Hiennie*
06-05-2007, 02:07 PM
Không hiểu sao bỗng tôi tỉnh táo hẳn. Nhận biết mọi vậtxung quanh rất rõ rệt. Tôi lấy làm ngạc nhiên vì sao trong nhà lại có đông người đến vậy. Ông ngoại ngồi xếp bằng tròn thu lu trên phản, sẵng giọng:
- Từ nãy đến giờ đã có đứa nào sắc nước trúc lịch cho nó uống chưa?
Mẹ tôi từ ngoài hiên bước vào, miệng lầu bầu gì đó, quẩn quanh trong nhà một tý rồi lại bước ra ngoài sân đến chỗ mấy người mà tôi chỉ nhìn thấy loáng thoáng, đương cưa mấy miếng gỗ, nện búa kỳ cạch.
Ông ngoại gắt lên:
- Ô hay... Mẹ thầy Thành lạ nhỉ! Thầy đã bảo là phải sắc nước trúc lịch cho nó uống thì mới hạ đờm thở hắt ra được chứ.
Sao tôi lại phải uống nước trúc lịch để thở hắt ra nhỉ? Và nước trúc lịch là thứ gì? Có giống nước thuốc bắc sắc trong ấm đất chắt ra từng bát mà tôi vẫn uống không?
- Đến khổ! Nó hành hạ người ta ròng rã hàng năm trời rồi còn gì...
Tôi nghe rõ tiếng mẹ nói nhấm nhẳng ở chỗ mấy người đang đóng "áo quan" vọng vào. Mấy người này cằn nhằn về những miếng gỗ đầu thừa đuôi thẹo mục mủn hết cả. Chắc mẹ tôi nhặt nhạnh ở đâu đó hoặc xin nhà hàng xóm. Rồi bà nói với họ:
- Thôi các bác ạ. Nhà có gì đóng nấy. Nó còn là trẻ con, đóng cái hòm bằng gỗ nào chả được, cốt cho kín. Chứ các bác cứ... - rồi bà oà khóc. - Rõ khốn khổ cho cái thân tôi!
Tôi có cảm giác ớn lạnh suốt dọc sống lưng. Ô kìa... sao lại đóng quan tài chôn tôi xuống đất?... Tôi mắc tội gì?... Tôi mắc tội gì mà đem chôn sống tôi?
Cha mẹ ơi, sao tôi lại không biết người chết chôn xuống đất là như thế nào. Tôi đã từng đi xem rất nhiều đám ma, tôi đã từng nhìn thấy những người đói lăn ra chết. Giờ tôi vẫn còn nhớ như in hồi bà ngoại qua đời. Lúc liệm bà ngoại vào quan tài, lũ cháu chắt lau nhau chúng tôi được vào tận nơi nhìn mặt bà lần cuối cùng.
Tôi không thể nào quên được cái cảm giác lúc đó. Tôi không nhận ra được mặt bà ngoại nữa. Bà ngoại khi còn sống mặt nom khác cơ.
Bà không ưa ba anh em chúng tôi. Vì lý do gì thì tôi chẳng biết. Song anh em tôi mỗi khi về quê ngoại là đều quấn lấy ông bà, thích thú và vui sướng. Vậy mà bà nằm bất động trên phản, tọp đi như thân cây cằn cỗi khô mốc, cong queo. Bà ngoại hoàn toàn thành người khác rồi. Thành thử tôi thấy rờn rợn. Sinh khí trong con người bà siêu thoát chỉ còn để lại một cái xác không, vô hồn, chẳng còn nổi nóng cáu gắt mỗi khi chúng tôi nô đùa nghịch ngợmnữa. Vậy mà tôi lại sợ. Sợ đến run cả người. Lũ cháu chắt đứa nào cũng lẩy bẩy vào ngó bà ngoại rồi ù té chạy ra bám vào người lớn.
Trống ngực đập thình thịch. Giờ tôi cũng giống như thế ư?
Cổ tôi đang bị mắc một cái gì đó ở trong ấy nên khó thở quá.
Tôi gắng lấy hết sức mình. Vẫn chỉ thấy tiếng khò khè, khò khè.
Bất lực, tôi đành nằm ì ra, nước mắt giàn giụa vì tủi thân. Rồi tôi lại lịm dần đi, thiêm thiếp mơ màng.
Có ai đó đưa thìa cạy miệng tôi mở ra, chiêu mấy cùi thìa nước cay cay. Cứ thế, đến vài ba lần. Tôi chẳng hay biết gì, nhưng do bản năng mà vẫn cố nuốt từng ngụm nước cay cay một cách khó nhọc. Quả nhiên, đám đờm tắc nghẽn ở cổ họng bị thứ nước âm ấm cay cay kia làm tan ra, rồi tuột xuống dạ dày. Vậy là tôi thở được liền. Tôi hít lấy hít để không khí vào lồng ngực. Bầu không khí như có phép lạ, như liều thuốc tiên, chui vào buồng phổi trong ngực tôi, vực sự sống đang hấp hối như đám lửa tàn sáng bừng lên. Để rồi tôi dần dần tỉnh táo lại.
Ông ngoại đương bước lại giường tôi nằm kia kìa. Tôi giương tròn đôi mắt nhìn ông. Ông ngoại không nói gì, lặng lẽ sờ vào cổ tay tôi xem mạch, bẹo bẹo vào bàn chân rồi lên hai cổ chân. Tôi không thấy có cảm giác gì, như chưa hề có ai bẹo cấu vào chân mình, nằm ì ra hệt cái xác không hồn, không sự sống.
Lúc quay trở ra cái phản mà ông ngoại vẫn ngồi, ông nói khe khẽ, như nói với chính mình, cho một mình nghe:
- Chết từ chân lên rồi...
Ông ngoại ngồi xuống phản, co chân lên xếp bằng tròn như cũ. Rồi ông kéo cái điếu bát lại gần chỗ mình, mồi thuốc, châm lửa hút. Cái điếu bát rít lên sòng sọc một tràng dài đanh tiếng. Nhả khói ra, ông lại ngồi im lặng, giống như pho tượng trong đền mà tôi đã nhìn thấy trong dịp đi hội Phủ Giầy. Tôi bắt đầu chết rồihay sao? Chết từ chân lên rồi! Nghe ông ngoại nói thế, tôi bèn thử co hai chân lại xem sao. Không tài nào nhúc nhích cử động được.
Hay là ngọ nguậy mấy ngón chân vậy. Cũng vẫn cứng đơ ra. Tôi chẳng hề thấy bất kỳ một thứ cảm giác nào từ hai bàn chân truyền lên cả. Chao ôi... khủng khiếp biết chừng nào! Tôi đang chết. Chết thật. Giống như bà ngoại mất rồi. Tôi bắt đầu đi vào cõi chết từ hai bàn chân thực rồi. Và lúc này, không hiểu sao tôi lại tỉnh táo đến vậy. Mọi việc xảy ra quanh mình ở trong cái nhà này, tôi đều nhận biết và phân biệt được một cách rõ rệt. Trí nhớ vụt lóe sáng khơi dậy tiềm thức trong tôi hiện ra trước mắt những gì mà trí khôn của một đứa trẻ lên tám chín tuổi ghi nhận được từ bấy lâu nay, cái lờ mờ phảng phất, cái đậm nét rõ ràng. Sự sống còn lại chút nào trong người tôi chợt bùng lên trong giây phút cuối cùng để rồi tắt ngấm chăng?
* * * Hẳn trời đã tối lắm rồi nên ánh sáng từ chiếc đèn hoa kỳ tỏa ra tù mù giống như ánh sáng phát ra từ bụng con đom đóm bay giữa ao bèo.
Trong nhà bỗng ồn ào. Tôi cố ngoái đầu nhìn ra. Anh Thành và thằng Bền vào trong làng Hệ Dưỡng vừa về đang rối rít khoe ông ngoại gói xôi của nhà cô Thắm gửi biếu. Chắc nhà cô Thắm đồ xôi thắp hương vào ngày mồng Một đầu tháng đây. Gia đình tôi thường qua lại nhà cô vì cô là cán bộ đoàn thể của xã. Cha tôi làm cán bộ kháng chiến hoạt động ở vùng này nên mới đưa mẹ con tôi từ quê ngoại tản cư vào đây.
Nghe nói có xôi, tự dưng tôi thấy đói và thèm ăn đến thế. Rõ ràng gần một năm trời ốm đau tôi không hề muốn ăn một thứ gì.
Mỗi ngày chỉ cố nuốt mấy thìa nước cháo. Có lẽ sự sống kéo dài được như vậy chắc chắn là nhờ thuốc bắc. Tôi uống liên tục như uống nước vối. Giờ bỗng tôi lại thấy đói có kỳ không? Tôi gắng sức vươn cánh tay gầy guộc hệt hai đoạn nứa tép nối với nhau chơi vơi trong không gian, xòe năm ngón tay xương xẩu ra xin:
- Anh Thành ơi... cho em ăn xôi với!
Mẹ tôi ở ngoài sân bước vào nghe thấy vậy, liền gắt:
- Sắp chết mà vẫn còn đòi ăn à?
Như chạm phải lửa, tôi co giật cánh tay gày guộc đang chới với của mình vào, rã rời tự nó rơi bộp xuống giường. Trái tim tôi như có sợi dây thắt chặt lại, nhói đau, tủi hờn. Tôi quay mặt vào bức vách, mặc kệ cho nước mắt ứa ra giàn giụa.
Chợt có tiếng ông ngoại quát:
- Mẹ thằng Thành nói với con như vậy hả?
Rồi ông dịu giọng:
- Cháu Thành của ông đâu rồi nào?
- Dạ cháu ở đây... - anh Thành từ ngoài hiên bước vào.
- Cháu đem xôi vào cho em Vững ăn đi.
- Eo! Em Vững sắp chết rồi ông ạ.
- Thì cháu cứ đem vào cho em nó ăn với, kẻo tội.
- ứ...
Thành đứng tần ngần. Từ bé anh ấy vốn đã có tính ăn tham.
Mẹ tôi vẫn thường nhắc lại chuyện hồi anh Thành mới lên bốn.
Một hôm ăn cơm, mâm cơm chỉ có một đĩa con thịt rang. Bố tôi thò đũa gắp một miếng. Thành nhìn thấy òa lên khóc liền, miệng gào thét lên:
- "Giả thịt con đây, giả thịt con đây!..."
- Mang vào cho em ăn đi chứ! - Ông ngoại lại giục.
Anh Thành vẫn cứ đứng tần ngần. Thằng Bền thấy thế liền chạy vào giơ nắm xôi trước mặt:
- Ông ơi! Cháu cho anh Vững nắm xôi của cháu nhé.
Vậy là anh Thành được gỡ bí, nhảy tót ra ngoài hiên. Nói rồi thằng Bền chạy lon ton tới bên giường tôi. Nó mới hơn năm tuổi nên chưa thể biết chuyện tôi đang chết dần từ chân lên sẽ ra làm sao. Bởi thế nó đâu có sợ. Nó lay người tôi, miệng reo to:
- Anh Vững ơi, dậy ăn xôi này...
Thằng Bền dúi vào tay tôi nắm xôi. Tôi không thể nào cựa quậy để nhấc mình ngồi lên được. Hai chân tôi lúc này như đôi ống giang, cứng đờ, nặng trịch, không chút cảm giác. Tôi nằm ngửa và nhét từng dúm xôi vào miệng, nhai ngấu nghiến đến ngon lành.
Thằng Bền ngó gần sát xem tôi ăn xôi một lúc rồi chạy ra ngoài hiên khoe:
- Mẹ ơi!... Anh Vững ăn xôi ngon lắm!
Mẹ tôi đang mải giần gạo, không rõ nói với nó hay nói với ai:
- Chắc ăn giả bữa rồi chết thôi.
Tôi mải ăn nên không bận lòng đến những lời nói đó. Xôi ngon thật. Tôi chưa bao giờ thấy thòm thèm như lúc này.
Ông ngoại vẫn ngồi xếp bằng tròn thu lu trên phản. ánh đèn dầu lù mù nên nhìn ông như một cái bóng đen sẫm, lù lù.
No bụng, trong người tôi cảm thấy dễ chịu lạ thường. Thằng Bền lại vào leo lên giường, ngồi với tôi. Đến khi mẹ tôi trông thấy, bà quát luôn:
- Bền! Có ra ngoài đi không? Mày muốn lây bệnh chết theo nó à?
Giật mình, thằng Bền ngó lại vào mặt tôi, tò mò, khó hiểu. Tôi vẫn nằm im trước mặt nó đây. Tôi là anh nó, vẫn thường cõng nó đi chơi dạo nào. Vậy mà ngồi với tôi sẽ lây bệnh chết theo. Người ta sẽ mang ra chôn ở ngoài bãi tha ma. Ma là gì nhỉ? Thằng Bền nào có biết. Nhưng mỗi khi người ta dứ ma là nó sợ. Nó hình dung ma là con vật quái dị và độc ác lắm. Hẳn vì thế mà hễ trẻ con hờn quấy là các bà mẹ, bà chị ẵm trẻ con đều lấy ma ra để dọa.
Như vậy thì anh Vững của nó sẽ thành ma. Ai chết mà chả hóa ra ma. Thế thì khiếp quá! Nghĩ sao đó bỗng nó nhìn tôi chằm chằm, lùi đít ra mép giường, tụt xuống. Vẫn không rời mắt nhìn tôi, đi giật lùi. Như gặp quái vật, đứa trẻ vừa nhìn thẳng sợ hãi đón chờ tai họa, vừa lùi bước tìm đường thoát thân. Gần đến cửa, nó ù té quay ra ôm chầm lấy mẹ tôi, hoảng hốt và kinh hãi.
Tôi vẫn cứ nằm ngửa, duỗi thẳng hai chân cứng nhắc, giá lạnh không còn thấy cảm giác gì nữa, nhìn lên mái nhà tối om.
Không rõ giấc ngủ kéo đến hay là tôi lại thiếp lịm đi, hay là đích thị Tử Thần đã hiện ra lấn dần từng bước. Khi đã cướp xong đôi chân, liền bắt đầu nuốt tới phần thân xác tôi vào miệng Cái Chết.
Toàn thân tôi chợt nhẹ bẫng. Tôi có cảm giác như mình đang bồng bềnh trôi nổi chơi vơi giữa khoảng không. Tôi chết thật đến nơi rồi.
Tiếng búa đóng đanh ghép quan tài cành cạch ở ngoài sân vọng vào như tiếng mõ ngoài chùa, mờ tỏ, huyền hoặc, xa xôi, hư ảo. Tôi nào có hay biết gì đâu. Thân xác hay linh hồn tôi bay bổng, lượn lờ. Ngọn đèn dầu để giữa phản nơi ông ngoại đang ngồi, ai đó hay chính ông ngoại đã vặn nhỏ lại, đốm lửa bé bằng hạt đỗ xanh tỏa thứ ánh sáng lờ mờ nhợt nhạt, khiến cho không gian trong nhà nhập nhoạng, tối tăm.
Ngoài trời, gió ào ào về từng đợt từng đợt, đập vào vách núi Ngang, lật những tấm gianh lợp trên mái nhà chốc chốc lại loạt xoạt.
Đêm Cả vùng núi đá vôi chìm vào đêm tối, tĩnh mịch, thẳm sâu, hoang dã, chứa chất bao điều bí ẩn. Đúng như trong các truyện cổ tích mà lũ trẻ con chúng tôi vẫn thường nghe ông ngoại kể vào những buổi tối có trăng trong những dịp hè về thăm quê hàng năm.
Tôi đang trong giây phút "ra đi" về nơi thiên cổ nên không thấy có một ai vào với tôi nữa. Mọi người đều đã lên giường đi ngủ cả rồi. Chỉ có mình ông ngoại là vẫn còn thức, cứ ngồi thu lu trên phản như cái cây già cỗi ủ rũ chờ ngày tàn lụi hẳn. Ông ngoại đã ngoài sáu mươi tuổi rồi. Vóc người vốn nhỏ nhắn, về già càng tọp đi, gân guốc và khắc khổ. Vốn là một nhà nho hay chữ trong làng nên có đọc một số sách thuốc. Ông không làm thầy lang kiếm tiền, nhưng bà con họ hàng hay láng giềng có người nào đau ốm đến nhờ cậy, ông sẵn lòng đến thăm con bệnh, bắt mạch kê đơn cho họ đi cắt thuốc. Hẳn lúc này, trước tính mạng đứa cháu ngoại mà phải chịu bó tay buông cho Tử Thần cướp nó đi thì lòng ông đau đớn lắm.
Ông ngoại vẫn cứ ngồi lặng thầm suy tư trong bóng tối. Là người có đông con, lắm cháu. Nhưng trong thâm tâm, ông ngoại dành tình yêu thương cho người con gái thứ năm này. Bởi trong số những đứa con kể từ các con vợ cả đến các con vợ ba, nó là người chất phác thật thà. Năm nó mười tám tuổi, ông cho con gái đi lấy chồng. Chàng rể quê ở mãi ngoài tỉnh Hà Đông. Nhà nghèo phải đi kiếm sống từ thuở mười lăm, mười sáu. Ông thuận ưng, thậm chí còn giấu vợ cùng các con mình, giúi tiền cho chàng rể tương lai lo đồ sính lễ. Ơn trời nó là một trong những chàng rể tốt nhất trong số các con rể của ông, lại là người lanh lợi, có chí tiến thủ nên ăn ở trong họ ngoài làng ai ai cũng yêu thương quý mến.
Ông những mừng. Tuy nhiên cũng phải nói thật, hồi vợ ông còn sống, bà ấy thương con gái theo cái kiểu đàn bà nhà quê, mắt chưa bao giờ nhìn vượt khỏi cái bờ dậu cúc tần nhà mình. Thấy cây mà chẳng thấy rừng. Chỉ ham cho con vào những nhà có của. Nên bà ấy chê thằng chồng nó nghèo, đối xử có phần tệ bạc với con. Giờ con rể ông theo cách mạng, làm cán bộ thoát ly hoạt động cho kháng chiến. Con gái ông ở nhà một nách ba đứa con mọn. Ông không lưu tâm chăm nom con cháu sao được. Hơn nữa, ba đứa cháu ngoại này đều được sinh ra và lớn lên trên quê mẹ nó nên ông biết rõ từng đứa. Bởi vậy, khi nghe tin thằng Vững ốm, tuy người đang mệt, ông vẫn bắt thằng Tùng với con Thảo (là những người con còn đang sống với ông) võng vào thăm bệnh cho cháu.
Nó là đứa khôi ngô linh lợi nhất trong ba thằng cháu ngoại này.
Giờ ông đành chịu bó tay... Như thế có nghĩa là bất lực đứng nhìn thằng cháu chết. Nó mà chết thật thì chắc chắn, ông sẽ buồn lòng rồi không khéo chết theo cháu cũng nên. Ông ngoại vẫn còn ngồi lặng người như chìm vào bóng tối, suy ngẫm một mình. Ông những giận con gái. ừ thì cái chuyện con cái nó ốm đau ròng rã một năm trời, chạy chữa thuốc men mất đứt đi mấy lứa lợn thật. Thời buổi chiến tranh loạn lạc làm ăn kiếm ra đồng bạc nào có dễ, lại còn phải chăm sóc đứa trẻ đau ốm, hờn quấy cũng vất vả mà vẫn không cứu chữa nổi, ai chả xót thương.
Nhiều khi cáu bẳn. Chẳng những thế, nó lại là đứa con nuôi. Con nuôi nhưng lại còn hơn con đẻ. Bởi bố mẹ nó đều đi làm cách mạng, sinh con trong nhà tù. Ngày Việt Minh cướp chính quyền đã kịp thời chiếm ngay nhà giam, giải thoát được hai mẹ con. Nhưng chẳng bao lâu thì người mẹ qua đời bởi kiệt sức. Bố thằng bé thì bị giặc đầy đi Côn Đảo không biết sống chết ra sao. Là bạn cùng hoạt động, con rể ông đã nhận đứa bé về, thuyết phục vợ nuôi. Âu cũng là cái số kiếp nó vào nhờ cậy cửa nhà mình. Chẳng lộc của thì cũng lộc con trời cho. Quả nhiên con gái ông đẻ sòn sòn, toàn con trai cả.
Thằng Vững lớn lên sống hòa mình với lũ cháu ông, không một ai trong nhà được phép cho nó biết sự thật. Và rồi "bố mẹ" cũng như chú bác, cậu dì không hề bận tâm tới tông tích nó nữa, coi nó đích thị là con đẻ, cháu ruột của mình. Vậy đã thương thì thương cho trót. Đằng này... Giờ nó sắp chết rồi. Đạo lý của người làm cha làm mẹ sống ở đời sao lại nỡ nói năng cay nghiệt với con cái thế? Mà nào nó có làm nên tội tình gì. Nay ông trời bắt nó "đi" về với bố mẹ nó nơi "chín suối", đành phải cắn răng chịu đựng chứ biết làm sao.
Ngẫm ngợi gì đấy, chợt ông lắc đầu lẩm bẩm một mình: "Nó cạn nghĩ như mẹ nó ngày xưa vậy. Thương chồng thương con nhưng thiển cận và xốc nổi quá!".
Đêm chuyển dần về sáng. ở vùng núi, mùa hè cũng vậy, đêm bao giờ cũng lành lạnh. Thức mãi chắc là mệt mỏi lắm rồi. Ông ngoại vặn ngọn đèn dầu cho đốm lửa đều bấc to lên, ánh sáng bừng thêm một chút. Ông khẽ lần bước đến giường tôi nằm, đưa tay lên sờ nắn khắp người thằng cháu bé bỏng đã bén sâu vào lòng yêu thương của ông. "Không lẽ nó lại chết ư?" Thoáng trong đầu ông câu hỏi. Ông đứng lặng yên nhìn tôi hồi lâu. Không nói gì. Rồi ông lặng lẽ quay ra, thu dọn điếu bát, ấm tích và đĩa chén, lấy cái gối mây đặt xuống phản ngả lưng nằm.
Ngọn đèn dầu lẫn vào bóng đêm bởi đốm lửa ở đầu bấc chỉ còn bé tí nhờ nhờ xanh xanh như ánh lân tinh ngoài bãi tha ma.
Chỉ có gió là không ngủ, vẫn thức đập vào chái hồi, đập vào vách núi hun hút, loạt xoạt.
Rõ ràng là tôi không chết nên mọi sự việc đều được lưu giữ trong trí nhớ. Sự sống trong con người tôi chỉ còn thoi thóp ở trái tim bé nhỏ, yếu đuối. Thỉnh thoảng nó mới gắng gõ một nhịp đến là khó khăn, cố sức đẩy chút máu có trong cơ thể lên nuôi bộ óc. Để tôi có thể sống trong một giấc mơ kỳ lạ và khó hiểu. Cho đến bây giờ tôi vẫn không hay biết một tí gì về sự thật con người tôi. Mới tám chín tuổi đầu, tâm hồn còn thơ trẻ nên tôi không hề bận tâm về bất cứ một sự bí ẩn nào. Tôi đinh ninh mình được sống trong gia đình với bố mẹ và anh em ấm êm, hòa thuận như bất kỳ một đứa trẻ nào. Đến tuổi học hành được cắp sách đến trường.
Gia đình tôi vốn làm ăn sinh sống ở thị xã Ninh Bình. Sau mấy lần chạy tản cư loanh quanh, luẩn quẩn. Gồng gánh chạy ra vùng Thượng Đồng, rồi lại bồng bế nhau đi vào thị trấn Cầu Cừ tỉnh Thanh Hóa. ở đó không được bao lâu lại trở ra làng Bộ Đầu giáp cầu Yên là quê mẹ tôi. Mẹ tôi thôi không bán thuốc lào mà chuyển sang mở hàng xén bán ở phố ga Cầu Yên. Phố ga khá đông vui, chạy từ mố cầu phía nam vào tới khu nhà ga hỏa xa, phải tới hơn cây số. Bên kia đường sắt là cánh đồng chiêm bao bọc lấy làng Đông Trang. Bên này đường nhựa là nhà cửa, phố xá với đủ các hàng quán, cửa hiệu, đằng sau liền với làng Bộ Đầu. Ông ngoại tôi cũng có một ngôi nhà ngói hai gian ở mặt phố.
Giặc Pháp chiếm đóng dưới Phát Diệm, xây bốt ở núi Sậu, thỉnh thoảng lại đi càn quét quanh vùng, cướp bóc của cải, gạo thóc, trâu bò gà lợn và phá phong trào du kích, hoặc câu đại bác lên vùng ven thị xã Ninh Bình. Mà quê ngoại tôi cách thị xã có năm sáu cây số là cùng. Nếu tính theo đường chim bay thì còn ngắn hơn nhiều. Thành thử lắm khi đạn lạc xuống. Đã có mấy nhà ở dãy phố Cầu Yên trúng đạn rồi. Mẹ tôi mới đành đưa gia đình vào ở núi Ngang thuộc xứ đạo Hệ Dưỡng để tránh bom đạn. Cũng có nhiều gia đình ở phố Cầu Yên chạy vào. Đông vui và thành xóm Núi Ngang. Xóm Núi Ngang nhà nào cũng dựng một đầu hồi nhà áp sát vách núi để tiện khi tàu bay Pháp có đến oanh tạc thì chạy vào hang ẩn nấp cho nhanh. Đầu hồi kia chĩa ra phía cánh đồng chiêm trũng.
Những đứa trẻ lớn bằng tôi trở lên đều đi học. Vào học tận trong làng Hệ Dưỡng ấy. Lớp học mở ở chùa của dân bên "đời" dựng dưới chân núi giáp làng. Từ ngôi chùa đến nhà thờ xứ đạo cũng rất gần.
Thầy giáo dạy tôi là một ông y tá đã ngoài bốn mươi tuổi, tên là Kỳ. Không rõ vì lý do gì mà ông bỏ nhà thương trên thị xã Ninh Bình về làng sống với vợ con. Đoàn thể mời ông ra dạy đám trẻ con học chữ.
Tôi là đứa học trò chăm chỉ và cũng sáng dạ nên được thầy giáo yêu mến. Một hôm vào nhà ông chơi, thấy có nhiều sách xếp đứng thành từng hàng để trong tủ, tôi bèn hỏi:
- Bẩm thầy... thầy có các quyển sách gì để trong tủ kia ạ?
Ông giáo Kỳ tròn mắt nhìn tôi. Có lẽ vì ngạc nhiên lắm, bởi đám học trò ông dạy đều là những đứa trẻ tinh nghịch, mải nô đùa hơn là phải ngồi làm tính, viết tập thật nắn nót từng chữ, từng dòng, càng ngại viết ám tả và rất sợ làm tập làm văn, chứ đừng nói gì đến chuyện buộc chúng nó ngồi một chỗ đọc sách.
