thấy tất cả bọn họ sững sờ. Ông cảm thấy 1 sự ấm nóng quen thuộc trong lòng. Đây chính là lý do tại sao ông dạy học.
- Các bạn của tôi như các bạn đã thấy, bên dưới sự hỗn độn của thế giới, vẫn có 1 trật tự. Khi người xưa phát hiện ra số PHI, họ chắc chắn rằng họ đã tình cờ tìm thấy yếu tố cơ bản mà Chúa Trời dùng để tạo nên thế giới này, và họ tôn thờ tự nhiên vì lí do đó. Và người ta có thể hiểu tại sao trong tự nhiên rõ ràng có bàn tay của Chúa Trời, và cho đến ngày này vẫn còn tồn tại những tôn giáo vô thần thờ Mẹ Đất. Nhiều người trong chúng ta tôn vinh tự nhiên theo cách mà những tín đồ ngoại giáo vẫn làm, mà thậm chí không biết thế. Ngày mồng 1 tháng 5 là 1 thí dụ điển hình, ngày lễ tôn vinh mùa xuân… Trái đất hồi sinh để ban tặng sự hào phóng của mình. Ngay từ buổi sơ khai, người ta đã viết về phép thuật bí ẩn cố hữu nơi tỷ lệ thần thánh. Con người chỉ đơn giản hoạt động theo những quy luật của tự nhiên và bởi vì nghệ thuật chính là nỗ lực của con người để bắt chước cho được vẻ đẹp từ bàn tay Đấng Sáng Thế, các bạn có thể tưởng tượng rằng chúng ta sẽ được tận mắt thấy rất nhiều bằng chứng về tỷ lệ thần thánh trong nghệ thuật học kỳ này.
Hơn 1 nửa giờ nữa trôi qua, Langdon cho đám sinh viên xem những slide về các tác phẩm nghệ thuật của Michelangelo, Albrecht, Dyrer, Da Vinci và nhiều người khác, để minh chứng sự áp dụng triệt để và đầy đủ chủ ý của mỗi nghệ sĩ đối với tỉ lệ thần thánh trong bố cục mỗi tác phẩm nghệ thuật của mình. Langdon cũng chỉ rõ PHI trong các kích thước kiến trúc của đền Parthenon Hy Lạp, của các Kim tự tháp Ai Cập, và thậm chí của cả toà nhà trụ sở Liên Hợp Quốc tại New York. PHI cũng xuất hiện trong cấu trúc tổ chức của các bản sonate của Mozart, bản giao hưởng số 5 của Beethoven, cũng như các tác phẩm của Bartók. Debussy và Schubert. Số PHI, Langdon nói với sinh viên, thậm chí còn được Stradivarios sử dụng để tính toán vị trí chính xác của những khe hình chữ, khi ông tạo ra những cây đàn viôlông nổi tiếng của mình.
- Để khép lại – Langdon vừa nói vừa bước về phía chiếc bảng – chúng ta quay trở về với các biểu tượng. Ông vẽ 5 đường giao nhau, tạo nên 1 ngôi sao 5 cánh. – Đây là 1 trong những hình ảnh đầy quyền năng nhất mà các bạn sẽ thấy trong học kỳ này. Bình thường nó được biết đến như là 1 hình ngôi sao 5 cánh – hay pentacle như tổ tiên ta đã gọi - biểu tượng này được nhiều nền văn hoá coi là linh thiêng và huyền bí. Có ai có thể nói cho tôi biết vì sao lại thế không?
Stettner, anh sinh viên khoa toán đó, lại giơ tay: - Bởi vì nếu thầy vẽ 1 hình sao 5 cánh, các đường thẳng sẽ tự chia nó thành những đoạn theo tỷ lệ thần thánh.
Langdon gật đầu đầy tự hào với chàng sinh viên: - Rất tốt. Đúng thế, tỷ lệ giữa các đoạn thẳng trong hình sao 5 cánh tất cả đều bằng PHI khiến cho biểu tượng này trở thành biểu hiện tối hậu của tỷ lệ thần thánh. Vì lý do này, hình sao 5 cánh luôn luôn là biểu tượng của vẻ đẹp và sự hoàn hảo gắn với các nữ thần và tính nữ thiêng liêng.
Các cô gái trong lớp mỉm cười rạng rỡ.
- Các bạn, xin lưu ý 1 điểm. Hôm nay chúng ta mới chỉ đụng đến Da Vinci 1 chút thôi, nhưng rồi chúng ta sẽ còn tiếp xúc với ông nhiều hơn nữa trong học kỳ này. Leonardo là 1 người say mê những phong cách cổ xưa của các nữ thần, về điều này chúng ta có rất nhiều tài liệu. Ngày mai tôi sẽ cho các bạn xem bức bích hoạ của ông, đó là 1 trong những biểu hiện kỳ diệu nhất sự tôn kính đối với tính nữ thiêng liêng mà các bạn sẽ có dịp được chiêm ngưỡng.
- Thầy đang nói đùa bọn em, phải không ạ? – Ai đó lên tiếng.
- Em nghĩ là về chúa Jesus?
Langdon nháy mắt: - Có những biểu tượng lẩn khuất ở những chỗ mà bạn không thể tưởng tượng nối.
- Đi nào – Sophie thì thầm. – Có chuyện gì thế? Chúng ta đã gần tới đích rồi. Nhanh lên!
Langdon ngước nhìn lên, ông cảm thấy như mình vừa quay trở lại từ 1 nơi xa xăm trong tiềm thức. Ông nhận ra là mình đang đứng đực ra trên cầu thang, sững lại bởi 1 phát hiện đột ngột.
Ôi, quỷ hà khắc! Ôi thánh yếu đuối (O, Dranconian devil! Oh, lame saint!)
Sophie ngoái nhìn ông.
Nó không thể chỉ đơn giản như thế. Langdon nghĩ.
Nhưng ông biết tất nhiên nó là như thế.
Nơi đây, trong lòng viện bảo tàng Louvre… với hình ảnh PHI và Da Vinci xoáy trộn trong tâm trí, đùng 1 cái Robert Langdon bất ngờ đã giả được mật mã của Saunière.
- “O, Draconian devil!” ông nói, “Oh, lame Saint! Đó là loại mật mã đơn giản nhất!
Sophie dừng lại ở vài bậc cầu thang bên dưới Langdon, cô nhìn lên không hiểu. – 1 loại mật mã – Cô đã nghĩ đi nghĩ lại những từ ngữ đó cả tối nay rồi mà chẳng thấy ở đó 1 mật mã nào cả. Nhất là 1 loại mật mã đơn giản.
- Chính cô đã nói điều này - giọng Langdon vang lên, phấn khích. – Dãy số Fibonacci chỉ có ý nghĩa trong trật tự đúng của nó. Nếu không nó chỉ là 1 trò đùa toán học tào lao.
Sophie chẳng hiểu Langdon đang nói gì. Dãy số Fibonacci? Cô chắc chắn rằng nó chẳng nhằm gì khác ngoài việc kéo bộ phận giải mật mã vào cuộc đêm nay. Nó có 1 mục đích khác chăng?
13-3-2-21-1-1-8-5
O, Draconian devil!
Oh lame saint!
Những con số này thì sao?
Dãy số Fibonacci bên trên đó là 1 đầu mối – Langdon vừa nói vừa cầm lấy bản in. – Những con số này ám chỉ cách giải mã phần còn lại của tin nhắn. Ông ấy đã viết nó lộn xộn để nói với chúng ta rằng hãy áp dụng cách tương tự cho phần bên dưới. O, Draconian devil! Oh, lame Saint! ư? Những dòng chữ này chẳng có ý nghĩa gì cả. Đơn giản chúng chỉ là những chữ cái viết lộn xộn thôi.
Sophie chỉ cần 1 thoáng để lĩnh hội hàm ý của Langdon và dường như nó đơn giản đến tức cười. – Ông nghĩ tin nhắn này là …une anagramme? Cô liếc nhìn ông - Giống trò chơi đảo chữ cái trên báo.
Langdon có thể thấy sự nghi ngờ trên mặt của Sophie và tất nhiên ông hiểu điều đó. Ít người nhận biết được rằng anagram, mặc dù là 1 trò giải trí nhàm chán của thời hiện đại, lại có 1 lịch sử phong phú về biểu tượng linh thiêng.
Những giáo lý huyền bí của người Do thái được viết ra hầu hết dựa trên cách đảo chữ cái - sắp xếp lại các âm tiết trong các từ tiếng Hêbrơ sẽ tạo ra những ý nghĩa mới. Trong suốt thời kỳ phục hưng, các vua Pháp tin chắc rằng anagram nắm giữ 1 quyền năng ma thuật đến nỗi họ đã bổ nhiệm những chuyên gia anagram trong hoàng gia để giúp họ đưa ra những quyết định sáng suốt hơn bằng cánh phân tích các từ ngữ trong những tài liệu quan trọng. Người La mã đã thực sự gọi việc nghiên cứu anagram là 1 ars magna - nghệ thuật vĩ đại.
Langdon ngước nhìn Sophie, 4 mắt giao nhau – Ý của ông cô nằm ngay trước mắt chúng ta, ông ấy để lại cho chúng ta quá đủ đầu mối để hiểu rõ nó.
Không nói 1 lời nào nữa, Langdon rút từ trong túi ra 1 cây bút và sắp xếp lại các chữ cái ở mỗi dòng.
O, Draconian devil!
Oh, lame Saint! là 1 trò đảo ngữ hoàn hảo của …
Lenonardo Da Vinci
The Mona Lisa!

the_warm_winter
06-07-2008, 09:44 PM
Chương 21
Bức Mona Lisa! Trong khoảnh khắc, đứng ở lối cầu thang thoát hiểm, Sophie quên hẳn họ đang tìm cách rời khỏi bảo tàng Louvre.
Cú sốc bởi trò anagram này chỉ có thể sánh với nỗi ngượng do cô không tự mình giải mã được lời nhắn. Sự thành thạo của Sophie trong việc giải những dòng mật mã phức tạp đã khiến cô bỏ qua những trò chơi chữ đơn giản mà cô biết đáng lẽ cô phải nhìn ra. Nói cho cùng, cô đâu có lạ gì anagram - nhất là anagram bằng tiếng Anh.
Khi cô còn nhỏ, ông cô thường dùng anagram để luyện chính tả tiếng Anh cho cô. Có lần ông viết từ tiếng Anh “planets” (các hành tinh) và bảo Sophie rằng có tới 92 từ tiếng Anh khác có độ dài khác nhau có thể được ghép bằng cùng những chữ cái đó, 1 con số đáng kinh ngạc. Sophie đã mất 3 ngày ngồi bên 1 cuốn từ điển cho đến khi cô tìm thấy tất cả những từ ấy.
- Tôi không thể tưởng tượng được – Langdon vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào tờ giấy – làm thế nào mà ông cô lại nghĩ ra được 1 anagram rắc rối đến thế chỉ trong vòng vài phút trước khi chết!
Sophie biết lời giải thích cho thắc mắc đó, và việc nhận ra điều đó càng khiến cô xấu hổ hơn. Đáng ra mình phải thấy điều đó! Rồi cô nhớ ra rằng ông cô – 1 người say mê chơi chữ và yêu nghệ thuật – đã tự tiêu khiển như 1 chàng trai trẻ bằng cách sáng tạo những anagram bằng tên các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Trên thực tế, 1 trong những anagram của ông đã từng khiến ông gặp rắc rối, đó là khi Sophie còn rất nhỏ. Trong khi được 1 tạp chí nghệ thuật của Mỹ phỏng vấn, Saunière đã nhấn mạnh sự chán ghét của mình đối với trào lưu chủ nghĩa lập thể hiện đại bằng cách nhận xét rằng kiệt tác của Picasso “Les Demosielles d’Avignon (các cô nàng vùng Avignon) “ là 1 anagram hoàn hảo của vile meaningless doodles (những nét vẽ nguệch ngoạc xấu xí vô nghĩa). Những người hâm mộ Picasso không cảm thấy hài lòng về chuyện này.
- Ông tôi có lẽ đã tạo ra cái anagram về Mona Lisa này từ lâu rồi – Sophie nói, liếc nhìn Langdon. Và tối nay ông bắt buộc phải sử dụng nó như 1 mật mã tạm thời. Như thể tiếng ông cô từ trên thế giới bên kia vọng về với 1 độ chính xác rợn người.
Leonardo da Vinci!
Bức tranh Mona Lisa!
- Tại sao những lời cuối của ông cho cô lại quy chiếu về bức tranh nổi tiếng ấy nhỉ. Sophie không biết, nhưng cô có thể nghĩ về 1 khả năng duy nhất. Một khả năng khiến cô thật rối trí.
Đó không phải là những lời cuối cùng của ông…
Cô phải đến chỗ bức tranh Mona Lisa ư? Liệu ông có để lại cho cô 1 lời nhắn nào ở đó không? Ý này có vẻ hoàn toàn hợp lý. Rốt cuộc, bức tranh nổi tiếng ấy đang được treo ở Salle des Etats – 1 phòng trưng bày riêng biệt chỉ có thể vào từ hành lang lớn. Thực tế - lúc này, Sophie nhận ra - cửa vào phòng bày riêng đó chỉ cách nơi ông cô chết 20m.
Rất có thể ông đã đến thăm Mona Lisa trước khi chết.
Sophie ngoái nhìn cầu thang thoát hiểm và cảm thấy phân vân. Cô biết cô nên đưa Langdon ra khỏi bảo tàng ngay lập tức, tuy nhiên linh tính lại mách cô làm ngược lại. Khi Sophie nhớ lại chuyến viếng thăm đầu tiên hồi còn nhỏ đến cánh Denon, cô nhận ra rằng nếu ông cô có 1 bí mật muốn nói với cô thì hiếm nơi nào trên trái đất này thích hợp hơn bức hoạ Mana Lisa của Da Vinci.
- Cô ấy chỉ còn cách 1 chút xíu nữa thôi – ông cô khẽ thì thầm, nắm chặt bàn tay nhỏ của Sophie sau khi dẫn cô đi khắp bảo tàng vắng lặng hàng giờ liền.
Sophie 6 tuổi. Cô cảm thấy nhỏ bé và chẳng có ý nghĩa gì khi ngước lên thấy trần nhà to tướng, còn cúi xuống thì lại thấy sàn rộng đến hoa mắt, chóng mặt. Bảo tàng lặng ngắt làm cô sợ mặc dù cô không hề muốn ông biết điều đó. Cô cắn chặt răng và cứ để ông dắt đi.
- Ngay phía trước là Salle des Etats đấy – ông cô nói khi bước đến căn phòng nổi tiếng nhất bảo tàng Louvre. Dù thấy rõ là ông rất hào hứng, Sophie vẫn muốn về nhà. Cô đã nhìn thấy những bức ảnh chụp Mona Lisa trong nhiều cuốn sách và chẳng thích nó chút nào cả. Cô không hiểu tại sao mọi người lại làm rùm beng đến thế.
- C’ est ennllyeux – Sophie càu nhàu.
- Boring chứ - ông cô chữa lại. - Ở trường, nói tiếng Pháp. Ở nhà, nói tiếng Anh.
- Le Louvre, c’ est pas chez moi!. Cô bé cãi.
Ông cười mệt mỏi – Cháu nói đúng. Vậy thì chúng ta nói tiếng Anh cho vui thôi.
Sophie dẩu môi rồi tiếp tục bước đi. Khi họ bước vào Salle de Etats, cô bé đưa mắt khắp căn phòng hẹp rồi dừng lại ở 1 vị trí danh dự chính giữa bức tường bên phải, nơi có 1 bức chân dung lẻ loi treo sau lớp plexiglass bảo vệ. Ông cô dừng lại nơi cửa ra vào và ra hiệu về phía bức tranh.
- Bước tới đi, Sophie. Không mấy ai có cơ hội tới thăm cô ấy 1 mình đâu.
Nén nỗi e sợ, Sophie chầm chậm đi ngang căn phòng. Sau tất cả những gì cô nghe nói về bức hoạ Mona Lisa cô cảm thấy như đang đến gần long nhan cô ấy. Tới trước tấm plexiglass, Sophie nín thở và ngước lên, và ngay lập tức, cô bé cảm nhận được tất cả.
Sophie không hình dung được đích xác điều mà cô chờ đợi sẽ cảm nhận được, nhưng chắc chắn nó không phải như thế này.
Không giật mình kinh ngạc, không 1 khoảnh khắc ngỡ ngàng. Gương mặt trứ danh này trông cũng y hệt như trong sách thôi. Cô đứng yên lặng 1 hồi lâu tưởng như bất tận, chờ 1 điều gì đó xảy đến.
- Nào, cháu nghĩ thế nào? – Ông cô thì thầm, lúc này đã tới đằng sau cô. - Đẹp chứ?
- Cô ấy bé quá
Ông Saunière mỉm cười – Cháu cũng bé mà vẫn đẹp đấy thôi!
Mình đâu có đẹp, cô nghĩ. Sophie ghét mái tóc đỏ quạch và những vết tàn nhang của mình và cô còn bự hơn tất cả bọn con trai trong lớp nữa chứ. Cô quay lại nhìn bức Mona Lisa và lắc đầu. - Thậm chỉ cô ấy còn xấu hơn cả trong sách. Mặt cô ta trông … brumeux.
- Foggy – ông dạy.
- Vâng, foggy, Sophie nhắc lại, biết rằng cuộc trò chuyện sẽ không tiếp tục khi cô chưa nhắc lại cái từ mới ấy.
- Người ta gọi đó là phong cách hội hoạ sfumato. – Ông nói với cô. Rất khó thực hiện. Leonardo da Vinci làm ngón này giỏi hơn bất kỳ ai.
Sophie vẫn không thích bức tranh ấy – Trông cứ như thể cô ta biết 1 điều gì đó … giống như trẻ con ở trường có 1 cái gì bí mật ấy.
Ông cô cười rộ. – Đó là 1 phần lí do khiến cô ấy trở nên nổi tiếng. Người ta thích đoán
xem tại sao cô ấy tủm tỉm cười.
- Ông biết tại sao cô ấy tủm tỉm cười phải không ạ?
- Có thể - ông cô bé nháy mắt – 1 ngày nào đó ông sẽ nói tất cả điều đó cho cháu.
Sophie giậm giậm chân. – Cháu đã bảo ông rồi, cháu không thích những bí mật!
- Này công chúa – ông mỉm cười – cuộc sống chứa đầy những bí mật. Cháu không thể nào biết hết được ngay lập tức đâu.
- Tôi sẽ quay trở lại – Sophie tuyên bố, tiếng cô ồm ồm trong khoang cầu thang.
- Đến chỗ bức tranh Mona Lisa phải không? – Langdon đáp lại. Ngay bây giờ sao?
Sophie cân nhắc sự mạo hiểm. – Tôi không bị tình nghi giết người. Tôi sẽ liều 1 phen. Tôi cần hiểu ông tôi định nói gì với tôi.
- Thế còn đại sứ quán thì sao?
Sophie cảm thấy có lỗi khi biến Langdon thành 1 kẻ đào tẩu để rồi lại bỏ rơi ông, nhưng cô không thấy lựa chọn nào khác. Cô chỉ xuống 1 cánh cửa kim loại. - Hãy đi qua cánh cửa đó, rồi theo những biển đèn hiệu chỉ lối ra. Dạo xưa, ông tôi thường đưa tôi xuống đây. Những đèn hiệu này sẽ đưa ông đến 1 cửa xoay an toàn. Cửa chỉ xoay 1 chiều cho người đi ra. Cô đưa Langdon chìa khóa xe ôtô của mình. – Xe của tôi là chiếc Smartcar màu đỏ ở khu vực để xe của nhân viên. Ngay bên ngoài tường ngăn. Ông có biết đường đến đại sứ quán không?
Langdon gật đầu, đưa mắt nhìn chiếc chìa khoá trong tay mình.
- Nghe này – Sophie nói, giọng cô dịu hẳn đi. Tôi nghĩ chắc ông tôi đã để lại cho tôi 1 lời nhắn ở chỗ bức tranh Mona Lisa 1 thứ đầu mối để lần ra kẻ nào đã giết ông. Hoặc để biết tại sao tôi đang gặp nguy hiểm. Hoặc điều gì đó xảy ra với gia đình mình. Tôi cần đến đó xem sao.
- Nếu ông cụ muốn nói gì với cô lý do cô đang gặp nguy hiểm, thì tại sao ông lại không viết luôn điều đó lên sàn nơi ông bị giết? Tại sao lại cần đến trò chơi chữ phức tạp này?
- Bất kể điều ông tôi định nói với tôi điều gì, tôi nghĩ ông cũng không muốn bất kỳ ai khác cùng nghe. Kể cả cảnh sát.
Rõ ràng ông cô đã làm mọi thứ có thế trong phạm vi khả năng của mình để gửi trực tiếp đến cô 1 thông điệp bí mật. Ông đã viết dưới dạng mật mã, kể cả những chữ cái đầu tên biệt danh của cô và bảo cô đi tìm Robert Langdon – 1 người thông thái nắm vững vấn đề bằng vào việc nhà ký tượng học người Mỹ này đã giải được mật mã của ông.
- Nghe thì có vẻ kỳ thật đấy – Sophie nói, - nhưng tôi nghĩ ông tôi muốn tôi đến chỗ bức tranh Mona Lisa trước khi ai đó kịp đến.
- Tôi sẽ cùng đến đó.
- Không! Chúng ta không biết hành lang lớn sẽ còn vắng vẻ bao lâu nữa. Ông phải đi đi.
Langdon có vẻ do dự, như thể tính tò mò bác học trong ông có nguy cơ lấn át óc nhận định tỉnh táo và đẩy ông rơi trở lại vào tay Fache.
- Nào, ông đi đi chứ - Sophie nở 1 nụ cười tri ân với ông. Tôi sẽ gặp ông ở đại sứ quán, ông Langdon.
Langdon có vẻ không thật hài lòng: - Tôi sẽ gặp lại cô ở đó với 1 điều kiện – ông đáp, giọng nghiêm nghị.
Cô dừng lại, giật mình: - Điều kiện gì?
- Rằng cô thôi không gọi tôi là ông Langdon nữa.
Sophie phát hiện thấy 1 lời ám chỉ lờ mờ đằng sau nụ cười gượng gạo trên gương mặt Langdon, rồi cô cảm thấy mình mỉm cười đáp lại: Chúc may mắn, Robert.
Khi Langdon đi hết cầu thang, 1 thứ mùi không thể nhầm lẫn được của dầu hạt lanh và vôi vữa xông vào mũi ông. Phía trước là tấm bảng sáng đèn ghi chữ SORTIE/EXIT (lối ra) có mũi tên chỉ xuống 1 hành lang dài.
Langdon bước vào đoạn hành lang.
Bên tay phải, 1 xưởng phục chế tối lờ mờ từ trong đó ngó ra cả 1 đạo quân tượng ở các công đoạn sửa chữa khác nhau.
Bên trái, Langdon nhìn thấy 1 dãy phòng trông giống như những lớp học nghệ thuật ở Đại học Harvard – hàng hàng giá vẽ tranh, bảng màu, dụng cụ đóng khung – 1 dây chuyền lắp ráp mỹ thuật.
Đi xuôi theo hành lang, Langdon tự hỏi liệu có thể đến lúc nào đó, ông giật mình tỉnh giấc thấy mình nằm trên chiếc giường ở Cambridge. Ông cảm thấy cả buổi tối hôm nay giống như 1 giấc mơ kỳ quái. Mình sắp sửa lao ra khỏi bảo tàng Louvre… 1 kẻ trốn chạy.
Lời nhắn thông minh vận dụng anagram của Saunière vẫn ở trong đầu ông, và Langdon tự hỏi Sophie sẽ tìm thấy gì ở bức MonaLisa… nếu như quả là có gì. Xem ra cô tin chắc rằng ông mình cố ý bảo cô đến thăm lại bức tranh nổi tiếng ấy 1 lần nữa. Mặc dù đây có vẻ là 1 kiến giải hợp lý, lúc này đây Langdon vẫn cảm thấy bị ám ảnh bới 1 nghịch lý rắc rối.
P.S. Hãy tìm Robert Langdon.
Saunière đã viết tên của Langdon trên sàn, bảo Sophie tìm ông. Nhưng tại sao chứ? Chỉ đơn thuần để Langdon giúp cô ấy giải 1 anagram. Điều này có vẻ vô lý.
Xét cho cùng, Saunière chẳng có lý do gì để nghĩ rằng Langdon đặc biệt giỏi đoán anagram. Mình với ông ta thậm chí còn chưa hề gặp nhau cơ mà. Quan trọng hơn, Sophie đã tuyên bố thẳng rằng lẽ ra cô ấy đã có thể tự giải lấy anagram đó. Chính Sophie là người nhận ra dãy số Fibonacci và chắc chắn là nếu có thêm 1 ít thời gian nữa, cũng chính Sophie sẽ là người sẽ giải mã được lời nhắn đó mà chẳng cần sự giúp đỡ của Langdon.
Sophie có phận sự phải tự giải lấy anagram đó. Langdon đột nhiên cảm thấy tin chắc hơn về điều này. Nhưng kết luận đó rõ ràng để hoác ra 1 lỗ hổng trong logic hành động của Saunière.
Tại sao lại là mình? Langdon tự hỏi, trong khi vẫn tiến về phía đầu toà nhà. Tại sao Saunière khi chết lại muốn đứa cháu đến tìm mình? Cái gì là điều mà Saunière nghĩ rằng mình biết?
Bất ngờ giật thót người, Langdon dừng phắt lại. Mắt mở to, ông thọc tay vào túi, lôi ra tờ giấy in từ máy tính. Ông nhìn chằm chằm vào dòng cuối cùng trong lời nhắn của Saunière.
P.S. hãy tìm Robert Langdon.
Ông dán mắt vào 2 chữ cái đó.
Trong khoảnh khắc đó, Langdon cảm thấy cái mớ bòng bong các biểu tượng của Saunière đột nhiên sáng rõ. Tựa 1 hồi sấm rền, hiểu biết về ký tượng học và sử học đủ cho cả 1 sự nghiệp nghiên cứu ào ào đến quanh ông. Mọi thứ Jacques Saunière đã làm đêm nay đột nhiên trở nên hoàn toàn có nghĩa.
Những ý nghĩ của Langdon lướt nhanh trong khi ông cố lắp ghép những ý nghĩa hàm chứa trong tất cả cái đó. Quay ngoắt lại ông nhìn ngược về hướng mà từ đó ông đã đi đến.
Liệu còn kịp không.
Ông biết điều đó không quan trọng.
Không chút do dự, Langdon chạy như bay về phía cầu thang thoát hiểm.

the_warm_winter
07-07-2008, 06:42 PM
Chương 22
Quỳ ở hàng ghế đầu, Sillas giả vờ cầu nguyện trong khi hắn lướt nhanh qua cách bố trí của toà thánh đường. Saint-Sulpice, giống như hầu hết các nhà thờ khác, được xây theo hình 1 cây thánh giá La mã khổng lồ. Phần trung tâm kéo dài của nó gian giữa của giáo đường dẫn thẳng đến bàn thờ chính, bị cắt ngang bởi 1 phần ngắn hơn, được gọi là cánh ngang. Phần giao nhau của cánh ngang và gian giữa giáo đường nằm ngay dưới mái vòm chính và được coi là trái tim của nhà thờ… nơi thần bí và linh thiêng nhất.
Không phải tối nay, Sillas nghĩ Saint-Sulpice giấu những bí mật của mình ở nơi khác. Ngoảnh đầu về bên phải, hắn đưa mắt nhìn sâu vào phần phía nam của cánh ngang về phía quãng sàn trống bên kia mấy hàng ghế cuối, nhắm đến mục tiêu mà những nạn nhân của hắn đã miêu tả. Nó kia.
Gắn sâu vào sàn đá granite xám, 1 thanh đồng dài mảnh nhẵn bóng lấp lánh… 1 đường thẳng vàng xiên chéo qua sàn nhà thờ. Đường thẳng có những dấu chia độ như 1 chiếc thước kẻ. Đó là thước đồng hồ mặt trời. Sillas được nói cho biết thế, 1 khí cụ thiên văn học thế tục giống như 1 chiếc đồng hồ mặt trời. Các khách du lịch, các nhà khoa học, sử học và cả những người ngoại đạo từ khắp nơi trên thế giới đổ về nhà thờ Saint-Sulpice để chiêm ngưỡng đường thẳng nổi tiếng này. Đường Hoa Hồng.
Chậm rãi, Sillas đưa mắt dõi theo đường đi của thanh đồng khi nó cắt ngang sàn từ phải sang trái, xiên chéo trước mặt hắn theo 1 góc xệch xẹo, hoàn toàn trật khấc với sự đối xứng của nhà thờ. Nó cắt ngang cả bàn thờ chính, Sillas thấy nó như 1 vết thương rạch ngang 1 khuôn mặt đẹp. Thanh đồng đó xẻ đôi hàng lan can chỗ làm lễ thánh thể, rồi chạy suốt chiều rộng của nhà thờ và cuối cùng tới góc phía bắc của cánh ngang, nơi nó bắt gặp đế của 1 cấu trúc cực kỳ bất ngờ. Một bia tưởng niệm khổng lồ kiểu Ai Cập.
Tại đây, đường Hoa Hồng lấp lánh quặt 1 góc thẳng đứng 90 độ và tiếp tục ngay trên mặt bia tưởng nịêm, lên cao thêm khoảng mươi mét tới chót đỉnh của cái kiến trúc hình tháp đó để cuối cùng chấm dứt ở đó.
Đường Hoa Hồng, Sillas nghĩ. Hội kín đó giấu viên đá đỉnh vòm dưới đường Hoa Hồng.
Chập tối, khi Sillas nói với Thầy Giáo rằng viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion được cất giấu bên trong nhà thờ Saint-Sulpice, thầy đã tỏ ý nghi ngờ. Nhưng khi Sillas nói thêm rằng các thành viên của hội này đều đã nói cho hắn biết vị trí chính xác, liên quan đến 1 dải đồng xuyên suốt nhà thờ Saint-Sulpice, thì thầy hức lên 1 tiếng, ngộ ra: “Vậy là con nói về Đường Hoa Hồng?”
Thầy nhanh chóng nói cho Sillas biết về kiến trúc xây dựng kì lạ của nhà thờ Saint-Sulpice – 1 thanh đồng dài, mảnh đã chia nhà thở thành 2 nửa tạo ra 1 trục bắc nam hoàn hảo.
Nó là 1 kiểu đồng hồ mặt trời thời cổ, là 1 vết tích của đền thờ ngoại giáo từng có thời ngự ở chính chỗ này. Các tia mặt trời, chiếu xuyên qua lăng kính trên bức tường phía nam, mỗi ngày 1 dịch xuống, chỉ sự trôi chảy của thời gian, từ đông chí qua hạ chí.
Cái dải bắc nam đó được biết đến dưới cái tên Rose Line : Đường Hoa Hồng. Trải qua hàng thế kỷ, kí hiệu Rose (Hồng) đã gắn liền với những tấm bản đồ và với việc dẫn đúng đường, chỉ đúng hướng. Vòng Hồng ghi hướng địa bàn – được vẽ trên hầu hết mọi tấm bản đồ - xác định các hướng bắc, đông, nam và tây. Thoạt kỳ thuỷ được gọi là Hoa Hồng Gió (Wind Rose), nó chỉ hướng của 32 loại gió, thổi từ những hướng của 8 ngọn gió trưởng, 8 ngọn gió nhị phân và 16 ngọn gió tứ phân. Khi được đồ thị hoá trong 1 hình tròn, 32 điểm này của la bàn trông giống hệt 1 bông hồng 32 cánh. Cho tới tận ngày nay, công cụ định hướng cơ bản trong hàng hải vẫn được gọi là Rose Compass (La bàn Hoa Hồng), hướng cực bắc của nó được đánh dấu bằng 1 đầu mũi tên… hay phổ biến hơn là kí hiệu hoa loa kèn. Trên quả địa cầu, 1 Đường Hoa Hồng cũng được gọi là kinh tuyến là bất kỳ 1 đường thẳng tưởng tượng nào nối cực bắc với cực nam. Đương nhiên, số Đường Hoa Hồng là vô hạn bởi vì từ mỗi điểm trên quả địa cầu đều có thể vẽ 1 kinh tuyến đi qua, nối cực bắc và cực nam với nhau. Vấn đề đối với các hoa tiêu thời xưa là đường nào trong các đường này là đường Hoa Hồng, đường kinh tuyến số không, đường mà người ta lấy làm gốc để đo các đường kinh tuyến khác.
Ngày nay, đường đó nằm ở Greenwich, Anh. Nhưng không phải bao giờ nó cũng ở đó.
Rất lâu trước khi chế định Greenwich là kinh tuyến gốc, thì kinh tuyến số không của trái đất đã đi qua Paris, đi qua nhà thờ Saint-Sulpice. Thanh đồng đánh dấu kinh tuyến gốc đầu tiên của thế giới, và mặc dù Greenwich đã tước đi của Paris vinh dự ấy vào năm 1883, đường Hoa Hồng ban đầu vẫn còn hiển thị đến tận ngày nay.
Vậy là truyền thuyết đó là sự thật. – Thầy Giáo nói với Sillas. – Người ta nói viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion nằm dưới đường hoa hồng.
Lúc này, vẫn quỳ trên 1 chiếc ghế, Sillas liếc quanh nhà thờ và lắng tai nghe để chắc chắn rằng không còn ai ở đây.
Trong 1 thoáng, hắn nghĩ là nghe thấy tiếng xột xoạt trên ban công hợp xướng. Hắn quay người và nhìn chăm chú trong vài giây. Chẳng có gì cả. Mình chỉ có 1 mình thôi.
Đứng dậy, hắn quay mặt về phía ban thờ và xuống gối 3 lần. Rồi quay sang trái, hắn đi theo thanh đồng về phía bắc dẫn đến bia tưởng niệm.
Cùng lúc đó, tại sân bay quốc tế Leonardo da Vinci ở Roma, lốp xe xóc nẩy mặt đường băng làm giám mục Aringarosa tỉnh giấc.
Mình đã ngủ quên mất – ông nghĩ, ngạc nhiên thấy mình vẫn đủ thanh thản để ngủ.
“Benvenuto a Roma” - Hệ thống loa phóng thanh thông báo.
Ngồi dậy, Aringarosa xốc thẳng lại chiếc áo choàng đen và tự cho phép mình nở 1 nụ cười hiếm hoi. Đây là 1 chuyến đi mà ông sung sướng thực hiện. Mình đã thụ động quá lâu rồi.
Nhưng đêm nay, quy tắc đã thay đổi. Chỉ 5 tháng trước đây thôi, Aringarosa còn lo sợ cho tương lai của giáo phái này. Còn bây giờ, cứ như là ý Chúa, giải pháp cho vấn đề đã tự hiện ra.
Sự can thiệp thần thánh.
Nếu đêm nay ở Paris mọi thứ diễn ra như đã định, Aringarosa sẽ sớm sở hữu 1 thứ sẽ khiến ông ta trở thành người có quyền lực nhất trong cộng đồng cơ đốc.

