PDA

Xem đầy đủ chức năng : Miền Tây sông nước. Toàn tập.



Yumi_Hảo
22-05-2007, 01:22 AM
Bài này do ông anh tớ type bên 4rum TAT với tiêu đề Miền Tây của Lá. Nick of him : Spear_of_fallingleaf. Tớ chỉ thêm hình vào cho nó sinh động thôi.
Có sử dụng tư liệu


Miền Tây sông nước.

http://img130.imageshack.us/img130/1747/bandovt400co4.gif

Bài này nói về phần đồng bằng châu thổ sông Mekong trên lãnh thổ Việt Nam. Để xem toàn bộ vùng châu thổ này bao gồm cả phần trên lãnh thổ Campuchia, xem Châu thổ sông Mekong.Vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, còn gọi là Vùng đồng bằng Nam Bộ hoặc miền Tây Nam Bộ có 12 tỉnh và một thành phố:


An Giang

Bến Tre
Bạc Liêu
Cà Mau
Thành phố Cần Thơ
Đồng Tháp
Hậu Giang
Kiên Giang
Long An
Sóc Trăng
Tiền Giang
Trà Vinh
Vĩnh Long
Địa lý tự nhiên: Vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam với diện tích khoảng 4 triệu héc ta được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự hình thành những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông lẫn dọc theo một số giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, tây nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau.

Cách đây khoảng 8.000 năm, vùng ven biển cũ trải rộng dọc theo triền phù sa cổ thuộc trầm tích Pleistocen từ Hà Tiên đến thềm bình nguyên Đông Nam Bộ. Sự hạ thấp của mực nước biển một cách đồng thời với việc lộ ra từng phần vùng đồng bằng vào giai đoạn cuối của thời kỳ trầm tích Pleistocen. Một mẫu than ở tầng mặt đất này được xác định bằng C14 cho thấy nó có tuổi tuyệt đối là 8.000 năm (Ngộ, 1988). Sau thời kỳ băng hà cuối cùng, mực mước biển dâng cao tương đối nhanh chóng vào khoảng 3 – 4 m trong suốt giai đoạn khoảng 1.000 năm (Blackwelder và những người khác, 1979), gây ra sự lắng tụ của các vật liệu trầm tích biển ở những chỗ trũng thấp của châu thổ; tại đây những sinh vật biển như hàu (Ostrea) được tìm thấy và việc xác định tuổi tuyệt đối của chúng bằng C14 cho thấy trầm tích này được hình thành cách đây khoảng 5.680 năm (Ngộ, 1988).Dưới những ảnh hưởng của môi trường biển và nước lợ, thực vật rừng ngập mặn dày đặc đã bao phủ toàn vùng này, chủ yếu là những cây đước (Rhizophora sp.) và mắm (Avicennia sp.). Những thực vật chịu mặn này đã tạo thuận lợi cho việc giữ lại các vật liệu lắng tụ, làm giảm sự xói mòn do nước hoặc gió, và cung cấp sinh khối cho trầm tích châu thổ (Morisawa M., 1985), và rồi những đầm lầy biển được hình thành. Tại vùng này, cách đây 5.500 năm trước công nguyên, trầm tích lắng tụ theo chiều dọc dưới điều kiện mực nước biển dâng cao đã hình thành những cánh đồng rộng lớn mang vật liệu sét. Sự lắng tụ kéo dài của các vật liệu trầm tích bên dưới những cánh rừng Đước dày đặc đã tích lũy dần để hình thành một địa tầng chứa nhiều vật liệu sinh phèn (pyrit).

Mực nước biển dâng cao, bao phủ cả vùng như thế hầu như hơi không ổn định và bắt đầu có sự giảm xuống cách đây vào khoảng 5.000 năm (Pons L. J. và những người khác, 1982). Sự hạ thấp mực nước biển dẫn đến việc hình thành một mực nước biển mới, sau mỗi giai đoạn như thế thì có một bờ biển mới được hình thành, và cuối cùng hình thành nên những vạt cồn cát chạy song song với bờ biển hiện tại mà người ta thấy ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một cồn cát chia cắt vùng Đồng Tháp Mười và vùng trầm tích phù sa được xác định bằng C14 cho thấy có tuổi tuyệt đối vào khoảng 4.500 năm (Ngộ, 1988).

Sự hạ dần của mực nước kèm theo những thay đổi về môi trường trong vùng đầm lầy biển, mà ở đây những thực vật chịu mặn mọc dầy đặc (Rhizophora sp., Avicinnia sp.) được thay thế bởi những loài thực vật khác của môi trường nước ngọt như tràm (Melaleuca sp.) và những loài thực thực vật hoang dại khác (Fimbristylis sp.,Cyperus sp.). Sự ổn định của mực nước biển dẫn đến một sự bồi lắng trầm tích ven biển khá nhanh với vật liệu sinh phèn thấp hơn (Pons L. J. và những người khác, 1989).

Sự tham gia của sông Cửu Long đóng vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình hình thành vùng châu thổ. Lượng nước trung bình hàng năm của sông này cung cấp vào khoảng 4.000 tỷ m³ nước và vào khoảng 100 triệu tấn vật liệu phù sa (Morgan F. R., 1961), những mảnh vỡ bị bào mòn từ lưu vực sông, mặc dù một phần có thể dừng lại tạm thời dọc theo hướng chảy, cuối cùng được mang đến cửa sông và được lắng tụ như một châu thổ (Morisawa, 1985). Những vật liệu sông được lắng tụ dọc theo sông để hình thành những đê tự nhiên có chiều cao từ 3 – 4 m, và một phần của những vật liệu phù sa phủ lên trên những trầm tích pyrit thời kỳ Holocen với sự biến thiên khá rộng về độ dầy tầng đất vùng và không gian vùng (Pons L. J. và csv., 1982). Các con sông nằm được chia cắt với trầm tích đê phù sa nhưng những vùng rộng lớn mang vật liệu trầm tích biển chứa phèn tiềm tàng vẫn còn lộ ra trong vùng đầm lầy biển (Moormann, 1961). Tuy nhiên, độ chua tiềm tàng không xuất hiện trong vùng phụ cận của những nhánh sông gần cửa sông mà tại đây ảnh hưởng rửa bởi thủy triều khá mạnh. Ngược lại, vùng châu thổ sông Sài Gòn, nằm kế bên hạ lưu châu thổ sông Mekong, được biểu thị bởi một tốc độ bồi lắng ven biển khá chậm do lượng vật liệu phù du trong nước sông khá thấp và châu thổ này bị chia cắt bởi nhiều nhánh sông thủy triều và do bởi những vành đai thực vật chịu mặn thì rộng lớn hơn vành đai này ở vùng châu thổ sông Mekong, và kết quả là trầm tích của chúng chứa nhiều axít tiềm tàng (Moormann và Pons, 1974).

Yumi_Hảo
22-05-2007, 01:38 AM
http://imagecache2.allposters.com/images/pic/LPIPOD03/BN2866_2~Loaded-Passenger-Ferry-Crossing-Canal-in-Mekong-Delta-Chau-Doc-an-Giang-Vietnam-Posters.jpg

An Giang là một tỉnh ở miền Nam Việt Nam, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, một phần nằm trong tứ giác Long Xuyên. Phía tây bắc giáp Campuchia (104 km), tây nam giáp tỉnh Kiên Giang (69,789 km), nam giáp thành phố Cần Thơ (44,734 km), đông giáp tỉnh Đồng Tháp (107,628 km).An Giang còn có một miền núi nhỏ, dài 30 km (19 miles), rộng 13 km (8 miles). Đó là đám bảy núi (Thất Sơn) ở các huyện Tịnh Biên, Tri Tôn. Phía tây tỉnh chạy song song với biên giới là kênh Vĩnh Tế, được đào năm 1823 nối từ Châu Đốc đến Hà Tiên.


Hành chính:

Thành phố Long Xuyên
Thị xã Châu Đốc
Huyện An Phú
Huyện Châu Phú
Huyện Châu Thành
Huyện Chợ Mới
Huyện Phú Tân
Huyện Tân Châu
Huyện Thoại Sơn
Huyện Tịnh Biên
Huyện Tri Tôn

An Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm 27 ° C, cao nhất từ 35 - 36 ° C vào tháng 4 và tháng 5, thấp nhất từ 20 - 21 ° C vào tháng 12 và tháng 1. Lượng mưa trung bình 1.400 - 1.500 mm (57 - 59 in), có hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Hàng năm An Giang vẫn đón nhận con nước lũ khoảng từ 2,5 tháng đến 5 tháng và hình thành "mùa nước nổi".
An Giang là tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng lúa (trên 2 triệu tấn), ngoài cây lúa còn trồng bắp, đậu nành và nuôi trồng thủy sản nước ngọt như cá, tôm... An Giang còn nỗi tiếng với các nghề thủ công truyền thống như lụa Tân Châu, mắm Châu Đốc, mộc chợ Thủ, bánh phồng Phú Tân, khô bò và các mặt hàng tiêu dùng. Đặc biệt là nghề dệt vải thủ công lâu đời của đồng bào Chăm và nghề nuôi cá bè đặc trưng của vùng sông nước.
Thành phố Long Xuyên trên hữu ngạn sông Hậu, cách Sài Gòn 189 km (118 miles), được hình thành vào đầu thế kỷ 19. An Giang được nhiều du khách biết đến với các danh lam thắng cảnh: Núi Sam, Chùa Bà Chúa Xứ, núi Cấm, hệ thống hang động Thủy Đài Sơn, Anh Vũ Sơn, Sơn Viên Cô Tô.

Thắng Cảnh

Khu Du Lịch Núi Cấm (Huyện Tịnh Biên): Cách thị xã Châu Đốc 30 km (19 miles), là một ngọn trong dãy "Thất Sơn" hùng vĩ của An Giang, trong đó có núi Cấm cao 710 m (2,130 ft). Đường đi lên dốc núi thoải mái dễ đi, trên sườn núi có nhiều cảnh đẹp như suối Thanh Lang, động Thủy Liêm, hang Vồ Bồ Hong, vườn cây ăn quả, đặc biệt khí hậu ở núi Cấm rất mát mẻ. Đến khu du lịch núi Cấm, du khách sẽ được tham quan thắng cảnh núi non, hồ chứa nước Otuka Sa, thảm cỏ xanh tươi.

http://www.baodulich.com/phpthumb.php?gd=2&src=upload/news/_1127717192_.jpg&w=190http://www.saigontourist.hochiminhcity.gov.vn/news/images/2005/5/nuicam.jpg

Theo truyền thuyết, núi có nhiều linh hiển, nên có nhiều chùa thờ Phật đã dựng lên tại đây gần 2 thế kỷ. Đồng bào khắp nơi về đây cúng lễ rất đông. Có đến 200 ngôi đền, chùa, am, và miếu nằm rải rác ở chân núi, sườn núi và cả trên đỉnh. Trên đỉnh có một pháo đài cũ do Pháp xây dựng. Đặc biệt dưới chân núi còn có lăng Thoại Ngọc Hầu tức Nguyễn Văn Thoại, một tướng triều Nguyễn có nhiều công đức đối với nhân dân địa phương trong việc tổ chức đào các con kênh quan trọng trong tỉnh An Giang: kinh Vĩnh Tế dài 90 km (56 miles) nối sông Hậu đến Hương Thành (Hà Tiên) đổ ra biển Thái Lan; kinh Chỉnh An nối sông Hậu qua sông Tiền. Tất cả những công trình quan trọng ấy đều hoàn tất trước khi quân Pháp xâm lược Nam Kỳ (1858).

Núi Sam không chỉ là cảnh đẹp thiên nhiên mà còn gắn liền với nhiều di tích lịch sử đã khắc sâu vào tâm linh người dân đồng bằng Nam bộ. Nơi đây còn có miếu thờ bà Chúa Xứ, chùa Tây An, lăng Thoại Ngọc Hầu, vườn Tao Ngộ, đồi Bạch Vân... Đây là khu du lịch nổi tiếng cả vùng Nam bộ.

http://sodulich.angiang.gov.vn/admin/RTE/Images/13112006/Toan%20canh%20sua.jpg

Lịch Sử

An Giang thuộc Thủy Chân Lạp, được vua Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) để đền ơn lập mình lên vua và giúp dẹp nội loạn.

Năm Đinh Sửu 1757, đất An Giang thuộc ba đạo: Đạo Đông Khẩu (xứ Sa Đéc), đạo Tân Châu (xứ Cù Lao ở Hậu Giang) và đạo Châu Đốc (xứ Châu Đốc ở Hậu Giang). Tất cả ba đạo đều thuộc dinh Long Hồ. Nam Kỳ, thời các chúa Nguyễn được chia làm bốn dinh, ba dinh kia là Trấn Biên tức Biên Hòa, Phiên Trấn tức Gia Định và Trấn Định tức Định Tường. Năm 1805, Gia Long chia Nam Kỳ làm năm trấn, lúc đó đất An Giang và Vĩnh Long họp thành trấn Vĩnh Thanh.



Năm 1832, Minh Mạng đổi các trấn thành tỉnh và Nam Kỳ gọi là Gia Định. An Giang trở thành tỉnh riêng gồm hai phủ Tuy Biên, Tân Thành và bốn huyện Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên và Vĩnh An dưới quyền cai trị của tổâng đốc An - Hà (An Giang - Hà Tiên). Thời Pháp thuộc, đất An Giang bị chia ra thuộc sáu tỉnh mới: Long Xuyên, Châu Đốc, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ và Sa Đéc.

Khi quân Pháp tiến chiếm các tỉnh miền Tây thì người dân An Giang đã theo hai anh hùng Võ Duy Dương và Trần Văn Thành kháng chiến. Các đồn bót của giặc quanh vùng Long Xuyên không bao giờ yên ổn với các cuộc tấn công của nghĩa quân.



Năm 1910 một số nhà cách mạng Đông Kinh Nghĩa Thục bị Pháp đày an trí tại miền Nam, trong số này có hai ông Lê Đại, Dương Bá Trạc bị đưa về Long Xuyên. Nhưng sau đó hai ông vẫn bí mật hoạt động, mở trường dạy học, truyền bá tinh thần yêu nước đến thanh niên.

Năm 1914, anh hùng Lương Ngọc Quyến xuống miền Nam để liên lạc với những người yêu nước, ông vào Sài Gòn rồi xuống Long Xuyên tiếp xúc với bạn cũ là Dương Bá Trạc và gặp cả tên Nguyễn Bá Trác, bạn học ở Nhật. Lúc bấy giờ, tên này đã lén lút làm điềm chỉ cho quân Pháp; sau đó, hắn đã bảo cho Pháp chận đường Lương Ngọc Quyến ở biên giới Lào - Campuchia nhưng không thành.



Tháng 8 - 1862, triều đình Tự Đức nhu nhược muốn hàng quân Pháp nên ra lệnh Chánh Quản Cơ Trần Văn Thành (người làng Bình Thạnh Đông, quận Châu Phú) mang quân đi bắt anh hùng Võ Duy Dương. Thay vì mở cuộc hành quân, ông đến bản dinh Thiên Hộ Dương một mình cho xem chiếu chỉ và giúp ý kiến chiêu mộ thêm nghĩa quân đợi ngàøy khởi nghĩa. Năm 1863, anh hùng Nguyễn Hữu Huân lui quân từ Định Tường về Châu Đốc, tiếp tục hoạt động, kêu gọi mọi người tham gia kháng chiến.

Tháng 6 năm 1867, đại quân thủy bộ của De la Grandière kéo đến tỉnh. Tổng đốc Châu Đốc lập kế hoạch bắt cóc bọn quan Pháp nhưng thất bại. Thành Châu Đốc lọt vào tay giặc. Anh hùng Trần Văn Thành và đề đốc Văn đưa nghĩa quân chiếm giữ vùng Lăng Linh làm căn cứ "đoàn binh Gia Nghị", rồi tiến đánh các đồn trại của giặc quanh vùng Châu Đốc và Long Xuyên. Năm 1872, ông chiếm khu rừng "Bảy Thưa" (thuộc làng Tú Tề), đánh Pháp quyết liệt ở Tri Tôn, Tịnh Biên, Chắc Cà Đao. Ngày 20 tháng 2 năm 1873, nhờ Trần Bá Lộc hướng dẫn, đại binh Pháp tấn công rừng "Bảy Thưa", anh hùng Trần Văn Thành và đề đốc Văn tử trận.



Trên bước đường đấu tranh cứu nước, nhiều nhà cách mạng đã xuống các tỉnh miền Nam và đến Châu Đốc để liên lạc với những người yêu nước. Năm 1904, anh hùng Phan Bội Châu ghé quận Châu Phú; năm 1909, ông Cường Để từ Mỹ Tho đến quận Tân Châu, rồi sang Cao Lãnh...

Năm 1940, ảnh hưởng giáo lý Phật giáo Hòa Hảo lan rộng khắp nơi ở miền Nam, trở thành một phong trào quốc gia dân tộc khiến quân Pháp nao núng. Chúng liền bắt đức thầy Huỳnh Phú Sổ mang về Sài Gòn, sau đó đem về quản thúc tại Bạc Liêu. Ở bất cứ đâu, đức thầy vẫn tiếp tục truyền rộng trong quần chúng. Đầu năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, đức thầy thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội để tranh thủ nền độc lập cho Việt Nam.

Di Tích

Di Tích Lịch Sử Quản Cơ Trần Văn Thành
: Đền thờ quản cơ Trần Văn Thành thuộc xã Thạch Mỹ Tây, huyện Châu Phú, nằm giữa đồng lúa Lạng Vinh, bên bờ kinh Xáng Vinh Tre (kinh Tri Tôn), cách thành phố Long Xuyên khoảng 50 km (31 miles). Đền thờ do ông Trần Văn Nhu, con trai cả ông Trần Văn Thành đứng ra xây dựng năm 1897, sau 20 năm từ ngày ông Trần Văn Thành hy sinh trong một trận chiến đấu chống quân Pháp. Đền thờ là nơi tưởng nhớ người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bảy Thưa vào năm 1867 - 1873 và còn là nơi tập hợp nhân dân và tín hữu đạo Bửu Sơn Kỳ Hương để chờ thời cơ đánh Pháp.


Lăng Thoại Ngọc Hầu:

http://sodulich.angiang.gov.vn/admin/RTE/Images/2022006/lang-thoai-ngoc-hau.jpg
Là công trình đồ sộ nhất ở chân núi Sam (Châu Đốc - An Giang). Khu lăng có đền thờ ông Thoại Ngọc Hầu, mộ ông cùng hai phu nhân. Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829), một danh tướng nổi danh của triều Nguyễn. Ông sinh ngày 25/11/1761 tại Diên Phước, Tỉnh Quảng Nam, được phong tước Ngọc Hầu và mất ngày 06/06/1829. Ông là người đã chỉ huy đào kênh Vĩnh Tế, kênh Thoại Hà... để phát triển nông nghiệp và mở đường từ Châu Đốc đi núi Sam, Châu Đốc đi Lò Gò và Sóc Trăng. Ông có công lớn trong việc mở mang khai phá nhiều vùng đất phía Tây Nam tổ quốc.

Toàn bộ khu lăng tẩm kết thành một khối kiến trúc hài hòa, bao bọc xung quanh là bức tường dày đều đặn các bậc xây bằng đá ong. Khu chính giữa gồm lăng mộ của hai bà vợ. Bên phải khu mộ là những ngôi mộ vô danh của dân công khi theo ông khai hoang, lập ấp, đào kênh Vĩnh Tế.

Ngoài ra, sau phần mộ của Thoại Ngọc Hầu có tấm bia "Vĩnh Tế Sơn" bằng đá sa thạch, khắc 730 chữ được dựng từ năm 1828, 4 năm sau khi đào kênh Vĩnh Tế. Lăng Thoại Ngọc Hầu được hoàn thành vào cuối những năm 20 của thế kỷ 19. Trải qua bao năm tháng, lăng vẫn còn nét uy nghi diễm lệ, là một công trình kiến trúc nghệ thuật mang nhiều ý nghĩa lịch sử. Để ghi công ơn Thoại Ngọc Hầu, hàng năm đến ngày 6/6 âm lịch, nhân dân quanh vùng đến làm lễ tưởng niệm ông.