Tôi run lẩy bẩy, khoanh hai tay trước ngực đứng thẳng người y như một đứa học trò đứng chịu lỗi trước mặt thầy giáo. Bởi tôi ngỡ ông phật lòng, khó chịu vì sự tò mò của tôi. Đến khi những nét nhăn trên mặt ông Kỳ dãn ra, ánh mắt dịu đi, nheo nheo như cười, tôi mới hoàn hồn. Ông Kỳ hào hứng:
- Toàn sách truyện cả đấy, con ạ! Con có muốn đọc truyện không?
- Bẩm thầy... có ạ!
Ông Kỳ lấy làm thích thú bởi ít có người mượn sách của ông để đọc. Dân quê, dường như cả làng chỉ có vài ba người biết chữ quốc ngữ là cùng. Còn đám quan viên, hào lý trong làng chỉ biết độc có mỗi chữ Nho thôi. Nhưng cái thứ Hán tự này xem ra học cũng khó vào nên có người đọc viết được, có người chỉ đọc được thôi, hiểu nghĩa lơ mơ lắm. Ông lần trong túi áo lấy ra chùm chìa khóa, chọn chìa rồi mở tủ. Nom ông đứng nghiêng nghiêng cái đầu ngó nhìn khắp lượt các hàng sách, đến điệu. Dáng vẻ hào hoa lịch lãm người thành phố có học chứ không nghiêm nghị khó tính như ông thầy đồ dạy tôi học chữ Thánh Hiền ở làng Bộ Đầu. Sau một lúc lựa chọn, ông vạch hàng sách rút ra một quyển, quay lại đưa cho tôi:
- Thầy cho con mượn quyển này. Phải giữ gìn sách cẩn thận đấy. Thấy không, sách của thầy vẫn còn mới nguyên. Khi nào đọc xong thì trả, không được chuyền tay người khác làm bẩn sách. Rồi thầy sẽ cho con mượn tiếp quyển khác.
Mắt tôi sáng lên, hai tay run run đón lấy cuốn sách. Tôi đứng ngây ra ngắm nghía cái bìa có hình người đàn bà ăn vận kiểu ám tả: Bây giờ gọi là môn chính tả. Quần áo thuở xưa, phía sau thấp thoáng có bóng núi xa mờ. Lần đầu tiên trong đời một đứa trẻ tôi được nhìn thấy quyển sách truyện. Và quyển truyện trong tay tôi mới đẹp làm sao! Tâm trí tôi cuốn hút vào bức tranh in ở bìa. Trông hệt người thật. Ai đó vẽ được như thế này thì thật là kỳ tài quá. Và cũng là lần đầu tiên trong đời tôi cảm nhận thấy con người có thể làm được cho mình nhiều thứ đồ dùng tuyệt mỹ, như cuốn sách này chẳng hạn.
Ông giáo Kỳ nói người ta in trong sách bao chuyện. Cả những chuyện cổ tích mà ông ngoại kể cũng có in trong sách. Đọc sách là cách mở mang kiến thức và còn "sống" được nhiều hơn so với những người cả đời không biết một cuốn truyện là gì. Cuối cùng, ông giáo nói với tôi:
- Thôi... cứ thế nhá. Con mang sách về mà đọc.
Tôi chợt bừng tỉnh, ngẩng đầu nhìn ông với nỗi niềm hân hoan, miệng lắp bắp:
- Cho con mượn thầy đem về nhà đọc ạ!
Nói rồi tôi nhảy tót qua cửa, vọt ra sân, quên cả chào thầy.
Ông Kỳ nói với theo:
- Nhớ giữ gìn sách cho sạch sẽ nghe con...
Về nhà, tôi leo lên hang đá giở cuốn truyện ra đọc. Đây là quyển truyện "Chàng rể cóc" viết bằng văn vần. Câu chuyện cổ tích này làm cho tôi xúc động đến khó tả. Tâm hồn thơ bé trong tôi đinh ninh tin là cuộc đời có thật câu chuyện xảy ra như thế. Nhiều buổi chiều nằm dài trong hang đá bởi chẳng biết chơi trò gì và cũng không có chỗ nào nô đùa, tôi những miên man với bao ý nghĩ.
Tâm hồn như phiêu diêu, bồng bềnh mường tượng ra trong óc cảnh sống thuở "ngày xửa ngày xưa" nào đó. Để rồi chính những điều mình tưởng tượng nghĩ ra lại hấp dẫn cuốn hút tâm trí mình. Tôi đâm ra mê đọc truyện. Truyện nào cũng đọc. Còn ông giáo Kỳ thì lấy làm vui thích có đứa học trò ham đọc sách.
Ban đầu ông giáo cho tôi đọc "Chàng rể cóc", tiếp tới truyện "Thạch Sanh", truyện "Tấm Cám". Rồi đến "Tống Trân - Cúc Hoa", "Nhị độ mai", "Cung oán ngâm khúc", "Truyện Kiều"... Cuối cùng thì đủ loại: "Chinh đông, chinh tây", "Tam quốc", "Thủy hử", "Đông chu liệt quốc", "Tây du ký", "Đôi lứa xứng đôi", "Bỉ vỏ"... Rất nhiều. Cứ đọc xong một quyển, đến lớp, ông thầy lại bắt tôi kể lại cho chúng bạn nghe. Ban đầu thì có run run, ấp úng. Dần dần thành quen nên tôi kể chuyện ngày càng lưu loát, mạch lạc. Ông giáo Kỳ đứng tựa lưng vào cửa lớp học nhìn tôi, thỉnh thoảng lại gật gù.
Rồi ông còn nói cho tôi nghe những điều hay dở của cuốn truyện mà ông lấy làm tâm đắc. Ông giáo còn ngạc nhiên trước sự đọc sách nhanh của tôi. Có lần hôm trước mượn sách, hôm sau đến lớp học tôi đã mang trả. Ông hỏi:
- Thế con không thích đọc quyển truyện này à?
- Thưa thầy, con đọc xong rồi ạ.
Ông giáo trố mắt ra nhìn tôi đăm đắm:
- Con đọc xong rồi? Thế về nhà con không đi chơi à?
- Trình thầy ở xóm Núi Ngang chúng con chả có chỗ nào mà nô đùa cả. Leo trèo mãi lên núi cũng chán lắm, chui rúc mãi trong các hang đá cũng buồn. Con chỉ ngồi đọc sách thôi. Buổi tối, đám trẻ con xóm Núi Ngang thường rủ nhau tụ tập ngồi chơi ở cửa hang. Chúng tôi nặn những con vịt, con ngan bằng đất rỗng bụng, khoét một lỗ nhỏ ở ngang sườn bên này, hai lỗ nhỏ ở ngang sườn bên kia, phơi khô thổi thành tiếng như tiếng tù và nghe buồn buồn, nhất là khi tiếng núi vẳng âm trở lại. Thổi như thế mãi cũng chán. Chúng nó quay ra bắt tôi kể chuyện. Rồi thành quen, thành lệ.
Mỗi lần kể cho chúng bạn nghe những chuyện đã đọc ở trong sách, tâm hồn tôi như hòa nhập vào các nhân vật đó, vừa thơ ngây con trẻ, vừa ngộ nghĩnh hồn nhiên. Đám bạn quây quần quanh tôi lắng nghe, nhiều đứa há hốc mồm, đôi lúc bật cười thích thú...
Vậy mà tôi đã ốm liệt giường một năm nay rồi. Chết đi sống lại đến mấy lần. Đám bạn xóm Núi Ngang đâu cả? Bố mẹ, anh em tôi đâu cả? Ông giáo Kỳ ở đâu? Cả ông ngoại tôi nữa kìa. Ông đi đâu rồi? Sao chỉ có mình tôi... chỉ có một mình tôi lạc giữa cánh rừng ma thiêng nước độc hoang vắng, cổ xưa thế này? Ô kìa... đàn voi từ rừng già Châu Phi kéo nhau tới kìa. ại... con cọp từ trong truyện Thủy Hử nhảy chồm ra kìa. Trời đất ơi! Đây mới khiếp chứ, con Trăn tinh từ trong miếu thần trườn đến nhe cái miệng đầy răng nuốt chàng Thạch Sanh... Có một cái gì, như một bàn tay khổng lồ giữ lấy tôi, như có tảng đá đè nặng trên ngực không thể cựa quậy, không thể thốt lên thành tiếng kêu cứu. Tôi có cảm giác run bắn, co rúm người lại như sắp chết đến nơi. Tôi nhắm nghiền mắt lại không dám nhìn những con quái vật trước mặt nữa. Khi tôi mở mắt ra, những con quái vật biến hết sạch. Hoàn hồn. Tôi ngơ ngác giữa rừng xanh hoang dã. Chợt Bụt hiện lên kia kìa. Bụt giống ông ngoại như hệt. Bụt cất tiếng nói hẳn hoi. Tiếng Bụt thoảng trong thinh không, nhẹ như gió thoảng: "Tấm ơi... con đừng khóc nữa..." Bụt tới xoa tay vào trán tôi, đưa cho tôi uống bát nước vối đen đen: "Thuốc tiên cứu con sống lại đấy, con ạ!" Tôi gắng sức há miệng uống bát thuốc tiên Bụt mang tới. "Thôi... được rồi. Con nằm yên ngủ đi. Tử Thần sẽ bị đuổi ra khỏi người con, sự sống sẽ dần dần hồi sinh..." Khi tôi tỉnh giấc thì trời đã sáng bảnh mắt rồi.
Tôi mở to hai mắt nhìn thao láo lên nóc nhà. Trong người nhẹ nhõm, đầu óc tỉnh táo đến mức tôi tưởng như mình vẫn khỏe khoắn, chưa bao giờ bị ốm liệt giường, sống bình thường như anh Thành, thằng Bền, như mọi đứa trẻ khác. Tôi nghe rất rõ tiếng cậu Tùng và dì Thảo, chắc ngủ nhờ bên nhà hàng xóm đêm qua đã về, đang rì rầm nói chuyện với nhau ở ngoài sân:
- Chắc thằng Vững chết rồi hay sao mà im lặng quá thế này?
Dì Thảo sụt sùi khóc:
- Cháu Vững ơi... sao cháu nỡ vội bỏ ông bà, bố mẹ, cậu dì, bỏ anh em mà đi hả cháu? Cháu có biết dì võng ông vào thuốc thang cứu chữa cháu không?
Cậu Tùng nói khe khẽ:
- Thì hãy cứ vào nhà xem sự thể nó ra sao đã nào.
Ông ngoại tề chỉnh áo quần, đầu chít khăn voan màu tím thẫm gọn thành từng vòng như khăn xếp, ngồi xếp chân bằng tròn, uống nước ở phản giữa nhà từ bao giờ. Thấy mẹ tôi từ buồng giáp hang núi đi ra, ông bảo:
- Mẹ thằng Thành thử ngó xem thằng Vững nó thế nào?
Mẹ tôi giật bắn người:
- Khiếp! Con sợ lắm! Thôi... đằng nào thì cũng để tí nữa chú Thìn với các cậu các dì về đông đủ - Bà bước ra cửa: - Ôi... cậu Tùng, dì Thảo dậy sớm thế?
Dì Thảo mếu máo hỏi mẹ tôi:
- Liệu cháu Vững nó có còn sống không hả chị?
- Dì vào giường nó xem hộ tôi một cái.
Cậu Tùng bước lên hiên càu nhàu:
- Chị đến thật là... đã coi là con cháu trong nhà mà còn sợ à?
Thằng Bền cũng thức giấc từ lúc nào không hay. Nó chạy vàogiường với tôi:
- Anh Vững ơi...
Vừa gọi nó vừa lay người tôi. Tôi quay mặt ra nhìn nó. Nó ấp úng hỏi:
- Anh còn sống à?
Tôi mở to mắt ra nhìn nó trước câu hỏi. Ô hay... sao thằng Bền lại hỏi tôi thế? Tôi có chết đâu, vẫn sống đấy chứ. Lạ nhỉ. Tôi chết làm sao được. Tôi là thằng bé khỏe mạnh nhất nhà. Năm lên bảy tuổi tôi từng vật anh Thành ngã chổng kềnh, suýt va đầu vào cái cối đá ở nhà cậu Hảo, có cậu Phùng - con út của ông ngoại trạc tuổi anh Thành - làm chứng. Chứ không thì tôi bị một trận đòn nên thân vì tội dám đánh anh. Thằng Bền tụt xuống giường chạy ra khoe với ông ngoại:
- Ông ơi! Anh Vững còn sống kia kìa...
Ông ngoại gật gật đầu, gương mặt bừng sáng như một người thành đạt sau một cuộc thi căng thẳng đã vượt qua được mọi khó khăn, đã tìm gỡ được mối hóc hiểm để giải trình câu hỏi của giám khảo. ở đây, rõ ràng còn hơn cuộc thi. Bởi vật nhau với cái chết, giữ lại sự sống cho tôi mới thật sự là khó khăn và hóc hiểm, những tưởng phải chịu bó tay.
Vừa lúc cậu Tùng bước vào nhà:
- Cháu Vững sống lại rồi hả thầy?
- ừ!
Ông ngoại gật đầu, chỉ "ừ" một tiếng gọn không, sảng khoái, rồi kéo cái điếu bát lại gần, so xe điếu, mồi thuốc vào, chờ cậu Tùng lấy đóm châm lửa cho ông hút thuốc. Ông ngoại nói, giọng nhỏ nhẹ:
- Đêm qua thầy ngồi ngẫm nghĩ mãi. Không có nhẽ mình chịu bó tay để cháu nó chết. Thầy liều cho nó uống một chén thuốc tự mình sắc lấy. Lúc bấy giờ đã quá đêm rồi. Nếu nó uống chén thuốc này mà không bị "công", tâm lực chịu đựng nổi thì dứt khoát sống. Còn bằng không... thì chết luôn...
Đón que đóm bén lửa, ông ngoại đưa xe điếu vào miệng. Cái điếu bát kêu réo lên sòng sọc. Ông nhả khói, lấy làm khoan khoái, rồi nói tiếp:
- Thằng bé quả là đứa chịu khó uống thuốc. Nó cũng biết sợ chết chứ cứ gì người lớn. Thầy bảo: "Cháu ngoan của ông cố sức uống chén thuốc này nhé. Uống xong là sẽ khỏi bệnh, không thể chết được. Chịu khó nào. Rồi chóng khỏe ra ở với ông. Ông sẽ kể cho cháu nghe nhiều chuyện cổ tích". Nó nửa mê nửa tỉnh nhưng vẫn cố ngóc đầu lên cho thầy bế ngồi, rồi há miệng uống ừng ực hết chén thuốc. Thuốc này đắng lắm. Một lúc sau thì người nó ấm dần rồi thầy thấy mạch. Cầm chắc nó sống. ẵm nó ngủ một lúc lâu, thầy mới đặt nó xuống giường, quấn chiếc chăn chiên cho chặt kín quanh mình. Ra phản nằm chợp mắt được một tí thì thầy nghe tiếng tiếng gà đã gáy vọng từ trong Hệ Dưỡng ra tận đây rồi.
Mẹ tôi từ dưới bếp đi lên, dì Thảo từ ngoài sân vào, chú Thìn đang cho lợn ăn cũng bỏ cả đấy. Cả nhà nhốn nháo ồn ào mừng vui lẫn buồn tủi. Tôi nằm ngây ra ngơ ngác nhìn mọi người chẳng hiểu là tại sao lại như vậy.
Tiếng bác Vinh gái, hàng xóm nhà tôi, vừa bước lên hiên đã hỏi:
- Thằng Vững sống lại rồi hả ông? Trời ơi... phúc đức làm sao!
Rồi bác Vinh bước lại bên giường tôi nằm:
- Vững này ồ! Cháu còn sống thật rồi. Này nghe cháu, cháu phải biết ơn ông ngoại đấy, cháu nhá. Ông ngoại đã cứu cháu sống đấy.
Bác Vinh quay ra gọi đứa con gái xấp xỉ tuổi tôi, cùng học một lớp với nhau:
- Dung này vào đây với anh Vững. Anh sống lại rồi đây này...
Trời sáng rõ. ánh bình minh rực rỡ bừng lên khắp mọi nơi.
Ông ngoại vào thăm bệnh lại cho tôi. Ông nhìn kỹ gương mặt, sắc da ở người, rồi sờ nắn tay chân mình mẩy, xem lại mạch tay, mạch chân. Đầu ông lúc gật gật, khi lắc lắc. Xong đâu đấy, ông trở ra ngồi bò trên phản viết. Một lúc sau ông ngồi thẳng dậy. Mọi người ngồi ở giường, ở bậc hèm cửa chờ ông cắt đặt từng việc. Ông gọi mẹ tôi ra ngồi ở phản để ông nói, giọng nhỏ nhẹ thương cảm với nỗi vất vả của con gái:
- Thầy vừa xem lại bệnh cho cháu. Còn nước còn tát, đã thương thì thương cho chót, con ạ. Thầy tính vầy. Hai con lợn trong chuồng nhà mày còn bé quá. Hãy cứ để đấy nuôi. Thầy cho nó con lợn chắc xấp xỉ tám mươi cân gì đấy, để chạy thuốc thang ngay bây giờ cho nó. Nếu bây giờ mày không còn đồng nào thì giật tạm của ai đó đưa cho chú Thìn đi xuống chợ Tu cắt thuốc. Đơn thuốc cắt cho nó đây.
Ông ngoại đưa lá đơn với những cột chữ Nho thẳng tắp, đều đặn và vuông vắn, viết bằng bút lông, mực Tàu. Chú Thìn đưa hai ngón tay đón lấy rồi gấp tư, bỏ vào túi áo, gài ghim băng cẩn thận.
Chú là em ruột bố tôi, mới mười tám tuổi, vào ở với mẹ tôi được vài ba năm nay. Ông ngoại dặn lại chú Thìn một lần nữa, đến là cặn kẽ: nếu thiếu vị này thì thay bằng vị kia, bao nhiêu đồng cân một vị mỗi thang. Đoạn, ông quay sang bảo cậu Tùng: - Con về nhà ngay bây giờ. Nhớ bắt con lợn lớn nhất trong chuồng bán đi rồi mang tiền vào cho chị mày thuốc thang cho cháu. Khi vào nhớ gánh cho nó gánh gạo thông. Đỡ thêm cho mẹ con nhà nó. Còn con Thảo, ở lại với chị mày và các cháu. Hôm nào thằng Tùng vào thì hai đứa võng thầy về.
Từ nãy đến giờ mẹ tôi cứ ngồi mặt bần thần, rầu rĩ và im lặng. Chắc đoán biết là mẹ tôi chẳng còn đồng nào dính túi, bác Vinh gái liền lên tiếng:
- Thôi ơn giời, cậy nhờ có cụ đây nên cháu nó sống lại là mừng rồi. Nếu bác Thành không còn đồng nào thì em về lấy bên nhà mang sang cho bác giật tạm một ít.
Nói xong, bác Vinh đứng lên ngay, về nhà một tí đã nhào sang, ngại ngùng đưa tiền cho mẹ tôi.
- Cảnh nghèo túng với nhau, em có từng này bác cầm lấy đưa cho chú Thìn đi cắt thuốc ngay kẻo trưa mất rồi.
Cảm thấy món tiền chẳng đáng là bao, chợt sực nhớ, bác Vinh vội cởi bao thắt lưng xanh ở bụng ra:
- A... còn chỗ này nữa, gộp cả lại. Cứ tạm mua cho cháu nó chục thang cái đã.
Mọi người tản ra, ai vào việc nấy. Anh Thành cắp sách đi học. Cái Dung hôm nay được nghỉ nên ở nhà sang chơi với thằng Bền. Chúng trèo cả lên giường trò chuyện với tôi luôn miệng.
Nhưng tôi lại thiếp đi. Tử Thần chưa đủ sức mạnh cướp được tôi đi, song sự sống thì hãy còn mong manh lắm.
Cha tôi tạt về nhà được vài ba ngày. Công tác đoàn thể cuốn hút ông nên chuyện tôi ốm đau ròng rã một năm trời, dẫu có biết, ông vẫn không thể về nhà được. Vả lại mọi việc đã có ông ngoại lo toan cả rồi. Ông ngoại có chân trong Mặt trận Liên Việt huyện, vẫn thường xuyên hội họp nên cũng gặp cha tôi luôn. Bởi vậy, khi nhìn thấy tôi như cái bóng ma trên giường, cha tôi cũng không lấy làm ngạc nhiên. Ông ngồi bế tôi một lúc đợi chú Thìn đi xúc cua về. Cha tôi nói chuyện gì đó với chú hồi lâu rồi đi vào Hệ Dưỡng.
Ông nói là ông đi đến gặp cha xứ ở đấy để bàn việc làm lễ phóng thích cho một số lính vệ sĩ công giáo theo Pháp đi càn quét bị ta bắt. Sau một thời gian giáo dục, chính quyền kháng chiến khoan hồng cho về sinh sống làm ăn với vợ con gia đình.
Hồi này mẹ tôi bán hàng xén để nuôi con cái nên từ sớm tinh mơ đã gồng gánh đôi bồ lên thuyền chống sào đến các chợ quanh vùng cho tới tận khuya. ở nhà, chú Thìn thường vào Hệ Dưỡng xúc cua ở các ao bèo lục bình, hay cất vó te kiếm ít tép vụn.
Sáng hôm sau, vì có chuyện to tiếng giữa bố mẹ với nhau nên tôi mới biết rõ sự thể. Chuyện là như thế này: Chuyến này cha tôi về nhà mấy ngày không phải vì chuyện tôi suýt chết. Tuy thương con đứt ruột nhưng cha tôi không thể làm được gì, cho dù chỉ có ít tiền gửi về để đỡ đần mẹ tôi. Bởi cán bộ kháng chiến đâu có lương bổng, đi đến đâu sống dựa vào dân ở đó. Đồng bào có gì cho, ăn nấy. Cha tôi tạt về nhà chính vì chuyện chú Thìn. Thì ra cha tôi định đưa chú Thìn đi tòng quân. Cố nhiên là chú Thìn thích rồi. Bởi chú là thanh niên sức dài vai rộng, chạy giặc phải bỏ quê vào đây. Chẳng biết làm gì để kiếm sống, cứ ru rú ở nhà với mấy đứa cháu cũng chán, ăn bám chị dâu mãi càng không tiện. Riêng mẹ tôi thì lấy làm bực tức. Chẳng phải là hám lợi gì, song phận đàn bà con mọn có một mình chạy loạn làm sao? Hơn nữa lại còn thằng con đang sống dở chết dở nằm trên giường kia nữa chứ. Chả nhẽ bỏ mặc nó đấy để chạy lấy thân mình. Phải tội với giời! Mẹ tôi đổ mọi sự cho cha tôi. Nếu không có thằng Vững. Sao lại không có tôi?
Mẹ tôi đẻ tôi ra là chuyện miễn cưỡng hay sao? Nếu không có thằng Vững. Nếu... tiếng nói của mẹ tôi cứ vẳng đến tai tôi. Chỉ nói có như thế thôi thì bà ngập ngừng. Cha tôi suỵt cắt ngang lời.
Tính ông nóng như lửa, đã quyết là làm. Mẹ tôi đành chịu. Đành chịu trong sự phẫn chí. Bà giận dỗi bỏ buổi chợ, ở nhà.
Vậy là chú Thìn xăng xái đi ngay xuống chợ Tu mua sắm mấy thứ lặt vặt để sớm hôm sau cùng cha tôi lên đường.
Trời bỗng nổi giông. Mây đen kéo về. Gió lồng lộn như con ngựa bất kham tung vó giữa thảo nguyên. Mưa. Nước như trút từ trên trời xuống ào ào. Gió hất tốc mái chuồng lợn. Thế là không ai bảo ai cha mẹ tôi cùng chạy ra sửa lại mái chuồng.
Trong nhà không còn một ai. Anh Thành và thằng Bền chạy sang chơi bên nhà chị Nhàn. Mưa không về được. Chỉ còn mỗi mình tôi đang nằm quay mặt vào vách.
Ngoài trời mưa như xối nước, sấm chớp ùng oàng nhì nhằng những lưỡi lửa chốc lại lóe sáng. Không hiểu sao, tôi bỗng thèm nhìn ra xem trời mưa thế. Tôi gắng lấy hết sức để tự lật người quay mặt nhìn ra cửa mà không tài nào cử động nổi. Thân xác tôi cứ ì ra như đống thịt bất động. Chỉ có mỗi bên chân tay phải thì có khá một chút. Tức là co lại duỗi ra được một tí, rê đi rê lại nhích một tẹo. Tôi đành bật miệng kêu:
- Thầy u ơi! Vào lật người cho con quay mặt nhìn ra cửa với.
Tiếng mẹ tôi gắt gỏng quát ở ngoài chuồng lợn xuyên làn mưa vọng vào:
- Làm nũng vừa vừa chứ! Hầu hạ mày suốt ngày không đủ hay sao mà hễ động một tí là hành người ta! Không tự quay ra được thì cứ nằm thế đã sao?
- Nhưng con tê người lắm rồi.
- Thế cũng không chết được đâu mà sợ.
Tôi bật khóc ré lên vì tủi hờn và đau đớn. Tim tôi thắt lại, toàn thân rã rời. Tôi nào có dám làm nũng đòi hỏi cái gì. Tôi nằm quay mặt vào vách suốt từ sáng tới giờ, cố hết sức rồi mà không thể tự lật nổi người đấy chứ. Mưa vẫn cứ rơi xối xả như vẫy gọi, giục giã nỗi thèm muốn khát vọng được quay nhìn ra. Trời mưa có sức hấp dẫn lạ kỳ cám dỗ tôi.
Chắc là dọi xong mái chuồng lợn, cha tôi chạy vào. Ông tới bế tôi ra đặt nằm ở phản giữa, ngoảnh mặt nhìn mưa rơi.
- Có lạnh không Vững? Nếu lạnh thầy mặc thêm áo cho con.
Tôi lắc đầu, nước mắt đầm đìa. Cha tôi nựng:
- Thôi nín đi con! Để thầy tắm kẻo cảm lạnh. Rồi thầy vào nằm với con.
Hồi lâu. Rất lâu. Khi cha tôi đến nằm xuống bên cạnh, nâng đầu gối lên cánh tay người, quặp hai chân khẳng khiu của tôi vào lòng cho ấm thì tôi đã ngủ thiếp đi rồi...
Chiều hôm đó, chú Thìn ngồi bế tôi cả buổi. Hẳn chú thương tôi lắm nên trước khi đi xa, chú dành cả thời gian còn lại để an ủi tôi. Chú thủ thỉ căn dặn tôi phải gắng chịu khó uống thuốc, ăn thật nhiều cơm cho chóng khỏe rồi còn phải đi học nữa chứ.
Sớm hôm sau. Trước khi đi, cha tôi nói với mẹ tôi:
- Mẹ thằng Thành đừng cáu gắt với thằng Vững như thế. Con nó còn nhỏ dại, lại ốm đau bệnh tật chứ nó có nhõng nhẽo gì đâu. Tôi sẽ rẽ về làng mời ông ngoại vào thăm lại bệnh cho nó.