the_warm_winter
07-07-2008, 06:48 PM
Chương 23
Sophie hổn hển tới bên ngoài cánh cửa gỗ lớn của Salls de Etats – căn phòng để bức hoạ Mona Lisa. Trước khi bước vào, cô bịn rịn nhìn xuôi theo hành lang, cách đó khoảng 20m, nơi thi thể ông cô vẫn đang nằm dưới ánh đèn.
Nỗi ân hận đột ngột đến bóp chặt tim cô da diết, 1 nỗi buồn sâu sắc hoà lẫn với cảm giác tội lỗi. Ông đã cố vươn tay tới cô bao nhiêu lần trong hơn 10 năm qua, nhưng Sophie vẫn khăng khăng không thay đổi thái độ bỏ tất cả thư từ, bưu kiện ông gửi cho cô vào 1 ngăn kéo đáy tủ, không buồn mở và khước từ mọi cố gắng tìm gặp cô của ông. Ông đã nói dối mình! Giữ kín những bí mật khủng khiếp. Mình phải làm gì đây? Vì vậy mà cô đã cấm cửa ông. Triệt để.
Bây giờ, ông cô đã chết, và ông đang nói chuyện với cô từ dưới mồ.
Bức tranh Mona Lisa.
Cô với tay đến cánh cửa gỗ đồ sộ, và đẩy. Cửa mở toang.
Sophie đứng ở ngưỡng cửa 1 lát, lia mắt nhìn bao quát căn phòng rộng hình chữ nhật trước mặt. Cả nơi này cũng tắm trong 1 ánh sáng đỏ êm dịu. Salle des Etats là 1 trong những culs-de-sac hiếm hoi của bảo tàng 1 nơi tận cùng, phòng duy nhất tách ra ở giữa hành lang lớn. Cửa phòng là lối vào duy nhất, đối diện với 1 bức Botticelli cao 5m nghễu nghện trên bức tường phía kia. Bên dưới nó, chính giữa sàn gỗ, 1 chiếc đi văng khán quan hình bát giác rộng lớn làm chỗ nghỉ chân dễ chịu cho hàng nghìn khách tham quan trong khi chiêm ngưỡng tài sản quý giá nhất của bảo tàng Louvre.
Tuy nhiên, ngay trước khi bước vào, Sophie biết là mình thiếu 1 thứ gì đó. Đèn có tia tử ngoại. Cô nhìn xuôi theo hành lang về phía xa, nơi ông cô nằm dưới những ngọn đèn, bao quanh bởi những thiết bị điện tử. Nếu ông đã viết 1 cái gì đó ở đây gần như chắc chắn là ông đã viết bằng loại bút dùng tia tử ngoại.
Hít thật sâu, Sophie hối hả chạy tới chỗ hiện trường án mạng sáng trưng. Không cam lòng nhìn ông mình, cô chỉ tập trung và những dụng cụ PTS thôi. Tìm thấy 1 chiếc đèn nhỏ dùng tia cực tím, cô đút nó vào túi áo len và vội vã đi ngược hành lang trở lại cửa phòng Salle des Etats vẫn để mở.
Sophie quặt góc và bước qua ngưỡng cửa. Tuy nhiên, thật bất ngờ, vừa bước vào cô đã nghe thấy tiếng chân lẹp xẹp chạy về phía cô từ bên trong căn phòng. Có ai đó ở trong này! Một bóng người đột ngột nhô ra từ vầng sáng đỏ đọc mờ ảo như ma hiện hình. Sophie giật mình lùi lại.
- Cô đây rồi - tiếng thì thào khàn khàn của Langdon xé không khí trong khi bóng ông lướt đến dừng lại trước mặt cô.
Cô nhẹ cả người nhưng chỉ trong giây lát. – Robert, tôi đã bảo anh rời khỏi đây kia mà! Nhỡ Fache…
- Cô đã ở đâu thế?
- Tôi phải đi kiếm chiếc đèn có tia tử ngoại – cô thì thầm, giơ cây đèn lên. Nếu ông tôi để lại 1 lời nhắn…
- Sophie, nghe đã! – Langdon lấy hơi trong khi đôi mắt xanh của ông nhìn thẳng vào cô. – những chữ cái P.S. ở cuối lời nhắn… có 1 ý nghĩa nào khác với cô không? Có chút nào không?
Sợ tiếng họ vọng vào hành lang, Sophie kéo Langdon vào Salle des Etats, lặng lẽ khép cánh cửa đôi, tự giam mình ở bên trong. – Tôi đã nói với anh, những chữ cái đầu của Princesse Sophie (công chúa Sophie) mà
- Tôi biết, nhưng cô đã từng nhìn thấy nó ở đâu khác chưa? Ông của cô có từng dùng kí hiệu P.S theo 1 cách nào khác không? Một loại chữ lồng, có thể trên 1 loại giấy tờ hay 1 vật dụng cá nhân nào đó?
Câu hỏi làm cô giật mình. Làm thế nào mà Robert Langdon biết điều đó?
Quả thực trước đây Sophie đã từng nhìn thấy kí hiệu P.S., 1 kiểu chữ lồng. Đó là vào ngày trước sinh nhật lần thứ 9 của Sophie. Cô bí mật lùng sục khắp nhà, tìm kiếm những món quà sinh nhật được giấu kín. Ngay từ hồi đó, cô đã không chịu nổi cái kiểu giấu giấu giếm giếm. Năm nay ông đã có gì dành cho mình nhỉ? Cô lục tung chiếc tủ ly rồi cả những ngăn kéo. Không biết ông đã kiếm được con búp bê mình muốn chưa nhỉ? Ông giấu nó ở đâu?
Lục tung cả nhà mà chẳng tìm thấy gì cả, Sophie lấy hết can đảm lẻn vào phòng ngủ của ông. Căn phòng ấy cô không được phép vào nhưng bây giờ ông đang nằm ngủ dưới nhà.
Mình sẽ chỉ ngó qua 1 thoáng thôi!
Đi rón rén qua sàn gỗ cót két tiến về phía buồng chứa đồ của ông, Sophie nhòm thấy cái giá đằng sau quần áo của ông.
Chẳng có gì cả. Tiếp đó cô tìm dưới gầm giường. Vẫn không có gì cả. Đi về phía bàn làm việc của ông, cô mở các ngăn kéo, bắt đầu soát cẩn thận từng ngăn một. Phải có cái gì đó cho mình ở đây chứ? Đến ngăn cuối rồi mà cô vẫn chưa tìm thấy dấu vết nào về 1 con búp bê. Thất vọng, cô kéo ngăn cuối cùng, rồi lôi ra mấy bộ quần áo màu đen mà chưa bao giờ cô thấy ông mặc. Cô định đóng ngăn kéo lại thì chợt nhìn thấy cuối ngăn kéo loé lên 1 ánh màu vàng. Trông nó giống 1 sợi dây đeo đồng hồ bỏ túi, nhưng cô biết ông không dùng thứ đó. Tim cô đập rộn ràng khi cô nhận ra đó là cái gì.
Một chiếc vòng!
Sophie cẩn thần kéo sợi dây chuyền đó ra khỏi ngăn kéo. Cô ngạc nhiên thấy cuối sợi dây có 1 chiếc chìa khoá bằng vàng sáng ngời. Nặng và lấp lánh. Bị hút hồn, cô cầm nó lên. Trông nó không giống bất kỳ 1 chiếc chìa khoá nào mà cô từng nhìn thấy. Hầu hết các chìa khoá đều dẹt và có răng cưa, nhưng chiếc này lại có thân hình trụ tam giác đầy vết lỗ chỗ. Đầu chìa to vàng óng là 1 chữ thật, nhưng không phải là 1 chữ thập bình thường. Đây là 1 chữ thập 4 nhánh bằng nhau, giống 1 dấu cộng. Ở giữa chữ thập, có chạm nổi 1 ký hiệu kỳ lạ 2 chữ cái lồng nhau với 1 hoạ tiết hình hoa.
P.S, cô thì thầm, nhăn mặt khi đọc những chữ cái đó. Nó có thể là cái gì được nhỉ?
- Sophie? – Ông cô nói từ ngoài cửa.
Giật mình, cô quay lại, để chiếc chìa khoá rơi đánh keng trên sàn nhà. Cô cắm mắt xuống chiếc chìa khoá, không dám ngước nhìn ông: - Cháu … đang tìm quà sinh nhật – cô nói, cúi đầu, biết rằng cô đã phản bội lòng tin của ông.
Trong khoảnh khắc dường như bất tận ấy, ông cô đứng lặng thinh bên cửa ra vào. Cuối cùng, ông thở dài buồn bã: - Nhặt chiếc chìa khoá lên, Sophie.
Sophie nhặt chiếc chìa khoá lên.
Ông cô bước vào: - Sophie, cháu cần phải tôn trọng sự riêng tư của mọi người. Rồi nhẹ nhàng, ông quỳ xuống, cầm chiếc chìa khoá từ tay cô. - Chiếc chìa khoá này rất đặc biệt. Nếu cháu làm mất nó …
Giọng nói dịu dàng của ông cô khiến Sophie càng cảm thấy ân hận hơn. – Gran-Père, cháu xin lỗi. Cháu thực lòng xin lỗi. Cô ngừng lại – Cháu nghĩ rằng nó là 1 chiếc vòng cổ tặng sinh nhật cháu.
Ông nghiêm khắc nhìn cô trong vài giây: - Ông sẽ nói lại điều này 1 lần nữa, bở vì nó rất quan trọng. Cháu cần học cách tôn trọng sự riêng tư của người khác.
- Vâng, Gràn-Père.
- Chúng ta sẽ nói chuyện này vào lúc khác. Còn bây giờ khu vườn đang cần được nhổ cỏ.
Sophie vội vàng đi ra ngoài làm công việc hàng ngày của mình. Sáng hôm sau, Sophie không nhận được món quà nào từ ông cả. Cô cũng không hy vọng, sau những gì cô đã làm. Nhưng thậm chí suốt cả ngày hôm ấy, ông cũng không nói chúc cô sinh nhật vui vẻ. Buồn bã, đến tối, cô lê bước về phòng ngủ. Thế rồi, khi trèo lên giường, cô thấy 1 tấm thiệp đặt trên gối. Trên tấm thiếp là 1 câu đố đơn giản. Cô mỉm cười trước cả khi giải được câu đố. Mình biết cái này là cái gì rồi. Ông đã từng bày trò này với cô vào sáng giáng sinh năm ngoái.
Một cuộc truy tìm kho báu.
Háo hức, sô suy nghĩ cho đến khi giải được câu đố. Đáp án chỉ cô đến 1 nơi khác trong toà nhà, ở đó cô lại tìm thấy 1 tấm thiếp khác với 1 câu đố khác. Cô tiếp tục giải được câu đố này, rồi lại chạy tới chạy lui khắp nhà, từ đầu mối này sang đầu mối khác, cho đến lúc cuối cùng cô thấy 1 đầu mối chỉ về chính phòng ngủ của mình. Sophie lao lên gác, chạy bổ về phòng mình, và dừng sững. Giữa căn phòng là 1 chiếc xe đạp màu đỏ có buộc nơ ở ghi đông. Sophie hét lên sung sướng.
- Ông biết cháu muốn 1 con búp bê – ông vừa nói vừa đứng trong góc phòng mỉm cười.
- Nhưng ông nghĩ có thể cháu sẽ thích món quà này hơn.
Hôm sau, ông dạy cô đi xe, ông chạy bên cạnh cô dọc suốt con đường đi dạo. Khi Sophie chệch tay lái lao lên bãi cỏ và mất thăng bằng, cả 2 ông cháu ngã xuống bãi cỏ, lăn tròn rồi cười vang.
- Grand-Père – Sophie nói, ôm ghì ông, cháu thực lòng ân hận về chuyện chiếc chìa khoá.
- Ông biết, cháu yêu ạ. Ông đã tha thứ cho cháu rồi. Ông không thể giận cháu mãi được. Ông và cháu gái luôn tha thứ cho nhau mà.
Sophie biết là cô không nên hỏi, nhưng cô không nhịn nổi:
- Chiếc chìa khoá ấy mở cái gì thế ạ? Cháu chưa bao giờ nhìn thấy 1 chiếc chìa khoá như thế. Nó thật là đẹp.
Ông lặng thinh hồi lâu, và Sophie có thể thấy ông băn khoăn không biết nên trả lời như thế nào. Ông không bao giờ nói dối.
- Nó mở 1 cái hộp - cuối cùng ông nói. - Ở đó ông cất giữ nhiều bí mật.
Sophie dẩu môi: Cháu ghét những bí mật!
- Ông biết, nhưng đây là những bí mật quan trọng. Rồi 1 ngày nào đó, cháu sẽ biết trân trọng nó như ông vẫn làm vậy.
- Cháu nhìn thấy những chữ cái trên chiếc chìa khoá, và cả 1 bông hoa nữa.
- Ừ, đó là loài hoa yêu thích của ông đấy. Người ta gọi nó là Hoa loa kèn. Chúng ta cũng trồng nó trong vườn đấy. Những bông hoa màu trắng. Trong tiếng Anh chúng ta gọi nó là hoa lily.
- Cháu biết những bông hoa ấy. Đó cũng là loại hoa yêu thích của cháu nữa!
- Vậy thì ông thoả thuận với cháu nhé. – Ông nhướn lông mày giống như mỗi khi ông đặt ra trước cô 1 thách thức. - Nếu cháu giữ bí mật chuyện chiếc chìa khoá và không bao giờ nói về chuyện đó nữa, với ông hay bất kỳ ai, thì 1 ngày nào đó ông sẽ trao nó cho cháu.
Sophie không tin vào tai mình: - Ông sẽ trao nó cho cháu?
- Ông hứa. Khi nào đến lúc, chiếc chìa khoá sẽ là của cháu. Trên đó có cả tên của cháu đấy.
Sophie cau mày. – Đâu có. Nó khắc chữ PS. Tên cháu không phải là P.S.
Ông cô hạ thấp giọng rồi nhìn xung quanh như thể để chắc chắn không có ai nghe trộm. – Được rồi, Sophie, nếu cháu cần phải biết, thì P.S là 1 mật mã. Nó là mật danh của cháu.
Mắt cô bé mở rộng: - Cháu có mật danh ạ?
- Tất nhiên. Những cô cháu gái luôn luôn có 1 mật danh mà chỉ ông của họ mới biết thôi.
- P.S là gì?
Ông cù nôn cô: - Là princess Sophie (công chúa Sophie)
Cô cười khúc khích: - Cháu không phải là công chúa.
Ông nháy mắt: - Với ông, cháu là công chúa.
Từ hôm đó, họ không bao giờ nói chuyện về chiếc chìa khoá đó nữa. Còn cô trở thành công chúa Sophie của ông.
Bên trong Salle des Etats, Sophie đứng lặng thinh, cảm nhận cơn nhói đau ghê gớm của sự mất mát.
- Những chữ viết tắt này – Langdon thì thào, mắt nhìn cô 1 cách lạ kỳ - đã bao giờ cô nhìn thấy chưa?
Sophie như nghe thấy tiếng ông cô thì thầm ngoài hành lang bảo tàng. Không bao giờ được nói về chiếc chìa khoá, Sophie. Với ông hay với bất cứ ai. Cô biết cô đã sai và đã được ông tha thứ, cô tự hỏi liệu cô có thể phạm vào lòng tin ấy 1 lần nữa không.
P.S hãy tìm Robert Langdon, ông cô muốn Langdon giúp đỡ.
Sophie gật đầu. – Có, tôi đã thấy 2 chữ viết tắt P.S này 1 lần. Khi tôi còn nhỏ.
- Ở đâu? Sophie ngập ngừng. Trên 1 thứ gì đó rất quan trọng đối với ông tôi.
Langdon nhìn thẳng vào mắt cô: - Sophie, điều này rất quan trọng. Cô hãy nói tôi biết có phải những ký tự này xuất hiện cùng với 1 biểu tượng phải không? 1 bông hoa loa kèn?
Sophie cảm thấy mình loạng choạng lùi lại vì kinh ngạc:
- Nhưng … làm sao ông có thể biết được điều đó!
Langdon thở hắt ra rồi hạ thấp giọng: - Tôi tin chắc ông cô là thành viên 1 hội kín. Một hội ái hữu bí mật rất lâu đời rồi.
Sophie cảm thấy như thắt ruột. Cô cũng tin chắc chắn thế. Trong 10 năm, cô đã cố quên đi cái sự việc khẳng định thực tế khủng khiếp đó. Cô đã chứng kiến 1 điều mà cô không thể tưởng tượng được. Không thể tha thứ được.
- Hoa loa kèn – Langdon nói - kết hợp với 2 ký tự P.S., đó là biểu tượng chính thức của hội kín đó. Huy hiệu của họ. Logo của họ.
- Làm thế nào anh biết được điều này? Sophie đang khẩn cầu Langdon đừng nói với cô rằng bản thân ông cũng là 1 thành viên của hội kín đó.
- Tôi đã viết về nhóm này – Langdon nói, giọng run lên vì phấn khích. – Nghiên cứu các biểu tượng của các tổ chức bí mật là chuyên môn của tôi. Họ tự xưng là Prieure de Sion. Cơ sở của họ đặt ở đây, trên đất Pháp và thu hút các thành viên đầy thế lực từ khắp châu Âu. Thực tế đây là 1 trong những hội kín cổ nhất còn tồn tại trên trái đất này.
Sophie chưa bao giờ nghe về họ.
Lúc này Langdon bốc lên nói ào ào từng tràng. – Thành viên của Tu viện Sion gồm có cả những cá nhân xuất sắc trong lịch sử. Những người như Botticelli, ngài Isaac Newton, Victor Hugo, - ông dừng lại, giọng tràn trề nhiệt huyết khoa học. Và cả Leonardo da Vinci nữa.
Sophie nhìn chằm chằm: - Da Vinci tham gia 1 hội kín?
- Da Vinci đứng đầu Tu viện Sion trong khoảng từ 1510 đến 1519 với tư cách là Đại sư của hội kín này, điều này có thể giải thích niềm đam mê của ông cô đối với những tác phẩm của Leonardo. Hai ông có chung 1 mỗi ràng buộc huynh đệ mang tính lịch sử. Và điều đó hoàn toàn ứng hợp với việc họ say mê tranh tượng nữ thần, ngoại giáo, các nữ thần và coi khinh Nhà thờ thiên chúa. Tu viện Sion có hẳn 1 kho sử liệu về sự tôn thờ tính nữ thiêng liêng.
- Anh nói tổ chức này là 1 loại tín ngưỡng thờ nữ thần ngoại giáo à?
- Đúng hơn, giống như tín ngưỡng thờ nữ thần ngoại giáo ấy chứ. Nhưng quan trọng hơn, họ được biết đến như những người bảo vệ 1 bí mật cổ xưa. Một bí mật khiến họ có 1 quyền lực vô biên.
Bất chấp vẻ xác tín triệt để trong mắt Langdon, phản ứng sâu trong thâm tâm Sophie vẫn là hồ nghi hoàn toàn. Một giáo phái ngoại đạo bí mật ư? Đã từng do Leonardo da Vinci cầm đầu ư?
- Tất cả những điều đó nghe sao thật khó tin. Tuy nhiên, ngay trong khi chối bỏ nó, cô lại cảm thấy đầu óc của mình quay trở lại 10 năm về trước - buổi tối mà cô đã muốn làm ông cô thật bất ngờ và cũng vô tình chứng kiến điều mà đến giờ cô vẫn không thể chấp nhận được. Phải chăng điều đó có thể giải thích?
- Nhân thân của những thành viên còn sống của Tu viện Sion hoàn toàn được giữ bí mật. – Langdon nói. Nhưng kí tự P.S và bông hoa loa kèn mà cô nhìn thấy khi còn bé là những bằng chứng. Nó chỉ có thể liên quan đến Tu viện Sion mà thôi.
Bây giờ Sophie đã nhận ra rằng Langdon biết về ông cô nhiều hơn những gì cô tưởng tượng trước đây. Rõ ràng, người Mỹ này có rất nhiều điều để chia sẻ cùng cô, nhưng đây không phải là nơi thích hợp. – Tôi không thể để họ bắt được anh, Robert. Có rất nhiều điều chúng ta cần thảo luận với nhau. Anh cần phải đi ngay.
Langdon chỉ thoảng nghe thấy tiếng cô thì thào rất khẽ. Ông sẽ không đi đâu cả. Lúc này ông đang bị lạc vào thế giới khác. Nơi mà những bí mật cổ xưa đang nổi lên bề mặt. Nơi mà những trang sử bị lãng quên đột ngột hiện ra từ bóng tối.
Chầm chậm, chầm chậm như thể đang bơi dưới nước, Langdon quay đầu, nhìn xuyên qua vầng sáng mờ ảo đỏ đọc về phía bức tranh Mona Lisa.
Hoa loa kèn hoa của Lisa. Nàng Mona Lisa.
Tất cả những điều đó xoắn xuýt vào nhau, 1 bản giao hưởng câm lặng vang vọng những bí ẩn sâu xa nhất của thời gian và Leonardo da Vinci.
Cách đó vào dặm, ven bờ sông, qua phố Les Invalides, người lái chiếc xe tải 2 thùng sợ hãi đứng trước mũi súng và kinh hoàng khi viên đại uý cảnh sát tư pháp thét lên giận giữ và nhấc 1 bánh xà phòng ném vào dòng nước cuồn cuộn của sông Seine.

pekoniuzua
07-07-2008, 07:01 PM
mười lời tỏ tình hay nhứt thế kỉ 21
1/ Liệu cha của em có phải là một tay trộm hay không? Vì ông ấy đã lấy cắp những vì sao trên trời và đưa chúng vào mắt em.

2/ Khi ngã từ thiên đường xuống trần gian em có đau không?

3/ Hẳn là em đã mỏi nhừ, vì em chạy trong tâm trí anh suốt cả ngày.

4/ Xin lỗi tôi đã làm mất số điện thoại của mình. Tôi có thể mượn số của cô được không?

5/ Cô có tin vào tình yêu từ cái nhìn đầu tiên không, hay để tôi đi qua một lần nữa?

6/ Xin lỗi cô, cô có hôn người lạ không? Không à? Vậy thì hãy để tôi tự giới thiệu nhé.

7/ Chân em có đau khi chạy suốt đêm trong giấc mơ của anh không?

8/ Tôi mới tới thành phố này. Liệu em có thể chỉ dẫn cho tôi đến căn hộ của em được không?

9/ Xin hỏi cô có bản đồ không? Tôi cứ bị lạc hoài trong đôi mắt cô.

10/ Điều duy nhất đôi mắt em chưa nói cho anh biết là tên của em.

the_warm_winter
10-07-2008, 02:36 AM
Chương 24
Sillas ngước nhìn bia tưởng niệm Saint-Silpice, bao quát cả chiều dài thân bia đồ sộ bằng đá hoa cương. Gân cốt hắn căng ta, hứng khởi. Hắn lướt nhìn xung quanh nhà thờ 1 lần nữa để chắc chắn hắn chỉ có 1 mình. Rồi hắn quỳ xuống bên bệ đài tưởng niệm, không phải vì tôn kính mà là vì cần thiết.
Viên đá đỉnh vòm được giấu dưới đường Hoa Hồng. Ở đế bia tưởng niệm Sulpice.
Tất cả những thành viên hội kín đó đều nói thế.
Lúc này, vừa quỳ, Sillas vừa đưa tay sờ mặt sàn đá. Hắn không thấy vết nứt hay vết đánh dấu nào chứng tỏ có thể di chuyển 1 viên đã lát sàn nào đó, vì vậy, hắn bắt đầu dùng khớp ngón tay gõ nhẹ xuống sàn. Dò theo thanh đồng tới gần đài tưởng niệm hơn, hắn gõ từng viên gạch kề sát đường thẳng ấy. Cuối cùng, 1 trong những viên gạch ấy phát ra 1 âm thanh lạ.
Có 1 khoảng rỗng dưới sàn!
Sillas mỉm cười. Các nạn nhân của hắn đã nói thật.
Đứng dậy, hắn tìm xung quanh nhà thờ xem có cái gì có thể nậy viên gạch lên.
Phía trên Sillas, trên ban công, Xơ Sandrine nén 1 tiếng hức. Nỗi sợ hãi tột cùng của bà vừa được xác nhận. Vị khách này không phải là người như anh ta tỏ ra. Tu sĩ Opus Dei bí ẩn này đến nhà thờ Saint-Sulpice vì 1 mục đích khác. Một mục đích bí mật.
Ngươi không phải là người duy nhất có những bí mật, Xơ nghĩ.
Xơ Sandrine Bieil còn hơn cả 1 người quản nhà thờ này.
Bà là 1 lính canh. Và đêm nay, những bánh xe cổ xưa đã bắt đầu chuyển động. Việc người lạ mặt này đến dưới chân bia tưởng niệm là 1 báo hiệu từ các giáo hữu. Nó là tiếng kêu câm lặng của tai hoạ.

the_warm_winter
10-07-2008, 02:41 AM
Chương 25
Đại sứ quán Mỹ ở Paris là 1 khu nhà san sát trên đại lộ Gabriel phía bắc quảng trường Champs-Lysees. Khi nhà liên hợp rộng 3 héc ta đó được coi là lãnh thổ Mỹ, có nghĩa là tất cả những ai ở trong khu vực đó đều phải tuân thủ cùng 1 luật pháp và được luật pháp đó bảo vệ như khi họ ở trên đất Mỹ.
Nhân viên trực điện thoại ban đêm của đại sứ quán đang đọc ấn phẩm quốc tế của tạp chí Time thì tiếng chuông điện thoại làm cô gián đoạn.
- Đại sứ quán Mỹ nghe đây – cô trả lời.
- Xin chào – người gọi nói tiếng Anh giọng Pháp. – Tôi cần sự giúp đỡ. Mặc dù lời lẽ khá lịch sự, nhưng giọng ông ta lại cộc cằn và quan cách. – Tôi nghe nói cô đã nhận 1 tin nhắn điện thoại cho tôi trên hệ thống tự động. Tôi tên là Langdon. Thật không may, tôi lại quên mất 3 chữ trong mã số đăng nhập của tôi. Nếu cô có thể giúp tôi, tôi sẽ vô cùng biết ơn.
Cô phụ trách tổng đài ngừng lại, bối rối. – Tôi xin lỗi, thưa ngài. Tin nhắn của ngài hẳn là đã rất lâu rồi. Hệ thống đó đã bỏ cách đây 2 năm vì lý do an ninh. Hơn nữa, tất cả các mã đăng nhập đó đều có 5 chữ số. Ai đã nói với ngài là chúng tôi có tin nhắn cho ngài ạ?
- Các cô không có hệ thống điện thoại tự động sao?
- Không, thưa ngài. Bất kỳ tin nhắn nào cho ngài cũng sẽ được viết tay ở phòng dịch vụ của chúng tôi. Xin ngài nhắn lại tên của mình?
Nhưng người đàn ông đã gác máy.
Bazu Fache chết lặng khi ông ta rảo bước trên bờ sông Seine. Chắc chắn là ông ta đã nhìn thấy Langdon bấm 1 số điện thoại trong vùng, nhập mật mã đăng nhập có 3 chữ số, và rồi lắng nghe 1 máy ghi âm. Nhưng nếu Langdon không gọi cho đại sứ quán thì y gọi cho người quái quỷ nào nhỉ?
Liếc nhìn chiếc điện thoại di động của mình, chính lúc đó Fache nhận ra rằng câu trả lời đang nằm trong lòng bàn tay ông ta. Langdon đã dùng điện thoại của mình để thực hiện cuộc gọi đó.
Bấm nút danh bạ của chiếc điện thoại di động, Fache có được danh sách các cuộc gọi gần đây và ông tìm thấy số điện thoại mà Langdon đã gọi.
Một số điện thoại ở Paris, đi kèm với 1 mã số 3 chữ số 454.
Bấm số điện thoại, Fache chờ đầu dây bên kia đổ chuông. Cuối cùng 1 giọng phụ nữ cất lên: “ Xin chào! Đây là nhà của Sophie Neveu” máy ghi âm thông báo. “Hiện nay tôi đang vắng nhà, nhưng…”
Máu Fache sôi lên khi ông ta bấm 454…

Chương 24
Sillas ngước nhìn bia tưởng niệm Saint-Silpice, bao quát cả chiều dài thân bia đồ sộ bằng đá hoa cương. Gân cốt hắn căng ta, hứng khởi. Hắn lướt nhìn xung quanh nhà thờ 1 lần nữa để chắc chắn hắn chỉ có 1 mình. Rồi hắn quỳ xuống bên bệ đài tưởng niệm, không phải vì tôn kính mà là vì cần thiết.
Viên đá đỉnh vòm được giấu dưới đường Hoa Hồng. Ở đế bia tưởng niệm Sulpice.
Tất cả những thành viên hội kín đó đều nói thế.
Lúc này, vừa quỳ, Sillas vừa đưa tay sờ mặt sàn đá. Hắn không thấy vết nứt hay vết đánh dấu nào chứng tỏ có thể di chuyển 1 viên đã lát sàn nào đó, vì vậy, hắn bắt đầu dùng khớp ngón tay gõ nhẹ xuống sàn. Dò theo thanh đồng tới gần đài tưởng niệm hơn, hắn gõ từng viên gạch kề sát đường thẳng ấy. Cuối cùng, 1 trong những viên gạch ấy phát ra 1 âm thanh lạ.
Có 1 khoảng rỗng dưới sàn!
Sillas mỉm cười. Các nạn nhân của hắn đã nói thật.
Đứng dậy, hắn tìm xung quanh nhà thờ xem có cái gì có thể nậy viên gạch lên.
Phía trên Sillas, trên ban công, Xơ Sandrine nén 1 tiếng hức. Nỗi sợ hãi tột cùng của bà vừa được xác nhận. Vị khách này không phải là người như anh ta tỏ ra. Tu sĩ Opus Dei bí ẩn này đến nhà thờ Saint-Sulpice vì 1 mục đích khác. Một mục đích bí mật.
Ngươi không phải là người duy nhất có những bí mật, Xơ nghĩ.
Xơ Sandrine Bieil còn hơn cả 1 người quản nhà thờ này.
Bà là 1 lính canh. Và đêm nay, những bánh xe cổ xưa đã bắt đầu chuyển động. Việc người lạ mặt này đến dưới chân bia tưởng niệm là 1 báo hiệu từ các giáo hữu. Nó là tiếng kêu câm lặng của tai hoạ.

the_warm_winter
10-07-2008, 03:02 AM
Chương 25
Đại sứ quán Mỹ ở Paris là 1 khu nhà san sát trên đại lộ Gabriel phía bắc quảng trường Champs-Lysees. Khi nhà liên hợp rộng 3 héc ta đó được coi là lãnh thổ Mỹ, có nghĩa là tất cả những ai ở trong khu vực đó đều phải tuân thủ cùng 1 luật pháp và được luật pháp đó bảo vệ như khi họ ở trên đất Mỹ.
Nhân viên trực điện thoại ban đêm của đại sứ quán đang đọc ấn phẩm quốc tế của tạp chí Time thì tiếng chuông điện thoại làm cô gián đoạn.
- Đại sứ quán Mỹ nghe đây – cô trả lời.
- Xin chào – người gọi nói tiếng Anh giọng Pháp. – Tôi cần sự giúp đỡ. Mặc dù lời lẽ khá lịch sự, nhưng giọng ông ta lại cộc cằn và quan cách. – Tôi nghe nói cô đã nhận 1 tin nhắn điện thoại cho tôi trên hệ thống tự động. Tôi tên là Langdon. Thật không may, tôi lại quên mất 3 chữ trong mã số đăng nhập của tôi. Nếu cô có thể giúp tôi, tôi sẽ vô cùng biết ơn.
Cô phụ trách tổng đài ngừng lại, bối rối. – Tôi xin lỗi, thưa ngài. Tin nhắn của ngài hẳn là đã rất lâu rồi. Hệ thống đó đã bỏ cách đây 2 năm vì lý do an ninh. Hơn nữa, tất cả các mã đăng nhập đó đều có 5 chữ số. Ai đã nói với ngài là chúng tôi có tin nhắn cho ngài ạ?
- Các cô không có hệ thống điện thoại tự động sao?
- Không, thưa ngài. Bất kỳ tin nhắn nào cho ngài cũng sẽ được viết tay ở phòng dịch vụ của chúng tôi. Xin ngài nhắn lại tên của mình?
Nhưng người đàn ông đã gác máy.
Bazu Fache chết lặng khi ông ta rảo bước trên bờ sông Seine. Chắc chắn là ông ta đã nhìn thấy Langdon bấm 1 số điện thoại trong vùng, nhập mật mã đăng nhập có 3 chữ số, và rồi lắng nghe 1 máy ghi âm. Nhưng nếu Langdon không gọi cho đại sứ quán thì y gọi cho người quái quỷ nào nhỉ?
Liếc nhìn chiếc điện thoại di động của mình, chính lúc đó Fache nhận ra rằng câu trả lời đang nằm trong lòng bàn tay ông ta. Langdon đã dùng điện thoại của mình để thực hiện cuộc gọi đó.
Bấm nút danh bạ của chiếc điện thoại di động, Fache có được danh sách các cuộc gọi gần đây và ông tìm thấy số điện thoại mà Langdon đã gọi.
Một số điện thoại ở Paris, đi kèm với 1 mã số 3 chữ số 454.
Bấm số điện thoại, Fache chờ đầu dây bên kia đổ chuông. Cuối cùng 1 giọng phụ nữ cất lên: “ Xin chào! Đây là nhà của Sophie Neveu” máy ghi âm thông báo. “Hiện nay tôi đang vắng nhà, nhưng…”
Máu Fache sôi lên khi ông ta bấm 454…

the_warm_winter
10-07-2008, 03:09 AM
Chương 26
Mặc dù danh tiếng như cồn, Mona Lisa chỉ là 1 bức tranh khổ 78cmx35cm bé hơn cả tấm áp phích in hình Mona Lisa bán ở quầy lưu niệm bảo tàng Louvre. Bức tranh được treo ở bức tường phía tây bắc căn phòng Salle des Etats, đằng sau tấm plexglass bảo vệ dày 5cm. Được vẽ trên 1 tấm gỗ bạch dương, không khí thần tiên, đầy sương dăng mờ ảo của nó là do sự điêu luyện của Da Vinci về phong cách sfumato trong đó các hình thể dường như hoà tan vào nhau.
Từ khi được đặt ở bảo tàng Louvre, Mona Lisa – hay La Joconde như người Pháp vẫn gọi đã bị đánh cắp 2 lần, lần gần đây nhất vào năm 1911 khi nó biến mất khỏi sale impénétrale của bảo tàng Louvre Le Salon Carré. Người Paris khóc trên đường phố và viết báo cầu xin những tên trộm hãy trả lại bức tranh. 2 năm sau, Mona Lisa được phát hiện bị giấu dưới đáy giả của 1 chiếc hòm trong 1 phòng khách sạn ở Florence.
Lúc này, Langdon, sau khi tuyên bố rõ ràng với Sophie rằng ông không có ý định rời khỏi đây, đang cùng với cô đi ngang Salle des Etats. Bức Mona Lisa còn ở cách họ khoảng 20m, Sophie đã bật đèn tia tử ngoại, và luồng sáng tim tím từ chiếc đèn-bút quét trên sàn nhà phía trước mắt họ. Cô đưa luồng sáng chạy tới, chạy lui trên sàn như 1 cái máy dò, tìm kiếm bất cứ vết mực phát quang nào.
Đi bên cô, Langdon đã cảm thấy giậm giựt cái dự báo thường kèm những cuộc hội ngộ mặt đối mặt của ông với những kiệt tác nghệ thuật vĩ đại. Ông căng mắt ra nhìn quá bên ngoài luống sáng tím nhạt phát ra từ chiếc đèn trong tay Sophie. Phía bên trái, chiếc đi văng hình bát giác của căn phòng hiện ra, trông giống 1 hòn đảo tối tăm trên 1 vùng biển bằng gỗ trống vắng.
Giờ, Langdon có thể bắt đầu thấy tấm kính sẫm màu trên tường. Treo đằng sau nó, ông biết, là bức tranh nổi tiếng nhất thế giới trong giới hạn cái khoanh nhỏ riêng tư của nó.
Vị trí của Mona Lisa như là 1 kiệt tác nghệ thuật nổi tiếng nhất thế giới! Langdon thừa biết, chẳng liên quan gì với nụ cười bí ẩn của nàng cả. Cũng chẳng phải do những kiến giải bí ẩn được gán ghép cho nàng bởi nhiều nhà lịch sử nghệ thuật và những kẻ đam mê nghệ thuật đầy mưu đồ. Rất đơn giản, Mona Lisa nổi tiếng bởi Leonardo Da Vinci đã tuyên bố nàng là thành tựu hoàn mỹ nhất của ông. Đi đâu ông cũng mang theo bức tranh và nếu được hỏi tại sao, ông đều trả lời rằng ông thấy khó mà rời xa tác phẩm thể hiện vẻ đẹp nữ đến độ trác tuyệt nhất của mình.
Thậm chí như vậy, nhiều nhà lịch sử nghệ thuật ngờ rằng sự trân trọng mà Da Vinci dành cho Mona Lisa chẳng có gì liên quan đến nghệ thuật ở trình độ bậc thầy của nó cả. Trên thực tế, bức tranh là 1 chân dung theo phong cách sfumato bình thường, bình thường đến độ lạ lùng. Nhiều người cho rằng sự tôn sùng Da Vinci dành cho tác phẩm này bắt nguồn từ 1 cái gì đó sâu xa hơn: 1 lời nhắn ẩn giấu dưới những lớp vẽ.
Thực tế, bức tranh Mona Lisa là 1 trong những giai thoại giàu tư liệu nhất thế giới. Rất nhiều tư liệu kết hợp những từ ngữ nước đôi và những câu bóng gió bỡn cợt về bức tranh đã được tiết lộ trong hầu hết các tập sách lịch sử nghệ thuật, thế nhưng, khó tin thay, công chúng nói chung vẫn cho rằng nụ cười của nàng chứa đựng 1 bí ẩn lớn lao.
Chẳng có bí ẩn nào cả, Langdon nghĩ, đi tới và ngắm nghĩa đường viền lờ mờ của bức tranh bắt đầu rõ ra. Chẳng có bí mật nào cả.
Mới đây, Langdon đã chia sẻ những bí mật về Mona Lisa cho 1 nhóm khá dị thường – 12 người tù ở trại giáo dưỡng hạt Essex. Buổi hội thảo chuyên đề của Langdon trong khám tù nằm trong chương trình vươn xa của Đại học Harvard, nhằm mở mang giáo dục đến hệ thống nhà tù. Văn hoá cho tù nhân, các đồng nghiệp của Langdon thích gọi nó như thế.
Đứng dưới chiếc máy chiếu trong thư viện trại đã tắt bớt đèn, Langdon tiết lộ bí mật của Mona Lisa cho những tù nhân tham dự lớp, những người mà ông thấy hiếu học lạ lùng thô nháp, nhưng sắc sảo. – Các bạn có thể thấy – Langdon nói với họ, tiến về phía hình bức tranh Mona Lisa chiếu trên tường thư viện - nền tranh đằng sau gương mặt nàng không bằng phẳng. Langdon chỉ sự so le rành rành. – Da Vinci đã vẽ đường chân trời ở bên trái rõ ràng là thấp hơn bên phải.
- Ông ta lỡ tay làm hỏng chăng? – 1 tù nhân hỏi.
Langdon cười: - Không, Da Vinci không mấy khi nhỡ tay như thế. Thật ra, đây là 1 ngón nhỏ mà Da Vinci cố ý chơi. Bằng cách hạ thấp đường chân trời về bên trái, Da Vinci làm cho Mona Lisa nhìn từ bên trái sẽ lớn hơn nhìn từ bên phải. Một thủ thuật nho nhỏ của Da Vinci. Theo lịch sử, khái niệm nam, nữ vốn đã định rõ 2 bên – bên trái là nữ, bên phải là nam. Vì Da Vinci rất khuynh nữ nên ông đã làm cho Mona Lisa trông uy nghi hơn từ góc nhìn bên trái so với nhìn từ bên phải.
- Nghe nói ông ta “đồng cô”? – 1 người nhỏ bé có chòm râu dê hỏi.
Langdon nhăn mặt: - Các nhà sử học thường không diễn ngôn cách ấy, nhưng đúng vậy, Da Vinci là 1 người đồng tính luyến ái.
- Đó là lý do khiến ông ta lao vào cái thứ hoàn toàn nữ ấy?
- Thực ra, Da Vinci đồng điệu với sự cân bằng giữa nam và nữ. Ông tin rằng linh hồn con người không thể sáng láng nếu không có cả các yếu tố nam lẫn nữ.
Ông muốn nói có cả hĩm lẫn cu hả? – Ai đó nói.
Câu đó gây 1 tràng cười như sấm. Langdon tính đưa ra 1 kiến giải về từ nguyên cho từ người lưỡng tính (hermaphrodite) và những mối liên quan của từ đó với Hermes và Aphrodite, nhưng 1 cái gì đó nói với ông rằng nó sẽ lạc lõng trong đám đông này.
- Này, ông Langdon, - 1 người đàn ông rất cơ bắp nói, - Có đúng bức hoạ Mona Lisa là hình 1 Da Vinci mặc váy không? Tôi nghe nói đây là sự thật.
Cũng rất có thể - Langdon nói, Da Vinci là 1 người thích chơi khăm, và những phân tích trên máy tính giữa Mona Lisa và các bức chân dung tự hoạ của Da Vinci khẳng định những điểm tương đồng đáng kinh ngạc giữa 2 khuôn mặt này. Bất kể Da Vinci định thế nào – Langdon nói – thì Mona Lisa của ông cũng không phải là đàn ông hay phụ nữ. Nó mang 1 thông điệp về sự lưỡng tính nam-nữ. Nó là 1 hoà trộn của cả 2.
- Ông chắc đó không phải là 1 cách cà chớn của Harward để nói rằng Mona Lisa là 1 ả xấu xí đấy chứ?
Bây giờ thì Langdon bật cười. – Có thể anh đúng. Nhưng thực tế Da Vinci để lại 1 bằng chứng rõ ràng rằng bức tranh này vẽ 1 người lưỡng tính. Có ai ở đây đã từng nghe nói về 1 vị thần Ai Cập có tên là Amon không?
- Đù mẹ, có! Người đàn ông to con nói. Thần phồn thực nam?
Langdon sửng sốt.
- Trên hộp bao cao su Amon nào mà chả nói thế - người đàn ông cơ bắp đó cười toét. – Có vẽ 1 gã đầu cừu đực và ghi rằng gã là thần phồn thực của Ai Cập.
Langdon không biết nhãn hiệu đó, nhưng ông vui khi thấy các nhà sản xuất dụng cụ ngừa thai đã sử dụng đúng ký hiệu. - Rất tốt. Amon quả thực được tượng trưng bởi hình 1 người đàn ông có đầu cừu đực, và thói giăng hoa bừa bãi cùng cặp sừng cong của vị thần này liên quan đến 1 từ lóng chỉ quan hệ tình dục trong thời kỳ hiện đại của chúng ta “cứng sừng”
- Ông không đùa chứ?
- Không, không đùa – Langdon nói. Và anh có biết ai là vợ của Amon không? Nữ thần phồn thực Ai Cập?
Đáp lại câu hỏi là mấy giây im lặng.
- Đó là Isis – Langdon cho họ biết, cầm lấy 1 chiếc bút dầu. Vậy là chúng ta có nam thần Amon – ông viết cái tên ấy – và nữ thần Isis, tên tượng hình cổ của thần đã từng được gọi là LISA.
Langdon kết thúc dòng chữ và bước lùi lại khỏi máy chiếu. AMON LISA.
- Có gợi ra cái gì không? – ông hỏi.
- Mona Lisa … Ôi chao quỷ thần! Ai đó há hốc miệng.
Langdon gật đầu: - Thưa quý vị, không chỉ khuôn mặt của Mana Lisa trông có vẽ lưỡng tính mà tên của nàng cũng là 1 anagram của sự hợp nhất thần thánh giữa đàn ông và đàn bà.
- Và thưa các bạn, đó là bí mật nho nhỏ của Da Vinci, và lý do cho nụ cười ra cái điều ta đây thừa biết của Mona Lisa.
- Ông tôi đã ở đây – Sophie nói, đột ngột quỳ sụp xuống, chỉ cách bức Mona Lisa chừng 3m. Cô thử chiếu đèn tia tử ngoại vào 1 điểm trên sàn gỗ.
Đầu tiên Langdon chẳng nhìn thấy gì. Rồi khi quỳ xuống bên cạnh cô ông thấy 1 chấm nhỏ xíu của 1 chất lỏng đã khô đang ánh lên. Mực ư? Ông chợt nhớ ra công dụng của đèn tia tử ngoại. Máu. Ông rùng mình. Sophie đã đúng. Jacques Saunière quả đã đến thăm Mona Lisa trước khi chết.
- Ông ắt đã không đến đây nếu không có lý do – Sophie thì thầm, đứng dậy. Tôi biết, ông để lại 1 lời nhắn cho tôi ở đây. Nhanh chóng sải những bước cuối tới bức Mona Lisa, cô rọi sáng phần sàn ngay bức tranh. Cô lia đi lia lại ánh đèn trong khoảng đó.
Chẳng có gì ở đây cả.
Chính lúc đó, Langdon nhìn lờ mờ 1 ánh phớt tím trên tấm kính bảo vệ bức Mona Lisa. Cúi xuống, ông nắm cổ tay Sophie rồi chầm chậm hướng chiếc đèn về phía bức tranh.
Cả 2 sững lại.
Trên mặt kính, 1 dòng chữ tim tím ánh lên, nguyệch ngoạc ngang qua khuôn mặt Mona Lisa.

the_warm_winter
10-07-2008, 07:58 PM
Chương 27
Ngồi ở bàn của Saunière, trung uý Collet áp chặt điện thoại vào tai, bán tín bán nghi. Mình có nghe đúng ý Fache không nhỉ? – 1 bánh xà phòng? Nhưng làm thế nào mà Langdon có thể biết được về thiết bị GPS.
- Sophie Neveu – Fache đáp – cô ta đã nói cho ông ta.
- Cái gì? Tại sao?
- Câu hỏi hay đấy, nhưng tôi vừa mới nghe 1 đoạn ghi âm chứng tỏ cô ta đã mách nước cho ông ta.
Collet im lặng. Neveu nghĩ gìmà hành động kỳ thế nhỉ? Fache đã có bằng chứng rằng Sophie đã can thiệp vào đặc vụ của DCPJ? Sophie Neveu sẽ không chỉ bị sa thải, cô ta sẽ phải vào tù. – Nhưng thưa đại uý … vậy thì Langdon bây giờ đang ở đâu?
- Có chuông báo động nào ở đó kêu không?
- Không, thưa đại uý.
- Và không có ai đi ra từ dưới cánh cổng hành lang lớn?
- Không. Chúng tôi đã cử 1 nhân biên an ninh của bảo tàng Louvre giám sát ở cổng chính như sếp yêu cầu.
- Được, Langdon chắc vẫn còn trong hành lang lớn.
- Trong đó ạ? Nhưng ông ta đang làm gì?
- Cậu nhân viên bảo vệ của bảo tàng Louvre có được trang bị vũ khí không đấy?
- Có, thưa ngài. Anh ta là đội trưởng đội bảo vệ.
- Cử anh ta vào trong đó – Fache ra lệnh. Tôi không thể đưa quân đến đó trong vài phút được, và tôi không muốn Langdon mở được 1 đường ra. Fache ngừng lại. Và anh nên nói với cậu bảo vệ là nhân viên Neveu có lẽ vẫn còn ở trong đó với ông ta.
- Tôi nghĩ nhân viên Neveu đã rời khỏi đó rồi.
- Anh thật sự trông thấy cô ta đi khỏi hả?
- Không, thưa đại uý, nhưng …
- Vậy đó, cũng không ai ở đó nhìn thấy cô ta đi khỏi. Họ chỉ nhìn thấy cô ta đi vào thôi.
Sự táo tợn của Sophie làm cho Collet sửng sốt. Cô ấy vẫn còn ở trong toà nhà này ư?
- Giải quyết chuyện đó đi – Fache ra lệnh. Tôi muốn Langdon và Neveu bị bắt khi tôi quay trở lại.
Khi chiếc xe tải Trailor chuyển bánh đi khỏi, đại uý Fache tập hợp quân. Robert Langdon tối nay đã chứng tỏ mình là 1 con mồi thoắt ẩn thoắt hiện, và với sự giúp đỡ của nhân viên Neveu, ông ta sẽ càng khó dồn bắt hơn dự kiến. Fache quyết định sẽ không khinh suất.
Bắt cá 2 tay, ông ta ra lệnh cho nửa số quân quay lại khu vực bảo tàng Louvre. Nửa còn lại đi đến nơi duy nhất của Paris mà Robert Langdon có thể tìm thấy chỗ trú chân an toàn.