Lễ Hội

Lễ Hội Bà Chúa Xứ (Lễ Vía Bà): Đây là lễ hội dân gian lớn nhất của Nam bộ, được tổ chức hàng năm bắt đầu từ đêm 23 đến 27 tháng 4 âm lịch. Khách hành hương đến lễ hội có thể đi theo tỉnh lộ số 10 từ Long xuyên lên Châu Đốc, rẽ vào 7 km (4 miles) rồi tới núi Sam, hoặc đi bằng đường thủy từ Cần Thơ, Sóc Trăng lên hay từ Sài Gòn xuống. Trong ngày lễ còn có múa bóng hát bội... Từ đêm 23 mọi người đã tập về chùa để xem lễ tắm Bà. Tượng Bà được đưa xuống cởi áo ra, lấy nước mưa pha với nước hoa để tắm. Phong tục này đã tồn tại hàng trăm năm nay.

Lễ Vía Bà hàng năm thu hút rất đông khách thập phương đến, vừa để tham dự lễ hội dân gian, xin cầu tài cầu lộc, đồng thời còn để du ngoạn, chiêm ngưỡng cảnh trí thiên nhiên tuyệt đẹp của núi Sam, của các di tích như lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Tây An.

Lễ Hội Chol ChNam Thmay: Là lễ năm mới, lễ Tết lớn nhất của người Khmer Nam bộ (tương tự như Tết Nguyên Đán của người Việt), được tổ chức vào ngày 12, 13, 14 tháng 4 âm lịch tại chùa và ở gia đình. Lễ hội có ý nghĩa tống tiễn mùa nắng hạn, bước sang thời kỳ có mưa để làm mùa. Bà con làm lễ tiễn đưa Têvêda (Thần coi sóc) cũ, đón Têvêda mới. Trong dịp này, ngoài cúng lễ bà con thăm hỏi còn chúc mừng lẫn nhau. Buổi tối có đốt pháo thăng thiên, tham dự các trò chơi như thả diều, đánh quay lửa... Trai gái trong làng múa Roam Vông, hát Dù Kê...

Lễ Đôn Ta (Lễ Cúng Ông Bà): Lễ Đôn Ta được tổ chức từ ngày 1 đến 15 tháng 10 âm lịch tại vùng đồng bào Khmer Nam Bộ sinh sống. Đây là ngày lễ ông bà (như Tết Thanh Minh của người Việt). Trong những ngày lễ này, nhân dân mang bánh tét, hoa quả, cơm canh đến lễ chùa. Sau đó tổ chức ăn uống tại gia đình.

Lễ Hội Hát Gi (Haji hay còn gọi Roya Hadji): Là lễ hội của cộng đồng người Chăm theo đạo Hồi, ở các tỉnh An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, thờ thượng đế Allah. Lễ được tổ chức từ ngày 7 đến 10 tháng 12 (hồi lịch) tại các thánh đường Hồi giáo. Hàng năm ở An Giang lễ hội Hát Gi diễn ra tại chùa Chăm Châu Giang xã Phú Hiệp, huyện Phú Tân.

Vào ngày lễ, toàn thể tín đồ phải lắng nghe ông Khojip nói lại sự tích ngày thánh Lbrôhim. Buổi tối, tổ chức cuộc thi đọc kinh Coran và chấm giải nhất cho ai đọc hay và thông suốt. Sau phần hành lễ, người Chăm thường tổ chức các cuộc vui chơi, sinh hoạt văn hóa thể thao như ca hát, đua ghe... Giống như Tết của người Việt, đây là dịp để mọi người thăm viếng, vui chơi và chúc mừng, cầu nguyện điều lành cho nhau.

Lễ Hội Đua Bò Của Dân Tộc Khmer: Lễ hội đua bò kéo bừa truyền thống là nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của người Khmer ở 2 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn, nơi nuôi nhiều bò làm sức kéo nhất ở tỉnh An Giang. Sân đua bò thường là một khu đất rộng khoảng 60 m (180 ft) và dài khoảng 170 m (510 ft), được bao bởi bờ đất cao, đồng thời là nơi dành cho khán giả ngồi hay đứng. Phía dưới là đường đua dài khoảng 90 m (270 ft), rộng khoảng 4m (12 ft), hai đầu đặt điểm xuất phát và đích đến.

Vào ngày hội, từng đôi bò được ách vào một chiếc bừa đặt biệt, gọng bừa là bàn đạp gồm 1 tấm gỗ rộng 30 cm (12 in), dài 90 cm (35 in), bên dưới là răng bừa. Mỗi đôi bò được đều khiển bằng 2 nài: nài chính và nài phụ. Nài chính đều khiển đua bò đứng trên bàn đạp, cầm cương và gậy thúc bò chạy nhanh. Trước và sau mỗi lượt đua bò, bò được săn sóc cẩn thận. Lễ hội đua bò được tổ chức vào lễ Đôn Ta (lễ cúng ông bà), ngày cuối cùng của tháng 10 âm lịch của Khmer (năm 1998 tương ứng với ngày chủ nhật 20/09/1998 dương lịch, trước chùa Khner Cốt Rômiết thuộc xã Lương Phi, huyện Tri Tôn).

Yumi_Hảo
22-05-2007, 01:56 AM
http://content.answers.com/main/content/wp/en/b/b9/MapVietnamBenTre.png http://www.ppd.gov.vn/ttbaochi/ttinbaoch41_files/image003.jpg

Bến Tre là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, tiếp giáp với biển Đông, có bờ biển dài 60 km. Phía bắc giáp Tiền Giang, phía tây và tây nam giáp Vĩnh Long, phía nam giáp Trà Vinh. Thị xã Bến Tre cách Thành phố Hồ Chí Minh 85 km.

Hành chính:

Bến Tre có 8 đơn vị hành chính cấp huyện gồm:

Thị xã Bến Tre
Huyện Ba Tri
Huyện Bình Đại
Huyện Châu Thành
Huyện Chợ Lách
Huyện Giồng Trôm
Huyện Mỏ Cày
Huyện Thạnh Phú

Địa lý:

Bến Tre có diện tích là 2.322 km². Điểm cực Nam của tỉnh nằm trên vĩ độ 9o48' Bắc, điểm cực Bắc nằm trên vĩ độ 10o20' Bắc, điểm cực Đông nằm trên kinh độ 106o48' Đông, điểm cực Tây nằm trên kinh độ 105o57' Đông [3]. Dân số của tỉnh là 1.345.600 người (thống kê năm 2004) với dân tộc chiếm đa số là người Kinh.

Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26°C đến 27°C. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.250 mm đến 1.500 mm. Khí hậu ở đây là nhiệt đới gió mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, các tháng còn lại là mùa khô.

Bến Tre là tỉnh có địa hình bằng phẳng, rải rác có những cồn cát xen kẽ với ruộng vườn, không có rừng cây lớn, bốn bề sông nước bao bọc với nhiều sông rạch. Bốn nhánh sông Tiền Giang là sông Mỹ Tho, sông Bà Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên chia đất Bến Tre ra làm cù lao Minh, cù lao Bảo, cù lao An Hóa. Hai sông Hàm Luông và Bà Lai chảy xuyên suốt tỉnh rồi ra hai cửa biển cùng tên. Sông Mỹ Tho chia ranh giới phía bắc với tỉnh Tiền Giang rồi đổ ra cửa Đại. Sông Cổ Chiên làm ranh giới với tỉnh Trà Vinh rồi chảy ra hai cửa Cổ Chiên và Cung Hầu. Các sông rạch khác là sông Bến Tre, rạch Bàng Cùng, kinh Thêm, kinh Tân Hương, kinh Tiền Thủy, rạch Cầu Mây, rạch Vũng Luông...

Bờ biển Bến Tre dài khoảng 60 cây số. Ngoài khơi có các đảo nhỏ như Cồn Lợi, Cồn Hồ...

Lịch sử:

Tỉnh Bến Tre vốn là một phần của dinh Hoằng Trấn lập ra năm 1803, năm sau đổi là dinh Vĩnh Trấn. Năm 1808 dinh này lại đổi là trấn Vĩnh Thanh. Tỉnh Bến Tre chính là vùng đất thuộc huyện Tân An (được nâng cấp từ tổng Tân An lên năm 1808), thuộc phủ Định Viễn (cũng được nâng cấp từ châu Định Viễn trong cùng năm), nằm trong trấn Vĩnh Thanh.

Năm 1823, huyện Tân An chia thành hai huyện Tân An và Bảo An, đặt dưới phủ Hoằng An (Bến Tre ngày nay).

Năm 1832, vua Minh Mạng bỏ trấn lập tỉnh, trấn Vĩnh Thanh chia thành hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long. Tỉnh Vĩnh Long lúc bấy giờ gồm 3 phủ Hoằng An (Bến Tre ngày nay), Định Viễn (Vĩnh Long ngày nay) và Lạc Hóa (Trà Vinh ngày nay).

Năm 1837, đặt thêm phủ Hoằng Trị, rồi đến năm 1851, bỏ phủ Hoằng An, các huyện trực thuộc nhập cả vào phủ Hoằng Trị.

Năm 1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực hành chính lại chia nhỏ thành các tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement administratif) thì Bến Tre là hạt tham biện thuộc khu vực hành chính Vĩnh Long.

Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tên tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Bến Tre trở thành tỉnh Bến Tre.

Từ đó, bỏ cấp huyện mà chia thành quận. Tỉnh có 4 quận: Ba Tri, Sốc Sãi, Mỏ Cày, Thạnh Phú, với 21 tổng và 144 xã. Diện tích của tỉnh là 1501 km². Dân số năm 1910: 223.405 người, năm 1930: 286.000 người, năm 1943: 346.500 người, năm 1955: 339.000 người.

Thời Việt Nam Cộng Hòa, từ ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Bến Tre đổi tên thành tỉnh Kiến Hòa và gồm 9 quận: Ba Tri, Bình Đại, Đôn Nhơn, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú, Hàm Long, Hương Mỹ, Trúc Giang, với 115 xã, 793 ấp (năm 1965), năm 1970 có 119 xã. Tỉnh lị gọi là Trúc Giang. Diện tích của tỉnh là 2085 km². Dân số năm 1965 là 547.819 người, năm 1970 là 582.900 người.

Từ năm 1975 tỉnh Bến Tre lấy lại tên cũ và chia thành các huyện.

Bến Tre được coi là quê hương "Đồng Khởi", mở đầu cho cao trào đấu tranh vũ trang của toàn miền Nam chống chế độ Ngô đình Diệm.

Ngày 17 tháng 1 năm 1960, lực lượng vũ trang của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ("Việt Cộng") đã tấn công quân Việt Nam Cộng Hòa ở các xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (huyện Mỏ Cày) thắng lợi, đập tan bộ máy chính quyền cơ sở của Việt Nam Cộng Hòa tại đây. Đến ngày 23 tháng 1 năm 1960, lực lượng Mặt trận đã làm chủ hoàn toàn 22 xã. Việt Nam Cộng Hòa điều quân chính quy gồm 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn dù, tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 10 sư đoàn 7, cùng 2 đội thám kích có máy bay, xe quân sự yểm trợ tấn công càn quét nhưng không giải quyết dứt điểm được. Đến tháng 3 họ huy động tới gần 10.000 quân phản kích ác liệt. Lực lượng phụ nữ Bến Tre dưới sự lãnh đạo của nữ tướng Nguyễn Thị Định (được gọi là đội quân tóc dài) đã biểu tình ngăn chặn được đối phương.

Từ 24 tháng 9 đến 10 tháng 10 năm 1960, "Việt Cộng" phát động Đồng Khởi đợt 2, kéo dài cho đến cuối năm, giành quyền làm chủ ở 52 trong tổng số 115 xã. Đây được coi là 1 thắng lợi lớn.

Kinh tế:

Nông nghiệp

Bến Tre là vựa lúa lớn của đồng bằng sông Cửu Long. Đất Bến Tre do phù sa sông Cửu Long bồi đắp, đặc biệt là ở Hàm Long. Hoa màu chính là lúa, hoa màu phụ cũng chiếm phần quan trọng là khoai lang, ngô, sắn và các loại rau.

Loại cây kỹ nghệ mang lại nhiều lợi ích cho tỉnh là dừa, thuốc lá, mía, cà phê, dâu nuôi tằm, bông, cói.

Bến Tre có gần 40.000 ha trồng dừa. Dừa ở đây rất nhiều trái và lượng dầu cao. Ngoài nước uống và dầu, dừa còn cho các sản phẩm khác là than dừa, vỏ dừa làm thảm dừa, dây dừa. Kẹo dừa Bến Tre là đặc sản của vùng. Một dự án trồng xen ca cao tận dụng bóng mát của dừa mới đưa vào thực hiện đang là vấn đề quan tâm của nông dân Bến Tre.

Mía được trồng nhiều tại các vùng đất phù sa ven sông rạch; nổi tiếng nhất là có các loại mía tại Mỏ Cày và Giồng Trôm. Diện tích trồng thuốc lá tập trung ở Mỏ Cày, nơi có loại thuốc thơm cũng nổi tiếng. Đất bồi thích hợp trồng cói.

Bến Tre có nhiều loại cây ăn trái như cam, quít, sầu riêng, chuối, chôm chôm, măng cụt, mãng cầu, xoài cát, bòn bon, dứa, vú sữa, ... trồng nhiều ở quận Giồng Trôm, Hàm Long và Châu Thành.

Trong thời gian gần đây cây táo hồng đang được phát triển rất mạnh tại một số huyện như Mỏ Cày, Chợ Lách,... Thời gian đầu, loại cây này mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cho các nhà vườn. Tuy nhiên trong thời gian một năm nay thì thị trường tiêu thụ bắt đầu gặp khó khăn. Nguyên nhân chính là do thị trường tiêu thụ chính (chủ yếu tiêu thụ quả tươi) đã bão hòa nhưng không tìm được hướng thị trường mới và chứa chế biến để có thể bảo quản lâu dài.

Làng nghề

Ngoài kẹo dừa, Bến Tre có các sản phẩm nổi tiếng như bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc. Làng nghề Cái Mơn, huyện Đơn Nhơn, hàng năm cung ứng cho thị trường hàng triệu giống cây ăn quả và cây cảnh nổi tiếng khắp nơi. Nới đây cũng có nghề rang trầu và làm "cau tầm vung" (cau để chín khô trên cây, không xắt ra) rất nổi tiếng trong nước.

Thủy sản


http://www.quangduc.com/photo/tuthienxahoi/cuutro_binhdai/cuutro_binhdai_01.jpg

Những con sông lớn và vùng biển Đông ở Bến Tre có nhiều loại thủy sản như cá vược, cá dứa, cá bạc má, cá thiều, cá mối, cá cơm, nghêu, cua biển và tôm he.

Rừng nước mặn chạy dọc theo bờ biển, mang lại cây dừa nước, chà là, bần.
Ruộng muối ở Thạnh Phú, Bình Đại, Ba Tri cũng là nguồn lợi khả quan.

Du lịch:

Du lịch sinh thái

Bến Tre có điều kiện thuận tiện để phát triển du lịch sinh thái, bởi ở đó còn giữ được nét nguyên sơ của miệt vườn, giữ được môi trường sinh thái trong lành trong màu xanh của những vườn dừa, vườn cây trái rộng lớn.


http://www.fetp.edu.vn/global/fileinclude/images/vnn0060a.jpg

Một số địa điểm du lịch có tiếng là:
Cồn Phụng (Cồn Đạo Dừa) thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, nằm trên một cù lao nổi giữa sông Tiền, có các di tích của đạo Dừa với các công trình kiến trúc độc đáo. Trên Cồn Phụng còn có làng nghề với các sản phẩm từ dừa và mật ong.
Cồn Ốc (Cồn Hưng Phong) thuộc xã Hưng Phong, huyện Giồng Trôm, có nhiều vườn dừa và vườn cây ăn quả.
Cồn Tiên, thuộc xã Tiên Long, huyện Châu Thành, là một bãi cát đẹp, hàng năm vào ngày 5 tháng 5 âm lịch hàng vạn người đến tắm và vui chơi giải trí.
Sân chim Vàm Hồ, thuộc địa phận hai xã Mỹ Hòa và Tân Xuân, huyện Ba Tri, là nơi trú ngụ của gần 500.000 con cò và vạc và các loài chim thú hoang dại khác cùng với rừng chà là và thảm thực vật phong phú gồm các loại cây ổi, so đủa, đậu ván, mãng cầu xiêm, dừa nước, đước đôi, bụp tra, chà là, ô rô, rau muống biển...
Vườn cây ăn trái Cái Mơn, thuộc xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách
Ngoài ra cũng có du lịch trên sông nước và các bãi như bãi Ngao.


Sân Chim Vàm Hồ

http://dulich.caigi.com/images/album/bentre/vamho.jpg
là một điểm du lịch sinh thái hấp dẫn thuộc địa phận hai xã Mỹ Hòa và Tân Xuân, huyện Ba Tri ven sông Ba Lai. Từ thị xã Bến Tre đến sân chim Vàm Hồ khoảng 52 km (33 miles). Có thể đi theo đường bộ hoặc đường sông về phía sông Ba Lai để đến sân chim Vàm Hồ, nơi trú ngụ của gần 500.000 con cò và vạc cùng các loài chim khác như cồng cộc, le le. Vàm Hồ rộng hơn 40 ha, trong đó 15 ha rừng chà là nguyên sinh. Người dân Ba Tri trồng đước trên 7 ha cạnh rừng chà là, đồng thời dẩn nước từ sông Ba Lai vào, chia sân chim làm 5 khu và đắp đê phòng hộ xung quanh sân đề phòng nạn cháy rừng để bảo vệ chim.

Trên đường vào sân chim, dọc hai bên bờ sông Ba Lai là một thảm thực vật phong phú gồm các loại cây: ổi, so đủa, đậu ván, mãng cầu xiêm, dừa nước. Vào trong sân chim các loại cây chiếm ưu thế là: đước đôi, bụp tra, chà là, ô rô, rau muống biển. Tuy sân chim có hai loài cây chính là chà là và đước, chim chỉ làm tổ trên cây chà là có gai, đước là nơi chúng nghĩ chân sau khi tắm mình trong dòng kênh.

Du khách đến sân chim vào lúc 4 giờ chiều hàng ngày sẽ được chứng kiến một cảnh giao ca thú vị, đó là lúc đàn cò hàng ngàn con đi ăn về đậu trắng các ngọn cây, đàn vạc cất tiếng kêu rủ nhau vỗ cánh bay đi kiếm ăn đêm. Ngoài cò trắng, vạc, sân chim còn có các loại cò ngà, cò ruồi, vòng vọc, diệc xám, quắm trắng, và các loài thú hoang dại như dơi, chồn, rắn, trăn... Du khách sẽ thấy thú vị như đang sống trong thế giới của âm thanh của các loài chim với vô vàng âm sắc.


Di tích:

Tại Bến Tre cũng có nhiều di tích Phật giáo hay mộ các nhân vật nổi tiếng.

Các chùa nổi tiếng ở Bến Tre là chùa Hội Tôn, chùa Tuyên Linh, chùa Viên Minh. Chùa Hội Tôn Chùa được thiền sư Long Thiền dựng vào thế kỷ 18 tại ấp 8, xã Quới Sơn, huyện Châu Thành và được trùng tu vào các năm 1805, 1884, 1947 và 1992. Chùa Tuyên Linh được dựng vào năm 1861 ở ấp Tân Quới Đông B, xã Minh Đức, huyện Mõ Cày, và được tu sửa và mở rộng vào các năm 1924, 1941, 1983. Chùa Viên Minh tọa lạc ở 156, đường Nguyễn Đình Chiểu, thị xã Bến Tre, với kiến trúc hiện nay được xây từ năm 1951 đến 1959.
Các nhân vật nổi tiếng có mộ ở đây là Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản và Phan Thanh Giản.

Lịch sử:

Đời vua Minh Mạng, miền Nam Việt Nam chia làm sáu tỉnh Vĩnh Long, Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, An Giang và Hà Tiên. Đất Bến Tre bây giờ là phủ Hoàng Trị gồm các huyện Tân Ninh, Bảo An, Bảo Hậu và trực thuộc tỉnh Vĩnh Long.