Rồi cha tôi vào bế tôi lên, thơm hai bên má. Tôi thấy mắt ông rưng rưng. Chú Thìn cũng vào bế tôi. Chú nói như mếu:
- Đừng chết cháu nhé! Rồi chú sẽ về thăm cháu. Chú sẽ dẫn cháu đi học.
Cha tôi cùng chú Thìn khoác túi dết đi ra. Bên ngoài, trời vẫn còn nhập nhoạng. Nhưng đó đây đã có nhiều tiếng gà gáy sáng và tiếng chó sủa vang. Tôi không thể biết rằng từ giờ phút này tôi bắt đầu phải tự làm nhiều việc cho chính mình chứ chẳng còn ai ở nhà nâng giấc như trước nữa. Lòng tôi dâng trào một nỗi bâng khuâng, cảm nhận thấy sự thiếu vắng chú Thìn như thiếu hụt một nơi nương tựa, chở che.
Rồi tôi lại thiu thiu ngủ.
Mấy ngày sau ông ngoại lại vào. Sau khi thăm bệnh cho tôi, ông gọi mẹ tôi vào bảo:
- Thằng Vững nó bị bán thân bất toại rồi.
Mẹ tôi sầm mặt lại nhăn nhó đến khó coi. Nỗi thất vọng hiện ra rõ nét. Như thế có nghĩa là nó mang tật nguyền suốt đời sao?
Nó nằm chết gí một chỗ, phải mất một người hầu hạ, nâng giấc.
Bà mếu máo:
- Thầy bảo con phải làm thế nào bây giờ? Lộc con lộc của ở đâu thì chẳng biết, chứ tai vạ suốt từ ngày đó cho đến nay còn gì. Tất cả là tại nhà con hết. Giờ đâm ra một nách ba đứa con mọn, chồng lại đi công tác thoát ly chẳng đỡ đần được gì. Có chú Thìn ở nhà trông nom chúng nó giúp con thì bố thằng Thành lại cho đi tòng quân. Nay cái bệnh bắt nó nằm liệt đấy, ai là người hầu hạ?
Rồi mẹ tôi khóc òa lên:
- Sao cái thân tôi khổ sở thế này! Nào tôi có ăn ở bất lương mà ông giời đầy ải đời tôi long đong lận đận gian truân như vậy. Con với cái! Sống thì nuôi, chết thì chôn cho rảnh. Chứ sống như thế, sau này cũng chỉ ăn báo cô thôi...
Ông ngoại gắt lên:
Bán thân bất toại: Bại liệt nửa người.
- Ô hay con mẹ thằng Thành lạ nhỉ? Có con thì phải khổ với con chứ.
- Nhưng nó có phải... lại dở sống dở chết như vậy thì ai hầu hạ suốt đời được.
- Thì cứ cố chạy chữa thuốc men đã.
Mẹ tôi phân trần:
- Thì thầy tính chạy chữa đến bao giờ? Cắt thuốc như uống nước vối ròng rã hơn năm trời rồi có ít ỏi gì đâu. Kiếm được đồng nào là đội nón ra đi sạch, lại còn mang công mắc nợ nữa.
Nói rồi bà sụp xuống bậc cửa khóc hu hu, than thân trách phận, kể lể mọi công lao khó nhọc bấy lâu nay làm cho ông ngoại cũng phải mủi lòng. Ông vê điếu thuốc lào tra vào nõ điếu, rồi châm lửa hút. Ông ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu mới nói:
- Để thầy lo liệu vậy. Giờ các con lớn đều đã ra ở riêng cả rồi. Mẹ mày qua đời đã đoạn tang. Nay chỉ còn thằng Tùng, con Thảo, con Chín và thằng Phùng ở với thầy. Con Chín với thằng Phùng thì bé quá. Công việc đồng áng dồn lên vai thằng Tùng với con Thảo thì làm không xuể. Nên thầy tính chia ruộng đều cho các con. Gái cũng như trai. Ruộng nhà ta cả thảy có ba mẫu, con nhận lấy mấy sào mà cấy.
Mẹ tôi nói xen vào cắt ngang lời ông:
- Con đi chợ suốt ngày bán hàng nuôi các cháu, làm sao mà cấy được?
- Để thầy nói hết đã nào! - Giọng ông ngoại hơi sẵng - Thì con cứ nhận. Thầy sẽ bảo thằng Tùng con Thảo nó làm giúp.
Tôi nằm im ắng nghe ông ngoại với mẹ tôi bàn tính lo toan cho số phận của tôi mà lòng những ngậm ngùi buồn tủi xen lẫn giận hờn. Tôi bỗng cảm thấy tai họa thật sự đã giáng xuống cuộc đời mình ngay từ khi bắt đầu ốm cơ. Và bi kịch ngày càng hiện ra một cách khủng khiếp thê thảm. Giả sử nếu có sống, sau này lớn lên tôi cũng chỉ là con người vô dụng. Giờ đây tuy đã có hy vọng sống lại mà sao tôi lại muốn chết quách cho xong! Bởi sống mà suốt đời ăn bám bố mẹ, anh em thì sống làm gì? Sống như vậy thì tủi hèn lắm, cay đắng lắm.
Ông ngoại chia ruộng cho các con thật. Không những thế, ông còn chia đều tài sản từ cái bát cái đũa trở lên. Ông cho người đi gọi cha tôi về. Cha tôi chỉ nhận ba sào ruộng thôi. Còn tài sản cha tôi nhường phần của mẹ tôi cho thêm cậu Phùng, là em rốt mới mười một tuổi. Nhưng ông ngoại vẫn ép cha tôi phải nhận cái đỉnh, một cái nồi mười lăm cùng với đôi mâm đồng và cái chậu thau lớn. Ngoài ra ông ngoại còn cho cha tôi tất cả những cuốn sách thuốc của mình. Để đầy một cái hòm gỗ lớn. Ông ngoại bảo cha tôi là người hiếu học, sáng dạ, lại có đức nên ông muốn truyền lại nghề thuốc cho. ít lâu sau, ông ngoại gửi thuốc và miếng cao hổ cốt bằng bao diêm vào cho tôi. Ông viết thư dặn dò tỉ mỉ và nhắc nhở tôi phải gắng sức uống hết nửa lạng cao đó.
Quả đúng như trong thư của ông ngoại. Uống cao hổ rất tanh. Thỉnh thoảng ợ nước miếng lên miệng thì tanh lắm, vẫn không được khạc, được nôn ra. Khó hơn cả uống thuốc bắc. Tôi cố ráng sức chịu đựng. Chịu đựng một cách nhẫn nại. Sức khỏe của tôi hồi lại trông thấy, trong người nhẹ nhõm, đầu óc lúc nào cũng tỉnh táo. Tôi đã thấy đói và thèm ăn đủ thứ.
Ngày ngày mẹ tôi thức giấc từ sớm tinh mơ nấu cơm để lại cho ba anh em chúng tôi rồi gồng gánh đi chợ. Anh Thành sau khi bón cơm cho tôi ăn xong, đưa thằng Bền sang gửi bên nhà chị Nhàn, đi học cho đến chiều mới về.
Nhà chỉ còn một mình tôi nằm ở phản. Nhớ lời ông ngoại dặn, tôi cố cử động tay chân. Thật khó khăn. Thân thể, tay chân tôi như thân cây chuối nằm thẳng đơ. Tôi cố lấy sức lăn toàn thân lật sang phải hoặc sang trái đều không thấy động đậy gì. Gắng sức đến vã mồ hôi cũng chẳng ăn thua. Suốt sáng sang chiều, rồi tới tối. Đến lúc mệt quá là ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Cuối cùng tôi đành tìm cách tập khác. Tay chân bên phải có khá hơn bên trái. Vậy là cả ngày lẫn đêm, hễ lúc nào thức là tôi cử động chúng.
Thời gian nặng nề và chậm chạp trôi qua.
Thời gian trở thành một sự thử thách khắc nghiệt đối với tôi.
Nó câm lặng nhưng cám dỗ cuộc sống làm sao! Nó làm cho con người vui tươi, ham muốn, ước vọng. Song cũng sẵn sàng quật ngã con người đến thất bại, và làm họ nản chí đến rã rời.
Không còn cách nào khác, cuộc sống buộc tôi phải kiên trì, kiên trì một cách bản năng. Rồi đến một lúc, các ngón chân, ngón tay bên phải của tôi cử động được nhanh hơn, hoạt hơn. Tôi liền tập cả bên trái. Rõ ràng bên này thật khó suy suyển. Phải rất lâu mấy ngón tay mới động đậy còn các ngón chân vẫn "nằm ì ra" như chết rồi, như không phải là ngón chân nữa.
Dần dà bàn chân phải, bàn tay phải, rồi chuyển tới cổ chân, cổ tay cử động. Tôi tập co vào, duỗi ra, rê đi rê lại. Rồi tiến cao hơn là thử nhắc tay chân lên. Đến khổ. Gắng sức nâng tay nâng chân lên vừa khỏi mặt phản thì nó rơi đến bịch xuống ngay. Cứ thế đến hàng trăm hàng nghìn rồi hàng vạn lần, lặp đi lặp lại không biết chán, không biết mệt mỏi, chân tay bên phải của tôi mới tự nâng cao lên khỏi mặt phản được một chút, lâu chừng vài chục giây làcùng. Nhưng tôi không nản. Vả lại tôi cũng không còn biết cậy nhờ ai xoa bóp và "khởi động" giúp cho tay chân co duỗi.
Chắc chắn là do công hiệu của thuốc cùng với tác dụng của cao hổ cốt và sự kiên trì luyện tập mà chân tay bên phải của tôi cử động co duỗi mau lẹ hơn, tay bên trái cũng bắt đầu chuyển biến.
Vậy là tay chân bên phải cứ đạp tứ tung quờ quạng loạn xạ. Và rồi tự đẩy thân thể di động xê dịch trên phản. Cổ cứng dần và đã nhấc nổi đầu lên. Lật được người bên này sang bên kia rồi. Sướng quá!
Lần đầu tiên lật úp được người xuống phản thì lại khốn, vì không thể nào xoay người lật ngửa lên được. Tôi tìm mọi cách. Nhưng chỉ có một bên tay chân phải cử động nên chẳng ăn thua gì.
Mệt rã rời và đói quá, tôi đành cứ nằm úp người xuống mặt phản như thế suốt ngày. ỉa đái dầm dề nhầy nhụa. Đến khi anh Thành đi học về thấy thế khiếp quá kêu chị Nhàn sang bế tôi ra vại nước tắm rửa cho mới thoát nạn.
Tôi vẫn cứ tập. Được cái là chị Nhàn thỉnh thoảng lại chạy sang lật người cho tôi nằm ngửa.
Cứ thế, tháng này nối tiếp tháng sau. Cho đến mùa con nước năm tới lại lên, tràn vào mép hiên nhà thì tôi ngồi dậy được. Lúc này tay bên trái co duỗi, giơ lên hạ xuống chỉ kém tay bên phải ba bốn phần. Chân trái bắt đầu có tín hiệu nhúc nhích cử động. Nỗi khát vọng được đi lại, chạy nhảy, nô đùa như anh Thành, thằng Bền, như chúng bạn xóm Núi Ngang càng nôn nao rạo rực trong lòng tôi. Trí nhớ và sự nhận biết ngày càng hồi phục thì nỗi khát vọng, mơ ước được như mọi đứa trẻ có tay chân khỏe mạnh ngày càng cháy bỏng, thôi thúc và dằn vặt tâm can tôi. Tròn một năm sáu tháng tôi nằm bệt trong xó nhà nên thèm lê từ phản sang giường, từ góc nhà này tới bên góc nhà kia, thèm ra tới ngoài hiên nhìn cánh đồng ngập nước mọc đầy cỏ bái, được trông thấy núi Cháy ở bên kia cánh đồng nom giống như con gà trống vươn cổ gáy đánh thức mặt trời buổi sớm. Trước khi tôi bị ốm, buổi tối nào, lũ trẻ con xóm Núi Ngang cũng tụ tập nhau ngồi nhìn những đốm sáng di động, lúc ẩn lúc hiện lạ kỳ trên sườn núi đen kịt để dứ dọa đứa nhát gan, bảo đó là "ma trơi", làm nhiều cu cậu và bọn cái hĩm sợ té đái ra quần; hoặc ngồi nghe tôi kể chuyện. Tôi thèm được leo lên sườn núi bắt chim, nằm trên hang đá cao lưng chừng núi hóng mát. Thèm đi hái sún đá vào những ngày mưa rào tháng ba mang về nấu canh chua, hoặc luộc lên ăn sần sật như mộc nhĩ, lại có vị chua chua. Thèm được chèo thuyền chơi trên cánh đồng nước hái những bông hoa súng tim tím đến là đẹp. Thèm được cắp sách tung tăng đến lớp học với chúng bạn, nghe ông giáo Kỳ giảng bài, hoặc nghe ông kể những chuyện về người thổ dân da đỏ châu Mỹ, người Eskimô ở Bắc Cực, hay những con đười ươi ngửng mặt cười nhăn nhó với ông trời. Tôi yêu quý và kính phục sự hiểu biết của ông giáo. Không hiểu bây giờ ông có còn kể nhiều chuyện cho lũ học trò cứ há hốc mồm, nghếch mặt ngồi nghe nữa không?
Sún đá: một loại địa y mọc ở vách đá vôi, mùa hanh khô teo đi, gặp mưa rào tháng ba nở như mộc nhĩ.
Tới kỳ nghỉ hè, anh Thành ở nhà nên tôi đỡ buồn. Nhưng anh ấy ham chơi nên chốc chốc lại tót sang nhà hàng xóm, có hôm đi biệt đến trưa mới về. Cố nhiên là tôi không dám mách mẹ. Lơ mơ là anh Thành dọa đánh liền. Chẳng riêng gì tôi, thằng Bền mà đòi theo phá thối cũng ăn bạt tai, đá đít... Thành thử vẫn chỉ có mình tôi ở nhà, vẫn tự luyện tập một mình.
Cũng may là cái Dung thường sang chơi với tôi luôn. Có hôm ở cả ngày. Tôi nói với nó:
- Từ khi ốm dậy đến giờ tớ quên không biết đứng nữa rồi.
- Không phải đâu. Tại đằng ấy còn yếu quá đấy.
Tôi thú nhận:
- Tớ như đứa bé mới mười tháng ấy, phải tập lẫy tập bò đến khổ.
- Cứ chịu khó tập đi, đã có tớ giúp.
Thế là nó giúp tôi tập đứng. Hôm đầu cái Dung hăm hở bặm môi bế xốc tôi dậy, nặng nhọc lễ mễ như con cóc tha con nhái. Tôi hơn nó chừng một tuổi là cùng. Giá như tôi không bị ốm chắc nó chỉ cao đến tai tôi thôi. Nhưng bây giờ nó đã nhỉnh bằng đầu tôi rồi. Nó để cho hai bàn chân tôi chạm xuống mặt phản thì buông tay ra định xốc lại cái quần của nó bị tụt. Không ngờ hai ống chân tôi dài ngoằng giống đôi ống nứa tép mềm nhũn như bún. Nó không kịp đỡ, đành để cái quần tụt giải rút tuột xuống đầu gối mà tôi thì vẫn cứ ngã đổ chổng kềnh xuống phản, hai chân trẹo ra, đau điếng đến nỗi tôi bật khóc òa. Cái Dung càng hoảng hốt và sợ hãi. Nó lúng túng quên khuấy kéo quần lên, và cũng chẳng biết làm gì, òa lên khóc theo.
Nghe thấy tiếng hai đứa trẻ khóc, chị Nhàn chạy sang nom cảnh ngộ chúng tôi đến tức cười. Cái Dung quần tụt xuống đến chân, đứng mếu máo. Còn tôi hai chân ống giang xoạc ra, mặt nhăn nhó, miệng sụt sịt.
Chị Nhàn bế tôi lên, nắn nắn hai chân:
- Không sao... không sao! Cả hai đứa nín đi nào. Dung, mày kéo quần lên thắt lại giải rút đi chứ.
Rồi chị kéo cái Dung ngồi xuống sát vào mình:
- Thôi nín đi. Chị nắn lại chân thằng Vững rồi. Mày là con bé ngoan lắm. ở chơi với nó nhé.
Ngồi với chúng tôi một lúc thì chị về nhà. Nhà chị Nhàn chỉ có hai mẹ con. Tôi không rõ mẹ con chị ở đâu mà chạy vào tản cư tới ở trong núi Ngang này. Và tôi cũng không được biết mẹ con chị sinh sống bằng cách gì. Mẹ chị đi suốt ngày. Bà hiền lành phúc hậu lắm. Tối tối bà vẫn sang bên nhà tôi chơi. Có hôm ngồi bế tôi suốt buổi. Chẳng mấy khi thấy bà nói chuyện. Chị Nhàn giống mẹ như đúc, tuổi mới mười lăm, mười sáu là cùng. Dáng người chị mảnh khảnh, bộ ngực bắt đầu nở nang, không vấn tóc như các bà các cô ở đây mà chị buộc túm lại phía sau bằng một sợi len đỏ.
Gương mặt trái xoan, hơi gầy, xanh xanh, được đôi mắt tròn to và sáng lúc nào cũng như đang cười. Chị ở nhà băm bèo nấu cám nuôi hai con lợn, chẳng hề đi chơi đâu. Chỉ tới mùa cấy, khi lúa đang thì con gái chị mới đi kéo vó te, kiếm được rõ nhiều cá vụn và tôm tép, ăn không hết, đem phơi khô la liệt mẹt nọ giần kia rồi cho vào hũ đậy kín bằng lá chuối khô, để làm thức ăn phòng ngày mưa bão chứ không đem bán.
Tôi không dám tập đứng tênh tênh như đứa trẻ mười tháng, và cũng không chịu để cho cái Dung bế thốc đứng lên rồi buông tay ra nữa. Sau cái lần ngã đau điếng người ấy, tôi hoảng sợ thực sự.
Có lẽ không bao giờ tôi có thể đứng được chứ đừng nói đến chuyện đi lại, chạy nhảy. Thành thử khi mót đi tiểu hay muốn ra ngoài hiên ngắm nhìn bầu trời, đồng nước, núi non... tôi chỉ còn cách bò ra mép phản, tụt người ngồi bệt xuống đất lê đít "đi" thôi.
Cái Dung không chịu bó tay. Nó loay hoay tìm cách. Ngày nào cũng xăng xái một cách nhiệt thành. Nhưng cũng chả tìm được cách gì. Nó ngồi đần mặt ra, rồi nựng tôi như nựng em bé:
- Đằng ấy không chịu tập đứng thì chẳng bao giờ đứng được đâu, chẳng bao giờ đi lại được như tớ đâu. Đằng ấy chịu khó để cho tớ bế lên vậy. Tớ không để đằng ấy ngã nữa đâu mà sợ.
Nó nói rõ nhiều. Rằng nó sẽ đứng ôm chặt lấy tôi để cho hai bàn chân của tôi đặt xuống mặt phản cho quen. Thật quen đã. Rằng sau đó nó mới buông tay, nhưng để tôi vịn chặt vào người nó.
Như thế sẽ không bao giờ ngã. Giọng nó thân thiết dịu ngọt lạ lùng:
- Như thế sẽ không ngã đâu. Thật mà. Đằng ấy đừng sợ.
Tôi buộc phải nghe theo nó chứ còn biết làm cách nào để tự đứng lên được mà tập đi. Anh Thành thì ham chơi quá không mấy khi nhòm ngó đến tôi. Anh ấy có cái thói biết mẹ tôi về vào lúc nào là anh ấy về trước một tí để dọn dẹp nhà cửa cho gọn kẻo mẹ tôi rầy la. Thành thử bà không thể biết ở nhà anh Thành như thế nào. Nhiều khi còn khen anh ấy nữa. Được thể anh Thành càng lên nước. Tôi và thằng Bền sợ anh bằng phép. Ngậm miệng không dám mách điều gì. Tôi chỉ còn nhờ được cái Dung thôi.
Hai đứa chúng tôi cứ ôm nhau đứng lên ngồi xuống suốt buổi. Bởi tôi vẫn sợ ngã, ôm chặt lấy cái Dung chứ không chịu để cho nó buông tay ra.
Ngày hôm sau. Rồi ngày hôm sau nữa. Cũng thế. Thực tình tôi nản lắm rồi. Song cái Dung vẫn không chịu buông tha. Đầu óc tôi trì độn quá không tìm được cách khác. Còn cái Dung lại vẫn luẩn quẩn với cái trò bế tôi đứng lên. Cũng lạ. Nó không biết mệt hay sao?
Chị Nhàn đã sang gỡ thế bí cho chúng tôi. Chị mang chiếc ghế đẩu ra, đặt bụng tôi áp vào mặt ghế để thõng hai chân chạm xuống mặt đất cho quen dần đã. Có thế mà chúng tôi cũng không nghĩ ra! Tôi cảm thấy thoải mái chứ không gò bó như để cái Dung bậm môi gắng sức bế đứng dậy. Lúc nào mỏi, hoặc chán thì tôi mới tụt người ngồi bệt xuống đất chẳng hề đau đớn gì. Cứ thế thành quen.
Rồi tôi đủ sức từ từ vươn thẳng người đứng vịn chặt vào thành ghế. Thích quá! Tôi ngây ngất vì vui sướng. Và, lần đầu tiên tôi để ý đến cái Dung. Nhà nó chạy tản cư vào Núi Ngang cùng với nhà tôi. Bố nó cũng đi kháng chiến nên ở nhà chỉ có hai mẹ con nó thôi. Bác Vinh gái là dân thành thị nên thạo buôn bán lắm, nhà lại khá giả. Cái Dung cùng học với tôi một lớp. Tính nó nhẹ nhàng ít nói. Nó chơi với tôi đến thân và rất thích nghe tôi kể chuyện. Có bao giờ tôi để tâm đến nó đâu. Tôi cứ mải những chuyện đẩu đâu, hết sách lại vở, vùi đầu vào đọc truyện. Còn nó thì hễ rỗi rảnh lại sang chơi với tôi luôn. Tự nó đến chứ chẳng ai xui hay khiến mà tôi cũng không thể nài bắt nó được. Nó chẳng mấy khi rời tôi nửa bước.
Lúc này cái Dung đang ngồi ở phản nhìn tôi đứng vịn vào ghế đẩu. Hẳn nó cũng thấy vui thích nên gương mặt tươi tắn lắm. Hai núm đồng tiền bên má lộ rõ, đến xinh. Nó trắng trẻo, mặt trái mận, có mái tóc dài chấm gấu áo sau lưng đen nhánh.
Cả tôi lẫn cái Dung đều đã chín mười tuổi rồi. Bọn con trai như tôi vẫn mải chơi, ham nghịch và vẫn còn tắm truồng tồng ngồng ngoài vại nước. Nhưng cái Dung đã bắt đầu biết giữ ý tứ, e thẹn và xấu hổ. Nó ra dáng người lớn hơn tôi. Không hiểu sao tôi cảm nhận mọi sự ân cần của nó, ngoan ngoãn như một đứa em trai với chị gái. Phải thế chăng mà cái Dung mỗi ngày một khẳng định thêm sự khôn lớn của nó bằng cách cư xử, chơi đùa với tôi và chúng bạn.
Cảm thấy mình đã đứng vững, tôi thử buông tay vịn ghế ra.
Một đứa trẻ chín mười tuổi lại tập đứng tênh tênh như đứa bé chín mười tháng. Chao ôi... đứng buông được tay ra đến là thích! Cái Dung thấy thế mừng quá nhảy tót xuống đất, reo rối rít:
- Đứng được rồi! Đứng được rồi!...
Tôi nhìn nó, tít mắt cười khoái chí, cũng reo theo nên mất thăng bằng ngã bệt xuống ngay. May, cũng chỉ là đau đít thôi.
Sang bước tập cao hơn: tập đi. Lúc này đầu óc tôi cũng không đến nỗi đần độn lắm. Tôi tự tìm ra cách cho mình tập. Tôi lần quanh giường, quanh phản cho hai chân thêm cứng cáp, cho bàn chân bám vào mặt đất chắc chắn hơn, "thật " chân hơn. Tôi mê mải say sưa. Càng lần đi càng hăng càng vững hơn. Hai đầu gối bớt run hơn, chân bước mạnh bạo hơn. Tôi với cái Dung hoặc thằng Bền chơi trò đuổi nhau quanh giường. Chúng nó cứ đứng chờ cho tôi lần đi gần tới thì lại nhảo ra xa hơn, đến tức. Nhưng mà ham.
Lại còn thích nữa. Nhà lúc nào cũng vang tiếng la hét, tiếng reo cười nắc nẻ đến ồn ã. Không còn vắng lặng, tẻ nhạt, cô đơn nữa.
Sau đó, tôi bảo chúng nó xếp giúp cho mấy cái ghế đẩu cách xa nhau hơn từ phản ra cửa, rồi ra hiên.
Tôi đã đi ra được đến hiên, rồi xuống sân. Nói là "đi được" nhưng chỉ có chân bên phải là co bước được thôi. Còn chân bên trái vẫn còn quá yếu nên chỉ kéo lết trên mặt đất. Song dầu sao tôi vẫn tự đi được ra sân, mặc dù phải vịn vào ghế, cũng thấy khoái lắm rồi. Bầu trời đã hiện ra trước mặt. Tôi lại nom thấy núi Cháy và dãy núi đá vôi trùng điệp chẳng rõ nó bắt đầu từ đâu và đến chỗ nào mới kết thúc. Tôi thích thú ngắm nhìn thiên nhiên quanh mình như là kẻ đầu tiên khám phá ra xứ sở màu mỡ và tươi xanh của chúng ta.
Con Vàng chạy đến. Nó đưa cái mũi hít hít hai chân tôi, ve vẩy đuôi mừng rỡ như được gặp lại chủ cũ, hay là nó mừng vì thấy tôi còn sống để nô đùa với nó? Tôi vỗ vỗ tay vào lưng nó trong tâm trạng hào hứng khó tả. Giống như trước ngày tôi bị ốm, mỗi khi đi học về nó đều đứng đón tôi trước cửa nhà, chồm lên giơ hai chân trước đặt trên ngực. Tôi nắm lấy chân con Vàng, lắc lắc, gật đầu với nó. Giá tôi có cái gì làm quà cho nó nhỉ? Tôi nói với con Vàng:
- Vàng ơi... mày vẫn còn nhớ tao à?