the_warm_winter
10-07-2008, 08:08 PM
Chương 28
Trong Salle des Etats, Langdon kinh ngạc nhìn chằm chằm vào dòng chữ phát sáng trên mặt kính Plexiglass. Dòng chữ như rập rờn trong không gian, hắt 1 vệt bóng lô xô cắt ngang nụ cười bí ẩn của Mona Lisa.
- Tu viện Sion – Langdon thì thầm. Điều này chứng tỏ ông cô là 1 thành viên của hội này!
Sophie nhìn ông hoang mang: Ông hiểu điều này?
- Bằng chứng rõ ràng – Langdon nói, gật đầu trong khi những ý nghĩ chộn rộn trong đầu ông. Đây là tuyên ngôn của 1 trong những triết lý cơ bản nhất của Tu viện Sion!
Sophie nom bối rối ra mặt trong ánh sáng phát quang của lời nhắn nguyệch ngoạc ngang mặt Mona Lisa
TRÒ LỪA BỊP ĐEN TỐI CỦA CON NGƯỜI.
- Sophie – Langdon nói - truyền thống duy trì sự tôn thờ các nữ thần của Tu viện Sion dựa trên lòng tin là những người có thế lực của Nhà thờ Thiên chúa giáo thời xa xưa đã “lừa bịp” cả thế giới, bằng cách truyền bá những lời nói dối hạ phẩm giá của nữ giới, khiến cán cân nghiêng về phía nam giới.
Sophie vẫn đứng im lặng, nhìn chằm chằm vào dòng chữ.
- Tu viện Sion tin rằng Constantine và những người nam kế tục ông ta đã cải giáo thành công thế giới từ chế độ mẫu hệ ngoại giáo sang chế độ Cơ đốc giáo phụ hệ bằng cách phát động 1 chiến dịch tuyên truyền, biến những tính nữ linh thiêng thành ma quỷ, xoá sạch vĩnh viễn những nữ thần khỏi tôn giáo hiện đại.
Sophie phân vân ra mặt: - Ông tôi bảo tôi đến đây để tìm kiếm thứ này. Hẳn là ông tôi đang cố nói với tôi hơn thế!
Langdon hiểu cô muốn nói gì. Cô nghĩ rằng đây là 1 mật mã khác. Liệu có 1 ý nghĩa ẩn giấu hay không, Langdon không thể ngay lập tức trả lời câu hỏi đó. Đầu óc ông vẫn đang đánh vật với sự rõ ràng táo tợn nơi bề ngoài lời nhắn của ông Saunière.
Trò bịp đen tối của con người – ông nghĩ. Quả thật là đen tối.
Không ai có thể phủ nhận điều tốt lành lớn lao mà Nhà thờ hiện đại đã là được trong thế giới hỗn độn ngày nay, nhưng chính Nhà Thờ ấy lại có 1 lịch sử đầy bạo lực và dối trá.
Cuộc thập tự chinh tàn bạo của họ để “cải đạo” những ngoại giáo và những tôn giáo thờ nữ thần đã xuyên quan 3 thế kỷ, sử dụng những phương pháp đầy sáng tạo nhưng không kém phần đẫm máu. Toà án Dị giáo Cơ đốc đã xuất bản 1 cuốn sách có thể gọi là ấn phẩm đẫm máu nhất trong lịch sử loài người. “Malleus maleficarum hay Búa của bọn nữ phù thuỷ thuyết giáo thế giới về “những mối nguy hiểm của đám phụ nữ tự do tư tưởng và chỉ thị cho giới tu sĩ phải tìm cho ra, tra tấn và tiêu diệt họ. Những người bị Nhà thờ coi là “phù thuỷ” bao gồm tất cả các nữ học giả, các nữ tu, đám di-gan, đám thần bí, những kẻ tôn thờ thiên nhiên, tìm hái dược thảo và bất kỳ phụ nữ nào “hoà hợp 1 cách đáng ngờ với thế giới tự nhiên”. Các bà đỡ cũng bị giết vì tội thực hành dị giáo khi sử dụng những hiểu biết y học để làm dịu cơn đau đớn khi sinh nở - 1 sự đau đớn mà Nhà thờ khẳng định là hình phạt thích đáng của Chúa về việc Eva ăn vụng trái cấm, sinh ra ý niệm Tội tổ tông truyền. Trong suốt 300 năm săn tìm phù thuỷ, Nhà thờ đã xử trên dàn thiêu 1 con số kinh hoàng là 5 triệu phụ nữ.
Tuyên truyền và biển máu đã có hiệu quả.
Thế giới ngày nay là bằng chứng sống.
Nữ giới, xưa đã từng được tôn vinh như là 1 phần nửa của linh tuệ, giờ bị trục xuất khỏi những đền thờ của cả thế giới. Không hề có 1 giáo sĩ Do Tháo dòng chính thống là nữ, không có nữ tu Thiên chúa giáo La mã, không có cả những nữ giáo sĩ đạo Hồi. Hành động Hiaros Gamos - sự giao hợp tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, qua đó mỗi người trở nên toàn vẹn về tinh thần - trước kia từng là thiêng liêng nay bị bóp méo thành 1 hành động ô nhục. Những con người thánh thiện xưa từng coi việc hợp cẩn với người nữ của họ như 1 yêu cầu để hiệp thông với Chúa, giờ lại sợ những xung động tình dục tự nhiên của mình như là tác động của quỷ dữ hiệp đồng với kẻ đồng loã hoàn hảo của nó là … đàn bà.
Cả đến tính nữ gắn liền với bên trái cũng không thoát khỏi sự phỉ báng của Nhà thờ. Ở Pháp và Ý, những từ để chỉ bên trái như gauche và sinistra đều mang những hàm nghĩa tiêu cực sâu sắc trong khi những phần tương ứng bên phải lại gợi lên hàm ý về lẽ phải, sự khéo léo và đúng đắn. Đến tận ngày nay, tư tưởng cấp tiến vẫn còn bị coi là cánh tả và bất cứ thứ gì xấu xa đều bị gọi là sinistrer.
Thời đại của nữ thần đã chấm dứt. Quả lắc đã đu đưa. Mẹ Đất trở thành 1 thế giới của đàn ông, thần phá huỷ và thần chiến tranh đang làm công việc của họ. Bản ngã nam đã qua 2 thiên niên kỷ liền không bị phái nữ kiềm chế. Tu viện Sion tin rằng chính sự xoá bỏ tính nữ linh thiêng này trong cuộc sống hiện đại đã gây ra cái mà thổ dân Hopi tại Mỹ gọi là koy-anisquasti - đời sống mất cân bằng – 1 tình trạng không ổn định với những đặc điểm: chiến tranh đầy nam tính, quá nhiều xã hội căm ghét phụ nữ và sự bất kính ngày càng tăng đối với Mẹ Đất.
Robert! Sophie nói, tiếng thì thầm của cô kéo ông trở lại với thực tại, - có ai đó đang đến!
Ông nghe thấy tiếng bước chân đang tiến lại gần ngoài hành lang.
- Lại đây! Sophie tắt đèn tử ngoại và dường như bốc hơi trước mắt Langdon.
Trong 1 khoảnh khắc, ông hoàn toàn không thấy gì. Lại đâu? Khi quen mắt dần, ông nhìn thấy bóng Sophie chạy vụt về giữa căn phòng và cúi xuống khuất tầm nhìn sau chiếc đi văng hình bát giác. Ông đang định lao tới đằng sau cô thì 1 giọng vang lên làm ông sững lại.
- Arrêtez. – 1 người đàn ông từ cửa ra vào ra lệnh.
Nhân viên an ninh bảo tàng Louvre bước qua cửa phòng Salle des Etats, súng lục giương thẳng, ngắm đúng ngực Langdon.
Langdon cảm thấy cánh tay ông giơ lên trần nhà theo bản năng.
- Couchez-vous – người bảo vệ ra lệnh. Nằm xuống!
Trong vài giây, Langdon đã úp xấp mặt xuống sàn. Người bảo vệ chạy đến, đá mạnh làm chân Langdon dạng ra.
- Mausvaise idée, ông Langdon – anh ta nói, dí mạnh khẩu súng vào lưng Langdon – Mauvaise idée.
Úp mặt trên sàn gỗ, tay chân dang thẳng, Langdon cảm thấy 1 chút khôi hài trong cái tư thế mỉa mai của mình. Người Vitruvian, ông nghĩ. Nằm sấp.

the_warm_winter
10-07-2008, 08:33 PM
Chương 28
Trong Salle des Etats, Langdon kinh ngạc nhìn chằm chằm vào dòng chữ phát sáng trên mặt kính Plexiglass. Dòng chữ như rập rờn trong không gian, hắt 1 vệt bóng lô xô cắt ngang nụ cười bí ẩn của Mona Lisa.
- Tu viện Sion – Langdon thì thầm. Điều này chứng tỏ ông cô là 1 thành viên của hội này!
Sophie nhìn ông hoang mang: Ông hiểu điều này?
- Bằng chứng rõ ràng – Langdon nói, gật đầu trong khi những ý nghĩ chộn rộn trong đầu ông. Đây là tuyên ngôn của 1 trong những triết lý cơ bản nhất của Tu viện Sion!
Sophie nom bối rối ra mặt trong ánh sáng phát quang của lời nhắn nguyệch ngoạc ngang mặt Mona Lisa
TRÒ LỪA BỊP ĐEN TỐI CỦA CON NGƯỜI.
- Sophie – Langdon nói - truyền thống duy trì sự tôn thờ các nữ thần của Tu viện Sion dựa trên lòng tin là những người có thế lực của Nhà thờ Thiên chúa giáo thời xa xưa đã “lừa bịp” cả thế giới, bằng cách truyền bá những lời nói dối hạ phẩm giá của nữ giới, khiến cán cân nghiêng về phía nam giới.
Sophie vẫn đứng im lặng, nhìn chằm chằm vào dòng chữ.
- Tu viện Sion tin rằng Constantine và những người nam kế tục ông ta đã cải giáo thành công thế giới từ chế độ mẫu hệ ngoại giáo sang chế độ Cơ đốc giáo phụ hệ bằng cách phát động 1 chiến dịch tuyên truyền, biến những tính nữ linh thiêng thành ma quỷ, xoá sạch vĩnh viễn những nữ thần khỏi tôn giáo hiện đại.
Sophie phân vân ra mặt: - Ông tôi bảo tôi đến đây để tìm kiếm thứ này. Hẳn là ông tôi đang cố nói với tôi hơn thế!
Langdon hiểu cô muốn nói gì. Cô nghĩ rằng đây là 1 mật mã khác. Liệu có 1 ý nghĩa ẩn giấu hay không, Langdon không thể ngay lập tức trả lời câu hỏi đó. Đầu óc ông vẫn đang đánh vật với sự rõ ràng táo tợn nơi bề ngoài lời nhắn của ông Saunière.
Trò bịp đen tối của con người – ông nghĩ. Quả thật là đen tối.
Không ai có thể phủ nhận điều tốt lành lớn lao mà Nhà thờ hiện đại đã là được trong thế giới hỗn độn ngày nay, nhưng chính Nhà Thờ ấy lại có 1 lịch sử đầy bạo lực và dối trá.
Cuộc thập tự chinh tàn bạo của họ để “cải đạo” những ngoại giáo và những tôn giáo thờ nữ thần đã xuyên quan 3 thế kỷ, sử dụng những phương pháp đầy sáng tạo nhưng không kém phần đẫm máu. Toà án Dị giáo Cơ đốc đã xuất bản 1 cuốn sách có thể gọi là ấn phẩm đẫm máu nhất trong lịch sử loài người. “Malleus maleficarum hay Búa của bọn nữ phù thuỷ thuyết giáo thế giới về “những mối nguy hiểm của đám phụ nữ tự do tư tưởng và chỉ thị cho giới tu sĩ phải tìm cho ra, tra tấn và tiêu diệt họ. Những người bị Nhà thờ coi là “phù thuỷ” bao gồm tất cả các nữ học giả, các nữ tu, đám di-gan, đám thần bí, những kẻ tôn thờ thiên nhiên, tìm hái dược thảo và bất kỳ phụ nữ nào “hoà hợp 1 cách đáng ngờ với thế giới tự nhiên”. Các bà đỡ cũng bị giết vì tội thực hành dị giáo khi sử dụng những hiểu biết y học để làm dịu cơn đau đớn khi sinh nở - 1 sự đau đớn mà Nhà thờ khẳng định là hình phạt thích đáng của Chúa về việc Eva ăn vụng trái cấm, sinh ra ý niệm Tội tổ tông truyền. Trong suốt 300 năm săn tìm phù thuỷ, Nhà thờ đã xử trên dàn thiêu 1 con số kinh hoàng là 5 triệu phụ nữ.
Tuyên truyền và biển máu đã có hiệu quả.
Thế giới ngày nay là bằng chứng sống.
Nữ giới, xưa đã từng được tôn vinh như là 1 phần nửa của linh tuệ, giờ bị trục xuất khỏi những đền thờ của cả thế giới. Không hề có 1 giáo sĩ Do Tháo dòng chính thống là nữ, không có nữ tu Thiên chúa giáo La mã, không có cả những nữ giáo sĩ đạo Hồi. Hành động Hiaros Gamos - sự giao hợp tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, qua đó mỗi người trở nên toàn vẹn về tinh thần - trước kia từng là thiêng liêng nay bị bóp méo thành 1 hành động ô nhục. Những con người thánh thiện xưa từng coi việc hợp cẩn với người nữ của họ như 1 yêu cầu để hiệp thông với Chúa, giờ lại sợ những xung động tình dục tự nhiên của mình như là tác động của quỷ dữ hiệp đồng với kẻ đồng loã hoàn hảo của nó là … đàn bà.
Cả đến tính nữ gắn liền với bên trái cũng không thoát khỏi sự phỉ báng của Nhà thờ. Ở Pháp và Ý, những từ để chỉ bên trái như gauche và sinistra đều mang những hàm nghĩa tiêu cực sâu sắc trong khi những phần tương ứng bên phải lại gợi lên hàm ý về lẽ phải, sự khéo léo và đúng đắn. Đến tận ngày nay, tư tưởng cấp tiến vẫn còn bị coi là cánh tả và bất cứ thứ gì xấu xa đều bị gọi là sinistrer.
Thời đại của nữ thần đã chấm dứt. Quả lắc đã đu đưa. Mẹ Đất trở thành 1 thế giới của đàn ông, thần phá huỷ và thần chiến tranh đang làm công việc của họ. Bản ngã nam đã qua 2 thiên niên kỷ liền không bị phái nữ kiềm chế. Tu viện Sion tin rằng chính sự xoá bỏ tính nữ linh thiêng này trong cuộc sống hiện đại đã gây ra cái mà thổ dân Hopi tại Mỹ gọi là koy-anisquasti - đời sống mất cân bằng – 1 tình trạng không ổn định với những đặc điểm: chiến tranh đầy nam tính, quá nhiều xã hội căm ghét phụ nữ và sự bất kính ngày càng tăng đối với Mẹ Đất.
Robert! Sophie nói, tiếng thì thầm của cô kéo ông trở lại với thực tại, - có ai đó đang đến!
Ông nghe thấy tiếng bước chân đang tiến lại gần ngoài hành lang.
- Lại đây! Sophie tắt đèn tử ngoại và dường như bốc hơi trước mắt Langdon.
Trong 1 khoảnh khắc, ông hoàn toàn không thấy gì. Lại đâu? Khi quen mắt dần, ông nhìn thấy bóng Sophie chạy vụt về giữa căn phòng và cúi xuống khuất tầm nhìn sau chiếc đi văng hình bát giác. Ông đang định lao tới đằng sau cô thì 1 giọng vang lên làm ông sững lại.
- Arrêtez. – 1 người đàn ông từ cửa ra vào ra lệnh.
Nhân viên an ninh bảo tàng Louvre bước qua cửa phòng Salle des Etats, súng lục giương thẳng, ngắm đúng ngực Langdon.
Langdon cảm thấy cánh tay ông giơ lên trần nhà theo bản năng.
- Couchez-vous – người bảo vệ ra lệnh. Nằm xuống!
Trong vài giây, Langdon đã úp xấp mặt xuống sàn. Người bảo vệ chạy đến, đá mạnh làm chân Langdon dạng ra.
- Mausvaise idée, ông Langdon – anh ta nói, dí mạnh khẩu súng vào lưng Langdon – Mauvaise idée.
Úp mặt trên sàn gỗ, tay chân dang thẳng, Langdon cảm thấy 1 chút khôi hài trong cái tư thế mỉa mai của mình. Người Vitruvian, ông nghĩ. Nằm sấp.

the_warm_winter
12-07-2008, 01:24 AM
Chương 29
Bên trong nhà thờ Saint-Silpice, Sillas lấy 1 cái chân nến bằng sắt, khá nặng từ trên ban thờ, rồi quay về chỗ đài tưởng niệm. Cái này dùng như kiểu trụ phá thành sẽ tốt đây. Quan sát viên đá hoa cương màu xám che phủ cái hố dưới sàn, hắn nhận ra rằng chắc chắn không thể phá vỡ nó mà không gây tiếng động ầm ĩ.
Sắt nên lên đá hoa cương, tiếng sẽ dội lên trần mái vòm.
Liệu bà xơ có nghe thấy không nhỉ? Lúc này bà ta nên ngủ say mới phải. Thậm chí nếu đúng thế, đó cũng là 1 cú may rủi mà Sillas không muốn đánh liều. Nhìn quanh để kiếm 1 mảnh vải bọc đầu thanh sắt, hẳn chẳng thấy gì ngoài tấm vải lanh phủ bàn thờ mà hắn không muốn làm ô uế. Áo tu sĩ của mình, hắn nghĩ. Biết rằng có 1 mình hắn trong toàn nhà thờ đồ sộ, Sillas cởi áo chùng cho nó rơi tuột xuống đất. Khi cởi bỏ áo, hắn cảm thấy nhói 1 cái vì lần lót bằng len dính vào những vết thương mới trên lưng hắn. Lúc này chẳng mặc gì ngoài chiếc khố quanh thắt lưng, Sillas quấn chiếc áo chùng vào đầu thanh sắt. Rồi nhắm chính giữa viên đá lát sàn, hắn thục cái đầu quấn vải vào đó. Một tiếng bịch. Viên đá chưa vỡ. Hắn làm lại lần nữa. Lại 1 tiếng bịch, nhưng lần này kèm theo 1 tiếng nứt ran. Lần đập thứ 3, cái nắp đậy ấy rốt cuộc cũng vỡ tan, và những mảnh đá vụn rơi xuống 1 khoảng trống dưới sàn.
1 khoang rỗng!
Nhanh chóng cậy nốt những mảnh còn lại ra khỏi lỗ hổng, Sillas nhìn sâu vào trong khoảng trống. Máu hắn giần giật khi hắn quỳ xuống trước nó. Hắn đưa cánh tay trần trắng nhợt với vào bên trong.
Thoạt đầu, hắn chẳng sờ thấy gì cả. Đáy khoang là đá nhẵn trống trơn. Rồi, lần mò sâu hơn, vươn cánh tay xuống phía dưới Đường Hoa Hồng, hắn chạm vào vật gì đó. 1 phiến đá dầy dặn. Vòng những ngón tay quanh rìa phiến đá, hắn nắm lấy nó và nhẹ nhàng nâng nó ra ngoài. Khi đứng lên và kiểm tra vật tìm thấy, hắn nhận thấy mình đang cầm trên tay 1 phiến đá được đẽo gọt thô sơ với mấy chữ khắc. Trong 1 khoảnh khắc, hắn cảm thấy như mình là Moses thời hiện đại.
Khi Sillas đọc những chữ trên phiến đá, hắn cảm thấy bất ngờ. Hắn đã chờ đợi viên đá đỉnh vòm là 1 tấm bản đồ, hay 1 chuỗi chỉ dẫn phức tạp, thậm chí được mã hoá. Vậy mà viên đá đỉnh vòm lại chỉ mang những kí tự đơn giản nhất. Job 38:11
1 câu trong kinh thánh? Sillas ngớ ra với sự đơn giản quỷ quyệt này. Vị trí bí mật họ tìm kiếm được hé lộ trong 1 câu kinh thánh sao? Cái hội kín này không từ bất cứ điều gì để giễu cợt những người chính trực!
Sách Job. Chương 38. Câu 11.
Mặc dầu Sillas không nhớ chính xác nội dung câu kinh 11, nhưng hắn biết sách Job có kể 1 câu chuyện về 1 người đàn ông vẫn giữ nguyên vẹn lòng tin vào Chúa sau những thử thách liên miên. Thật phù hợp, hắn hầu như không thể kiềm chế nổi sự háo hức.
Ngoái qua vai mình, hắn nhìn theo Đường Hoa Hồng lung linh và không nén nổi 1 nụ cười. Trên bàn thờ chính, dựa vào 1 giá sách mạ vàng, là 1 cuốn kinh thánh to tướng đóng bìa da để mở.
Đứng trên ban công, Xơ Sandrine run lên. Vài phút trước đó, bà đã toan chạy đi và thi hành lệnh thì gã đàn ông dưới kia đột nhiên cởi chiếc áo chùng. Nhìn thấy da thịt trắng bệch như thạch cao của gã, bà bống bị ngợp trong 1 cảm giác hoang mang kinh hãi. Tấm lưng trắng bệch cảu gã đầy những vết rách rỉ máu. Ngay cả từ đây, bà cũng có thể thấy là những vết thương đó còn mới.
Người này đã bị quất bằng roi 1 cách tàn nhẫn!
Bà cũng thấy chiếc dây lưng hành xác đẫm máu quấn quanh đùi gã, vết thương bên dưới nó còn đang nhỏ máu. Chúa trời nào có muốn 1 thân thể bị trừng phạt cách này chứ. Xơ Sandrine biết, những nghi lễ Opus Dei không phải là điều mà bà có thể hiểu được. Nhưng lúc này, bà chả mấy quan tâm đến điều đó.
Opus Dei đang tìm viên đá đỉnh vòm. Làm thế nào mà họ biết về nó, Xơ Sandrine không thể hình dung được, mặc dù bà biết mình không còn thời gian để suy nghĩ nữa.
Lúc này, gã thầy tu người đầy máu lặng lẽ khoác áo chùng trở lại, nắm chặt vật báu vừa lấy được, hắn tiến về phía bàn thờ, phía cuốn kinh thánh.
Trong sự im lặng đến nghẹt thở, Xơ Sandrine rời ban công và chạy nhanh xuôi hành lang về phòng mình. Bò trên nền nhà, bà với tay vào dưới gầm giường ngủ bằng gỗ, lôi ra 1 phong bì vẫn còn nguyên dấu xi mà bà đã giấu kín cách đây 3 năm.
Xé nó ra, bà thấy 4 số điện thoại ở Paris.
Run rẩy, bà bắt đầu quay số.
Ở dưới nhà, Sillas đặt tấm đá lên bàn thờ và hướng những ngón tay hăm hở của hắn ra về phía cuốn kinh thánh bìa da. Những ngón tay dài trắng nhợt toát mồ hôi khi hắn lần giở các trang kinh thánh. Lật phần kinh cựu ước, hắn tìm thấy sách Job.
Hắn tìm đến chương 38. Khi đưa ngón tay chạy dọc theo cột chữ, hắn tiên cảm trước những từ mà hắn sắp đọc. Chúng sẽ dẫn đường.
Tìm thấy câu 11, Sillas đọc. Chỉ độc 7 từ. Bối rối, hắn đọc lại, cảm thấy có 1 cái gì đó sai thật khủng khiếp.
Câu kinh vẻn vẹn có thế này.
NGƯƠI SẼ CHỈ TỚI ĐƯỢC ĐÂY THÔI.

the_warm_winter
12-07-2008, 01:52 AM
Chương 30
Nhân viên an ninh Clause Grouard giận sôi lên khi đứng nhìn tên tù binh nằm sõng xoài phía trước bức Mona Lisa. Tên khốn kiếp này đã giết ông Jacques Saunière! Saunière giống như 1 người cha vô cùng thân yêu với Grouard và đội bảo vệ của anh.
Grouard không muốn gì hơn là siết cò súng và bắn 1 viên đạn vào lưng Robert Langdon. Với tư cách là đội trưởng đội bảo vệ, Grouard là 1 trong số ít những bảo vệ thực sự được trang bị vũ khí. Tuy nhiên, Grouard tự nhắc mình rằng giết Langdon sẽ là 1 ân huệ lớn của số phận so với sự khốn khổ mà Bezzu Fache và hệ thống nhà tù Pháp ban tặng cho hắn ta.
Grouard rút chiếc máy bộ đàm ra khỏi thắt lưng và cố gắng liên lạc để tìm sự hỗ trợ. Nhưng tất cả những gì anh nghe được chỉ là tiếng nhiễu sóng tạp âm. Hệ thống an ninh điện tử bổ trợ của phòng này luôn làm cho những phương tiện liên lạc của cánh bảo vệ nhiễu sóng. Mình phải ra cửa thôi. Vẫn chĩa súng về phía Langdon, Grouard bắt đầu lùi chầm chậm về phía lối ra. Lùi đến bước thứ 3, anh chợt thấy 1 cái gì khiến anh dừng phắt lại. Cái quái quỷ gì thế này!
Một ảo ảnh không thể giải thích được hiện ra ở gần phần trung tâm của căn phòng. 1 bóng người. Có ai đó nữa trong căn phòng này? Một phụ nữ đang di chuyển trong bóng tối, bước rất nhanh về phía bức tường bên trái phía xa. Phía trước cô ta, 1 ánh sáng màu tím nhạt lướt đi lướt lại trên sàn, như thể cô ta đang tìm 1 cái gì đó với cái đèn tín hiệu ấy.
- Qui est là? – Grouard hỏi, cảm thấy khích động lần thứ 2. Chỉ trong 30 giây vừa qua thôi. Đột nhiên anh không biết phải nhằm súng vào đâu hay phải di chuyển theo hướng nào.
- PST đây – người phụ nữ bình tĩnh đáp, vẫn cầm đèn dò tìm trên sàn nhà.
Cảnh sát khoa học công nghệ. Bây giờ thì Grouard đang toát mồ hôi. Mình tưởng tất cả các nhân viên cảnh sát đều rời khỏi đây rồi chứ. Lúc này, anh nhận ra ánh sáng màu tía kia là tia cực tím, gắn liền với đội PTS, nhưng anh không hiểu tại sao DCPJ lại tìm chứng cứ ở đây.
- Votre nom! Grouard kêu lên, linh tính nói cho anh biết có cái gì đó trật lấc. – Repondez.
- C’ est moi - giọng nói đáp trả bằng 1 thứ tiếng Pháp bình tĩnh. – Sophie Neveu.
Ở nơi nào đó trong sâu thẳm tiềm thức của Grouard, cái tên này đã được ghi nhớ. Sophie Neveu à? Đó là cái tên cô cháu gái của ông Saunière, phải không nhỉ? Cô ấy từng đến đây khi còn bé xíu, nhưng đã bao năm rồi. Đây không thể là cô ấy được! Và thậm chí nếu đúng là Sophie Neveu thì cũng khó mà coi đó là 1 lý do để tin cô ta được. Grouard đã nghe những tin đồn về cuộc xung đột đau buồn giữa ông Saunière và cô cháu gái.
- Anh biết tôi mà – người phụ nữ lên tiếng. Còn Robert Langdon thì không giết ông tôi. Xin hãy tin tôi.
Cảnh vệ Grouard không sẵn sàng lấy đó làm tin. Mình phải hỗ trợ! Cố gắng liên lạc qua bộ đàm 1 lần nữa, anh vẫn chỉ thấy tiếng nhiễu sóng. Cửa ra vào còn cách cả hai chục mét về phía sau và Grouard bắt đầu lùi dần, chọn cách chĩa họng súng vào người đàn ông nằm dưới sàn. Khi Grouard nhích từng phân 1 về phía sau, anh có thể thấy người phụ nữ ở đầu kia phòng, đang giơ chiếc đèn chiếu tia tử ngoại xem xét rất kỹ bức tranh lớn treo trên bức tường đối diện với bức Mona Lisa.
Grouard há hốc mồm, nhận ra nó là bức tranh nào. Lạy chúa, cô ta đang làm gì vậy?
Ở đầu kia phòng, Sophie Neveu cảm thấy những giọt mồ hôi lạnh ròng ròng trên trán. Langdon vẫn nằm dang chân dang tay trên sàn. Đợi 1 chút, Robert. Sắp xong rồi. Biết người bảo vệ, trên thực tế ắt không nổ súng vào cô cũng như Langdon, nên lúc này Sophie chuyển sự chú ý vào vấn đề đang làm cô bận tâm, rà soát toàn bộ khu vực xung quanh 1 kiệt tác cụ thể - 1 kiệt tác khác của Da Vinci. Nhưng chiếc đèn chiếu tia cực tím này chẳng phát hiện ra điều gì bất thường. Cả ở trên sàn, chẳng phát hiện ra điều gì thậm chí trên chính bức tranh, đều chẳng thấy gì.
Hẳn phải có 1 cái gì đó ở đây chứ!
Sophie cảm thấy hoàn toàn chắc chắn rằng cô đã đọc đúng ý định của ông cô.
Ông còn có thể có ý định gì khác?
Kiệt tác mà cô đang xem xét là 1 tấm toan cao khoảng mét rưỡi. Quang cảnh lạ lùng mà Da Vinci tạo ra bao gồm Đức mẹ đồng trinh Mary ngồi với Chúa hài đồng Jesus, John Người rửa tội và thiên thần Uriel trên 1 rìa đá chênh vênh. Khi Sophie còn nhỏ, không 1 chuyến viếng thăm Mona Lisa nào được hoàn tất mà ông cô không kéo cô ngang qua căn phòng để xem bức tranh thứ 2 này.
Ông ơi, cháu đang ở đây! Nhưng cháu không nhìn thấy nó!
Phía sau cô, Sophie thấy người gác đang cố gọi điện đài xin chi viện.
Hãy nghĩ đi!
Cô hình dung lại lời nhắn viết nguệch ngoạc trên tấm kính bảo vệ của bức Mona Lisa. Trờ lừa bịp đen tối của con người! Bức hoạ trước cô không có kính bảo vệ để có thể viết tin nhắn lên đó và Sophie biết ông cô ắt không đời nào nỡ làm hỏng bức kiệt tác này bằng cách viết thẳng lên mặt tranh. Cô dừng lại.
Chí ít cũng không phải ở mặt trước. Cô lia mắt lên, nhìn dọc sợi dây cáp dùng để treo bức hoạ.
Liệu có thể là cái này không? Nắm lâu cạnh trái của khung tranh bằng gỗ, cô kéo về phía mình. Bức hoạ có khổ lớn và mặt sau kênh ra khi cô giựt nó ra khỏi tường. Sophie luồn đầu và cả vai vào phía sau của bức hoạ và dùng chiếc đèn chiếu tia cực tím để kiểm tra mặt sau.
Chỉ mất vài giây để Sophie nhận ra là bản năng của mình đã lầm. Mặt sau bức hoạ trống trơn. Chẳng thấy chữ tím hiện dưới tia tử ngoại, chỉ có nền nâu loang lổ của vải toan dãi dầu qua năm tháng và …
Khoan.
Mắt Sophie dán chặt vào 1 tia lấp lánh của kim loại lạc lõng ở gần mép dưới của khung tranh bằng gỗ. Vật đó rất nhỏ, được nhét 1 phần vào cái khe giữa vải toan với khung. Một sợi dây bằng vàng được gắn với nó.
Sophie cực kỳ kinh ngạc khi thấy sợi dây được gắn với 1 chiếc chìa khoá bằng vàng trông rất quen. Đầu chìa chạm khắc, to bản có hình cây thánh giá và mang dấu triện khắc chìm mà cô đã không thấy lại từ hồi 9 tuổi. Một bông hoa huệ với chữ viết tắt P.S. Lúc này, Sophie cảm thấy như vong hồn của người ông đang nói thầm vào tai cô. Đến thì đến lúc, chiếc chìa khoá sẽ là của cháu. Cổ họng cô nghẹn lại khi nhận ra rằng ông mình ngay cả trong cái chết vẫn gắng giữ lời hứa với cô. Chiếc chìa khoá này là để mở 1 cái hộp, giọng ông đang vang lên, nơi ông giữ nhiều bí mật.
Giờ đây, Sophie đã nhận ra rằng toàn bộ mục đích của trò đố chữ tối nay chính là chiếc chìa khoá này. Ông cô đã mang nó theo mình khi ông bị giết. Vì không muốn nó rơi vào tay cảnh sát, ông đã giấu nó sau bức hoạ này. Rồi ông bày ra trò săn tìm kho báu tài tình này để đảm bảo chỉ Sophie có thể tìm ra nó.
- Au secours! giọng người gác la lên.
Sophie giật chiếc chìa khoá từ sau bức hoạ và luồn nó vào sâu trong túi áo cùng với chiếc đèn tia cực tím. Nhìn từ sau bức hoạ, cô có thể thấy người bảo vệ vẫn đang cố gắng 1 cách tuyệt vọng để bắt liên lạc với ai đó thông qua bộ đàm. Anh đang lùi dần về phía lối ra, vẫn kiên quyết chĩa mũi súng vào Langdon.
- Au secours! Anh ta lại hét vào máy bộ đàm.
Vẫn chỉ lạo xạo tạp âm.
Anh ta không liên lạc được, Sophie nhận ra, cô nhớ rằng các khách tham quan có điện thoại di động ở đây thường tức phát điên lên khi họ muốn gọi điện về nhà để khoe rằng họ đang chiêm ngưỡng Mona Lisa. Đường dây giám sát tăng cường bên trong các bức tường đã làm cho căn phòng hoàn toàn không thể truyền tin nếu không bước ra khỏi cửa. Lúc này, người bảo vệ đang lùi nhanh về phía cửa ra vào, và Sophie biết rằng cô phải hành động ngay lập tức.
Nhìn lên bức tranh lớn mà cô đang nép nửa người sau nó, Sophie nhận ra rằng Leonardo Da Vinci, lần thứ 2 trong buổi tối hôm nay, lại giúp đỡ cô.
Chỉ còn vài mét nữa thôi. Grouard tự nói với mình, vẫn giữ chắc “Arrêtez! Ou je la détruis”. Giọng người phụ nữ vang lên khắp căn phòng.
Grouard liếc về phía cô và dừng phắt lại: Mon dieu non!
Qua vầng sáng đo đỏ mờ ảo, anh có thể nhìn thấy người phụ nữ đang thực sự nhấc bức tranh khỏi cáp treo và dựng đứng nó trên sàn trước mặt cô. Với chiều cao mét rưỡi, bức vẽ hầu như hoàn toàn che lấp thân hình cô. Ý nghĩ đầu tiên của Grouard là thắc mắc tại sao, dây treo tranh không khởi động hệ thống báo động, nhưng tất nhiên tối nay những thiết bị cảm biến chưa được mở lại. Cô ta đang làm gì vậy?
Khi nhìn thấy điều đó, anh lạnh cả máu.
Tấm toan bắt đầu phồng lên ở giữa và đường viền mỏng manh của hình Đức mẹ đồng trinh Maria, Chúa hài đồng Jesus và John Người rửa tội bắt đầu méo mó.
- Không! Grouard thét lên, cứng người vì kinh hãi khi nhìn bức tranh vô giá của Da Vinci dãn ra. Từ phía sau, người phụ nữ thúc đầu gối vào giữa tấm toan! NON!
Grouard cuống cuồng chạy đến và nhằm khẩu súng trên tay về phía cô nhưng ngay lập tức nhận ra rằng đó là 1 sự đe doạ xuông. Tấm toan chỉ là vải bố, nhưng lại hoàn toàn bất khả xâm phạm. Một áo giáp sáu triệu đôla.
Mình không thể bắn xuyên qua 1 tác phẩm của Da Vinci được!
- Đặt súng và máy bộ đàm xuống! Người phụ nữ nói bằng 1 thứ tiếng Pháp bình tĩnh, - kẻo tôi sẽ thúc dầu gối xuyên thủng bức tranh đấy. Tôi nghĩ anh biết ông tôi sẽ cảm thấy thế nào về điều này.
Grouard cảm thấy choáng váng: - Làm ơn… đừng. Đó là bức Đức Mẹ trên núi đá! Anh đặt khẩu súng và máy bộ đàm xuống, giơ 2 tay lên đầu.
- Cảm ơn – người phụ nữ nói, - bây giờ hãy làm đúng như tôi nói, rồi mọi thứ sẽ tốt đẹp thôi.
Một lúc sau, mạch máu Langdon vẫn còn đập dồn dập khi ông chạy bên cạnh Sophie xuống cầu thang thoát hiểm về phía tầng hầm. Không ai nói 1 lời nào kể từ lúc người bảo vệ run rẩy nằm lại trong Salle des Etats của bảo tàng Louvre. Khẩu súng lục của người bảo vệ này đang nằm trong bàn tay siết chặt của Langdon và ông rất nóng lòng muốn vứt bỏ nó. Thứ vũ khí này sao mà nặng nề và xa lạ 1 cách nguy hiểm.
Nhảy 2 bậc 1 xuống cầu thang, Langdon tự hỏi liệu Sophie có biết mình đã suýt huỷ hoại 1 bức tranh quý đến thế nào không. Sự chọn lựa của cô về nghệ thuật cõ vẻ phù hợp 1 cách dễ sợ với cuộc phiêu lưu đêm nay. Cũng như Mona Lisa, tác phẩm của Da Vinci mà cô vừa túm lấy rất nổi tiếng trong giới lịch sử nghệ thuật về sự tràn ngập những biểu tượng ngoại giáo ẩn giấu trong đó.
- Cô đã chọn 1 con tin vô cùng giá trị đấy – ông vừa nói vừa chạy.
- Madonna of the Rocks – cô đáp lại. – Nhưng tôi không chọn nó mà ông tôi đã chọn nó. Ông để lại cho tôi 1 thứ gì đó đằng sau bức tranh.
Langdon giật mình nhìn vào cô: - Cái gì cơ? Nhưng làm sao cô biết bức tranh nào, tại sao lại là Madonna of the Rocks?
- So dark the con of man (Trò lừa bịp đen tối của con người).
Cô nở 1 nụ cười đắc thắng. – Tôi đã không đoán được 2 anagram đầu tiên, Robert. Và tôi không muốn trượt nốt câu thứ 3.

the_warm_winter
12-07-2008, 02:15 AM
Chương 31

Họ chết cả rồi! Xơ Sandrine nói lắp bắp vào điện thoại trong căn phòng ở nhà thờ Saint Sulpice. Bà để lại 1 lời nhắn ở 1 máy trả lời tự động: “Làm ơn cầm máy! Họ chết cả rồi!”
Ba số điện thoại đầu tiên trong danh sách đều mang đến những kết quả hãi hùng. Một quả phụ lên cơn thần kinh, 1 thám tử làm việc muộn tại hiện trường vụ giết người và 1 linh mục buồn bã đang an ủi 1 gia đình mất mát. Cả 3 người cần liên hệ đều đã chết. Và giờ đây, khi bà gọi số điện thoại thứ tư, số cuối cùng bà không được phép gọi số này trừ phi không thể liên lạc được với 3 người đầu tiên kia, bà nghe thấy máy trả lời tự động. Người đi vắng không nêu tên, chỉ đơn giản yêu cầu người gọi điện để tin nhắn lại.
Ô đá nền nhà đó đã bị đập vỡ - bà phân bua khi để lại tin nhắn. – Ba người kia đã chết.
Xơ Sandrine không biết gì về thân nhân của 4 người đàn ông mà bà bảo vệ, nhưng những số điện thoại nhà riêng của họ được bà cất giấu dưới giường ngủ chỉ để sử dụng trong 1 trường hợp duy nhất.
Nếu ô đá nền nhà đó bị đập vỡ, người liên lạc vô diện mạo đã nói với bà qua điện thoại, điều đó có nghĩa là trên cấp cao đã vỡ 1 mảng. Một người trong chúng tôi bị cái chết đe doạ và buộc phải thốt ra 1 lời nói dối tuyệt vọng. Hãy gọi những số điện thoại này. Cảnh báo những người khác. Đừng quên gọi chúng tôi.
Đó là 1 hồi chuông báo động câm lặng. Rõ ràng không thể hiểu sai trong sự đơn giản của nó. Kế hoạch đó đã làm bà ngạc nhiên khi lần đầu tiên bà nghe thấy nó. Nếu thân nhân của 1 thành viên có nguy cơ bị hại, ông ta có thể nói dối, điều đó sẽ khởi động 1 cơ chế cảnh báo những người khác.
Tuy nhiên đêm nay, hình như có hơn 1 người bị hại.
- Làm ơn hãy trả lời – bà thì thầm sợ hãi. - Ông ở đâu?
- Gác điện thoại lên – 1 giọng trầm vang lên từ cửa ra vào.
Quay lại kinh hãi, bà nhìn thấy gã thầy tu to lớn. Hắn đang nắm chặt cái chân cắm nến bằng sắt rất nặng. Run rẩy, bà đặt lại ống nghe.
- Họ chết rồi – gã thầy tu nói - cả 4 người. Và bọn họ đã chơi ta như 1 thằng ngốc. Hãy nói cho ra biết viên đá đỉnh vòm ở đâu.
- Tôi không biết! Xơ Sandrine nói thành thực. Bí mật đó do những người khác canh giữ. Những người khác đã chết.
Gã kia tiến đến, 2 bàn tay trắng bệch vẫn nắm chặt chân nến bằng sắt. – Ngươi là 1 nữ tu của nhà thờ, vậy mà ngươi lại phục vụ bọn chúng?
- Chúa Jesus chỉ có 1 thông điệp chân chính duy nhất – Xơ Sandrine thách thức. – Ta không thể thấy thông điệp ấy nơi Opus Dei.
Một cơn cuồng nộ đột ngột bùng nổ sau mắt gã tu sĩ. Hắn lao tới, quật cái chân cắm nến xuống giống như quật 1 chiếc gậy đánh gôn. Khi xơ Sandrine gục xuống, cảm giác cuối cùng của bà là 1 thứ linh tính choán ngợp báo trước điều chẳng lành.
Tất cả 4 người đều đã chết.
Sự thật quý giá thế là vĩnh viễn mất.