Khi người Pháp đến xâm chiếm Bến Tre, có nhiều cuộc kháng cự của nhân dân địa phương. Năm 1862, Phan Công Tòng (người làng An Bình Đông, quận Ba Tri) bỏ nghề dạy học, chiêu tập người yêu nước vùng lên đánh Pháp. Ông tử trận năm 1867.

Cuối năm 1867, quân Pháp đem binh chiếm ba tỉnh miền Tây là Hà Tiên, An Giang và Vĩnh Long. Phan Thanh Giản (người làng Bảo Thạnh, quận Ba Tri )giữ ba thành không nổi. Do không làm tròn mệnh vua, ông dặn dò con cháu không được làm tay sai cho Pháp, rồi uống thuốc độc tự vận.

Từ năm 1867 đến 1870, các cuộc khởi nghĩa do các con của Phan Thanh Giản là Phan Liêm, Phan Tôn và Phan Ngữ vẫn diễn ra không chỉ ở Bến Tre mà còn ở Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, được nhiều người dân hưởng ứng. Pháp sai Tôn Thọ Tường và Tổng đốc Phương nhiều lần chiêu hàng không được. Năm 1870, trong một cuộc giao chiến ở Giồng Gạch, Phan Tôn và Phan Ngữ tử trận. Phan Liêm phải lui ra miền bắc.

Sau khi Pháp chiếm xong Nam Kỳ, sáu tỉnh lớn được chia thành 20 tỉnh (về sau đặt thêm tỉnh thứ 21 là Vũng Tàu). Một phần đất của Vĩnh Long được tách ra để lập tỉnh Bến Tre.

Lễ hội

Có hai lễ hội lớn ở Bến Tre là hội đình Phú Lễ và hội tế Cá Ông.

Đình Phú Lễ ở ấp Phú Khương xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh. Hàng năm lễ hội đình Phú Lễ diễn ra 2 lần: lễ Kỳ Yên vào ngày 18, ngày 19 tháng 3 âm lịch để cầu cho mưa thuận, gió hòa và lễ Cầu Bông vào ngày 9, ngày 10 tháng 11 âm lịch cầu cho mùa màng tươi tốt. Lễ hội có rước sắc thần, lễ tế Thành Hoàng, người đã có công khai khẩn giúp dân trồng trọt. Đêm có hát bội và ca nhạc tài tử.

Hội tế Cá Ông là lễ hội phổ biến của các làng ven biển của Việt Nam, trong đó có Bến Tre. Hàng năm vào các ngày 16/6 âm lịch tại các đình đền hay miếu của các xã thuộc huyện Bình Đại, huyện Ba Tri, mở lế hội này. Trong ngày hội tất cả tàu thuyền đánh cá đều về tập trung neo đậu để tế lễ, vui chơi và ăn uống.

Yumi_Hảo
22-05-2007, 02:16 AM
[http://tapchibcvt.gov.vn/Uploaded/admin/BacLieu%20-%20map.jpg/CENTER]

Bạc Liêu là một tỉnh thuộc duyên hải vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam. Phía bắc giáp tỉnh Hậu Giang, phía đông bắc giáp tỉnh Sóc Trăng, tây bắc giáp Kiên Giang, tây và tây nam giáp Cà Mau, đông và đông nam giáp biển với 56 km bờ biển. Tỉnh lỵ hiện nay là Thị xã Bạc Liêu, cách thành phố Hồ Chí Minh 280 km.

Địa lý tự nhiên:

Diện tích

Bạc Liêu có diện tích tự nhiên 2.520,6 km² và dân số năm 2004 là ước tính khoảng 786.200 người với mật độ dân số 300,2 người/km². Nếu so với 64 tỉnh, thành phố thì Bạc Liêu đứng thứ 40 về diện tích và thứ 48 về dân số.

Trên địa bàn Bạc Liêu có 20 dân tộc, nhưng chủ yếu là người Kinh, tiếp đến là người Khmer và người Hoa. Theo tài liệu tổng điều tra dân số (1999) thì trong tổng số dân trên địa bàn Bạc Liêu, người Kinh chiếm gần 90,0%; người Khmer chiếm 7,9%; người Hoa chiếm 3,1%; các dân tộc còn lại, mỗi dân tộc chỉ có dưới 100 người, thậm chí chỉ có trên dưới một chục người.

Địa hình, thổ nhưỡng

Bạc Liêu là vùng đất trẻ, được hình thành chủ yếu do sự bồi lắng phù sa ở các cửa biển tạo nên. Phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh là đất bằng nằm ở độ cao trên dưới 1,2 m so với mặt biển, còn lại là những giồng cát và một số khu vực trũng ngập nước quanh năm. Địa hình có xu hướng thấp dần từ đông bắc xuống tây nam và khu vực nội đồng thấp hơn vùng gần bờ biển. Trên địa bàn tỉnh có nhiều kênh rạch lớn như kênh Quản Lộ-Phụng Hiệp, kênh Cạnh Đền, kênh Phó Sinh, kênh Giá Rai. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch của Bạc Liêu nối với biển bằng cửa Giành Hào, cửa Nhà Mát và cửa Cái Cùng. Ngoài phần đất liền còn có vùng biển rộng 40.000 km². Biển Bạc Liêu có tiềm năng hải sản tương đối lớn với 661 loài cá và 33 loài tôm, cho phép đánh bắt mỗi năm 24-30 vạn tấn cá và khoảng 1 vạn tấn tôm.

Các đơn vị hành chính

Hiện nay, Bạc Liêu có 7 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm thành phố Bạc Liêu và 6 huyện (với 52 xã, phường và thị trấn) là:

Phước Long
Hồng Dân
Vĩnh Lợi
Giá Rai
Đông Hải
Hòa Bình (mới thành lập tháng 7 năm 2005)

Lịch sử

Tỉnh Bạc Liêu được thành lập ngày 20 tháng 12 năm 1899 do tách từ tỉnh Hà Tiên ra, gồm 7 tổng: Long Thụy, Quan Xuyên, Quan Long, Quan An, Thanh Hoa, Thanh Hưng, Long Thới. Địa bàn tỉnh Bạc Liêu khi đó bao gồm cả tỉnh Cà Mau hiện nay.

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã chia tỉnh Bạc Liêu thành 2 tỉnh là Bạc Liêu và An Xuyên. Tỉnh Bạc Liêu nhỏ này gồm 4 quận: Giá Rai, Phước Long, Vĩnh Lợi và Vĩnh Châu, với 19 xã, 218 ấp, dân số năm 1965 là 76.630 người.

Năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất, hai tỉnh Bạc Liêu và An Xuyên lại hợp nhất thành tỉnh Minh Hải. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tỉnh Minh Hải được chia thành hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau. Hai tỉnh mới chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1997.

Du Lịch :

[CENTER]Phước Đức cổ miếu (còn gọi là Chùa Bang)
http://www.dulichachau.com/webplus/thumbnails.medium/34643F7C3158E2C753CDDBB30C86F233.gif
Di tích Phước Đức cổ miếu tọa lạc tại số 74 Điện Biên Phủ, Phường 3, Thị xã Bạc Liêu. Đây là ngôi miếu lâu đời nhất của người Hoa sống ở Bạc Liêu, nó được một nhóm người Hoa xây dựng vào khoảng năm 1810, bàn thờ chính là thờ Ông Bổn - Một vị thần được coi là có công khai hoang đất đai và phù trợ cho mọi người sinh cơ lập nghiệp có cuộc sống an lành.


Đến với Phước Đức cổ miếu các bạn sẽ tận mắt thấy dược kiến trúc đặc biệt theo cấu trúc của người Hoa cổ. Toàn bộ ngôi miếu là một kiến trúc nghệ thuật qui mô và hoàn mỹ từ đầu kèo, đầu xiên cho đến các linh thú và hoa văn trên các khánh thờ đều được chạm khắc tinh tế. Phải nói rằng mỗi bộ phận trong miếu là một cổ vật có giá trị nghệ thuật cao bởi chúng đã tồn tại trên 100 năm. Những tấm biển bằng đá cũng như bằng gỗ khắc chữ Hán và mạ vàng cũng là những tác phẩm có giá trị được khắc sắc xảo theo lối viết Hành thư và Khải thư trong uy nghiệm và hùng mạnh.

Các tác phẩm nghệ thuật ấy đã được các nghệ nhân liên kết với nhau một cách hài hòa và chặt chẽ tạo thành một kiến trúc độc đáo vô song. với giá trị nghệ thuật ấy Phước Đức cổ miếu đã được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa.

Chùa Xiêm Cán
Cách thị xã Bạc Liêu 7 km trên đường ra vườn chim Bạc Liêu

http://www.dulichachau.com/webplus/thumbnails.medium/359FFB743158E2C74C719B330C86DF43.gif

Xiêm Cán là một ngôi chùa của người Khmer có kiến trúc giống như những ngôi chùa Khmer khác ở Trà Vinh hoặc Sóc Trăng. Chùa đã tồn tại hơn hơn một thế kỷ nay. Chùa được xây cất đồ sộ chạm trổ và trang trí theo phong cách dân tộc độc đáo.

Tháp Vĩnh Hưng

http://www.dulichachau.com/webplus/thumbnails.medium/35FB75393158E2C74A397FE30C86C933.gif

Tháp Vĩnh Hưng là một di tích kiến trúc cổ được xây dựng tại ấp Trung Hưng I, xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu ngày nay. Theo sự khảo sát của các nhà khảo cổ Pháp vào những năm đầu thế kỷ 20 thì Tháp này được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên, Tháp được xây dựng lên để thờ một vị vua Khmer có tên là Yacovar - Man.


Tháp được xây dựng trên một diện tích hơn 1.000 m2. Bình diện chân tháp hình chữ nhật với hai cạnh là 5,6 m và 6,9 m, chiều cao của Tháp còn lại 8,2 m (đỉnh Tháp đã bị sập), cửa Tháp quay về hướng Tây. Toàn bộ ngôi Tháp được xây dựng bằng gạch, chúng được kết dính với nhau bằng một loại keo (có giả thuyết cho rằng keo này được làm từ thực vật).

Những lần khảo sát và thăm dò các nhà khảo cổ đã tìm thấy những mảnh gốm thuộc nền văn hóa Óc Eo và những tượng đồng - đặc biệt có tượng bốn mặt. Nhưng lý thú hơn cả là lần khai quật gần đây nhất (3/2002) các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều tượng đồng đặc biệt quí hiếm, bên cạnh đó còn có những tấm ngói còn nguyên vẹn hoa văn. Mặc dù chưa công bố kết quả nhưng những bức tượng ấy các bạn khó tìm thấy ở đâu đó được cho dù trong những quyển sách nói về tượng cổ.

Di tích này đã được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa vào năm 1992 và dự án trùng tu, tôn tạo di tích này đã được bắt đầu thực hiện. Dự án ấy đã được mở đầu bằng cuộc khai quật đầu năm 2002 và sẽ kết thúc dự án bằng phòng trưng bày các hiện vật, tư liệu liên quan đến Tháp cổ này.


Vườn chim Bạc Liêu


http://www.diemhenvietnam.com/Uploads/DesHandBook/31072006/News/20731104346.jpghttp://www.dulichachau.com/webplus/thumbnails.medium/359B95193158E2C74C377DE30C869E43.gif

Cách thị xã Bạc Liêu 6km về hướng Biển, trên con đường nhựa sạch đẹp mang tên cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, người sáng tác bản Dạ cổ Hoài Lang, về phía phải, sang kênh 30 tháng 4 trên con cầu bê tông vững chắc là đến Vườn Chim Bạc Liêu, thuộc địa phận xã Hiệp Thành, thị xã Bạc Liêu.

Theo tư liệu của khu bảo tồn thiên nhiên Vườn Chim Bạc Liêu, địa danh này xuất hiện cách nay khoảng 100 năm, lúc đó là thảm rừng ngập mặn ven biển rất phong phú và đa dạng, với hệ sinh thái ngập mặn tự nhiên. Vườn Chim là một phần thảm rừng còn sót lại ven Biển Đông do sự bồi tụ tự nhiên nên ngày càng xa biển hơn. Vào năm 1962, Vườn Chim được một hộ dân quản lý chăm sóc bảo vệ và khai thác chim non. sau đó, chính quyền địa phương sớm nhận thức Vườn Chim là tài sản thiên nhiên quý hiếm nên đã có sự đầu tư từng bước.

Với hệ sinh thái rừng ngập mặn tự nhiên trên diện tích khoảng 385 ha, trong đó có 19 ha rừng nguyên sinh. Vườn chim Bạc Liêu là nơi cư trú của khoảng 46 loài chim, trong đó có một loài chim được ghi vào sách Đỏ như Giang Sen, Cốc Đế nhỏ…, 109 loài thực vật thuộc 90 chi của 46 họ: 150 loài động vật, trong đó có 58 loài cá, 7 loài ếch nhái, 10 loài có vú, 8 loài bò sát và một số động vật khác cùng sống chung trong một quần thể đa dạng, thể hiện cao tính đa dạng sinh học rất cần được bảo tồn và phát triển.

Vườn Chim Bạc Liêu là nơi làm tổ quan trọng của nhiều loài chim nước, điển hình là các loài le le, cò, diệc, vạc, còng cọc, quắm đen và nhiều loài chim khác. Sáng sớm, từng đàn chim đi kiếm mồi ở những nơi xa xôi, tối đến tìm về tổ ấm là Vườn Chim, cũng là lúc những loài chim ăn đêm bắt đầu cuộc hành trình hoạt động của mình làm xao động một góc trời đất Biển.

Trãi qua gần một thế kỷ tồn tại, nơi đây đã có không biết bao nhiêu thế hệ các loài chim sinh sôi, nẩy nở. Thường là vào mùa mưa, hiện nay, qua tính toán sơ bộ, số lượng chim ở Vườn Chim còn khoảng 40 ngàn con và 5 ngàn tổ chim các loại.
Ngày nay, nằm trong tổng thể phát triển du lịch của tỉnh, cùng với một số dự án khác như: Khu du lịch - dịch vụ cụm nhà Công tử Bạc Liêu; khu du lịch bãi biển Nhà Mát - Hiệp Thành; Vườn nhãn; Du lịch sinh thái rừng phòng hộ, rừng ngập mặn ven biển; dự án khôi phục, bảo vệ Vườn Chim Bạc Liêu tại xã Hiệp Thành, thị xã Bạc Liêu đang được tích cực triển khai thực hiện, khi dự án hoàn thành, sẽ bao gồm các hạng mục công trình như: mở rộng diện tích, trồng thêm rừng; xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên; cầu qua sông (đã hoàn thành); khu Lâm viên và công viên văn hóa; các cửa hàng dịch vụ ăn uống, bán hàng lưu niệm.

Vườn Chim Bạc Liêu đang từng bước được tỉnh đầu tư theo hướng vừa giữ được sắc thái thiên nhiên hoang dã, phù hợp với tính đa dạng sinh học, phục vụ cho nghiên cứu khoa học vừa khai thác một phần thích hợp, tạo điều kiện cho khách tham quan du lịch và giải trí. Ngoài khả năng đầu tư của Nhà nước, tỉnh rất mong có sự quan tâm, hỗ trợ của các nhà khoa học, các doanh nghiệp trong và ngoài nước.






Dấu hiệu đáng buồn : Vườn chim Bạc Liêu ngày càng thưa...
http://www.vacne.org.vn/images/Images_Tue/Toicoy2.jpg
( *)

Văn hóa

Bạc Liêu xưa kia nổi tiếng là đất ăn chơi với nhiều giai thoại về "công tử Bạc Liêu", bởi người dân xứ này có tư duy khoáng đạt, thích giao lưu tìm bạn qua hội hè và qua sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Do cởi mở và có phần sành điệu nên đất Bạc Liêu không chỉ giữ được đôi chân phiêu lãng của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, tác giả bài Dạ cổ hoài lang bất hủ, mà còn có sức hút mạnh mẽ đối với tầng lớp đại điền chủ Nam Kỳ lục tỉnh vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, buộc họ phải đến đây xả túi xây cất dinh thự. Bởi thế, nhiều người tới thị xã Bạc Liêu ngày nay đã không khỏi ngỡ ngàng khi nhìn thấy tại nơi đất chua phèn ngập mặn tận cùng của đất nước lại có những dãy nhà Tây sang trọng và đường bệ, khác hẳn những biệt thự Pháp ở Hà Nội, Sài Gòn, Đà Lạt. Đáng chú ý là những vật liệu chủ yếu trang trí nội thất các biệt thự này như cửa và chấn song cửa, gạch và đá cẩm thạch ốp tường hoặc lát nền đều được các đại điền chủ bỏ công tốn của sang tận Paris mua về.

Công tử Bạc Liêu


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/3/35/NhaCongtuBacLieu.jpg/180px-NhaCongtuBacLieu.jpg
Ngôi nhà của Công tử Bạc Liêu :

Công tử Bạc Liêu là một tay chơi nổi tiếng ở Sài Gòn và miền Nam những năm 1930, 1940. Ngày nay, Công tử Bạc Liêu trở thành một thành ngữ để chỉ những kẻ ăn chơi.

Vốn thành ngữ "Công tử Bạc Liêu" ra đời từ những năm đầu thế kỷ 20. Thời đó, thực dân Pháp đã ổn định về tổ chức của vùng đất thuộc địa Nam Kỳ. Do việc phân chia lại ruộng đất, đã làm nảy sinh rất nhiều đại điền chủ ở vùng đất này. Thời đó dân gian đã có câu "Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Trạch" để chỉ 4 vị đại điền chủ giàu có nhất vùng đất Nam Kỳ. Theo phong trào khi ấy, các đại điền chủ, hào phú quyền quý khắp Nam Kỳ thường cho con lên Sài Gòn học ở các trường Pháp, thậm chí du học bên Pháp. Tuy nhiên, hầu hết các vị công tử giàu có này, ảnh hưởng bởi sự phồn hoa đô hội, sẵn tiền, nên thường đi vào con đường tay chơi để thể hiện mình. Trong số vị công tử ấy, không ai đủ sức xài tiền như các công tử Bạc Liêu. Thành ngữ "Công tử Bạc Liêu" có từ lúc ấy. Về sau, thành ngữ này chỉ dùng để chỉ công tử Trần Trinh Huy vì chẳng công tử nào sánh kịp về khả năng tài chính và độ phóng túng đối với vị công tử này. Từ đó "Công tử Bạc Liêu" trở thành danh xưng riêng của Ba Huy, không một ai có thể tranh chấp.

Xuất thân

Trần Trinh Huy, tên thật là Trần Trinh Quy sinh ngày 22 tháng 6 năm 1900, nhưng do cho rằng cái tên "Quy" không sang trọng nên ông đổi lại thành "Huy". Ngoài tên Công tử Bạc Liêu, Trần Trinh Huy còn mang nhiều tên khác như Ba Huy, Hội đồng Ba (cách gọi của tá điền, sự thật thì Ba Huy không là thành viên trong hội đồng nào), Hắc công tử (do nước da ngăm đen và để phân biệt với Bạch công tử).