Cô Thắm ở Hệ Dưỡng cho nhà tôi con Vàng hồi nó được hơn một tháng. Cả nhà tôi ai cũng thích nó. Ăn khỏe, lớn nhanh, không cắn trộm nhưng lại biết giữ nhà, quyến luyến chủ. Càng lớn nom con Vàng càng đẹp mã. Nó cao to gần như chó lài, lông vàng mượt, đôi tai vểnh lên hướng về phía trước đến thích, cái mõm vừa phải và cặp mắt sạch sẽ, tinh nhanh. Ai vào nhà tôi chơi cũng khen, đều dặn hễ nó đẻ thì để cho họ một con. Anh Thành với tôi đều hay cho nó theo trèo lên núi hóng mát, bắt chim hoặc dẫn nó đi săn chuột trong các hang dưới chân núi. Con Vàng luôn tỏ ra hăng hái, đón ý chủ và cũng "sáng dạ" đáo để. Còn điều này nữa thì cả tôi lẫn anh Thành đều không nói ra. ấy là mẹ tôi thường hay đi chợ đến khuya. Bởi ở vùng tự do tùy địa điểm của từng làng xã quanh vùng mà họp chợ vào buổi sáng, buổi chiều hoặc buổi tối để phòng tránh tàu bay Pháp oanh tạc. Nên ở nhà chỉ có mấy anh em chúng tôi thôi. Thực tình chúng tôi cũng thấy sờ sợ. Nhất là tối đến. Từ khi xin con Vàng về nuôi, đêm tối nó lùng sục chỗ này, góc kia trong nhà, ngoài sân. Hễ thấy động là nó sủa liền nên anh em tôi yên tâm lắm. Anh Thành chúa sợ ma. Tối hay lỉnh đi chơi. Đến khi về nhà là tót lên giường ngủ ngay. Thành thử tôi phải thu dọn nhà cửa, xem chuồng gà, con lợn. Có con Vàng đi bên vững bụng hẳn.
Hơn năm nay tôi nằm liệt giường, chắc con Vàng băn khoăn lắm thì phải. Bởi không thấy tôi nô đùa với nó, hoặc thiếu vắng tôi trong những cuộc leo núi vui nhộn và thú vị.
Giờ con Vàng đã thành "mẹ sề" của mấy lứa con rồi. Nó đằm tính và càng tinh khôn hơn trước. Nó quanh quẩn bên tôi một lúc rồi phốc ra cánh đồng. Chạy được một quãng nó dừng lại quay đầu ngó nhìn tôi. Thấy chủ vẫn đứng ì ra nhìn, nó liền quay lại, ngoạm vào ống quần tôi giằng giằng kéo đi. Tôi đã chạy nhảy được đâu mà đi theo nó. Cúi xuống vuốt nhẹ tay lên lưng con Vàng, tôi nói:
- Tao chưa đi lại bình thường được. Thôi... một mình mày chạy ra cánh đồng đi.
Hiểu ý. Con Vàng cúi đầu lượn vòng quanh tôi mấy lần rồi mới thong thả bước từng bước một đi chỗ khác. Chắc nó cảm thấy nô đùa ngoài cánh đồng một mình thì buồn lắm. Tôi đứng tần ngần nhìn nó, lòng những thân thiết mến yêu như người bạn thân.
Mặt trời đã chui tọt xuống sau rặng núi đá vôi trùng điệp.
Bầu trời còn bừng sáng nhờ ánh hoàng hôn do sự khúc xạ của mặt trời phản chiếu. Núi non bàng bạc một màu xanh lam huyền ảo.
Từng đàn chim đang sải cánh bay về núi, chấp chới dập dờn trên các tầng mây. Tôi nhìn thấy rõ người đi kiếm củi đang gánh xuống quèn bên núi Cháy. Liệu đến bao giờ tôi mới có thể đi được tới đấy?
Cái Dung sang giúp tôi thu dọn mấy cái ghế đẩu, rồi múc nước vào chậu thau rửa mặt mũi tay chân cho tôi. Nó làm với mọi cử chỉ của người chị gái, đến tháo vát, gọn gàng. Chị Nhàn đi gánh nước qua thấy thế cứ tấm tắc khen mãi. Đến khi anh Thành với thằng Bền đi chơi kéo nhau về thì còn có mỗi việc đi thổi cơm. Tôi bám vào thằng Bền tập tễnh lê bước chân tới bếp. Anh Thành đong gạo, vo, nhóm lửa cho tôi ngồi đun. Thằng Bền hào hứng kể chuyện nó theo anh Thành đi thả diều ở bên kia núi Ngang, chỗ cái quèn dốc mà trước đây có lần con Vàng xồ vào hang bắt chuột, khi chạy ra trượt cẳng lăn theo sườn núi xuống, suýt chết.
Rằm tháng Tám.
Xóm Núi Ngang nhà nào cũng làm cỗ "trông trăng" vui tết Trung thu. Nhà khá giả thì giết gà giết vịt làm cỗ bàn cơm rượu, bánh trái hoa quả. Nhà nghèo khó nhất cũng cố kiếm quả bòng, nải chuối hoặc vài trái ổi cho con. Thành thử cái xóm Núi Ngang heo hắt bỗng rộn rịp tưng bừng.
Cứ như mọi năm thì mẹ con chúng tôi bồng bế nhau ra nhà ông ngoại ăn cỗ, chơi bời đến ngày hôm sau mới về.
Khi còn sống, bà ngoại quả là một người tài đảm nhất vùng. Chả thế mà ngày bước về nhà chồng chỉ có hai bàn tay trắng, cơ ngơi nhà chồng lụp xụp nghèo túng, tuy phận làm hai, bà xin ra ở riêng, tự mình lo toan tính toán công việc làm ăn. Vậy mà chỉ mấy năm sau, bà đã tậu ruộng tậu trâu, trông nom cấy cày hàng mẫu ruộng. Rồi mua đất làm nhà. Tòa nhà đến đẹp. Đá phiến bó thềm dài rộng hơn một mét. Nhà xây dựng kiểu Tây, có trần quét vôi sáng, vẽ những hoa văn màu xanh màu đỏ đến vui mắt. Cậu Tùng thường leo lên trần nhà bắt chim ngói, xiên nướng chả cho chúng tôi ăn, ngon hết chỗ nói.
Tuy là ngày tết của trẻ con, nhưng vì đông con, lắm cháu nên ông ngoại thường giết lợn làm cỗ hẳn hoi. Con cháu dâu rể nội ngoại về hết. Cả nhà quây quần đoàn tụ đến vui. Lũ trẻ con chúng tôi có dịp quen biết và nhận anh, nhận em vui chơi thỏa thích.
Từ ngày tôi ốm đau đến giờ, mẹ tôi không mấy khi nghỉ chợ cho anh em chúng tôi ra nhà ông ngoại chơi.
Dẫu sao anh em chúng tôi vẫn cứ háo hức chờ mong từ mấy ngày hôm trước. Chả là các anh chị Thanh niên cứu quốc trong Hệ Dưỡng tổ chức cho đội thiếu nhi ăn cơm kết đoàn, rước đèn, phá cỗ tập đoàn và còn diễn cả kịch. Không khí náo nức chuẩn bị ngày Trung thu cuốn hút tôi hòa nhập cùng anh em và chúng bạn bàn tính các trò vui. Nhiều khi tôi quên khuấy mình là thằng bé tàn tật ốm yếu.
Hồi tháng ba. Khi chú Thìn còn ở nhà. Nhân mấy ngày mưa tầm tã, rỗi rãi chẳng có việc gì, chú kiếm mấy thanh tre, tỉ mẩn vót nan làm cho anh em tôi một chiếc đèn con thỏ. Dán giấy vàng, điểm tai mắt mũi miệng bằng giấy trắng, nom giống ơi là giống.
Rồi chú lấy một tờ giấy bản rõ to, bọc kín lại để giữ đèn cho mới.
Treo cất lên xà nhà. Chú dặn để đến tết Trung thu mới được lấy xuống chơi.
Giờ ba anh em tôi cũng rối rít với chiếc đèn. Cố nhiên là tôi chỉ biết có trố mắt ngồi nhìn anh Thành hớn hở cầm cây đèn giơ lên cao hý hửng chạy lăng xăng quanh trong nhà, ra ngoài hiên, mặc cho thằng Bền đuổi theo túm vào chân gào thét đòi.
Mẹ tôi vẫn đi chợ như thường ngày. Bà để sẵn nải chuối với quả bòng cho anh em tôi, chờ tối đến cùng "phá cỗ". Nhân thể vào năm học mới, mẹ tôi may cho anh Thành một bộ quần áo bằng vải diềm bâu Nam Định nhuộm nâu hồi hè. Nghĩ mà tủi. Suốt ngày tôi ngồi ở nhà trông miếng vải nhuộm phơi ngoài sân mà những thèm mong được may áo quần bằng miếng vải đó. Mẹ tôi bảo sẽ may tất cho cả ba đứa để khỏi phải tranh nhau. Đến khi mang đi may. Tôi thấy mẹ bảo có mỗi một mình anh Thành đến nhà bác thợ may đo vải. Tôi đòi theo. Mẹ tôi bảo không đủ vải. Tôi không thể như thằng Bền chạy theo gào khóc. Ngồi ở nhà rân rấn nước mắt nhẫn nhịn.
Vốn đã trắng trẻo và xinh trai, anh Thành mặc quần áo mới, nom càng kháu khỉnh, sạch sẽ, bảnh bao. Thằng Bền lại được dịp hờn suốt buổi vì không được quần áo mới. Té ra bác thợ may đo làm phép người nó. Còn tôi, cũng chỉ biết nhìn, cố gạt đi mà vẫn cứ thèm. Nhà tôi nghèo quá. Tôi lại ốm đau bệnh tật chết đi sống lại mấy phen. Dai dẳng, ròng rã suốt một năm trời. Thì còn lấy đâu ra mà may mặc mua sắm thứ gì. Dẫu tôi có đòi thì mẹ cũng không thể kiếm đâu ra vải may cho. Vả lại tôi bị què quặt thế này, có đi lại được đâu mà cần đến quần áo đẹp. Ngay từ lúc còn bốn năm tuổi, chẳng mấy khi tôi được may quần áo mới. Toàn mặc quần áo anh Thành chật trút cho.
Rồi đến lượt thằng Bền ra đời. Nó không bị rơi vào cảnh như tôi vì quần áo tôi có thải ra thì cũng chỉ còn làm được khăn lau bàn, giẻ rửa bát là cùng! Nhiều khi cũng thấy tủi thân. Nghĩ mà ứa nước mắt.
Tối đến, anh Thành bổ quả bòng chia cho mỗi đứa một phần.
Nải chuối cũng được cắt ra tính từng quả, thật công bằng, không đứa nào hơn kém đứa nào. Ai ăn hết thì thôi. Đứa nào để dành cũng tùy.
Tôi có đi đâu chơi bời được mà ăn cho vội.
Thằng Bền chén liền. Nhưng nó không thể ăn hết được ngay phần của mình. Anh Thành quấn vào ăn dỗ của nó. Còn phần của mình, anh ấy giấu vào khe đá đầu hồi nhà. Anh ấy hứa sẽ cõng thằng Bền vào Hệ Dưỡng cho cùng đi rước đèn và xem kịch. Thằng Bền hớn hở không đòi quần áo mới nữa. Không những thế, còn quả chuối, múi bòng nào nó đều đưa hết cho anh Thành ăn.
Có mấy đứa bạn gọi ở ngoài sân. Không kịp đóng chuồng gà, ngó qua con lợn, anh Thành vội cầm cây đèn con thỏ chạy tót ra với chúng bạn, quên khuấy lời hứa với thằng Bền. Nó bật gào khóc chạy đuổi theo gọi. Vướng hèm cửa nên không túm được áo anh Thành giữ lại, nó ngồi bệt xuống đất, tay chân cào đạp tứ tung.
Anh Thành mải chạy theo chúng bạn, nói vọng lại qua hơi thở:
- Mày ở nhà chơi với thằng Vững. Đi theo tao lội qua dòng nước thế nào được.
Tháng này, tuy con nước ròng nhưng chỗ đầu núi Ngang sang làng Hệ Dưỡng là quãng đồng trũng, đi qua lại phải lội bì bõm đến bụng chân người lớn. Đám trẻ em phải tụt quần lội qua.
Tôi bước lần ra ngồi dỗ thằng Bền mãi mà nó vẫn không thôi gào khóc. Không những thế, nó còn nằm bò ra đất ăn vạ. Tôi những tức anh Thành quá. Thà anh ấy đừng nói dối, mặc nó chơi từ chập tối thì đâu có đến nông nỗi này! Chắc nghe thấy tiếng khóc gào của thằng Bền, chị Nhàn chạy sang:
- Thế thằng Thành đâu rồi?
- Anh ấy mang đèn vào Hệ Dưỡng đi rước với đám thiếu nhi trong ấy rồi.
Tôi nói, lòng những ấm ức, suýt nữa thì cũng khóc òa. Chị Nhàn bế thốc thằng Bền lên:
- Thôi... Vững lên giường ngủ đi. Chị bế thằng Bền cho nó chơi rồi ngủ luôn ở bên nhà với chị.
Chị Nhàn đi rồi, tiếng thằng Bền khóc tỉ ti vẫn còn vọng lại.
* * * Thế là chỉ còn mỗi một mình tôi ở nhà. Ngoài trời trăng đã lên. Sáng quá. Bầu trời trong vắt, cao thẳm, dát vàng xuống mặt đất, ruộng đồng, núi non, làng xóm. ánh trăng hắt vào cửa nhà làm bừng sáng mọi chỗ. Làm sao mà tôi có thể lên giường đi ngủ ngay được. Tiếng trống ếch cà rùng, cà rùng từ trong làng Hệ Dưỡng vọng ra lúc rõ lúc mờ. Chắc anh Thành đang hớn hở đốt ngọn đèn dầu bằng cái lọ thuốc tây nút kín có sợi bấc, nhét vào đầu ống nứa tép trong mình cái lồng đèn con thỏ, hòa vào đoàn trẻ con rồng rắn cùng giơ cây đèn lên cao. Giờ này, lũ trẻ con xóm Núi Ngang vào đấy hết cả rồi nên im ắng một cách lạ lùng. Tôi thấy buồn buồn và cô quạnh quá.
Trăng sáng tỏ, bát ngát và dịu mát làm sao! Tôi lết chân bước ra hiên. Bầu trời cao vời vợi nên ánh trăng cứ huyền ảo, mộng mị một thứ ánh sáng dịu mắt và mơn trớn. Không gian thêm bao la. Cánh đồng lúa lên xanh nhấp nhô muôn lớp sóng tới chân núi Cháy. Còn dãy núi đá vôi trùng điệp như bức tường thành lúc này ẩn hiện bàng bạc tắm trong ánh trăng.
Tôi thẫn thờ đứng nhìn trời đất hồi lâu. Cứ thế cho đến khi mỏi chân, tôi ngồi bệt xuống thềm hiên trước cửa nhà. Con Vàng từ đâu đó ngoài chuồng lợn đi vào. Nó ngơ ngác nhìn tôi đang ngồi như một cái bóng. Không rõ nó có đoán biết được tâm trạng tôi lúc này hay không mà nó cứ ư ử trong họng như muốn nói điều gì đó. Quẩn quanh bên tôi một lúc rồi bỗng nó phốc vào nhà. Chẳng biết nó lục sục mò mẫm gì đấy hồi lâu. Lúc sau con Vàng tha ra túm chuối bốn quả đem lại chỗ tôi ngồi, nhả miệng để đấy. Nó hí hửng làm được một việc cho chủ, chiếu thẳng hai mắt nhìn tôi. Tôi kinh ngạc trước sự việc và ngỡ ngàng đối với "người bạn" thân yêu này. Sao nó tinh khôn đến thế? Thân tình đến thế?
- Vàng ơi... Mày đem cho tao đấy à?
Tôi khẽ thốt lên hỏi nó. Mà không biết tại sao tôi lại buột miệng hỏi con vật như thế. Con Vàng chẳng rõ có hiểu được câu hỏi của tôi hay không mà nó gật gật cái đầu, trong miệng ư ử, cái đuôi ngoáy tít.
Tôi cầm lấy túm chuối. Con Vàng đến khôn. Nó ngoạm vào cuộng chuối chứ không ngoạm vào quả. Nhìn túm chuối tôi mới ngẩn ra. Bốn quả chuối này là của anh Thành. Anh ấy giấu kín vào khe đá kia mà. Chắc là nó để ý nên mới biết. Tôi chống tay đứng dậy cầm lấy túm chuối cất đi. Ai lại ăn vụng phần của anh ấy. Con Vàng cuốn vào chân tôi ý không bằng lòng. Tôi vẫn nhẹ tay đập đập vào lưng nó:
- Đây là phần của anh Thành đấy. Mày không biết à? Tao không ăn vụng của anh ấy đâu.
Con Vàng sủa gâu gâu mấy tiếng. Nó vẫn bám theo tôi vào nhà. Tôi cất túm chuối đi cho anh Thành. Rồi lại lết chân bước ra thềm hiên trước cửa. Ngồi ngắm nhìn bâng quơ trời đất, núi non đồng ruộng được ánh trăng nhuộm cho cái màu thần thoại mà tôi mường tượng từ trong truyện cổ tích vẫn thường nghe ông ngoại kể. Con Vàng đành chịu. Nó lùng sục quanh nhà, chuồng gà, chuồng lợn như làm công việc thuộc bổn phận của mình - tên lính gác giữ nhà cho chủ. Nó ăng ẳng sủa chỗ này, góc kia như đánh tiếng đi tuần. Xong đâu đấy, nó lại quay vào nằm cạnh chỗ tôi ngồi.
Chợt có một con chuột đồng to bằng con chó con chưa mở mắt chạy vút ngang qua sân vào chỗ vại nước giáp chân núi. Tôi run bắn người, hốt hoảng. Gắng lấy hết sức bình sinh để tự chủ, xua đuổi sự sợ hãi đi. Chân què chạy trốn làm sao được. Con Vàng mắt tinh lắm, nó phốc đuổi theo liền. Nhưng không kịp rồi. Con chuột đen trũi đã kịp lẩn trốn thoát thân vào một khe núi nào đấy. Khi tôi hoàn hồn là lúc con Vàng sủa vuốt đuôi một cách giận dữ và bất lực. Tiếng sủa của nó đập vào vách núi vọng ra âm oang nhại lại nghe đến rùng rợn, cổ xưa, hoang hoải.
Cuối cùng, con Vàng cũng đành trở vào nằm xuống chỗ cũ bên cạnh tôi, miệng còn ư ử hậm hực. Tôi kéo cổ nó ôm vào lòng, vỗ về cho nó nguôi cơn bực tức, thân thiết như người bạn.
Trước đây tôi vốn đã thích con Vàng. Và bây giờ, cuộc sống càng gắn bó nó với tôi. Nó là người bạn trung thành và thủy chung nhất mực. Bất chợt tôi bỗng thèm muốn giá nó có thể biến ra người nhỉ? Nếu không được, thì cũng biết nói như người. Hẳn lúc này tôi sẽ sung sướng biết bao. Bởi được như thế, tôi sẽ không bị cô đơn nữa, có "người" để trò chuyện với nhau. Tôi sẽ chia sẻ nỗi buồn sâu kín trong lòng mình với nó. Tiếc thay, con Vàng chỉ là một con chó. Dẫu khôn đến mấy, nó cũng không thể nói được như người. Khiến tôi... những lúc như thế này, có miệng nói thành thừa, buộc phải câm lặng. Và như thế, một đứa trẻ hiếu động, mau mồm mau miệng như tôi làm sao mà chịu nổi. Tôi cứ vẩn vơ nghĩ ngợi. Cũng chẳng biết nghĩ ngợi gì. Buồn quá. Buồn đến ứa nước mắt.
Trăng đã lên qua khỏi bên sườn núi Ngang. Trăng tròn như quả bóng vàng au. Tôi man mác nhớ tới câu chuyện Chú Cuội ngồi gốc cây đa, bèn chăm chú nhìn lên Cung Quảng. Thử tìm xem lúc này Chú Cuội ngồi ở chỗ nào? Tìm mãi... tìm mãi cho đến mỏi mắt cũng chẳng thấy. Mặt trăng chỉ là một cái đĩa dát vàng lơ lửng giữa bầu trời. Nhưng tâm trí tôi vẫn cứ bị hút vào câu chuyện cổ tích. Để rồi đắm mình trong một giấc mơ. Có tiếng ai đó hát thoảng đến tai tôi, giọng con trẻ véo von vang lên giữa tĩnh mịch nghe sao mà lạc lõng, đơn điệu và thoáng buồn man mác:
Chú Cuội ngồi gốc cây đa Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời Cha còn cắt cỏ trên trời.
Mẹ thì cưỡi ngựa đi chơi thuyền rồng... Tôi ngoảnh nhìn đó đây mọi phía xem tiếng hát đó vang ra từ đâu. Trời đất quanh tôi lặng tờ. Rừng núi xóm làng mờ dần trong sương. Đêm thu. Trăng sáng đến lạnh lùng. Tôi bỗng thấy mình bé nhỏ quá, cô đơn quá.
Chợt có tiếng bước chân người lạo xạo giẫm trên đường đá đi về phía nhà tôi. Anh Thành đi rước đèn đã về ư? Không phải! Tôi bồi hồi chờ đợi. Cái Dung như từ trong ánh trăng, hệt như một cô tiên bé nhỏ xinh xắn và lộng lẫy, bước ra tiến lại chỗ tôi.
- Đằng ấy ngồi một mình ở nhà à?
Không hiểu sao tôi lại xịu mặt không nói gì. Cái Dung sướng thật. Nó vừa xinh xắn lại là con nhà giầu, được bố mẹ chiều chuộng ăn diện thỏa thích. Còn tôi... Tôi cũng là một đứa trẻ như nó. Vậy mà sao tôi... sao tôi... Tôi những nghẹn ngào, có cái gì nghẽn tắc ở cổ họng.
Cái Dung ngồi sụp xuống bên cạnh tôi:
- Sao... đằng ấy khóc à?
Tôi bỗng nấc lên như đứa trẻ tủi hờn với chị gái. Cái Dung quàng tay ôm tôi vỗ về:
- Thôi... nín đi! Tớ mang bánh dẻo cho đây này...
Nó dúi vào tay tôi gói bánh và kể lể:
- Mẹ tớ dẫn tớ vào trong Hệ Dưỡng ăn ở cỗ nhà một người cùng quê chạy tản cư vào đây. Chứ không, tớ đã sang chơi với đằng ấy từ chiều cơ.
Tôi nói trong tiếng nấc:
- Thế không xem rước đèn à?
- Không. Ăn cỗ xong là tớ đòi mẹ đi về. Lội sang núi ướt hết cả quần đây này.
Nói xong, cái Dung buông tôi ra, đứng dậy: - Tưởng đằng ấy đi ngủ nên tớ không mang xôi sang. Để tớ về lấy cho nhé.
- Tớ không ăn đâu - Tôi lắc đầu.
- Không. Xôi ngon lắm! Có cả thịt gà nữa...
Nó vụt chạy về nhà. Tiếng đá lạo xạo dưới chân. Tôi kéo vạt áo lên lau nước mắt. Nỗi buồn tủi dần dần tan biến. Cái Dung trở sang với gói xôi to tướng bọc lá chuối:
- Đằng ấy ăn đi này.
Tôi lắc đầu:
- Tớ không ăn thật mà. Bụng no rồi.
- Thế chiều nay đằng ấy ăn cơm với gì?
- Ăn với mắm cua.
- Vậy thì ăn thêm ít xôi với thịt gà đi. Ngon lắm cơ.
Tôi xua tay:
- Tớ chẳng ăn nữa đâu.
Thấy tôi dứt khoát. Cái Dung đành chịu, nó dỗ dành:
- Vậy tớ cất vào nhà để sáng mai đằng ấy ăn nhé?
Chẳng cần tôi có đồng ý hay không, cái Dung cứ mang gói xôi vào để trên phản. Khi quay ra nó bảo:
- Còn cái bánh dẻo thì đằng ấy ăn ngay vậy.
Rồi nó cứ bắt tôi phải ăn bằng được. Tôi dè dặt cắn một miếng bé. Chao ôi... ngon quá đi thôi. Mùi bột nếp thơm lựng, dẻo dẻo là. Nước miếng ứa ra đầy miệng. Cái Dung im lặng nhìn tôi ăn. Nó nghĩ gì? Nào tôi có biết. Rồi nó lên tiếng:
- Hôm nay mẹ con tớ gặp ông giáo Kỳ đấy.
- Thế hả?
Tôi ngước mắt nhìn nó, không biết thầy giáo Kỳ có còn nhớ tôi nữa không? Cái Dung kể cho tôi nghe mọi chuyện. Ông giáo Kỳ mời mẹ con nó vào nhà chơi. Nhà ông làm cỗ Trung thu to lắm. Hoa quả, bánh trái xếp đầy trên ban thờ. Ông giáo nói với mẹ nó nhiều chuyện lắm. Ông Kỳ khen nó viết chữ đẹp, chăm chỉ học tập ở lớp. Ông còn hỏi mẹ cái Dung có biết vì sao tôi bỏ học không. Mẹ nó liền kể mọi sự thể. Ông Kỳ ngồi ngẩn ra nghe. Ông cứ lắc đầu tràn:
- Nó là thằng bé học sáng dạ lắm - ông nói: - Thật là tội nghiệp cho thằng bé. Chứ nếu nó vẫn khỏe mạnh, được học hành thì sẽ tấn tới đấy.
Cuối cùng, cái Dung bảo:
- Ông giáo đưa tớ mang cái bánh dẻo về cho đằng ấy đấy.
Nghe cái Dung nói mà lòng tôi bỗng xốn xang một nỗi khát khao khó tả. Liệu đến bao giờ thì tôi chạy nhảy đi lại như chúng bạn để cùng cắp sách tới lớp học?
Sực nhớ ra điều gì, cái Dung reo to:
- À... Ông giáo Kỳ bảo tớ hỏi đằng ấy có còn nhớ mặt chữ, đọc sách được không?
- Để làm gì?
- Ông giáo sẽ cho đằng ấy mượn sách truyện mà đọc.
Tôi lắc đầu thất vọng:
- Nhưng tớ làm sao đi được vào trong làng?
Cái Dung hiểu ý tôi muốn nói, nó bật cười:
- Rõ ngốc! Tớ sẽ mượn mang về cho đằng ấy chứ.
Tôi ngồi ngẩn ra. Từ ngày ốm dậy, sao tôi không nghĩ tới chuyện học hành, đọc sách cho nó bớt buồn? Tôi đưa tay gãi gãi đầu:
- Ừ nhỉ. Nhưng chả biết bây giờ giở vở ra xem chữ tớ có còn nhớ hay không đây.
Tôi bèn bảo cái Dung vào lấy vở của anh Thành ra cho tôi xem thử. Chà khoái quá! Tôi vẫn còn nhớ mặt chữ, đọc lưu loát như trước có sướng không. Cái Dung nhìn tôi mỉm cười, lõm sâu má lúm đồng tiền trên má. Nhưng cả hai tay tôi cầm quyển vở cứ run run. Cái Dung bảo là không sao cả. Tôi có viết lách gì đâu mà lo. Cứ đặt sách xuống phản rồi lật từng trang ra mà đọc.
Đã khuya. Cái Dung ra về. Tôi cũng vào nhà, lên giường đi ngủ. Con Vàng sủa ông ổng phía ngoài chuồng lợn rồi vào nằm ở hiên trước cửa ra vào. Nó còn ư ử trong họng mấy tiếng nữa mới thôi. Nó thật là con vật mẫn cán với công việc thuộc bổn phận mà chủ nhà phó thác. ánh trăng hắt vào bừng sáng cả góc nhà. Tôi nằm thiu thiu đi vào giấc ngủ lúc nào không hay, ngon lành và thanh thản.