the_warm_winter
12-07-2008, 02:58 AM
Chương 32
Chuông báo động ở đầu đằng đông cánh Denon đã làm những con bồ câu ở vườn Tuileries gần đó bay tán loạn khi Langdon và Sophie lao khỏi tường ngăn hoà vào đêm Paris. Khi họ chạy qua quảng trường đến chỗ ôtô của Sophie, Langdon có thể nghe thấy còi xe cảnh sát rú ở đằng xa.
- Nó kia – Sophie nói, chỉ tay về phía 1 chiếc xe 2 chỗ mui bẹt màu đỏ đậu ở quảng trường.
Cô ấy đùa, đúng không? Đó có lẽ là chiếc ôtô bé nhất mà Langdon từng thấy.
- Một chiếc SmartCar đấy – cô nói. 100km mới tốn 1 lít xăng.
Langdon vừa gieo mình xuống ghế hành khách thì Sophie đã phóng chiếc SmartCar vào 1 con đường rải sỏi. Ông níu chặt lấy bảng điều khiển khi chiếc xe lao qua vỉa hè rồi chồm lên ngoặt vào bùng binh nhỏ ở chỗ Carousel du Louvre.
Trong khoảnh khắc, Sophie dường như định đi tắt, cắt ngang bùng binh bằng cách phi thẳng xe qua hàng rào quanh bùng binh trung tâm, rồi cắt ngang thảm cỏ lớn ở giữa.
Không? Langdon hét lên, biết rằng những hàng rào xung quanh Carrousel du Louvre được dựng lên để che cái khoảng trống nguy hiểm ở trung tâm – La Pyramide Inversee cửa trời của Kim tự tháp đảo ngược mà trước đó ông nhìn thấy từ bên trong bảo tàng. Nó đủ rộng để nuốt chửng chiếc xe SmartCar của họ chỉ trong 1 ngoạm. May mắn thay, Sophie quyết định đi theo 1 tuyến thông thường hơn, đánh riết tay lái về bên phải, cua đúng cách cho đến khi cô ra khỏi đó, rẽ trái, rồi lao vào làn đường phía bắc, tăng tốc về phía phố Rivoli.
Những hồi còi nhị thanh của xe cảnh sát réo càng ngày càng to sau lưng họ, lúc này Langdon có thể thấy ánh đèn xe cảnh sát trong chiếc gương chiếu hậu phía ghế ngồi của ông. Động cơ chiếc SmartCar rít lên phản đối khi Sophie thúc nó đi khỏi bảo tàng Louvre nhanh hơn. Khoảng 50m trước mặt, đèn giao thông chuyển sang đỏ ở phố Rivoli. Sophie rủa thầm và tiếp tục lao về phía đó. Langdon cảm thấy các cơ co chặt lại.
Sophie!
Chiếc xe hơi chậm lại chút xíu lúc đến ngã tư, Sophie bật đèn pha rồi liếc nhanh 1 cái về cả 2 ngả trước khi lại dận ga và rẽ trái cắt ngọt qua ngã tư trống trải để đi vào phố Rivoli. Tăng tốc đi theo hướng tây thêm ¼ dặm nữa, Sophie rẽ phải quành 1 bùng binh rộng. Chẳng mấy chốc họ đã lao nhanh qua phía bên kia trên đại lộ Champs-Elysees thênh thang.
Khi xe chạy thẳng rồi, Langdon mới xoay người trên ghế, nghển cố nhìn qua cửa sau về phía bảo tàng Louvre. Cảnh sát hình như không săn đuổi họ nữa. Cả 1 biển nhấp nháy những ánh đèn xanh tập trung ở bảo tàng.
Cuối cùng, nhịp tim của Langdon chậm lại, ông quay về tư thế cũ: - Thật thú vị.
Dường như Sophie không nghe thấy. Mắt cô vẫn dán về phía trước, vào đại lộ Champs-Elysees dài hun hút dãy cửa hàng sang trọng trên suốt 2 dặm thường được mệnh danh là Đại lộ Thứ Năm của Paris. Đại sứ quán Mỹ chỉ cách đây khoảng 1 dặm và Langdon ngồi ngay ngắn lại trong chiếc ghế của mình.
So dark the con of man (Trò lừa bịp đen tối của con người)
Sự nhanh trí của Sophie thật đáng kinh ngạc.
Madona of the Rocks.
Sophie đã nói rằng ông cô để lại 1 cái gì đó sau bức tranh.
Một lời nhắn tối hậu? Langdon không khỏi ngạc nhiên thán phục chỗ cất giấu xuất sắc của Saunière, bức Madonna of the Rock là 1 khâu khác ăn khớp trong chuỗi biểu tượng tương liên đêm nay. Saunière dường như từng bước 1 khẳng định niềm say mê của ông đối với khía cạnh bí ẩn và tinh quái của Leonardo Da Vinci.
Đơn đặt hàng ban đầu cho bức Madonna of the Rocks của Da Vinci đến từ 1 tổ chức gọi là Hội Trinh Khiết Hoài Thai, họ cần 1 bức giữa cho bộ tranh 3 tấm đặt ở ban thờ trong nhà thờ San Francesco của họ tại Milan. Các nữ tu sĩ đưa ra cho Leonardo kích thước cụ thể và chủ đề họ mong muốn giành cho bức tranh - Đức Mẹ đồng trinh Mary, thánh John Người rửa tội buổi sơ sinh, Uriel và Chúa hài đồng Jesus nằm trong hang.
Mặc dù Da Vinci đã làm như họ yêu cầu, nhưng khi ông hoàn trả tác phẩm, bọn họ lại phản ứng 1 cách sợ hãi. Ông đã đưa vào bức tranh đầy những chi tiết bùng nổ và xáo động.
Bức tranh vẽ Đức Mẹ đồng trinh Mary mặc áo choàng xanh ngồi ôm 1 đứa bé mới sinh được cho là Chúa hài đồng. Uriel ngồi đối diện với Đức Mẹ đồng trinh Mary, cũng ôm 1 đứa trẻ, được cho là John – Người rửa tội thủa hài nhi. Thật kỳ lạ, thay vì theo kịch bản Chúa Jesus ban phước cho John như thông thường, ở đây chính John lại là người ban phước cho Jesus … và Chúa Jesus thì đang chịu phép của John! Rắc rối hơn nữa, Đức Mẹ Mary lại giơ cao 1 tay trên đầu John và thể hiện 1 cử chỉ doạ nạt rõ ràng – những ngón tay bà trông như móng 1 con đại bàng đang quắp 1 cái đầu vô hình. Cuối cùng là hình ảnh đáng sợ nhất và rõ ràng nhất: ngay phía dưới những ngón tay quắp chặt của Đức Mẹ Mary, Uriel đang vung tay làm 1 động tác cắt – như thể cắt cổ cái đầu vô hình bị quắp bởi những ngón tay giống móng đại bàng của Đức Mẹ Mary.
Những sinh viên của Langdon luôn luôn hứng thú khi biết rằng cuối cùng Da Vinci đã xoa dịu Hội Trinh Khiết Hoài Thai bằng cách vẽ cho họ 1 phiên bản thứ 2 có giảm “đô” của bức Madonna of the Rocks, trong đó mọi nhân vật được sắp xếp 1 cách chính thống hơn. Hiện nay, phiên bản thứ 2 này được treo tại Bảo tàng Mỹ thuật quốc gia London dưới cái tên Virgin of the Rocks (Đức Mẹ đồng trinh trên núi đá), mặc dầu Langdon vẫn thích bản gốc ở bảo tàng Louvre hơn với tính khác lạ hấp dẫn của nó.
Khi Sophie cho xe phóng trên đại lộ Champs-Elysees, Langdon hỏi: - Bức tranh ấy. Có gì đằng sau nó vậy?
Mắt cô không rời khỏi con đường: - Tôi sẽ cho anh xem khi chúng ta thật sự an toàn trong đại sứ quán.
Cô sẽ cho tôi xem? – Langdon ngạc nhiên. – Ông ấy để lại cho cô 1 vật thể?
Sophie gật đầu: - với 1 bông hoa loa kèn và kí tự P.S. chạm nổi.
Langdon không thể tin vào tai mình.
Chúng ta sắp thành công, Sophie nghĩ khi lái ngoặt chiếc SmartCar sang phải, xoẹt qua khách sạn Crillon sang trọng, đi vào khu vực ngoại giao của Paris với những hàng cây ven đường. Đại sứ quán còn cách chỗ này chưa đầy 1 dặm. Cuối cùng, cô cũng cảm thấy như mình có thể hít thở bình thường trở lại.
Cả trong khi lái xe, đầu óc Sophie vẫn không dứt khỏi chiếc chìa khoá trong túi, hồi ức về chuyện thấy nó bao năm về trước - đầu chìa bằng vàng hình thánh giá 4 cánh bằng nhau, thân chìa hình trụ tam giác, những khía răng cưa, con dấu hình hoa khắc nổi và 2 ký tự P.S.
Mặc dầu Sophie hiếm khi nghĩ về chiếc chìa khoá trong bao nhiêu năm qua, nhưng công việc trong 1 cộng đồng tình báo đã dạy cô nhiều về đảm bảo an toàn, và giờ đây hình chạm khắc lạ thường của chiếc chìa khoá không còn quá huyền bí nữa. Một khuôn đúc biến hoá được gia công bằng tia laze, không thể sao lại được. Thay vì những khía răng cưa xoay lẫy khoá cả mớ nhằng nhịt những lỗ nhỏ được tạo bởi tia laze của chiếc chìa khoá này sẽ được kiểm tra bằng 1 mắt thần điện tử. Nếu mắt thần này xác nhận những lỗ hình lục giác đó chuẩn xác về cự ly cách sắp xếp và độ quay vòng thì khoá sẽ được mở.
Sophie không hình dung nổi 1 chiếc chìa khoá như thế này dùng để mở cái gì, nhưng cô cảm thấy Robert có thể nói cho cô biết. Dù thế nào đi nữa, ông ta đã miêu tả chính xác hình khắc nổi của chiếc chìa khoá mà chưa 1 lần nhìn thấy nó. HÌnh thánh giá của đầu chìa chứng tỏ nó thuộc về 1 tổ chức Thiên chúa giáo nào đó, nhưng Sophie không biết 1 nhà thờ nào dùng loại chìa khoá với khuôn biến hoá gia công bằng laze.
Với lại, ông mình không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo.
Sophie đã thấy bằng chứng về điều đó cách đây 10 năm. Thật mỉa mai, chính là 1 chiếc chìa khoá khác, 1 chiếc chìa khoá bình thường hơn nhiều đã hé lộ bản chất thực sự của ông cô.
Buổi chiều hôm đó thật ấm áp khi cô hạ cánh xuống sân bay Charles de Claulle và vẫy 1 chiếc taxi về nhà. Nhìn thấy mình, chắc ông sẽ rất ngạc nhiên, cô nghĩ… Từ trường cao học bên Anh trở về nghỉ xuân sớm hơn thường lệ, Sophie mong đợi gặp ông và kể cho ông tất cả về các phương pháp giải mã mà cô đang học.
Tuy nhiên, khi cô về đến ngôi nhà ở Paris, ông cô không có ở đó. Thất vọng, cô biết ông không ngờ cô về sớm thế và có lẽ đang làm việc ở bảo tàng Louvre. Nhưng bây giờ là chiều thứ 7 – cô chợt nhận ra. Ông hiếm khi làm việc vào những ngày cuối tuần. Vào cuối tuần, ông thường … Mỉm cười, Sophie chạy thẳng đến gara. Chắc chắn là không có xe ở đó. Bây giờ là cuối tuần. Ông Jacques Saunière không thích lái xe trong thành phố và ông có 1 chiếc xe chỉ để đến 1 nơi duy nhất: nhà nghỉ của ông ở Normandy, phía bắc Paris. Sophie sau nhiều tháng ngột ngạt ở London, đang háo hức được hít thở những mùi hương của thiên nhiên và muốn bắt đầu kỳ nghỉ ngay tức khắc. Trời mới ngả chiều và cô quyết định đi ngay lập tức để khiến ông bị bất ngờ. Mượn 1 chiếc ôtô của bạn, Sophie lái về phía Bắc, phóng thẳng vào khu đồi vắng lặng tràn ngập ánh trăng gần Creully. Cô tới nơi chỉ sau 10 giờ 1 chút, lái xe theo con đường riêng dẫn đến nơi nghỉ ngơi của ông. Lối vào dài hơn 1 dặm, và cô đã đi được 1 nửa đường trước khi có thể nhìn thấy ngôi nhà qua những hàng cây 1 toà biệt thự bằng đá to đùng và cũ kỹ toạ lạc trong rừng trên sườn đồi.
Sophie nửa hy vọng thấy ông cô đang ngủ vào giờ này, nửa lại háo hức muốn được thấy ngôi nhà sáng trưng ánh đèn. Tuy nhiên, niềm vui sướng của cô chuyển thành sự ngạc nhiên, khi đến nơi cô nhìn thấy lối đi có đầy ôtô đang đậu – những chiếc Mercedes, BMW, Audis và cả 1 chiếc Rolls-Royce.
Sophie nhìn chằm chằm 1 lúc rồi bật cười lớn. Ông mình – người ẩn dật trứ danh! Xem ra Jacques Saunière ít ẩn dật hơn nhiều so với cách mà ông thể hiện bề ngoài. Rõ ràng là ông đang tổ chức tiệc tùng trong khi Sophie đi học xa, và bằng vào bề ngoài của những chiếc ôtô, thì 1 số trong những người này có ảnh hưởng nhất của Paris cũng tham dự.
Háo hức muốn làm ông mình ngạc nhiên, Sophie hối hả chạy đến cửa trước. Khi cô đến nơi, cô thấy cửa bị khoá. Cô gõ cửa.
Không ai trả lời. Lúng túng, cô đi quanh ngôi nhà và thử xem cửa sau. Nó cũng bị khoá. Chẳng có lời nào đáp lại cả.
Bối rối, cô đứng 1 lúc và lắng nghe. Âm thanh duy nhất mà cô nghe được là tiếng gió lạnh vùng Normandy đang rền rĩ xoáy qua thung lũng.
Không âm nhạc.
Không tiếng người.
Chẳng có gì cả.
Trong im lặng của khu rừng, Sophie vội vàng chạy sang bên sườn nhà, leo lên 1 đống củi, áp sát vào cửa sổ phòng khác.
Điều cô nhìn thấy bên trong thật vô lý.
“Không có ai ở đây!
Toàn bộ tầng 1 của toà nhà vắng ngắt.
Mọi người ở đâu được nhỉ?
Tim đập dồn, Sophie chạy vào nhà chứa củi để lấy chiếc chìa khoá dự phòng mà ông cô giấu kín dưới thùng đựng que mồi lửa. Cô chạy ra đằng trước mở cửa bước vào. Khi cô bước vào căn phòng chờ vắng vẻ, bảng kiểm soát của hệ thống an ninh bắt đầu nháy đèn đỏ 1 báo hiệu rằng người đi vào. Có 10 giây để nhập đúng mã số trước khi chuông báo động kêu.
Ông để hệ thống báo động hoạt động trong suốt 1 bữa tiệc. Sophie nhanh chóng nhập mã số và làm hệ thống ngưng phản ứng.
Vào hẳn bên trong, Sophie thấy toàn bộ ngôi nhà vắng tanh.
Cả tầng trên cũng vậy. Trở xuống phòng khách trống trơn đó, cô đứng 1 lúc trong yên lặng, tự hỏi điều gì có thể đang xảy ra ở đây.
Chính lúc đó Sophie nghe thấy nó.
Những giọng nói rì rầm. Và hình như chúng vẳng đến từ phía dưới cô. Sophie không thể tưởng tượng được. Cúi xuống, cô áp tai xuống sàn nhà và lắng nghe. Phải, dứt khoát là âm thanh vọng từ dưới lên. Các giọng đó dường như đang hát hay đang cầu kinh chăng. Cô sợ. Nhưng có 1 điều còn kỳ bí hơn cả bản thân âm thanh đó: Cô biết ngôi nhà thậm chí không có tầng hầm?
Ít nhất thì mình cũng chưa bao giờ thấy.
Quay lại và rà soát phòng khách, mắt Sophie bắt gặp 1 vật duy nhất trong toàn bộ ngôi nhà không ở vị trí cũ – 1 món đồ cổ yêu thích của ông - tấm thảm Anbusson. Nó thường được treo ở bức tường phía đông cạnh lò sưởi, nhưng đêm nay, nó đã bị kéo về 1 phía, để lộ bức vách phía sau.
Bước về phía bức vách gỗ trần trụi, Sophie cảm thấy tiếng đọc kinh càng lớn dần. Do dự, cô áp tai vào vách gỗ. Những âm thanh lúc này rõ ràng hơn. Rõ ràng là người ta đang cầu kinh … ngâm nga những từ mà Sophie không thể nào hiểu được.
Không gian đằng sau bức vách là 1 khoảng trống!
Sờ xung quanh gỡ những miếng ván, Sophie thấy 1 quả đấm cửa thụt vào trong. Nó được chế tác rất kín đáo. Một cánh cửa trượt. Tim đập thình thịch, cô đặt ngón tay vào khe và kéo ra. Chính xác và êm ru, tấm vách nặng trượt sang 1 bên. Từ bóng tối phía bên kia, những giọng nói vang lên.
Sophie lách qua cánh cửa và nhìn thấy mình đứng trên 1 cầu thang bằng đá đục thô xoáy theo hình trôn ốc xuống dưới. Cô đã đến ngôi nhà này từ lúc còn bé, mà không hề biết là có chiếc cầu thang này.
Càng xuống, không khí càng mát lạnh. Những giọng nói mỗi lúc 1 rõ hơn. Lúc này cô nghe thấy cả giọng nam lẫn giọng nữ. Tầm nhìn của cô bị vòng xoáy của cầu thang hạn chế, nhưng lúc này, bậc cuối cùng đã hiện ra. Bên kia bậc này, cô có thể nhìn thấy 1 mảnh nhỏ của sàn tầng hầm – 1 khoảng sàn đá bập bùng ánh lửa màu da cam.
Nín thở, Sophie nhích xuống 1 vài bậc nữa và cúi xuống để nhìn. Phải mất vài giây, cô mới nhận ra cái mà cô đang nhìn.
Căn phòng là 1 hang đá 1 khoang thô nhám dường như được đục từ khối đá granit của sườn đồi này. Nguồn ánh sáng duy nhất đến từ những cây đuốc cắm trên tường. Trong ánh lửa, trên dưới 30 người đứng thành vòng tròn giữa phòng.
Mình đang mơ, Sophie tự nhủ. Một giấc mơ. Còn có thể là gì khác được chứ?
Mọi người trong phòng đều đeo mặt nạ, phụ nữ mặc áo thụng mỏng tang màu trắng, đi giầy vàng óng. Mặt nạ của họ màu trắng, họ cầm 1 quả cầu vàng trong lòng bàn tay. Đàn ông mặc áo chùng đen dài và mặt nạ của họ màu đen. Trông họ giống những quân cờ trên 1 bàn cờ vua khổng lồ. Mọi người đứng trong vòng tròn đều lắc lư người từ trước ra sau và kính cẩn cầu khấn 1 vật gì trên sàn trước mặt họ … 1 vật gì đó mà Sophie không thể nhìn thấy.
Tiếng đọc kinh to dần. Nhanh dần. Đến giờ thì vang rền như sấm. Trong khoảnh khắc đó, cuối cùng thì Sophie cũng có thể nhìn thấy thứ mà tất cả bọn họ đang nhìn.
Ngay khi loạng choạng lùi lại vì kinh hoàng, cô đã cảm thấy hình ảnh đó khắc dấu lửa mãi mãi vào ký ức cô. Lên cơn buồn nôn, Sophie quay người, bám chặt vào bức tường đá khi leo lên cầu thang. Kéo cánh cửa đóng lại, cô chạy trốn khỏi ngôi nhà hoang vắng và lái xe trở về Paris trong 1 trạng thái mò mẫm đầy nước mắt.
Đêm đó, cảm thấy đời tan nát vì vỡ mộng và bị phản bội, cô đóng gói đồ đạc rồi rời khỏi nhà. Cô để lại 1 lời nhắn trên bàn ăn.
CHÁU ĐÃ Ở ĐÓ. ĐỪNG CỐ TÌM CHÁU!
Cạnh lời nhắn, cô đặt chiếc chìa khoá dự phòng lấy từ nhà chứa củi của nhà nghỉ.
Sophie! Giọng Langdon bất chợt xen vào. Dừng lại! Dừng lại!
Bứt ra khỏi dòng hồi ức, Sophie dận phanh cho xe dừng đánh kít: Cái gì? Cái gì xảy ra thế?
Langdon chỉ con phố dài trước mặt họ.
Nhìn thấy quang cảnh đó, Sophie lạnh cả máu. Khoảng 100m phía trước thôi, ngã tư đã bị chặn bởi 2 xe cảnh sát DCPJ đậu xiên xẹo, với mục đích hiển nhiên: Phong toả đại lộ Gabriel!
Langdon thở dài rầu rĩ: Nghĩa là đêm nay đại sứ quán nằm ngoài tầm của tôi?
Phía cuối phố, 2 nhân viên DCPJ đứng cạnh xe của mình đang nhìn chằm chằm về phía 2 người, rõ ràng là rất tò mò về ánh đèn pha vừa đột ngột dừng ở đầu phố.
Được, Sophie quay xe lại rất từ từ.
Quay đầu chiếc SmartCar, Sophie thực hiện 1 cú vòng táo bạo và đổi ngược hướng đi. Khi lái vụt đi, cô nghe thấy tiếng lốp xe rít đằng sau. Tiếng còi xe cảnh sát ré lên.
Vừa nguyền rủa, Sophie vừa nhấn ga tăng tốc.

the_warm_winter
16-07-2008, 12:40 AM
Chương 33
Chiếc SmartCar của Sophie cắt ngang khu vực ngoại giao, vòng vèo qua các đại sứ quán rồi lãnh sự quán, cuối cùng ra khỏi 1 con phố nhánh, rẽ phải để trở lại đại lộ Champs-Elysees to rộng. Langdon ngồi trên ghế hành khách, tay nắm chặt đến trắng bệch khớp ngón, vặn mình ngoái nhìn đằng sau xem cảnh sát còn bám theo không. Ông chợt ước giá mình đừng quyết định trốn chạy. Nhưng mày có quyết định đâu – ông tự nhắc mình. Sophie đã quyết định thay ông khi cô ném đĩa GPS qua cửa sổ phòng tắm. Bây giờ, khi họ phóng nhanh khỏi đại sứ quán, luồn lách qua dòng xe cộ thưa thớt trên đại lộ Champs-Elysees, Langdon cảm thấy những phương án của mình đều hỏng. Mặc dù Sophie có vẻ như đã bỏ xa cảnh sát, chí ít là trong lúc này, Langdon vẫn hoài nghi không biết vận may của họ có kéo dài được lâu không.
Ngồi sau tay lái, Sophie thò tay vào túi áo len, lôi ra 1 vật nhỏ bằng kim loại rồi chìa cho Langdon: - Robert, anh nên xem thứ này đi. Đây là thứ ông tôi để lại phía sau bức Madonna of the Rocks đấy.
Run lên vì dự cảm, Langdon cầm vật đó và xem xét. Nó khá nặng và giống như hình thập giá. Linh tính đầu tiên bảo là ông đang cầm 1 pieu tang – 1 dạng thu nhỏ của cây cọc tưởng niệm để cắm trên những ngôi mộ ở nghĩa trang. Nhưng rồi ông để ý thấy thân của thánh giá có hình lăng trụ tam giác. Và còn có hàng trăm lỗ nhỏ tí xíu lục giác có vẻ được gia công rất tinh vi và không theo hàng lối ngay ngắn.
- Đó là 1 chiếc chìa khoá được cắt bằng tia laze – Sophie nói với ông – những hình lục giác đó sẽ được đọc bởi 1 mắt thần điện tử.
- Một chiếc chìa khoá ư? Langdon chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì giống thứ này.
- Hãy nhìn phía bên kia đi – cô nói trong khi chuyển làn đường rồi băng qua ngã tư.
Khi Langdon xoay chiếc chìa khoá, ông cảm thấy quai hàm trễ xuống vì kinh ngạc. Khắc nổi ở trung tâm chữ thập là 1 bông hoa loa kèn cách điệu và ký tự P.S!
- Sophie – ông nói – đây chính là dấu hiệu mà tôi đã nói với cô! Biểu tượng chính thức của Tu viện Sion.
Cô gật đầu: - Như tôi đã nói với anh, tôi đã nhìn thấy chiếc chìa khoá này rất lâu rồi. Ông tôi bảo tôi không bao giờ được nói đến nó nữa.
Mắt Langdon vẫn dán vào chiếc chìa khoá có hình khắc nổi đó. Cách chế tác bằng công nghệ cao và biểu tượng cổ xưa quyện vào nhau thành 1 thứ hỗn hợp kỳ bí của thế giới hiện đại và thế giới cổ xưa.
Ông tôi nói với tôi chiếc chìa khoá này là để mở 1 chiếc hộp trong đó ông cất giữ nhiều bí mật.
Langdon cảm thấy ớn lạnh khi tưởng tượng đến loại bí mật mà 1 người như Jacques Saunière có thể cất giấu. Một hội kín cổ xưa làm gì với chiếc chìa khoá vị lai chủ nghĩa, Langdon không sao hiểu nổi. Tu viện Sion tồn tại vì 1 mục đích duy nhất là bảo vệ 1 bí mật. Một bí mật chứa quyền năng to lớn không thể tưởng tượng nổi. Chiếc chìa khoá này có thể có gì liên quan đến bí mật đó? Ý nghĩ đó trùm lấp không sao cưỡng nổi. – Cô có biết nó mở thứ gì không?
Sophie có vẻ thất vọng – Tôi đã hi vọng là anh biết.
Langdon yên lặng xoay xoay chiếc chìa khoá chữ thập trong tay, xem xét nó.
- Trông nó có vẻ thuộc về đạo Thiên Chúa – Sophie nhấn mạnh.
Langdon không dám chắc về điều đó. Đầu chìa không phải kiểu thánh giá Thiên chúa truyền thống có thân dài mà là 1 hình chữ thập bình phương nghĩa là 4 nhánh dài bằng nhau có trước đại Thiên Chúa 1 ngàn rưỡi năm. Loại chữ thập này không mang 1 hàm nghĩa Thiên Chúa Giáo nào về sự đóng đinh câu rút gắn liền thập giá La tinh thân dài do người La Mã tạo ra làm dụng cụ tra tấn. Langdon bao giờ cũng ngạc nhiên khi thất rất ít tín đồ Cơ đốc giáo, những người tôn thờ cây thánh giá, hiểu ra rằng lịch sử đầy bạo lực của biểu tượng này được phản ánh ngay trong tên gọi của nó: “chữ thập” (cross) và “thập giá” (crucifix)” đều là động từ Latinh cruciare – tra tấn – mà ra.
- Sophie – Langdon nói, tôi chỉ có thể nói với cô là những chữ thập nhánh dài bằng nhau như cái này được cho là những chữ thập hoà bình. Hình dạng bình phương của nó khiến nó không sử dụng được vào việc đóng đinh câu rút, và các yếu tố dọc – ngang cân bằng của nó thể hiện sự kết hợp tự nhiên giữa nam và nữ, khiến nó trở thành biểu tượng phù hợp với triết lý của Tu viện Sion.
Cô mệt mỏi nhìn ông – Anh không biết, phải không?
Langdon cau mày: - Không 1 manh mối nào.
- Thôi được, chúng ta phải ra khỏi con đường này thôi. – Sophie kiếm tra gương chiếu hậu. – Chúng ta cần 1 nơi an toàn để tìm ra thứ mà chiếc chìa khoá này mở.
Langdon thèm thuồng nghĩ đến căn phòng tiện nghi của mình ở khách sạn Ritz. Rõ ràng, đó không phải là 1 sự lựa chọn lúc này. - Những chủ nhân mời tôi đến giảng ở đại học Mỹ tại Paris thì sao?
- Quá lộ liễu. Fache sẽ kiểm vấn họ!
- Cô hẳn phải quen biết nhiều người chứ. Cô sống ở đây mà?
- Fache sẽ kiểm tra điện thoại, hòm thư điện tử của tôi, nói chuyện với những đồng nghiệp của tôi. Các mối liên hệ của tôi đều bị rà soát, còn như tìm 1 khách sạn cũng không phải là 1 ý hay vì tất cả khách sạn đều yêu cầu xuất trình giấy tờ căn cước.
Một lần nữa, Langdon lại tự hỏi giá cứ để cho Fache bắt giữ ông tại bảo tàng Louvre có tốt hơn không. – Ta hãy gọi đại sứ quán xem. Tôi có thể giải thích về tình cảnh của chúng ta và đề nghị đại sứ quán cử ai đó đến gặp chúng ta ở đâu đó.
- Gặp chúng ta? Sophie quay sang nhìn chằm chằm vào ông như thể ông bị điên vậy. Robert, anh đang nằm mơ. Đại sứ quán không hề có quyền pháp lý ngoại trừ trong phần đất của chính họ. Cử ai đó đến đưa chúng ta về sẽ bị coi là hành động trợ giúp kẻ trốn tránh chính phủ Pháp. Điều đó sẽ không xảy ra đâu. Nếu anh tự đi vào đại sứ quán và đề nghị 1 chỗ trú ẩn tạm thời thì đó lại là 1 chuyện khác, nhưng đề nghị họ hành động chống lại việc thi hành luật pháp Pháp trong lĩnh vực này ư? – Cô lắc đầu. - Cứ thử gọi tới đại sứ quán của anh ngay đi, và họ sẽ bảo với anh là hãy tránh xa việc phạm pháp và hãy đến tự thú với Fache. Rồi họ hứa hẹn sẽ theo các kênh ngoại giao để anh nhận được 1 xét xử công bằng. Cô quay ra nhìn dãy cửa hàng sang trọng trên đại lộ Champs-Elysees. – Anh có bao nhiêu tiền mặt ở đây?
Langdon xem lại ví: - 100 đôla, 1 vài euro. Thế thì sao?
- Thẻ tín dụng?
- Tất nhiên.
Khi Sophie tăng tốc, Langdon cảm thấy cô đang vạch ra 1 kế hoạch. Ngay phía trước, cuối đại lộ Champs-Elysees, Khải hoàn môn đứng sừng sững – đài kỉ niệm cao 50m do Naponeon dựng để tôn vinh quyền lực quân sự của chính mình được bao quanh bởi bùng binh lớn nhất nước Pháp, 1 con lộ ngoại cỡ 9 làn đường.
Khi đến gần bùng binh, Sophie lại nhìn gương chiếu hậu: - Tạm thời chúng ta đã bứt khỏi họ! Cô nói – nhưng sẽ không kéo dài thêm được 5 phút nữa đâu nếu vẫn ngồi trong chiếc xe này.
Vậy hãy ăn cắp 1 chiếc xe khác đi, Langdon suy diễn, đằng nào tay cũng đã nhúng chàm rồi mà.
- Cô định làm gì bây giờ?
Sophie cho xe chạy quanh bùng binh: - Hãy tin ở tôi.
Langdon không phản ứng gì. Đêm nay, lòng tin chẳng đưa ông đi được bao xa. Vén tay áo lên, ông nhìn đồng hồ, 1 chiếc đồng hồ đeo tay thuộc loại đồ cổ nhãn hiệu Chuột Mickey vốn là món quà bố mẹ tặng ông hôm sinh nhật lần thứ 10. Mặc dù cái mặt đồng hồ trẻ con đó lắm khi thu hút những cái nhìn kỳ lạ, nhưng Langdon chưa bao giờ đeo 1 chiếc đồng hồ nào khác. Những phim hoạt hình của Disney là bài học vỡ lòng đưa Langdon vào sự huyền diệu của hình khối và màu sắc, và Mickey giờ đây làm nhiệm vụ hằng ngày nhắc nhở Langdon phải giữ cho con tim trẻ mãi. Tuy nhiên, lúc này, đôi kim của Mickey đang xoạc ra 1 góc bất tiện, chỉ 1 giờ giấc cũng bất tiện: 2h51 phút sáng.
- Chiếc đồng hồ hay nhỉ - Sophie vừa nói vừa liếc nhìn cổ tay ông rồi lái chiếc SmartCar quanh cái bùng binh rộng mênh mông, ngược chiều kim đồng hộ.
- Đó là 1 câu chuyện dài – ông nói, rồi kéo ống tay áo xuống.
- Tôi nghĩ ắt là thế - cô thoáng cười với ông rồi ra khỏi bùng binh, hướng về phía bắc, rời xa trung tâm thành phố. Vừa kịp qua 2 đèn xanh, cô tới ngã 4 thứ 3 và rẽ phải vào đại lộ Malesherbes. Họ rời những con phố giàu có, có hàng cây 2 bên đường của khu ngoại giao để đi sâu vào 1 khu vực công nghiệp tối hơn. Sophie rẽ gấp sang trái, và 1 lúc sau, Langdon nhận ra họ đang ở đâu.
Ga Saint-Lazere.
Trước mặt họ, cái ga xe lửa mái lợp kính giống như bản sao vụng về của 1 nhà để máy bay hoặc 1 nhà kính trồng cây.
Những ga xe lửa ở châu Âu không bao giờ ngủ. Thậm chí vào giờ này, nửa tá taxi vẫn nằm gần lối đi chính. Những người bán hàng đẩy những chiếc xe bánh mỳ kẹp và nước khoáng trong khi đám thanh niên bụi bặm, ba lô trên lưng, vừa ra khỏi ga vừa dụi mắt, nhìn xung quanh như thể cố nhớ xem mình đang ở thành phố nào. Trên phố trước mặt, 2 cảnh sát thành phố đứng trên vỉa hè chỉ lối cho mấy vị khách lạc đường.
Sophie lái chiếc SmartCar vào sau dãy taxi và đậu xe trong 1 khu đỏ mặc dù còn rất nhiều chỗ đậu xe đúng luật bên kia đường. Trước khi Langdon kịp hỏi chuyện gì đang diễn ra, cô đã ra khỏi xe. Cô hối hả đến bên cửa chiếc taxi phía trước họ và bắt đầu nói với người lái xe.
Khi Langdon ra khỏi chiếc SmartCar, ông nhìn thấy Sophie trao cho người lái xe taxi 1 xấp tiền mặt. Người lái xe taxi gật đầu, rồi, trước sự ngỡ ngàng của Langdon, phóng xe đi để họ ở lại.
Chuyện gì xảy ra vậy? Langdon hỏi, đến bên Sophie trên vỉa hè trong khi chiếc xe taxi biến mất.
Sophie đã hướng về phía cửa chính của ga: - Đi nào. Ta mua 2 vé lên chuyến tàu sau ra khỏi Paris.
Langdon vội vã chạy theo cô. Cái điều khởi đầu là cuộc bổ nhào 1 dặm tới sứ quán Mỹ nay đã trở thành cuộc bỏ chạy hoàn toàn khỏi Paris. Langdon càng lúc càng không thích cái ý này.