Trần Trinh Huy là con trai ông Trần Trinh Trạch, tức Hội Đồng Trạch, một người xuất thân là thư ký làng, nhờ cưới được cô Tư, con gái của ông bá hộ Phan Văn Bì, người có đất ruông nhiều nhất trong tỉnh Bạc Liêu, người ta tặng cho ông Bá hộ là "Vua lúa gạo Nam Kỳ". Ông Bá hộ chọn rể cho cô con gái thứ Tư trong trường hợp đặc biệt. Hằng năm ông tới Tòa Bố (tòa Hành chánh) tỉnh đóng thuế điền địa. Trong nhiều năm ông chấm viên thư ký điền địa tên Trần Trinh Trạch là người đứng đắn đàng hoàng. Ông hỏi thăm gia thế thì biết thầy ký Trạch chưa vợ. Ông mời về nhà chơi, tạo thuận lợi cho thầy ký Trạch trông thấy cô con gái thứ tư của ông. Nhiều lần tới lui, hai bên "mến tay mến chân". Ông Bá hộ thấy hai đứa nhỏ "tình trong như đã mặt ngoài còn e" liền làm lễ cưới. Ông cho con gái và rễ một sở đất để ra riêng. Thầy ký Trạch xin nghỉ làm công chức điền địa để làm chủ điền. Với trình độ văn hóa tương đối khá, lại có ông già vợ cho đất, giúp vốn nên không bao lâu thầy kỳ Trạch phất lên. Với huê lợi hàng năm, ông sắm thêm đất điền. Có điều ông Bá hộ không thích là đất ông tách bộ cho các con của ông lần lượt chạy về tay chàng rể thứ tư. Nguyên do là các con ông mê cờ bạc nên đem đất điền cầm cố nơi anh rể. Cầm cố lâu năm không chuộc kể như mất luôn. Ông Bá hộ chỉ tự an ủi là "lọt sàng xuống nia", các sở đất đó không rơi vào người ngoài, thương con gái thì phải thương rể. Nhờ vậy, Hội Đồng Trạch càng ngày càng giàu có, đồn điền ruộng lúa có thể được xếp vào hàng bậc nhất miền Nam lúc bấy giờ. Có người viết:

Nghèo đến thằng mình còn chạy quýnh
Giàu như ông Trạch cũng buồn thiu

Trần Trinh Trạch là chủ sở hữu của 74 sở điền, với 110.000 ha đất trồng lúa, gần 100.000 ha ruộng muối. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu lúc bấy giờ (gồm 4 quận Vĩnh Lợi, Cà Mau, Vĩnh Châu, Giá Rai) có 13 lô ruộng muối thì 11 lô là của ông Hội Đồng Trạch, một lô còn lại của cha sở và một lô của dân thường. Ông Trạch có 7 người con, 4 gái, 3 trai. Trong 3 người con trai của ông Trạch (Trần Trinh Đinh, Trần Trinh Huy và Trần Trinh Khương) thì Ba Huy là ăn chơi hơn cả.

Con người

Trần Trinh Huy từng đi du học ở Pháp, sau ba năm về nước không một mảnh bằng, để lại một người vợ Pháp và một đứa con ở lại Paris. Khi Ba Huy về nước ông Trạch kéo gia đình lên Sài Gòn đón quí tử. Chiếc xe Ford đang dùng tốt nhưng ông nói nhân sự kiện đặc biệt này phải sắm thêm một chiếc xe mới, cho xứng với học hàm, học vị của cậu Ba, cho rạng mặt Trần gia.

Trần Trinh Huy là người cao lớn, khoảng 1,70 m, lực lưỡng nhưng không cục mịch, trái lại dáng người rất thanh thoát, sang trọng, da đen, mày rậm... người đầy sinh lực. Tính tình Huy rất dễ dãi và hào phóng. Người trong nhà lầm lỗi, Huy cũng ít rầy la. Bà con ở xa lên thăm, Huy đều cho tiền. Tá điền không thấy Huy đòi nợ ai bao giờ, ai nghèo quá, năn nỉ Huy còn bớt lúa ruộng. Cho nên tá điền Bàu Sàng ít ai oán ghét Ba Huy.

Trong các mối quan hệ, Ba Huy là người khoáng đạt, không dè dặt và mưu toan gì. Thời đó, các cậu công tử lẫn điền chủ điều chơi với người Pháp thì rất khúm núm, nịnh nọt, gọi là "chơi thế". Riêng Ba Huy thì cứ "toa toa" "moa moa"[2] sòng phẳng, ngang hàng. Nếu như trong mắt giới giang hồ tứ chiếng, Ba Huy là một người ngon nhất Nam bộ, thì trong mắt người Pháp, Huy được nể trọng vì có vợ đầm và mướn người Pháp làm công cho mình. Tánh của Ba Huy vị tha và coi tiền như rơm rác. Bút tích của Huy cho thấy tuy nét chữ bay bướm nhưng lại rất xấu, chứng tỏ đó là một con người thông minh, từng trải nhưng đường học vấn không đến nơi đến chốn.

Ba Huy cũng là người rất cởi mở, không cổ hủ, cực đoan như nhiều điền chủ khác. Ông từng ủng hộ Việt Minh một lúc 13.000 giạ lúa. Công tử Bạc Liêu còn tỏ ra là một con người tự trọng, đã hứa với Chính phủ những gì thì ông sẽ làm thế ấy. Ông đã hứa với người lãnh đạo cao nhất của Tỉnh ủy Bạc Liêu là giảm tô, không hợp tác với Pháp, gửi vải vóc thuốc men cho kháng chiến và thực hiện đúng như vậy. Thích hội hè, Ba Huy có lẽ là người tổ chức hội chợ và hội thi "Hoa hậu miệt đồng" đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long.

Ba Huy có bốn người vợ và rất nhiều nhân tình. Người vợ đầu là người Pháp, trong thời gian Ba Huy đi học ở Paris. Về nước ông cưới một người vợ ở Bạc Liêu là Ngô Thị Đen. Bà này ở với Ba Huy sinh được người con gái là cô Hai Lưỡng. Sau cô Hai Lưỡng qua Pháp sống. Từ năm 1945, Ba Huy lên Sài Gòn ở hẳn. Ông lấy thêm một bà nữa và sinh được ba người con: Nghĩa, Nhơn, và Đức.

Bà cuối cùng, khoảng năm 1968, Ba Huy dọn về căn nhà phố đường Nguyễn Du, Sài Gòn. Mỗi sáng đứng trên lầu nhìn xuống, ông thấy một cô gái gánh nước đi qua đẹp quá. Hỏi thăm thì đựơc biết cô gái đó là con ông già làm nghề sửa xe đạp. Ba Huy đến nhà ông già xin "đổi" căn nhà đó lấy cô gái. Ông già và cô gái sau khi bàn bạc đồng ý. Và đó là người vợ cuối cùng của Ba Huy, kém ông đến 50 tuổi. Bà sống chung thủy với ông đến ngày ông qua đời. Họ có ba con trai và một con gái tên Hoàn, Toàn, Trinh và Nữ.

Ba Huy còn rất nhiều con với các nhân tình. Tuy những người đó không phải vợ chính thức nhưng con cái của họ đều được Trần gia thừa nhận. Ông mất năm 1973 ở Sài Gòn và được đưa về an táng trong phần mộ gia đình tại ấp Cái Dầy, xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, Bạc Liêu.

Những giai thoại

Ông Trạch giao cho Ba Huy việc trông coi điền sản. Huy đi vào các sở điền bằng xe hơi hoặc ca nô. Việc này là một sự kiện đặc biệt, Ba Huy đi đến đâu tá điền ùn ùn kéo đến xem, vì cả đời họ chưa được nhìn thấy xe hơi, ca nô bao giờ. Đi đòi nợ các tỉnh, Ba Huy dùng chiếc Ford Vedette, còn đi chơi ông có chiếc Peugeot thể thao, sản xuất năm 1922. Loại xe đó cả miền Nam khi ấy chỉ có hai chiếc, chiếc kia là của vua Bảo Đại.

Ba Huy còn thuê một người Pháp làm công cho mình. Đó là ông Henri, chồng bà Tư Nhớt, một người trong gia tộc Trần Trinh. Ông này làm quản lý, điều hành gia sản cho ông Hội Đồng Trạch, dưới quyền ba Huy. Theo hợp đồng, quản lý được hưỏng 10% trên tổng số lợi tức thu được hàng năm. Chính vì vậy ông Henri mới bỏ "mẫu quốc" qua làm mướn cho bên vợ, mãi đến tháng 4 năm 1975 mới về nước.

Công tử Bạc Liêu rất mê nghề võ. Vào nữa đầu thế kỷ 20, học võ là một cái mốt với nhận thức: Học võ để nâng cao cái khí phách thượng võ của kẻ anh hào. Ba Huy không học võ Tây hay võ Ta mà học võ Xiêm. Ông ta đã cất công qua Xiêm mướn một ông thầy thượng hạng về dạy cho mình và Tám Bò, là em út của ông ta.

Một sự kiện chấn động cả nước khi đó là Ba Huy đi thăm ruộng bằng máy bay. Và lúc ấy cả Việt Nam cũng chỉ có 2 chiếc là của Công tử Bạc Liêu[3] và của vua Bảo Đại. Một lần bay qua thăm điền Rạch Giá, Công tử Bạc Liêu hứng chí bay ra biển Hà Tiên chơi, cứ bay mải miết cho đến khi kim báo xăng không còn nhiên liệu, buộc lòng Ba Huy phải đáp khẩn cấp. Xuống đất, Ba Huy hoảng hốt biết mình đã bay lọt sang tận nước Xiêm. Trần Trinh Huy bị Nhà nước Xiêm bắt giữ và phạt 200 ngàn giạ lúa. Ông Hội đồng Trạch phải chở một đoàn ghe chở lúa thật dài qua tận Xiêm để chuộc quí tử về.

Ba Huy sinh hoạt cực kì sang trọng và xa hoa. Ra đường là đóng bộ veston, thứ hàng đắt tiền nhất thời đó. Thói quen của Ba Huy là ăn sáng kiểu Tây, trưa ăn cơm Tàu, chiều ăn cơm Tây. Mỗi lần từ Bạc Liêu đi Sài Gòn là ông ta ngồi trên chiếc xe cáu cạnh, có tài xế lái. Khi lên Sài Gòn ít khi Công tử Bạc Liêu ở ngôi biệt thự của Trần gia mà vào một trong những khách sạn nổi tiếng sang trọng ở Sài Gòn. Có khi hứng chí đi dạo mát Ba Huy thuê cả chục chiếc xe kéo, ông ta ngồi một chiếc, những chiếc còn lại chở những món đồ như mũ, cây "can"...

Công tử Bạc Liêu là một người luôn xê dịch và rất ham vui, những cuộc ăn chơi nổ trời diễn ra, Trần Trinh Huy lặn ngụp trong những bàn tiệc với rượu sâm banh. Mỗi chủ nhật ông đều đi nghỉ cuối tuần ở Vũng Tàu, Đà Lạt hoặc về Cần Thơ. Ba Huy cũng là một kẻ mê cờ bạc, có những khi ông đánh một cây bài 30.000 đồng, trong khi lúa chỉ 1,7 đồng một giạ, lương của Thống đốc Nam Kỳ chưa tới 3.000 đồng một tháng.

Hắc công tử và Bạch công tử:

Bạch công tử

Bạch công tử là Lê Công Phước hay còn gọi là George Phước, con trai của Đốc phủ Lê Công Sủng, người ở làng Điều Hòa, tỉnh Mỹ Tho. Phước cũng là một tay chơi nổi tiếng khi đó, da trắng nên được gọi Bạch công tử để phân biệt với Ba Huy. George Phước say mê cải lương, từng qua Pháp học về sân khấu. Về nước Phước cùng một người khác bỏ tiền lập hai gánh hát Phước Chương và Huỳnh Kỳ nổi tiếng với cô đào chánh đệ nhất tài sắc đương thời là cô Bảy Phùng Há và một cô đào tài sắc khác là Năm Phỉ. Cùng nổi tiếng ăn chơi, Bạch công tử và Hắc công tử trở thành kỳ phùng địch thủ.

Hắc công tử và Bạch công tử

Tác giả Nguyễn Thiện viết:

"Đang lúc cô Ba Trà, một người con gái có sắc đẹp làm xao xuyến tâm hồn Bạch công tử, thua bài sạch túi, ông trưởng giả lớn tuổi chưa kịp cung phụng tiền bạc tiếp để vừa lòng mỹ nhân, Bạch Công tử lù lù lái xe lại nhà cô Ba Trà, rủ xuống Cần Thơ ăn cá cháy và đánh bài gỡ bạc.
Hai người xừa xuống đến quán Bungalows ở Cần Thơ, máy xe chưa nguội thì chiếc Sport tám máy của Hắc Công Tử cũng vừa tới, thắng cái két. Cả hai lâm vào cảnh khó xử, việc chiếm được mỹ nhân chỉ còn cậy vào tài chinh phục của bản thân mình. Cả ba cùng đưa nhau vào khách sạn. Bạch Công tử lột chiếc cà rá hột xoàn trị giá 3.000 đồng vào thời đó để trên bàn trước khi vào phòng tắm. Lúc trở ra, thấy cô Ba Trà đeo thử nó trên tay, Bạch Công tử liền lên tiếng tặng luôn. Sau đó Hắc Công tử đã mua tặng cô Ba Trà một chiếc nhẫn trị giá gấp đôi..."
Một lần, đoàn Huỳnh Kỳ cùng cô Bảy Phùng Há về Bạc Liêu biểu diễn, Bạch công tử mời Hắc công tử đến xem. Đang xem, Bạch công tử móc thuốc hút, vô ý làm rớt tờ giấy con công [7], Bạch công tử cuối xuống tìm kiếm. Hắc công tử thấy vậy hỏi:

- Chú kiếm gì vậy?

- Tôi kiếm tờ con công.

Hắc công tử mỉm cười nói:

- Để tôi đốt đuốc cho chú kiếm.

Nói rồi Hắc công tử móc tờ giấy bạc bộ lư châm lửa soi cho Bạch công tử kiếm. Bị một vố quá nặng, vãn tuồng, Bạch công tử mới nói:

- Toa chơi moa một cú đau quá. Bây giờ nếu toa ngon, toa với moa cân mỗi người ký đậu xanh, rồi lấy tiền nấu, ai sôi trước người ấy thắng?

Tối hôm sau, Hắc công tử cho trải thảm đỏ từ ngoài cổng vào tận thềm nhà cứ mỗi thước cho một gia nhân cầm đuốc soi đường, nghinh đón phái đoàn của Bạch công tử. Cuộc thi được tổ chức ở đại sảnh nhà lớn của Trần gia. Lửa của tiền giấy thì rất kém nhiệt, chỉ cháy nhỏ, vì thế họ nấu chè rất lâu trong sự căng thẳng của rất nhiều người chứng kiến. Trán ai cũng rịn mồ hôi hột, nhất là những người trong gia đình họ Trần. Cuối cùng, nồi chè Bạch công tử sôi trước, Hắc công tử đành thua cuộc. Nhưng Ba Huy tuyên bố rằng ông ta thua trong danh dự.

"Công tử Bạc Liêu" ngày nay

Ngày nay, Công tử Bạc Liêu trở thành một thương hiệu du lịch hấp dẫn của tỉnh Bạc Liêu. Tòa biệt thự của Ba Huy khi xưa nay trở thành Khánh sạn Công tử Bạc Liêu.Ngôi biệt thự của công tử Bạc Liêu được xây dựng từ năm 1919, do kỹ sư người Pháp thiết kế. Để đảm bảo độ bền và diện mạo kiến trúc, chủ nhân đã đặt hàng và cho chuyên chở toàn bộ vật liệu xây dựng như thép đúc, cửa, cẩm thạch lát nền, gạch, khung sắt trang trí... từ Pháp qua. Các bù loong, ốc vít cho các chi tiết xây dựng đều được đóng dấu chìm mẫu tự P rất hoa mỹ, chứng thực sản xuất tại thủ đô Paris. Người dân Bạc Liêu gọi đây là "Nhà Lớn". Không chỉ đẹp về kiến trúc, nội thất mà nhà Hội đồng Trạch cũng qui tụ vô số đồ gỗ, sứ, đồng... quý giá. Những bảo vật đó đến nay không còn do con cháu không giữ được, do mất mát vì chiến tranh hoặc những nguyên nhân khác. Có hai món đồ quí hiện được giữ nguyên vẹn ở chùa Chén Kiểu, Sóc Trăng là chiếc giường ngủ chạm khắc tuyệt mỹ và bộ bàn ghế cũng chạm trổ công phu. Đây là hai món quà do Ba Huy hào phóng tặng nhà chùa.

Hiện nay, ngôi biệt thự đó trở thành khách sạn Công Tử Bạc Liêu với 6 phòng ngủ. Trong đó 5 phòng bình thường và căn phòng Ba Huy từng ở trước đây có giá gấp đôi. "Phòng công tử" có một giường đôi, ti vi, máy lạnh, một bàn viết, một tủ áo và toilet khá rộng kế bên. Điểm độc đáo duy nhất của căn phòng này là chiếc máy điện thoại có từ đời Pháp thuộc đến giờ vẫn sử dụng tốt. Căn "phòng công tử" luôn đắt khách, nhất là người nước ngoài. Du khách muốn qua đêm tại đây buộc phải đặt phòng trước cả tháng. Cách khách sạn Công Tử Bạc Liêu không xa, còn có một cụm khách sạn, nhà hàng khác cũng mang tên Công Tử.

Cuối năm 2004, nhà văn Phan Trung Nghĩa của báo Bạc Liêu đã cho xuất bản quyển Công tử Bạc Liêu - Sự thật và giai thoại gồm nhiều câu truyện và tư liệu sưu tầm về Trần Trinh Huy.

(*) Phần chữ xanh là phần tớ bổ xung thêm , vì anh Lá không type phần này ^^

Yumi_Hảo
22-05-2007, 02:37 AM
http://www.wompom.ca/vietnam/gfx/vn-map-camau.gifhttp://www.quehuong.org.vn/nr050307131435/nr050106094245/nr050112153408/Ca%20mau_tan%20cung%20chot%20mui.jpg


Địa Lý


Diện t ích: 5.208,8 km2.
Dân số (2004): 1.191.829 người.
Tỉnh lỵ: Thành phố Cà Mau.
Các huyện: Đầm Dơi, Ngọc Hiển, Cái Nước, Trần Văn Thời, U Minh, Thới Bình.
Dân Tộc: Việt (Kinh), Hoa, Khmer, Chăm.

Cà Mau là tỉnh cực nam của tổ quốc, có 3 mặt giáp biển với 307 km (192 miles) bờ biển. Phía bắc giáp Kiên Giang, phía đông bắc giáp Bạc Liêu, phía đông và đông nam giáp biển đông, phía tây và tây nam giáp Vịnh Thái Lan.



Cà Mau là vùng đất mới bao gồm: đất phèn, đất mặn, đất than bùn và đất bãi bồi tạo nên những cánh đồng màu mỡ. Cà Mau có mạng lưới sông ngòi chằng chịt, 7 sông chính là sông Ông Đốc, Bảy Háp, Cái Lớn, Gành Hào, Dầm Dơi, Trèm Trẹm, Bạch Ngưu tạo thành các cửa sông lớn. Ngoài biển Cà Mau còn có đảo Hòn Khoai, Hòn Chuối. Nhờ có bờ biển dài, khả năng đánh bắt cá tôm của Cà Mau rất lớn. Nơi đây phát triển nhiều hồ nuôi tôm.



Cà Mau nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 8, các tháng khác ít mưa. Lượng mưa trung bình ở Cà Màu 2.500 mm/năm (99 in/năm). Nhiệt độ trung bình năm khoảng 26 -27 ° C.



Giao thông: đường bộ số 4 từ Cần Thơ, Sóc Trăng xuống, qua Bạc Liêu (114 km (71 miles)), Cà Mau (180 km (112 miles)), từ Cà Mau đến Năm Căn (qua Cái Nước) 55 km (34 miles). Đường thứ 2 từ Cà Mau lên Rạch Giá 130 km (80 miles). Cà Mau có nhiều sông và mạng lưới kênh rạch chằng chịt nên đi lại và vận chuyển bằng ghe thuyền rất thuận tiện. Ngay trong rừng đước, rừng tràm, thuyền đi chỗ nào cũng được.


Rừng Tràm là điểm đặc biệt của Cà Mau

Vùng đất tận cùng của tổ quốc là một bức tranh hài hòa giữa rừng và biển, với một quần thể động thực vật phong phú, nhiều phong cảnh đẹp như cụm đảo Hòn Khoai, Hòn Đá Bạc, những sân chim tự nhiên như sân chim Ngọc Hiển, Đầm Dơi, Cái Nước, rừng tràm U Minh, rừng đước với nhiều loại động vật quí hiếm của khu sinh thái rừng ngập mặn như heo rừng, trăn, kỳ đà, khỉ. Ngoài ra Cà Mau còn có một số di tích lịch sử, văn hóa: động Nọc Nang, đình Tân Hưng.