- Từ nãy đến giờ đã có đứa nào sắc nước trúc lịch cho nó uống chưa?
Mẹ tôi từ ngoài hiên bước vào, miệng lầu bầu gì đó, quẩn quanh trong nhà một tý rồi lại bước ra ngoài sân đến chỗ mấy người mà tôi chỉ nhìn thấy loáng thoáng, đương cưa mấy miếng gỗ, nện búa kỳ cạch.
Ông ngoại gắt lên:
- Ô hay... Mẹ thầy Thành lạ nhỉ! Thầy đã bảo là phải sắc nước trúc lịch cho nó uống thì mới hạ đờm thở hắt ra được chứ.
Sao tôi lại phải uống nước trúc lịch để thở hắt ra nhỉ? Và nước trúc lịch là thứ gì? Có giống nước thuốc bắc sắc trong ấm đất chắt ra từng bát mà tôi vẫn uống không?
- Đến khổ! Nó hành hạ người ta ròng rã hàng năm trời rồi còn gì...
Tôi nghe rõ tiếng mẹ nói nhấm nhẳng ở chỗ mấy người đang đóng "áo quan" vọng vào. Mấy người này cằn nhằn về những miếng gỗ đầu thừa đuôi thẹo mục mủn hết cả. Chắc mẹ tôi nhặt nhạnh ở đâu đó hoặc xin nhà hàng xóm. Rồi bà nói với họ:
- Thôi các bác ạ. Nhà có gì đóng nấy. Nó còn là trẻ con, đóng cái hòm bằng gỗ nào chả được, cốt cho kín. Chứ các bác cứ... - rồi bà oà khóc. - Rõ khốn khổ cho cái thân tôi!
Tôi có cảm giác ớn lạnh suốt dọc sống lưng. Ô kìa... sao lại đóng quan tài chôn tôi xuống đất?... Tôi mắc tội gì?... Tôi mắc tội gì mà đem chôn sống tôi?
Cha mẹ ơi, sao tôi lại không biết người chết chôn xuống đất là như thế nào. Tôi đã từng đi xem rất nhiều đám ma, tôi đã từng nhìn thấy những người đói lăn ra chết. Giờ tôi vẫn còn nhớ như in hồi bà ngoại qua đời. Lúc liệm bà ngoại vào quan tài, lũ cháu chắt lau nhau chúng tôi được vào tận nơi nhìn mặt bà lần cuối cùng.
Tôi không thể nào quên được cái cảm giác lúc đó. Tôi không nhận ra được mặt bà ngoại nữa. Bà ngoại khi còn sống mặt nom khác cơ.
Bà không ưa ba anh em chúng tôi. Vì lý do gì thì tôi chẳng biết. Song anh em tôi mỗi khi về quê ngoại là đều quấn lấy ông bà, thích thú và vui sướng. Vậy mà bà nằm bất động trên phản, tọp đi như thân cây cằn cỗi khô mốc, cong queo. Bà ngoại hoàn toàn thành người khác rồi. Thành thử tôi thấy rờn rợn. Sinh khí trong con người bà siêu thoát chỉ còn để lại một cái xác không, vô hồn, chẳng còn nổi nóng cáu gắt mỗi khi chúng tôi nô đùa nghịch ngợmnữa. Vậy mà tôi lại sợ. Sợ đến run cả người. Lũ cháu chắt đứa nào cũng lẩy bẩy vào ngó bà ngoại rồi ù té chạy ra bám vào người lớn.
Trống ngực đập thình thịch. Giờ tôi cũng giống như thế ư?
Cổ tôi đang bị mắc một cái gì đó ở trong ấy nên khó thở quá.
Tôi gắng lấy hết sức mình. Vẫn chỉ thấy tiếng khò khè, khò khè.
Bất lực, tôi đành nằm ì ra, nước mắt giàn giụa vì tủi thân. Rồi tôi lại lịm dần đi, thiêm thiếp mơ màng.
Có ai đó đưa thìa cạy miệng tôi mở ra, chiêu mấy cùi thìa nước cay cay. Cứ thế, đến vài ba lần. Tôi chẳng hay biết gì, nhưng do bản năng mà vẫn cố nuốt từng ngụm nước cay cay một cách khó nhọc. Quả nhiên, đám đờm tắc nghẽn ở cổ họng bị thứ nước âm ấm cay cay kia làm tan ra, rồi tuột xuống dạ dày. Vậy là tôi thở được liền. Tôi hít lấy hít để không khí vào lồng ngực. Bầu không khí như có phép lạ, như liều thuốc tiên, chui vào buồng phổi trong ngực tôi, vực sự sống đang hấp hối như đám lửa tàn sáng bừng lên. Để rồi tôi dần dần tỉnh táo lại.
Ông ngoại đương bước lại giường tôi nằm kia kìa. Tôi giương tròn đôi mắt nhìn ông. Ông ngoại không nói gì, lặng lẽ sờ vào cổ tay tôi xem mạch, bẹo bẹo vào bàn chân rồi lên hai cổ chân. Tôi không thấy có cảm giác gì, như chưa hề có ai bẹo cấu vào chân mình, nằm ì ra hệt cái xác không hồn, không sự sống.
Lúc quay trở ra cái phản mà ông ngoại vẫn ngồi, ông nói khe khẽ, như nói với chính mình, cho một mình nghe:
- Chết từ chân lên rồi...
Ông ngoại ngồi xuống phản, co chân lên xếp bằng tròn như cũ. Rồi ông kéo cái điếu bát lại gần chỗ mình, mồi thuốc, châm lửa hút. Cái điếu bát rít lên sòng sọc một tràng dài đanh tiếng. Nhả khói ra, ông lại ngồi im lặng, giống như pho tượng trong đền mà tôi đã nhìn thấy trong dịp đi hội Phủ Giầy. Tôi bắt đầu chết rồihay sao? Chết từ chân lên rồi! Nghe ông ngoại nói thế, tôi bèn thử co hai chân lại xem sao. Không tài nào nhúc nhích cử động được.
Hay là ngọ nguậy mấy ngón chân vậy. Cũng vẫn cứng đơ ra. Tôi chẳng hề thấy bất kỳ một thứ cảm giác nào từ hai bàn chân truyền lên cả. Chao ôi... khủng khiếp biết chừng nào! Tôi đang chết. Chết thật. Giống như bà ngoại mất rồi. Tôi bắt đầu đi vào cõi chết từ hai bàn chân thực rồi. Và lúc này, không hiểu sao tôi lại tỉnh táo đến vậy. Mọi việc xảy ra quanh mình ở trong cái nhà này, tôi đều nhận biết và phân biệt được một cách rõ rệt. Trí nhớ vụt lóe sáng khơi dậy tiềm thức trong tôi hiện ra trước mắt những gì mà trí khôn của một đứa trẻ lên tám chín tuổi ghi nhận được từ bấy lâu nay, cái lờ mờ phảng phất, cái đậm nét rõ ràng. Sự sống còn lại chút nào trong người tôi chợt bùng lên trong giây phút cuối cùng để rồi tắt ngấm chăng?
* * * Hẳn trời đã tối lắm rồi nên ánh sáng từ chiếc đèn hoa kỳ tỏa ra tù mù giống như ánh sáng phát ra từ bụng con đom đóm bay giữa ao bèo.
Trong nhà bỗng ồn ào. Tôi cố ngoái đầu nhìn ra. Anh Thành và thằng Bền vào trong làng Hệ Dưỡng vừa về đang rối rít khoe ông ngoại gói xôi của nhà cô Thắm gửi biếu. Chắc nhà cô Thắm đồ xôi thắp hương vào ngày mồng Một đầu tháng đây. Gia đình tôi thường qua lại nhà cô vì cô là cán bộ đoàn thể của xã. Cha tôi làm cán bộ kháng chiến hoạt động ở vùng này nên mới đưa mẹ con tôi từ quê ngoại tản cư vào đây.
Nghe nói có xôi, tự dưng tôi thấy đói và thèm ăn đến thế. Rõ ràng gần một năm trời ốm đau tôi không hề muốn ăn một thứ gì.
Mỗi ngày chỉ cố nuốt mấy thìa nước cháo. Có lẽ sự sống kéo dài được như vậy chắc chắn là nhờ thuốc bắc. Tôi uống liên tục như uống nước vối. Giờ bỗng tôi lại thấy đói có kỳ không? Tôi gắng sức vươn cánh tay gầy guộc hệt hai đoạn nứa tép nối với nhau chơi vơi trong không gian, xòe năm ngón tay xương xẩu ra xin:
- Anh Thành ơi... cho em ăn xôi với!
Mẹ tôi ở ngoài sân bước vào nghe thấy vậy, liền gắt:
- Sắp chết mà vẫn còn đòi ăn à?
Như chạm phải lửa, tôi co giật cánh tay gày guộc đang chới với của mình vào, rã rời tự nó rơi bộp xuống giường. Trái tim tôi như có sợi dây thắt chặt lại, nhói đau, tủi hờn. Tôi quay mặt vào bức vách, mặc kệ cho nước mắt ứa ra giàn giụa.
Chợt có tiếng ông ngoại quát:
- Mẹ thằng Thành nói với con như vậy hả?
Rồi ông dịu giọng:
- Cháu Thành của ông đâu rồi nào?
- Dạ cháu ở đây... - anh Thành từ ngoài hiên bước vào.
- Cháu đem xôi vào cho em Vững ăn đi.
- Eo! Em Vững sắp chết rồi ông ạ.
- Thì cháu cứ đem vào cho em nó ăn với, kẻo tội.
- ứ...
Thành đứng tần ngần. Từ bé anh ấy vốn đã có tính ăn tham.
Mẹ tôi vẫn thường nhắc lại chuyện hồi anh Thành mới lên bốn.
Một hôm ăn cơm, mâm cơm chỉ có một đĩa con thịt rang. Bố tôi thò đũa gắp một miếng. Thành nhìn thấy òa lên khóc liền, miệng gào thét lên:
- "Giả thịt con đây, giả thịt con đây!..."
- Mang vào cho em ăn đi chứ! - Ông ngoại lại giục.
Anh Thành vẫn cứ đứng tần ngần. Thằng Bền thấy thế liền chạy vào giơ nắm xôi trước mặt:
- Ông ơi! Cháu cho anh Vững nắm xôi của cháu nhé.
Vậy là anh Thành được gỡ bí, nhảy tót ra ngoài hiên. Nói rồi thằng Bền chạy lon ton tới bên giường tôi. Nó mới hơn năm tuổi nên chưa thể biết chuyện tôi đang chết dần từ chân lên sẽ ra làm sao. Bởi thế nó đâu có sợ. Nó lay người tôi, miệng reo to:
- Anh Vững ơi, dậy ăn xôi này...
Thằng Bền dúi vào tay tôi nắm xôi. Tôi không thể nào cựa quậy để nhấc mình ngồi lên được. Hai chân tôi lúc này như đôi ống giang, cứng đờ, nặng trịch, không chút cảm giác. Tôi nằm ngửa và nhét từng dúm xôi vào miệng, nhai ngấu nghiến đến ngon lành.
Thằng Bền ngó gần sát xem tôi ăn xôi một lúc rồi chạy ra ngoài hiên khoe:
- Mẹ ơi!... Anh Vững ăn xôi ngon lắm!
Mẹ tôi đang mải giần gạo, không rõ nói với nó hay nói với ai:
- Chắc ăn giả bữa rồi chết thôi.
Tôi mải ăn nên không bận lòng đến những lời nói đó. Xôi ngon thật. Tôi chưa bao giờ thấy thòm thèm như lúc này.
Ông ngoại vẫn ngồi xếp bằng tròn thu lu trên phản. ánh đèn dầu lù mù nên nhìn ông như một cái bóng đen sẫm, lù lù.
No bụng, trong người tôi cảm thấy dễ chịu lạ thường. Thằng Bền lại vào leo lên giường, ngồi với tôi. Đến khi mẹ tôi trông thấy, bà quát luôn:
- Bền! Có ra ngoài đi không? Mày muốn lây bệnh chết theo nó à?
Giật mình, thằng Bền ngó lại vào mặt tôi, tò mò, khó hiểu. Tôi vẫn nằm im trước mặt nó đây. Tôi là anh nó, vẫn thường cõng nó đi chơi dạo nào. Vậy mà ngồi với tôi sẽ lây bệnh chết theo. Người ta sẽ mang ra chôn ở ngoài bãi tha ma. Ma là gì nhỉ? Thằng Bền nào có biết. Nhưng mỗi khi người ta dứ ma là nó sợ. Nó hình dung ma là con vật quái dị và độc ác lắm. Hẳn vì thế mà hễ trẻ con hờn quấy là các bà mẹ, bà chị ẵm trẻ con đều lấy ma ra để dọa.
Như vậy thì anh Vững của nó sẽ thành ma. Ai chết mà chả hóa ra ma. Thế thì khiếp quá! Nghĩ sao đó bỗng nó nhìn tôi chằm chằm, lùi đít ra mép giường, tụt xuống. Vẫn không rời mắt nhìn tôi, đi giật lùi. Như gặp quái vật, đứa trẻ vừa nhìn thẳng sợ hãi đón chờ tai họa, vừa lùi bước tìm đường thoát thân. Gần đến cửa, nó ù té quay ra ôm chầm lấy mẹ tôi, hoảng hốt và kinh hãi.
Tôi vẫn cứ nằm ngửa, duỗi thẳng hai chân cứng nhắc, giá lạnh không còn thấy cảm giác gì nữa, nhìn lên mái nhà tối om.
Không rõ giấc ngủ kéo đến hay là tôi lại thiếp lịm đi, hay là đích thị Tử Thần đã hiện ra lấn dần từng bước. Khi đã cướp xong đôi chân, liền bắt đầu nuốt tới phần thân xác tôi vào miệng Cái Chết.
Toàn thân tôi chợt nhẹ bẫng. Tôi có cảm giác như mình đang bồng bềnh trôi nổi chơi vơi giữa khoảng không. Tôi chết thật đến nơi rồi.
Tiếng búa đóng đanh ghép quan tài cành cạch ở ngoài sân vọng vào như tiếng mõ ngoài chùa, mờ tỏ, huyền hoặc, xa xôi, hư ảo. Tôi nào có hay biết gì đâu. Thân xác hay linh hồn tôi bay bổng, lượn lờ. Ngọn đèn dầu để giữa phản nơi ông ngoại đang ngồi, ai đó hay chính ông ngoại đã vặn nhỏ lại, đốm lửa bé bằng hạt đỗ xanh tỏa thứ ánh sáng lờ mờ nhợt nhạt, khiến cho không gian trong nhà nhập nhoạng, tối tăm.
Ngoài trời, gió ào ào về từng đợt từng đợt, đập vào vách núi Ngang, lật những tấm gianh lợp trên mái nhà chốc chốc lại loạt xoạt.
Đêm Cả vùng núi đá vôi chìm vào đêm tối, tĩnh mịch, thẳm sâu, hoang dã, chứa chất bao điều bí ẩn. Đúng như trong các truyện cổ tích mà lũ trẻ con chúng tôi vẫn thường nghe ông ngoại kể vào những buổi tối có trăng trong những dịp hè về thăm quê hàng năm.
Tôi đang trong giây phút "ra đi" về nơi thiên cổ nên không thấy có một ai vào với tôi nữa. Mọi người đều đã lên giường đi ngủ cả rồi. Chỉ có mình ông ngoại là vẫn còn thức, cứ ngồi thu lu trên phản như cái cây già cỗi ủ rũ chờ ngày tàn lụi hẳn. Ông ngoại đã ngoài sáu mươi tuổi rồi. Vóc người vốn nhỏ nhắn, về già càng tọp đi, gân guốc và khắc khổ. Vốn là một nhà nho hay chữ trong làng nên có đọc một số sách thuốc. Ông không làm thầy lang kiếm tiền, nhưng bà con họ hàng hay láng giềng có người nào đau ốm đến nhờ cậy, ông sẵn lòng đến thăm con bệnh, bắt mạch kê đơn cho họ đi cắt thuốc. Hẳn lúc này, trước tính mạng đứa cháu ngoại mà phải chịu bó tay buông cho Tử Thần cướp nó đi thì lòng ông đau đớn lắm.
Ông ngoại vẫn cứ ngồi lặng thầm suy tư trong bóng tối. Là người có đông con, lắm cháu. Nhưng trong thâm tâm, ông ngoại dành tình yêu thương cho người con gái thứ năm này. Bởi trong số những đứa con kể từ các con vợ cả đến các con vợ ba, nó là người chất phác thật thà. Năm nó mười tám tuổi, ông cho con gái đi lấy chồng. Chàng rể quê ở mãi ngoài tỉnh Hà Đông. Nhà nghèo phải đi kiếm sống từ thuở mười lăm, mười sáu. Ông thuận ưng, thậm chí còn giấu vợ cùng các con mình, giúi tiền cho chàng rể tương lai lo đồ sính lễ. Ơn trời nó là một trong những chàng rể tốt nhất trong số các con rể của ông, lại là người lanh lợi, có chí tiến thủ nên ăn ở trong họ ngoài làng ai ai cũng yêu thương quý mến.
Ông những mừng. Tuy nhiên cũng phải nói thật, hồi vợ ông còn sống, bà ấy thương con gái theo cái kiểu đàn bà nhà quê, mắt chưa bao giờ nhìn vượt khỏi cái bờ dậu cúc tần nhà mình. Thấy cây mà chẳng thấy rừng. Chỉ ham cho con vào những nhà có của. Nên bà ấy chê thằng chồng nó nghèo, đối xử có phần tệ bạc với con. Giờ con rể ông theo cách mạng, làm cán bộ thoát ly hoạt động cho kháng chiến. Con gái ông ở nhà một nách ba đứa con mọn. Ông không lưu tâm chăm nom con cháu sao được. Hơn nữa, ba đứa cháu ngoại này đều được sinh ra và lớn lên trên quê mẹ nó nên ông biết rõ từng đứa. Bởi vậy, khi nghe tin thằng Vững ốm, tuy người đang mệt, ông vẫn bắt thằng Tùng với con Thảo (là những người con còn đang sống với ông) võng vào thăm bệnh cho cháu.
Nó là đứa khôi ngô linh lợi nhất trong ba thằng cháu ngoại này.
Giờ ông đành chịu bó tay... Như thế có nghĩa là bất lực đứng nhìn thằng cháu chết. Nó mà chết thật thì chắc chắn, ông sẽ buồn lòng rồi không khéo chết theo cháu cũng nên. Ông ngoại vẫn còn ngồi lặng người như chìm vào bóng tối, suy ngẫm một mình. Ông những giận con gái. ừ thì cái chuyện con cái nó ốm đau ròng rã một năm trời, chạy chữa thuốc men mất đứt đi mấy lứa lợn thật. Thời buổi chiến tranh loạn lạc làm ăn kiếm ra đồng bạc nào có dễ, lại còn phải chăm sóc đứa trẻ đau ốm, hờn quấy cũng vất vả mà vẫn không cứu chữa nổi, ai chả xót thương.
Nhiều khi cáu bẳn. Chẳng những thế, nó lại là đứa con nuôi. Con nuôi nhưng lại còn hơn con đẻ. Bởi bố mẹ nó đều đi làm cách mạng, sinh con trong nhà tù. Ngày Việt Minh cướp chính quyền đã kịp thời chiếm ngay nhà giam, giải thoát được hai mẹ con. Nhưng chẳng bao lâu thì người mẹ qua đời bởi kiệt sức. Bố thằng bé thì bị giặc đầy đi Côn Đảo không biết sống chết ra sao. Là bạn cùng hoạt động, con rể ông đã nhận đứa bé về, thuyết phục vợ nuôi. Âu cũng là cái số kiếp nó vào nhờ cậy cửa nhà mình. Chẳng lộc của thì cũng lộc con trời cho. Quả nhiên con gái ông đẻ sòn sòn, toàn con trai cả.
Thằng Vững lớn lên sống hòa mình với lũ cháu ông, không một ai trong nhà được phép cho nó biết sự thật. Và rồi "bố mẹ" cũng như chú bác, cậu dì không hề bận tâm tới tông tích nó nữa, coi nó đích thị là con đẻ, cháu ruột của mình. Vậy đã thương thì thương cho trót. Đằng này... Giờ nó sắp chết rồi. Đạo lý của người làm cha làm mẹ sống ở đời sao lại nỡ nói năng cay nghiệt với con cái thế? Mà nào nó có làm nên tội tình gì. Nay ông trời bắt nó "đi" về với bố mẹ nó nơi "chín suối", đành phải cắn răng chịu đựng chứ biết làm sao.
Ngẫm ngợi gì đấy, chợt ông lắc đầu lẩm bẩm một mình: "Nó cạn nghĩ như mẹ nó ngày xưa vậy. Thương chồng thương con nhưng thiển cận và xốc nổi quá!".
Đêm chuyển dần về sáng. ở vùng núi, mùa hè cũng vậy, đêm bao giờ cũng lành lạnh. Thức mãi chắc là mệt mỏi lắm rồi. Ông ngoại vặn ngọn đèn dầu cho đốm lửa đều bấc to lên, ánh sáng bừng thêm một chút. Ông khẽ lần bước đến giường tôi nằm, đưa tay lên sờ nắn khắp người thằng cháu bé bỏng đã bén sâu vào lòng yêu thương của ông. "Không lẽ nó lại chết ư?" Thoáng trong đầu ông câu hỏi. Ông đứng lặng yên nhìn tôi hồi lâu. Không nói gì. Rồi ông lặng lẽ quay ra, thu dọn điếu bát, ấm tích và đĩa chén, lấy cái gối mây đặt xuống phản ngả lưng nằm.
Ngọn đèn dầu lẫn vào bóng đêm bởi đốm lửa ở đầu bấc chỉ còn bé tí nhờ nhờ xanh xanh như ánh lân tinh ngoài bãi tha ma.
Chỉ có gió là không ngủ, vẫn thức đập vào chái hồi, đập vào vách núi hun hút, loạt xoạt.
Rõ ràng là tôi không chết nên mọi sự việc đều được lưu giữ trong trí nhớ. Sự sống trong con người tôi chỉ còn thoi thóp ở trái tim bé nhỏ, yếu đuối. Thỉnh thoảng nó mới gắng gõ một nhịp đến là khó khăn, cố sức đẩy chút máu có trong cơ thể lên nuôi bộ óc. Để tôi có thể sống trong một giấc mơ kỳ lạ và khó hiểu. Cho đến bây giờ tôi vẫn không hay biết một tí gì về sự thật con người tôi. Mới tám chín tuổi đầu, tâm hồn còn thơ trẻ nên tôi không hề bận tâm về bất cứ một sự bí ẩn nào. Tôi đinh ninh mình được sống trong gia đình với bố mẹ và anh em ấm êm, hòa thuận như bất kỳ một đứa trẻ nào. Đến tuổi học hành được cắp sách đến trường.
Gia đình tôi vốn làm ăn sinh sống ở thị xã Ninh Bình. Sau mấy lần chạy tản cư loanh quanh, luẩn quẩn. Gồng gánh chạy ra vùng Thượng Đồng, rồi lại bồng bế nhau đi vào thị trấn Cầu Cừ tỉnh Thanh Hóa. ở đó không được bao lâu lại trở ra làng Bộ Đầu giáp cầu Yên là quê mẹ tôi. Mẹ tôi thôi không bán thuốc lào mà chuyển sang mở hàng xén bán ở phố ga Cầu Yên. Phố ga khá đông vui, chạy từ mố cầu phía nam vào tới khu nhà ga hỏa xa, phải tới hơn cây số. Bên kia đường sắt là cánh đồng chiêm bao bọc lấy làng Đông Trang. Bên này đường nhựa là nhà cửa, phố xá với đủ các hàng quán, cửa hiệu, đằng sau liền với làng Bộ Đầu. Ông ngoại tôi cũng có một ngôi nhà ngói hai gian ở mặt phố.
Giặc Pháp chiếm đóng dưới Phát Diệm, xây bốt ở núi Sậu, thỉnh thoảng lại đi càn quét quanh vùng, cướp bóc của cải, gạo thóc, trâu bò gà lợn và phá phong trào du kích, hoặc câu đại bác lên vùng ven thị xã Ninh Bình. Mà quê ngoại tôi cách thị xã có năm sáu cây số là cùng. Nếu tính theo đường chim bay thì còn ngắn hơn nhiều. Thành thử lắm khi đạn lạc xuống. Đã có mấy nhà ở dãy phố Cầu Yên trúng đạn rồi. Mẹ tôi mới đành đưa gia đình vào ở núi Ngang thuộc xứ đạo Hệ Dưỡng để tránh bom đạn. Cũng có nhiều gia đình ở phố Cầu Yên chạy vào. Đông vui và thành xóm Núi Ngang. Xóm Núi Ngang nhà nào cũng dựng một đầu hồi nhà áp sát vách núi để tiện khi tàu bay Pháp có đến oanh tạc thì chạy vào hang ẩn nấp cho nhanh. Đầu hồi kia chĩa ra phía cánh đồng chiêm trũng.
Những đứa trẻ lớn bằng tôi trở lên đều đi học. Vào học tận trong làng Hệ Dưỡng ấy. Lớp học mở ở chùa của dân bên "đời" dựng dưới chân núi giáp làng. Từ ngôi chùa đến nhà thờ xứ đạo cũng rất gần.
Thầy giáo dạy tôi là một ông y tá đã ngoài bốn mươi tuổi, tên là Kỳ. Không rõ vì lý do gì mà ông bỏ nhà thương trên thị xã Ninh Bình về làng sống với vợ con. Đoàn thể mời ông ra dạy đám trẻ con học chữ.
Tôi là đứa học trò chăm chỉ và cũng sáng dạ nên được thầy giáo yêu mến. Một hôm vào nhà ông chơi, thấy có nhiều sách xếp đứng thành từng hàng để trong tủ, tôi bèn hỏi:
- Bẩm thầy... thầy có các quyển sách gì để trong tủ kia ạ?
Ông giáo Kỳ tròn mắt nhìn tôi. Có lẽ vì ngạc nhiên lắm, bởi đám học trò ông dạy đều là những đứa trẻ tinh nghịch, mải nô đùa hơn là phải ngồi làm tính, viết tập thật nắn nót từng chữ, từng dòng, càng ngại viết ám tả và rất sợ làm tập làm văn, chứ đừng nói gì đến chuyện buộc chúng nó ngồi một chỗ đọc sách.
Tôi run lẩy bẩy, khoanh hai tay trước ngực đứng thẳng người y như một đứa học trò đứng chịu lỗi trước mặt thầy giáo. Bởi tôi ngỡ ông phật lòng, khó chịu vì sự tò mò của tôi. Đến khi những nét nhăn trên mặt ông Kỳ dãn ra, ánh mắt dịu đi, nheo nheo như cười, tôi mới hoàn hồn. Ông Kỳ hào hứng:
- Toàn sách truyện cả đấy, con ạ! Con có muốn đọc truyện không?