the_warm_winter
16-07-2008, 12:51 AM
Chương 34
Người lái xe đón giám mục Aringarosa tại sân bay quốc tế Leonardo de Vinci lái đến 1 chiếc Fiat nhỏ, màu đen không lấy gì làm oách lắm. Aringarosa nhớ lại cái thời mà tất cả phương tiện đi lại của Vatican đều là những chiếc ô tô lớn, sang trọng, trưng lên nào huy hiệu, nào là cờ có in con dầu của Toà Thánh Vatican. Những ngày ấy đã qua rồi. Xe của Vatican bây giờ ít phô trương hơn và hầu như không bao giờ mang dấu đặc trưng gì.
Vatican nói rằng đó là cách cắt giảm chi phí để phục vụ tốt hơn cho giáo phận của họ, nhưng Aringarosa ngờ rằng điều đó nặng về biện pháp an ninh hơn. Thế giới đã trở nên điên loạn, ở nhiều nơi của châu Âu, phô trương tình yêu Chúa Jesus Christ cũng giống như vẽ 1 mục tiêu ngắm bắn lên mui xe của mình.
Xốc lại chiếc áo thụng, Aringarosa leo lên ghế sau, an toạ chuẩn bị cho chuyến đi dài đến lâu đài Gandolfo. Nó hẳn cũng giống như chuyến đi cách đây 5 tháng của ông. Chuyến đi Rôma năm ngoái, ông thở dài. Cái đêm dài nhất trong đời mình.
Năm tháng trước đây, Vatican đã gọi điện yêu cầu Aringarosa có mặt ngay tại Roma. Họ không giải thích gì cả. Vé của ông đã được đặt ở sân bay. Toà Thánh Vatican ráng hết sức duy trì 1 màn bí mật, ngay cả với những giáo chức cao nhất.
Những cuộc triệu tập bí mật, Aringarosa đoán, có lẽ là 1 dịp chụp ảnh Giáo hoàng và các quan chức Vatican khác để quảng cáo cho thành công mới đây của Opus Dei hoàn thành Trụ sở quốc gia của bọn họ ở thành phố New York. Tờ Architecrual Digest gọi toà nhà của Opus Dei là “một ngọn hải đăng rực sáng của chính giáo Thiên Chúa được hội nhập 1 cách siêu tuyệt vào cảnh quan hiện đại”; và gần đây, dường như Vatican bị hấp dẫn bởi bất cứ thứ gì có chứa từ “hiện đại”.
Aringarosa không có chọn lựa nào ngoài việc chấp nhận lời mời, mặc dù miễn cưỡng. Không phải là người ngưỡng mộ sự điều hành của Giáo hoàng hiện tại, Aringarosa, như đa phần giới tu sĩ bảo thủ, đã rất quan ngại theo dõi vị Giáo hoàng thụ nhiệm trong năm đầu tiên của ngài. Là người tự do tư tưởng chưa từng thấy, Đức Cha đã giành được chức Giáo hoàng thông qua 1 trong những phiên họp hồng y bất thường nhất và gây tranh cãi nhất trong lịch sử toà thánh Vatican. Bây giờ, thay vì khiêm nhường vệ sự đăng quang bất ngờ của mình, Giáo hoàng đã không lãng phí thời gian vào việc phô trương uy lực gắn với cơ quan tối cao trong cộng đồng Cơ đốc giáo toàn thế giới. Lợi dụng 1 làn sóng náo động ủng hộ tự do chính trị trong trường đại học của các Hồng y giáo chủ, Đức Giáo hoàng giờ đây tuyên bố thiên chức Giáo hoàng của mình là “làm trẻ lại học thuyết của toà thánh Vatican và cập nhật Kitô giáo và thiên niên kỷ thứ 3”.
Aringarosa lo sợ rằng sự chuyển đổi là ở chỗ con người này thực sự kiêu kì đến mức nghĩ rằng mình có thể viết lại những giới luật của Chúa và giành lại trái tim của những người cảm thấy yêu cầu của Kitô giáo đã trở nên quá bất tiện trong 1 thế giới hiện đại.
Aringarosa đã sử dụng mọi ảnh hưởng chính trị của mình – khá lớn do quy mô của Opus Dei và ngân sách của họ để thuyết phục Giáo hoàng và các cố vấn của Ngài rằng : nới lỏng giáo luật của Giáo hội không chỉ là thiếu lòng tin, hèn nhát mà còn là tự sát chính trị. Ông còn nhắc nhở họ rằng biện pháp giảm nhẹ giới luật Giáo hội trước đây - thảm bại của Vatican II đã để lại 1 di hại nặng nề: số người đi lễ nhà thờ giảm xuống mức thấp hơn bất kỳ thời điểm nào, những nguồn quyên tặng cạn kiệt và thậm chí không có đủ linh mục để quản lý các nhà thờ.
Giáo dân cần sự sắp xếp và hướng dẫn phía nhà thờ, Aringarosa nhấn mạnh, chứ không phải sự nâng niu hay chiều chuộng!
Tối hôm đó, cách đây mấy tháng, khi chiếc Fiat rời sân bay, Aringarosa đã ngạc nhiên khi thấy xe không đi về phía Toà thánh Vatican mà về phía đông, lên 1 dốc núi ngoằn ngoèo.
- Chúng ta đang đi đâu đây? – Ông hỏi người tài xế.
- Khu đồi Alban – gã đáp – Nơi gặp là ở lâu đài Gandolfo.
Dinh mùa hè của Giáo hoàng? Aringarosa chưa bao giờ đến, hay thậm chí muốn thấy nó. Ngoài chức năng là nhà nghỉ mùa hè của Giáo hoàng, cái toà thành xây hồi thế kỉ 16 này từng là Specula Vatican – đài thiên văn của toà thánh Vatican, 1 trong những đài quan sát thiên văn hiện đại nhất châu Âu.
Aringarosa xưa nay vẫn khó chịu với cái nhu cầu từ trong lịch sử của Vatican là học đòi làm khoa học. Căn cớ gì mà phải hoà quyện khoa học với đức tin? Khoa học khách quan không thể thực hành bởi 1 người có đức tin ở Chúa. Mà đức tin cũng chẳng cần đến khoa học để xác nhận 1 cách vật thể những tín ngưỡng của nó.
Mặc dù vậy, nó vẫn ở đó, ông nghĩ khi lâu đài Gandolfo hiện ra, sừng sững trên nền trời tháng 11 đầy sao. Từ con đường vào, Glandolfo trông giống 1 con quái vật bằng đá khổng lồ đang tính làm 1 cú nhảy tự sát. Chon von ngay trên gờ 1 vách đá toà lâu đài ngả mình ra bên trên cái nôi của nền văn minh Ý cái thung lũng từng chứng kiến cuộc chiến giữa những thị tộc Orazi và Curiazi, từ rất lâu trước khi lập ra đế quốc La Mã.
Ngay cả ở dạng bóng in trên nền trời, lâu đài Gandolfo cũng là 1 cảnh tượng đáng ngắm nhìn, 1 điển hình đầy ấn tượng của kiến trúc phòng thủ nhiều tầng, phản ánh sự đắc dụng của khung cảnh bên vách đá cheo leo này. Đáng buồn thay giờ đây Aringarosa thấy rõ Vatican đã làm hỏng toà lâu đài bằng cách xây dựng 2 cái vòm nhôm to tướng chứa kính viễn vọng trên mái, khiến cho toàn kiến trúc từng 1 thời uy nghi tựa 1 chiến binh lẫm liệt này trông như đội 2 chiếc mũ chóp.
Khi Aringarosa bước ra khỏi xe, 1 tu sĩ Dòng Tên trẻ tuổi chạy ra chào ông: “Chào mừng giám mục. Tôi là cha Mangano. Một nhà thiên văn ở đây.
- Chúc cha tốt lành! Aringarosa lầm bầm chào rồi đi theo người đón tiếp mình đến phòng đợi của toà lâu đài – 1 không gian rộng mở với cách bài trí pha trộn vô duyên giữa nghệ thuật Phục hưng và những hình ảnh thiên văn học. Theo sau người hộ tống lên 1 chiếc cầu thang đá hoa cương rộng lớn, Aringarosa nhìn thấy những kí hiệu của những trung tâm hội nghị, giảng đường khoa học, và các dịch vụ thông tin du lịch. Ông lấy làm ngạc nhiên khi nghĩ rằng Vatican chẳng bao giờ đem lại được những hướng dẫn mạch lạc và nghiêm ngặt cho sự phát triển tâm linh, nhưng bằng cách nào đó vẫn kiếm ra thời gian để tổ chức những buổi thuyết trình về thiên văn học cho du khách.
- Hãy nói cho tôi biết – Aringarosa nói với vị thầy tu trẻ tuổi – khi nào thì cái đuôi bắt đầu vẫy con chó?
Vị thầy tu nhìn ông lạ lùng: - Thưa ngài?
Aringarosa phẩy tay, quyết định không tung ra lời công kích cụ thể nào nữa trong buổi tối hôm nay. Vatican điên mất rồi! Giống như 1 bậc phụ huynh lười biếng cảm thấy thà chấp nhận những trái thói của đứa con được nuông chiều còn hơn là cương quyết dạy bảo nó về những giá trị, Nhà Thờ chỉ 1 mực nới nỏng, mọi lúc mọi nơi, cố gắng thay đổi chính mình để thích nghi với 1 nền văn hoá lầm đường, lạc lối.
Hành lang của tầng trên cùng rộng rãi, sang trọng, và dẫn về 1 hướng dẫn duy nhất: 1 loạt cửa gỗ sồi lớn với tấm biển đồng:
BIBLIOTECA ASTRONOMICA (Thư viện Thiên văn học)
Aringarosa đã được nghe nói nơi này thư viện thiên văn của Toà thánh Vatican người ta đồn rằng nó chứa tới hơn 25.000 tài liệu gồm cả những công trình quý hiếm của Copernicus, Galileo, Kepler, Newton và Sechi. Người ta cho rằng đây cũng là nơi các quan chức cao cấp nhất của Giáo hoàng sắp xếp những cuộc gặp riêng tư… những cuộc gặp mà họ không muốn diễn ra trong khuôn viên Toà thánh Vatican.
Hẳn lúc đến gần cửa, giám mục Aringarosa không sao tưởng tượng nổi cái tin choáng người ông sắp nhận được bên trong căn phòng ấy, hoặc chuỗi sự kiện chết chóc nó sẽ khởi động.
Phải 1 giờ sau, khi loạng choạng bước ra sau cuộc gặp gỡ, ông mới thấm những ngụ ý ghê gớm. Sáu tháng tính từ bây giờ! Ông đã nghĩ. Chúa giúp đỡ chúng con!
Giờ đây, ngồi trong chiếc Fiat, giám mục Aringarosa nhận ra là mình đã nắm chặt tay lại từ lúc nghĩ đến cuộc gặp gỡ đầu tiên đó ông thả lỏng bàn tay, cố gắng hít sâu, thư giãn cơ bắp.
Mọi thứ rồi sẽ êm đẹp, ông tự nhủ khi chiếc Fiat đi sâu hơn vào trong núi. Tuy nhiên ông vẫn mong điện thoại di động đổ chuông. Tại sao Thầy Giáo chưa gọi cho mình nhỉ? Lúc này chắc hẳn ở Paris, Sillas đã có được viên đá đỉnh vòm.
Cố gắng thư giãn thần kinh, giám mục suy ngẫm về viên thạch anh tím trên chiếc nhẫn của mình. Sờ thớ dệt của miếng vải trang trí bọc đầu gậy giám mục và các mặt của những viên kim cương, ông tự nhắc mình rằng, chiếc nhẫn này là biểu tượng của quyền lực nhưng còn kém xa thứ quyền lực mà chẳng bảo lâu ông sẽ đạt tới.

Chương 35
Bên trong nhà ga Saint-Laraze cũng giống như mọi nhà ga khác ở châu Âu: 1 khoảng rộng hoác, lác đác những kẻ đáng ngờ thường gặp: những người vô gia cư cầm những tấm biển các tông, những sinh viên mắt lờ đờ gối trên ba lô ngủ hoặc đang phê theo tiếng nhạc từ những chiếc cát sét xách tay MP3 và những đám khu khuân vác mặc áo xanh phì phèo thuốc lá.
Sophie nhìn bảng giờ tàu to tướng trên đầu. Những dòng chữ trằng đen chạy qua chạy lại, đảo xuống khi thông tin thay mới.
Khi quá trình cập nhật kết thúc, Langdon nhìn lên chuỗi thông báo. Hàng đầu tiên là:
LILLE RAPIDE – 3 giờ 06
- Tôi ước gì nó khởi hành sớm hơn! – Sophie nói. – Nhưng bây giờ chúng ta buộc phải chấp nhận bất cứ cái gì.
Sớm hơn. Langdon nhìn đồng hồ - 2h59 sáng. Chuyến tàu sẽ rời đi sau 7 phút nữa mà bây giờ họ còn chưa có vé?
Sophie đưa Langdon về phía cửa bán vé và nói: - Hãy mua vé bằng thẻ tín dụng của ông
- Tôi nghĩ thẻ tín dụng có thể bị truy ra bởi…
- Chính xác
Langdon quyết định thôi không cố gắng đoán trước ý định của Sophie Neveu. Sử dụng thẻ visa của mình, ông mua 2 vé đi Lille rồi đưa cho Sophie.
Sophie dẫn ông đi về phía đường tàu khi 1 âm thanh quen thuộc vang lên trên đầu họ và hệ thống phóng thanh thông báo lần cuối nhắc khách hàng đi Lille lên tàu. 16 đường tàu riêng rẽ trải ra trước mắt họ. Cách 1 quãng phía bên phải, trên ke số 3, chuyến đi Lille đang phì phò chuẩn bị xuất phát nhưng Sophie lại khoác tay Langdon kéo đi về hướng ngược lại. Họ hối hả theo 1 hành lang nhỏ, vượt qua 1 tiệm cà phê mở thâu đêm, rồi cuối cùng qua 1 cửa ngách ra 1 khu phố vắng lặng phía tây nhà ga.
Có độc 1 chiếc taxi đậu cạnh cửa ra vào. Người tài xế nhìn thấy Sophie và bật đèn xe.
Sophie nhảy vào ghế sau. Langdon vào theo.
Khi chiếc taxi rời khỏi ga, Sophie lấy những chiếc vé tàu mới mua ra, xé nát.
Langdon thở dài. 70 đô la tiêu được việc đấy.
Phải đến lúc chiếc taxi vút đi về phía trên phố De Gichy trong tiếng động cơ ro ro, Langdon mới cảm thấy họ thực sự thoát hiểm. Ngoài cửa phía tay phải ông có thể nhìn thấy đồi Montmartre và mái vòm mỹ lệ của nhà thờ Sacre-Coeur. Hình ảnh ấy bị đứt quãng bởi ánh đèn xe cảnh sát vượt qua họ từ hướng ngược lại.
Langdon và Sophie cùng thụt đầu xuống cho đến khi tiếng còi nhỏ dần.
Sophie mới chỉ dặn người tài xế taxi hướng ra ngoài thành phố thôi và bằng cái quai hàm nghiến chặt của cô, Langdon cảm thấy cô đang cố hình dung ra bước tiếp theo.
Langdon xem xét lại chiếc chìa khoá hình thánh giá, giơ ra phía cửa xe, đưa lên gần mắt để cố gắng tìm bất kỳ một dấu hiệu nào khả dĩ chỉ ra nơi chế tạo. Trong ánh sáng cách quãng của đèn đường, ông chẳng thấy gì ngoài con dấu của Tu viện Sion.
- Thật phi lý - cuối cùng ông nói
- Cái gì phi lý?
- Việc ông cô mất bao công phu nhằm để lại cho cô 1 chiếc chìa khoá mà cô sẽ không biết làm gì với nó.
- Tôi đồng ý
- Cô chắc chắn ông ấy không viết bất kỳ thứ gì nữa đằng sau bức tranh chứ?
- Tôi đã lục soát toàn bộ chỗ đó rồi. Chỉ có chừng ấy thôi. Chiếc chìa khoá được nhét vào phía sau bức tranh. Tôi nhìn thấy con dấu của Tu viện Sion, đút chiếc chìa khoá vào túi rồi chúng ta rời khỏi đó.
Langdon cau mày, nhìn kỹ phần cuối hơi bẹt của hình lăng trụ tam giác. Chẳng có gì cả. Nheo mắt ông đưa chiếc chìa khoá lại gần và xem xét gờ của đầu chìa. Ở đó cũng chẳng có gì cả. Tôi nghĩ chiếc chìa khoá này vừa mới được lau chùi gần đây.
- Tại sao?
- Có gì như mùi cồn chà sát.
Cô quay sang: Tôi chưa hiểu.
- Nó có mùi như là ai đó đã chà sạch nó bằng thuốc tẩy – Langdon đưa chiếc chìa khá lên mũi và ngửi. Mùi ở phần bên kia mạnh hơn – ông bỏ xuống – đúng vậy, thuốc tẩy làm từ cồn, giống như được chà bóng bằng 1 loại thuốc tẩy hoặc …”
Langdon ngừng lại.
- Cái gì cơ?
Ông giơ nghiêng chiếc chìa khóa ra ánh sáng rồi nhìn vào mặt nhẵn trên thanh ngang của chữ thập. Nó dường như lấp lánh ở vài chỗ … như thể bị ướt. – Cô có nhìn phía sau chiếc chìa khoá kỹ không trước khi cô bỏ nó vào túi?
Cái gì cơ? Không kỹ lắm. Tôi đang vội mà.
Langdon quay sang cô: - Cô vẫn mang chiếc đèn tia cực tím theo chứ?
Sophie thò tay vào túi và lấy ra cây bút chiếu tia cực tím. Langdon cầm lấy, bật lên, chiếu tia sáng vào mặt sau chiếc chìa khoá.
Chiếc chìa khoá phát quang ngay lập tực. Ở đó có chữ viết.
Cách viết vội những đọc được.
- Ồ - Langdon nói, mỉm cười. – Tôi đoán chúng ta biết cái mùi cồn là gì rồi.
Sophie ngạc nhiên nhìn chậm chậm vào dòng chữ màu tím trên lưng chiếc chìa khoá.
24 phố Haxo
Một địa chỉ! Ông mình viết ra 1 địa chỉ!
- Địa chỉ này ở đâu? – Langdon hỏi.
Sophie không biết. Quay lại cúi về phía trước cô phấn khích hỏi người tài xế: “Connassez-vous la rue Haxo?”
Người tài xế nghĩ 1 lúc rồi gật đầu. Ông bảo Sophie là nó ở gần 1 sân tennis vùng ngoại ô phía tây của Paris. Cô bảo ông đưa họ đến đó ngay lập tức.
- Đường nhanh nhất là đi qua rừng Boulogne – người tài xế nói với cô bằng tiếng Pháp. – Được chứ?
Sophie cau mày. Cô có thể nghĩ ra được con đường nào đỡ rắc rối hơn, nhưng tối nay cô không muốn tỏ ra khó tính. – Được rồi – chúng ta có thể làm vị khách người Mỹ này ngạc nhiên.
Sophie nhìn lại chiếc chìa khoá và tự hỏi họ có thể tìm thấy gì ở 24 phố Haxo. Một nhà thờ? Một thứ tổng hành dinh của Tu viện Sion?
Đầu cô lại tràn đầy hình ảnh về nghi lễ bí mật mà cô đã từng chứng kiến trong tầng hầm cách đây 10 năm, rồi cô thở dài:
- Robert, tôi có rất nhiều chuyện để kể cho ông nghe – cô ngừng lại nhìn ông chăm chăm khi chiếc taxi phóng về phía tây. Nhưng trước hết, tôi muốn ông cho tôi hay mọi điều ông biết về Tu viện Sion.

the_warm_winter
17-07-2008, 01:24 AM
Chương 36
Bên ngoài Salle des Etats, Bezu Fache đang nổi trận lôi đình khi nhân viên bảo vệ bảo tàng Louvre Grouard phân trần việc Sophie và Langdon đã tước vũ khí của anh ta như thế nào. Tại sao cậu không bắn vào bức tranh chết tiệt ấy?
- Đại uý – trung uý Collet phóng thẳng đến chỗ họ từ đồn chỉ huy. – Thưa đại uý, tôi vừa nghe tin. Họ đã định vị được chiếc xe của nhân viên Neveu.
- Cô ta đến đại sứ quán?
- Không ạ. Ga xe lửa. Mua 2 vé. Tàu vừa khởi hành.
Fache vẫy tay ra hiệu cho nhân viên bảo vệ Grouard lui ra và dẫn Collet tới 1 góc tường gần đó, thầm thì: - Tàu đi đâu?
- Lille.
Rất có thể đó chỉ là 1 cái bẫy – Fache thở hắt ra, vạch 1 kế hoạch. – Được rồi, trong trường hợp này, hãy canh phòng ở ga tiếp theo, hãy ngăn đoàn tàu lại và lục soát, chỉ là đề phòng thôi. Hãy để xe của cô ta nguyên chỗ cũ và cử các nhân viên mặc thường phục giám sát nó phòng trường hợp bọn họ cố gắng lấy lại chiếc xe đó. Hãy cử 1 số nhân viên đi rà soát khu phố xung quanh nhà ga phòng trường hợp bọn họ chạy trốn bằng đường bộ. Xe bus vẫn chạy từ ga đấy chứ?
- Giờ này thì không có, thưa đại uý. Chỉ có taxi thôi.
- Tốt. Hãy đi dò la những người lái taxi. Xem họ có nhìn thấy gì không. Rồi liên hệ với các công ty taxi, kèm theo thông tin miêu tả. Tôi sẽ gọi Interpol.
Collet có vẻ ngạc nhiên - đại uý định đưa chuyện này lên mạng đấy ạ?
Fache biết có thể xảy ra rắc rối đáng tiếc, nhưng ông ta không còn lựa chọn nào khác.
Xiết chặt vòng vây thật nhanh và thật chặt.
Giờ đầu tiên có tầm quan trọng quyết định. Hành xử của những kẻ đào tẩu trong giờ đầu tiên sau khi trốn thoát là điều có thể đoán trước được. Bao giờ chúng cũng cần 1 thứ giống nhau: phương tiện đi lại – chỗ tạm trú - tiền mặt. Đức Chúa Ba Ngôi. Interpol có đủ quyền năng để làm cho cả 3 ngôi đó biến mất trong nháy mắt. Bằng cách gửi những bản fax ảnh của Langdon và Sophie tới ban điều hành giao thông, các khách sạn, nhà băng ở Paris, Interpol sẽ không bỏ sót 1 hướng lựa chọn nào – không có cách nào rời khỏi thành phố - không có nơi nào để ẩn náu và không có nơi nào để rút tiền mà không bị nhận diện. Bọn đào tẩu thường hoảng sợ trên đường phố, sẽ đi đến chỗ làm điều ngu ngốc: ăn trộm ôtô. Cướp cửa hàng. Sử dụng thẻ tín dụng 1 cách tuyệt vọng. Bất kỳ 1 sơ xuất nhỏ nào mà bọn chúng phạm phải cũng sẽ nhanh chóng giúp nhà cầm quyền địa phương tìm ra nơi chúng lẩn trốn.
- Chỉ nhằm Langdon thôi, phải không ạ? – Collet nói. Đại uý sẽ không bắt Sophie Neveu chứ? Cô ta là nhân viên của chúng ta mà.
- Tất nhiên là tôi sẽ bắt cả cô ta! Fache gắt. Bắt Langdon còn có ích gì nếu như cô ta có thể làm mọi công việc bẩn thỉu hộ hắn ta? Tôi định rà soát hồ sơ làm việc của Neveu - bạn bè, gia đình, các mỗi quan hệ cá nhân, bất cứ ai mà cô ta có thể đến nhờ vả giúp đỡ. Tôi không biết cô ta nghĩ gì khi cô ta làm điều đó nhưng nó sẽ làm cho cô ta mất nhiều thứ, không chỉ riêng công ăn việc làm thôi đâu!
- Đại uý muốn tôi điều hành qua điện thoại hay trực tiếp đến hiện trường?
- Trực tiếp. Hãy tới ga xe lửa và điều phối hoạt động của cả đội. Cậu nắm quyền chỉ huy nhưng chớ làm điều gì mà không nói cho tôi biết.
- Rõ, thưa đại uý? Collet chạy ra ngoài.
Fache cảm thấy cứng ngắc khi đứng trong hốc tường. Bên ngoài cửa sổ, kim tự tháp thuỷ tinh lấp lánh, phản chiếu lăn tăn trên mặt nước. Bọn chúng đã lọt qua kẽ ngón tay mình. Ông ta tự nhủ.
Ngay cả 1 cảnh sát dã chiến được huấn luyện tử tế ắt cũng tự coi là may mắn nếu chịu đựng nổi áp lực mà Interpol sắp thực thi.
Một nữ nhân viên mật mã và 1 thầy giáo?
Họ sẽ không cầm cự được đến lúc bình minh.

the_warm_winter
17-07-2008, 01:36 AM
Chương 37
Khu công viên rậm rạp cây cối mang tên rừng Boulogne còn có nhiều mệnh danh khác, nhưng người Paris sành điệu thường gọi nó là Vườn lạc thú trần thế. Cụm từ định tính đó, mặc dù nghe có vẻ mĩ miều, nhưng thực ra hoàn toàn ngược lại.
Bất cứ ai đã từng thấy bức tranh ghê rợn cùng tên của Bosch đều hiểu hàm ý châm biếm; bức tranh, cũng như khu rừng, tăm tối và xoắn xuýt, 1 thứ ngục luyện tội cho những kẻ dị tật tình dục và kẻ kích dục. Tối tối, trên những lối ngoằn ngoèo của khu rừng, hàng trăm thân thể bóng loáng xếp hàng để bán dâm, những lạc thú trần thế nhằm thoả mãn những khao khát sâu kín nhất không nói ra của người đời – nam, nữ và cả lưỡng tính nữa.
Trong khi Langdon tập trung tư tưởng để nói cho Sophie về Tu viện Sion, thì chiếc taxi của họ qua khung cổng gỗ dẫn vào công viên và bắt đầu tiến về hướng tây trên con đường rải sỏi.
Langdon cảm thấy khó tập trung khi đám dân cư ban đêm của công viên đã lác đác xuất hiện từ bóng tối và phô bày “hàng” trong ánh đèn pha. Phía trước họ, 2 thiếu nữ mặc áo hở ngực phóng những tia nhìn mời chào vào trong chiếc taxi. Cách đó 1 quãng, 1 gã da đen mình bôi dầu bóng nhãy với độc 1 mảnh vải che chỗ kín, quay người và uốn éo mông. Bên cạnh họ, 1 phụ nữ tóc vàng loè loẹt kéo cao chiếc váy mini lên để tiết lộ rằng kì thực ả không phải là 1 phụ nữ.
Chúa cứu con! Langdon quay mặt vào trong ôtô rồi hít 1 hơi thật sâu.
- Hãy nói cho tôi về Tu viện Sion đi – Sophie nói.
Langdon gật đầu không thể tưởng tượng được 1 khung cảnh kém thích hợp đến thế cho truyền thuyết mà ông sắp kể.
Ông băn khoăn không biết bắt đầu từ đâu. Lịch sử của hội kín này bắc qua hơn 1 thiên niên kỷ … 1 biên niên kì lạ về những bí mật, tống tiền, phản bội và thậm chí là cả tra tấn tàn bạo dưới bàn tay của 1 vị giáo hoàng nổi giận.
- Tu viện Sion – ông bắt đầu – được 1 vị vua người Pháp có tên là Godefroi de Bouillon thành lập ở Jerusalem năm 1099, ngay sau khi ông ta chinh phục được thành phố này.
Sophie gật đầu, mắt dán vào ông.
- Đức vua Godefroi là người sở hữu 1 bí mật đầy quyền năng đã có trong gia đình ông từ Công nguyên. Sợ rằng bí mật sẽ mất đi khi ông băng hà, ông đã lập ra 1 hội kín lấy tên là Tu viện Sion và giao cho họ nhiệm vụ bảo vệ bí mật này bằng cách lặng lẽ truyền nó từ đời này sang đời khác.
Trong những năm ở Jerusalem, Tu viện Sion đã biết 1 chỗ cất giấu những tài liệu được chôn dưới đống đổ nát của ngôi đền Herod; bản thân ngôi đền này lại được xây dựng trên hoang tàn của ngôi đền thờ Solomon trước đó. Những tài liệu này - họ tin vậy khẳng định cái bí mật đầy quyền năng của Godefroi và, về bản chất, nhạy cảm đến nỗi Nhà Thờ sẽ không từ thủ đoạn nào để giành được chúng.
Sophie có vẻ nghi ngờ.
Tu viện Sion thề rằng dù có mất bao lâu đi nữa cũng phải thu hồi những tài liệu này từ đống gạch vụn bên dưới ngôi đền thờ đó và mãi mãi bảo vệ chúng, để cho sự thật sẽ trường tồn. Nhằm thu hồi lại chỗ tài liệu từ trong đống đổ nát ấy, Tu viện Sion đã lập ra 1 binh chủng 1 đội gồm 9 hiệp sĩ có tên gọi là Dòng các hiệp sĩ nghèo của Chúa Jesus và ngôi đền Solomon. – Langdon dừng lại. - Họ thường được biết đến nhiều hơn với tên gọi Các Hiệp Sĩ Templar.
Sophie ngước lên với cái vẻ ngạc nhiên nhận ra 1 điều quen thuộc.
Langdon thường xuyên giảng bài về hiệp sĩ Teplar đến độ đủ để biết rằng hầu như mọi người trên trái đất đều đã nghe nói về họ, chí ít là 1 cách trừu tượng. Đối với các học giả, lịch sử các hiệp sĩ Templar là 1 lĩnh vực bất trắc, ở đó thực tế, truyền thuyết và thông tin sai lạc xoắn xuýt với nhau đến độ rút ra được sự thật nguyên khôi là bất khả. Ngày nay thậm chí Langdon cũng ngần ngại không muốn đề cập đến các hiệp sĩ Templar trong khi giảng bài vì điều đó bao giờ cũng dẫn đến hàng loạt câu hỏi phức tạp liên quan đến những lý thuyết về đủ loại âm mưu.
Sophie có vẻ hoang mang: anh nói nhóm các hiệp sĩ Teplar được Tu viện Sion lập ra để thu hồi 1 tập tài liệu bí mật? Tôi cứ tưởng họ được tạo ra để bảo vệ Đất Thánh.
- Một quan niệm sai lầm thường thấy. Ý tưởng về sự bảo vệ những người hành hương chỉ là chiêu bài mà các hiệp sĩ Templar trương ra để thực hiện sứ mệnh của mình. Mục đích thật sự của họ ở Đất Thánh là thu hồi mớ tài liệu từ dưới đống đổ nát của ngôi đền.
- Và họ có tìm thấy không?
Langdon mỉm cười: - Không ai biết chắc chắn nhưng có 1 điều mà tất cả các học giả đều nhất trí là: các hiệp sĩ Templar đã khám phá ra điều gì đó ở bên dưới đống gạch vụn … 1 điều khiến họ trở nên giàu có và đầy quyền lực ngoài sức tưởng tượng ngông cuồng nhất của bất cứ ai.
Langdon kể lướt cho Sophie nghe lịch sử Các hiệp sĩ Templar, một phác hoạ kinh viện được chấp nhận là tiêu chuẩn giải thích các hiệp sĩ đó đã ở Đất Thánh trong suốt cuộc thập tự chinh thứ 2 và đã nói với vua Baldwin II rằng họ ở đó để bảo vệ những tín đồ đạo cơ đốc trên đường hành hương. Mặc dù không được trả công và chịu phần nghèo khổ, các hiệp sĩ đã nói với nhà vua là họ cần có 1 nơi trú chân và xin nhà vua cho phép họ ở trong các chuồng ngựa dưới đống đổ nát của đền thờ. Vua Baldwin II chấp thuận yêu cầu của những chiến binh ấy và các hiệp sĩ tiếp quản nơi cư trú tồi tàn bên trong miếu thờ tan hoang.
- Sự lựa chọn kỳ cục nơi cư trú đó, Langdon giải thích, hoàn toàn không phải là được chẳng hay chớ. Các hiệp sĩ tin rằng những tài liệu mà Tu viện Sion tìm kiếm được chôn sâu dưới đống đổ nát – bên dưới Tối Linh Điện, 1 căn phòng thiêng liêng mà người ta tin rằng đích thị là trung tâm của tín ngưỡng Do Thái. Trong gần 1 thập kỉ sống trong đống hoang tàn đó, 9 hiệp sĩ đã đào xuyên qua lớp đá cứng trong bí mật tuyệt đối.
Sophie nhìn dõi: Và anh cho rằng họ đã tìm thấy gì đó?
- Tất nhiên rồi – Langdon giải thích – mất 9 năm nhưng cuối cùng các hiệp sĩ cũng thấy cái mà họ tìm kiếm. Họ mang kho báu đó ra khỏi đền thờ về châu Âu, nơi mà ảnh hưởng của họ dường như trở nên vững chắc chỉ qua 1 đêm.
Không ai biết chắc các hiệp sĩ có tống tiền Vatican hay không, hay đơn giản là Nhà Thờ đã tìm cách mua sự im lặng của họ, nhưng thực tế là Giáo hoàng Innocent II ngay lập tức đã ra 1 sắc lệnh chưa từng có ở 1 thời Giáo hoàng nào trước đó là chấp nhận quyền lực vô hạn độ của các hiệp sĩ Templar và tuyên bố họ “là luật với chính họ”, 1 đội quân độc lập không phụ thuộc vào bất cứ sự can thiệp nào từ đức vua đến giáo chủ, cả tôn giáo lẫn chính trị.
Với toàn quyền hành động mới được Vatican trao cho, tổ chức hiệp sĩ Templar đã phát triển đến độ chóng mặt cả về số lượng lẫn sức mạnh chính trị, vơ vét những khu đất rộng lớn ở hơn chục quốc gia. Họ bắt đầu cho đám hoàng thân quốc thích bị vỡ nợ vay tiền và lấy lãi, bằng cách đó, họ lập nên những nhà băng hiện đại và làm tăng thêm của cải cũng như ảnh hưởng của họ.
Vào thế kỷ 14, sự công nhận của Vatican đã giúp các hiệp sĩ Templar nắm được quyền lực lớn đến nỗi Giáo hoàng Clement V quyết định phải làm 1 cái gì. Cùng bàn thảo với đức vua Pháp Philippe IV, Đức Giáo hoàng đã hoạch định 1 chiến dịch tài tình để thủ tiêu các hiệp sĩ Templar và tịch thu của cải của họ, và cuối cùng là kiểm soát những bí mật đã chi phối toà thánh Vatican. Trong 1 cuộc điều binh khiển tướng không thua gì CIA, Giáo hoàng Clement đã gửi mật lệnh có dấu niêm phong để các chiến binh của ngài trên khắp châu Âu mở cùng 1 lúc vào ngày thứ 6, 13 tháng 10 năm 1307.
Rạng đông ngày 13, niêm phong được mở và nội dung kinh hoàng của sắc thư được tiết lộ. Sắc thư của Giáo hoàng Clement nói rằng Chúa đã hiện hình báo mộng cho ngài biết rằng đám hiệp sĩ Templar là những kẻ dị giáo phạm các tội trọng: thờ phụng quỷ dữ, đồng tính luyến ái làm ô uế thánh giá, kê dâm, và nhiều hành vi báng bổ khác. Giáo hoàng Clement đã được Chúa yêu cầu thanh thông trái đất bằng cách quây bắt tất cả bọn Hiệp sĩ Templar và tra tấn chúng cho đến khi chúng thú nhận những tội chống lại Chúa của chúng. Chiến dịch xảo quyệt của Clement đã diễn ra với sự chính xác của đồng hồ. Vào ngày hôm đó, không thể đếm xuể những hiệp sĩ Templar bị bắt giam tra tấn 1 cách tàn nhẫn và cuối cùng bị thiêu trên cọc gỗ như những kẻ dị giáo. Tấn thảm kịch này còn để lại dư âm trong văn hoá hiện đại; cho tới nay, thứ 6 ngày 13 vẫn bị coi là ngày không may mắn.
Sophie có vẻ bối rối” - Tổ chức hiệp sĩ Templar đã bị xoá sạch rồi sao? Tôi tưởng các hội ái hữu Templar đến nay vẫn tồn tại?
- Họ quả vẫn còn tồn tại dưới những cái tên khác nhau. Bất chấp những lời kết tội nguỵ tạo và những nỗ lực lớn nhất để xoá sổ của Clement, các hiệp sĩ có những liên minh hùng mạnh và 1 số người đã thoát khỏi những cuộc thanh trừng của Vatican. Tập tài liệu, kho báu đầy quyền lực của các hiệp sĩ Templar nguồn gốc quyền lực của họ, chính là mục tiêu thật sự của Clement, nhưng nó đã lọt qua kẽ tay ông ta. Tập tài liệu từ lâu đã được giao phó cho những người trong bóng tối kiến tạo nên các hiệp sĩ Templar – tu viện Sion, những người mà tấm màn bí mật đã che chắn họ an toàn ngoài vòng tấn công ác liệt của Vatican. Khi Vatican khép chặt vòng vây, Tu viện Sion lén lút chuyển những tài liệu đó từ 1 nơi truyền đạo ở Paris vào ban đêm lên những con tàu của tổ chức Templar đậu ở cảng La Rochelle.
- Những tài liệu đó đã đi đâu?
Langdon nhún vai: Câu trả lời cho bí mật đó chỉ có Tu viện Sion biết thôi. Bởi vì tài liệu đó, thậm chí đến ngày nay, vẫn còn là nguồn gốc của những cuộc điều tra, những suy biện không dứt, người ta tin rằng chúng đã được chuyển chỗ cất giấu nhiều lần rồi. Người ta phỏng đoán chỗ cất giấu những tài liệu đó hiện nay là đâu đó trong Vương quốc Anh.
Sophie có vẻ bứt rứt.
- Trong một ngàn năm – Langdon tiếp tục – những truyền thuyết về bí mật này đã được lan truyền. Toàn bộ tập tài liệu, quyền năng của nó và những bí mật nó thể hiện đã trở nên nổi tiếng bởi 1 tên gọi duy nhất Sangreal. Hàng trăm cuốn sách đã viết về nó, ít bí mật nào gây ra được nhiều hứng thú trong giới sử học như Sangreal.
- Sangreal à? Từ đó có liên quan gì với từ Pháp sang hay từ tiếng Tây Ban Nha sangre nghĩa là máu không?
Langdon gật đầu. Máu là xương sống của Sangreal, nhưng không phải theo cách mà Sophie tưởng tượng. - Truyền thuyết này thật là phức tạp, nhưng điều quan trọng cần nhớ là Tu viện Sion nắm giữ những bằng cớ và đang chờ đợi thời khắc thích hợp của lịch sử để tiết lộ sự thật.
- Sự thật nào? Bí mật gì có thể quyền năng đến thế?
Langdon hít 1 hơi thật sâu và nhìn ra đám người lén lút của Paris đang mồi chài bán dâm trong bóng tối. – Sophie, Sangreal là 1 từ cổ. Nó đã triển hoá trong nhiều năm thành 1 khái niệm khác… 1 cái tên hiện đại hơn. – Ông dừng lại. – Khi tôi nói với cô cái tên hiện đại của nó, cô sẽ nhận ra cô biết nhiều về nó. Thực tế, hầu hết mọi người trên trái đất đều đã từng nghe câu chuyện về Sangreal.
Sophie có vẻ nghi ngờ: Tôi chưa bao giờ nghe về nó cả.
- Chắc chắn là cô đã nghe – Langdon mỉm cười. – Cô chỉ quen nghe thấy nó được gọi bằng cái tên “Chén Thánh”.

the_warm_winter
17-07-2008, 01:46 AM
Chương 38
Sophie nhìn chòng chọc vào Langdon đang ngồi ở ghế sau chiếc taxi. Anh ta đang đùa. – Chén Thánh?
Langdon gật đầu, trông ông rất nghieme túc: - Chén Thánh là nghiẽa đen của Sangreal. Cụm từ đó bắt nguồn từ tiếng Pháp Sangraal, đã biến đổi thành Sangreal, và cuối cùng được chia thành 2 từ San Greal.
Chén Thánh. Sophie lấy làm ngạc nhiên là cô không phát hiện ra được ngay lập tức mối liên hệ ngôn ngữ đó. Ngay cả như vậy lời khẳng định của Langdon vẫn chẳng có ý nghĩa gì với cô.
- Tôi nghĩ Chén Thánh là 1 chiếc chén thôi. Ông vừa nói với tôi là Sangreal là 1 tập tài liệu chứa đựng 1 số bí mật đen tối mà.
- Đúng thế, nhưng tập tài liệu Sangreal chỉ là 1 nửa của kho báu Chén Thánh thôi. Chúng được chôn cùng với Chén Thánh… và tiết lộ ý nghĩa thực sự của nó. Những tài liệu đó mang lại cho các hiệp sĩ Templar rất nhiều quyền lực bởi vì những trang đó tiết lộ bản chất thật sự của Chén Thánh.
- Bản chất thực sự của Chén Thánh? Thậm chí bây giờ, Sophie còn cảm thấy mông lung hơn. Chén Thánh, xưa nay cô vẫn nghĩ, là chiếc ly mà Chúa Jesus đã dùng để uống trong và sau đó với nó, Joseph vùng Arimathea đã hứng những giọt máu của Người khi Người bị đóng đinh câu rút.
- Chén Thánh là chiếc ly của Chúa Jesus Christ – cô nói. Nó có thể đơn giản hơn bao nhiêu nữa.
- Sophie – Langdon thì thầm nghiêng về phía cô. – Theo Tu viện Sion, Chén Thánh hoàn toàn không phải là 1 chiếc ly. Họ khẳng định truyền thuyết Chén Thánh - truyền thuyết về 1 chiếc ly thực sự là 1 truyện ngụ ngôn khéo bày đặt. Câu chuyện Chén Thánh đó sử dụng chiếc ly đó như 1 phép ẩn dụ cho 1 cái gì đó khác, đó là 1 thứ gì đó quyền năng hơn rất nhiều. – Ông dừng lại. Một thứ gì đó ăn khớp hoàn toàn với mọi điều mà ông cô đã cố nói với chúng ta đêm nay, kể cả mọi quy chiếu biểu tượng đến tính nữ thiêng liêng.
Vẫn không chắc chắn nhưng Sophie cảm thấy trong nụ cười kiên nhẫn của Langdon rằng ông cảm thông với sự bối rối và đôi mắt ông thể hiện những cảm xúc thật chân thành.
- Nhưng nếu Chén Thánh không phải là 1 chiếc chén – cô hỏi – thì nó là cái gì?
Langdon biết trước câu hỏi này sẽ đến nhưng vẫn cảm thấy không biết trả lời cô thể nào cho chính xác. Nếu ông không trình bày trong bối cảnh lịch sử đúng đắn, Sophie sẽ ngẩn mặt ra hoang mang y xì cái vẻ mà Langdon đã nhìn thấy trên gương mặt người biên tập của mình chỉ vài tháng trước đây khi Langdon đưa cho ông này 1 dự thảo của công trình ông đang soạn.
- Bản thảo này khẳng định cái gì? – người biên tập của ông mắc nghẹn, đặt ly rượu xuống, nhìn Langdon trừng trừng qua bên trên bữa trưa mới ăn được 1 nửa của mình. Đây không thể là chuyện nghiêm túc.
- Đủ nghiêm túc để dành hẳn 1 năm trời nghiên cứu về nó đấy!
Nhà biên tập nổi tiếng của New York Jonas Faukman bứt rứt giật chòm râu dê của mình. Trong sự nghiệp lững lẫy của mình, Faukman chắc chắn đã nghe 1 số ý tưởng điên rồ về sách nhưng ý tưởng này có vẻ làm cho ông bàng hoàng.
- Robert - cuối cùng Faukman nói - đừng hiểu sai tôi. Tôi thích tác phẩm của anh, và chúng ta đã có 1 quá trình hợp tác tuyệt vời với nhau. Nhưng nếu tôi đồng ý xuất bản 1 ý tưởng như thế này, người ta sẽ vây chặn văn phòng của tôi hàng tháng trời. Ngoài ra, nó sẽ giết chết danh tiếng của anh. Lạy Chúa, anh là 1 nhà sử học của Harvard chứ không phải hạng ca sĩ nhạc Pop rẻ tiền tìm cách hốt bạc nhanh. Anh có thể tìm đâu ra đủ bẳng chứng đáng tin cậy để bảo vệ 1 lý thuyết như thế này?
Mỉm cười lặng lẽ, Langdon lôi từ trong túi áo khoác ra 1 mảnh giấy, đưa cho Faukman. Trang giấy liệt kê 1 thư mục với hơn 50 tựa đề sách – những cuốn được viết vởi những nhà sử học nổi tiếng, 1 số đương đại, 1 số cách đây hàng thế kỷ - nhiều quyển trong số này là sách khoa học bán chạy nhất. Tất cả những tựa sách đó đều gợi ra 1 tiền đề chung mà Langdon vừa đề xuất. Khi Faukman đọc danh sách đó trông ông giống như 1 người vừa khám phá ra rằng trái đất thực sự bằng phẳng: Tôi biết 1 vài tác giả này. Họ là … những nhà sử học đích thực!
Langdon mỉm cười – Như anh thất đấy, Jonas, đây không chỉ là lý thuyết của tôi. Nó đã tản mác đây đó từ lâu rồi. Tôi chỉ đơn giản xây dựng trên cái nền đó thôi. Chưa có cuốn sách nào khảo sát truyền thuyết về Chén Thánh từ một góc độ ký tượng học. Chứng cứ bằng tranh, tượng minh hoạ mà tôi tìm được để củng cố lý thuyết của mình là vô cùng thuết phục.
Faukman vẫn nhìn chằm chằm vào tờ danh sách: - Chúa ơi, 1 trong những cuốn sách này được viết bởi ngài Leigh Teabing – nhà sử học hoàng gia của Vương quốc Anh.
- Teabing đã giành nhiều thời gian trong cuộc đời ông để nghiên cứu Chén Thánh. Tôi đã được gặp ông ấy. Ông ấy thực sự là 1 phấn lớn nguồn cảm hứng của tôi. Ông ấy là 1 người tin vào thuyết này, Jonas ạ, cùng với tất cả những người khác trong danh sách đó.
- Anh đang nói với tôi là tất cả những nhà sử học này đều thực sự tin …” Faukman nuốt đánh ực, rõ ràng là không thốt ra được những tự đó.
Langdon lại mỉm cười: có thể nói Chén Thánh là kho báu được tìm kiếm nhiều nhất trong lịch sử loài người. Chén Thánh đẻ ra những truyền thuyết, những cuộc chiến, những cuộc tìm kiếm kéo dài cả đời người. Bảo nó chỉ đơn thuần là 1 chiếc chén thì còn có ý nghĩa gì nữa? Nếu vậy thì chắc chắn những thánh tích khác : - Mũ Gai, Thánh Giá đích thực trên đó Chúa Jesus bị đóng đinh câu rút, Titulus - phải gây ra mối quan tâm tương tự hoặc lớn hơn chứ, tuy nhiên, lại không hề như thế.
- Suốt chiều dài lịch sử, Chén Thánh là thánh tích đặc biệt nhất – Langdon mỉm cười. – Bây giờ thì ông đã biết tại sao rồi chứ?
Faukman vẫn lắc đầu: - Nhưng với tất cả những cuốn sách viết về chủ đề đó tại sao lý thuyết này vẫn không được biết đến 1 cách rộng rãi hơn?
- Những cuốn sách này không thể đấu lại với hàng bao thế kỷ lịch sử đã thiết định, nhất là khi lịch sử được xác nhận bởi cuốn sách bán chạy nhất tối hậu của mọi thời.
Faukman tròn xoe mắt: - Đừng nói với tôi là Hary Porter cũng thực sự viết về Chén Thánh đấy nhé.
- Tôi đang nói đến Kinh Thánh cơ mà!
Faukman rụt lại: Tôi biết rồi.
- Laissezle! Tiếng quát của Sophie xé không khí bên trong chiếc taxi. - Đặt nó xuống!
Langdon nhảy dựng lên khi Sophie cúi người về phía trước và hét lên với người lái xe taxi. Langdon có thể nhìn thấy người lái xe đang nắm chặt chiếc máy bộ đàm và nói vào đó.
Lúc này Sophie quay lại và thọc tay vào túi áo khoác của Langdon. Trước khi Langdon kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra, cô đã lôi khẩu súng lục ra, dí vào phía sau đầu người lái xe. Người lái xe lập tức buống máy bộ đàm và giơ tay lên.
- Sophie! Langdon như bị mắc nghẹn. – Cái quái quỷ gì…
- Arretez! Sophie ra lệnh cho người lái xe.
Run rẩy, người lái xe phục tùng, dừng xe và đưa vào chỗ đậu.
Đến lúc này thì Langdon mới nghe thấy những âm thanh sắc đanh phát ra từ bản thông báo của công ty taxi: qui s’appelle Agent Sophie Neveu… “ chiếc radio nổ lách tách, “Et un Americain, Robert Langdon…”
Cơ bắp của Langdon như cứng ngắc lại. Họ đã tìm thấy chúng ta rồi sao?
- Descendez! Sophie yêu cầu.
Người lái xe run rẩy vẫn giữ 2 tay cao quá đầu khi rời khỏi chiếc xe và lùi vài bước về phía sau.
Sophie hạ kính cửa xe bên phía cô xuống và chĩa khẩu súng ra ngoài về phía người tài xế ngơ ngác: Robert! – cô nói khẽ - cầm lấy tay lái, anh sẽ lái xe.
Langdon không muốn cãi lại 1 phụ nữ đang lăm lăm trong tay 1 khẩu súng. Ông ra khỏi xe rồi nhảy lại vào sau tay lái.
Người lái xe chửi rủa toáng lên, tay vẫn giơ lên đầu.
- Robert! – Sophie nói vọng từ ghế sau – tôi tin anh đã ngắm đủ khu rừng kỳ diệu của chúng tôi rồi phải không?
Ông gật đầu. Quá đủ là đằng khác.
- Tốt. Hãy lái xe đưa chúng ta ra khỏi đây.
Langdon nhìn xuống bảng điều khiển và ngần ngại. Chết tiệt.
Ông rờ rẫm tìm cần số và khớp li hợp. – Sophie, có lẽ cô…
- Đi thôi! Cô kêu lên.
Bên ngoài, mấy ả gái điếm đang tiến lại để xem chuyện gì đang diễn ra. Một phụ nữ đang gọi điện thoại di động. Langdon ấn khớp li hợp và xô mạnh cần số vào số 1. Ông sờ vào hộp gia tốc, kiểm tra xăng.
Langdon giật mạnh cần số. Tiếng lốp xe kêu rít lên khi chiếc taxi chồm lên phía trước, vọt lên điên dại khiến cho đám đống vôi toé ra tìm chỗ trốn. người phụ nữ đang dùng điện thoại di động vội vọt vào rừng, vừa kịp tránh bị chẹt phải.
- Doucement! Sophie nói, khi chiếc xe chao đảo trên đường. - Anh đang làm gì vậy?
- Tôi đã cố cảnh báo cô, - Langdon hét to để át tiếng răng cưa chà sát! Tôi đang lái 1 chiếc xe tự động.