Thắng Cảnh


Rừng Sác:
Là rừng ngập mặn ở vùng duyên hải, thành phần chủ yếu gồm cây mắm, đước, dừa nước, chà là. Muốn tận mắt nhìn thấy rừng sác bạt ngàn, du khách phải đến tận đất mũi, miệt Năm Căn, ông Bọng, bà Hương, Láng Tròn, ông Đốc, ông Sào, rừng lúc nào cũng ngập nước. Do ảnh hưởng của thủy triều, rừng Sác trở thành môi trường lý tưởng cho các loài tôm, cá, chim, cò. Người dân vùng này chủ yếu làm nghề đánh bắt thủy sản và nuôi tôm.

Rừng U Minh :

http://www.saigontourist.hochiminhcity.gov.vn/news/images/2004/10/camau.jpghttp://vietsciences.free.fr/lichsu/lichsucacnuoc/images/nambo-caybanglang-cattien.jpg
Rừng U Minh sát Vịnh Thái Lan, trải ra mênh mông từ sông Đốc (phía nam) đến Rạch Giá (phía bắc). Phần trên là U Minh Thượng, phần dưới là U Minh Hạ. Giữa U Minh Thượng và U Minh Hạ là sông Trẹm và sông Cái Tàu. Nơi đây thiên nhiên hùng vĩ và hoang sơ, chủ yếu là cây tràm mọc khắp nơi. Xen vào đó chỉ có một ít loại cây thân thảo hoang dại. Suốt ngày rừng U Minh luôn tối. Cây tràm nhỏ thấp hơn cây đước, vỏ cây xốp và trắng, gỗ bên trong rắn chắc. Thân cây cao đến 20 m (60 ft), tán lá tràm thưa, lá thon nhỏ. Cây tràm có thể sống 25 - 30 năm. Lúc đó nó trở thành cây cổ thụ, gỗ có thể dùng làm nhà. Mùa khô, trái tràm rụng xuống đất và đến mùa mưa, cây tràm con đã lên xanh tốt. Hạt tràm có thể nằm tại khu đất cháy 5 - 10 năm, sau nếu có điều kiện có thể nảy mầm thành cây con. Hương tràm có mùi hương dịu như hương sen, mật ong. Hương tràm là một sản phẩm được nhiều người ưa thích.

Sân Chim Ngọc Hiển:


http://www.vietshare.com/quehuong/camau/hinhcamau/camau08.jpghttp://www.saomaitours.com/Saomaitours_Vietnam/Introduction_V/diemDL_mien_Nam_files/image038.jpg
Nằm trong huyện Ngọc Hiển, huyện cuối cùng của Cà Mau và cũng là mảnh đất tận cùng của đất nước, sân chim Ngọc Hiển có diện tích tự nhiên rộng 130 ha. Là một trong những sân chim tự nhiên lớn nhấtt nước, sân chim Ngọc Hiển có dòng sông Bảy Háp chảy qua cùng với hệ thống kênh ngòi chằng chịt, với thảm thực vật phong phú và xanh tươi quanh năm đã là môi trường thiên nhiên trong lành chưa bị con người hủy hoại, nơi trú ngụ của các loài chim bay đến hàng năm. Sân chim Ngọc Hiển là điểm du lịch sinh thái và nghiên cứu về các loài chim trong môi trường sinh thái tự nhiên được bảo vệ tốt của Cà Mau.

Lịch Sử

Năm 1832, Minh Mạng đổi các trấn thành tỉnh và chia Nam Kỳ thành sáu tỉnh là Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, Hà Tiên và An Giang. Thời Pháp thuộc, quân Pháp chia tỉnh An Giang làm sáu tỉnh mới là Bạc Liêu, Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ và Sóc Trăng. Tỉnh Bạc Liêu gồm có các quận Cà Mau, Thới Bình, Quản Long, Tân Bằng, Năm Căn, Vĩnh Châu.

Trước họa quân Pháp đày đọa nước ta, năm 1872, người dân Cà Mau đã theo hai vị anh hùng Đỗ Thứa Luông và Đỗ Thừa Tự kháng chiến, lấy rừng U Minh làm căn cứ tiến đánh các đồn bót của giặc Pháp. Năm 1873, dân quân tấn công đồn Cà Mau, giết chết tên tỉnh trưởng là Trung úy Escanyé và tên tri huyện tay sai Phan Tử Long.

Di Tích

Chùa Quan Âm:

http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/Vanhoa/0002/0005/images/290.jpg

Chùa tọa lạc ở số 84/4 đường Rạch Chùa, phường 4, thành phố Cà Mau. Chùa do hòa thượng Tô Quang Xuân dựng vào khoảng giữa thế kỷ 19, lúc bấy giờ chỉ là một am nhỏ để ngài tu hành và chữa bệnh cho dân. Sau ngài về tu ở chùa Kim Chương (Gia Định) lấy pháp hiệu là Trí Tâm. Năm 1842 vua Thiệu Trị sắc phong hòa thượng cho ngài và sắc tứ cho chùa Quan Âm. Kiến trúc chùa hiện nay do hòa thượng Thiện Tường và Thiện Đức xây năm 1936. Trong chùa có bia dựng "Sắc tứ Quan Âm cổ tự" và tháp hòa thượng Trí Tâm.

Chùa Hưng Quảng:


http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/Vanhoa/0002/0005/images/289.jpg
Tọa lạc ở số 26 đường Phan Ngọc Hiển, thành phố Cà Mau. Chùa được dựng từ những năm 1950 thuộc Tịnh Đô Cư Sỉ Phật hội Việt Nam, và được trùng tu năm 1963. Trong chùa có lập phòng thuốc nam Phước Thiện từ năm 1954 và đã hoạt động cho đến ngày nay

Đình Tân Hưng :

Cách thành phố Cà Mau 4 km (2.5 miles) về phía nam, trên tuyến kênh rạch Rập, đường đi huyện Cái Nước, thuộc địa phận xã Lý Văn Lam thành phố Cà Mau. Đình xây dựng năm 1907, trải qua thời chiến tranh, đình bị hư hỏng toàn bộ. Trên nền đó, người dân địa phương cho dựng một ngôi đình khác nhỏ hơn, nền xây bằng đá hộc, mái lợp ngói máng. Mặt trước là hàng bốn cột xi măng. Dưới các chân cột được kê bằng đá tảng. Cấu trúc mái hình bánh ít, trên nóc đúc hai rồng chầu.

Yumi_Hảo
22-05-2007, 02:59 AM
http://www.baocantho.com.vn/news/images/news/Tu%20lieu/Ban-do-CT.jpg

Diện tích: 2.965 km2.
Dân số (2004): 1.121.141 người.
Thành phố Cần Thơ (Trực thuộc Trung ương) có 08 đơn vị hành chính:
04 Quận (Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn)
04 huyện (Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt)
Dân tộc: Việt (Kinh), Khơmer, Hoa.


http://www.pbase.com/image/49279062/original.jpg

Cần Thơ nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, giữa một mạng lưới kênh ngòi sông rạch. Cần Thơ tiếp giáp với 6 tỉnh: phía bắc giáp An Giang, Đồng Tháp, phía nam giáp Sóc Trăng, Bạc Liêu, phía tây giáp Kiên Giang, phía đông giáp Vỉnh Long.

Thành phố Cần Thơ không có núi mà chỉ toàn đồng bằng và sông rạch. Sông Hậu Giang rất quan trọng về kinh tế, có bến bắc Cần Thơ gần tỉnh lỵ là nơi tiếp nhận các tàu biển lớn. Kinh rạch trong tỉnh rất nhiều và tiện cho việc giao thông.

Phía bắc có kinh Xà No, kinh Cầu Sắc, kinh Thốt Nốt, kinh Thị Đôi, kinh Ô Môi, sông Cần Thơ. Phía nam có kinh Cái Lớn, kinh Long Mỹ, kinh Phụng Hiệp... Quận Phụng Hiệp ở giữa bảy con kinh, từ đây dân chúng có thể đi Sóc Trăng, Rạch Giá, Cà Mau, hoặc ra hai sông Tiền Giang, Hậu Giang đi lên Sài Gòn.

Quốc lộ 4 và liên tỉnh lộ 27 là trục giao thông đường bộ quan trọng nối Cần Thơ với các tỉnh lân cận. Hai phi trường đặt ở Bình Thủy và Trà Nóc thuộc quận Châu Thành. Các tuyến đường lớn chạy qua tỉnh là quốc lộ 1A, quốc lộ 80, quốc lộ 91. Cần Thơ là trung tâm giao thông thủy bộ của cả vùng Nam Bộ, nối liền với Campuchia. Cần Thơ có bến cảng khá lớn tiếp nhận tàu 5.000 tấn.

Khí hậu nóng ẩm nhưng ôn hòa, có hai mùa mưa, nắng rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4. Cần Thơ cách Sài Gòn 169 km (105 miles), từ xa xưa đã được coi là trung tâm lúa gạo của miền Tây Nam Bộ, hiện nay là một trong những tỉnh sản xuất và xuất khẩu gạo chính của cả nước.

Với đất đai phì nhiêu, bên cạnh thế mạnh về cây lúa và cây ăn quả các loại. Cần Thơ còn có nguồn thủy sản khá phong phú chủ yếu là tôm, cá nước ngọt (hơn 5.000 ha ao đầm nuôi tôm, cá nước ngọt) và chăn nuôi: lợn, gà, vịt. Các ngành công nghiệp hiện có là điện năng (nhà máy điện Tà Nóc 33.000 KW); kỹ thuật điện, điện tử, hóa chất, may, da và chế biến nông sản, thủy sản là thế mạnh của tỉnh.

Thắng Cảnh

Bến Ninh Kiều:

http://vietnam.vnagency.com.vn/VNP_Upload/News/2005-8/8/0508La04L.jpg http://www.vnn.vn/dataimages/original/images344925_benNinhKiieu20904.jpg

Nằm bên hữu ngạn sông Hậu, gần trung tâm thành phố Cần Thơ. Trên bến sông suốt ngày tấp nập tàu, thuyền xuôi ngược chở đầy những sản vật vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bên Bến Ninh Kiều là cảng Cần Thơ. Cảng này được xây dựng hiện đại có khả năng tiếp nhận trọng tải 5.000 tấn, gần bến Ninh Kiều có chợ Cần Thơ, một trung tâm buôn bán lớn ở miền Tây Nam bộ. Nơi đây, hấp dẫn khách du lịch là nhà hàng nổi trên sông, bạn có thể vừa thưởng thức các món ăn đặc sản, vừa ngắm cảnh sông nước.

Vườn Du Lịch Cần Thơ:

http://www.diemhenvietnam.com/Uploads/DesHandBook/31072006/News/20731153350.jpg

Trong những năm gần đây hàng loạt các vườn du lịch xanh tươi mà hiện đại đã và đang xuất hiện trên khắp các tuyến đường bộ, đường thủy ở Cần Thơ, ngày càng thu hút đông du khách trong và ngoài nước đến thăm. Vườn du lịch Mỹ Khánh, vườn nhà ông Sáu Dương, vườn lan Bình Thủy, vườn du lịch Ba Láng (Châu Thành), Tân Bình (Phụng Hiệp) trải dài dọc theo tuyến lộ vòng cung, trên các tuyến sông Phong Điền, Phụng Hiệp, và nhiều vườn du lịch khác ở Long Mỹ, VịThanh, Ô Môn, Thốt Nốt đang phát triển.

Từ thành phố Cần Thơ, du khách theo quốc lộ 1 hướng về Sóc Trăng qua cầu Đầu Sấu, đến gần cầu Cái Răng rẻ phải khoảng 6 km (4 miles) là đến vườn du lịch Mỹ Khánh. Vườn Mỹ Khánh rộng 2,2 ha với hơn 20 loại cây ăn trái, hoa kiểng và nhiều loại động vật như chim, cá, rùa, rắn, cua, tôm... Du khách đi dạo trong vườn hít thở không khí trong lành mát mẻ và được nếm các loại trái cây chín và những món ăn đặt sản miệt vườn. Dưới bóng cây xanh thấp thoáng ẩn hiện những ngôi nhà nhỏ xinh là nơi khách nghĩ đêm.

Khu Du Lịch Ba Láng: Cách thành phố Cần Thơ 9 km (4 miles) trên quốc lộ 1 theo hướng Sóc Trăng, qua cầu Cái Răng rộng 4,2 ha. Nơi đây có hồ ao sen nuôi động vật, hai hồ tắm dành cho người lớn và trẻ em, có sân khấu ngoài trời, chuồng thú, khách sạn mini. Những miệt vườn ở đây được kết hợp loại hình kinh tế vườn và du lịch đã làm phong phú thêm tuyến du lịch miền sông nước Cửu Long.

Vườn Cò Bằng Lăng:

http://www.diemhenvietnam.com/Uploads/DesHandBook/28102006/News/20102815318.jpg ----http://www.vietnamtourism.com/connect/viewanh_t.asp?fileid=3972

Trên đường từ Cần Thơ về thị xã Long Xuyên (An Giang), qua khỏi thị trấn Thốt Nốt khoảng 5 km (3 miles) là đến vườn cò Bằng Lăng. Vườn nằm ở cuối cầu Bằng Lăng dọc theo bờ sông nhỏ, dưới những hàng cây rợp bóng trước một vùng nước trắng mênh mông như biển đó là ruộng lúa đã gặt xong vào mùa nước nổi.

Du khách đến thăm vườn cò sẽ được thấy hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn con cò (cò trắng, cò xám, cò đen, cồng cọc) chao cánh và sà xuống những cành trúc la đà, đong đưa theo gió, rối rít gọi đàn trong vườn còn có cái tụm dựng chìa ra bờ ruộng, làm bằng tre cao chừng 3 m (9 ft) thoạt trông như một khán đài mà ở đó du khách có thể dõi mắt nhìn khắp vườn cò, tìm hiểu cảnh sinh hoạt của đàn cò đông đúc giữa vùng đồng quê thanh bình của đồng bằng sông Cửu Long.

Lịch Sử

Cũng giống như lịch sử của phần lớn các tỉnh miền Tây, đất Cần Thơ trước đây thuộc tỉnh Long Hồ. Đời vua Minh Mạng đất Nam Kỳ Lục tỉnh gồm Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.

Thời Pháp thuộc, quân Pháp chia vùng An Giang thành sáu tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Sóc Trăng và Bạc Liêu, Cần Thơ là tỉnh thứ 19 trong 21 tỉnh ở Nam Kỳ. Sau khi giặc Pháp chiếm trọn các tỉnh miền Nam vào năm 1867dân chúng Cần Thơ đã cùng với đồng bào cả nước vùng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm.

Đầu năm 1868, anh hùng Đinh Sâm chiêu mộ nghĩa quân vùng Láng Hầm, Tầm Vu nổi lên chống Pháp giết tên Việt gian là cai tổng Nguyễn Văn Vinh và làm cho quân Pháp không lúc nào yên. Thực dân bèn sai hai tên tai sai là Trần Bá Lộc và Huỳnh Công Tấn đem quân tới đàn áp, giết hại dân chúng nhưng vẫn không tiêu diệt nổi tinh thần yêu nước của đồng bào Cần Thơ.

Năm 1870, nhiều cuộc nổi dậy xảy ra ở Ô Môn chống lại việc bình định thôn ấp của giặc. Năm 1872, dân chúng theo các anh hùng Lê Công Thành, Âu Dương Lân, Phạm Văn Đổng kháng chiến, phá đồn bót giặc khắp vùng Cần Thơ, An Giang và Vĩnh Long.

Di Tích

Chùa Nam Nhã:

http://www.cinet.gov.vn/vanhoa/0002/0005/images/279.jpg

Tọa lạc ở số 612 đường Cách Mạng Tháng Tám, phường An Thới, thành phố Cần Thơ. Trước là tiệm thuốc bắc Nam Nhã Đường và là nơi liên lạc, hội họp của các phong trào đấu tranh chống Pháp. Chùa do ông Nguyễn Giác Nguyên đứng ra xây dựng năm 1895, theo tông phái Minh Sư nên còn được gọi là chùa Minh Sư. Chùa Nam Nhã là nơi hoạt động của những sĩ phu yêu nước trong tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội. Năm 1917, chùa được trùng tu. Sân chùa rộng rãi trồng nhiều cây, giữa sân là hòn non bộ cao hơn 2m (6 ft).

Trong chính điện có bàn thờ cụ Giác Nguyên, Lịch Đại Tổ sư, bàn thờ Tam Giáo với ba pho tượng bằng đồng là tượng Đức Phật Thích Ca, Đức Khổng Tử và tượng Lão Tử. Hai bên chính điện là hai ngôi nhà 5 gian dành cho phái nam và phái nữ ở. Phía sau là khu vườn mộ, nơi yên nghỉ của những người tham gia phong trào Đông Du và những người xây dựng chùa.

Hội Linh Cổ Tự:

http://www.vietshare.com/quehuong/cantho/hinhcantho/cantho04.jpg

Tọa lạc tại số 314/36, đường Cách Mạng Tháng Tám, phường An Thới, thành phố Cần Thơ. Chùa xây cất năm 1907, lúc đầu bằng tre, lá sau đó nhờ bà con quyên góp nên năm 1914 chùa được xây lại bằng gỗ và gạch ngói. Khi mới lập, chùa có tên "Hội Long Tự" có ý nghĩa mong muốn sự thịnh vượng tốt đẹp cho nhân dân quanh vùng. Năm 1914 hòa thượng Thích Hoành Đạo trụ trì, chùa đổi tên là "Hội Linh Cổ Tự". Chùa Hội Linh Cổ Tự còn giữ những tác phẩm điêu khắc gỗ có giá trị như bức tượng Giám Trai, chuông đồng mõ, bộ binh khí (16 cái) và hàng chục bức tượng bằng gỗ, xi măng, thạch cao và đồng.



Đình Bình Thủy (Long Tuyền Cổ Miếu):
Đình Bình Thủy tên cũ là đình Long Tuyền, tọa lạc tại phường Bình Thủy nên nhân dân quen gọi là đình Bình Thủy. Từ trung tâm thành phố Cần Thơ du khách đi khoảng 5 km (3 miles) theo đường Nguyễn Trãi qua đường Cách Mạng Tháng Tám và Lê Hồng Phong là tới đình. Đình được dựng vào thế kỷ 19, được vua Tự Đức sắc phong là thần "Bổn Cảnh Thành Hoàng" vào ngày 09/01/1853. Từ khi có sắc phong, dân chúng cất lại đình lần thứ hai lợp ngói, phía trước đình xây thêm một nhà võ ca (nhà hát ca). Sau này nhân dân còn đưa thêm những người có công với nước vào thờ: Đinh Công Chánh, Nguyễn Trung Trực, Bùi Hữu Nghĩa, Võ Huy Tập....

Đình Bình Thủy được xây lại mới hoàn toàn, hoàn thành vào năm 1910. Đình có kiến trúc khác với các đình phía bắc. Nhà trước và nhà sau hình vuông, mỗi chiều có 6 hàng cột, các chân cột đều choài ra làm cho đình thêm vững chắc. Trên nóc đình hai mái nhà trước chồng lên nhau, nhà chánh điện sau ba mái chồng lên nhau theo kiểu kiến trúc "thượng lầu hạ hiên". Nóc có gắn tượng người, kỳ lân, cá hóa rồng. Mặt trước nhà là các cột xi măng. Trong tòa tiền đường có bàn thờ Nghi Hạ, Nghi Trung. Nơi nhà vuông nhỏ đặt bàn thờ hương chức, Tiên Giác, phía trong là bàn thờ Hậu Hiền. Sát vách trong cùng ở gian giữa thờ Hậu Thần, hai bên là hai bàn thờ Hữu Ban và Tả Ban.

Đình Bình Thủy là một công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật của ngôi đình làng ở một vùng đất mới khai phá thuộc miền Tây Nam bộ. Mặc dù được xây dựng vào đầu thế kỷ 20, nhưng kiến trúc của đình Bình Thủy mang nhiều nét kiến trúc dân tộc, với những mảng chạm, những họa tiết trang trí, khắc gỗ rất tinh tế và sinh động. Hàng năm nhân dân tổ chức các ngày lễ thượng điền, hạ điền rất đông vui với các trò chơi dân gian như thả vịt, kéo co, nữ công gia chánh... được duy trì cho đến nay và được đông đảo nhân dân tham gia.