- Bẩm thầy... có ạ!
Ông Kỳ lấy làm thích thú bởi ít có người mượn sách của ông để đọc. Dân quê, dường như cả làng chỉ có vài ba người biết chữ quốc ngữ là cùng. Còn đám quan viên, hào lý trong làng chỉ biết độc có mỗi chữ Nho thôi. Nhưng cái thứ Hán tự này xem ra học cũng khó vào nên có người đọc viết được, có người chỉ đọc được thôi, hiểu nghĩa lơ mơ lắm. Ông lần trong túi áo lấy ra chùm chìa khóa, chọn chìa rồi mở tủ. Nom ông đứng nghiêng nghiêng cái đầu ngó nhìn khắp lượt các hàng sách, đến điệu. Dáng vẻ hào hoa lịch lãm người thành phố có học chứ không nghiêm nghị khó tính như ông thầy đồ dạy tôi học chữ Thánh Hiền ở làng Bộ Đầu. Sau một lúc lựa chọn, ông vạch hàng sách rút ra một quyển, quay lại đưa cho tôi:
- Thầy cho con mượn quyển này. Phải giữ gìn sách cẩn thận đấy. Thấy không, sách của thầy vẫn còn mới nguyên. Khi nào đọc xong thì trả, không được chuyền tay người khác làm bẩn sách. Rồi thầy sẽ cho con mượn tiếp quyển khác.
Mắt tôi sáng lên, hai tay run run đón lấy cuốn sách. Tôi đứng ngây ra ngắm nghía cái bìa có hình người đàn bà ăn vận kiểu ám tả: Bây giờ gọi là môn chính tả. Quần áo thuở xưa, phía sau thấp thoáng có bóng núi xa mờ. Lần đầu tiên trong đời một đứa trẻ tôi được nhìn thấy quyển sách truyện. Và quyển truyện trong tay tôi mới đẹp làm sao! Tâm trí tôi cuốn hút vào bức tranh in ở bìa. Trông hệt người thật. Ai đó vẽ được như thế này thì thật là kỳ tài quá. Và cũng là lần đầu tiên trong đời tôi cảm nhận thấy con người có thể làm được cho mình nhiều thứ đồ dùng tuyệt mỹ, như cuốn sách này chẳng hạn.
Ông giáo Kỳ nói người ta in trong sách bao chuyện. Cả những chuyện cổ tích mà ông ngoại kể cũng có in trong sách. Đọc sách là cách mở mang kiến thức và còn "sống" được nhiều hơn so với những người cả đời không biết một cuốn truyện là gì. Cuối cùng, ông giáo nói với tôi:
- Thôi... cứ thế nhá. Con mang sách về mà đọc.
Tôi chợt bừng tỉnh, ngẩng đầu nhìn ông với nỗi niềm hân hoan, miệng lắp bắp:
- Cho con mượn thầy đem về nhà đọc ạ!
Nói rồi tôi nhảy tót qua cửa, vọt ra sân, quên cả chào thầy.
Ông Kỳ nói với theo:
- Nhớ giữ gìn sách cho sạch sẽ nghe con...
Về nhà, tôi leo lên hang đá giở cuốn truyện ra đọc. Đây là quyển truyện "Chàng rể cóc" viết bằng văn vần. Câu chuyện cổ tích này làm cho tôi xúc động đến khó tả. Tâm hồn thơ bé trong tôi đinh ninh tin là cuộc đời có thật câu chuyện xảy ra như thế. Nhiều buổi chiều nằm dài trong hang đá bởi chẳng biết chơi trò gì và cũng không có chỗ nào nô đùa, tôi những miên man với bao ý nghĩ.
Tâm hồn như phiêu diêu, bồng bềnh mường tượng ra trong óc cảnh sống thuở "ngày xửa ngày xưa" nào đó. Để rồi chính những điều mình tưởng tượng nghĩ ra lại hấp dẫn cuốn hút tâm trí mình. Tôi đâm ra mê đọc truyện. Truyện nào cũng đọc. Còn ông giáo Kỳ thì lấy làm vui thích có đứa học trò ham đọc sách.
Ban đầu ông giáo cho tôi đọc "Chàng rể cóc", tiếp tới truyện "Thạch Sanh", truyện "Tấm Cám". Rồi đến "Tống Trân - Cúc Hoa", "Nhị độ mai", "Cung oán ngâm khúc", "Truyện Kiều"... Cuối cùng thì đủ loại: "Chinh đông, chinh tây", "Tam quốc", "Thủy hử", "Đông chu liệt quốc", "Tây du ký", "Đôi lứa xứng đôi", "Bỉ vỏ"... Rất nhiều. Cứ đọc xong một quyển, đến lớp, ông thầy lại bắt tôi kể lại cho chúng bạn nghe. Ban đầu thì có run run, ấp úng. Dần dần thành quen nên tôi kể chuyện ngày càng lưu loát, mạch lạc. Ông giáo Kỳ đứng tựa lưng vào cửa lớp học nhìn tôi, thỉnh thoảng lại gật gù.
Rồi ông còn nói cho tôi nghe những điều hay dở của cuốn truyện mà ông lấy làm tâm đắc. Ông giáo còn ngạc nhiên trước sự đọc sách nhanh của tôi. Có lần hôm trước mượn sách, hôm sau đến lớp học tôi đã mang trả. Ông hỏi:
- Thế con không thích đọc quyển truyện này à?
- Thưa thầy, con đọc xong rồi ạ.
Ông giáo trố mắt ra nhìn tôi đăm đắm:
- Con đọc xong rồi? Thế về nhà con không đi chơi à?
- Trình thầy ở xóm Núi Ngang chúng con chả có chỗ nào mà nô đùa cả. Leo trèo mãi lên núi cũng chán lắm, chui rúc mãi trong các hang đá cũng buồn. Con chỉ ngồi đọc sách thôi. Buổi tối, đám trẻ con xóm Núi Ngang thường rủ nhau tụ tập ngồi chơi ở cửa hang. Chúng tôi nặn những con vịt, con ngan bằng đất rỗng bụng, khoét một lỗ nhỏ ở ngang sườn bên này, hai lỗ nhỏ ở ngang sườn bên kia, phơi khô thổi thành tiếng như tiếng tù và nghe buồn buồn, nhất là khi tiếng núi vẳng âm trở lại. Thổi như thế mãi cũng chán. Chúng nó quay ra bắt tôi kể chuyện. Rồi thành quen, thành lệ.
Mỗi lần kể cho chúng bạn nghe những chuyện đã đọc ở trong sách, tâm hồn tôi như hòa nhập vào các nhân vật đó, vừa thơ ngây con trẻ, vừa ngộ nghĩnh hồn nhiên. Đám bạn quây quần quanh tôi lắng nghe, nhiều đứa há hốc mồm, đôi lúc bật cười thích thú...
Vậy mà tôi đã ốm liệt giường một năm nay rồi. Chết đi sống lại đến mấy lần. Đám bạn xóm Núi Ngang đâu cả? Bố mẹ, anh em tôi đâu cả? Ông giáo Kỳ ở đâu? Cả ông ngoại tôi nữa kìa. Ông đi đâu rồi? Sao chỉ có mình tôi... chỉ có một mình tôi lạc giữa cánh rừng ma thiêng nước độc hoang vắng, cổ xưa thế này? Ô kìa... đàn voi từ rừng già Châu Phi kéo nhau tới kìa. ại... con cọp từ trong truyện Thủy Hử nhảy chồm ra kìa. Trời đất ơi! Đây mới khiếp chứ, con Trăn tinh từ trong miếu thần trườn đến nhe cái miệng đầy răng nuốt chàng Thạch Sanh... Có một cái gì, như một bàn tay khổng lồ giữ lấy tôi, như có tảng đá đè nặng trên ngực không thể cựa quậy, không thể thốt lên thành tiếng kêu cứu. Tôi có cảm giác run bắn, co rúm người lại như sắp chết đến nơi. Tôi nhắm nghiền mắt lại không dám nhìn những con quái vật trước mặt nữa. Khi tôi mở mắt ra, những con quái vật biến hết sạch. Hoàn hồn. Tôi ngơ ngác giữa rừng xanh hoang dã. Chợt Bụt hiện lên kia kìa. Bụt giống ông ngoại như hệt. Bụt cất tiếng nói hẳn hoi. Tiếng Bụt thoảng trong thinh không, nhẹ như gió thoảng: "Tấm ơi... con đừng khóc nữa..." Bụt tới xoa tay vào trán tôi, đưa cho tôi uống bát nước vối đen đen: "Thuốc tiên cứu con sống lại đấy, con ạ!" Tôi gắng sức há miệng uống bát thuốc tiên Bụt mang tới. "Thôi... được rồi. Con nằm yên ngủ đi. Tử Thần sẽ bị đuổi ra khỏi người con, sự sống sẽ dần dần hồi sinh..." Khi tôi tỉnh giấc thì trời đã sáng bảnh mắt rồi.
Tôi mở to hai mắt nhìn thao láo lên nóc nhà. Trong người nhẹ nhõm, đầu óc tỉnh táo đến mức tôi tưởng như mình vẫn khỏe khoắn, chưa bao giờ bị ốm liệt giường, sống bình thường như anh Thành, thằng Bền, như mọi đứa trẻ khác. Tôi nghe rất rõ tiếng cậu Tùng và dì Thảo, chắc ngủ nhờ bên nhà hàng xóm đêm qua đã về, đang rì rầm nói chuyện với nhau ở ngoài sân:
- Chắc thằng Vững chết rồi hay sao mà im lặng quá thế này?
Dì Thảo sụt sùi khóc:
- Cháu Vững ơi... sao cháu nỡ vội bỏ ông bà, bố mẹ, cậu dì, bỏ anh em mà đi hả cháu? Cháu có biết dì võng ông vào thuốc thang cứu chữa cháu không?
Cậu Tùng nói khe khẽ:
- Thì hãy cứ vào nhà xem sự thể nó ra sao đã nào.
Ông ngoại tề chỉnh áo quần, đầu chít khăn voan màu tím thẫm gọn thành từng vòng như khăn xếp, ngồi xếp chân bằng tròn, uống nước ở phản giữa nhà từ bao giờ. Thấy mẹ tôi từ buồng giáp hang núi đi ra, ông bảo:
- Mẹ thằng Thành thử ngó xem thằng Vững nó thế nào?
Mẹ tôi giật bắn người:
- Khiếp! Con sợ lắm! Thôi... đằng nào thì cũng để tí nữa chú Thìn với các cậu các dì về đông đủ - Bà bước ra cửa: - Ôi... cậu Tùng, dì Thảo dậy sớm thế?
Dì Thảo mếu máo hỏi mẹ tôi:
- Liệu cháu Vững nó có còn sống không hả chị?
- Dì vào giường nó xem hộ tôi một cái.
Cậu Tùng bước lên hiên càu nhàu:
- Chị đến thật là... đã coi là con cháu trong nhà mà còn sợ à?
Thằng Bền cũng thức giấc từ lúc nào không hay. Nó chạy vàogiường với tôi:
- Anh Vững ơi...
Vừa gọi nó vừa lay người tôi. Tôi quay mặt ra nhìn nó. Nó ấp úng hỏi:
- Anh còn sống à?
Tôi mở to mắt ra nhìn nó trước câu hỏi. Ô hay... sao thằng Bền lại hỏi tôi thế? Tôi có chết đâu, vẫn sống đấy chứ. Lạ nhỉ. Tôi chết làm sao được. Tôi là thằng bé khỏe mạnh nhất nhà. Năm lên bảy tuổi tôi từng vật anh Thành ngã chổng kềnh, suýt va đầu vào cái cối đá ở nhà cậu Hảo, có cậu Phùng - con út của ông ngoại trạc tuổi anh Thành - làm chứng. Chứ không thì tôi bị một trận đòn nên thân vì tội dám đánh anh. Thằng Bền tụt xuống giường chạy ra khoe với ông ngoại:
- Ông ơi! Anh Vững còn sống kia kìa...
Ông ngoại gật gật đầu, gương mặt bừng sáng như một người thành đạt sau một cuộc thi căng thẳng đã vượt qua được mọi khó khăn, đã tìm gỡ được mối hóc hiểm để giải trình câu hỏi của giám khảo. ở đây, rõ ràng còn hơn cuộc thi. Bởi vật nhau với cái chết, giữ lại sự sống cho tôi mới thật sự là khó khăn và hóc hiểm, những tưởng phải chịu bó tay.
Vừa lúc cậu Tùng bước vào nhà:
- Cháu Vững sống lại rồi hả thầy?
- ừ!
Ông ngoại gật đầu, chỉ "ừ" một tiếng gọn không, sảng khoái, rồi kéo cái điếu bát lại gần, so xe điếu, mồi thuốc vào, chờ cậu Tùng lấy đóm châm lửa cho ông hút thuốc. Ông ngoại nói, giọng nhỏ nhẹ:
- Đêm qua thầy ngồi ngẫm nghĩ mãi. Không có nhẽ mình chịu bó tay để cháu nó chết. Thầy liều cho nó uống một chén thuốc tự mình sắc lấy. Lúc bấy giờ đã quá đêm rồi. Nếu nó uống chén thuốc này mà không bị "công", tâm lực chịu đựng nổi thì dứt khoát sống. Còn bằng không... thì chết luôn...
Đón que đóm bén lửa, ông ngoại đưa xe điếu vào miệng. Cái điếu bát kêu réo lên sòng sọc. Ông nhả khói, lấy làm khoan khoái, rồi nói tiếp:
- Thằng bé quả là đứa chịu khó uống thuốc. Nó cũng biết sợ chết chứ cứ gì người lớn. Thầy bảo: "Cháu ngoan của ông cố sức uống chén thuốc này nhé. Uống xong là sẽ khỏi bệnh, không thể chết được. Chịu khó nào. Rồi chóng khỏe ra ở với ông. Ông sẽ kể cho cháu nghe nhiều chuyện cổ tích". Nó nửa mê nửa tỉnh nhưng vẫn cố ngóc đầu lên cho thầy bế ngồi, rồi há miệng uống ừng ực hết chén thuốc. Thuốc này đắng lắm. Một lúc sau thì người nó ấm dần rồi thầy thấy mạch. Cầm chắc nó sống. ẵm nó ngủ một lúc lâu, thầy mới đặt nó xuống giường, quấn chiếc chăn chiên cho chặt kín quanh mình. Ra phản nằm chợp mắt được một tí thì thầy nghe tiếng tiếng gà đã gáy vọng từ trong Hệ Dưỡng ra tận đây rồi.
Mẹ tôi từ dưới bếp đi lên, dì Thảo từ ngoài sân vào, chú Thìn đang cho lợn ăn cũng bỏ cả đấy. Cả nhà nhốn nháo ồn ào mừng vui lẫn buồn tủi. Tôi nằm ngây ra ngơ ngác nhìn mọi người chẳng hiểu là tại sao lại như vậy.
Tiếng bác Vinh gái, hàng xóm nhà tôi, vừa bước lên hiên đã hỏi:
- Thằng Vững sống lại rồi hả ông? Trời ơi... phúc đức làm sao!
Rồi bác Vinh bước lại bên giường tôi nằm:
- Vững này ồ! Cháu còn sống thật rồi. Này nghe cháu, cháu phải biết ơn ông ngoại đấy, cháu nhá. Ông ngoại đã cứu cháu sống đấy.
Bác Vinh quay ra gọi đứa con gái xấp xỉ tuổi tôi, cùng học một lớp với nhau:
- Dung này vào đây với anh Vững. Anh sống lại rồi đây này...
Trời sáng rõ. ánh bình minh rực rỡ bừng lên khắp mọi nơi.
Ông ngoại vào thăm bệnh lại cho tôi. Ông nhìn kỹ gương mặt, sắc da ở người, rồi sờ nắn tay chân mình mẩy, xem lại mạch tay, mạch chân. Đầu ông lúc gật gật, khi lắc lắc. Xong đâu đấy, ông trở ra ngồi bò trên phản viết. Một lúc sau ông ngồi thẳng dậy. Mọi người ngồi ở giường, ở bậc hèm cửa chờ ông cắt đặt từng việc. Ông gọi mẹ tôi ra ngồi ở phản để ông nói, giọng nhỏ nhẹ thương cảm với nỗi vất vả của con gái:
- Thầy vừa xem lại bệnh cho cháu. Còn nước còn tát, đã thương thì thương cho chót, con ạ. Thầy tính vầy. Hai con lợn trong chuồng nhà mày còn bé quá. Hãy cứ để đấy nuôi. Thầy cho nó con lợn chắc xấp xỉ tám mươi cân gì đấy, để chạy thuốc thang ngay bây giờ cho nó. Nếu bây giờ mày không còn đồng nào thì giật tạm của ai đó đưa cho chú Thìn đi xuống chợ Tu cắt thuốc. Đơn thuốc cắt cho nó đây.
Ông ngoại đưa lá đơn với những cột chữ Nho thẳng tắp, đều đặn và vuông vắn, viết bằng bút lông, mực Tàu. Chú Thìn đưa hai ngón tay đón lấy rồi gấp tư, bỏ vào túi áo, gài ghim băng cẩn thận.
Chú là em ruột bố tôi, mới mười tám tuổi, vào ở với mẹ tôi được vài ba năm nay. Ông ngoại dặn lại chú Thìn một lần nữa, đến là cặn kẽ: nếu thiếu vị này thì thay bằng vị kia, bao nhiêu đồng cân một vị mỗi thang. Đoạn, ông quay sang bảo cậu Tùng: - Con về nhà ngay bây giờ. Nhớ bắt con lợn lớn nhất trong chuồng bán đi rồi mang tiền vào cho chị mày thuốc thang cho cháu. Khi vào nhớ gánh cho nó gánh gạo thông. Đỡ thêm cho mẹ con nhà nó. Còn con Thảo, ở lại với chị mày và các cháu. Hôm nào thằng Tùng vào thì hai đứa võng thầy về.
Từ nãy đến giờ mẹ tôi cứ ngồi mặt bần thần, rầu rĩ và im lặng. Chắc đoán biết là mẹ tôi chẳng còn đồng nào dính túi, bác Vinh gái liền lên tiếng:
- Thôi ơn giời, cậy nhờ có cụ đây nên cháu nó sống lại là mừng rồi. Nếu bác Thành không còn đồng nào thì em về lấy bên nhà mang sang cho bác giật tạm một ít.
Nói xong, bác Vinh đứng lên ngay, về nhà một tí đã nhào sang, ngại ngùng đưa tiền cho mẹ tôi.
- Cảnh nghèo túng với nhau, em có từng này bác cầm lấy đưa cho chú Thìn đi cắt thuốc ngay kẻo trưa mất rồi.
Cảm thấy món tiền chẳng đáng là bao, chợt sực nhớ, bác Vinh vội cởi bao thắt lưng xanh ở bụng ra:
- A... còn chỗ này nữa, gộp cả lại. Cứ tạm mua cho cháu nó chục thang cái đã.
Mọi người tản ra, ai vào việc nấy. Anh Thành cắp sách đi học. Cái Dung hôm nay được nghỉ nên ở nhà sang chơi với thằng Bền. Chúng trèo cả lên giường trò chuyện với tôi luôn miệng.
Nhưng tôi lại thiếp đi. Tử Thần chưa đủ sức mạnh cướp được tôi đi, song sự sống thì hãy còn mong manh lắm.
Cha tôi tạt về nhà được vài ba ngày. Công tác đoàn thể cuốn hút ông nên chuyện tôi ốm đau ròng rã một năm trời, dẫu có biết, ông vẫn không thể về nhà được. Vả lại mọi việc đã có ông ngoại lo toan cả rồi. Ông ngoại có chân trong Mặt trận Liên Việt huyện, vẫn thường xuyên hội họp nên cũng gặp cha tôi luôn. Bởi vậy, khi nhìn thấy tôi như cái bóng ma trên giường, cha tôi cũng không lấy làm ngạc nhiên. Ông ngồi bế tôi một lúc đợi chú Thìn đi xúc cua về. Cha tôi nói chuyện gì đó với chú hồi lâu rồi đi vào Hệ Dưỡng.
Ông nói là ông đi đến gặp cha xứ ở đấy để bàn việc làm lễ phóng thích cho một số lính vệ sĩ công giáo theo Pháp đi càn quét bị ta bắt. Sau một thời gian giáo dục, chính quyền kháng chiến khoan hồng cho về sinh sống làm ăn với vợ con gia đình.
Hồi này mẹ tôi bán hàng xén để nuôi con cái nên từ sớm tinh mơ đã gồng gánh đôi bồ lên thuyền chống sào đến các chợ quanh vùng cho tới tận khuya. ở nhà, chú Thìn thường vào Hệ Dưỡng xúc cua ở các ao bèo lục bình, hay cất vó te kiếm ít tép vụn.
Sáng hôm sau, vì có chuyện to tiếng giữa bố mẹ với nhau nên tôi mới biết rõ sự thể. Chuyện là như thế này: Chuyến này cha tôi về nhà mấy ngày không phải vì chuyện tôi suýt chết. Tuy thương con đứt ruột nhưng cha tôi không thể làm được gì, cho dù chỉ có ít tiền gửi về để đỡ đần mẹ tôi. Bởi cán bộ kháng chiến đâu có lương bổng, đi đến đâu sống dựa vào dân ở đó. Đồng bào có gì cho, ăn nấy. Cha tôi tạt về nhà chính vì chuyện chú Thìn. Thì ra cha tôi định đưa chú Thìn đi tòng quân. Cố nhiên là chú Thìn thích rồi. Bởi chú là thanh niên sức dài vai rộng, chạy giặc phải bỏ quê vào đây. Chẳng biết làm gì để kiếm sống, cứ ru rú ở nhà với mấy đứa cháu cũng chán, ăn bám chị dâu mãi càng không tiện. Riêng mẹ tôi thì lấy làm bực tức. Chẳng phải là hám lợi gì, song phận đàn bà con mọn có một mình chạy loạn làm sao? Hơn nữa lại còn thằng con đang sống dở chết dở nằm trên giường kia nữa chứ. Chả nhẽ bỏ mặc nó đấy để chạy lấy thân mình. Phải tội với giời! Mẹ tôi đổ mọi sự cho cha tôi. Nếu không có thằng Vững. Sao lại không có tôi?
Mẹ tôi đẻ tôi ra là chuyện miễn cưỡng hay sao? Nếu không có thằng Vững. Nếu... tiếng nói của mẹ tôi cứ vẳng đến tai tôi. Chỉ nói có như thế thôi thì bà ngập ngừng. Cha tôi suỵt cắt ngang lời.
Tính ông nóng như lửa, đã quyết là làm. Mẹ tôi đành chịu. Đành chịu trong sự phẫn chí. Bà giận dỗi bỏ buổi chợ, ở nhà.
Vậy là chú Thìn xăng xái đi ngay xuống chợ Tu mua sắm mấy thứ lặt vặt để sớm hôm sau cùng cha tôi lên đường.
Trời bỗng nổi giông. Mây đen kéo về. Gió lồng lộn như con ngựa bất kham tung vó giữa thảo nguyên. Mưa. Nước như trút từ trên trời xuống ào ào. Gió hất tốc mái chuồng lợn. Thế là không ai bảo ai cha mẹ tôi cùng chạy ra sửa lại mái chuồng.
Trong nhà không còn một ai. Anh Thành và thằng Bền chạy sang chơi bên nhà chị Nhàn. Mưa không về được. Chỉ còn mỗi mình tôi đang nằm quay mặt vào vách.
Ngoài trời mưa như xối nước, sấm chớp ùng oàng nhì nhằng những lưỡi lửa chốc lại lóe sáng. Không hiểu sao, tôi bỗng thèm nhìn ra xem trời mưa thế. Tôi gắng lấy hết sức để tự lật người quay mặt nhìn ra cửa mà không tài nào cử động nổi. Thân xác tôi cứ ì ra như đống thịt bất động. Chỉ có mỗi bên chân tay phải thì có khá một chút. Tức là co lại duỗi ra được một tí, rê đi rê lại nhích một tẹo. Tôi đành bật miệng kêu:
- Thầy u ơi! Vào lật người cho con quay mặt nhìn ra cửa với.
Tiếng mẹ tôi gắt gỏng quát ở ngoài chuồng lợn xuyên làn mưa vọng vào:
- Làm nũng vừa vừa chứ! Hầu hạ mày suốt ngày không đủ hay sao mà hễ động một tí là hành người ta! Không tự quay ra được thì cứ nằm thế đã sao?
- Nhưng con tê người lắm rồi.
- Thế cũng không chết được đâu mà sợ.
Tôi bật khóc ré lên vì tủi hờn và đau đớn. Tim tôi thắt lại, toàn thân rã rời. Tôi nào có dám làm nũng đòi hỏi cái gì. Tôi nằm quay mặt vào vách suốt từ sáng tới giờ, cố hết sức rồi mà không thể tự lật nổi người đấy chứ. Mưa vẫn cứ rơi xối xả như vẫy gọi, giục giã nỗi thèm muốn khát vọng được quay nhìn ra. Trời mưa có sức hấp dẫn lạ kỳ cám dỗ tôi.
Chắc là dọi xong mái chuồng lợn, cha tôi chạy vào. Ông tới bế tôi ra đặt nằm ở phản giữa, ngoảnh mặt nhìn mưa rơi.
- Có lạnh không Vững? Nếu lạnh thầy mặc thêm áo cho con.
Tôi lắc đầu, nước mắt đầm đìa. Cha tôi nựng:
- Thôi nín đi con! Để thầy tắm kẻo cảm lạnh. Rồi thầy vào nằm với con.
Hồi lâu. Rất lâu. Khi cha tôi đến nằm xuống bên cạnh, nâng đầu gối lên cánh tay người, quặp hai chân khẳng khiu của tôi vào lòng cho ấm thì tôi đã ngủ thiếp đi rồi...
Chiều hôm đó, chú Thìn ngồi bế tôi cả buổi. Hẳn chú thương tôi lắm nên trước khi đi xa, chú dành cả thời gian còn lại để an ủi tôi. Chú thủ thỉ căn dặn tôi phải gắng chịu khó uống thuốc, ăn thật nhiều cơm cho chóng khỏe rồi còn phải đi học nữa chứ.
Sớm hôm sau. Trước khi đi, cha tôi nói với mẹ tôi:
- Mẹ thằng Thành đừng cáu gắt với thằng Vững như thế. Con nó còn nhỏ dại, lại ốm đau bệnh tật chứ nó có nhõng nhẽo gì đâu. Tôi sẽ rẽ về làng mời ông ngoại vào thăm lại bệnh cho nó.
Rồi cha tôi vào bế tôi lên, thơm hai bên má. Tôi thấy mắt ông rưng rưng. Chú Thìn cũng vào bế tôi. Chú nói như mếu:
- Đừng chết cháu nhé! Rồi chú sẽ về thăm cháu. Chú sẽ dẫn cháu đi học.