the_warm_winter
21-07-2008, 03:01 AM
Chương 39
Mặc dù căn phòng khắc khổ bằng đá nâu trên phố La Bruyère đã từng chứng kiến nhiều nỗi thống khổ, nhưng Sillas vẫn không tin là có gì sánh tầy nỗi đau đang xiết chặt lấy cơ thể trắng bệch của hắn ta. Mình đã bị lừa. Tất cả đi tong rồi.
Sillas đã bị lừa. Những thành viên hội kín đó đã nói dối, thà chết chứ không tiết lộ bí mật thật sự của họ. Sillas không còn sức lực để gọi cho Thầy Giáo nữa. Sillas không chỉ giết 4 người duy nhất biết nơi cất giấu viên đá đỉnh vòm mà còn giết cả 1 nữ tu trong nhà thờ Saint-Sulpice nữa. Bà ta chống lại Chúa! Bà ta coi thường Opus Dei!
Một tội ác trong cơn bồng bột, cái chết của người phụ nữ làm cho sự việc trở nên rắc rối tệ hại. Giám mục Aringarosa đã gọi điện thoại yêu cầu cho Sillas đến thăm nhà thờ Saint-Sulpice; cha trưởng tu viện sẽ nghĩ gì khi ông phát hiện ra nữ tu đã chết.
Mặc dù Sillas đã đặt bà nằm lại trên giường, thế nhưng vết thương trên đầu bà thật là lộ liễu. Sillas đã cố gắng xếp lại những viên gạch vỡ dưới sàn nhà, nhưng sự hư hại quá rõ ràng. Họ sẽ biết là có người đã ở đó.
Sillas đã dự tính sẽ ẩn náu trong Opus Dei khi nhiệm vụ ở đây của hắn hoàn thành. Giám mục Aringarosa sẽ bảo vệ mình. Sillas không thể tưởng tượng ra cuộc sinh tốn nào đầy diễm phúc hơn 1 cuộc sống tu hành và cầu nguyện ở trong những bức tường trụ sở chính của Opus Dei ở New York. Hắn sẽ không bao giờ bước chân ra ngoài nữa. Tất cả những gì hắn cần là được ở trong thánh đường đó. Sẽ không ai nhớ mình nữa.
Rủi thay, Sillas biết, 1 người xuất sắc như giám mục Aringarosa không thể biến mất 1 cách dễ dàng thế.
Mình đã gây nguy hiểm cho giám mục. Sillas đờ đẫn nhìn xuống sàn nhà và suy tình chuyện tự kết liễu đời mình. Xét cho cùng, trước nhất, chính Aringarosa là người đã mang lại cho Sillas cuộc sống … trong căn nhà thờ của xứ đạo ở Tây Ban Nha, dạy dỗ hắn, cho hắn mục đích.
- Bạn thân mến – Aringarosa đã nói với hắn, - con sinh ra đã là 1 người bạch tạng, đừng để những kẻ khách xúc phạm con về điều đó. Con không hiểu điều đó làm cho con đặc biệt đến mức nào ư? Con không biết chính Noê cũng là 1 người bạch tạng ư?
- Noê chủ con Tàu ấy ư? – Sillas chưa bao giờ nghe thấy điều này.
Aringarosa mỉm cười: - Đúng thế, Noê chủ chon Tàu cứu các dòng giống trong cơn đại hồng thuỷ ấy. 1 người bạch tạng giống như con vậy, ông có làn da trắng như thiên thần vậy.
- Hãy suy xét điều này. Noê đã cứu tất cả sự sống trên hành tinh này. Vậy nên con cũng có sứ mệnh làm những việc lớn, Sillas ạ. Chúa Trời đã giải thoát cho con vì 1 lý do. Con có nghiệp của mình. Chúa cần sự giúp đỡ của con để hoàn tất sự nghiệp của Người.
Qua thời gian, Sillas học cách tự nhìn nhận mình dưới 1 ánh sáng mới. Mình tinh khiết trắng đẹp đẽ như 1 thiên thần.
Tuy nhiên, lúc này đây, trong căn phòng của hắn tại tu viện, chính là cái giọng thất vọng của cha hắn đang thì thầm với hắn từ quá khứ.
Tu es un désanstre. Un spectre.
Quỳ trên sàn gỗ, Sillas cầu xin sự tha lỗi. Sau đó trút bỏ áo chùng, hắn tự trừng phạt mình.

the_warm_winter
21-07-2008, 03:16 AM
Chương 40
Vật lộn với cần số, Langdon vất vả lắm mới điều khiển được chiếc xe taxi cưỡng đoạt ra xa khỏi rừng Boulogne mà chỉ bị chết máy có 2 lần. Tệ thay, sự hài hước tự nhiên của tình huống lại bị trùm lấp bởi tiếng người điều phối của hãng taxi cứ liên hồi gọi chiếc xe qua radio.
- Voiture cinq-six-trois. Ou êtes-vous? Repondez!
Khi Langdon ra đến cổng khu công viên, ông nhấn phanh, nuốt cái kiêu hãnh của kẻ mày râu mà rằng: cô nên lái thì hơn.
Trông Sophie có vẻ nhẹ nhõm hẳn khi ngồi vào sau tay lái. Trong vòng vài giây, cô đã điều khiển được chiếc xe chạy êm ru về phía Tây, dọc theo con đường Allée de Longchamp, bỏ vườn lạc thú trần thế lại đằng sau.
- Đến phố Haxo đi đường nào? Langdon hỏi, nhìn Sophie tăng tốc với hơn 100km/h.
Mắt Sophie vẫn tập trung vào mặt đường: Tay lái xe bảo nó kề với sân tennis Roland Garros. Tôi biết khu đó.
Langdon lại lôi từ túi ra chiếc chìa khoá, cảm thấy sức nặng trong lòng bàn tay. Ông cảm thấy nó là 1 vật có tầm quan trọng lớn lao. Rất có thể là chìa khoá dẫn đến tự do của ông.
Ban nãy, khi nói cho Sophie nghe về tổ chức hiệp sĩ Templar, Langdon nhận ra rằng chiếc chìa khoá này, ngoài con triện khắc nổi của Tu viện Sion còn có 1 liên quan tinh tế hơn với tu viện đó. Chữ thập bốn nhánh bằng nhau là biểu tượng của cân bằng và hài hoà nhưng cũng là biểu tượng của hiệp sĩ Templar.
Ai nấy đều đã thấy những bức tranh vẽ các hiệp sĩ Templar mặc áo trắng với hình chữ thập đỏ bốn nhánh bằng nhau. Đành rằng 4 nhánh của chữ thập Templar có hơi loe ra ở cuối nhưng chúng vẫn dài bằng nhau.
Một dấu thập vuông nhánh. Y hệt dấu thập trên chiếc chìa khoá này.
Langdon cảm thấy trí tưởng tượng của mình bắt đầu tung bay khi ông mơ đến những gì họ có thể tìm thấy: Chén Thánh.
Ông suýt phá lên cười về sự phi lý của điều mơ tưởng đó. Người ta tin rằng Chén Thánh ở đâu đó trong nước Anh, chôn trong 1 căn phòng bí mật bên dưới 1 trong những nhà thờ của hiệp sĩ Templar, nơi nó được cất giấu ít nhất là từ năm 1500.
Thời kỳ của đại danh hoạ Da Vinci.
Tu viện Sion, để giữ an toàn cho xấp tài liệu đầy quyền năng của mình, đã bắt buộc phải di chuyển chúng nhiều lần trong những thế kỷ trước đây. Các nhà sử học ngày nay đoán rằng có sáu địa điểm khác nhau cất giữ Chén Thánh từ khi nó đến châu Âu từ mảnh đất Jerusalem. Lần “hiển thị” cuối cùng của Chén Thánh là vào năm 1147, khi nhiều chứng nhân miêu tả rằng 1 ngọn lửa bùng ra và suýt nuốt chửng những tài liệu đó trước khi chúng được chuyển đến nơi an toàn trong 4 chiếc rương lớn, mỗi cái phải 6 người khiêng. Sau đó, không ai dám khoe là đã nhìn thấy Chén Thánh nữa. Tất cả những gì sót lại là thi thoảng có những lời xì xào rằng nó được cất giấu ở Anh, vùng đất của vua Arthur và các hiệp sĩ Bàn Tròn.
Bất kể nó ở đâu, thì vẫn tồn tại 2 thực tế quan trọng:
* Trong suốt cuộc đời mình Leonardo biết Chén Thánh ở đâu.
* Chỗ cất giấu đó có lẽ không thay đổi cho đến ngày nay.
Vì lý do này, những kẻ nhiệt thành với Chén Thánh vẫn nghiền ngẫm nhật ký và các tác phẩm nghệ thuật của Da Vinci với hy vọng phát hiện được 1 bằng cớ ẩn giấu giúp họ đi đến nơi hiện tại cất giấu Chén Thánh. Một số người khẳng đỉnh khung cảnh núi non trong bức tranh Madonna of the Rocks phù hợp với địa hình của hàng loạt những quả núi có hang động ở Scotland. Một số khác lại khăng khăng rằng cách sắp xếp đáng ngờ những tông đồ của Chúa Jesus trong bức tranh là 1 loại mã số. Lại có những người khác quả quyết rằng chiếu tia X qua bức Mona Lisa cho thấy ban đầu nàng được vẽ với 1 chiếc vòng ngọc bích của Isis đeo quanh cổ là 1 chi tiết mà có lẽ sau này Da Vinci đã quyết định xoá đi. Langdon chưa từng nhìn thấy bất cứ bằng chứng nào về chiếc vòng đó, ông cũng không thể tưởng tượng được làm cách nào mà nó có thể chỉ ra Chén Thánh, thế nhưng những người say mê Chén Thánh vẫn bàn luận về nó đến phát buồn nôn trên những bản tin Internet và trong những phòng chat trên mạng toàn cầu.
Ai cũng thích chuyện âm mưu.
Và những chuyện âm mưu tiếp tục đến. Gần đây nhất, tất nhiên, là sự khám phá gây chấn động rằng bức Tôn sùng ba Vua trứ danh của Da Vinci giấu 1 bí mật đen tối dưới những lớp sơn của nó. Nhà giám định nghệ thuật người Ý Mauvizio Seracini đã vén bức màn bí ẩn về sự thật gây khuấy động mà tờ thời báo New York đã đăng nổi bật trong 1 bài nhan đề Bí mật bị che phủ của Leonardo.
Seracini đã vạch ra rành rành không thể nghi ngờ rằng mặc dù phần vẽ phác thảo màu xanh xám bên dưới của bức Tôn sùng ba Vua đích thực là tác phẩm của Da Vinci nhưng bản thân bức tranh lại không phải. Sự thật là 1 hoạ sĩ vô danh nào đó đã điền thêm vào phác hoạ của Da Vinci như 1 sáng tác tập thể nhiều năm sau khi Da Vinci chết. Tuy nhiên, rắc rối hơn nữa là cái nằm bên dưới lớp sơn của kẻ mạo danh. Các bức ảnh được chụp với bức xạ hồng ngoại và tia X đã gợi mở rằng tay hoạ sĩ lừa đảo này, trong khi bổ sung vào bản phác thảo của Da Vinci, đã tạo những nét đáng nghi ngờ khác với bức phác hoạ…như thể là để biến đổi ý đồ thật sự của Da Vinci. Cho dù bản chất thực sự của bức phác thảo là gì, thì nó cũng cần được công bố. Thậm chí như vậy, những người điều hành của bảo tàng Ufizi ở Florence bị câu chuyện làm cho lúng túng đã xếp xó bức tranh này vào 1 nhà kho bên kia đường ngay lập tức. Các khách tham quan gian phòng Leonardo của bảo tàng giờ thấy ở chỗ đã từng treo Tôn sùng ba Vua 1 tấm bảng đánh lạc hướng mà chẳng hề ngỏ ý cáo lỗi.
Trong cái thế giới ngầm kì quái của những người hiện đại tìm kiếm Chén Thánh, Leonardo Da Vinci vẫn là bí ẩn lớn nhất trong cuộc tìm kiếm. Các tác phẩm nghệ thuật của ông dường như bức xúc muốn nói ra 1 bí mật, thế nhưng bất kể bí mật đó là gì thì nó vẫn bị giấu kín. Có thể ở bên dưới 1 lớp sơn, có thể được mã hoá ngay trước mắt, hoặc có thể chẳng ở đâu cả. Có thể quá nhiều manh mối trêu ngươi từ Da Vinci chẳng là gì khác ngoài 1 lời hứa suông ông để lại làm tẽn tò những kẻ hiếu kỳ và mang lại nụ cười tự mãn ra-điều-ta-đây-biết-thừa trên gương mặt nàng Mona Lisa của ông.
- Có thể nào – Sophie hỏi, kéo Langdon trở về thực tế. - Chiếc chìa khoá ông cầm là để mở cửa nơi cất giấu Chén Thánh không?
Tiếng cười của Langdon nghe gượng gạo, kể cả đối với chính ông: - Tôi thực sự không tưởng tượng được. Hơn nữa, người ta tin rằng Chén Thánh được giấu đâu đó ở Vương quốc Anh, không phải ở Pháp. – Ông kể ngắn gọn cho cô nghe về lịch sử.
- Nhưng Chén Thánh dường như là kết luận hợp lý duy nhất. Sophie khăng khăng: Chúng ta có 1 chiếc chìa khoá cực kỳ đảm bảo khắc con dấu của Tu viện Sion, đến tay chúng ta từ 1 thành viên của Tu viện Sion – 1 hội kín mà ông đã nói với tôi là những người bảo vệ Chén Thánh.
Langdon biết lời phản bác của cô là logic, nhưng bằng trực giác, ông không thể chấp nhận nó. Những lời đồn đại nói rằng Tu viện Sion đã thề 1 ngày nào đó sẽ mang Chén Thánh trở về Pháp như nơi an nghỉ cuối cùng, nhưng chắc chắn là không hề có bằng chứng lịch sử nào cho thấy rằng điều này đã thực sự xảy ra. Thậm chí nếu Tu viện Sion đã cố gắng mang được Chén Thánh về Pháp thì địa chỉ 24 phố Haxo gần sân tennis nghe không có vẻ giống như chốn dừng chân cuối cùng cao quý cho lắm.
- Sophie, tôi thực sự không hiểu chiếc chìa khoá này có liên quan gì đến Chén Thánh.
- Bởi vì Chén Thánh được cho rằng đang ở Anh hay sao?
- Không chỉ có thế. Chỗ cất giấu Chén Thánh là 1 trong những bí mật được giữ kín nhất trong lịch sử. Các thành viên của Tu viện Sion phải trải qua hàng thập kỉ để chứng tỏ mình đáng tin cậy trước khi được thăng lên những cấp cao nhất của hội và được biết Chén Thánh ở đâu. Bí mật đó được bảo vệ bởi 1 hệ thống nhằng nhịt những thông tin phân tầng phân cấp và mặc dù số lượng thành viên của Tu viện Sion rất lớn, nhưng ở bất cứ thời điểm nào cũng chỉ có 4 người biết được Chén Thánh được cất giấu ở đâu. Người đứng đầu tối cao và 3 cộng sự của ông ta. Khả năng ông của cô là 1 trong 4 người đứng đầu đó là rất nhỏ.
Ông mình là 1 trong 4 người đó. Sophie nghĩ chân nhấn ga. Có 1 hình ảnh in đậm trong kí ức cô xác nhận cương vị quan trọng của ông cô trong hội 1 cách chắc chắn không thể nghi ngờ.
- Và ngay cả nếu ông cô có thuộc cấp cao nhất, ông cũng không bao giờ được phép tiết lộ bất cứ thứ gì cho bất cứ ai ngoài hội. Thật không thể quan niệm được rằng ông đưa cô và trong nội bộ hội.
Mình đã ở đó – Sophie nghĩ, hình dung lại buổi lễ trong tầng hầm. Cô tự hỏi liệu bao giờ có phải là lúc nói cho Langdon biết những gì cô chứng kiến đêm hôm đó tại toà lâu đài ở Normandy không. 10 năm rồi, chỉ đơn giản là sự xấu hổ đã kiềm giữ không cho cô nói ra điều đó với 1 ai. Chỉ nghĩ đến nó thôi, cô đã rùng mình. Tiếng còi xe cảnh sát hú đâu đó đằng xa, cô cảm thấy 1 cơn mệt mỏi tăng dần như tấm chăn trùm lên mình.
- Kia rồi! Langdon nói, cảm thấy phấn khích khi nhìn thấy quần thể sân tennis Ronand Caros đồ sộ hiện ra phía trước.
Sophie lách xe ngoằn ngèo về phía sân vận động. Sau mấy chỗ rẽ, họ tìm thấy ngã tư phố Haxo, và rẽ vào đó, đi theo hướng những toàn nhà mang số nhỏ dần. Con phố mang vẻ công nghiệp hơn với những hãng kinh doanh 2 bên đường.
Chúng ta tìm số 24 cơ mà – Langdon tự nhắc khi nhận ra mình đang kín đáo rà tìm chóp tháp của 1 nhà thờ. Đừng có kỳ cục thế, 1 nhà thờ bị lãng quên của tổ chức hiệp sĩ Templar ở khu này?
- Kia rồi – Sophie vừa kêu vừa chỉ tay.
Langdon đưa mắt nhìn theo tới 1 kiến trúc phía trước.
- Cái quái gì thế này?
Toà nhà thật hiện đại. 1 tòa thành thấp với 1 hình chữ thập vuông nhánh khổng lồ bằng đèn neon treo trên đỉnh mặt tiền. Bên dưới chữ thập là dòng chữ: ngân hàng ký thác Zurich.
Langdon thầm cảm ơn vì đã không ngỏ với Sophie rằng ông đã hy vọng tìm thấy 1 nhà thờ của các hiệp sĩ Templar. 1 trong những rủi ro nghề nghiệp của các nhà ký tượng học là có xu hướng rút ra ẩn ý từ những tình huống không hàm chứa ẩn ý đó. Trong trường hợp này, Langdon đã quên khuấy rằng chữ thập vuông nhánh hoà bình đã được chọn làm biểu tượng hoàn hảo trên quốc kỳ của nước Thuỵ Sĩ trung lập.
Chí ít bí ẩn cũng đã được giải quyết.
Sophie và Langdon cầm chìa khoá tới 1 két sắt trong 1 ngân hàng Thuỵ Sĩ.

the_warm_winter
21-07-2008, 03:35 AM
Chương 41
Bên ngoài Castel Gandolfo, 1 luồng gió núi thổi thốc lên, tràn qua đỉnh vách đá làm giám mục Aringarosa rùng mình ớn lạnh khi ông bước ra từ chiếc Fiat. Lẽ ra ta nên mặc thêm gì đó ngoài chiếc áo chùng này, ông nghĩ vậy, cố dẹp cơn run theo phản xạ. Điều tối kị đối với ông tối nay là tỏ ra yếu đuối hay sợ hãi.
Toà lâu đài tối om ngoại trừ những cửa sổ trên cùng, nơi hắt ra 1 thứ ánh sáng đáng ngại. Đó là thư viện - giám mục Aringarosa nghĩ bụng. Họ còn thức và đang đợi. Ông cúi đẩu tránh gió và tiếp tục bước, thậm chí không buồn liếc mắt về phía đài thiên văn.
Vị tu sĩ đón ông ở cửa trông có vẻ buồn ngủ. Đó cũng chính là người đã nghênh đón Aringarosa cách đây 5 tháng, tuy nhiên tối nay, ông ta làm nhiệm vụ đó kém nồng hậu hơn nhiều. – Chúng con rất lo cho cha, thưa cha giám mục – người tu sĩ vừa nói vừa nhìn đồng hồ, trông có vẻ bối rối hơn là lo lắng.
- Tôi xin lỗi. Thời buổi này, hàng không chẳng mấy đáng tin cậy.
Người tu sĩ lí nhí câu gì đó nghe không rõ rồi nói: Mọi người đang đợi cha trên tầng. Con xin đưa cha lên.
Thư viện là 1 phòng rộng vuông vắn được lát và ốp bằng 1 loại gỗ màu sẫm từ sàn cho đến tận trần. Ở mọi phía, những giá cao ngất chất đầy sách. Sàn lát đá cẩm thạch có trang trí các hoạ tiết bằng đá bazan, 1 nét đẹp nhắc ta rằng toà nhà này có thời đã từng là cung điện.
- Hoan nghênh đức giám mục – 1 giọng đàn ông vọng ra từ phía trong căn phòng.
Aringarosa cố để ý xem ai vừa nói nhưng đèn mờ tối 1 cách kỳ cục, tối hơn nhiều so với lần đầu tiên ông đến đây, khi đó mọi thứ đều rực sáng. Đêm thức tỉnh hoàn toàn. Còn đêm nay, những người này ngồi trong bóng tối, như thể cách nào đó, họ cảm thấy xấu hổ vì những điều sắp sửa lộ ra.
Aringarosa chậm rãi bước vào, thậm chí còn có vẻ vương giả là khác. Ông thấy 3 người đàn ông ngồi tại chiếc bàn dài ở phía xa của căn phòng. Người ngồi giữa chỉ nhìn dáng cũng nhận ra ngay - vị thư ký béo phệ của Toà Thánh Vatican, người cai quản tất cả các vấn đề có liên quan đến luật pháp trong phạm vi thành phố Vatican. Hai người kia đều là những Hồng y giáo chủ cao cấp của Ý.
Aringarosa đi ngang qua thư viện về phía họ: - Tôi xin cúi đầu cáo lỗi vì đã đến vào cái giờ muộn mằn này. Múi giờ của chúng ta khác nhau. Chắc các ngài rất mệt.
- Không hề, vị thư kí nói, 2 tay chắp trên cái bụng phệ vĩ đại. - Đội ơn ngài đã từ xa đến đây. Điều tối thiểu chúng tôi có thể làm là thức để gặp ngài. Ngài có muốn dùng 1 tách cà phê hay nước giải khát không?
- Tôi muốn chúng ta đừng coi đây là 1 cuộc thăm viếng xã giao. Tôi còn phải đáp 1 chuyến bay nữa. Liệu chúng ta có thể đi thẳng vào công việc được không?
- Tất nhiên – người thư kí nói – ngài hành động nhanh hơn chúng tôi tưởng đấy.
Ngài vẫn còn những 1 tháng nữa.
- Các ngài đã cho biết những điều các ngài quan tâm từ 5 tháng trước – Aringarosa nói - vậy thì tại sao tôi lại phải đợi?
- Thật vậy. Chúng tôi rất hài lòng với kế hoạch của ngài.
Aringarosa đưa mắt dọc theo chiều dài của chiếc bàn tới 1 chiếc cặp đen. – Đây có phải là thứ tôi đã yêu cầu không?
- Nó đấy! giọng người thư kí nghe có vẻ bồn chồn. Mặc dù tôi phải thừa nhận rằng chúng tôi có phần lo lắng vì yêu cầu đó. Nó có vẻ khá…
- Nguy hiểm – 1 trong số các vị hồng y giáo chủ nói nốt. Ngài có chắc là chúng tôi không thể chuyển ngân cho ngài tới 1 địa điểm nào đó sao? Khoản tiền này thật quá lớn.
Tự do là đắt giá. – Tôi không hề lo ngại gì cho sự an toàn của chính mình. Chúa luôn ở bên tôi.
Các vị chủ nhân thực sự có vẻ nghi ngờ.
- Số tiền này đúng như tôi đã yêu cầu chứ?
Người thư kí gật đầu: - Đó là những trái phiếu có mệnh giá cao rút từ ngân hàng Vatican. Có thể chuyển thành tiền mặt ở bất kì nơi nào trên thế giới.
Aringarosa bước về phía cuối bàn và mở chiếc cặp. Bên trong là 2 tập dày trái phiếu, mỗi tờ đều in hình con dấu của Vatican và chữ PORTATOR khiến tờ trái phiếu có thể giải ngân cho bất cứ ai mang nó.
Người thư kí có vẻ căng thẳng: Tôi phải nói với ngài, thưa đức giám mục, tất cả chúng tôi sẽ cảm thấy đỡ lo hơn nếu như khoản này ở dạng tiền mặt.
Nếu bằng tiền mặt thì làm sao ta có thể nhấc nổi. Aringarosa nghĩ bụng rồi đóng chiếc cặp số lại. – Trái phiếu cũng có thể sử dụng như tiền mặt. Chính ngài đã nói với tôi như vậy mà.
Các vị hồng y giáo chủ nhìn nhau ngại ngùng, và cuối cùng 1 người lên tiếng: Phải, nhưng những tờ trái phiếu này đều có thể truy xuất xứ trực tiếp về Vatican.
Aringarosa cười thầm. Đó đích thị là lí do khiến Thầy Giáo đã gợi ý cho ông nên nhận tiền dưới dạng trái phiếu của Ngân hàng Vatican. Điều đó coi như bảo hiểm. Tất cả chúng ta giờ đây cùng hội cùng thuyền. – Đây là 1 cuộc giao dịch hoàn toàn hợp pháp – Aringarosa trấn an – Opus Dei là 1 giám mục đoàn riêng của thành phố Vatican, và Đức giáo hoàng có thể giải ngân được bất cứ lúc nào mà ngài thấy thích hợp. Ở đây hoàn toàn không hề có gì phạm pháp cả.
- Đúng vậy, nhưng … - vị thư kí cúi về phía trước và chiếc ghế kêu ken két dưới sức nặng. – Chúng tôi không hề biết ngài định làm gì với khoản tiền này, và nếu như nó bị sử dụng bất hợp pháp…
- Xét những gì các ngài yêu cầu ở tôi – Aringarosa đối đáp – thì việc tôi làm gì với khoản tiền này không can hệ gì đến ngài.
Im lặng kéo dài.
Họ biết là ta có lý. Aringarosa nghĩ thầm. – Tôi đoán bây giờ chắc các ngài có thứ gì đó cho tôi kí vào chứ?
Tất cả bật dậy, sốt sắng đẩy tờ giấy về phía giám mục, như thể họ muốn ông cuốn xéo đi cho mau.
Aringarosa đưa mắt nhìn tờ giấy trước mặt mình, có đóng triện của Giáo hoàng. - Bản này hệt với bản mà các ngài đã gửi cho tôi chứ?
- Chính xác.
Aringarosa ngạc nhiên thấy mình chẳng mấy xúc động khi kí vào văn bản đó. Nhưng hình như 3 người kia lại thở phào nhẹ nhõm.
- Cảm ơn, ngài Giám mục - vị thư kí nói. – Công lao của ngài đối với Giáo hội sẽ không bao giờ bị lãng quên.
Aringarosa nhấc chiếc cặp lên, cảm nhận rõ triển vọng tốt đẹp cũng như uy quyền trong sức nặng của nó. Trong khoảnh khắc 4 người nhìn nhau như thể họ còn điều gì muốn nói song có lẽ chẳng còn gì để nói. Aringarosa quay người và đi về phía cửa.
- Ngài giám mục? – 1 trong 2 vị hồng y giáo chủ gọi to khi Aringarosa đã đi tới ngưỡng cửa.
Aringarosa dừng bước, quay lại: - Dạ?
- Ngài sẽ đi đâu từ đây?
Aringarosa cảm thấy câu hỏi này thuộc lĩnh vực tâm linh hơn là địa lí, nhưng ông không mảy may có ý định bàn về đạo lý trong giớ phút này. - Đến Paris – ông đáp rồi bước ra khỏi cửa.

the_warm_winter
21-07-2008, 03:57 AM
Chương 42
Ngân hàng ký thác Zurich là 1 ngân hàng Geld-schrank phục vụ 24/24 giờ, đem lại cho khách hàng cả loạt đầy đủ các dịch vụ nặc danh hiện đại theo truyền thống tài khoản đánh số của Thuỵ sĩ. Trong những năm gần đây, bằng việc duy trì các trụ sở ở Zurich, Kuala Lumpur, New York và Paris, ngân hàng đã mở rộng các dịch vụ của mình nhằm sử dụng các mã thông tin từ máy tính mang tính chất nặc danh và cả đĩa sao lưu số hoá cũng nặc danh.
Nguyên tắc hoạt động chủ yếu của ngân hàng vẫn là cách phục vụ cổ nhất và đơn giản nhất - bảo đảm nặc danh - dịch vụ “mù” gọi cách khác là những hộp ký thác an toàn nặc danh.
Khách hàng muốn cất giữ bất cứ thứ gì, từ giấy chứng nhận mua cổ phiếu cho đến những bức hoạ đáng giá đều có thể ký thác nặc danh tài sản của họ, thông qua 1 loạt những phương tiện công nghệ cao đảm bảo bí mật riêng tư, có thể rút về bất kì lúc nào, cũng theo phương thức hoàn toàn nặc danh.
Khi Sophie dừng chiếc taxi trước nơi họ định đến, Langdon đưa mắt quan sát lối kiến trúc cứng nhắc của toà nhà và cảm thấy Ngân hàng ký thức Zurich là 1 hãng chẳng mấy có khiếu hài hước. Toà nhà là 1 khối chữ nhật kín mít không có lấy 1 ô cửa sổ, như thể đúc toàn bằng thép xỉn. Tựa 1 viên gạch kim loại khổng lồ, toà nhà nằm thụt lùi khỏi mặt đường với 1 chiếc thập vuông nhánh bằng đèn neon cao 5m, toả sáng rực rỡ khắp mặt tiền.
Danh tiếng của Thuỵ Sĩ về tôn trọng bí mật trong lĩnh vực ngân hàng đã khiến ngành này trở thành 1 trong số những hoạt động xuất khẩu mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho quốc gia này. Những cơ sở như thế này đã thành đầu đề tranh cãi trong cộng đồng nghệ thuật vì chúng cung cấp 1 nơi lí tưởng cho bọn trộm nghệ thuật cất giấu đồ ăn cắp, trong hàng năm trời nếu cần thiết, cho tới khi sự xôn xao lắng đi.
Hàng ký thác được bảo vệ an toàn, tránh khỏi sự điều tra của cảnh sát do những điều luật bảo vệ sự riêng tư cá nhân, chúng gắn với tài khoản số chứ không phải tên của người gửi, nên những tên trộm có thể ngủ yên khi biết chắc rằng của cải ăn trộm vẫn an toàn mà cảnh sát không bao giờ truy ra chúng.
Sophie dừng xe tại chiếc cổng bề thế chắn ngang đường lái xe vào ngân hàng – 1 đoạn dốc lát ximăng đi xuống dưới toà nhà. Một chiếc camera phía trên chĩa thẳng vào họ, Langdon có cảm giác chiếc này là thật chứ không để làm vì như ở Louvre.
Sophie hạ kính cửa xe xuống và quan sát cái bục điện tử về mé bên tay trái. Đó là 1 màn hình tinh thể lỏng có những lời chỉ dẫn được viết bằng 7 thứ tiếng. Trên đầu danh sách là tiếng Anh
INSERT KEY (TRA CHÌA VÀO)
Sophie rút từ túi áo ra chiếc chìa khoá vàng, rồi hướng sự chú ý trở lại chiếc bục. Bên dưới màn hình là 1 ổ có hình tam giác.
- Linh tính báo với tôi là sẽ vừa khít. – Langdon nói.
Sophie tra chiếc chìa khoá vào ổ, từ từ ấn cho tới khi cái thân chìa hình trụ tam giác lút hết vào trong. Rõ ràng chìa này không cần xoay. Lập tức cánh cổng bắt đầu mở ra. Sophie nhả phanh chân rồi cho xe trôi xuống tới 1 cái cổng kèm theo bục thứ 2. Phía sau cô, cổng đầu tiên đóng sập, nhốt họ lại như 1 con thuyền mắc cạn.
Langdon ghét cái cảm giác bị bó hẹp này. Hy vọng rằng cổng thứ 2 này cũng mở ngon như thế.
Chiếc bục thứ 2 cũng mang ngần ấy lời hướng dẫn.
INSERT KEY (TRA CHÌA VÀO)
Khi Sophie tra chìa vào, ngay lập tức cổng thứ 2 mở ra. Vài phút sau, xe ngoằn ngèo xuống nốt đoạn dốc, chui vào trong bụng toà nhà.
Khu đậu xe riêng nhỏ hẹp và mờ tối, đủ chỗ cho khoảng 1 tá xe. Ở đầu đằng kia, Langdon phát hiện thấy lối chính vào toà nhà. Một tấm thảm đỏ trải khắp mặt sàn ximăng đón khách vào 1 cánh cửa to tướng, vẻ như đúc bằng kim loại cứng.
Chà, những thông điệp hỗn độn nước đôi, Langdon nghĩ thầm. Hoan nghênh, nhưng hãy đứng ngoài.
Sophie lái chiếc taxi vào chỗ đậu gần lối vào, rồi tắt máy: Anh nên để súng lại trong xe thì hơn.
Rất vui lòng, Langdon nghĩ bụng, nhét khẩu súng lục xuống dưới ghế ngồi.
Sophie và Langdon ra khỏi xe rồi bước trên tấm thảm đỏ về phía tấm thép khổng lồ. Cửa không có tay kéo, nhưng trên tường bên cạnh, có 1 lỗ khoá hình tam giác. Lần này không kèm theo lời chỉ dẫn nào.
- Cho bọn chậm hiểu đứng ngoài – Langdon nói.
Sophie cười, vẻ bồn chồn: - Nào ta đi. Cô ấn chìa vào lỗ khoá và cánh cửa mở vào phía trong với 1 tiếng ì ì nhẹ. Đưa mắt nhìn nhau, cả 2 cùng bước vào. Cánh cửa đóng đánh thịch sau lưng họ.
Phòng chờ của Ngân hàng Ký thác Zurich có kiểu trang trí dữ dằn nhất mà Langdon từng thấy. Ở những chỗ mà phần lớn các ngân hàng chỉ dùng đá hoa và granit nhẵn bóng thì ngân hàng này chọn kim loại và đinh tán chạy suốt từ tường này sang tường kia.
Ai trang trí cho họ vậy? Langdon tự hỏi. Hợp kim thép.
Sophie cũng có vẻ e ngại khi đảo mắt nhìn khắp sảnh.
Kim loại xám hiện diện khắp nơi – sàn trần, các quầy, cửa ra vào, thậm chí ghế ngồi ở sảnh cũng có vẻ như đúc bằng sắt.
Mặc dù vậy, hiệu quả vẫn gây ấn tượng. Thông điệp là rõ ràng: Quý khách đang đi vào khu cất giữ đồ ký thác.
Một người cao lớn ở phía sau bàn ghi sê ngước mắt nhìn khi họ bước vào. Anh ta vội tắt chiếc tivi cá nhân đang xem rồi chào đón họ bằng 1 nụ cười niềm nở. Mặc dù cơ bắp cuồn cuộn và khẩu súng bên sườn gồ lên lồ lộ, giọng anh ta rất phù hợp với phong thái lịch thiệp của 1 gã bồi khách sạn Thụy Sĩ.
- Bonsoir – anh ta nói. – Tôi có thể giúp được gì cho quý khách không?
Lời chào bằng 2 thứ tiếng Anh, Pháp là nghệ thuật giao tiếp mới nhất hiện nay của các ông chủ ở châu Âu. Nó không mặc định gì hết và để ngỏ cho khách thoải mái trả lời bằng thứ tiếng nào tiện hơn cho họ.
Sophie không đáp lại bằng thứ tiếng nào. Cô chỉ đặt chiếc chìa khoá bằng vàng lên chiếc bàn ghi sê phía trước mặt người đàn ông.
Người này nhìn xuống rồi ngay lập tức đứng thẳng lên: Tất nhiên rồi. Thang máy của quý khách ở phía cuối sảnh này. Tôi sẽ báo cho họ biết là quý khách đang đến.
Sophie gật đầu rồi lấy lại chiếc chìa khoá: Tầng mấy?
Người phục vụ nhìn cô với ánh mắt kì lạ: Chính chìa khoá của quý khách chỉ dẫn cho thang máy đến tầng nào.
Cô cười: À phải
Người bảo vệ dõi theo 2 người khách mới tới đang đi về phía thang máy, tra chìa vào ổ, bước vào thang máy và khuất dạng.
Ngay sau khi cửa thang máy đóng lại, anh ta chộp lấy điện thoại. Anh ta không gọi để báo cho ai đó biết họ đang đến; điều đó không cần thiết. Người trông giữ hầm két đã được cảnh báo ngay sau khi khách hàng tra chìa ở cổng vào. Thay vào đó, người bảo vệ gọi cho người quản trị trực đêm.
Khi chuông điện thoại rung lên,người bảo vệ lại tiếp tục bật màn hình lên rồi nhìn chằm chằm vào đó. Bản tin anh ta xem dở dang trước đó vừa mới kết thúc. Không sao. Anh ta nhìn 1 lần nữa vào 2 gương mặt kia trên màn hình ti vi.
Người quản trị trực đêm trả lời: - Gì thế?
- Tình huống đặc biệt dưới này.
- Chuyện gì đang diễn ra vậy? – Người quản lí hỏi.
- Đêm nay, cảnh sát Phá đang truy tìm 2 kẻ đào tẩu.
- Thì sao?
- Cả 2 tên đó vừa đi vào nhà băng của chúng ta.
Người quản trị trực đêm khẽ chửi thề: Được. Tôi sẽ liên lạc ngay với ông Vernet.
Người bảo vệ gác máy rồi gọi thêm 1 cuộc nữa. Lần này cho Interpol.

Langdon ngạc nhiên cảm thấy thang máy đang đi xuống chứ không phải đi lên. Ông không biết họ đã đi sâu xuống phía dưới Ngân hàng Ký thác Zurich bao nhiêu tầng trước khi cửa thang máy, rốt cuộc, mở ra. Ông bất cần. Ông cảm thấy sung sướng được ra khỏi thang máy.
Tỏ ra hết sức sốt sắng, 1 vị chủ nhân đã đứng sẵn đó để chào đón họ. Đó là 1 ông già hoà nhã, mặc 1 bộ com-lê flannel là phẳng phiu khiến ông trông thật lạc lõng – 1 ông chủ ngân hàng thuộc thế giới cũ trong 1 thế giới công nghệ cao.
- Bonsoir – ông già nói – xin chào, xin vui lòng đi theo tôi, S’il vous plait. Không chờ trả lời, ông ta đã quay gót rồi sải bước nhanh theo 1 hành lang hẹp bằng kim loại.
Langdon cùng Sophie đi xuôi 1 loạt hành lang, qua mất căn phòng rộng đầy máy tính màn hình lớn đang nhấp nháy.
- Voici - vị chủ nhân nói khi tới 1 cánh cửa thép, và mở cửa ra cho họ. – Các vị đã đến nơi.
Langdon và Sophie bước vào 1 thế giới khác. Căn phòng nhỏ trước mặt họ trông giống như 1 phòng khách xa hoa trong 1 khách sạn đẹp. Kim loại và đinh tán biến mất, thay thế bằng những tấm thảm phương Đông, đồ nội thất bằng gỗ sồi màu đen tuyền và ghế đệm. Trên chiếc bàn rộng ở giữa phòng, 2 chiếc cốc pha lê xếp bên 1 chai rượu Perrier mở sẵn, còn sủi bọt. Một bình cà phê đang bốc hơi nghi ngút cạnh đó. Chính xác như đồng hồ vậy, Langdon nghĩ thầm. Về điểm này thì phải chịu người Thụy sĩ.
Ông già mỉm cười tinh tế: – Tôi có cảm giác đây là lần đầu các vị đến ngân hàng chúng tôi?
Sophie do dự rồi gật đầu.
- Dễ hiểu thôi. Chìa khoá thường được truyền lại như tài sản thừa kế, và những vị khách lần đầu tiên đến đây tất yếu là bỡ ngỡ về thủ tục. – Ông chỉ về phía chiếc bàn để đồ uống. – Căn phòng này là của quý khách chừng nào quý khách cần dùng.
- Ngài nói chìa khoá đôi khi là vật thừa kế? – Sophie hỏi lại.
- Thực vậy. Chiếc chìa khoá của quý khách giống như 1 tài khoản đánh số của Thụy Sĩ, thường khi được truyền lại qua nhiều thế hệ. Trên các tài khoản bằng vàng của chúng tôi đều có hợp đồng ký thác an toàn trong thời hạn ít nhất là 50 năm. Phí trả trước. Cho nên chúng tôi từng chứng kiến nhiều sự chuyển giao trong nội bộ gia đình.
Langdon đăm đăm nhìn: Ngài vừa nói 50 năm.
- Đấy là thời hạn tối thiểu - vị chủ nhân đáp. - Tất nhiên quý khách có thể mua những hợp đồng dài hạn hơn, nhưng nếu không gia hạn thêm mà trên tài khoản 50 năm lại không có hoạt động gì thì những thứ trong hộp ký thác sẽ hoàn toàn tự động bị phá huỷ. - Có cần tôi nói sơ lược về quá trình truy nhập hộp ký thác của quý khách không?
Sophie gật đầu: - Xin ngài cho biết.
Vị chủ nhân khoát tay về phía phòng khách sang trọng:
- Đây là phòng kiểm tra riêng của quý khách. Một khi tôi rời khỏi căn phòng này, quý khách có thể sử dụng toàn bộ thời gian cần thiết để kiểm tra cũng như thay đổi nội dung hộp ký thác an toàn của mình, nó sẽ đến… qua đây. – Ông dẫn họ tới bức tường phía xa, nơi có 1 băng vận chuyển chạy vào phòng theo 1 đường cong thanh thoát, hơi giống băng chuyển hành lý ở các sân bay vậy. – Quý khách hãy tra chìa vào ổ khoá chỗ kia… - ông chỉ tay về phía bục điện tử khá rộng đối diện với băng chuyền. Bục này cũng có 1 lỗ khoá hình tam giác trông quen thuộc. - Một khi máy tính đã xác nhận dấu trên chìa khoá của quý vị, quý vị nhập số tài khoản của mình, và hộp ký thác an toàn của quý vị sẽ được rô bốt chuyển đến từ hầm két bên dưới để quý khách kiểm tra. Khi quý khách kiểm tra hộp xong, hãy đặt nó trên băng chuyền, rồi lại tra chìa vào quá trình đó lại được đảo ngược. Vì mọi công đoạn đều tự động cả, sự riêng tư của khách hàng được đảm bảo, thậm chí ngay cả ban điều hành của ngân hàng cũng không hề hay biết. Nếu quý khách cần bất kì cái gì, xin hãy ấn nút gọi tại chiếc bàn kê ở giữa phòng.
Sophie đang định hỏi thêm 1 câu nữa thì chuông điện thoại reo. Ông già có vẻ bối rối và lúng túng: - Cho tôi xin lỗi.
Ông đi vội đến phía bàn điện thoại nằm ngay sát bàn để cả phê và chai Perrier.
- Oui – ông trả lời.
Lông mày ông cau lại khi nghe người ở đầu dây đằng kia
- Oui, oui …d’accord. Ông gác máy, rồi cười gượng gạo: Rất tiếc tôi phải để quý khách ở lại đây. Xin quý khách cứ tự nhiên như ở nhà. – Ông nhanh chóng đi về phía cửa.
- Xin lỗi ngài – Sophie gọi to. Ngài có thể làm rõ 1 vài điều trước khi đi được không? Ngài vừa nhắc chúng tôi nhập số vào khoá?
Ông dừng lại ở cửa, vẻ mặt tái nhợt: Tất nhiên rồi. Như ở hầu hết các ngân hàng ở Thụy Sĩ, những chiếc hộp ký thác an toàn của chúng tôi gắn với 1 con số chứ không phải là 1 cái tên. Khách hàng có 1 chìa khoá và 1 số tài khoản riêng chỉ họ biết thôi. Chiếc chìa khoá của quý khách mới chỉ là 1 nửa phần nhận dạng của quý khách mà thôi, nửa kia là số tài khoảng của quý khách. Bằng không, nếu quý khách đánh mất chìa khoá, thì bất kì ai nhặt được cũng có thể sử dụng nó.
Sophie ngần ngại: - Thế nếu người chuyển giao chìa khoá cho tôi không cho tôi số tài khoản thì sao?
Tim của người làm ngân hàng đập thình thịch. Thế là hiển nhiên các người chẳng có việc gì ở đây cả! Ông mỉm cười bình thản: Tôi sẽ yêu cầu 1 người giúp quý khách. Anh ta sẽ đến ngay bây giờ thôi.
Rời khỏi căn phòng, ông đóng cửa lại sau lưng, bấm 1 chiếc khoá lớn nhốt 2 người khách ở bên trong.
Đầu đằng kia thành phố, Collet đang đứng trong ga phía bắc thì điện thoại của anh ta đổ chuông.
Người gọi là Fache. – Interpol đã nhận được 1 tin báo – ông ta nói. – Quên chuyến tàu ấy đi. Langdon và Sophie vừa vào chi nhánh Ngân hàng ký thác Zurich tại Paris. Tôi muốn quân của anh đến đó ngay lập tức.
- Đã có manh mối gì về điều Saunière muốn truyền đạt cho Neveu và Robert Langdon chưa ạ?
Giọng Fache thật lạnh lùng: - Nếu anh tóm cổ được họ, trung uý Collet, tôi sẽ đích thân hỏi họi. Collet hiểu hàm ý của ông ta: - Số 24 phố Haxo.
- Ngay bây giờ thưa đại uý. Anh tắt máy rồi điện đàm với người của mình.

the_warm_winter
22-07-2008, 06:52 PM
Chương 43
Zurich đặt tại Paris - sống trong 1 căn hộ xa hoa phía trên ngân hàng. Mặc dù có đầy đủ tiện nghi sang trọng, ông vẫn mơ được sở hữu 1 căn hộ bên sông trên đảo Saint-Louis, nơi ông có thể chen vai thích cánh với những người sành điệu đích thực chứ chẳng như ở đây chỉ toàn gặp bọn trọc phú.
Vernet tự nhủ, khi nào về hưu, mình sẽ chất đầy hầm rượu toàn vang Bordeaux quý hiếm, trang trí salon bằng 1 bức Fragonard và có lẽ 1 bức Boucher, và suốt ngày mình sẽ săn lùng đổ cổ và sách quý hiếm ở Quartier Latin. Đêm nay, Vernet mới chỉ thức giấc được có 6 phút rưỡi. Mặc dù vật, khi ông hối hả đi qua hành lang ngầm của ngân hàng, trông ông như vừa được người thợ may và húi tóc riêng điểm tô cho 1 mẽ ngoài bóng bẩy. Chỉnh tề trong bộ com-lê lụa, Vernet xịt 1 ít nước thơm vào miệng, thắt chặt ca vát lại rồi mới bước và ngoài. Không hề lạ lẫm với việc bị đánh thức giữa đêm khuya để phục vụ những khách hàng quốc tế đến từ những vùng có múi giờ khác nhau, Vernet đã tạo cho mình thói quen ngủ theo cách những chiến binh Maasai - 1 bộ lạc châu Phi nổi tiếng với khả năng chỉ trong vòng vài ba giây đã có thể từ giấc ngủ say sưa nhất chuyển sang tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Sẵn sàng chiến đấu – Vernet nghĩ thầm, sợ rằng sự ví von ấy có thể ứng vào đêm nay 1 cách bạo liệt lạ thường. Sự hiện diện của 1 khách hàng có chiếc chìa khoá vàng bao giờ cũng đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn thường nhật, nhưng người khách hàng mang chiếc chìa khoá vàng này lại đang bị cảnh sát tư pháp truy nã thì càng là vấn đề cực kì tế nhị.
Ngân hàng này đã có đủ những cuộc chiến chống lại việc thực thi luật pháp để bảo vệ quyền bí mật riêng tư của khách hàng mà không có bằng chứng rằng 1 số trong bọn họ là những tên tội phạm.
Năm phút thôi. Mình cần 2 kẻ đó ra khỏi ngân hàng trước khi cảnh sát đến.
Nếu ông hành động nhanh chóng, thì có thể khéo léo tránh được thảm hoạ sắp xảy ra. Vernet có thể nói với cảnh sát rằng quả thật những tên đào tẩu ấy có vào ngân hàng như đã báo cáo nhưng vì chúng không phải là khách hàng của họ và không có số tài khoản nên đã bị khước từ. Giá như gã bảo vệ chết tiệt kia đừng gọi cho Interpol, thì đỡ biết mấy. Rõ ràng kín đáo không nằm trong vốn từ của người bảo vệ được trả lương 15 Euro/ngày này.
Dừng lại ở ngưỡng cửa, ông hít 1 hơi thật sâu và thả lỏng cơ bắp. Sau đó cố nhoẻn 1 nụ cười dịu dàng, ông mở khoá và đẩy cửa bước vào phòng như 1 làn gió ấm. Xin chào – ông nói, mắt đảo tìm những người khách hàng của mình. – Tôi là André Vernet. Tôi có thể phục… - phần còn lại của câu nói bị tắc ở đâu đó dưới yết hầu. Người phụ nữ trước mặt ông không phải là 1 người khách bất ngờ như ông nghĩ.
- Xin lỗi, có phải chúng ta đã quen nhau không? – Sophie hỏi. Cô không nhận ra ông chủ ngân hàng, nhưng ông thì trong khoảnh khắc nom như vừa thấy ma hiện hình.
- Không – ông chủ tịch ngân hàng lúng búng – tôi không nghĩ vậy. Dịch vụ của chúng tôi là nặc danh – Ông ta thở hắt ra và cố nặn ra 1 nụ cười bình tĩnh. – Người trợ lý của tôi nói rằng quý cô có 1 chiếc chìa khoá vàng nhưng lại không có số tài khoản, đúng không? Tô có thể mạn phép hỏi, làm sao quý cô lại có được chiếc chìa khoá ấy?
- Ông tôi đã đưa nó cho tôi – Sophie trả lời và nhìn kĩ hơn ông chủ tịch. Sự lúng túng của ông ta lúc này càng rõ rệt.
- Thực vậy sao? Cụ nhà đã đưa cho quý cô chiếc chìa khoá này mà lại quên không cho số tài khoản sao?
- Tôi không nghĩ là ông tôi còn đủ thời gian để làm việc ấy. – Sophie nói. – Ông tôi vừa bị giết hại đêm nay.
Lời nói của Sophie khiến ông ta loạng choạng lùi lại:
- Jacques Saunière chết rồi ư? – Ông hỏi lại, mắt đầy vẻ kinh hãi. – Nhưng … như thế nào?
Lúc này đến lượt Sophie lui lại: - Ngài biết ông tôi?
Ông chủ ngân hàng André Vernet có vẻ cũng kinh ngạc, dựa vào thành bàn để đứng cho vững: - Jacques và tôi là bạn thân. Chuyện xảy ra khi nào?
- Đầu buổi tối nay. Bên trong bảo tàng Louvre.
Vernet bước đến 1 chiếc ghế da và gieo mình xuống đó: - Tôi cần hỏi cả 2 người 1 câu vô cùng quan trọng – Ông ngước nhìn Langdon rồi lại quay sang Sophie: - Ai trong số 2 người có dính líu tới cái chết của ông ấy.
- Không ai cả - Sophie tuyên bố. – Hoàn toàn không.
Mặt Vernet lầm lầm, ông dừng lại ngẫm nghĩ. – Interpol cho truyền ảnh 2 người khắp mọi nơi. Nhờ vậy mà tôi nhận ra cô. Các người đang bị truy nã vì tội sát nhân.
Sophie ngồi phịch xuống. Fache đã kịp cho phát thông báo của Interpol rồi sao? Dường như tay đại uý ấy có động cơ mạnh mẽ hơn Sophie dự kiến. Cô kể nhanh cho Vernet biết Langdon là ai và chuyện gì đã xảy ra trong bảo tàng Louvre tối nay.
Vernet có vẻ kinh ngạc: - Lúc hấp hối, ông ấy đã để lại 1 tin nhắn yêu cầu cô tìm ông Langdon?
- Vâng. Và chiếc chìa khoá này nữa – Sophie đặt chiếc chìa khoá vàng lên mặt bàn cà phê trước mặt Vernet, úp mặt có hình con dấu của Tu viện Sion xuống.
Vernet liếc nhìn chiếc chìa khoá, nhưng không làm cử chỉ nào để chạm vào nó: - Ông ấy chỉ để lại cho cô chiếc chìa khoá này thôi ư? Không còn gì khác nữa? Một mẩu giấy chẳng hạn?
Sophie biết cô rất vội khi ở trong bảo tàng Louvre, nhưng cô dám chắc không hề nhìn thấy 1 cái gì khác ẩn giấu đằng sau tác phẩm Madonna of the Rocks. – Không có gì khác đâu. Chỉ có mỗi chiếc chìa khoá này thôi.
Vernet thở dài ngao ngán: - Tôi e rằng mỗi chiếc chìa khoá đều đi kèm với 1 tài khoản 10 chữ số, có chức năng như 1 mật khẩu. Nếu như không có số tài khoản ấy, chiếc chìa khoá của cô cũng chẳng có giá trị gì.
Mười chữ số. Sophie miễn cưỡng tính toán các khả năng giải mã. Mười tỷ phương án cả thể. Ngay cả mang vào những chiếc máy tính có cài đặt chương trình tính toán hoàn hảo nhất của DCPJ thì cô cũng cần nhiều tuần mới mong giải được mật mã ấy. – Xét hoàn cảnh đặc biệt, chắc chắn ngài có thể giúp đỡ chúng tôi.
- Ôi xin lỗi. Thực sự tôi không thể làm gì được. Các khách hàng đều tự lựa chọn lấy số tài khoản thông qua mạng máy tính rất an toàn, điều đó có nghĩa là chỉ có khách hàng và máy tính mới biết được số tài khoản mà thôi. Đây là cách duy nhất để chúng tôi có thể duy trì hình thức nặc danh và cả sự an toàn cho nhân viên trong ngân hàng.
Sophie hiểu. Các kho giữ đồ cũng làm điều tương tự. NHÂN VIÊN TRONG NGÂN HÀNG KHÔNG ĐƯợC CÓ CHÌA KHOÁ KÉT. Rõ ràng, ngân hàng này không dám liều để cho 1 kẻ gian nào đó ăn trộm 1 chiếc chìa khoá rồi sau đó giữ nhân viên của họ làm con tin để có được số tài khoản.
Sophie ngồi xuống bên cạnh Langdon, nhìn xuống chiếc chìa khoá rồi lại ngước nhìn Vernet: - Ngài có biết gì về cái mà ông tôi đang cất giữ trong ngân hàng này không?
- Hoàn toàn không. Đó chính là định nghĩa của 1 ngân hàng Geldschralk.
- Thưa ngài Vernet – Sophie hối thúc – đêm nay, thời gian của chúng tôi rất hạn hẹp. Tôi sẽ nói thẳng toẹt không vòng vo.
Cô với tay cầm lấy chiếc chìa khoá vàng và lật mặt kia lên, quan sát ánh mắt của Vernet trong khi phô ra con dấu của Tu viện Sion. - Dấu hiệu này trên chiếc chìa khoá có ý nghĩa gì đối với ngài không?
Vernet liếc nhìn con dấu có hình bông hoa loa kèn mà không hề có phản ứng gì: - Không, nhưng nhiều khách hàng của chúng tôi cũng cho khắc nổi logo hãng của mình hoặc những chữ cái đầu tiên lên chìa khoá của mình.
Sophie thở dài, mắt vẫn quan sát ông chủ tịch rất kỹ. – Con dấu này là biểu tượng của 1 hội kín được gọi là Tu viện Sion.
Vernet vẫn không có phản ứng gì: - Tôi không hề hay biết về điều này. Ông cô là bạn tôi, nhưng chúng tôi chủ yếu bàn về chuyện làm ăn. – Ông chỉnh lại cái ca vát, trông ông lúc này có vẻ bồn chồn.
- Thưa ngài Vernet – Sophie lại hối thúc, giọng cương quyết, - tối nay, ông tôi có gọi điện cho tôi, nói rằng cả 2 ông cháu đang ở trong tình thế nguy hiểm. Ông nói cần phải trao cho tôi vật gì đó. Vật đó chính là chiếc chìa khoá này. Giờ thì ông đã mất. Bất kì điều gì ngài có thể cho chúng tôi biết đều rất có ích.
Vernet toát mồ hôi: - Chúng ta cần phải thoát ra khỏi toà nhà này. Tôi sợ là cảnh sát sẽ đến trong chốc lát. Người bảo vệ của chúng tôi cảm thấy buộc phải gọi cho Interpol. Sophie đã sợ là sẽ như vậy. Cô dấn 1 chiêu cuối: - Ông tôi nói cần phải kể cho tôi biết sự thật về gia đình tôi. Điều này có ý nghĩa gì đối với ngài hay không?
- Cô ạ, gia đình cô đã thiệt mạng trong 1 vụ tai nạn ô tô khi cô còn nhỏ. Tôi rất tiếc. Tôi biết ông cô yêu cô lắm. Mấy lần ông thổ lộ với tôi là ông xiết bao đau khổ về chuyện 2 ông cháu cắt đứt liên lạc với nhau.
Sophie không biết nên trả lời ra sao.
Langdon chợt hỏi: Liệu tài khoản ấy có liên quan gì đến Sangreal hay không?
Vernet nhìn Langdon ngỡ ngàng: - Tôi không biết đó là cái gì. Đúng lúc đó điện thoại di động của Vernet reo, ông giật nó ra khỏi thắt lưng. – Oui? – ông nghe 1 lúc, mặt lộ vẻ ngạc nhiên và càng lúc càng lo lắng: La police? Si rapidement – ông chửi thề, chỉ dẫn ngắn gọn vào lời bằng tiếng Pháp, và nói ông sẽ có mặt ở sảnh sau 1 phút nữa.
Cúp điện thoại, ông quay về phía Sophie – cảnh sát phản ứng mau lẹ hơn thường lệ nhiều. Trong lúc chúng ta nói chuyện, họ sắp tới rồi.
Sophie không hề có ý định rời khỏi ngân hàng với đôi bàn tay trắng: - Xin hãy nói với họ rằng chúng tôi đã đến và đã đi khỏi rồi. Nếu họ muốn lục soát nhà băng, hãy yêu cầu họ xuất trình lệnh lục soát, điều đó sẽ làm họ tốn thời gian đấy.
- Nghe này! Vernet nói – Jacques là bạn tôi và ngân hàng chúng tôi chẳng cần loại tin trên báo chí kiểu này, vì 2 lý do đó tôi không có ý định để cho cuộc bắt giữ này diễn ra trên địa phận của tôi. Hãy cho tôi 1 phút và tôi sẽ lo liệu xem có thể làm gì để giúp các bạn rời khỏi đây mà không bị phát hiện. Ngoài ra, tôi không thể bị liên can. – Ông đứng dậy và vội vã bước ra phía cửa. - Cứ ở đây. Tôi sẽ dàn xếp ổn thoả rồi quay lại ngay thôi.
- Còn hộp ký thác an toàn kia thì sao? – Sophie nói – chúng tôi không thể bỏ đi như thế này được.
- Tôi chẳng thể làm được gì – Vernet nói vậy rồi vội vàng bước ra khỏi cửa. – Tôi rất tiếc.
Sophie nhìn theo ông 1 lúc rồi tự hỏi liệu số tài khoản ấy có thể bị vùi giữa 1 trong vô số thư từ, bưu kiện ông cô đã gửi cho cô trong bao năm mà cô đã không hề mở ra?
Langdon đột ngột đứng dây, và Sophie cảm thấy 1 ánh mãn nguyện bất ngờ long lanh trong mắt ông.
- Robert, anh đang mỉm cười?
- Ông cô đúng là 1 thiên tài!
- Anh nói gì vậy?
- 10 con số, đúng không?
Sophie chẳng biết Langdon đang nói gì.
- Số tài khoản – ông nói, 1 nụ cười quen thuộc hơi lệch về 1 bên hiện trên gương mặt ông. - Rốt cuộc tôi dám chắc ông ấy có để lại nó cho chúng ta.
- Ở chỗ nào?
Langdon chìa 1 bản sao in tấm ảnh hiện trường vụ án rồi rải nó lên chiếc bàn uống cà phê. Chỉ cần đọc dòng đầu tiên, Sophie biết Langdon đã đúng.
13-3-2-21-1-1-8-5
Ôi, quỷ hà khắc!
Ôi thánh yếu đuối!
Tái bút. Hãy tìm Robert Langdon.

the_warm_winter
22-07-2008, 07:10 PM
Chương 44
10 chữ số - Sophie nói, quan năng mật mã học ran ran trong cô khi nhìn chăm chú vào bản in ấy.
13-3-2-21-1-1-8-5
Ông mình đã viết số tài khoản lên sàn bảo tàng Louvre.
Lần đầu tiên khi Sophie nhìn thấy dãy số Fibonacci ghi lộn xộn trên sàn gỗ, cô đã đoán chừng mục đích duy nhất của nó là gợi ý có DCPJ gọi các nhân viên giải mã và khiến Sophie tham gia vào. Nhưng sau đó cô đã nhận ra rằng những con số đó cũng là đầu mối để giải mã những dòng chữ khác – 1 dãy số hỗn độn, 1 anagram bằng số. Giờ đây Sophie ngạc nhiên tột độ nhận ra rằng những con số đó còn mang 1 ý nghĩa quan trọng hơn nhiều. Gần như chắc chắn chúng chính là chìa khoá cuối cùng để mở hộp ký thác an toàn đầy bí ẩn của ông cô.
- Ông là bậc thầy về trò đặt câu mang nghĩa nước đôi – nói rồi Sophie quay về phía Langdon. – Ông thích bất kì thứ gì nhiều tầng nghĩa. Mật mã trong mật mã.
Langdon đã tiến về phía chiếc bục điện tử gần băng chuyền
Sophie vớ lấy bản in từ máy tính và đi theo.
Bục điện tử có 1 bàn phím cỡ nhỏ giống như bàn phím của máy rút tiền tự động ATM. Màn hình hiển thị logo chữ thập của ngân hàng. Bên cạnh bàn phím là 1 lỗ hình tam giác.
Sophie lập tức tra chìa vào ổ khoá.
Màn hình khởi động tức thì:
SỐ TÀI KHOẢN: con trỏ chuột nhấp nháy, báo đợi.
10 chữ số. Sophie đọc số từ bản in cho Langdon dánh vào màn hình.
SỐ TÀI KHOẢN 13-3-2-21-1-1-8-5
Khi ông đánh xong chữ số cuối cùng, màn hình khởi động lại. Một tin ngắn viết bằng nhiều thứ tiếng xuất hiện. Tiếng Anh ở trên cùng.
CHÚ Ý: trước khi đánh phím ENTER, xin kiểm tra xem số tài khoản đã chính xác chưa. Vì sự an toàn của quý khách. Nếu máy tính không công nhận số tài khoản này, hệ thống sẽ tự động đóng.
- Function Terminer? – Sophie cau mày. Có vẻ như chúng ta chỉ có thể thử 1 lần thôi. Những máy chi trả tự động ATM tiêu chuẩn cho phép người sử dụng thử 3 lần số nhận dạng trước khi thu hồi thẻ ngân hàng của họ. Rõ ràng, đây không phải là máy chi trả tự động thông thường.
- Số này có vẻ đúng đấy – Langdon xác nhận rồi cẩn thận kiểm tra những chữ số họ đã đánh so với bản in. Ông chỉ vào phím ENTER: - Ấn đi.
Sophie đưa ngón trỏ về phía bàn phím, nhưng rồi lại ngần ngừ, 1 ý nghĩ kì lạ chợt đến với cô.
- Bấm đi, - Langdon giục, - Vernet quay trở lại bây giờ!
- Không được – cô rụt tay lại. Đây không phải là số tài khoản chính xác đâu.
- Tất nhiên là đúng nó! 10 chữ số đấy thôi. Làm sao có thể khác được?
- Con số này quá ngẫu nhiên.
- Quá ngẫu nhiên? Langdon tuyệt đối không đồng ý. Mọi ngân hàng đều khuyên khách hàng lựa chọn số nhận dạng 1 cách ngẫu nhiên để không ai có thể đoán được chúng. Chắc chắn khách hàng ở đây cũng được khuyên nên chọn lựa số tài khoản 1 cách ngẫu nhiên.
Sophie xoá sạch những gì họ vừa đánh vào và ngước nhìn Langdon, cái nhìn đầy tự tin: - Nếu cái số tài khoản được yêu cầu là ngẫu nhiên này có thể sắp xếp tài khoản này thành dãy số Fibonacci. Khả năng tốt, xấu là thể nào để khiến cô có thể làm điều đó?
Sophie lại ấn tay vào bàn phím, nhập 1 con số khác như thể từ trí nhớ: - Hơn nữa, ông tôi vốn thích các biểu tượng và mật mã, do đó có lẽ ông đã lựa chọn 1 số tài khoản mang 1 ý nghĩa đối với ông, 1 con số có thể nhớ dễ dàng. Cô đã đánh xong số nhập, và mỉm cười ranh mãnh: Một cái gì có vẻ ngẫu nhiên… nhưng lại không ngẫu nhiên
Langdon nhìn vào màn hình.
SỐ TÀI KHOẢN: 123581321
Phải mất 1 lúc Langdon mới nhận ra nhưng khi định vị được thì ông biết là cô đúng.
Cấp số Fibonacci 123581321
Khi cấp số Fibonacci quyện lại thành 1 số duy nhất gồm 10 chữ số, thì hầu như không thể nhận ra được. Dễ nhớ, có vẻ như là ngẫu nhiên. Một mật mã tài tình gồm 10 chữ số mà Saunière không thể quên được. Hơn nữa, nó giải thích 1 cách hoàn hảo lí do tại sao những con số lộn xộn trên sàn của bảo tàng Louvre lại có thể sắp xếp thành cấp số trứ danh ấy.
Sophie với tay và ấn vào phím ENTER trên bàn phím.
Chẳng có gì xảy ra.
Chí ít chẳng có gì họ có thể thấy được.
Cùng lúc đó, ở bên dưới họ, trong hầm ngầm sâu thăm thẳm của ngân hàng, 1 chiếc càng máy bỗng nhiên khởi động.
Trượt trên hệ thống vận chuyển có trục gắn với trần hầm, chiếc càng lao đi tìm toạ độ chính xác. Trên sàn xi măng phía dưới, hàng trăm hòm plastic giống hệt nhau nằm thành hàng trên 1 tấm lưới sắt khổng lồ… tựa những dãy quan tài nằm trong 1 khu hầm mộ trong lòng đất.
Dừng lại trong tiếng ro ro đúng bên trên chỗ cần tìm trên sàn hầm, chiếc càng hạ xuống, 1 con mắt điện tử xác nhận mã vạch trên chiếc hòm. Rồi, với sự chính xác của máy tính, chiếc càng quắp lấy quai xách và nhấc bổng chiếc hòm lên theo chiều thẳng đứng. Bộ bánh răng mới vào khấc, và chiếc càng chuyển chiếc hòm sang đầu kia hầm, dừng lại trên 1 băng chuyền đang đứng im.
Lúc này, cánh tay càng nhẹ nhàng đặt chiếc hòm xuống và rút về.
Chiếc càng vừa rút khỏi, bằng chuyền liền khởi động…
Ở tầng trên, Sophie và Langdon thở phào nhẹ nhõm khi trông thấy chiếc băng chuyền khởi động. Đứng bên băng chuyền, họ cảm thấy mình giống như những lữ khách mệt mỏi ở chỗ lấy đồ đang chờ 1 hành lý bí ẩn mà họ hoàn toàn không biết có gì ở bên trong.
Băng chuyền trôi vào phòng từ phía bên tay phải họ qua 1 khe hẹp bên dưới 1 cánh cửa đẩy ra kéo vào được. Cánh cửa kim loại kéo lên rồi 1 chiếc hòm plastic lớn xuất hiện, từ dưới sâu nhô lên trên mặt phẳng nghiêng của băng chuyền. Chiếc hòm màu đen, khuôn plastic dày, lớn hơn nhiều so với tưởng tượng của Sophie. Trông nó như 1 chiếc hòm chở thú vật kiểng trên máy bay chỉ khác cái là không có lỗ thông khí.
Chiếc hòm dừng ngay trước mặt họ.
Langdon và Sophie đứng đó, im lặng và nhìn chằm chằm vào chiếc hòm bí ẩn ấy.
Giống như mọi khác trong ngân hàng này, chiếc hòm này cũng mang đậm tính công nghiệp - móc cài bằng kim loại, 1 mã vạch dán trên nắp và 1 quai xách rất dày. Sophie nghĩ nó giống như 1 hòm đồ nghề khổng lồ.
Không để tốn thời gian, Sophie tháo 2 chiếc móc cài trước mặt cô. Rồi cô đưa mắt ra hiệu cho Langdon. Họ cùng nhấc nắp hòm, lật ra phía sau.
Bước lên phía trước, họ ngó vào trong.
Thoạt nhìn, Sophie tưởng hòm rỗng không. Rồi, cô nhìn thấy cái gì đó. Dưới đáy hòm. Độc 1 thứ.
Đó là 1 chiếc hộp gỗ đánh bóng, to bằng hộp đựng giầy với những bản lề hoa mĩ. Loại gỗ này có màu tím sẫm óng ánh dưới đường vân thô. Gỗ hồng mộc. Sophie nhận ra. Loại gỗ ông cô ưa thích. Nắp đậy có khảm hình 1 bông hoa hồng. Cô và Langdon bỗng nhiên nhìn nhau bối rồi. Sophie cúi xuống cầm chiếc hộp, nhấc ra khỏi hòm.
Lạy Chú, nặng thế!
Cô cẩn trọng bê chiếc hộp đến đặt trên chiếc bàn rộng.
Langdon đứng bên cạnh cô, cả 2 người nhìn chằm chằm vào cái kho báu nhỏ bé mà rõ ràng là ông Saunière đã phái họ đến đây để thu hồi lại.
Langdon ngỡ ngàng nhìn hình khắc bằng tay khảm trên nắp hộp – 1 bông hồng có 5 cánh. Ông đã từng nhìn thấy loại hoa hồng này nhiều lần. - Một bông hồng 5 cánh – ông thì thầm – là thứ mà Tu viện Sion dùng làm biểu tượng cho Chén Thánh.
Sophie quay lại nhìn Langdon. Langdon biết cô đang nghĩ gì, và ông cũng nghĩ giống như cô. Kích thước của chiếc hộp, trọng lượng hiển nhiên của vật chứa trong đó, và 1 biểu tượng của Tu viện Sion hàm chỉ Chén Thánh, tất cả dường như bao hàm 1 kết luận khó hiểu khôn dò nổi. Chén của Chúa Kirixitô ở trong chiếc hộp này. Chuyện này là bất khả, Langdon lại tự nhủ thầm.
Chiếc hộp này có kích thước hoàn hảo – Sophie thì thầm, - để đựng… 1 chiếc ly.
Đây không thể là chiếc ly được.
Sophie kéo chiếc hộp về phía mình, chuẩn bị mở ra. Tuy nhiên, khi cô di chuyển chiếc hộp, 1 điều bất ngờ đã xảy ra.
Chiếc hộp phát ra 1 âm thanh ùng ục kì lạ. Langdon ậm ừ. Hình như có chất lỏng ở trong?
Sophie cũng có vẻ bối rồi: anh có nghe thấy không?
Langdon gật đầu, hoang mang: “Chất lỏng”
Vươn tay ra, Sophie từ từ tháo móc cài và nhấc nắp lên.
Vật ở bên trong hộp không hề giống với bất kì thứ gì Langdon đã từng nhìn thấy trước đó. Tuy nhiên, với cả 2 người, 1 điều đã sáng tỏ ngay tức khắc: Rõ ràng đây không phải là Chén Thánh.

the_warm_winter
22-07-2008, 07:28 PM
Chương 45
- Cảnh sát đang chặn đường phố - André Vernet vừa nói vừa bước vào phòng đợi. – đưa cô cậu ra khỏi nơi này cũng khó khăn đây. Khi đóng cửa lại sau lưng, Vernet nhìn thấy chiếc họm plastic trên băng chuyền, ông dừng sững lại. Lạy Chúa! Họ vào được tài khoản của Saunière rồi sao?
Sophie và Langdon đang ngồi ở bàn, lúi húi trên 1 vật gì tựa như 1 hộp gỗ lớn đựng đồ nữ trang. Ngay lập tức Sophie đậy nắp hộp lại rồi ngước lên nhìn: - Rút cuộc thì chúng tôi cũng có được số tài khoản – cô nói.
Vernet không nói lên lời. Điều này đã làm thay đổi mọi thứ.
Ông kính cẩn rời mắt khỏi chiếc hộp và cố hình dung bước tiếp theo cần tiến hành. Mình phải đưa họ ra khỏi ngân hàng thôi.
Nhưng cảnh sát đã chặn các ngả đường, Vernet chỉ có thể nghĩ ra 1 cách duy nhất để làm điều ấy. – Thưa cô Neveu, nếu như tôi đưa cô thoát ra khỏi ngân hàng 1 cách an toàn, thì cô sẽ mang thứ này theo hoặc là gửi trả nó về hầm két trước khi đi?
Sophie liếc mắt sang Langdon rồi nhìn Vernet: - Chúng tôi cần phải mang nó theo.
Vernet gật đầu: - Được. Vậy thì bất kể vật đó là gì, tôi cũng khuyên cô nên bọc nó vào áo ngoài khi chúng ta đi qua hành lang. Tôi không muốn bất kỳ ai nhìn thấy nó.
Khi Langdon cởi chiếc áo khoác ra, Vernet vội vàng đến chỗ băng chuyền, đóng chiếc hòm giờ đã rỗng không, rồi đánh vào máy tính vài lệnh đơn giản. Băng chuyền bắt đầu khởi động, đưa chiếc hòm plastic xuống hầm két. Rút chìa khoá ra khỏi ổ, ông trao cho Sophie.
- Xin mời đi theo lối này. Khẩn trương lên.
Khi tới bãi đỗ xe ở phía sau, Vernet có thể thấy ánh đèn pha của cảnh sát rọi xuyên xuống cả gara dưới đất. Ông cau mày. Có thể họ chặn cả đoạn dốc vào ngân hàng. Liệu mình có thực sự giở chiêu này không? Ông toát mồ hôi.
Vernet ra hiệu về phía 1 trong những xe tải nhỏ bọc thép của ngân hàng. Transport sur cũng là 1 khâu khác trong dịch vụ của ngân hàng ký thác Zurich.
- Chui vào thùng chứa hàng đi! – ông vừa nói vừa nâng cánh cửa sau to đúng và chỉ vào khoang bằng thép sáng loàng: - Tôi sẽ quay lại ngay.
Trong khi Sophie và Langdon leo vào, Vernet hối hả băng qua bến chất hàng tới phòng người đốc công, lẻn vào, lấy chùm chìa khoá của chiếc xe tải và tìm thấy 1 chiếc áo đồng phục và mũ tài xế. Ông cởi áo vét tông cùng ca vát của mình ra, rồi mặc bộ đồng phục tài xế vào. Suy đi tính lại, ông đeo luôn cả bao súng lục dưới bộ đồng phục. Trên đường trở ra, ông vớ lấy khẩu súng lục của người tài xế trên giá, nạp đạn và ấn nó vào bao, rồi cài khuy áo. Quay trở lại chiếc xe tải, Vernet kéo xụp chiếc mũ xuống, ngõ nhìn Sophie và Langdon đang đứng trong khoang chứa đồ trống không.
- Hai vị sẽ cần đèn sáng – Vernet nói và với tay vào trong bấm công tắc điện trên thành khoang để bật chiếc bóng đèn trơ trọi trên trần xe. - Tốt hơn là 2 vị hãy ngồi xuống. Đứng nói 1 lời nào trên đường ra cổng đấy.
Sophie và Langdon ngồi bệt xuống sàn xe bằng kim loại. Langdon ôm khư khư vật báu bọc trong chiếc áo khoác bằng vải tuýt.
Đóng chiếc cửa nặng trịch lại, Vernet nhốt 2 người ở bên trong khoang chứa hàng. RỒi ngồi vào sau tay lái và rồ ga khởi động máy.
Khi chiếc xe tải bọc thép ì ạch leo lên đầu dốc, Vernet cảm thấy mồ hôi đầm đìa bên dưới chiếc mũ tài xế. Ông nhìn thấy phía trước có nhiều đèn của cảnh sát hơn cả tưởng tượng. Khi chiếc xe tải leo đến đỉnh dốc, cổng bên trong mở ra cho chiếc xe đi qua. Vernet lái xe tiến lên và đợi cho tới khi cổng khép lại đằng sau mình rồi mới đi tiếp và khởi động máy cảm biến tiếp theo. Chiếc cổng thứ 2 mở ra, và lối thoát vẫy gọi.
Ngoại trừ xe của cảnh sát vẫn chặn ở trên đỉnh dốc.
Vernet thấm mồ hôi trán rồi lái xe tiến về phía trước.
Một sĩ quan cảnh sát cao lêu đêu bước ra và vẫy tay ra hiệu cho ông dừng xe cách rào chắn vài met. Bốn xe của tuần tra đổ ở phía trước.
Vernet dừng xe. Kéo chiếc mũ tài xế sụp xuống thấp hơn nữa, ông cố cư xử cục cằn tới mực mà sự giáo dưỡng văn hoá ông đã được hưởng cho phép. Không nhúc nhích 1 ly khỏi đằng sau tay lái, ông mở cửa xe và nhìn xuống viên cảnh sát có vẻ mặt nghiêm nghị và vàng bủng.
- Qu’est-ce qui se passe? – Vernet hỏi, giọng thô lỗ.
- Je suis Jerome Collet – viên cảnh sát trả lời – Lieutenant qu’il y a la-dedans?
- Tôi biết đếch đâu được! – Vernet trả lời bằng thứ tiếng Pháp sống sượng. – Tôi chỉ là 1 thằng tài xế quèn.
Collet có vẻ không hề lung lạc: - chúng tôi đang truy lùng 2 tên tội phạm
Vernet cười lớn - Thế thì các ông đến đúng chỗ rồi đấy. Một vài thằng cha mà tôi lái xe cho nhiều tiền lắm, nhất định chúng phải là tội phạm.
Tay cảnh sát giơ 1 tấm ảnh hộ chiếu của Robert Langdon: - người đàn ông này tối nay có đến ngân hàng các ông không?
Vernet nhún vai: - Mù tịt. Tôi chỉ là ở bến bốc dỡ. Họ đâu có để tôi đến gần khách hàng. Ông cần vào trong kia hỏi thường trực ấy.
- Ngân hàng yêu cầu xuất trình lệnh khám xét mới được vào.
Vernet làm ra vẻ ghê tởm: - Cái bọn hành chính ấy mà. Chỉ cản trờn ta.
- Mở cửa xe của ông ra! – Collet chỉ về phía thùng chứa hàng.
Vernet nhìn chằm chằm viên cảnh sát, rồi dặn ra 1 tiếng cười rất chướng tai. - Mở cửa xe ra ư? Thế ông nghĩ là tôi có chìa khoá à? Thế ông nghĩ họ tin tưởng tôi đến vậy hay sao? Ông nên biết đến đồng lương còm mà họ trả cho tôi chứ.
Viên cảnh sát nghiêng nghé đầu ngờ vực ra mặt: - Ông vừa nói không có chìa khoá cho chính chiếc xe của mình hay sao?
Vernet lắc đầu: - Tôi không có chìa khoa mở thùng chứa hàng. Chỉ có chìa khởi động xe thôi. Những xe tải này do đốc công khoá ngay tại bến bốc dỡ. Rồi xe cứ phải nằm tại bến trong khi 1 người mang chìa khoá thùng chứa hàng đến điểm nhận hàng. Một khi có điện thoại báo là chìa đã đến tay người nhận rồi, chúng tôi mới được phép xuất phát. Không được sớm hơn 1 giây. Tôi chẳng bao giờ biết mình đang chở cái của nợ gì đâu.
- Thế xe này bị khoá thùng hàng lúc nào?
- Chắc cũng phải hàng tiếng đồng hồ trước đây rồi. Đêm nay, tôi phải lái đến St.Thurial. Chìa khoá thùng hàng đã ở đó rồi.
Viên cảnh sát không phản ứng gì, đôi mắt dò xét như thể cố đọc ý nghĩ của Vernet.
Một giọt mồ hôi sắp chảy xuống sống mũi Vernet: - Ông cho phép chứ? – Vernet nói, quệt mũi bằng ống tay áo và ra hiệu về chiếc xe cảnh sát đang cản đường ông. - Lịch trình của tôi chặt chẽ lắm.
- Tất cả tài xế đều đeo đồng hồ hiệu Rolex ư? – Viên cảnh sát chỉ cổ tay của Vernet hoi.
Vernet liếc xuống và nhìn thấy chiếc dây sáng lấp lánh của chiếc đồng hồ đắt tiền ló ra từ dưới ống tay áo. – Merde. Cái cục cứt này ấy à? Tôi mua nó 20 Euro từ 1 gã bán rong người Đài Loan ở St.Germain des Prés đấy. Có thích đưa 40 Euro tôi để lại cho.
Viên cảnh sát dừng việc tra xét và cuối cùng, đứng dẹp sang bên: - Không, cảm ơn. Chúc thượng lộ bình an.
Vernet nín thở cho đến tận khi chiếc xe tải đi xuống con đường phố được chừng 50m. Giờ đây ông phải đối mặt với 1 vấn đế khác: Món hàng ông đang chở. – Mình sẽ đưa họ đi đâu?

the_warm_winter
23-07-2008, 10:49 PM
Chương 46
Sillas nằm úp sấp trên tấm vải bạt trong phòng riêng, phơi lưng ra cho không khí cho máu từ những vết quất vón cục lại. Đêm nay khổ hình lần thứ 2 khiến hắn chóng mặt và yếu lả. Hắn còn phải tháo chiếc dây lưng hành xác, và hắn có thể cảm thấy máu đang rỉ xuống mé trong bắp đùi. Tuy nhiên, hắn không có lí do chính đáng nào để tháo chiếc đai lưng ra.
Mình đã không hoàn thành nghĩa vụ với Nhà Thờ. Tồi tệ hơn, mình còn phụ lòng giám mục nữa.
Đêm nay lẽ ra là đêm cứu rỗi của giám mục Aringarosa.
5 tháng trước đây, giám mục trở về từ 1 cuộc gặp mặt tại đài thiên văn Vatican, ông biết được điều gì đó khiến ông thay đổi sâu sắc. Buồn rũ trong nhiều tuần liền, giám mục Aringarosa cuồi cùng đã quyết định chia sẻ tin tức cho Sillas.
- Nhưng điều này là bất khả? – Sillas gào ầm lên. – Con không thể chấp nhận điều này được!
- Đó là sự thật đấy, - Aringarosa khẳng định. – Không thể tưởng tượng được, nhưng chuyện này là sự thật. Chỉ trong vòng 6 tháng nữa thôi.
Lời nói của vị giám mục khiến Sillas hoảng sợ. Hắn cầu nguyện xin được giải thoát, thậm chí trong những ngày tăm tối ấy đức tin của hắn vào Chúa cũng như vào Đạo chưa bao giờ lung lay. Chỉ 1 tháng sau, mây mù bỗng tan 1 cách kì diệu và ánh sáng của khả năng thành công bừng lên chói lọi.
Giám mục gọi điều đó là sự Can thiệp Thần thánh.
Lần đầu tiên, giám mục lại có vẻ tràn trề hi vọng: - Sillas này – ông thì thâm – Chúa đã ban tặng cho chúng ta cơ hội để bảo vệ Đạo. Cuộc chiến của chúng ta, cũng như mọi cuộc chiến khác, sẽ đòi hỏi hi sinh. Con sẽ là 1 người lính của Chúa chứ?
Sillas quỳ xuống trước mặt giám mục Aringarosa – người đã ban cho hắn 1 cuộc sống mới và nói: - Con là con chiên của Chúa. Hãy dẫn dắt con như lời trái tim Cha mách bảo.
Khi Aringarosa mô tả cơ hội đã tự đến như thế nào, Sillas biết rằng đó chỉ có thể là do bàn tay của Chúa. Ôi số phận nhiệm màu. Giám mục Aringarosa sắp xếm cho Sillas tiếp xúc với người đề ra kế hoạch – 1 người tự xưng là Thầy Giáo. Mặc dù Thầy Giáo và Sillas chưa từng mặt đối mặt, mỗi lần họ nói chuyện điện thoại với nhau, Sillas đều kính nể cả sự uyên thâm trong đức tin của Thầy Giáo lẫn phạm vi quyền năng rộng lớn của ông. Dường như Thầy Giáo biết tất cả mọi điều, là 1 người có tai mắt ở khắp mọi nơi. Làm thế nào mà Thầy Giáo lại có thể thu thập được thông tin của mình thì Sillas cũng không biết, nhưng giám mục Aringarosa đã đặt 1 niềm tin lớn lao vào Thầy Giáo, và ông cũng yêu cầu Sillas như thế: - hãy làm như Thầy Giáo sai khiến - vị giám mục nói với Sillas, - và chúng ta sẽ chiến thắng.
Chiến thắng. Sillas nhìn sàn nhà trống trơn và sợ rằng chiến thắng đã né tránh họ. Thầy Giáo đã mắc lừa. Viên đá đỉnh vòm là 1 cái ngõ cụt quanh co. và với việc bị lừa, mọi hi vọng đã tiêu tan.
Sillas ước mình có thể gọi điện và cảnh báo cho giám mục Aringarosa, nhưng đêm nay Thầy Giáo đã tắt hết các phương tiện liên lạc trực tiếp. Vì sự an toàn của chúng ta. Cuối cùng, cố dẹp cơn run rẩy, Sillas lồm cồm bò dậy, tìm thấy chiếc áo chùng của hắn nằm trên sàn nhà. Hắn rút chiếc điện thoại di động ra từ trong túi áo. Gục đầu tủi nhục, hắn bấm số.
- Thầy Giáo đấy ạ? - hắn thì thầm. Đi đứt cả rồi. – Sillas thành thực kể hết cho Thầy Giáo chuyện hắn đã bị lừa như thế nào.
- Anh đã đánh mất niềm tin quá nhanh đấy, - Thầy Giáo trả lời phía đầu dây bên kia. Ta vừa mới nhận được thông tin thôi. Hết sức bất ngờ và đáng mừng. Điều bí mật vẫn chưa mất. Jacques Saunière đã truyền đạt thông tin trước khi chết. Ta sẽ sớm gọi lại cho anh. Công việc của chúng ta đêm nay đã xong đâu.

the_warm_winter
23-07-2008, 11:02 PM
Chương 47
Di chuyển trong khoang chứa đồ sáng lờ mờ của chiếc xe tải bọc thép chẳng khác nào bị chở đi trong 1 xà lim biệt giam vậy. Langdon cố chống lại nỗi lo sợ quá quen thuộc thường ám ảnh ông khi bị hãm trong khoảng hẹp kín. Vernet đã nói rằng ông ta sẽ đưa chúng ta ra ngoài thành phố tới 1 khoảng cách an toàn. Ở chỗ nào? Bao xa?
Chân Langdon đã tê cứng vì phải ngồi xếp bằng trên cái sàn kim loại, và ông bèn đổi tư thế, nhăn mặt khi cảm thấy máu đang dồn xuống phần dưới cơ thể. Ông vẫn ôm khư khư cái kho báu kì dị mà họ đã lấy ra được từ ngân hàng.
Tôi nghĩ chúng ta đang đi trên đường cao tốc – Sophie thì thào.
Langdon cũng cảm thấy thế. Sau quáng dừng lại căng thẳng ở đầu bờ dốc vào ngân hàng, chiếc xe tải tiếp tục đi, ngoằn ngèo sang trái sang phải 1 vào phút, và giờ đây xe đang lao đi với vận tốc tối đa. Phía dưới họ, những chiếc lốp chống đán chạy ro ro trên mặt đường phẳng lì. Cố ý tập trung chú ý vào chiếc hộp gỗ hồng mộc trong tay mình, Langdon đặt cái bọc quý giá xuống sàn, giở chiếc áo bọc ngoài, lôi chiếc hộp ra và kéo về phía mình. Sophie thay đổi tư thế để ngồi bên cạnh ông.
Langdon bỗng cảm thấy họ như 2 đứa trẻ chụm đầu trên 1 món quà Giáng sinh.
Tương phản với màu thẫm của chiếc hộp gỗ hồng mộc, bông hoa hồng khảm trên đó được gia công bằng 1 loại gỗ có màu nhạt, có lẽ là màu tro, ánh lên dưới ngọn đèn điện mờ. Hoa Hồng. Bao đạo quân và tôn giáo cũng như hội kín đã được xây dựng trên biểu tượng này. Những thành viên Thập Tự Hồng. Những Hiếp Sĩ Thập Tự Hồng.
- Tiếp tục đi – Sophie nói. - Mở ra.
Langdon thở thật sâu. Với tay đến nắp hộp, 1 lần nữa ông lại lén đưa mắt nhìn hình khảm khắc tinh vi ấy 1 cách ngưỡng mộ, rồi sau đó mới tháo chiếc móc gài, mở nắp, để lộ vật ở bên trong ấp nhiều hoang tưởng về cái họ có thể tìm thấy trong chiếc hộp này, nhưng rõ ràng ông đã lầm mọi bề.
Nằm gọn êm ấm bên trong chiếc hộp lót dày dặn 1 lớp lụa màu đỏ thắm, là 1 vật mà Langdon lúc đầu không hiểu là cái gì.
Gia công từ cẩm thạch trắng mài bóng, vật hình trụ đó có kích thước ang áng 1 cái hộp đựng bóng quần vợt. Nhưng hình trụ này còn phức tạp hơn nhiều so với 1 trụ đá đơn giản, dường như nó được ghép lại từ rất nhiều mảnh. Năm chiếc đĩa cẩm thạch to bằng chiếc bánh cam vòng được xếp chồng và gắn vào nhau trong 1 khung đồng tinh xảo. Trông nó giống như 1 loại kính vạn hoa nhiều ống ngắm. Mỗi đầu của trụ có gắn 1 nắp cũng bằng cẩm thạch khiến ta không thể nhìn thấu bên trong. Nghe thấy tiếng chất lỏng bên trong!
Langdon cho rằng hình trụ này rỗng.
Tuy cấu trúc của ống mới là điều thu hút sự chú ý đặc biệt của Langdon. Mỗi 1 chiếc trong số 5 chiếc đều được khắc lên cùng 1 loạt chữ cái y hệt nhau – toàn bộ bảng chữ cái. Ống hình trụ khắc chữ ấy khiến Langdon nhớ tới 1 thứ đồ chơi hồi nhỏ - 1 chiếc gậy được luồn qua những chiếc ống có viết các chữ cái, nó có thể quay quanh trục là chiếc gậy kia để đánh vẫn những từ khác nhau.
- Kì dị không? – Sophie thì thầm.
Langdon ngước nhìn: - Tôi chịu không hiểu. Nó là cái quái quỉ gì?
Một ánh lấp lánh trong mắt Sophie: - Ông tôi thường hay tỉ mẩn làm những thứ thế này, coi như 1 thú vui. Danh hoạ Leonardo da Vinci đã phát minh ra những thứ này.
Ngay cả trong ánh điện mờ tối, Sophie vẫn thấy Langdon rất ngạc nhiên
- Da Vinci ư? Ông lẩm bẩm rồi lại nhìn vào chiếc ống đó.
- Đúng thế. Người ta gọi đó là hộp mật mã. Theo ông tôi, những bản phác hoạ đều xuất xứ từ 1 trong những nhật ký bí mật của Da Vinci
- Hộp mật mã ấy để làm gì?
Bằng vào các sự kiện diễn ra tối nay, Sophie biết rằng câu trả lời có thể chứa đựng những hàm ý thú vị: - Đó là những két ngầm – cô trả lời – dành cho việc cất giữ những thông tin tuyệt mật.
Langdon giương mắt to hơn.
Sophie giải thích rằng tạo ra những mô hình theo phát minh của Da Vinci là 1 trong những thú tiêu khiển mà ông cô yêu thích nhất. Là 1 nghệ nhân tài năng đã miệt mài hàng giờ trong xưởng gỗ và kim loại của mình, Jacques Saunière khoái bắt chước các nghệ nhân bậc thầy như Fabergé, và 1 người khác, ít tính nghệ thuật hơn nhưng lại thực tế hơn nhiều, đó là Da Vinci.
Chỉ cần liếc sơ qua nhật kí của Da Vinci cũng thấy rõ tại sao danh hoạ này lại nổi tiếng ngang nhau về cái tật thiếu sự hoàn tất cũng như về tài năng kiệt xuất. Da Vinci đã phác ra những dự thảo cho hàng trăm phát minh mà ông chưa bao giờ hoàn tất. Một trong số những thú tiêu khiển ưa thích của Jacques Saunière là thực hiện những sáng kiến đột xuất còn mơ hồ của Da Vinci – những kiểu đồng hồ, những ống dẫn nước, những hộp mật mã và thậm chí cả mô hình 1 hiệp sĩ Pháp thời trung cổ có đầy đủ khớp nối, mà giờ đây vẫn kiêu hãnh đứng trên bàn làm việc trong văn phòng của ông. Được Da Vinci thiết kế vào năm 1495 như là kết quả tự nhiên của thời kì đầu ông nghiên cứu khoa giải phẫu học và động lực học, cơ chế bên trong của rô bốt - hiệp sĩ này có những dây chằng và khớp nối chính xác được thiết kể để có thể đứng dậy từ tư thế ngồi, vẫy tay và cử động đầu thông qua 1 chiếc cổ rất linh hoạt cũng như đóng, mở được làm rất chính xác về mặt giải phẫu học.
Sophie vẫn luôn đinh ninh rằng chàng hiệp sĩ mặc áo giáp ấy là đồ vật đẹp nhất mà ông cô từng làm – cho tới khi cô trông thấy hộp mật mã trong chiếc hộp gỗ hồng mộc này.
- Ông đã làm cho tôi 1 trong những thứ này khi tôi còn nhỏ xíu – Sophie kể lại. – Nhưng tôi chưa bao giờ thấy 1 đồ vật nào to và công phu đến thế này.
Từ nãy, mắt Langdon vẫn không rời khỏi chiếc hộp: - Tôi chưa bao giờ nghe thấy người ta nói để 1 hộp mật mã.
Sophie chẳng lấy làm ngạc nhiên. Hầu hết những phát minh chưa thực hiện của Da Vinci chưa hề được nghiên cứu, thậm chí chưa có ai đặt tên cho chúng. Cái từ hộp mật mã này có thể là 1 sự sáng tạo của ông cô thôi, 1 tiêu đề thích hợp cho cái khí cụ đã sử dụng khoa học mật mã để bảo vệ những thông tin được viết trên những cuộn giấy hay những văn bản chép tay thời cổ.
Sophie biết Da Vinci là người tiên phong trong lĩnh vực mật mã, mặc dù hiếm khi ông được công nhận là thế. Những giảng viên trong trường đại học của Sophie trong khi thuyết trình về các phương pháp lưu giữ thông tin qua mật mã trên máy tính đã hết lời ca ngợi những mật mã gia thời nay như Zimmerman và Schneier mà chẳng hề nhắc đến 1 điều là từ mấy thế kỉ trước, Leonardo đã phát minh ra 1 trong những số nguyên lý sơ đẳng đầu tiên của việc sử dụng mật mã cùng với chìa khoá mở mã.
Tất nhiên, ông của Sophie là người đầu tiên nói cho cô biết về điều ấy. Khi chiếc xe tải bọc thép gầm rú trên đường cao tốc, Sophie giải thích cho Langdon rằng hộp mật mã là giải pháp của Da Vinci cho tình thế nan giải khi phải gửi những thông điệp bí mật đến những nơi xa. Trong 1 thời đại không có điện thoại cũng chẳng có thư điện tử, bất kì ai muốn truyền thông tin riêng của mình đến 1 người nào khác ở nơi xa cũng chỉ có 1 cách là viết lên mặt giấy và giao phó cho 1 người mang thư đi. Nếu chẳng may người mang thư ấy ngờ là trong thư có những thông tin quý giá, anh ta có thể bán đứng nó cho kẻ thù để kiếm được nhiều tiền hơn là đưa nó đến đúng địa chỉ.
Nhiều bộ óc lớn trong lịch sử đã phát minh ra các phương pháp sử dụng mật mã để giải quyết những thách thức trong việc bảo vệ dữ liệu: - Julius Caesar phát minh ra cách viết mật mã được gọi là hộp Caesar; Mary, nữ hoàng Xcốtlen đã tạo ra mật mã thay thế và gửi đi những thông cáo bí mật từ nhà tù, và nhà khoa học xuất sắc người Arập Abu Yusuf Ismai al-Kindi đã bảo vệ được những bí mật của mình bằng 1 mật mã thay thế tài tình sử dụng nhiều chữ cái khác nhau.
Tuy nhiên Da Vinci lại né tránh toán và mật mã học, để tìm 1 giải pháp cơ học. Hộp mật mã. Một thứ côngtennơ xách tay có thể đảm bảo an toàn cho những lá thư, những tấm bản đồ, biểu đồ, hay bất kì thứ gì khác. Một khi thông tin được khoá bên trong hộp mật mã thì chỉ những ai biết chính xác mật khẩu mới có thể truy nhập được.
- Chúng ta cần phải có 1 mật khẩu – Sophie nói, chỉ tay vào những đĩa có khắc chữ cái. Hộp mật mã vận hành rất giống loại khoá chữ dùng cho xe đạp. Nếu ta xoay các vòng số vào đúng vị trí, khoá sẽ tuột ra. Hộp mật mã này có năm đĩa khắc chữ cái. Khi ta xoay chúng vào đúng trình tự các lẫy khoá bên trong sẽ thẳng hàng, và toàn bộ hình trụ sẽ rời ra.
- Thế còn bên trong?
- Một khi hình trụ này rời ra, ta sẽ thấy 1 khoang rỗng ở giữa, khoang này có thể chứa 1 cuộn giấy, trên đó có ghi lại những thông tin ta muốn giữ bí mật.
Langdon có vẻ không tin: - Cô nói ông cô đã từng làm cho cô những thứ như thế này khi cô còn nhỏ?
- Vâng, 1 vài thứ nhỏ hơn thế này. 2 lần vào dịp sinh nhật tôi, ông đã cho tôi hộp mật mã và 1 câu đó. Lời giải cho câu đố đó chính là chìa khoá để mở hộp mật mã, và do đoán ra lời giải, tôi đã mở được hộp và tìm thấy thiếp chúc mừng sinh nhật của mình.
- Mất quá nhiều công để được 1 tấm thiếp.
- Không, tấm thiếp bao giờ cũng có 1 câu đố khác hoặc 1 đầu mối khác. Ông tôi người cũng thích những cuộc săn lùng kho báu công phu diễn ra xung quanh căn nhà của chúng tôi 1 loạt các đầu mối dần dần đưa tôi đến với 1 món quà thực sự. Mỗi 1 cuộc săn lùng kho báu lại là 1 trắc nghiệm về tính cách và trình độ của tôi, để chắc chắn rằng tôi xứng đáng được những phần thưởng đó. Và những trắc nghiệm ấy chưa bao giờ đơn giản cả.
Langdon lại đưa mắt nhìn cái hộp 1 lần nữa, trông ông vẫn còn đầy vẻ hoài nghi: Nhưng tại sao không cậy cho nó rời ra hoặc đập tan nó ra? Chất kim loại này nom có vẻ mảnh và cẩm thạch là 1 loại đá mềm mà.
Sophie mỉm cười: - Bởi vì Da Vinci rất tinh ranh nên đã phòng ngừa điều đó. Ông đã thiết kế hộp mật mã sao cho nếu ai cố tình cưỡng mở nó bằng mọi cách, thông tin bên trong hình trụ này sẽ tự huỷ. Anh xem đây. – Sophie với tay vào trong hộp và thận trọng nhấc chiếc ống hình trụ lên. - Bất kì thông tin gì cần đưa vào đây thoạt tiên phải được viết trên 1 cuộn giấy papyrys (giấy làm từ cây sậy) rồi sau đó mới được nhét vào trong ống.
- Không phải giấy bằng da cừu à?
Sophie lắc đầu: - papyrus. Tôi biết giấy làm bằng da cừu bền hơn và phổ biến hơn trong thời kì đó. Nhưng bắt buộc phải dùng giấy papyrus. Càng mỏng càng tốt.
- Tôi hiểu rồi
- Trước khi giấy papyrus được nhét vào trong phần rỗng của hình trụ, nó được cuộn quanh 1 lọ thuỷ tinh dễ vỡ. Cô khẽ chạm vào hộp mật mã và chất lỏng trong đó kểu ùng ục. - Lọ đựng chất lỏng.
- Chất lỏng gì?
Sophie mỉm cười: - Dấm
Langdon do dự 1 lúc rồi gật đầu: - Tài thật đấy
Dấm và giấy papyrus. Sophie nghĩ bụng. Nếu 1 người nào đó cố mở cho kỳ được hộp mật mã, lọ thuỷ tinh kia sẽ vỡ và dấm sẽ nhanh chóng hoà tan giấy papyrus. Đến lúc đó, kẻ nào lôi được cuộn giấy ghi lời nhắn bí mật, thì nó chỉ còn là 1 cục bột giấy nhão vô nghĩa mà thôi.
- Như anh thấy đấy – Sophie nói với Langdon – cách duy nhất có thể truy nhập thông tin ở bên trong là biết chính xác mật khẩu gồm 5 chữ cái. Với 5 số mà có cả thảy 26 chữ cái, thể là có tới 26 luỹ thừa 5 sự hoán đổi. Cô ước lượng khả năng hoán vụ. – Áng chừng 12 triệu khả năng.
- Nếu đúng vậy! – Langdon nói, trông có vẻ như trong đầu ông cũng có khoảng 12 triệu câu hỏi đang quay cuồng. - Vậy cô nghĩ thông tin gì có thể ở bên trong đây?
- Dù nó là gì thì hiển nhiên là ông tôi rất muốn giữ nó trong bí mật – cô dừng lại, đóng nắp hộp và nhìn bông hồng 5 cánh trên đó. Có điều gì đó đang làm cô băn khoăn. - Vừa nãy anh nói hoa hồng là biểu tượng của Chén Thánh?
- Chính xác. Trong hệ biểu tượng của Tu viện Sion, hoa hồng và Chén Thánh là đồng nghĩa.
Sophie nhăn trán: - thật kì lạ, bởi ông tôi bao giờ cũng bảo hoa hồng có nghĩa là bí mật. Ở nhà tôi ông thường treo lên cửa phòng làm việc 1 bông hoa hồng mỗi khi ông có 1 cú điện thoại riêng mà ông không muốn để tôi quấy rầy. Ông cũng khuyến khích tôi làm như thế. – Cưng à, ông nói, thay vì khoá trái cửa mỗi khi cần riêng tư, chúng ta có thể treo 1 bông hoa hồng trước cửa – la fleur des sccret. Như vậy ta học cách tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Treo 1 bông hoa hồng là 1 phong tục của người La mã cổ đại.
- Sub rosa - dưới 1 bông hống – Langdon lẩm bẩm. Người La mã đã treo 1 bông hoa hồng trước những cuộc họp để ám chỉ rằng cuộc họp này là bí mật. những người tham dự buộc phải hiểu rằng bất cứ điều gì được nói dưới bông hồng – sub rosa đều phải được giữ bí mật.
Langdon giải thích sơ qua rằng hàm nghĩa bí mật của hoa hồng không phải là lí do duy nhất khiến Tu viện Sion lựa chọn nó làm biểu tượng cho Chén Thánh. Rosa rugosa – 1 trong những loại hoa hồng cổ xưa nhất có 5 cánh với sự đối xứng ngũ giác, giống như ngôi sao Kim chỉ đường, đem lại cho Hoa Hồng những liên hệ hình tượng với tính nữ. Thêm vào đó, Hoa Hồng lại gắn bó khăng khít với khái niệm “đúng hướng” và chỉ đường. La bàn Hoa Hồng làm hoa tiêu cho các lữ khách cũng như những Đường Hoa Hồng, những đường kinh tuyến trên các bản đồ vậy. Vì lí do đó, Hoa Hồng được coi là biểu tượng cho Chén Thánh ở nhiều cấp độ - bí mật, tính nữ, và dẫn dắt – đó là chiếc chén nữ tính và ngôi sao chỉ đường dẫn đến sự thật bí mật.
Khi giải thích xong, vẻ mặt Langdon bỗng như rúm lại.
- Robert? Anh vẫn ổn đấy chứ?
Mắt Langdon dán chặt vào chiếc hộp bằng gỗ hồng mộc.
- Dưới… Hoa Hồng – ông nghẹn lại, 1 vẻ hoang mang dễ sợ bao trùm khắp khuôn mặt – không thể thế được.
- Cái gì vậy?
Langdon từ từ ngước lên” Ẩn sau dấu hiệu Hoa Hồng – ông thì thào - hộp mật mã này … tôi nghĩ tôi biết nó là gì rồi.

the_warm_winter
23-07-2008, 11:36 PM
Chương 48
Robert Langdon hầu như không tin vào giả thuyết của chính mình, nhưng bằng vào người đã giao lại cho họ cái trụ đã cùng cách thức ông ấy chuyển giao nó cho họ, và giờ đây, bằng vào bông hồng khảm trên chiếc hộp, Langdon chỉ có thể rút ra duy nhất 1 kết luận.
Mình đang cầm viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion.
Truyền thuyết là rất cụ thể.
Viên đá đỉnh vòm là 1 viên đá được mã hoá bằng dấu hiệu Hoa Hồng.
- Robert à – Sophie quan sát ông. – Có chuyện gì vậy?
Langdon cần 1 chút thời gian để tập hợp những suy nghĩ của mình. – Ông cô có bao giờ nói với cô về 1 cái gì gọi là “la clef de voute: không?
- Có nghĩa là chìa khoá vào hầm két? – Sophie dịch câu hỏi của Langdon.
- Không, đó là dịch theo nghĩa đen. Clef de voute là 1 thuật ngữ kiến trúc thông dụng. Voute ở đây không chỉ là hầm cất giữ đồ quý giá ở ngân hàng mà chỉ cái vòm của 1 cửa tò vò. Thí dụ như trần vòm.
- Nhưng trần nhà xây hình vòm thì làm gì có chìa khoá?
- Trên thực tế, chúng lại có đấy. Mọi cửa tò vò bằng đá đều cần có 1 hòn đá hình chữ V ở phần chóp để gắn kết các mảnh vào với nhau và gánh toàn bộ sức nặng. Theo nghĩa kiến trúc, hòn đá này chính là chìa khoá của vòm. Trong tiếng Anh chúng tôi gọi nó là keystone. – Langdon quan sát Sophie chờ 1 ánh mắt loé lên chứng tỏ cô nhận ra 1 điều gì.
Sophie nhún vai, liếc xuống hộp mật mã: - nhưng hiển nhiên đây không phải là viên đá đỉnh vòm.
Langdon không biết nên bắt đầu từ đâu. Đá đỉnh vòm, với tư cách là 1 chi tiết kĩ thuật nề để xây dựng cửa tò vò bằng đá, xưa vốn là 1 trong số những bí quyết được giữ kín nhất của hội Tam Điểm. Cấp Vòm Hoàng Gia. Kiến trúc. Đá đỉnh vòm. Tất cả những thứ này đều liên quan với nhau. Bí quyết về cách dùng 1 hòn đá đỉnh vòm chêm vào để xây cửa vòm là 1 phần của sự thông thái đã khiến cho những thành viên của hội Tam Điểm trở thành những nghệ nhân giàu có đến thế, và đó là 1 bí quyết mà họ giữ gìn rất cẩn mật. Xưa nay, đá đỉnh vòm vẫn có truyền thống bí mật. Tuy nhiên, cái trụ bằng đá trong chiếc hộp gỗ hồng này hiển nhiên là 1 cái gì khác hẳn.
Viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion - nếu quả thực đó là cái mà họ đang nắm giữ - hoàn toàn không phải là cái mà Langdon đã hình dung.
- Viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion không thuộc về chuyên môn của tôi – Langdon thừa nhận. - Mối quan tâm của tôi đối với Chén Thánh chủ yếu là về mặt kí tượng học, cho nên tôi có khuynh hướng không đếm xỉa đến việc có quá nhiều truyền thuyết về việc làm thế nào để thực sự tìm ra Chén Thánh.
Sophie nhướn mày: - Tìm ra Chén Thánh?
Langdon gật đầu 1 cách không thoải mái, rồi cẩn trọng nói tiếp: - Sophie này theo các truyển thuyết kể về Tu viện Sion, viên đá đỉnh vòm là nơi 1 tấm bản đồ được mã hoá… 1 tấm bản đồ tiết lộ nơi cất giấu Chén Thánh.
Mặt Sophie thất thần: - và anh nghĩ đây chính là viên đá đỉnh vòm ấy sao?
Langdon cũng chẳng biết phải nói gì nữa. Ngay cả với ông, điều đó nghe cũng khó tin, vậy mà viên đá đỉnh vòm lại là 1 kết luận logic duy nhất mà ông có thể rút ra. Một hòn đá được mã hoá được giấu bên dưới dấu hiệu Hoa Hồng.
Ý tưởng cho rằng hộp mật mã là sáng kiến của danh hoạ Leonardo Da Vinci - cựu đại sư của Tu viện Sion – là 1 dấu hiệu đầy cám dỗ khác nói lên rằng đây quả thật là vien đá đỉnh vòm của Tu viện Sion. Một thiết kế của cựu đại sư được thực hiện bởi 1 thành viên khác của Tu viện Sion. Mối quan hệ này hiển nhiên đến mức khó có thể gạt bỏ.
Trong suốt thập kỉ cuối cùng của thế kỉ này, các sử gia vẫn đang cố tìm kiếm viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion tại rất nhiều nhà thờ ở Pháp. Những người tìm kiếm Chén Thánh, vốn quen thuộc với lối nói nước đôi lập lờ trong lịch sử của Tu viện Sion, đã đi đến kết luận rằng la clef de voute là 1 viên đá đỉnh vòm theo nghĩa đen – 1 bộ phận chêm trong kiến trúc – 1 viên đá được khắc chạm và mã hoá, được gắn vào cửa vòm trong 1 nhà thờ nào đó. Dưới ký hiệu Hoa Hồng. Trong kiến trúc, không hề thiếu hoa hồng. Cửa sổ hoa hồng. Phù điêu hoa hồng. Và tất nhiên vô số những ngũ diệp hoa – những hình trang trí hoa 5 cánh thường thấy rất nhiều trên chóp các cửa tò vò, ngay trên viên đá đỉnh vòm. Chỗ cất giấu xem ra đơn giản 1 cách ma quái. Bản đồ dần đến Chén Thánh được ghép và tận phía trên cao cửa vòm của 1 nhà thờ nào đó, như cười nhạo những con chiên mù loà đi ngay bên dưới nó.
Hộp mật mã này không thể là viên đá đỉnh vòm được – Sophie tranh cãi. Nó đâu có lâu đời đến thế. Tôi dám chắc rằng ông tôi đã làm ra nó. Nó không thể là 1 phần trong bất cứ truyền thuyết cổ nào nói vể Chén Thánh.
- Trong thực tế - Langdon đáp, cảm thấy 1 niềm phấn khích rạo rực trong người – người ta tin rằng Tu viện Sion đã làm ra viên đá đỉnh vòm vào khoảng 2 thập kỉ trở lại đây.
Mắt Sophie loé lên sự hoài nghi: - Nhưng nếu hộp mật mã này lại tiết lộ nơi cất giữ Chén Thánh tại sao ông tôi lại giao nó cho tôi? Tôi chẳng biết làm thế nào để mở nó và làm gì với nó. Thậm chí tôi còn chẳng biét Chén Thánh là cái gì nữa!
Langdon ngạc nhiên nhận ra rằng Sophie nói đúng. Ông chưa có dịp giải thích cho cô về bản chất thực sự của Chén Thánh. Chuyện ấy để sau hẵng hay. Lúc này, họ phải tập trung vào viên đá đỉnh vòm đã.
Nếu đây đúng là cái…
Trên nền tiếng bánh xa chống đạn lăn ro ro bên dưới họ, Langdon giải thích nhanh cho Sophie mọi thứ mà ông đã nghe được về viên đá đỉnh vòm. Người ta cho rằng, trong suốt nhiều thế kỉ, bí mật lớn nhát của Tu viện Sion – nơi giấu Chén Thánh chưa bao giờ được viết ra trên giấy trắng mực đen. Vì sự an toàn, nó chỉ được truyền miệng cho mỗi pháp quan mới thụ chức của hội kín này trong 1 nghi lễ bí mật. Tuy nhiên vào 1 thời điểm nào đó trong thế kỉ qua, đã nổi lên những lời xì xào rằng chính sách của Tu viện Sion đã thay đổi. Có lẽ điều này là do giờ đây người ta có thể nghe trộm thông qua các thiết bị điện tử hiện đại. Nhưng Tu viện Sion đã thề sẽ không bao giờ nói ra nơi cất giấu Chén Thánh linh thiêng.
- Nhưng vậy thì họ truyền lại bí mật về Chén Thánh như thế nào –Sophie hỏi.
- Đó chính là lúc viên đá đỉnh vòm nhập cuộc –Langdon giải thích. Khi 1 trong 4 thành viên lãnh đạo cao nhất qua đời, ba người còn lại sẽ lựa chọn từ các cấp dưới 1 ứng cử viên để đưa lên chức pháp quan. Trước khi nói cho pháp quan biết nơi cất giữ Chén Thánh, họ kiểm tra ứng cử viên, để qua đó ông này có thể chứng tỏ mình có xứng đáng hay không.
Sophie có vẻ vẫn chưa thoả mãn với điều này, và Langdon chợt nhớ là cô đã kể chuyện dạo xưa ông Saunière thường bày đặt để cô săn lùng kho báu như thế nào – preuves de merite. Phải thừa nhận là viên đá đỉnh vòm cũng là 1 khái niệm tương tự. Vậy thì những cuộc sát hạch như thế này cực kì phổ biến trong những hội kín. Hội kín được biết đến nhiều nhất là hội Tam Điểm. Trong hội này, các thành viên muốn thăng cấp phải chứng tỏ mình có khả năng giữ bí mật, phải biết hành lễ và qua những trắc nghiệm chứng tỏ giá trị của mình trong vòng nhiều năm. Nhiệm vụ khó dần lên cho đến khi đạt tới đỉnh điểm là được lên cấp 32 trong hội Tam Điểm.
- Vậy viên đá đỉnh vòm bày là 1 preuve de merite – Sophie nói. - Nếu pháp quan kế nhiệm trong Tu viện Sion có thể mở được nói, ông ta sẽ chứng tỏ mình xứng đáng được nắm thông tin mà nó tàng chứa.
Langdon gật đầu: - Tôi quên mất là cô rất có kinh nghiệm trong loại trò chơi này.
- Không chỉ với ông tôi đâu. Trong mật mã học, cái đó được gọi là “ngôn ngữ tự cho phép”. Có nghĩa là nếu anh đủ thông minh để đọc được mật mã đó, thì anh được phép biết người ta đang nói gì.
Langdon đắn đo 1 thoáng: - Sophie này, cô có cảm nhận thấy rằng nếu đây quả thực llà viên đá đỉnh vòm thì việc ông cô được nắm giữ nó hàm nghĩa rằng ông cô là người có quyền lực đặc biệt trong Tu viện Sion. Hẳn ông phải là 1 trong 4 thành viên cao nhất của tổ chức này.
Sophie thở dài: Ông tôi là 1 thành viên có nhiều quyền lực trong 1 hội kín. Tôi dám chắc điều ấy. Tôi chỉ có thể cho rằng đó là Tu viện Sion.
Langdon bắt cả 2 tay: - Cô đã biết ông có chân trong 1 hội kín.
- Tôi đã thấy 1 vài điều không nên thấy 10 năm trước đây. Tôi và ông tôi đã không nói chuyện với nhau kể từ đó – cô dừng lại – Ông tôi không c hỉ là 1 thành viên hàng đầu mà còn … tôi tin rằng ông chính là người đứng đầu tổ chức này.
Langdon không sao tin được vào điều Sophie vừa nói:
- Đại sư? Nhưng làm sao cô có thể biết được điều ấy?
- Tôi không muốn nhắc đến chuyện này – Sophie ngoảnh đi, vẻ mặt vừa kiên quyết vừa đau đớn ngang nhau.
Langdon ngồi lặng đi ngỡ ngàng. Jacques Saunière là Đại sư. Dù có gây dư vang đáng kinh ngạc nếu đúng là thế, Langdon vẫn có cái cảm giác kì lạ rằng điều đó gần như hoàn toàn có lý. Xét cho cùng, các Đại Sư trước đây của Tu viện Sion cũng là những nhân vật xuất chúng có tâm hồn thẩm mĩ. Bằng chứng về sự việc đó đã được phát lộ tại thư viện quốc gia ở Paris cách đây mấy năm trong những tài liệu này được gọi là Les Dossiers Secrets.
Mỗi một sử gia nghiên cứu về Tu viện Sion và cả những người say mê Chén Thánh đều đã đọc Dossiers. Được vào phiếu số 4lm và 249. Les Dossiers Secrets đã được nhiều chuyên gia chứng thực và hồ sơ này xác nhận rành rãnh những gì các sử gia đã ngờ ngợ trong 1 thời gian dài: các Đại Sư của Tu viện Sion bao gồm Leonardo Da Vinci, Botticelli, Sir Isaac Newton, Victor Hugo và gần đây là Jean Cocteau, nghệ sĩ trứ danh của Paris. Thế thì tại sao lại không cử Jacques Saunière?
Sự nghi ngờ của Langdon càng tăng lên khi ông nhận ra mình đã bị hoạch định để gặp Sophie đêm nay. Đại Sư của Tu viện Sion đã sắp đặt 1 cuộc gặp fỡ với mình. Để làm gì? Để bàn chuyện phiếm về nghệ thuật ư? Điều đó đột nhiên có vẻ vô lý. Xét cho cùng, nếu linh cảm của Langdon là đúng, thì Đại Sư của Tu viện Sion vừa chuyển giao viên đá đỉnh vòm huyền thoại của tổ chức này cho cô cháu gái và lệnh cho cô tìm gặp Langdon. Thật khó tin!
Trí tưởng tượng của Langdon không thể nghĩ ra được bất kì 1 hoàn cảnh nào khả dĩ giải thích được ứng xử của Saunière.
Ngay cả nếu Saunière sợ là bản thân mình sẽ chết, thì vẫn còn 3 pháp quan kia nắm giữ được bí mật, và do đó, đảm bảo được an toàn cho Tu viện Sion. Vậy thì tại sao Saunière lại liều lĩnh trao cho cô cháu gái viên đá đỉnh vòm, nhất là khi 2 ông cháu đang bất hoà với nhau? Và tại sao lại kéo Langdon vào cuộc?
Một mảnh của trò chơi chắp hình này bị thiếu, Langdon nghĩ bụng.
Rõ ràng là câu trả lời chưa đến ngay được. Tiếng động cơ chậm lại khiến cả 2 người phải ngước lên. Bánh xe nghiến trên sỏi lạo xạo. Tại sao chưa chi ông ta đã dừng lại? Langdon tự hỏi.
Vernet đã hứa sẽ đưa họ đến 1 nơi an toàn cách xa thành phố cơ mà. Chiếc xe tải giảm tốc độ đến gần như bò qua đoạn đường gồ ghề. Sophie nhìn Langdon lo lắng, đóng vội chiếc hộp lại và cài móc vào. Langdon lại đậy chiếc áo khoác của mình lên.
Khi chiếc xe tải dừng lại, máy vẫn để chạy không trong khi khoá ở cửa xe bắt đầu xoay. Khi cửa mở toang ra, Langdon ngạc nhiên thấy họ đang đầu xe ở 1 khu rừng cách xa đường quốc lộ. Vernet hiện ra trước mặt 2 người, 1 vẻ căng thẳng trong mắt, 1 khẩu súng lục trong tay.
- Tôi xin lỗi về điều này – ông nói. Thực sự tôi không còn lựa chọn nào khác.

heocon92
28-07-2008, 01:39 AM
truyen hay we' cam on nh ai dã goi len nhé

Pha Lê Tím
29-07-2008, 01:30 AM
Hic mình thấy mấy truyện của ông Dan Brown lém, cả Jefrey Adcher j j đó lém. Còn Sidney Sheldon thì tuyệt vời...