Chùa Ông (Quảng Triệu Hội Quán):

http://www.vietshare.com/quehuong/cantho/hinhcantho/cantho05.jpg

Ở vị trí trung tâm thành phố, chùa Ông có lối kiến trúc độc đáo được giữ gìn gần như nguyên vẹn từ thuở ban đầu. Chùa được xây dựng năm 1894 - 1896 trên một khu đất rộng 532m2 (4.788 sq ft), đường Hai Bà Trưng gần bến Ninh Kiều. Mái chùa lợp ngói âm dương với các gờ bó mái bằng những hàng ngói ống men xanh thẩm, trên bờ nóc có vô số hình nhân đủ màu bằng gốm sứ, lưởng long chầu nguyệt, cá hóa long, chim phụng. Ở hai đầu đao là hai tượng người cầm mặt trời, mặt trăng. Trong chùa thờ Quan Công, một vị tướng thời Tam Quốc, tấm gương về lòng trung hiếu tiết nghĩa và các vị Quan Âm Nam Hải, Thái Bạch Tinh Quân, Thổ Địa, Đổng Vỉnh... Chùa Ông là nơi sinh hoạt văn hóa và tín ngưỡng của người Hoa tại Cần Thơ.

Mộ Danh Nhân Phan Văn Trị:

Mộ được đặt tại ấp Nhơn Lộc 1, xã Nhơn Ái, huyện Châu Thành, cách thành phố Cần Thơ 16 km (10 miles) giữa một vùng quê nổi tiếng trù phú về cây trái và lúa gạo. Để tưởng nhớ và tỏ lòng kính trọng với Phan Văn Trị - nhà nho yêu nước, nhà thơ được nhân dân Nam bộ yêu mến, người đã dùng ngòi bút của mình để tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, quân Pháp.. Mộ cụ được nhà nước và nhân dân địa phương trùng tu tôn tạo khá khang trang dưới bóng mát của vườn cây ăn trái, giữa tấm lòng đùm bọc và kính yêu của người dân quê thật thà chất phác.


Chùa Khánh Quang:

http://www.vietshare.com/quehuong/cantho/hinhcantho/cantho12.jpg

Chùa tọa lạc ở số 97 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, thành phố Cần Thơ. Chùa do hòa thượng Thích Huệ Thành sáng lập vào năm 1969.


Lễ Hội

Hội Đình Bình Thủy: Lễ hội diễn ra ở phường Bình Thủy, thàng phố Cần Thơ. Đình thờ thần Hoàng Bổn Cảnh và ông Đinh Công Chánh. Lễ hội diễn ra vào 2 kỳ trong năm: Hạ điền ( 14 - 15 tháng 12 âm lịch) và Thượng điền (12 - 14 tháng 4 âm lịch).

Lễ đình Bình Thủy, còn gọi là lễ Thượng điền, mở hội trong 3 ngày để thờ cúng Bổn Cảnh Thành Hoàng (Thổ thần canh giữ đất). Đây là lễ hội cầu an, có cúng tế, rước thần trên "xe rồng tán phượng" thỉnh sắc cầu thần bằng bè ghép 3 chiếc thuyền trang trí lộng lẫy và tổ chức hát bộ 3 đêm liền. Vào ngày lễ Hạ điền, là dịp để các cô gái trổ tài nữ công gia chánh trong cuộc thi làm bánh mức để tế thần.

Yumi_Hảo
22-05-2007, 03:13 AM
http://www.longan.gov.vn/ui-lan/uploads/1-7-341/image-upload-1.jpg

Địa Lý

Diện tích: 3.238 km2.
Dân số (2004): 1.667.579 người.
Tỉnh lỵ: thị xã Cao Lãnh.
Các huyện: thị xã Sa Đéc; huyện: Tân Hồng, Hồng Ngư, Tam Nông, Thanh Bình, Tháp Mười, Cao Lãnh, Lấp Vò, Châu Thành, Lai Vung.
Dân tộc: Việt (Kinh), Khmer, Hoa, Chăm.

Đồng Tháp thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, là một trong ba tỉnh của vùng Đồng Tháp Mười, phía Bắc giáp CamPuChia, phía Nam giáp Vĩnh Long, phía Tây giáp An Giang và Cần Thơ, phía Đông giáp Long An và Tiền Giang.

Tỉnh có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, nhiều ao hồ lớn. Sông chính là sông Tiền (một nhánh của sông Mê Kông) chảy qua tỉnh với chiều dài 132 km (82 miles). Dọc theo hai bờ sông Tiền là hệ thống kênh rạch dọc ngang. Đường liên tỉnh giao lưu thuận tiện với trên 300 km (187 miles, đường bộ) và một mạng lưới sông rạch thông thương.

Thị xã Cao Lãnh cách quốc lộ 1A 36 km (22 miles), cách thành phố Sài Gòn 162km (101 miles). Nằm trên bờ sông Cao Lãnh (một nhánh nhỏ của sông Tiền tách ra sau 16 km (10 miles) lại chảy vào sông Tiền), ở ngay sát Đồng Tháp Mười mênh mông, từ xa xưa Cao Lãnh đã là một độ thị sầm uất và là trung tâm kinh tế của Đồng Tháp.

"Cao Lãnh" bắt nguồn từ hai chữ "Câu Đương", là tên một nhân vật gốc Quảng Nam di cư vào Nam theo đợt chiêu mộ của chưởng dinh Nguyễn Hữu Cảnh. Ông Câu Đương tên thật là Đỗ Công Tường tự Lãnh, đến lập nghiệp ở phủ Tân Thành, lập một ngôi chợ và làm chủ. Vì thế dân gọi tắt là chợ "Câu Lãnh", sau đọc trại ra "Cao Lãnh". Phần lớn đất đai phía Đông tỉnh Đồng Tháp là đầm lầy, rừng tràm rộng lớn. Xưa vùng này rất hiểm yếu, thường là căn cứ kháng chiến chống quân Pháp.

Sông chính của tỉnh Tiền Giang, vốn từ sông Cửu Long ở CamPuChia chảy xuống. Kinh rạch chạy khắp tỉnh và là hệ thống giao thông tiện lợi. Các kinh rạch quan trọng gồm: sông Sở Thượng, sông Sở Hạ, kinh Phước Xuyên, kinh Tháp Mười, kinh Cái Bào, kinh Tư Mới, kinh Xáng An Long (kinh Đồng Tiến)... Những cù lao lớn như cù lao Tây, cù lao Hộ...

Khí hậu có hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5. Vào mùa mưa, nước sông Cửu Long đổ từ nguồn xuống mang theo phù sa, nước sông dâng lên ngập cả ruộng đồng, đem phù sa bồi đắp thêm màu mỡ, nhưng gây trở ngại cho một số sinh hoạt bình thường vì mực nước dâng cao, nhất là trong khu vực Đồng Tháp Mười, mực nước dâng từ nữa thước đến hai thước rưỡi.

Là một tỉnh nông nghiệp, Đồng Tháp sản xuất nhiều lương thực và các loại nông, thủy sản có giá trị xuất khẩu. Đất đai Đồng Tháp màu mỡ bởi phù sa do hai con sông Tiền và sông Hậu cung cấp hàng năm, xóm làng trù phú giữa bốn bề cây cối xanh tươi. Vì thế Đồng Tháp được biết đến như một vựa lúa của cả nước. Ở đây có giống lúa nổi, một loại lúa mọc tự nhiên từ tháng 4, tháng 5 đến tháng 10 thu hoạch mà không cần chăm bón.

Đồng Tháp cũng là vùng đầy triển vọng về các loại cây công nghiệp ngắn ngày như mía, bông, thuốc lá, đậu tương và cây ăn trái như: xoài Cao Lãnh, nhãn Châu Thành, quýt Lai Vung, bưởi Phong Hòa, chôm chôm, vú sữa, mãng cầu có quanh năm.

Thắng Cảnh

Tràm Chim Tam Nông:Tràm chim rộng 7.612 ha nằm giữa 4 xã Phú Đức, Phú Hiệp, Phú Thọ và Tân Công Sính, huyện Tam Nông, cách thị trấn Tam Nông 800 m (2400 ft) đường chim bay. Tràm chim nghĩa là chim ở trong rừng tràm, nơi đây thiên nhiên rất phong phú với nhưõng rừng tràm sậy, lao, sen, súng, lúa mạ, năng, lác...và các loài động vật: trăn, rùa, lươn, rắn, các loại cá đồng và nhiều loại chim nước như cò, diệc, vịt trời, cồng cộc, trích cồ và đặc biệt là sếu cổ trụi đầu đỏ. Loại chim quí hiếm này đến tràm chim hàng năm vào mùa khô để cư trú.


http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/web/data/news/2006/10/2083/Dong%20Thap.bmp

Đến thăm tràm chim vào lúc đó, du khách chứng kiến từng đàn sếu đầu đỏ về ăn củ năng cùng với nhiều loài chim khác tụ hợp thành từng đàn đông vui. Sếu to, cao trên 1,7 m (5,4 ft), bộ lông xám mượt, cổ cao, đầu đỏ, đôi cánh dang rộng khi bay. Chim sếu rất chung thủy, bao giờ cuõng có đôi vui đùa nhảy múa và rất gần guõivới con người. Với người Việt Nam loài sếu đầu đỏ, còn gọi là chim Hạc, là biểu tượng của sức mạnh, sự trường tồn và lòng chung thủy. trong các đình, chùa và trên nhiều bàn thờ của gia đình người Việt Nam có thờ chim Hạc.

http://www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/dataimages/normal/images145376_Seudaudo.jpg
Du khách đến đây, nhiều người không muốn về ngay, ai cuõng kéo dài thêm chương trình, đi xuồng len lỏi vào các cụm cây ràm để nhìn ổ và trứng của loài chim trích, ngắm nhìn từng đàn con trích vừa đủ lông bơi lội ngay trước muõi xuồng... khi nước rút, nơi đây trở thành cánh đồng của các loại rong tảo, bông súng, sen, lúa trời...

http://www.agroviet.gov.vn/pls/portal/docs/309795.JPG
http://www.vietnamtourism.com/connect/viewanh_t.asp?fileid=2100
Khu tràm chim đã được các tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế tài trợ để duy trì và phát triển. Nhiều đoàn du khách đã đi hàng vạn cây số từ các nước đến Tam Nông để được nhìn tận mắt con sếu đầu đỏ.

Vườn Hoa Tân Qui Đông:

http://www.vietshare.com/quehuong/dongthap/hinhdongthap/dongthap04.jpg
Du khách yêu hoa và cây cảnh xin mời đến vườn hoa Tân Qui Đông (cách thị xã Cao Lãnh 3 km (2 miles)). Nơi đây trồng nhiều loại hoa và cây cảnh, đặc biệt hoa hồng và cây hổ phách là nhưõng mặt hàng xuất khẩu đi nhiều nước. Ở đây còn có nhiều cây dược liệu dùng làm thuốc chữa bệnh.

Bãi Tắm An Hòa:

An Hòa là một cồn cát nằm chơi vơi giưa sông Tiền, cách thị trấn Cái Tàu Hạ, huyện Châu Thành khoảng 40 phút đi đường. Baõi tắm được phát hiện năm 1995, một cồn cát trắng hình trăng khuyết rộng hơn 10 ha độ nghiêng của cồn ít, không có vùng truõng tạo thành baõi tắm rất an toàn và lý tưởng cho du khách. Tuy mới được phát hiện nhưng baõi tắm An Hòa đã thu hút du khách mọi miền gần xa, tấp nập xuồng ghe kéo về đây để thưởng thức phong cảnh làng quê bình dị hoa trái sum sê, để tắm mình dưới dòng sông tràn ngập nắng và gió, thư giaõn và hòa mình với thiên nhiên.

Lịch Sử

Năm 1832, vua Minh Mạng chia các trấn thành tỉnh thị Sa Đéc thuộc tỉnh An Giang. Dưới thời Pháp thuộc, An Giang được quân Pháp chia thành sáu tỉnh là Sa Đéc, Châu Đốc, Long Xuyên, Bạc Liêu, Sóc Trăng và Cần Thơ. Đồng Tháp vốn là cánh đồng sâu, mọc đầy lau sậy, dưng, lác, tràm, nên trở thành địa thế hiểm yếu mỗi khi nước ta có giặc.

Năm 1862, anh hùng Đốc Binh Kiều chiêu mộ người nghĩa dũng trong vùng cùng nổi lên đánh giặc Pháp. Khi anh hùng Trương Công Định mất, anh hùng Võ Duy Dương rút quân về Đồng Tháp Mười vào năm 1865 và là người đầu tiên nêu khẩu hiệu "Cần Vương" chống giặc. Ông tung nghĩa quân đánh du kích khắp nơi từ Hà Tiên tới Đồng Tháp Mười.

Ông tổ chức dịch vận rất giỏi, nhiều lính quân Pháp bỏ ngũ và cùng theo nghĩa quân đánh phá các đồn bót của giặc khắp các tỉnh Tân An, Mỹ Tho, Long Xuyên, Sa Đéc thời bấy giờ. Ngày 15.4.1865, giặc đem đại quân vây kín căn cứ Đồng Tháp nhưng bị phục binh của ông chận đánh ở Cái Thia liền mấy ngày đêm. Sau đó, ông rút về Cao Lãnh, rồi sang Vàm Cỏ Tây lập cứ địa, tổ chức lại hàng ngũ. Nhưng chẳng may, ông bị mắc bệnh thương hàn mà từ trần.

Trong số những anh hùng sinh trưởng tại Kiến Phong có Nguyễn Quang Diêu (người xã Tân Thuận, quận Cao Lãnh). Với tư chất thông minh và tâm hồn yêu nước dạt dào, ông đã tham gia phong trào cứu nước và tiếp tay đắc lực cho cao trào Đông Du năm 1907. Tại Cao Lãnh, ông mượn chùa Linh Sơn làm nơi gặp gỡ những người yêu nước trong vùng. Ông thường liên lạc với các nhà cách mạng bị quân Pháp đưa từ Bắc vào an trí trong Nam như Võ Hoành, Dương Bá Trạc, Phương Sơn... đang tạm sống tại vùng Sa Đéc.

Năm 1913, ông cùng nhà cách mạng Đinh Hữu Xương (người xã Mỹ Xương) và một số chiến hữu khác ra hải ngoại nhưng bị bắt tại Hồng Kông. Pháp đưa ông về giam tại Hỏa Lò, Hà Nội, rồi đày đi Guyane (thuộc địa Pháp tại vùng Trung Mỹ). Năm 1917, ông cùng một số nhà cách mạng Việt Nam dùng thuyền trốn qua đảo Trinidad, rồi tìm đường sang Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ. Năm 1920, ông từ đó trở lại Trung Hoa. Năm 1927, ông về nước tiếp tục hoạt động hăng say dù tuổi đã cao và bị mật vụ Pháp lùng bắt ráo riết. Đến ngày 15 tháng 5 năm Bính Tý (1936), anh hùng Nguyễn Quang Diêu từ trần.

Di tích

Khu Di Tích Gò Tháp:

Thuộc ấp 4 xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, cách huyện ly Tháp Mười khoảng 11 km (7 miles) về phía Bắc, cách thị xã Cao Lãnh về hướng đông bắc 43 km (27 miles, theo đường bộ và đường thủy). Gò Tháp gồm có 5 di tích tiêu biểu, tính từ con lộ Mỹ Hòa đi vào: gò Tháp Mười, tháp Cổ Tự, đền thờ cụ Đốc Bình Kiều, gò Minh Sư, miếu Bà Chúa Xứ.

Các di tích Gò Tháp mang nhiều giá trị văn hóa - lịch sử. Tháp Cổ Tự cách gò Tháp Mười 100 m (300 ft) về phía Bắc, tương truyền có từ thời Thiệu Trị (1841 - 1847) trước đó là ngôi tháp thờ Chân Lạp. Qua khỏi chùa là đến khu căn cứ Đồng Tháp Mười của cụ Đốc Bình Kiều trong cuộc kháng chiến chống quân Pháp. Mộ và đền thờ cụ còn ở nơi đây. Đi tiếp là đến miếu Bà Chúa Xứ, gò Minh Sư, hàng năm, khách thập phương kéo về dự lễ vía Bà rất đông. Gò Tháp Mười cách đây khoảng 2000 năm là nơi sinh sống của các cư dân cổ. Tại đây giới khảo cổ học đã phát hiện được nhiều di vật văn hóa cổ, đặc biệt là các di vật văn hóa thuộc nền văn minh Óc Eo.

Chùa Kiến An Cung:

Còn gọi là chùa Ông Quách, nằm tại trung tâm thị xã Sa Đéc. Chùa do nhóm người Hoa ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) định cư tại Sa Đéc xây dựng vào năm 1924 - 1927 để thờ cúng tổ tiên và là nơi dạy dỗ con cháu. Kiến trúc chùa Kiến An Cung theo kiểu chữ "công". Toàn bộ chùa không có kèo, chỉ có đòn tay ráp mộng lại. Mái ngói lợp theo dợn sóng rồng trải nền cho những ngọn sóng cong vút lên cao. Sáu đầu ngọn sóng là sáu cung điện thu nhỏ. Hai bên cửa vào chánh điện là 2 con kỳ lân bằng đá xanh rất lớn. Tả, hữu là 2 vị thần Thiện - Ác. Trong sân là nơi cúng tế. Những cột lớn trong chánh điện, các tấm hoành phi, bao lam, đối liễn điều được trạm trổ hoa, lá, chim sơn son, thiếp vàng lộng lẫy tôn nghiêm.



Đền Thờ Thượng Tướng Trần Ngọc (Đền Đốc Binh Vàng): Tọa lạc tại địa phận ấp Nam, xã Tân Thạnh, huyện Thanh Bình, cách trung tâm thị xã Cao Lãnh 24 km (15 miles) theo hướng tây nam. Thượng Tướng Trần Ngọc (Đốc Binh Vàng) giữ chức tổng binh kiêm chánh giải quân lương dưới triều vua Minh Mạng. Năm 1837, trên đường giải quân lương đến biên thùy An Giang, được tin báo thành An Giang thất thủ, ông đã ra lệnh tiêu hủy đoàn thuyền, giải giáp binh sĩ và sau đó rút gươm tự vẫn.

Sau khi mất, triều đình ban tặng ông chức thượng tướng quận công. Dân chúng nhớ ơn và thương tiếc ông, đã đặt tên con rạch thành rạch Đốc Vàng và lập đền thờ ông tại địa điểm hiện nay. Năm 1965, đền thờ được xây dựng lại bằng vật liệu kiên cố đẹp và hài hòa với khung cảnh thiên nhiên. Hàng năm, vào các ngày 15, 16 tháng 2 âm lịch, nhân dân địa phương tổ chức lễ kỷ niệm và cúng tế ông rất long trọng với hàng chục ngàn người tham gia.

Chùa Hương (Phước Hưng Cổ Tự): Là một trong những ngôi chùa cổ kính tại Sa Đéc, chùa do nhóm người Hoa ở Sa Đéc dựng nên cách đây hơn một thế kỷ để thờ Phật. Chùa Hương có kiến trúc đẹp, hài hòa với quang cảnh xung quanh. Chùa có 8 mái và 2 cấp, được lợp mái âm dương tạo gợn sóng, mái cong vút lên cao. Trên nóc là phù điêu hình long, lân, qui, phượng. Cách thức thờ phục của chùa theo lối cổ, tôn nghiêm gồm 2 bộ tam Tây Phương cực lạc (Phật A Di Đà và Quan Thế Âm Bồ Tát), đặc biệt có một pho tượng A Di Đà bằng đất sét thếp vàng có niên đại hơn 100 năm. Ngoài ra còn có chiếc mõ tụng kinh chạm hình song ngư tuyệt đẹp.