Cha tôi cùng chú Thìn khoác túi dết đi ra. Bên ngoài, trời vẫn còn nhập nhoạng. Nhưng đó đây đã có nhiều tiếng gà gáy sáng và tiếng chó sủa vang. Tôi không thể biết rằng từ giờ phút này tôi bắt đầu phải tự làm nhiều việc cho chính mình chứ chẳng còn ai ở nhà nâng giấc như trước nữa. Lòng tôi dâng trào một nỗi bâng khuâng, cảm nhận thấy sự thiếu vắng chú Thìn như thiếu hụt một nơi nương tựa, chở che.
Rồi tôi lại thiu thiu ngủ.
Mấy ngày sau ông ngoại lại vào. Sau khi thăm bệnh cho tôi, ông gọi mẹ tôi vào bảo:
- Thằng Vững nó bị bán thân bất toại rồi.
Mẹ tôi sầm mặt lại nhăn nhó đến khó coi. Nỗi thất vọng hiện ra rõ nét. Như thế có nghĩa là nó mang tật nguyền suốt đời sao?
Nó nằm chết gí một chỗ, phải mất một người hầu hạ, nâng giấc.
Bà mếu máo:
- Thầy bảo con phải làm thế nào bây giờ? Lộc con lộc của ở đâu thì chẳng biết, chứ tai vạ suốt từ ngày đó cho đến nay còn gì. Tất cả là tại nhà con hết. Giờ đâm ra một nách ba đứa con mọn, chồng lại đi công tác thoát ly chẳng đỡ đần được gì. Có chú Thìn ở nhà trông nom chúng nó giúp con thì bố thằng Thành lại cho đi tòng quân. Nay cái bệnh bắt nó nằm liệt đấy, ai là người hầu hạ?
Rồi mẹ tôi khóc òa lên:
- Sao cái thân tôi khổ sở thế này! Nào tôi có ăn ở bất lương mà ông giời đầy ải đời tôi long đong lận đận gian truân như vậy. Con với cái! Sống thì nuôi, chết thì chôn cho rảnh. Chứ sống như thế, sau này cũng chỉ ăn báo cô thôi...
Ông ngoại gắt lên:
Bán thân bất toại: Bại liệt nửa người.
- Ô hay con mẹ thằng Thành lạ nhỉ? Có con thì phải khổ với con chứ.
- Nhưng nó có phải... lại dở sống dở chết như vậy thì ai hầu hạ suốt đời được.
- Thì cứ cố chạy chữa thuốc men đã.
Mẹ tôi phân trần:
- Thì thầy tính chạy chữa đến bao giờ? Cắt thuốc như uống nước vối ròng rã hơn năm trời rồi có ít ỏi gì đâu. Kiếm được đồng nào là đội nón ra đi sạch, lại còn mang công mắc nợ nữa.
Nói rồi bà sụp xuống bậc cửa khóc hu hu, than thân trách phận, kể lể mọi công lao khó nhọc bấy lâu nay làm cho ông ngoại cũng phải mủi lòng. Ông vê điếu thuốc lào tra vào nõ điếu, rồi châm lửa hút. Ông ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu mới nói:
- Để thầy lo liệu vậy. Giờ các con lớn đều đã ra ở riêng cả rồi. Mẹ mày qua đời đã đoạn tang. Nay chỉ còn thằng Tùng, con Thảo, con Chín và thằng Phùng ở với thầy. Con Chín với thằng Phùng thì bé quá. Công việc đồng áng dồn lên vai thằng Tùng với con Thảo thì làm không xuể. Nên thầy tính chia ruộng đều cho các con. Gái cũng như trai. Ruộng nhà ta cả thảy có ba mẫu, con nhận lấy mấy sào mà cấy.
Mẹ tôi nói xen vào cắt ngang lời ông:
- Con đi chợ suốt ngày bán hàng nuôi các cháu, làm sao mà cấy được?
- Để thầy nói hết đã nào! - Giọng ông ngoại hơi sẵng - Thì con cứ nhận. Thầy sẽ bảo thằng Tùng con Thảo nó làm giúp.
Tôi nằm im ắng nghe ông ngoại với mẹ tôi bàn tính lo toan cho số phận của tôi mà lòng những ngậm ngùi buồn tủi xen lẫn giận hờn. Tôi bỗng cảm thấy tai họa thật sự đã giáng xuống cuộc đời mình ngay từ khi bắt đầu ốm cơ. Và bi kịch ngày càng hiện ra một cách khủng khiếp thê thảm. Giả sử nếu có sống, sau này lớn lên tôi cũng chỉ là con người vô dụng. Giờ đây tuy đã có hy vọng sống lại mà sao tôi lại muốn chết quách cho xong! Bởi sống mà suốt đời ăn bám bố mẹ, anh em thì sống làm gì? Sống như vậy thì tủi hèn lắm, cay đắng lắm.
Ông ngoại chia ruộng cho các con thật. Không những thế, ông còn chia đều tài sản từ cái bát cái đũa trở lên. Ông cho người đi gọi cha tôi về. Cha tôi chỉ nhận ba sào ruộng thôi. Còn tài sản cha tôi nhường phần của mẹ tôi cho thêm cậu Phùng, là em rốt mới mười một tuổi. Nhưng ông ngoại vẫn ép cha tôi phải nhận cái đỉnh, một cái nồi mười lăm cùng với đôi mâm đồng và cái chậu thau lớn. Ngoài ra ông ngoại còn cho cha tôi tất cả những cuốn sách thuốc của mình. Để đầy một cái hòm gỗ lớn. Ông ngoại bảo cha tôi là người hiếu học, sáng dạ, lại có đức nên ông muốn truyền lại nghề thuốc cho. ít lâu sau, ông ngoại gửi thuốc và miếng cao hổ cốt bằng bao diêm vào cho tôi. Ông viết thư dặn dò tỉ mỉ và nhắc nhở tôi phải gắng sức uống hết nửa lạng cao đó.
Quả đúng như trong thư của ông ngoại. Uống cao hổ rất tanh. Thỉnh thoảng ợ nước miếng lên miệng thì tanh lắm, vẫn không được khạc, được nôn ra. Khó hơn cả uống thuốc bắc. Tôi cố ráng sức chịu đựng. Chịu đựng một cách nhẫn nại. Sức khỏe của tôi hồi lại trông thấy, trong người nhẹ nhõm, đầu óc lúc nào cũng tỉnh táo. Tôi đã thấy đói và thèm ăn đủ thứ.
Ngày ngày mẹ tôi thức giấc từ sớm tinh mơ nấu cơm để lại cho ba anh em chúng tôi rồi gồng gánh đi chợ. Anh Thành sau khi bón cơm cho tôi ăn xong, đưa thằng Bền sang gửi bên nhà chị Nhàn, đi học cho đến chiều mới về.
Nhà chỉ còn một mình tôi nằm ở phản. Nhớ lời ông ngoại dặn, tôi cố cử động tay chân. Thật khó khăn. Thân thể, tay chân tôi như thân cây chuối nằm thẳng đơ. Tôi cố lấy sức lăn toàn thân lật sang phải hoặc sang trái đều không thấy động đậy gì. Gắng sức đến vã mồ hôi cũng chẳng ăn thua. Suốt sáng sang chiều, rồi tới tối. Đến lúc mệt quá là ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Cuối cùng tôi đành tìm cách tập khác. Tay chân bên phải có khá hơn bên trái. Vậy là cả ngày lẫn đêm, hễ lúc nào thức là tôi cử động chúng.
Thời gian nặng nề và chậm chạp trôi qua.
Thời gian trở thành một sự thử thách khắc nghiệt đối với tôi.
Nó câm lặng nhưng cám dỗ cuộc sống làm sao! Nó làm cho con người vui tươi, ham muốn, ước vọng. Song cũng sẵn sàng quật ngã con người đến thất bại, và làm họ nản chí đến rã rời.
Không còn cách nào khác, cuộc sống buộc tôi phải kiên trì, kiên trì một cách bản năng. Rồi đến một lúc, các ngón chân, ngón tay bên phải của tôi cử động được nhanh hơn, hoạt hơn. Tôi liền tập cả bên trái. Rõ ràng bên này thật khó suy suyển. Phải rất lâu mấy ngón tay mới động đậy còn các ngón chân vẫn "nằm ì ra" như chết rồi, như không phải là ngón chân nữa.
Dần dà bàn chân phải, bàn tay phải, rồi chuyển tới cổ chân, cổ tay cử động. Tôi tập co vào, duỗi ra, rê đi rê lại. Rồi tiến cao hơn là thử nhắc tay chân lên. Đến khổ. Gắng sức nâng tay nâng chân lên vừa khỏi mặt phản thì nó rơi đến bịch xuống ngay. Cứ thế đến hàng trăm hàng nghìn rồi hàng vạn lần, lặp đi lặp lại không biết chán, không biết mệt mỏi, chân tay bên phải của tôi mới tự nâng cao lên khỏi mặt phản được một chút, lâu chừng vài chục giây làcùng. Nhưng tôi không nản. Vả lại tôi cũng không còn biết cậy nhờ ai xoa bóp và "khởi động" giúp cho tay chân co duỗi.
Chắc chắn là do công hiệu của thuốc cùng với tác dụng của cao hổ cốt và sự kiên trì luyện tập mà chân tay bên phải của tôi cử động co duỗi mau lẹ hơn, tay bên trái cũng bắt đầu chuyển biến.
Vậy là tay chân bên phải cứ đạp tứ tung quờ quạng loạn xạ. Và rồi tự đẩy thân thể di động xê dịch trên phản. Cổ cứng dần và đã nhấc nổi đầu lên. Lật được người bên này sang bên kia rồi. Sướng quá!
Lần đầu tiên lật úp được người xuống phản thì lại khốn, vì không thể nào xoay người lật ngửa lên được. Tôi tìm mọi cách. Nhưng chỉ có một bên tay chân phải cử động nên chẳng ăn thua gì.
Mệt rã rời và đói quá, tôi đành cứ nằm úp người xuống mặt phản như thế suốt ngày. ỉa đái dầm dề nhầy nhụa. Đến khi anh Thành đi học về thấy thế khiếp quá kêu chị Nhàn sang bế tôi ra vại nước tắm rửa cho mới thoát nạn.
Tôi vẫn cứ tập. Được cái là chị Nhàn thỉnh thoảng lại chạy sang lật người cho tôi nằm ngửa.
Cứ thế, tháng này nối tiếp tháng sau. Cho đến mùa con nước năm tới lại lên, tràn vào mép hiên nhà thì tôi ngồi dậy được. Lúc này tay bên trái co duỗi, giơ lên hạ xuống chỉ kém tay bên phải ba bốn phần. Chân trái bắt đầu có tín hiệu nhúc nhích cử động. Nỗi khát vọng được đi lại, chạy nhảy, nô đùa như anh Thành, thằng Bền, như chúng bạn xóm Núi Ngang càng nôn nao rạo rực trong lòng tôi. Trí nhớ và sự nhận biết ngày càng hồi phục thì nỗi khát vọng, mơ ước được như mọi đứa trẻ có tay chân khỏe mạnh ngày càng cháy bỏng, thôi thúc và dằn vặt tâm can tôi. Tròn một năm sáu tháng tôi nằm bệt trong xó nhà nên thèm lê từ phản sang giường, từ góc nhà này tới bên góc nhà kia, thèm ra tới ngoài hiên nhìn cánh đồng ngập nước mọc đầy cỏ bái, được trông thấy núi Cháy ở bên kia cánh đồng nom giống như con gà trống vươn cổ gáy đánh thức mặt trời buổi sớm. Trước khi tôi bị ốm, buổi tối nào, lũ trẻ con xóm Núi Ngang cũng tụ tập nhau ngồi nhìn những đốm sáng di động, lúc ẩn lúc hiện lạ kỳ trên sườn núi đen kịt để dứ dọa đứa nhát gan, bảo đó là "ma trơi", làm nhiều cu cậu và bọn cái hĩm sợ té đái ra quần; hoặc ngồi nghe tôi kể chuyện. Tôi thèm được leo lên sườn núi bắt chim, nằm trên hang đá cao lưng chừng núi hóng mát. Thèm đi hái sún đá vào những ngày mưa rào tháng ba mang về nấu canh chua, hoặc luộc lên ăn sần sật như mộc nhĩ, lại có vị chua chua. Thèm được chèo thuyền chơi trên cánh đồng nước hái những bông hoa súng tim tím đến là đẹp. Thèm được cắp sách tung tăng đến lớp học với chúng bạn, nghe ông giáo Kỳ giảng bài, hoặc nghe ông kể những chuyện về người thổ dân da đỏ châu Mỹ, người Eskimô ở Bắc Cực, hay những con đười ươi ngửng mặt cười nhăn nhó với ông trời. Tôi yêu quý và kính phục sự hiểu biết của ông giáo. Không hiểu bây giờ ông có còn kể nhiều chuyện cho lũ học trò cứ há hốc mồm, nghếch mặt ngồi nghe nữa không?
Sún đá: một loại địa y mọc ở vách đá vôi, mùa hanh khô teo đi, gặp mưa rào tháng ba nở như mộc nhĩ.
Tới kỳ nghỉ hè, anh Thành ở nhà nên tôi đỡ buồn. Nhưng anh ấy ham chơi nên chốc chốc lại tót sang nhà hàng xóm, có hôm đi biệt đến trưa mới về. Cố nhiên là tôi không dám mách mẹ. Lơ mơ là anh Thành dọa đánh liền. Chẳng riêng gì tôi, thằng Bền mà đòi theo phá thối cũng ăn bạt tai, đá đít... Thành thử vẫn chỉ có mình tôi ở nhà, vẫn tự luyện tập một mình.
Cũng may là cái Dung thường sang chơi với tôi luôn. Có hôm ở cả ngày. Tôi nói với nó:
- Từ khi ốm dậy đến giờ tớ quên không biết đứng nữa rồi.
- Không phải đâu. Tại đằng ấy còn yếu quá đấy.
Tôi thú nhận:
- Tớ như đứa bé mới mười tháng ấy, phải tập lẫy tập bò đến khổ.
- Cứ chịu khó tập đi, đã có tớ giúp.
Thế là nó giúp tôi tập đứng. Hôm đầu cái Dung hăm hở bặm môi bế xốc tôi dậy, nặng nhọc lễ mễ như con cóc tha con nhái. Tôi hơn nó chừng một tuổi là cùng. Giá như tôi không bị ốm chắc nó chỉ cao đến tai tôi thôi. Nhưng bây giờ nó đã nhỉnh bằng đầu tôi rồi. Nó để cho hai bàn chân tôi chạm xuống mặt phản thì buông tay ra định xốc lại cái quần của nó bị tụt. Không ngờ hai ống chân tôi dài ngoằng giống đôi ống nứa tép mềm nhũn như bún. Nó không kịp đỡ, đành để cái quần tụt giải rút tuột xuống đầu gối mà tôi thì vẫn cứ ngã đổ chổng kềnh xuống phản, hai chân trẹo ra, đau điếng đến nỗi tôi bật khóc òa. Cái Dung càng hoảng hốt và sợ hãi. Nó lúng túng quên khuấy kéo quần lên, và cũng chẳng biết làm gì, òa lên khóc theo.
Nghe thấy tiếng hai đứa trẻ khóc, chị Nhàn chạy sang nom cảnh ngộ chúng tôi đến tức cười. Cái Dung quần tụt xuống đến chân, đứng mếu máo. Còn tôi hai chân ống giang xoạc ra, mặt nhăn nhó, miệng sụt sịt.
Chị Nhàn bế tôi lên, nắn nắn hai chân:
- Không sao... không sao! Cả hai đứa nín đi nào. Dung, mày kéo quần lên thắt lại giải rút đi chứ.
Rồi chị kéo cái Dung ngồi xuống sát vào mình:
- Thôi nín đi. Chị nắn lại chân thằng Vững rồi. Mày là con bé ngoan lắm. ở chơi với nó nhé.
Ngồi với chúng tôi một lúc thì chị về nhà. Nhà chị Nhàn chỉ có hai mẹ con. Tôi không rõ mẹ con chị ở đâu mà chạy vào tản cư tới ở trong núi Ngang này. Và tôi cũng không được biết mẹ con chị sinh sống bằng cách gì. Mẹ chị đi suốt ngày. Bà hiền lành phúc hậu lắm. Tối tối bà vẫn sang bên nhà tôi chơi. Có hôm ngồi bế tôi suốt buổi. Chẳng mấy khi thấy bà nói chuyện. Chị Nhàn giống mẹ như đúc, tuổi mới mười lăm, mười sáu là cùng. Dáng người chị mảnh khảnh, bộ ngực bắt đầu nở nang, không vấn tóc như các bà các cô ở đây mà chị buộc túm lại phía sau bằng một sợi len đỏ.
Gương mặt trái xoan, hơi gầy, xanh xanh, được đôi mắt tròn to và sáng lúc nào cũng như đang cười. Chị ở nhà băm bèo nấu cám nuôi hai con lợn, chẳng hề đi chơi đâu. Chỉ tới mùa cấy, khi lúa đang thì con gái chị mới đi kéo vó te, kiếm được rõ nhiều cá vụn và tôm tép, ăn không hết, đem phơi khô la liệt mẹt nọ giần kia rồi cho vào hũ đậy kín bằng lá chuối khô, để làm thức ăn phòng ngày mưa bão chứ không đem bán.
Tôi không dám tập đứng tênh tênh như đứa trẻ mười tháng, và cũng không chịu để cho cái Dung bế thốc đứng lên rồi buông tay ra nữa. Sau cái lần ngã đau điếng người ấy, tôi hoảng sợ thực sự.
Có lẽ không bao giờ tôi có thể đứng được chứ đừng nói đến chuyện đi lại, chạy nhảy. Thành thử khi mót đi tiểu hay muốn ra ngoài hiên ngắm nhìn bầu trời, đồng nước, núi non... tôi chỉ còn cách bò ra mép phản, tụt người ngồi bệt xuống đất lê đít "đi" thôi.
Cái Dung không chịu bó tay. Nó loay hoay tìm cách. Ngày nào cũng xăng xái một cách nhiệt thành. Nhưng cũng chả tìm được cách gì. Nó ngồi đần mặt ra, rồi nựng tôi như nựng em bé:
- Đằng ấy không chịu tập đứng thì chẳng bao giờ đứng được đâu, chẳng bao giờ đi lại được như tớ đâu. Đằng ấy chịu khó để cho tớ bế lên vậy. Tớ không để đằng ấy ngã nữa đâu mà sợ.
Nó nói rõ nhiều. Rằng nó sẽ đứng ôm chặt lấy tôi để cho hai bàn chân của tôi đặt xuống mặt phản cho quen. Thật quen đã. Rằng sau đó nó mới buông tay, nhưng để tôi vịn chặt vào người nó.
Như thế sẽ không bao giờ ngã. Giọng nó thân thiết dịu ngọt lạ lùng:
- Như thế sẽ không ngã đâu. Thật mà. Đằng ấy đừng sợ.
Tôi buộc phải nghe theo nó chứ còn biết làm cách nào để tự đứng lên được mà tập đi. Anh Thành thì ham chơi quá không mấy khi nhòm ngó đến tôi. Anh ấy có cái thói biết mẹ tôi về vào lúc nào là anh ấy về trước một tí để dọn dẹp nhà cửa cho gọn kẻo mẹ tôi rầy la. Thành thử bà không thể biết ở nhà anh Thành như thế nào. Nhiều khi còn khen anh ấy nữa. Được thể anh Thành càng lên nước. Tôi và thằng Bền sợ anh bằng phép. Ngậm miệng không dám mách điều gì. Tôi chỉ còn nhờ được cái Dung thôi.
Hai đứa chúng tôi cứ ôm nhau đứng lên ngồi xuống suốt buổi. Bởi tôi vẫn sợ ngã, ôm chặt lấy cái Dung chứ không chịu để cho nó buông tay ra.
Ngày hôm sau. Rồi ngày hôm sau nữa. Cũng thế. Thực tình tôi nản lắm rồi. Song cái Dung vẫn không chịu buông tha. Đầu óc tôi trì độn quá không tìm được cách khác. Còn cái Dung lại vẫn luẩn quẩn với cái trò bế tôi đứng lên. Cũng lạ. Nó không biết mệt hay sao?
Chị Nhàn đã sang gỡ thế bí cho chúng tôi. Chị mang chiếc ghế đẩu ra, đặt bụng tôi áp vào mặt ghế để thõng hai chân chạm xuống mặt đất cho quen dần đã. Có thế mà chúng tôi cũng không nghĩ ra! Tôi cảm thấy thoải mái chứ không gò bó như để cái Dung bậm môi gắng sức bế đứng dậy. Lúc nào mỏi, hoặc chán thì tôi mới tụt người ngồi bệt xuống đất chẳng hề đau đớn gì. Cứ thế thành quen.
Rồi tôi đủ sức từ từ vươn thẳng người đứng vịn chặt vào thành ghế. Thích quá! Tôi ngây ngất vì vui sướng. Và, lần đầu tiên tôi để ý đến cái Dung. Nhà nó chạy tản cư vào Núi Ngang cùng với nhà tôi. Bố nó cũng đi kháng chiến nên ở nhà chỉ có hai mẹ con nó thôi. Bác Vinh gái là dân thành thị nên thạo buôn bán lắm, nhà lại khá giả. Cái Dung cùng học với tôi một lớp. Tính nó nhẹ nhàng ít nói. Nó chơi với tôi đến thân và rất thích nghe tôi kể chuyện. Có bao giờ tôi để tâm đến nó đâu. Tôi cứ mải những chuyện đẩu đâu, hết sách lại vở, vùi đầu vào đọc truyện. Còn nó thì hễ rỗi rảnh lại sang chơi với tôi luôn. Tự nó đến chứ chẳng ai xui hay khiến mà tôi cũng không thể nài bắt nó được. Nó chẳng mấy khi rời tôi nửa bước.
Lúc này cái Dung đang ngồi ở phản nhìn tôi đứng vịn vào ghế đẩu. Hẳn nó cũng thấy vui thích nên gương mặt tươi tắn lắm. Hai núm đồng tiền bên má lộ rõ, đến xinh. Nó trắng trẻo, mặt trái mận, có mái tóc dài chấm gấu áo sau lưng đen nhánh.
Cả tôi lẫn cái Dung đều đã chín mười tuổi rồi. Bọn con trai như tôi vẫn mải chơi, ham nghịch và vẫn còn tắm truồng tồng ngồng ngoài vại nước. Nhưng cái Dung đã bắt đầu biết giữ ý tứ, e thẹn và xấu hổ. Nó ra dáng người lớn hơn tôi. Không hiểu sao tôi cảm nhận mọi sự ân cần của nó, ngoan ngoãn như một đứa em trai với chị gái. Phải thế chăng mà cái Dung mỗi ngày một khẳng định thêm sự khôn lớn của nó bằng cách cư xử, chơi đùa với tôi và chúng bạn.
Cảm thấy mình đã đứng vững, tôi thử buông tay vịn ghế ra.
Một đứa trẻ chín mười tuổi lại tập đứng tênh tênh như đứa bé chín mười tháng. Chao ôi... đứng buông được tay ra đến là thích! Cái Dung thấy thế mừng quá nhảy tót xuống đất, reo rối rít:
- Đứng được rồi! Đứng được rồi!...
Tôi nhìn nó, tít mắt cười khoái chí, cũng reo theo nên mất thăng bằng ngã bệt xuống ngay. May, cũng chỉ là đau đít thôi.
Sang bước tập cao hơn: tập đi. Lúc này đầu óc tôi cũng không đến nỗi đần độn lắm. Tôi tự tìm ra cách cho mình tập. Tôi lần quanh giường, quanh phản cho hai chân thêm cứng cáp, cho bàn chân bám vào mặt đất chắc chắn hơn, "thật " chân hơn. Tôi mê mải say sưa. Càng lần đi càng hăng càng vững hơn. Hai đầu gối bớt run hơn, chân bước mạnh bạo hơn. Tôi với cái Dung hoặc thằng Bền chơi trò đuổi nhau quanh giường. Chúng nó cứ đứng chờ cho tôi lần đi gần tới thì lại nhảo ra xa hơn, đến tức. Nhưng mà ham.
Lại còn thích nữa. Nhà lúc nào cũng vang tiếng la hét, tiếng reo cười nắc nẻ đến ồn ã. Không còn vắng lặng, tẻ nhạt, cô đơn nữa.
Sau đó, tôi bảo chúng nó xếp giúp cho mấy cái ghế đẩu cách xa nhau hơn từ phản ra cửa, rồi ra hiên.
Tôi đã đi ra được đến hiên, rồi xuống sân. Nói là "đi được" nhưng chỉ có chân bên phải là co bước được thôi. Còn chân bên trái vẫn còn quá yếu nên chỉ kéo lết trên mặt đất. Song dầu sao tôi vẫn tự đi được ra sân, mặc dù phải vịn vào ghế, cũng thấy khoái lắm rồi. Bầu trời đã hiện ra trước mặt. Tôi lại nom thấy núi Cháy và dãy núi đá vôi trùng điệp chẳng rõ nó bắt đầu từ đâu và đến chỗ nào mới kết thúc. Tôi thích thú ngắm nhìn thiên nhiên quanh mình như là kẻ đầu tiên khám phá ra xứ sở màu mỡ và tươi xanh của chúng ta.
Con Vàng chạy đến. Nó đưa cái mũi hít hít hai chân tôi, ve vẩy đuôi mừng rỡ như được gặp lại chủ cũ, hay là nó mừng vì thấy tôi còn sống để nô đùa với nó? Tôi vỗ vỗ tay vào lưng nó trong tâm trạng hào hứng khó tả. Giống như trước ngày tôi bị ốm, mỗi khi đi học về nó đều đứng đón tôi trước cửa nhà, chồm lên giơ hai chân trước đặt trên ngực. Tôi nắm lấy chân con Vàng, lắc lắc, gật đầu với nó. Giá tôi có cái gì làm quà cho nó nhỉ? Tôi nói với con Vàng:
- Vàng ơi... mày vẫn còn nhớ tao à?
Cô Thắm ở Hệ Dưỡng cho nhà tôi con Vàng hồi nó được hơn một tháng. Cả nhà tôi ai cũng thích nó. Ăn khỏe, lớn nhanh, không cắn trộm nhưng lại biết giữ nhà, quyến luyến chủ. Càng lớn nom con Vàng càng đẹp mã. Nó cao to gần như chó lài, lông vàng mượt, đôi tai vểnh lên hướng về phía trước đến thích, cái mõm vừa phải và cặp mắt sạch sẽ, tinh nhanh. Ai vào nhà tôi chơi cũng khen, đều dặn hễ nó đẻ thì để cho họ một con. Anh Thành với tôi đều hay cho nó theo trèo lên núi hóng mát, bắt chim hoặc dẫn nó đi săn chuột trong các hang dưới chân núi. Con Vàng luôn tỏ ra hăng hái, đón ý chủ và cũng "sáng dạ" đáo để. Còn điều này nữa thì cả tôi lẫn anh Thành đều không nói ra. ấy là mẹ tôi thường hay đi chợ đến khuya. Bởi ở vùng tự do tùy địa điểm của từng làng xã quanh vùng mà họp chợ vào buổi sáng, buổi chiều hoặc buổi tối để phòng tránh tàu bay Pháp oanh tạc. Nên ở nhà chỉ có mấy anh em chúng tôi thôi. Thực tình chúng tôi cũng thấy sờ sợ. Nhất là tối đến. Từ khi xin con Vàng về nuôi, đêm tối nó lùng sục chỗ này, góc kia trong nhà, ngoài sân. Hễ thấy động là nó sủa liền nên anh em tôi yên tâm lắm. Anh Thành chúa sợ ma. Tối hay lỉnh đi chơi. Đến khi về nhà là tót lên giường ngủ ngay. Thành thử tôi phải thu dọn nhà cửa, xem chuồng gà, con lợn. Có con Vàng đi bên vững bụng hẳn.
Hơn năm nay tôi nằm liệt giường, chắc con Vàng băn khoăn lắm thì phải. Bởi không thấy tôi nô đùa với nó, hoặc thiếu vắng tôi trong những cuộc leo núi vui nhộn và thú vị.
Giờ con Vàng đã thành "mẹ sề" của mấy lứa con rồi. Nó đằm tính và càng tinh khôn hơn trước. Nó quanh quẩn bên tôi một lúc rồi phốc ra cánh đồng. Chạy được một quãng nó dừng lại quay đầu ngó nhìn tôi. Thấy chủ vẫn đứng ì ra nhìn, nó liền quay lại, ngoạm vào ống quần tôi giằng giằng kéo đi. Tôi đã chạy nhảy được đâu mà đi theo nó. Cúi xuống vuốt nhẹ tay lên lưng con Vàng, tôi nói:
- Tao chưa đi lại bình thường được. Thôi... một mình mày chạy ra cánh đồng đi.
Hiểu ý. Con Vàng cúi đầu lượn vòng quanh tôi mấy lần rồi mới thong thả bước từng bước một đi chỗ khác. Chắc nó cảm thấy nô đùa ngoài cánh đồng một mình thì buồn lắm. Tôi đứng tần ngần nhìn nó, lòng những thân thiết mến yêu như người bạn thân.
Mặt trời đã chui tọt xuống sau rặng núi đá vôi trùng điệp.
Bầu trời còn bừng sáng nhờ ánh hoàng hôn do sự khúc xạ của mặt trời phản chiếu. Núi non bàng bạc một màu xanh lam huyền ảo.
Từng đàn chim đang sải cánh bay về núi, chấp chới dập dờn trên các tầng mây. Tôi nhìn thấy rõ người đi kiếm củi đang gánh xuống quèn bên núi Cháy. Liệu đến bao giờ tôi mới có thể đi được tới đấy?
Cái Dung sang giúp tôi thu dọn mấy cái ghế đẩu, rồi múc nước vào chậu thau rửa mặt mũi tay chân cho tôi. Nó làm với mọi cử chỉ của người chị gái, đến tháo vát, gọn gàng. Chị Nhàn đi gánh nước qua thấy thế cứ tấm tắc khen mãi. Đến khi anh Thành với thằng Bền đi chơi kéo nhau về thì còn có mỗi việc đi thổi cơm. Tôi bám vào thằng Bền tập tễnh lê bước chân tới bếp. Anh Thành đong gạo, vo, nhóm lửa cho tôi ngồi đun. Thằng Bền hào hứng kể chuyện nó theo anh Thành đi thả diều ở bên kia núi Ngang, chỗ cái quèn dốc mà trước đây có lần con Vàng xồ vào hang bắt chuột, khi chạy ra trượt cẳng lăn theo sườn núi xuống, suýt chết.
Rằm tháng Tám.
Xóm Núi Ngang nhà nào cũng làm cỗ "trông trăng" vui tết Trung thu. Nhà khá giả thì giết gà giết vịt làm cỗ bàn cơm rượu, bánh trái hoa quả. Nhà nghèo khó nhất cũng cố kiếm quả bòng, nải chuối hoặc vài trái ổi cho con. Thành thử cái xóm Núi Ngang heo hắt bỗng rộn rịp tưng bừng.
Cứ như mọi năm thì mẹ con chúng tôi bồng bế nhau ra nhà ông ngoại ăn cỗ, chơi bời đến ngày hôm sau mới về.
Khi còn sống, bà ngoại quả là một người tài đảm nhất vùng. Chả thế mà ngày bước về nhà chồng chỉ có hai bàn tay trắng, cơ ngơi nhà chồng lụp xụp nghèo túng, tuy phận làm hai, bà xin ra ở riêng, tự mình lo toan tính toán công việc làm ăn. Vậy mà chỉ mấy năm sau, bà đã tậu ruộng tậu trâu, trông nom cấy cày hàng mẫu ruộng. Rồi mua đất làm nhà. Tòa nhà đến đẹp. Đá phiến bó thềm dài rộng hơn một mét. Nhà xây dựng kiểu Tây, có trần quét vôi sáng, vẽ những hoa văn màu xanh màu đỏ đến vui mắt. Cậu Tùng thường leo lên trần nhà bắt chim ngói, xiên nướng chả cho chúng tôi ăn, ngon hết chỗ nói.
Tuy là ngày tết của trẻ con, nhưng vì đông con, lắm cháu nên ông ngoại thường giết lợn làm cỗ hẳn hoi. Con cháu dâu rể nội ngoại về hết. Cả nhà quây quần đoàn tụ đến vui. Lũ trẻ con chúng tôi có dịp quen biết và nhận anh, nhận em vui chơi thỏa thích.
Từ ngày tôi ốm đau đến giờ, mẹ tôi không mấy khi nghỉ chợ cho anh em chúng tôi ra nhà ông ngoại chơi.
Dẫu sao anh em chúng tôi vẫn cứ háo hức chờ mong từ mấy ngày hôm trước. Chả là các anh chị Thanh niên cứu quốc trong Hệ Dưỡng tổ chức cho đội thiếu nhi ăn cơm kết đoàn, rước đèn, phá cỗ tập đoàn và còn diễn cả kịch. Không khí náo nức chuẩn bị ngày Trung thu cuốn hút tôi hòa nhập cùng anh em và chúng bạn bàn tính các trò vui. Nhiều khi tôi quên khuấy mình là thằng bé tàn tật ốm yếu.
Hồi tháng ba. Khi chú Thìn còn ở nhà. Nhân mấy ngày mưa tầm tã, rỗi rãi chẳng có việc gì, chú kiếm mấy thanh tre, tỉ mẩn vót nan làm cho anh em tôi một chiếc đèn con thỏ. Dán giấy vàng, điểm tai mắt mũi miệng bằng giấy trắng, nom giống ơi là giống.
Rồi chú lấy một tờ giấy bản rõ to, bọc kín lại để giữ đèn cho mới.
Treo cất lên xà nhà. Chú dặn để đến tết Trung thu mới được lấy xuống chơi.
Giờ ba anh em tôi cũng rối rít với chiếc đèn. Cố nhiên là tôi chỉ biết có trố mắt ngồi nhìn anh Thành hớn hở cầm cây đèn giơ lên cao hý hửng chạy lăng xăng quanh trong nhà, ra ngoài hiên, mặc cho thằng Bền đuổi theo túm vào chân gào thét đòi.
Mẹ tôi vẫn đi chợ như thường ngày. Bà để sẵn nải chuối với quả bòng cho anh em tôi, chờ tối đến cùng "phá cỗ". Nhân thể vào năm học mới, mẹ tôi may cho anh Thành một bộ quần áo bằng vải diềm bâu Nam Định nhuộm nâu hồi hè. Nghĩ mà tủi. Suốt ngày tôi ngồi ở nhà trông miếng vải nhuộm phơi ngoài sân mà những thèm mong được may áo quần bằng miếng vải đó. Mẹ tôi bảo sẽ may tất cho cả ba đứa để khỏi phải tranh nhau. Đến khi mang đi may. Tôi thấy mẹ bảo có mỗi một mình anh Thành đến nhà bác thợ may đo vải. Tôi đòi theo. Mẹ tôi bảo không đủ vải. Tôi không thể như thằng Bền chạy theo gào khóc. Ngồi ở nhà rân rấn nước mắt nhẫn nhịn.
Vốn đã trắng trẻo và xinh trai, anh Thành mặc quần áo mới, nom càng kháu khỉnh, sạch sẽ, bảnh bao. Thằng Bền lại được dịp hờn suốt buổi vì không được quần áo mới. Té ra bác thợ may đo làm phép người nó. Còn tôi, cũng chỉ biết nhìn, cố gạt đi mà vẫn cứ thèm. Nhà tôi nghèo quá. Tôi lại ốm đau bệnh tật chết đi sống lại mấy phen. Dai dẳng, ròng rã suốt một năm trời. Thì còn lấy đâu ra mà may mặc mua sắm thứ gì. Dẫu tôi có đòi thì mẹ cũng không thể kiếm đâu ra vải may cho. Vả lại tôi bị què quặt thế này, có đi lại được đâu mà cần đến quần áo đẹp. Ngay từ lúc còn bốn năm tuổi, chẳng mấy khi tôi được may quần áo mới. Toàn mặc quần áo anh Thành chật trút cho.
Rồi đến lượt thằng Bền ra đời. Nó không bị rơi vào cảnh như tôi vì quần áo tôi có thải ra thì cũng chỉ còn làm được khăn lau bàn, giẻ rửa bát là cùng! Nhiều khi cũng thấy tủi thân. Nghĩ mà ứa nước mắt.
Tối đến, anh Thành bổ quả bòng chia cho mỗi đứa một phần.
Nải chuối cũng được cắt ra tính từng quả, thật công bằng, không đứa nào hơn kém đứa nào. Ai ăn hết thì thôi. Đứa nào để dành cũng tùy.
Tôi có đi đâu chơi bời được mà ăn cho vội.
Thằng Bền chén liền. Nhưng nó không thể ăn hết được ngay phần của mình. Anh Thành quấn vào ăn dỗ của nó. Còn phần của mình, anh ấy giấu vào khe đá đầu hồi nhà. Anh ấy hứa sẽ cõng thằng Bền vào Hệ Dưỡng cho cùng đi rước đèn và xem kịch. Thằng Bền hớn hở không đòi quần áo mới nữa. Không những thế, còn quả chuối, múi bòng nào nó đều đưa hết cho anh Thành ăn.
Có mấy đứa bạn gọi ở ngoài sân. Không kịp đóng chuồng gà, ngó qua con lợn, anh Thành vội cầm cây đèn con thỏ chạy tót ra với chúng bạn, quên khuấy lời hứa với thằng Bền. Nó bật gào khóc chạy đuổi theo gọi. Vướng hèm cửa nên không túm được áo anh Thành giữ lại, nó ngồi bệt xuống đất, tay chân cào đạp tứ tung.
Anh Thành mải chạy theo chúng bạn, nói vọng lại qua hơi thở:
- Mày ở nhà chơi với thằng Vững. Đi theo tao lội qua dòng nước thế nào được.
Tháng này, tuy con nước ròng nhưng chỗ đầu núi Ngang sang làng Hệ Dưỡng là quãng đồng trũng, đi qua lại phải lội bì bõm đến bụng chân người lớn. Đám trẻ em phải tụt quần lội qua.
Tôi bước lần ra ngồi dỗ thằng Bền mãi mà nó vẫn không thôi gào khóc. Không những thế, nó còn nằm bò ra đất ăn vạ. Tôi những tức anh Thành quá. Thà anh ấy đừng nói dối, mặc nó chơi từ chập tối thì đâu có đến nông nỗi này! Chắc nghe thấy tiếng khóc gào của thằng Bền, chị Nhàn chạy sang:
- Thế thằng Thành đâu rồi?
- Anh ấy mang đèn vào Hệ Dưỡng đi rước với đám thiếu nhi trong ấy rồi.
Tôi nói, lòng những ấm ức, suýt nữa thì cũng khóc òa. Chị Nhàn bế thốc thằng Bền lên:
- Thôi... Vững lên giường ngủ đi. Chị bế thằng Bền cho nó chơi rồi ngủ luôn ở bên nhà với chị.
Chị Nhàn đi rồi, tiếng thằng Bền khóc tỉ ti vẫn còn vọng lại.
* * * Thế là chỉ còn mỗi một mình tôi ở nhà. Ngoài trời trăng đã lên. Sáng quá. Bầu trời trong vắt, cao thẳm, dát vàng xuống mặt đất, ruộng đồng, núi non, làng xóm. ánh trăng hắt vào cửa nhà làm bừng sáng mọi chỗ. Làm sao mà tôi có thể lên giường đi ngủ ngay được. Tiếng trống ếch cà rùng, cà rùng từ trong làng Hệ Dưỡng vọng ra lúc rõ lúc mờ. Chắc anh Thành đang hớn hở đốt ngọn đèn dầu bằng cái lọ thuốc tây nút kín có sợi bấc, nhét vào đầu ống nứa tép trong mình cái lồng đèn con thỏ, hòa vào đoàn trẻ con rồng rắn cùng giơ cây đèn lên cao. Giờ này, lũ trẻ con xóm Núi Ngang vào đấy hết cả rồi nên im ắng một cách lạ lùng. Tôi thấy buồn buồn và cô quạnh quá.
Trăng sáng tỏ, bát ngát và dịu mát làm sao! Tôi lết chân bước ra hiên. Bầu trời cao vời vợi nên ánh trăng cứ huyền ảo, mộng mị một thứ ánh sáng dịu mắt và mơn trớn. Không gian thêm bao la. Cánh đồng lúa lên xanh nhấp nhô muôn lớp sóng tới chân núi Cháy. Còn dãy núi đá vôi trùng điệp như bức tường thành lúc này ẩn hiện bàng bạc tắm trong ánh trăng.
Tôi thẫn thờ đứng nhìn trời đất hồi lâu. Cứ thế cho đến khi mỏi chân, tôi ngồi bệt xuống thềm hiên trước cửa nhà. Con Vàng từ đâu đó ngoài chuồng lợn đi vào. Nó ngơ ngác nhìn tôi đang ngồi như một cái bóng. Không rõ nó có đoán biết được tâm trạng tôi lúc này hay không mà nó cứ ư ử trong họng như muốn nói điều gì đó. Quẩn quanh bên tôi một lúc rồi bỗng nó phốc vào nhà. Chẳng biết nó lục sục mò mẫm gì đấy hồi lâu. Lúc sau con Vàng tha ra túm chuối bốn quả đem lại chỗ tôi ngồi, nhả miệng để đấy. Nó hí hửng làm được một việc cho chủ, chiếu thẳng hai mắt nhìn tôi. Tôi kinh ngạc trước sự việc và ngỡ ngàng đối với "người bạn" thân yêu này. Sao nó tinh khôn đến thế? Thân tình đến thế?
- Vàng ơi... Mày đem cho tao đấy à?
Tôi khẽ thốt lên hỏi nó. Mà không biết tại sao tôi lại buột miệng hỏi con vật như thế. Con Vàng chẳng rõ có hiểu được câu hỏi của tôi hay không mà nó gật gật cái đầu, trong miệng ư ử, cái đuôi ngoáy tít.
Tôi cầm lấy túm chuối. Con Vàng đến khôn. Nó ngoạm vào cuộng chuối chứ không ngoạm vào quả. Nhìn túm chuối tôi mới ngẩn ra. Bốn quả chuối này là của anh Thành. Anh ấy giấu kín vào khe đá kia mà. Chắc là nó để ý nên mới biết. Tôi chống tay đứng dậy cầm lấy túm chuối cất đi. Ai lại ăn vụng phần của anh ấy. Con Vàng cuốn vào chân tôi ý không bằng lòng. Tôi vẫn nhẹ tay đập đập vào lưng nó:
- Đây là phần của anh Thành đấy. Mày không biết à? Tao không ăn vụng của anh ấy đâu.
Con Vàng sủa gâu gâu mấy tiếng. Nó vẫn bám theo tôi vào nhà. Tôi cất túm chuối đi cho anh Thành. Rồi lại lết chân bước ra thềm hiên trước cửa. Ngồi ngắm nhìn bâng quơ trời đất, núi non đồng ruộng được ánh trăng nhuộm cho cái màu thần thoại mà tôi mường tượng từ trong truyện cổ tích vẫn thường nghe ông ngoại kể. Con Vàng đành chịu. Nó lùng sục quanh nhà, chuồng gà, chuồng lợn như làm công việc thuộc bổn phận của mình - tên lính gác giữ nhà cho chủ. Nó ăng ẳng sủa chỗ này, góc kia như đánh tiếng đi tuần. Xong đâu đấy, nó lại quay vào nằm cạnh chỗ tôi ngồi.
Chợt có một con chuột đồng to bằng con chó con chưa mở mắt chạy vút ngang qua sân vào chỗ vại nước giáp chân núi. Tôi run bắn người, hốt hoảng. Gắng lấy hết sức bình sinh để tự chủ, xua đuổi sự sợ hãi đi. Chân què chạy trốn làm sao được. Con Vàng mắt tinh lắm, nó phốc đuổi theo liền. Nhưng không kịp rồi. Con chuột đen trũi đã kịp lẩn trốn thoát thân vào một khe núi nào đấy. Khi tôi hoàn hồn là lúc con Vàng sủa vuốt đuôi một cách giận dữ và bất lực. Tiếng sủa của nó đập vào vách núi vọng ra âm oang nhại lại nghe đến rùng rợn, cổ xưa, hoang hoải.
Cuối cùng, con Vàng cũng đành trở vào nằm xuống chỗ cũ bên cạnh tôi, miệng còn ư ử hậm hực. Tôi kéo cổ nó ôm vào lòng, vỗ về cho nó nguôi cơn bực tức, thân thiết như người bạn.
Trước đây tôi vốn đã thích con Vàng. Và bây giờ, cuộc sống càng gắn bó nó với tôi. Nó là người bạn trung thành và thủy chung nhất mực. Bất chợt tôi bỗng thèm muốn giá nó có thể biến ra người nhỉ? Nếu không được, thì cũng biết nói như người. Hẳn lúc này tôi sẽ sung sướng biết bao. Bởi được như thế, tôi sẽ không bị cô đơn nữa, có "người" để trò chuyện với nhau. Tôi sẽ chia sẻ nỗi buồn sâu kín trong lòng mình với nó. Tiếc thay, con Vàng chỉ là một con chó. Dẫu khôn đến mấy, nó cũng không thể nói được như người. Khiến tôi... những lúc như thế này, có miệng nói thành thừa, buộc phải câm lặng. Và như thế, một đứa trẻ hiếu động, mau mồm mau miệng như tôi làm sao mà chịu nổi. Tôi cứ vẩn vơ nghĩ ngợi. Cũng chẳng biết nghĩ ngợi gì. Buồn quá. Buồn đến ứa nước mắt.
Trăng đã lên qua khỏi bên sườn núi Ngang. Trăng tròn như quả bóng vàng au. Tôi man mác nhớ tới câu chuyện Chú Cuội ngồi gốc cây đa, bèn chăm chú nhìn lên Cung Quảng. Thử tìm xem lúc này Chú Cuội ngồi ở chỗ nào? Tìm mãi... tìm mãi cho đến mỏi mắt cũng chẳng thấy. Mặt trăng chỉ là một cái đĩa dát vàng lơ lửng giữa bầu trời. Nhưng tâm trí tôi vẫn cứ bị hút vào câu chuyện cổ tích. Để rồi đắm mình trong một giấc mơ. Có tiếng ai đó hát thoảng đến tai tôi, giọng con trẻ véo von vang lên giữa tĩnh mịch nghe sao mà lạc lõng, đơn điệu và thoáng buồn man mác:
Chú Cuội ngồi gốc cây đa Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời Cha còn cắt cỏ trên trời.
Mẹ thì cưỡi ngựa đi chơi thuyền rồng... Tôi ngoảnh nhìn đó đây mọi phía xem tiếng hát đó vang ra từ đâu. Trời đất quanh tôi lặng tờ. Rừng núi xóm làng mờ dần trong sương. Đêm thu. Trăng sáng đến lạnh lùng. Tôi bỗng thấy mình bé nhỏ quá, cô đơn quá.
Chợt có tiếng bước chân người lạo xạo giẫm trên đường đá đi về phía nhà tôi. Anh Thành đi rước đèn đã về ư? Không phải! Tôi bồi hồi chờ đợi. Cái Dung như từ trong ánh trăng, hệt như một cô tiên bé nhỏ xinh xắn và lộng lẫy, bước ra tiến lại chỗ tôi.
- Đằng ấy ngồi một mình ở nhà à?
Không hiểu sao tôi lại xịu mặt không nói gì. Cái Dung sướng thật. Nó vừa xinh xắn lại là con nhà giầu, được bố mẹ chiều chuộng ăn diện thỏa thích. Còn tôi... Tôi cũng là một đứa trẻ như nó. Vậy mà sao tôi... sao tôi... Tôi những nghẹn ngào, có cái gì nghẽn tắc ở cổ họng.
Cái Dung ngồi sụp xuống bên cạnh tôi:
- Sao... đằng ấy khóc à?
Tôi bỗng nấc lên như đứa trẻ tủi hờn với chị gái. Cái Dung quàng tay ôm tôi vỗ về:
- Thôi... nín đi! Tớ mang bánh dẻo cho đây này...
Nó dúi vào tay tôi gói bánh và kể lể:
- Mẹ tớ dẫn tớ vào trong Hệ Dưỡng ăn ở cỗ nhà một người cùng quê chạy tản cư vào đây. Chứ không, tớ đã sang chơi với đằng ấy từ chiều cơ.
Tôi nói trong tiếng nấc:
- Thế không xem rước đèn à?
- Không. Ăn cỗ xong là tớ đòi mẹ đi về. Lội sang núi ướt hết cả quần đây này.
Nói xong, cái Dung buông tôi ra, đứng dậy: - Tưởng đằng ấy đi ngủ nên tớ không mang xôi sang. Để tớ về lấy cho nhé.
- Tớ không ăn đâu - Tôi lắc đầu.
- Không. Xôi ngon lắm! Có cả thịt gà nữa...
Nó vụt chạy về nhà. Tiếng đá lạo xạo dưới chân. Tôi kéo vạt áo lên lau nước mắt. Nỗi buồn tủi dần dần tan biến. Cái Dung trở sang với gói xôi to tướng bọc lá chuối:
- Đằng ấy ăn đi này.
Tôi lắc đầu:
- Tớ không ăn thật mà. Bụng no rồi.
- Thế chiều nay đằng ấy ăn cơm với gì?
- Ăn với mắm cua.
- Vậy thì ăn thêm ít xôi với thịt gà đi. Ngon lắm cơ.
Tôi xua tay:
- Tớ chẳng ăn nữa đâu.
Thấy tôi dứt khoát. Cái Dung đành chịu, nó dỗ dành:
- Vậy tớ cất vào nhà để sáng mai đằng ấy ăn nhé?
Chẳng cần tôi có đồng ý hay không, cái Dung cứ mang gói xôi vào để trên phản. Khi quay ra nó bảo:
- Còn cái bánh dẻo thì đằng ấy ăn ngay vậy.
Rồi nó cứ bắt tôi phải ăn bằng được. Tôi dè dặt cắn một miếng bé. Chao ôi... ngon quá đi thôi. Mùi bột nếp thơm lựng, dẻo dẻo là. Nước miếng ứa ra đầy miệng. Cái Dung im lặng nhìn tôi ăn. Nó nghĩ gì? Nào tôi có biết. Rồi nó lên tiếng:
- Hôm nay mẹ con tớ gặp ông giáo Kỳ đấy.
- Thế hả?
Tôi ngước mắt nhìn nó, không biết thầy giáo Kỳ có còn nhớ tôi nữa không? Cái Dung kể cho tôi nghe mọi chuyện. Ông giáo Kỳ mời mẹ con nó vào nhà chơi. Nhà ông làm cỗ Trung thu to lắm. Hoa quả, bánh trái xếp đầy trên ban thờ. Ông giáo nói với mẹ nó nhiều chuyện lắm. Ông Kỳ khen nó viết chữ đẹp, chăm chỉ học tập ở lớp. Ông còn hỏi mẹ cái Dung có biết vì sao tôi bỏ học không. Mẹ nó liền kể mọi sự thể. Ông Kỳ ngồi ngẩn ra nghe. Ông cứ lắc đầu tràn:
- Nó là thằng bé học sáng dạ lắm - ông nói: - Thật là tội nghiệp cho thằng bé. Chứ nếu nó vẫn khỏe mạnh, được học hành thì sẽ tấn tới đấy.
Cuối cùng, cái Dung bảo:
- Ông giáo đưa tớ mang cái bánh dẻo về cho đằng ấy đấy.
Nghe cái Dung nói mà lòng tôi bỗng xốn xang một nỗi khát khao khó tả. Liệu đến bao giờ thì tôi chạy nhảy đi lại như chúng bạn để cùng cắp sách tới lớp học?
Sực nhớ ra điều gì, cái Dung reo to:
- À... Ông giáo Kỳ bảo tớ hỏi đằng ấy có còn nhớ mặt chữ, đọc sách được không?
- Để làm gì?
- Ông giáo sẽ cho đằng ấy mượn sách truyện mà đọc.
Tôi lắc đầu thất vọng:
- Nhưng tớ làm sao đi được vào trong làng?
Cái Dung hiểu ý tôi muốn nói, nó bật cười:
- Rõ ngốc! Tớ sẽ mượn mang về cho đằng ấy chứ.
Tôi ngồi ngẩn ra. Từ ngày ốm dậy, sao tôi không nghĩ tới chuyện học hành, đọc sách cho nó bớt buồn? Tôi đưa tay gãi gãi đầu:
- Ừ nhỉ. Nhưng chả biết bây giờ giở vở ra xem chữ tớ có còn nhớ hay không đây.
Tôi bèn bảo cái Dung vào lấy vở của anh Thành ra cho tôi xem thử. Chà khoái quá! Tôi vẫn còn nhớ mặt chữ, đọc lưu loát như trước có sướng không. Cái Dung nhìn tôi mỉm cười, lõm sâu má lúm đồng tiền trên má. Nhưng cả hai tay tôi cầm quyển vở cứ run run. Cái Dung bảo là không sao cả. Tôi có viết lách gì đâu mà lo. Cứ đặt sách xuống phản rồi lật từng trang ra mà đọc.
Đã khuya. Cái Dung ra về. Tôi cũng vào nhà, lên giường đi ngủ. Con Vàng sủa ông ổng phía ngoài chuồng lợn rồi vào nằm ở hiên trước cửa ra vào. Nó còn ư ử trong họng mấy tiếng nữa mới thôi. Nó thật là con vật mẫn cán với công việc thuộc bổn phận mà chủ nhà phó thác. ánh trăng hắt vào bừng sáng cả góc nhà. Tôi nằm thiu thiu đi vào giấc ngủ lúc nào không hay, ngon lành và thanh thản.