Lễ Hội

Lễ Hội Gò Tháp: Di tích Gò Tháp là một quần thể gồm 5 di tích tiêu biểu trong đó có đền thờ cụ Đốc Binh Kiều và miếu bà Chúa Xứ là nổi tiếng hơn cả. Hàng năm khách thập phương kéo về dự lễ hội Gò Tháp rất đông. Lễ vía bà Chúa Xứ cử hành vào ngày 16 tháng 3 âm lịch, giỗ cụ Đốc Binh Kiều vào ngày 15 - 16 tháng 11 âm lịch. Nội dung các lễ hội gần như ổn định: Lễ cầu an, thảnh sanh, tế thần Nông, cúng Ông (Đốc Binh Kiều) hoặc cúng bà Chúa Xứ. Các lễ được tiến hành một cách long trọng, có nhạc lễ theo nghi thức cổ truyền. Ngoài ra còn có múa lân, hát bội, đấu võ, lửa trận. Lễ hội ở Gò Tháp là lễ hội cầu cho quốc thái, dân an, mùa màng được tươi tốt

Diện tích: 1 607,72 km2
Dân số (2002): 766 000 người
Tỉnh lỵ: Thị xã Vị Thanh
Các huyện: Phụng Hiệp, Vị Thủy, Long Mỹ; một số xã, ấp của hai huyện Châu Thành A và Châu Thành.
Dân tộc: Việt (Kinh), Khmer, Hoa, Chăm

Tỉnh Hậu Giang được tách ra từ tỉnh Cần Thơ cũ. Phía bắc tỉnh Hậu Giang giáp Tp. Cần Thơ, phía đông giáp tỉnh Sóc Trăng, phía nam giáp tỉnh Bạc Liêu và phía tây giáp tỉnh Kiên Giang.
Hai tỉnh Cần Thơ và Hậu Giang nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, giữa một mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt như: sông Hậu, sông Cần Thơ, sông Cái Tư, kênh Quản Lộ, kênh Phụng Hiệp, kênh Xã No, sông Cái Sắn... Các tuyến đường lớn chạy qua tỉnh là quốc lộ 1A, quốc lộ 80, quốc lộ 91.

Khí hậu điều hoà, ít bão, quanh năm nóng ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau.
Thị xã Vị Thanh cách Tp. Cần Thơ khoảng 60km. Từ xa xưa vùng đất này đã là một trong những trung tâm lúa gạo của miền Tây Nam Bộ, hiện nay vẫn là một trong số địa phương sản xuất và xuất khẩu gạo lớn nhất trong cả nước.
Đất đai phì nhiêu, có thế mạnh về cây lúa và cây ăn quả các loại, Hậu Giang còn có nguồn thủy sản khá phong phú, chủ yếu tôm cá nước ngọt (hơn 5.000ha ao đầm nuôi tôm cá nước ngọt) và chăn nuôi gia súc. Nhiều ngành công nghiệp mạnh trên địa bàn như chế biến nông, thuỷ sản; cơ khí; điện năng, hàng tiêu dùng; hoá chất; vật liệu xây dựng.

Di tích

Khu di tích căn cứ Tỉnh uỷ

Danh Lam thắng Cảnh: Chợ nổi Phụng Hiệp

Yumi_Hảo
22-05-2007, 03:41 AM
http://www.wompom.ca/vietnam/gfx/vn-map-kiengiang.gif­

Địa Lý

Diện tích: 6.253 km2.
Dân số (2004): 1.634.043 người.
Tỉnh lỵ: thị xã Rạch Giá.
Các huyện thị: thị xã Hà Tiên; huyện Hà Tiên, Hòn Đất, Tân Hiệp, Châu Thành, Giồng Riềng, Gò Quao, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận.
Hai huyện đảo: Phú Quốc, Kiên Hải.
Dân tộc: Việt (Kinh), Khmer, Hoa.

Kiên Giang là môt dải đất nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc, cách Sài Gòn 250 km (156 miles). Phía đông và đông nam của tỉnh Kiên Giang giáp với các tỉnh An Giang và Cần Thơ, phía nam giáp Cà Mau, phía bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài 54 km (34 miles), ngoài ra còn có hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ ngoài vịnh.

Trong tỉnh (phần đất liền), có nhiều núi thấp ở phía tây là núi Đại Tô Châu 178 m (234 ft), núi Hòn Sóc 187 (561 ft), Hòn Đất 260 (780 ft), Vân Sơn, Địa Tạng... Ngoài biển Kiên Giang có rất nhiều hòn đảo như hòn Tre, hòn Thổ Châu, hòn Chông, hòn Rai, hòn Mấu, hòn Nam Du, Minh Hoa, Kiên Giang, hòn Dọc, hòn Kinh Qui, hòn Ngang, hòn Heo, hòn Xưởng, hòn Vang, hòn Thơm, hòn Roi, hòn Dừa, hòn Nhạn...

Đặc biệt là đảo Phú Quốc rất lớn, diện tích 566 cây số vuông, dài 50 cây số, chỗ rộng nhất 29 cây số, có dãy núi Tà Lơn với các ngọn cao như Hàm Rồng 365 m (1,095 ft), núi Chúa 603 m (1,809 ft), núi Mắt Quỷ 360 m (1,080 ft).


Kiên Giang có một khu rừng ngập nước ở phía Nam (U Minh Thượng). Sông rạch trong tỉnh chi chít, phíc bắc có rạch Giang Thành, kinh Hà Tiên, kinh Ba Thê, các kinh Rạch Giá đi Long Xuyên và Thất Sơn, rạch Sỏi...; phía đông nam có kinh Cái Sắn, kinh Tân Hiệp, kinh Thốt Nốt, kinh Cán Gáo, sông Trèm Trẹm, các sông Cái Lớn, Cái Bé đổ ra cửa vũng Rạch Giá, và một số kinh mang số từ 1 đến 10. Bờ biển Kiên Giang có hai có hai vũng lớn là vũng Cây Dương và vũng Rạch Giá.

Nói chung, khí hậu Kiên Giang mát mẻ, nhưng khi gió biển, gió núi hoặc có bão đến cũng mang không khí lạnh cho tỉnh. Những liên tỉnh lộ số 8 và 12 là những đường giao thông quan trọng, nối Kiên Giang với các tỉnh lân cận. Ba phi trường chính đặt ở Hà Tiên, Rạch Giá và Dương Đông (thuộc đảo Phú Quốc).

Nghề chính của tỉnh là nghề nông, nhưng nghề cá cũng rất phát triển. Biển Kiên Giang có những bãi cá và luồng tôm rất lớn. Nhiều loại cá ngon: thu, chim, nhám, bạc má, chép, he, thiều. Kiên Giang còn nổi tiếng về nghề làm nước mắm.

Phần lớn dân chúng ở đây là người Kinh, rồi đến người Việt gốc Chàm và Khmer. Các tôn giáo chính là đạo Phật, Hòa Hảo, Cao Đài và Thiên Chúa.

Hoa màu chính là lúa nhưng chỉ trồng một vụ vì đất mặn, các hoa màu phụ có ngô, đậu đỏ, đậu xanh, đậu phụng... Các vùng trồng lúa là Kiên An, Kiên Tân, Hòn Đất, Kiên Thành. Cây ăn trái và cây công nghiệp được trồng nhiều như dưa hấu, khóm, sầu riêng, cam, quýt, lựu, phật thủ, cà phê, dừa, cau và hồ tiêu.

Vùng rừng phía nam từ sông Cái Lớn trở xuống và lan qua tỉnh An Xuyên là rừng tràm U Minh, mang lại nhiều nguồn lợi cho tỉnh như các loại gỗ dương, vông, đước làm than rất tốt; các loại cây chế biến thuốc ta như tràm, hà thủ ô, trầm hương, quân tử, hoắc hương và các đặc sản khác là mật ong, sáp ong... Lá và cành non của cây tràm có tinh dầu gọi là dầu tràm, chứa khoảng 65% chất cajeputoi, có tính sát trùng, được dùng trị bệnh hô hấp và làm lỏng đàm; đây là nguồn lợi thiên nhiên phong phú của tỉnh Kiên Giang.

Ở xã Dương Hòa thuộc quận Kiên Lương có một dãy núi gọi là núi ong (vì ong đến làm tổ rất nhiều, có cây cổ thụ chứa cả trăm tổ ong) là một nguồn lợi về mật và sáp ong rất lớn cho dân chúng. Rừng Kiên Giang cũng có nhiều loại thú như hổ, beo, voi, hươu, nai, khỉ... nhiều chim muông mang lại phân chim, lông chim để làm quạt. Hòn Trứng Nhạn ở đảo Thổ Châu có rất nhiều chim nhạn và đồi mồi.

Kiên Giang có đất sét và đá vôi là những nguyên liệu tốt chế biến xi măng. Nhà máy xi măng Hà Tiên tại Kiên Lương là một trung tâm sản xuất xi măng lớn ở trong Nam. Kiên Giang còn có nhiều tiềm năng chưa khai thác hết.

Ngư nghiệp Kiên Giang chiếm vị trí kinh tế quan trọng vì có nhiều nguồn ngư hải sản quý như cá thu, cá tiều, cá chim, cá bướm, mực, tôm, ố, trai, rùa và hải sâm. Ở đảo Phú Quốc có cá cơm, cá mòi làm nước mắm nổi tiếng; khắp nơi đều nghe danh "nước mắm Hòn" ở Bãi Bốn. Ngoài ra, đảo còn có mỏ huyền, đá đen lánh, dùng làm đồ nữ trang. Đảo này có loại gỗ dên chịu được mặn và hà, thích hợp cho ngành đóng ghe thuyền đi biển. Vùng đảo Thổ Châu và Phú Quốc biển thường lặng im không có sóng, là nơi có nhiều loại cá lớn: cá mú, cá hồng.





Thắng Cảnh

Hà Tiên:

http://www.nhungtrangvang.com.vn/Trangvang_dulich/html_files/images/hatien.gif---http://www.nhungtrangvang.com.vn/Trangvang_dulich/html_files/images/honch.jpg
Hà Tiên là một huyện biên giới, cách thị xã Hà Tiên 90 km (56 miles) đường bộ. Thị xã Hà Tiên được hình thành cách đây gần 300 năm mà tên tuổi của nó được gắn liền với dòng họ Mạc (Mạc Cửu). Hà Tiên là nơi hội tụ của những danh lam thắng cảnh thiên nhiên hoang sơ đầy quyến rũ. Nếu đi từ Rạch Giá xuống Hà Tiên, du khách sẽ đi qua hàng chục cảnh đẹp.

Chùa Hang:
Nằm hẳn trong một hang đá sâu 40 m (120 ft), cửa chùa quay vào trong đất liền, trong ánh sáng lờ mờ, có thể nhìn thấy những thạch nhũ chảy từ trên trần xuống đóng cứng lại to như cột nhà. Đá vôi tái kết tinh ở đây rỗng nên khi gõ vào thân thạch nhủ thì nó ngân lên như tiếng chuông chùa (còn gọi là đá chuông). Đi luồn qua hang chui ra khỏi cửa sau gặp ngay mặt biển trong xanh, xa xa là hòn Phụ Tử hiện ra trông cảnh biển ở đây như một góc vịnh Hạ Long.

Thạch Động:

http://www.vietshare.com/quehuong/kiengiang/hinhkiengiang/kiengiang01.jpg
Là một tảng đá xanh khổng lồ mọc trơ trọi giữa một vùng toàn đất nằm kề quốc lộ 17, cách thị xã Hà Tiên 3 km (1.8 miles). Thạch Động còn được gọi là "Thạch Động Thôn Vân" (động đá nuốt mây) vì động ở độ cao 50 m (150 ft), lúc sáng tinh mơ những tảng mây trắng xốp nhẹ như bông là là bay qua đỉnh động rồi bị cản, mây dừng lại rồi từ từ tỏa quanh cửa động gây ấn tượng như miệng động đang nuốt mây. Hang khá rộng, những giọt nước mưa theo tháng năm xâm thực đá, len lách chảy xuống hang hòa tan với chất vôi tạo những thạch nhũ rất độc đáo.

Đông Hồ:
Nằm về phía đông thị xã Hà Tiên dài khoảng 3 km (1.8 miles), rộng gần 2 km (1.2 miles). Phía hữu ngạn có núi Ngũ Hổ, phía tả ngạn là dãy núi Tô Châu sừng sững, phía đông có sông Giang Thành và phía tây có sông Hà Tiên đoạn dẫn ra biển. Một hồ nước phẳng lặng giữa bốn bề là sông núi, đã tạo ra vẻ đẹp tự nhiên, thơ mộng. Cách thị xã Hà Tiên 4 km (2.5 miles) là mũi Nai, ở độ cao 100 m (300 ft) nhô mình ra ngoài biển, hình dạng giống như một con nai đang nghếch mõm. Trên đỉnh núi có hải đăng xây dựng từ cuối thế kỷ 19, là nơi tận cùng của bán đảo Mũi Nai với hai bãi cát đẹp là Bãi Nô và Bãi Bằng.

Bãi Nô: Nằm cạnh xóm Chài, nhà cửa đông vui. Bãi Bằng là một bãi cát bằng phẳng. Đây là một bãi tắm tốt, từ đây có thể nhìn thấy đảo Phú Quốc, đảo Hải Tặc... trong những ngày trời trong mây tạnh.

Bãi Dương:
Bãi dương dài khoảng 2 km (1.3 miles), là bãi tắm tốt nhất của vùng, cách Hà Tiên khoảng 30 km (18 miles), nằm trong khu thắng cảnh Hòn Chông. Trên bờ là những hàng dương lả lướt rủ bóng mát, dưới biển là bãi cát trắng, sạch với làn nước biển trong xanh, lòng bãi không có đá ngầm. Sau bãi dương là bãi dầu, cuối bãi có một mỏm đất nhô ra biển, bên trên là một đồi nhỏ thấp trông rất nên thơ, đó là hòn Trẹm.

Từ Hòn Trẹm đi khoảng 1 km (0.6 mile) đến chùa Hang. Cách chùa Hang vài trăm mét là hòn Phụ Tử, giống hình hai cha con quấn quýt bên nhau. Trải qua bao tháng năm sóng biển đã đục sâu vào thân hòn làm thành hai cái chân sóng. Vào lúc thủy triều xuống, mặt nước thấp, du khách sẽ nhìn thấy những đợt sóng trắng liếm vào chân hòn rồi lắng đi trong hang. Lúc ấy dường như hòn Phụ Tử bay lơ lửng trên mặt nước trong xanh.


http://www.vietshare.com/quehuong/kiengiang/hinhkiengiang/kiengiang12.jpg

Thắng Cảnh Nam Phố: Cách thị xã Hà Tiên 10 km (6 miles), một điểm nghỉ mát thuận lợi với hai bãi cát rất đẹp là bãi Hòn Heo và bãi Ớt. Ở đây cát vàng mịn, mặt nước trong xanh, cảnh vật yên tĩnh, dãy núi bãi Ớt nhô hẳn ra ngoài khơi tạo thành bức bình phong khổng lồ. Vào mùa biển động, cả vùng biển xung quanh nơi nào cũng cuộn sóng, chỉ riêng vùng biển bãi Ớt là sóng yên gió lặng.

Ngoài khơi Kiên Giang còn là vùng biển trù phú với 105 hòn đảo lớn nhỏ nằm rải rác, có những hòn đảo dân cư đông đúc như đảo Hòn Tre (Hòn Rùa), là huyện lỵ Kiên Hải, cách thị xã Rạch Giá 25 km (17 miles). Ngoài ra còn có hòn Lại Sơn và quần đảo Nam Du (gồm 20 hòn đảo nối tiếp nhau nhô lên mặt biển).

Lịch Sử

Vùng đất Kiên Giang trước đây là một thị trấn của tỉnh Hà Tiên cũ. Hà Tiên nguyên là phủ Sài Mạt (âm tiếng Bentay Méas là thành bằng vàng) của Chân Lạp do Mạc Cửu (người Quảng Đông) mở mang vùng thương cảng thành thị trấn to.

Vào đầu thế kỷ 16, Mạc Cửu được vua Cao Miên phong chức Ốc Nha (âm tiếng Oknha, chức vụ tương đương tỉnh trưởng) cho cai quản vùng này; nhưng Mạc Cửu thường bị quân Xiêm quấy phá nên xin thần phục chúa Nguyễn để nhờ che chở (1708). Từ đó, đất Hà Tiên thuộc về nước ta và được kể là một trong sáu tỉnh của miền Nam vào đời Minh Mạng. Mạc Cửu vẫn được cai quản vùng này, rồi mở rộng đất Kiên Giang năm 1734. Sau đó, con ông là Mạc Thiên Tích nới rộng thêm.

Vào những năm 1782, 1783 và 1785, trong nhiều trận thủy chiến dữ dội trên sông nước miền Nam, quân của Nguyễn Ánh đã bị quân của anh hùng Nguyễn Huệ đáng tan tành, dù Nguyễn Ánh đã nhờ cậy quân Xiêm và Chân Lạp. Vùng Rạch Giá và các đảo Phú Quốc, Thổ Châu... từng là nơi ẩn trốn của Nguyễn Ánh.

Sau khi quân Pháp chiếm lục tỉnh Nam Kỳ, Hà Tiên cũng vùng lên tranh đấu. Đêm 16/06/1868, đoàn dân quân do anh hùng Nguyễn Trung Trực chỉ huy, từ Phú Quốc kéo qua đánh úp thị xã Rạch Giá, giết hết quân Pháp, giải tán tất cả các cơ quan hành chánh của quân Pháp. Làm chủ tình hình trong một tuần lễ, ông nghe tin đại quân sắp kéo đến, bèn chở hết võ khí, lương thực về Hà Tiên, rồi lánh sang Phú Quốc lập chiến khu tại cửa cạn. Tại đây, nghĩa quân được hai nhà yêu nước Nguyễn Văn Điền và Nguyễn Văn Ngợi hỗ trợ rất nhiều. Hai ông đã đem hết tài sản đóng góp cho cuộc kháng chiến và tổ chức đoàn thuyền qua Xiêm mua khí giới cho quân ta.

Giặc Pháp đánh nhiều lần không nổi, sau chúng phải đem toàn lực tấn công ở mặt Dương Đông. Lúc đó, nghĩa quân chỉ còn 30 người, bà Nguyễn Trung Trực lại sinh nở ngay lúc chạy giặc trong một đêm mưa to nên đã thiệt mạng cả mẹ lẫn con. Hai tên Huỳnh Công Tấn và Đỗ Hữu Phương (Tổng Đốc Phương) dùng mưu bắt cóc mẹ ông và một số đồng bào làm áp lực bắt ông hàng.

Anh hùng Nguyễn Trung Trực biết không thể tiếp tục chiến đấu được nữa nên đã tụ họp nghĩa quân lại, ông nói: "Giặc không giết được chúng ta, nhưng cạn lương thực sẽ bị chết hết. Nếu ta nói "thà chết lúc này" thì cũng chẳng ích gì cho mai sau! Giặc bắt được tôi thì mừng lắm, sẽ không làm hại anh em. Anh em cố sống mà tiếp tục báo quốc. Tôi biết anh em không tham sống sợ chết, phải can đảm để liệu cách xuất xử". Sau đó, ông cho đổ hết lương thực dự trữ ở Bưng Cây Lương (gần cửa Cạn), rồi tự trói mình ra gặp Huỳnh Công Tấn để cứu mẹ và dân chúng. Giặc Pháp phủ dụ ông quy thuận không được nên đã đem ra hành quyết tại Rạch Giá ngày 27/10/1868.

Đến năm 1872, nhân dân Kiên Giang lại theo hai anh hùng Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự kháng chiến. Hai anh em họ Đỗ lập căn cứ tại rừng U Minh, đánh du kích làm giặc tổn thất và mệt trí rất nhiều.


Di Tích

Đền Thờ Anh Hùng Nguyễn Trung Trực:

http://www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/dataimages/original/images762999_NguyenTrungTruc-dinhtho.jpg
Sau khi anh hùng Nguyễn Trung Trực bị Pháp hành quyết năm 1868, dân chúng địa phương đã lập đền thờ ông tại tỉnh lỵ Rạch Giá. Trước đền có hai câu đối:

" Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa,
Kiếm bạt Kiên Giang khắp quỷ thần".

Hai câu đối trên được trích trong bài thơ "Khóc Nguyễn Trung Trực" của cụ cử nhân Huỳnh Mẫn Đạt, nguyên tuần phủ Hà Tiên, một nhân sĩ yêu nước đứng về hàng ngũ chống quân Pháp.

Chùa Tam Bảo:

http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/Vanhoa/0002/0005/images/287.jpg
Tọa lạc tại số 6 đường Thích Thiện Ân, phường Vĩnh Lạc, thị xã Rạch Giá. Chùa được dựng vào đầu thế kỷ 19. Lúc đầu được làm bằng gỗ, lợp lá. Năm 1917, hòa thượng Trí Thiền đã cho xây lại chùa bằng gạch. Trong chùa còn giữ bức tượng đức Phật A Di Đà tạc bằng đá xanh cao 1,03 m (3.09 ft). Tại chùa có Tuệ Tỉnh Đường là phòng khám bệnh miễn phí cho đồng bào. Chùa được trùng tu nhiều lần.

Nhà Thờ, Lăng Mộ Dòng Họ Mạc:

http://www.nhungtrangvang.com.vn/Trangvang_dulich/html_files/images/vuanguyen2.gif

Tại thị xã Hà Tiên, huyện Hà Tiên, trên một đồi cách Hà Tiên 2 km (1.3 miles) về phía tây, là nơi có nhiều lăng tẩm của dòng họ Mạc Cửu xây dựng cách đây hơn 300 năm. Hai bên là mộ con cháu như Tổng binh Đại đô đốc Mạc Thiên Tích, tham tướng Mạc Tử Hoàng, lăng bà Mạc Thiên Tích, Mạc Công Du, Mạc Công Tây.

Dưới chân đồi là nhà thờ dòng họ Mạc luôn mở rộng cửa đón khách đến thăm quan và thắp nén nhang tưởng nhớ đến vị khai trấn Quốc Công Mạc Cửu, người có công khai phá vùng đất hoang xưa trở thành thị xã Hà Tiên sầm uất ngày nay. Nơi đây còn dấu tích của một chiến lũy là một bờ thành trồng tre gai dài gần 2 km (1.3 miles), rộng khoảng 1 km (0.6 miles) do Mạc Thiên Tích xây dựng để ngăn chặn giặc bên ngoài đến xâm phạm bờ cõi nước ta.

Chùa Phù Dung:

http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/Vanhoa/0002/0005/images/285.jpg
Còn gọi là Phù Cừ Am Tự, do tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tích (Mạc Thiên Tứ) dựng vào khoảng thế kỷ 18 tại chân Bình Sơn, thị xã Hà Tiên cho nàng Ai Cơ Phù Cừ ( Nguyễn Thị Xuân), vợ thứ hai của ông. Mạc Thiên Tứ là con của Mạc Cửu và là một danh sĩ thời chúa Nguyễn, được chúa Nguyễn phong là Tông Đức Hầu vì ông là người có công nối nghiệp cha mở mang trấn Hà Tiên. Chùa được trùng tu nhiều lần. Chánh điện có nhiều tượng Phật, đặc biệt có tượng Phật Thích Ca bằng đồng đưa từ Trung Quốc về thờ. Phía sau chánh điện có điện thờ Ngọc Hoàng. Trong khuôn viên chùa có khu mộ tháp của bà Nguyễn Thị Xuân và bốn vị sư.

Chùa Tam Bảo:

http://www.binhthuan.gov.vn/KHTT/Vanhoa/0002/0005/images/286.jpg
Chùa còn có tên là Sắc Tứ Tam Bảo tự, do ông thống binh Mạc Cửu - một tướng người Hoa có công khai phá vùng đất Hà Tiên, dựng vào năm 1730 tại số 328, tổ 2, ấp Ao Sen, đường Phương Thành, thị xã Hà Tiên. Ngôi nhà xưa bị phá hỏng hoàn toàn, chùa hiện nay do hòa thượng Phước Ân cho xây dựng vào năm 1930. Ở điện Phật, có pho tượng đức A Di Đà bằng đồng cao 2,30 m (6.9 ft). Bên ngoài có khu mộ của 16 vị sư. Phía trước chùa là tượng Quan Âm Bồ Tát đứng trên đài sen.

Tịnh Xá Ngọc Sơn: Tịnh xá tọa lạc ở số 71B đường Mạc Cửu, thị xã Rạch Giá. Tịnh xá được giáo đoàn 4, giáo hội tăng già khất sĩ Việt Nam cho xây dựng vào năm 1964. Tịnh xá được trùng tu trong những năm gần đây.

Xã Mỹ Đức, Quận Hà Tiên: Là quê của nhà cách mạng Nguyễn Thần Hiến. Ông là một thành viên tích cực trong phong trào Đông Du và sáng lập "khuyến du học hội". Bị quân Pháp truy nã gắt gao. Năm 1908, ông xuất ngoại qua Cam Bốt, rồi sang Xiêm. Một năm sau, ông qua Trung Hoa giữ trách nhiệm gây quỹ dùng vào công cuộc kháng Pháp. Giữa năm 1913, kho lưu trữ súng đạn tại Hồng Kông bị lộ, nhà đương cuộc Anh bắt ông giao cho quân Pháp giải về Hà Nội, cùng với các nhà cách mạng khác là Nguyễn Quang Diêu, Đinh Hữu Thuật, Huỳnh Hưng... Bị kết án khổ sai chung thân, chờ ngày đi Côn Đảo, ông tuyệt thực chết tại nhà giam Hỏa Lò để phản đối cách đối xử tàn bạo của giặc Pháp, vào ngày mùng 1 Tết năm Giáp Dần (26/01/1914).

Quận Hà Tiên: Là quê của Lâm Tấn Phác, hiệu Đông Hồ, một nhà giáo và một thi sĩ hiện đại nổi tiếng vào những năm 1920 - 1940, tác giả tập Thơ Đông Hồ, Cô Gái Xuân và nhiều thơ văn khác.

Lễ Hội

Lễ Hội Tưởng Niệm Vị Anh Hùng Nguyễn Trung Trực: Được tổ chức tại đền thờ Nguyễn Trung Trực số 14 Nguyễn Công Trứ - phường Vĩnh Thanh, thị xã Rạch Giá vào các ngày 27, 28, 29 tháng 8 âm lịch hàng năm, để tưởng nhớ Nguyễn Trung Trực, người anh hùng có công chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước với lời nói bất hủ của ông trước lúc hy sinh: "bao giờ nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây".

Hàng năm, vào ngày giỗ có hàng vạn khách hành hương từ các nơi trong tỉnh, ngoài tỉnh về viếng ông và tham dự lễ hội. vào sáng ngày 28 tháng 8 âm lịch là lễ Cộ Hoa (lễ rước kiệu hoa) đền thờ là nơi ăn nghỉ cho những đoàn khách từ xa đến viếng.

Yumi_Hảo
22-05-2007, 03:48 AM
Còn 5 tỉnh nữa , tớ sẽ post sau , giờ mệt quá rồi.

Yumi_Hảo
23-05-2007, 03:18 AM
http://www.ibiblio.org/pub/multimedia/pictures/asia/vietnam/scenery/phutu.jpg

Hình Sông nước Kiên Giang - quê ông anh tớ :huglove:
# hình này do chị Bím chộp á , hình chộp từ mùa hè năm ngoái ^^

http://i172.photobucket.com/albums/w22/TTienVVan/vivan1013.jpg
http://i172.photobucket.com/albums/w22/TTienVVan/vivan1014.jpg
http://i172.photobucket.com/albums/w22/TTienVVan/vivan1033.jpg

Yumi_Hảo
23-05-2007, 03:30 AM
http://www.longan.gov.vn/ui-lan/uploads/1-1-298/image-upload-2.gif
http://vietnam.sawadee.com/longan/longan04.jpg

Địa Lý

Diện tích: 4.492 km2.
Dân số (2004): 1,376,602 người.
Tỉnh ly: Thị xã Tân An.
Các huyện: Bến Lức, Cần Đước, Cần Giuộc, Châu Thành, Đức Hòa, Đức Huệ, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Tân Trụ, Thạnh Hóa, Thủ Thừa, Vĩnh Hưng, Tân Hưng.
Dân tộc: Việt (Kinh), Khmer.

Cách Sài Gòn 47 km (30 miles), Long An là cửa ngõ của đồng bằng sông Cửu Long, phía Bắc giáp Tây Ninh và các nước Cam-Pu-Chia, phía Đông giáp Sài Gòn, phía Nam giáp Tiền Giang và phía Tây giáp Đồng Tháp.

Là một tỉnh nông nghiệp, đất Long An màu mỡ trải ra trên hai triền sông của hai con sông lớn sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Ở phía Bắc tỉnh có một số gò, đồi thấp, còn lại thì bằng phẳng. Phần đất phía Tây thuộc vùng trũng của Đồng Tháp Mười.

Long An có một mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt nối liền nhau, chia cắt địa bàn tỉnh thành nhiều vùng. Thực ra Long An chưa phải là đồng bằng sông Cửu Long, mà chỉ là đồng bằng sông Vàm Cỏ giữa hệ thống sông Đồng Nai và hệ thống sông Cửu Long.

Khí hậu: nhiệt đới gió mùa, hai mùa mưa và khô rõ rệt nhiệt độ trung bình 27,4 ° C, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa trung bình 1.620 mm/năm (64 in/năm). Long An đông dân chủ yếu là người Việt (Kinh) và đồng bào gốc Khmer ở phía Tây tỉnh. Long An có 4 tôn giáo được đông người theo là Phật, Kitô, đạo Cao Đài và đạo Tin Lành.

Lịch Sử

Đời vua Minh Mạng đổi các trấn thành sáu tỉnh Định Tường, Biên Hòa, Gia Định, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Sau khi Pháp chiếm trọn miền Nam, chúng đổi sáu tỉnh thành 21 tỉnh, tỉnh Định Tường mất tên để thành lập ba tỉnh mới là Tân An, Mỹ Tho và Gò Công. Đất Long An thuộc tỉnh Tân An.

Trong thời Pháp thuộc, đồng bào Long An tham gia kháng chiến dưới sự lãnh đạo của các anh hùng Võ Duy Dương, Trương Công Định, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực, xuôi ngược khắp các vùng đầm lầy thuộc các tỉnh Đông - Nam phần, đánh các đồn bót Pháp. Đất và sông nước Long An đã ghi vào lịch sử những tấm lòng nghĩa dũng đó.

Nguyễn Trung Trực, người anh hùng sinh trưởng tại Long An, đã làm giặc Pháp kinh hồn tán vía với những trận đánh thần tốc và bất ngờ. Từ tháng 6 - 1861, ông hoạt động khắp các vùng Vũng Gù (Định Tường), Bình Trinh , Nhật Tảo, Bến Lức, Thủ Thừa (Long An)... đến Phước Lý, Long Thành (Biên Hòa), Tân Uyên (Phước Thành)... sang đến hòn Chồng, Hàm Ninh, An Thái, Dương Đông, Cửa Cạn (Kiên Giang). Dòng sông Vàm Cỏ Đông hừng hực lửa đỏ vào ngày 11.12.1861, khi anh hùng Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân phục kích đốt tàu L'Espérance của giặc Pháp đang đậu trên Vàm Nhật Tảo (một nhánh sông nhỏ của sông Vàm Cỏ Đông thuộc làng Bình Trinh, tỉnh Tân An bấy giờ). Viên thuyền trưởng Pháp chỉ kịp nghe danh xưng của ông thì đầu đã lìa khỏi cổ, số giặc thủy thủ còn lại bị giết gần hết.



"Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa,
Kiếm bạc Kiên Giang khắp quỷ thần".

Là hai câu thơ của Cử nhân Huỳnh Mẫn Đạt ca tụng chiến công của Nguyễn Trung Trực được lưu truyền mãi mãi.

Đêm 14.12.1861, trong khi quân Pháp đánh chiếm Gò Công, nghĩa quân của ông Cai tổng Là (trong số này có ông Nguyễn Đình Huân là em ruột cụ Nguyễn Đình Chiểu tham gia, tinh thần chiến đấu rất hăng say) đánh úp đồn binh Cần Giuộc của Pháp, giết một số sĩ quan và binh lính. Trong trận này, nghĩa quân chỉ dùng khí giới bằng tầm vông, vạc nhọn, dáo mác và hy sinh 27 người.

Sau đó, cụ Nguyễn Đình Chiểu đã làm bài Văn Tế Nghĩa Quân để biểu dương tinh thần của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đây là một bài văn kháng chiến chống Pháp đầu tiên, một bài hịch được truyền đi khắp nơi để kêu gọi nghĩa phu và đồng bào toàn quốc đứng lên diệt giặc cứu nước. Pháp liệt kê bài này là một trong những loại văn thơ "phản động" và cấm dân chúng phổ biến. Tháng 5.1862, vào một đêm mưa gió, anh hùng Nguyễn Trung Trực bất thần tung quân đánh đồn Thủ Thừa do tên quan Pháp Bonard cai quản, tiêu diệt hết bọn cướp nước, tịch thu nhiều súng đạn rồi rút lên tỉnh Tây Ninh.

Từ năm 1862, anh hùng Trương Công Định mở rộng phạm vi hoạt động, lập nhiều căn cứ kháng chiến chạy dài từ rừng Truất Tước, xã Tân Hòa (thuộc hai quận Cần Giuộc và Cần Đước) đến Gò Công. Tân Hòa là vùng chiếm địa, toàn sình lầy, lau sậy và đã làm cho các tàu chiến của giặc Pháp thiệt hại nặng nề khi chúng tấn công vào.

Di Tích http://vietnam.sawadee.com/longan/longan02.jpg


Cụm di tích Bình Tả: http://vietnam.sawadee.com/longan/longan01.jpg
Cụm di tích kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Bình Tả (gồm Gò Xoài, Gò Đồn và Gò Năm Tước) cách thị xã Tân An 40 km (25 miles) về phía Đông Bắc, tại ấp Bình Tả, xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Nằm trong một quần thể di tích thời tiền sử được phân bố theo các trục lộ cổ và sông Vàm Cỏ Đông, cụm di tích này thuộc nền văn hóa Óc Eo - Phù Nam có niên đại từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 7 sau công nguyên.

Có ba di tích trong cụm đã được khai quật: di tích Gò Năm Tước, Gò Xoài và Gò Đồn được phân bố trên một địa bàn tương đối gần nhau. Ngôi đền Gò Xoài nằm ở độ sâu 1,70 - 1,90 m (5,4 - 5,7 ft) có thể coi là địa điểm hành lễ của dân Phù Nam. Đặc biệt trong bộ sưu tập 26 hiện vật bằng vàng phát hiện ở Gò Xoài có một bản bằng 646 chữ Phạn cổ khắc trên một lá vàng mỏng ghi câu kinh Phật giáo. Nhiều hiện vật được khai quật tại đây có giá trị như các tượng thần Siva, thần giữ đền, tượng Vinu, các linh vật Linga, Yoni. Nhiều mảnh gốm mịn Óc Eo, mảnh kim loại, đá quí, sa thạch và hàng loại di chỉ khác về con người từ thời tiền sử xung quanh ngôi đền, trong khoảng bán kính 10 km (6 miles) đã được phát hiện.

Các kiến trúc được phát hiện tại cụm di tích Bình Tả là các đền thờ thần Siva, thuộc tôn giáo Bà La Môn, xuất hiện ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên được truyền bá mạnh mẽ vào miền Nam Đông Dương từ đầu công nguyên. Nằm trong tổng thể di chỉ khảo cổ ở Đồng Tháp Mười và vùng phù sa cổ Đức Hòa (Long An), di tích Óc Eo được xây dựng nhằm mục đích tôn giáo đồng thời cũng đóng vai trò là một trung tâm chính trị, văn hóa của nước Phù Nam - Chân Lạp thời cổ đại.

Chùa Linh Sơn (chùa Núi): http://www.vietshare.com/quehuong/longan/hinhlongan/longan02.jpg

Chùa nằm trên khu di chỉ khảo cổ Rạch Núi. Chùa do Hòa thượng Minh Nghĩa khai sáng vào giữa thếkỷ 19. Chùa được trùng tu sửa chữa vào các năm 1926, 1970 và 1988. Kiến trúc ngôi chính điện hiện nay do Hòa thượng Thiên Lợi sửa chữa năm 1970. Trong chùa còn lưu giữ trên 100 bức tượng, trong đó có nhiều pho tượng cổ bằng gỗ quí như tượng cổ Tiêu Diện, cao 0,40 m (1,2 ft). Ngoài ra trong khuôn viên chùa có tháp Hòa thượng Quảng Trí và Hòa thượng Thiện Lợi.

Nhà bảo tàng Long An: Ở ngay trung tâm thị xã Tân An, thuộc phường 4. Bảo tàng Long An trưng bày nhiều cổ vật quí hiếm có ý nghĩa văn hóa nghệ thuật, trong đó có nhiều hiện vật được khai quật từ các di chỉ văn hóa tại địa phương, rất thú vị cho khách đến tham quan nghiên cứu.

Ngôi nhà 120 cột: Thuộc xã Long Hựu Đông, huyện Cần Đước, cách thị xã Tân An khoảng 50 km (31 miles). Ngôi nhà làm bằng gỗ quí (cẩm lai, gõ đỏ), được xây dựng trên 100 năm với vẻ rêu phong cổ kính, với kiến trúc độc đáo, chạm khắc tinh vi trong trang trí nội thất từ những bàn tay khéo léo, điêu luyện của 15 người thợ tài hoa ở miền bắc vào. Hoa văn ở đầu kèo, đầu cột làm cho bạn có cảm giác như mình đang đứng giữa một khu rừng có hoa lá, cỏ cây, chim muông...

Bạn sẽ hết sức thú vị với những đường nét pha trộn sự tinh tế của điêu khắc mang đặc điểm của ba miền. Ngôi nhà đã thu hút nhiều nghệ nhân các vùng lân cận đến nghiên cứu về kỹ thuật xây dựng, cũng như nhiều khách du lịch đến đây để tham quan.

Lễ Hội


Lễ Cầu Mưa: Những năm hạn hán nhân dân tại các vùng sản xuất nông nghiệp của Long An thường tổ chức cầu mưa, tế lễ trời đất, mong thần linh ban cho mưa xuống. Lễ cầu mưa có hai phần: phần lễ theo nghi thức truyền thống và phần hội là các cuộc đua ghe trên sông rạch, cũng có nơi làm lễ rước rồng. Sau khi đua ghe, dân chúng kéo về đình làng làm lễ cúng thần linh và tổ chức ăn mừng vui chơi.

Yumi_Hảo
23-05-2007, 06:54 PM
Tớ khoái ăn Kẹo Dừa Bến Tre lắm , món bánh tráng BT cũng miến chê. Khi nào tớ ghé BT đằng ấy dẫ tớ đi chơi nhá ^^

4+3=84
23-05-2007, 06:56 PM
thèng nào rảnh đọc chết liền :sr:
Sao ko có Phan Thiết and Vũng tàu :andon:

Yumi_Hảo
23-05-2007, 07:05 PM
Lạy chúa , lạy Ala , lạ trời , lạy Phật , lạy tất cả các vị thánh thần có thể lạy... Con lạy bác 4+3=4 luôn. ^^
Tớ post bài về miền Tây mà.... làm gì có VT và PT ??? Miền Tây có 12 tỉnh thôi , tớ post còn 3 tỉnh nữa. Ai đọc ah , thì những ai muốn đi du lịch á , 4+3 :)

Yumi_Hảo
24-05-2007, 07:14 AM
Ai muốn đọc tiếp thì nói tớ post... còn 3 tỉnh mà tớ lazy wa'

Ngày Hôm Qua
24-05-2007, 02:01 PM
Tại sao mình không gôm hết mấy tỉnh Miền Tây Nam Bộ luôn đi
Như Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Tiền GIang, An Giang, Cà Mau, Đông Tháp, ,... trên một topic có lẽ hấp dẫn hơn

Yumi_Hảo
26-05-2007, 08:51 PM
Thuf nó vốn ở trong 1 topic đó mà bạn. Topic này có đủ cả 12 tỉnh Miền Tây mà , ah còn 3 tỉnh nữa chưa post... vì lười và bận.

†º°¨ђm_q§¨°º†
28-05-2007, 10:39 PM
ui Miền Tây..........:huglove: nhìn không có vẽ trù phú nhưng mà mộc mạc :hihi: