PDA

Xem đầy đủ chức năng : Truyện Sưu Tầm - Posted by "ABC" ^^!



Cát
01-12-2006, 11:09 AM
Cải lạc loài...

Dương Bình Nguyên

Bà già ngồi im lìm sau những đống cải khô, cái miệng thèm nhai trầu mà chẳng còn răng cũng im lìm, hai hốc mắt thầm lặng nhìn con đường phía trước mặt. Bà ngồi chờ chiếc xe tải cuối cùng, chất đống cải khô lên thùng để về làng. Từ đầu làng, bà sẽ đi bộ về nhà. Nhà bà chót vót trên đỉnh núi. Nơi ấy mỗi năm lại một mùa hoa cải. Rực rỡ.

Bà chờ hoa cải rụng, những chiếc hạt nằm căng mọng trong những chiếc quả giống như những lưỡi kiếm nhỏ đang muốn căng mình. Bà đi cắt, rồi phơi, khi những cành cải thơm ngái thì bà gom về, tết thành từng bó. Bà cất chúng trong căn nhà bé xíu được dựng bằng gỗ tùng vàng. Suốt cả mùa hè, bà ngồi nhìn đống cải khô vàng, bà ngủ trong lòng hương thơm nhẹ khiết của chúng. Rồi đến mùa đông, bà rời xa nó, bà đem chúng xuống chợ huyện, gửi bán cho người ta. Những chiếc hạt bé xinh sẽ được dịp bung ra, những lưỡi kiếm cũng vụn ra. Và hạt cải nảy mầm. Hoa cải của bà vàng tràn từ lưng chừng trời xuống mãi dưới bình nguyên, nơi những đứa trẻ mải mê đem tình yêu hoa vàng vào những câu thơ nhiều đến mức chưa bao giờ biết chán. Hoa cải như biểu tượng của thị trấn, người ta lần tìm đến nó cho mỗi năm một tháng ba. Bà tên Vịn, còn tôi gọi là bà nội. Bà nội không sống với ai, bà không thương nổi bố tôi, cũng chẳng cưu mang tôi. Nhưng mỗi khi cần lẩn trốn cuộc sống của mình, tôi về đây, sống với bà, với hương cải vàng, thơm miệt mài.

Tôi về nhà đúng bữa tan sương, đường về nhà cong như một nét phác thảo, hai bên là những tàng cây chó đẻ nở hoa tơi bời, những bông chín rụng bay tràn với gió, lẫn cả vào tóc, cắn nhẹ lên cổ áo. Thị trấn thay đổi nhiều, đường vào nhà bà nội bê tông nhựa đường cũng xấn xổ vào cả, chỉ mỗi bà nội là vẫn thế. Bà nhìn cái ba lô lấm tèm lem của tôi, nói lều phều, cái giọng toàn lợi và lưỡi: Tao mệt mày quá, mày lại lọ mọ về đây làm cái gì thế? Tao không có cơm có gạo cho mày đâu. Có khi nào mày mang được cái thân hình thơm tho tử tế về không hả? Đi ngay, đi ngay. Nói xong câu đó thì nước dãi bà đã nhểu ra, rồi kéo thằng cháu mất nết lết quết quần áo bẩn thỉu ngồi xuống, lấy cái nón quạt lẹt phẹt chả thấy gió chỉ thấy vướng và tay bà gầy nhẳng như cánh cò đói. Tổ sư bố chúng nó, nó lại hành con phỏng? Mệt bà quá, lần nào cũng hỏi, về ở với bà không được à? Thế thì tổ sư bố nhà mày, về được bao nhiêu hôm? Về khi nào bà đuổi thì đi. Thế thì mày đi ngay cho khuất mắt, bố tiên nhân ranh con. Mày làm sao mà đầu cắt trọc lốc thế hả? Cháu bị nấm tóc. Thế ai bắt mày để râu dài thế kia? Đứa con gái cháu yêu. Lại bị nó bỏ nó đi lấy chồng mất chứ gì? Giống hệt thằng bố mày... Thôi bà, bà để cho cháu yên, bà bán hết đống cành cải rồi à? Thế tao để làm thuốc chữa ghẻ chắc? Bà này, đã bảo để lại cho cháu một ít mà, nói bao nhiêu lần rồi, bực mình quá. Tổ sư bố ranh con, tao phải treo trên chái nhà ấy, không chuột nó cắn cho nhừ tử, ở đó mà bực mình. Thế dạo này có gặp lại con bé không? Bà hỏi con bé nào? Còn con bé nào nữa? Con bé đẹp người dẫn về đây rồi, hồi đó tao cứ tưởng là cưới nhau. Bà nói làm tôi khựng lại. Bà hỏi làm gì thế, nhiều chuyện quá. Lúc nào cũng là cái chuyện đó, mệt quá rồi. Bà ậm ừ, con bé đó xinh thật là xinh, mà sao... Mà sao tôi không giữ được em chứ gì? Ờ, ngày em về đây với tôi, gần như bà trẻ ra vài chục tuổi. Bà tíu tít lấy nước cho em rửa chân, bà nấu nước hoa cải cho em tắm, bà múc từng gáo nước ấm dội lên mái tóc em. Đêm ngủ trên giường bà nằm giữa, không cho tôi chạm vào người em. Với bà, em hoàn toàn trong sáng và tinh khiết. Nhưng chúng tôi có yêu nhau không nhỉ?...

Tôi nấu cành cải vàng, trộn vào cùng mùi lá bưởi và loài lá hong khô bà không cho gọi tên. Một nồi nước vàng hượm. Ngoài sân, trên cầu rửa, bà vẫn để chiếc chảo vạc lớn, dưới đáy có cái van nút bằng cuộn giấy nilon. Tôi gọi, bà ra tắm đi, trưa nắng tắm cho khỏi cảm. Bà ra đây cháu cọ lưng cho rồi tí nữa còn cọ lưng cho cháu chứ. Bà lụm cụm ngồi dậy, sống áo dềnh dang, tao chẳng biết còn sống bao nhiêu năm để mày về cọ lưng nữa. Lưng tao toàn xương ống, xương sườn, mày cọ nhẹ thôi chứ ông hộ pháp. Tắm xong bà thay bộ quần áo mới, trông hồng hào hơn. Bà đừng có mà bỏ trốn, phải cọ lưng cho cháu đấy. Để tao đi lấy nắm mùi khô, lưng mày vẫn còn mọc mụn phỏng? Hết rồi, cháu đi massage bọn tiếp viên rỗi việc nó nặn hết mụn rồi. Nó đấm bóp có bằng bà đấm cho mày không? Đàn ông con trai chúng mày toàn mất tiền nhảm nhí, vào những chỗ chẳng ra gì. Thế tí nữa bà massage cho cháu nhé? Bà bóp bằng cái dầu cây gì ấy, cây óc chó à, thơm ơi là thơm. Bà cười, thôi, tao mệt lắm, không đủ sức làm tiếp viên cho mày nữa đâu...

Trời mùa đông chiều xuống nhanh. Đêm đến trời giá và gió phả về từ những đỉnh núi, xuyên qua những ván gỗ. Nhưng căn nhà ấm sực mùi dầu thơm. Bà nằm trong lòng tôi, cọt kẹt trở mình không biết bao lần. Bà này, cháu ru bà ngủ nhé? Bà than, tao thèm miếng trầu quá. Nhưng mà bà làm gì còn răng mà nhai. Mày giã cho bà một cối, bà ngậm lấy cái hơi cho nó đỡ thèm. Mệt bà quá, rồi bà lại nhểu cốt trầu ra ngực cháu ý. Sư bố ranh con, cái mồm đầy cốt trầu này ngày xưa nhai cơm mớm cho mày đấy. Nhưng mà bây giờ cháu chỉ thích những đứa con gái có răng trắng đều, miệng thơm như cơm nếp nương. Nói thật đi, mày yêu bao nhiêu đứa con gái, mày ngủ với chúng nó bao nhiêu lần? Bà hứa là không đụng đến cái roi trên gác bếp nhé? Mày cứ kể đi, bà già rồi, bà không có hứa hẹn gì hết. Bà ngậm miếng trầu trong miệng, nhai chọt choẹt. Cháu yêu tám đứa, ngủ chín mươi chín lần rồi. Đứa nào ngủ nhiều nhất? Cháu quên rồi. Bọn nó đều xinh mà bà. Nhưng chuyện ngủ nghê nhiều khi nhạt nhẽo. Mày nằm đấy để tao đi thắp cái bóng đèn, đốt cái bếp lên, trời lạnh quá. Bà định làm cái gì đấy? Cháu đã nói là bà không được đụng đến cái roi mà. Bà vẫn đi thổi lửa bếp. Rồi bà rút cái roi xuống, hình như là hai chục năm rồi, từ năm tôi lên bảy bà đã có nó, mỗi năm bà sẽ có dịp sử dụng một lần, khi thì là tôi, khi thì bố tôi. Mày lột quần ra, nằm xấp mông xuống. Cháu nói thật mà bà đánh cháu à? Thế lần sau cháu nói dối đấy. Bà quất thật, đau thật. Tôi vừa cố ghìm tiếng xuýt xoa vừa bảo, tay bà già quá, bây giờ đánh cháu chẳng đau gì. Bà quất tiếp một nhát roi nữa. Bà, sao bà đánh cháu chứ? Yêu nhau thì ngủ với nhau, có làm gì xấu đâu? Thế cộng bao nhiêu lần đi massage? Cháu làm sao mà nhớ được, nhậu xỉn đi massage, xong việc thấy dễ chịu thôi. Quất cho mày thêm roi nữa. Bao nhiêu năm rồi vẫn như con chó hoang. Mày có nhớ mặt đứa nào không? Nhiều quá mà, làm sao nhớ, sao bà cứ hỏi làm gì, rồi lại đánh cháu. Mai cháu không đi được là tại bà đấy. Lỡ cháu ị đùn như ngày xưa thì bà phải đi đổ bô đấy. Đánh cho chết cái tật giống thằng bố mày. Hư hỏng ăn chơi rồi về già ngồi như một khúc gỗ mục. Lần nào đánh cháu xong lại so với bố cháu. Thôi, không cho bà đánh nữa, đánh rồi mất công so sánh... Thế thằng bố mày đâu, cả năm không thò mặt lên đây để tao trị tội hả?

Bố tôi ở đâu? Bố tôi ở cái xứ nào tôi cũng chẳng nhớ, chỉ nghe qua điện thoại giọng nói khào khào như cơn mưa ban trưa. Ông bảo, giờ ông yếu quá, chân bị loãng xương rồi, đâu có làm được gì nhiều, ngồi nhà nhìn đám con đi làm ăn rồi tối lại xem ti vi. Thằng em con bà mẹ dì có bữa đi lơ xe tôi gặp chân cầu Long Biên, bảo anh có ghé thăm ông già không, giờ ông ấy nằm nhà, đâu có đi được đâu, đụng vào người chỗ nào đau chỗ đó, loãng xương mà, nửa đêm kêu ời ời thấy gớm. Tôi thoái thác nó, nói chừng nào thu xếp rồi ghé chơi với ông già, giờ công việc toà soạn bận bời bời, đâu dứt ra được. Nó nói, anh làm cái giống gì? Tôi nói, thì đi viết bài, viết phóng sự điều tra mát xa mát gần. Nó cười hăng hắc, ông nói láo ăn tiền, đụng đến niêu cơm của tôi tôi đánh mất hàng tiền đạo. Tôi cũng cười, bắt chước gần giống cái giọng hăng hắc, ờ, mày thì ngon quá, kiếm mỗi ngày vài triệu không? Nó nói đủ tiêu, cũng mua được cho ông già mỗi tuần một lon sữa canxi. Tôi thấy mình cũng hơi tệ, dúi nó mấy trăm, tuần này tao mua sữa can xi nhé. Nó lại cười, mẹ đời, nhỏ tới giờ mới thấy ông anh mua quà cho ông già. Nhưng mà cũng cảm ơn. Tôi biết, ông ấy đối với anh cũng chả ra cái mẹ gì. Rồi nhận được cái hộp canxi sữa thằng em lơ xe đưa, chắc nó cũng nói của tôi mua, ông già gọi điện, khiến tôi giật mình đánh thót. Có một câu duy nhất ông nói tôi thấy đáng nghe, rằng ông bảo ông bất hiếu quá, nên giờ tôi phải chăm sóc bà.

Nhưng tôi làm sao chăm sóc được bà. Ngày tôi kiếm được món tiền từ mấy đứa đại gia doanh nghiệp chíp hôi, cứu chúng nó khỏi cảnh tù tội, mua được cái nhà chung cư giá hơn năm trăm triệu, tôi gần như cưỡng chế bà xuống thành phố, lôi xềnh xệch bà cùng nắm cải vàng. Vậy mà bà cự tuyệt, được ba hôm hưởng gió lầu cao thành phố rồi bỏ ra vườn hoa ngồi chơi với đám bán hàng rong, tối mịt chưa chịu về. Rồi bà đi bà nói với người ta, có thằng cháu làm nhà báo, nhưng mà hư hỏng quá, chán nhà không muốn ở, đi chơi cho nó xấu mặt. Tôi ra vườn hoa, lại một lần cưỡng ép về. Bà than, trời ơi, nhà mày cái tủ kem nó cứ kêu ì èo ghê quá, như chứa ma gà ma xó. Bà tôi gọi tủ lạnh là tủ kem, cái điều hoà nhiệt độ là cái máy mùa rét, gọi ông già hàng xóm mê phim chưởng là con ngáo ộp, gọi bà bán vé số tô son đậm là Hắc tinh tinh, bà gọi những cô gái lượn qua nhà tôi mỗi buổi trưa khi bà sang hàng xóm hóng chuyện hầu bóng là Bạch cốt tinh. Bà dằn tôi ra giường, lấy cái quạt giấy đập phì phẹt vào mông, mày ngu lắm, mấy con Bạch cốt tinh nó hút hết cả máu cả tuỷ của mày. Tôi bảo, bà đừng có lo, cháu quá già để ngây thơ với mấy vụ đó. Bà bảo, đàn ông khôn đông khôn tây rồi chết dưới váy đàn bà. Chết đúng những vùng nhạy cảm đó cũng được bà ạ. Tiên sư bố ranh con, nói mãi không chịu nghe, rồi tao lên gặp lãnh đạo cơ quan, bảo người ta tống cổ mày ra đường. Cháu thất nghiệp bà nuôi cháu được không? Ngày xưa mày chưa biết thế nào là bú mớm tao còn nuôi mày lớn tướng. Ngày xưa là ngày xưa thôi bà ơi...

... Đêm càng về sáng sương rơi càng nặng. Những phên lá đao trên mái già cũ quá, lộ cả những vùng sao trời, sương rớt vào má, vào trán, thấy da xon xót và lạnh như kem. Tôi bảo bà, bố cháu vẫn sống tốt, còn mẹ cháu thì cháu chịu đấy, bà đánh cháu trăm roi cháu cũng chịu. Ờ, tao cũng chả biết con mẹ mày đi đâu. Đàn bà nhiều khi cứ oái oăm thế, trong đục đời mình không tự quyết lấy, mà dựa vịn vào những thằng đàn ông chả ra chó gì, như cái thằng bố mày. Thế còn bà thì sao? Ngày xưa ông nội có ra gì không mà giờ bà sống một mình? Ông nội mày đẹp trai nhất cái vùng này. Bà yêu ông nội mày từ lúc bà mới mười tuổi. Mỗi lần ông đi qua nhà, bà đều tìm cách để được nhìn thấy ông gần nhất. Bà thường gài hoa lên tóc. Ông cười, hay xoa đầu. Thế mà mấy năm sau ông nội không xoa đầu nữa. Mà thành ra có thằng bố mày. Rồi ông ấy đi buôn nứa xuôi bè, người ta đồn thác sóng mạnh quá mà mất xác. Tao thì tao chả tin, có khi ông ấy đang sống trên cái bãi bờ nào dọc cái con sông Cầu này, chứ ông ấy làm sao mà chết. Thế bà có đi tìm bao giờ không? Có đi mà chẳng thấy nổi một cái tăm cá. Có khi ông lấy vợ khác, đẻ ra cả mấy cái làng dưới hạ lưu cũng nên. Bà chép miệng, nước bọt nhễu nhão, ờ thì cũng làm sao mà biết, đời người ta có khúc như sông, cũng trả trách ông mày. Bà chả tin mà vẫn còn thắp hương cúng là sao? Thì cúng thần linh sông suối, cùng cho nó an cái tâm mình. Bà ngồi bếp, tuổi già ngủ chả mấy nả, miệng vẫn còn tiếc rẻ miếng bã trầu tươi. Toàn, mày dập thêm cho bà một cối nữa, đời bà là đời cái bã trầu, nhìn ngoài thì tươi roi rói mà trong xơ xác như lúa sau bão. Thế có khi nào bà nằm mơ thấy ông về không? Tao thức đêm bao nhiêu năm rồi, chả mơ mộng gì, thế mới tin là ông ấy còn sống. À, hôm trước có người nói ông nội mày sống dưới Ba La Tắc Cun, nhà lão ấy sống bằng cám ngô, ăn bằng cháo ngô, uống bằng rượu ngô, vợ đẻ một bầy con, con sinh thành bầy cháu như những bầy lợn nái, nghe phát tởm. Tao nghe, tặc lưỡi cười, chân tao nhức quá rồi, chả đủ sức đi tìm lão ấy nữa. Mà giờ thì cũng mấy chục năm, xa nhau dài như một kiếp khác, gặp nhau rồi lại thấy mình vớ vẩn, cũng chả thiết. Chi bằng cứ để trời nó tính cho đời mình. Đời tao cũng chả còn thiếu gì, biết mọi sự, sướng khổ cũng đủ rồi. Thế bà có muốn cháu thử đi tìm không? Thôi, mày rảnh rỗi thì lo kiếm vợ nó đẻ con cho. Cứ kiếm đứa nào nó chịu lấy mày là được. Xinh không mài ra mà ăn. Không có việc thì đem nó về đây, đất đai của bà không thiếu. Bà đúng là bà già nhà quê lẩn thẩn. Bọn con gái nó chịu chui về cái xứ khỉ này nó ở với bà chắc. Trên đời này chỉ có bà khoái chí với cái miệt chó đá này thôi. Cháu không hiểu được. Bà tức quá, móm mém khóc, cầm roi quật tiếp vào chân tôi. Mày biến đi, thằng chó con, đời bà khốn khổ khốn nạn ở cái xứ này rồi, bà không đi được. Mày bị bả thành phố nó lây nhiễm, mày hư hỏng, sống như con chó dại, đời người không ra sao. Không vợ không con, đời nhìn như lá vàng. Tôi cười, ôm chặt lấy bà, nhấc bổng bà lên. Bà khóc làm gì, để cháu bế cháu ru bà ngủ nhé. À ơi, gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại chịu đời đắng cay... Bà nhẹ tọp, nước mắt cạn, bà khóc mà như sương thu. Mày ru trả nợ bà ngày xưa đây, ôi, thằng chó con, mày không sống cho tử tế tao chết chắc cũng không nhắm được mắt...

Thực ra thì mẹ tôi không phải không về thăm, nhưng ngày đó tôi ghét mẹ, tôi là đứa cực đoan bướng bỉnh và thiếu kiên nhẫn, sống vội vàng. Mẹ tôi về, mang những thứ quà rách rưới nhặt được từ đâu đó, mà về sau tôi mới biết là bà phải năn nỉ những đứa con của chồng để chúng không bán cho đồng nát và mang về cho tôi. Tôi mang những món quà xấu đến dị người và thum thủm mùi nước cống đó buộc vào con bù nhìn coi vườn cải. Mẹ tôi nhìn, khóc rưng rức, Toàn, mẹ xin lỗi con. Tôi cười, mười tuổi tôi đã học được cách cười khẩy của bà, những thứ rác rưởi này làm bù nhìn coi cải là tốt quá rồi. Bà đi đi, đừng bao giờ mang những thứ thiu thối này về. Đời tôi sẽ không cần bà đâu. Tôi sẽ sống để bà chống mắt lên mà nhìn... Về sau, tôi thấy mình ác, mà cũng không biết mẹ tôi đã chuyển đến xứ nào, sống chết ra sao mà tạ lỗi. Ngày tôi vào đại học, bà tôi có cho địa chỉ của mẹ dưới thành phố. Nhà mẹ ngay dưới bãi sông, ông chồng làm nghề thịt lợn, còn mẹ quanh năm có phản thịt bán ở chợ Quán Triều, tay liên tục cầm cái quạt có buộc túm rẻ đuổi ruồi. Bà kể, có lần người làng đi chợ dưới đó, thấy mẹ cầm con dao chọc tiết lợn chạy phăm phăm trên các sạp hàng đuổi theo một đứa ăn cắp dám ăn trộm quả tim. Vừa chạy mẹ vừa cho cả phường ăn cắp hưởng một bữa “tiết canh” thịnh soạn. Bà dặn, mày đi ô tô, về tới Quán Triều chắc chỉ mất mười mấy đồng thôi, (bà tôi luôn quy mọi loại tiền ra thành từng đồng, dù đó có là mấy triệu mấy tỷ) rồi mày xuống đó, hỏi bà Diên bán thịt lợn. Lâu quá tao cũng chả nhớ là mẹ mày có còn đó hay không, nhưng chắc là vẫn còn thôi, đi đâu được nữa, bìu díu con cái thế. Tôi nghe lời bà, cũng tính sẽ kiếm chác ít tiền của mẹ để đi học, đỡ tiền bà phải gửi hàng tháng. Tôi tìm tung cả cái chợ Quán Triều, tìm dọc cả cái bờ sông Cầu mùi thum thủm, nhìn xuống con sông đục ngầu bọt giấy mà không thấy mẹ đâu. Tôi hỏi bà bán cau đầu chợ, bà có biết bà Diên bán thịt không? Bà bán cau nhìn tôi, có biết, bà Diên bán thịt cho khách, bán tiết canh cho chồng, chửi con chồng như hát hay chứ gì. Tôi bảo, cháu không biết, nhưng bà ấy là mẹ cháu. Bà bán cau trợn mắt, mày đẹp trai quá mà bà ấy như con nặc nô, mẹ con là ra cái làm sao? Tôi cười, tại bố cháu đẹp trai. Mà mẹ cháu còn ở đây không? Bà bán cau vẫy tôi ngồi cạnh, nói thì thầm, mắt liếc xung quanh. Bà bảo, ngày trước nhà mẹ tôi ở ngay mép sông, chồng mẹ muốn ở mép sông để đêm thả vó và làm lòng lợn cũng tiện. Ông ta bảo, lòng lợn làm nước sông Cầu, luộc cũng bằng nước sông Cầu ăn ngọt và giòn, đĩa lòng vật đổ mấy cút rượu, sủi bong bóng mũi mấy ông lực điền. Chả biết ra sao nhưng đúng là hàng lòng lợn của mẹ luôn đông khách. Vậy mà sau một cơn bão, chỉ trong một đêm, cái nhà của mẹ đã im lìm ở một khúc đáy sông nào đó. Còn mẹ cũng đã im lìm ở một nơi nào đó, không còn dấu vết, không văng vẳng lại cái chợ này lấy một dư âm. Nhưng cũng như bà tôi, tôi chẳng tin là mẹ đã chết...

Khi bắt đầu về toà soạn báo, tôi đã tìm mọi cách để đến được gần sự thật về mẹ. Cuộc đời mẹ thực ra cũng khốn nạn nhiều, một phần của sự khốn nạn đó là có một thằng con mất dạy, chửi mẹ như hát hay, như hắt a xít vào nơi chốn sinh ra mình. Trong những chuyến đi của mình, tôi hay tin vào những cảm giác và lần nào tôi cũng thấy cảm giác của mình sai. Tôi đã đi hết con sông Cầu, đi khắp các triền sông, ở đó có biết bao nhiêu người đàn bà, mỗi người là một phận đời không giống nhau, nhưng sao vẫn giống mẹ tôi cái vóc dáng lam lũ. Trong những chuyến đi gần như vô vọng tôi đã tập dần cho mình tính kiên nhẫn. Tôi đã tự tay chôn mất dấu gốc tích của mình mà đến mãi bây giờ, khi viết ra những dòng này, tôi mới dám thừa nhận. Có thể mẹ đã không còn như tôi hy vọng. Mẹ đã lẫn vào cỏ cây ở một nơi nào đó, mẹ đã đi đâu đó với biển cả. Mẹ bận rộn, mẹ có nhiều tật xấu nhưng mẹ đã đẻ ra tôi, đứa con lạc loài như cỏ dại, bản năng như cỏ dại.

Cũng có lần tôi gọi điện, hỏi bố tôi về mẹ. Khi ấy tôi đang khóc lóc vì say xỉn sau khi tan vỡ mối tình đầu với một con ranh chưa sạch máu đầu, mắt chớp chớp liên hồi như phim Hàn Quốc nhưng có tật ăn cắp trong bách hoá. Thế mà tôi đã yêu nó, đã đi làm thêm như một thằng điên để cung phụng cho nó, để nuôi sức mình trong những trận cuồng phong mây mưa lúc nửa đêm, để sáng hôm sau hai đầu gối mỏi nhừ và hai mắt đỏ quạch nhìn đời cứ như say. Lúc đó thực tình tôi không muốn chửi bậy, nhưng đ.m chứ, đàn bà là cái đek gì mà sao mình khốn khổ nhọc xác vì nó quá. Bố an ủi tôi, đàn bà là cái thiếu của đàn ông, mày đừng có lo, rồi có con đàn bà khác nó lấp vào đó, mày lại thấy đời chả có gì đáng chán. Thế bố có biết mẹ tôi ở xứ nào không? Ông nói về ở với bà mẹ dì của tôi, ông mất dấu hoàn toàn với cuộc sống cũ. Ông sống ở cái cửa sông cửa biển đó cho đến hết đời thôi, vợ ông không cho ông đi đâu, sợ ông sẽ bỏ trốn khỏi cuộc sống nheo nhóc, sống chán chường và mỏi mòn với rau muống luộc và cá kho. Vợ ông bảo, ông ăn chơi quen rồi, ông mài vẻ đẹp của ông, mài đũng quần của ông ra để lấy sự phụng thờ của đám đàn bà con gái, giờ ông phải trả giá. Lúc đó tôi gần như nín khóc, vì buồn cười. Vợ bố có đẹp ngang với... mẹ không? Bố tôi cũng cười, giọng cười như rượu khê, cũng ngang cỡ đó đấy mày ạ. Các cụ nói đâu có sai, thế gian được vợ hỏng chồng. Chứ không phải dẻ cùi tốt mã dài đuôi mà chả làm ăn được gì ra hồn sao? Bố tôi nói, ờ thì mày chửi bố mày đi, tao sống chả ra sao, nên giờ hết phúc. Tôi chán, giá mà ông điên lên, ông chửi tôi, thì tôi lại thấy mình còn chút gì ý nghĩa với ông trong cái đời sống chó chết khốn nạn này. Ông coi tôi như một món nợ mà ông không bao giờ trả được và mỗi lần tôi có động tác gì, ông gần như khóc và mong chờ tôi xoá nợ. Có lần uống bia hơi trên cái hàng cơm phản ở đầu phố Phùng Hưng, tôi bảo thằng em, ông già có coi tao là cái chó gì, tao chửi mà ông ấy không buồn cãi. Thằng em lại cười hăng hắc, anh mà về nhà anh mới thấy ông già đáng thương. Tôi đi làm mệt bỏ mẹ, tối về ông kêu đổ bô, tức ói máu, nhưng rồi lại thương. Đời ông già là cái đời chó cắn, buồn như chó cắn. Tôi bảo, tao bất hiếu, nhưng tao chán nhìn cảnh ông già nằm bê bết trên giường, rên rẩm chờ chết lắm. Mày bảo ông già là tao không chịu được. Thằng em bảo, ông già có trách gì anh đâu. Anh sống được như bây giờ ông già cũng tự hào lắm rồi. Như cái cây bỏ hoang mà vẫn sống thẳng. Tôi cười, tao cũng chả thằng. Con người mỗi lúc một đông. Thạch Sanh thì ít, Lý Thông thì nhiều. Muốn thanh cao chỉ có lên trời mà ở thôi. Thằng em đập cốc bia, ông nói thật đấy à? Tôi bảo, thật chứ, tao sống cũng chả ra chó gì. Đời tao bị lừa nhiều mà lừa người cũng chả ít. Tao sống chán lắm. Thằng em chỉ mặt chửi, mẹ kiếp, thế mà lâu nay tôi và ông già vẫn ngấm ngầm tự hào về anh. Hoá ra anh là thằng nói láo. Tôi cười, mày đừng nóng, đời tao chả thần tượng mẹ gì ai, nên tao chả bao giờ phải thất vọng. Đừng đòi hỏi gì hết. Đời ai người đó sống đi. Thằng em kiên quyết trả tiền phần bia của mình, bỏ lại hộp sữa tôi mua, và ra về. Nó không liên hệ gì với tôi nữa. Nghĩ cũng buồn cười, một thằng trong sáng như nó việc chó gì phải thờ phụng một đứa như tôi?

...Bà nội không ngủ, trời lạnh tôi ủ bà vào chăn, bà chồi ra. Bà nhìn tôi. Có phải mày đã làm chuyện gì không? Hay mày bị đứa nào nó lừa? Cháu không lừa ai thì thôi, đừng hòng đứa nào lừa được cháu. Mày ghê gớm quá mà. Không gớm sao sống nổi với bọn yêu tinh thành phố. Bà ở dưới đó bà không thấy ngày nào báo cũng rao có vụ giết người cướp của hiếp dâm đấy à. Bà phóm phém cười, thì mày chả bảo báo nói láo còn gì? Tôi cũng cười. Bà hiểu tính cháu bà quá. Chuyện gì nhỉ? Giờ này, không biết cô ta có oán oán hận tôi không, một kẻ đốn mạt không ra sao, một kẻ ngủ với cô ta không biết bao nhiêu lần, biết rõ từng dấu vết bí mật trên cơ thể nhau, rõ từng cao trào ân ái, vậy mà đã nói về cô như một con điếm hạ lưu. Hay cô ta đã lạc vào một vũng sương mù nào của trần thế? Hay cô đã đi vào những cơn bão của đất trời? Tôi thực lòng không biết. Bà này, cháu kể chuyện này có khi bà đánh cháu chết mất. Bà ngồi bật dậy, vuốt tóc vuốt râu tôi, được rồi, mày kể đi. Tôi nhìn bà. Bếp lửa đã lụi, chỉ còn những đốm than âm ỉ và tiếng gà rừng đã tác sáng. Tôi đã từng ước chi mình là con gà trống, sáng gáy vang rừng chiều dẫn đàn lên cây ngủ. Ngày mai sẽ như thế, sinh sôi cũng tự nhiên mà huỷ diệt cũng do trời. Giá như thế, giá mà tôi là con gà trống, có phải tôi đã không day dứt đến thế này không? Bà nhìn tôi, chuyện gì, lại đàn bà chứ gì. Mày đến chết với đàn bà thôi con ơi. Tôi nhìn bà, không, chuyện đàn bà nhưng không phải là đàn bà. Thế con bé lại quay lại, thế hai đứa định cưới nhau à? Tôi bật cười, nó xinh thế, lấy bọn nhà báo để nghèo kiết xác à. Nó phải lấy đại gia. Thế sao ngày xưa nó leo lên giường với mày? Ngày xưa đó là tình yêu. Tình yêu? Sư bố ranh con, thế cái tình yêu đó nó cho mày cái lợi lộc gì để mày lục bục về đây như chó ăn vụng cám thế? Vâng, vì nó cặp với đại gia nên cháu mới phải về đây. Mày sống khó quá, tao chả hiểu được...

Bà không hiểu được. Mà tôi đã làm gì nhỉ? Tôi đã làm gì trong cái bộn bề gian khó kiếm ăn mỗi ngày của mình? Cô gái đi giày đỏ, cô gái có mái tóc ngang vai, mặt đẹp như trên ti vi. Tôi muốn gọi cô là Giày đỏ, vì tôi không muốn thêm một lần cô phải đọc tên mình trong những dòng chữ này. Tôi biết, cô đã sống một cuộc sống khác thường mà đến lúc này tôi cũng chưa cảm nhận hết. Ngày cô bỏ tôi ra đi, mà đúng ra là chúng tôi chẳng bao giờ cùng nhau đi trên đường, nên không có ngày từ biệt, chúng tôi đã ngồi trên cái quán trà đầu dốc, nhìn xuống hồ Tây. Cô nói rằng, đời em cũng chả ra gì, nhưng em thấy anh sống cũng được, cũng biết cách làm một người đàn ông với phụ nữ, anh nên sống khác em. Chúng ta cứ lẹt xẹt thế này chả mấy thành thứ bèo nhèo của đời sống, nhìn thấy nhau là phát mửa. Tôi bảo, được, em cứ đi, nhưng đừng dạy đĩ vén váy làm gì. Cô bảo, anh đanh đá như con mụ bán cá. Tôi cười sằng sặc, bán cá ra tiền thì anh cũng bán, đời cái gì nhiều tiền là anh làm thôi, miễn không phải đi tù, không chết người. Giày đỏ cười, thì em cũng biết, anh coi em ra gì đâu, chỉ là vui chơi thoáng chốc, ngày trước em cũng tưởng là anh yêu em nên em mới ngả người ra mà cho anh vày vò, để anh cho em biết mùi đời lần đầu. Giờ anh phủi em như bụi đường, em cũng chả trách anh. Đàn ông giống nhau phết. Nên em sẽ sống cho anh biết. Câu nói như gió đùa tóc, thế mà đâm mạnh vào lòng tôi. Sự sĩ diện của tôi bị sỉ nhục khi Giày đỏ bỏ tôi lại ngồi một mình, đi xuống xe ô tô đỏ của một thằng tóc nhuộm, lao xuôi dốc Cổ Ngư. Về sau, trong đám người mẫu mà tôi quen, người ta có nói, Giày đỏ kể về tôi biết bao nhiêu giai thoại. Và hầu hết các cô người mẫu đều tin rằng, tôi là gã phóng viên đàng điếm, có thể làm tình một đêm bảy hiệp, làm từ trong nhà tắm cho đến sân thượng và biết nhiều mánh lới kiếm tiền từ cái thẻ nhà báo. Thoạt đầu tôi cảm ơn Giày đỏ, vì như thế tôi cũng có chút ít vị thế trong mắt những đứa trẻ chân dài mới lớn. Các cô gái nhìn tôi, không biết ngưỡng mộ hay dè bỉu. Tôi quen các chân dài hoàn toàn không phải để viết báo mà vì đi nhiều với đám giám đốc nhí. Tôi và chúng sống với nhau theo cách các loài cộng sinh, và chân dài cũng là một phần cộng sinh trong cái đời sống nhiều màu đó. Cho đến một lần, tôi bất ngờ gặp Giày đỏ ngồi bàn chuyện với mấy đứa công ty quảng cáo Siêu Việt. Giày đỏ nói, có một người mẫu không chuyên, nhưng rất hợp với yêu cầu quảng cáo nhãn quần lót NaNo. Một phóng viên chân dài, ngực nở, bụng sáu múi như vận động viên và mặt sáng như diễn viên. Mấy đứa công ty quảng cáo há hốc mồm, gần như nghe chuyện thần tiên. Giờ này tìm một người như vậy thì chỉ có lên trời. Các công ty quảng cáo ra rả casting mà đâu có nhiều người đẹp đến thế. Mà người mẫu quảng cáo thì đẹp còn chưa đủ. Tay giám đốc quảng cáo nói, một người mẫu vô danh thì thật tốt bởi chúng tôi không muốn những gương mặt nhàu nát trên truyền hình. Giày đỏ mỉm cười, còn phía sau tôi gần như ngất đi vì giận dữ. Giày đỏ, em hận gì tôi nào? Ngay chiều ấy, giám đốc quảng cáo gọi điện. Tôi biết mà vẫn tới. Giám đốc quảng cáo nhìn tôi mà tôi biết cách nhìn của giám đốc. Tôi cười rung rốn, tôi chả nghĩ mình có giá đến thế này. Biết thế đi làm người mẫu từ trước có phải đời tươi sáng không? Giám đốc cười, giờ vẫn chưa muộn, nếu muốn hãy đầu quân về công ty của bọn anh, với điều kiện là... sống phải có kỷ luật... Tôi cười to hơn, cười để anh ta không hở thêm cái câu đáng sỉ nhục cuối cùng, chỉ cần tối em lên giường với anh. Tôi bảo giám đốc, tôi không đẹp như Giày đỏ nói đâu, hoặc là tôi chỉ đẹp với riêng cô ấy. Vì cô ấy còn nhớ tôi. Giám đốc để lại danh thiếp, giá của vụ này là hai ngàn, nếu em thấy OK thì gọi cho anh nhé. Tôi đứng dậy, tiền thì ai cũng cần anh à. Tiền mà. Nhưng tôi sẽ chỉ làm người mẫu quảng cáo đó cùng với Giày đỏ mà thôi...

Thế nhưng, chuyện đã không hề đơn giản như giám đốc mong ước. Giày đỏ đã bỏ trốn khỏi sự truy đuổi của tôi qua điện thoại. Giày đỏ bỏ lại tôi với cái tin nhắn ngắn như ngón tay trọc phú: “Tiền đó, tiền Siêu Việt, anh có dám làm không?”. Giày đỏ chui vào Sài Gòn với một đại gia nhôm nhựa, thằng đại gia mà tôi biết đã mở nhà hàng nửa năm mà mỗi ngày chỉ có một thực khách nhưng vẫn lộng lẫy sáng đèn. Cái nhà hàng đó có nhiệm vụ đưa những đồng tiền bẩn trở về sự sạch sẽ. Giày đỏ bỏ trốn tôi. Tôi chả ngờ cô ta còn biết sợ mình. Càng chả ngờ rằng, cô vẫn còn yêu mình, yêu mình vì điều gì nhỉ? Nhưng Giày đỏ đã bỏ đi. Thi thoảng tôi cũng nhận được đề nghị từ Siêu Việt, tới dự những cuộc tiệc tùng. Đó là một ngoại lệ, vì cả đám chân dài ai cũng biết giám đốc Siêu Việt khó tính và sống kín bưng như một hũ rượu ủ mình trong lòng đất già. Nhưng mặt tôi cũng đủ dày để đi dự, dù biết chắc rằng mình sẽ không bao giờ dám lột truồng ra để đóng vai anh chàng cơ bắp và mạnh khoẻ trên các áp phích quảng cáo, để thiên hạ mơ ước và đi mua mấy cái quần sịp về dùng. Giám đốc quý mến tôi, điều đó thì đám chân dài ai cũng biết. Mà tin bay về toà soạn mới ác. Thế mà tôi lại chẳng mảy may buồn. Đời sống bây giờ tin đồn nhiều như cỏ rác. Ai nhiều scandal, người đó càng nổi tiếng hơn bao giờ hết, càng dễ kiếm tiền hơn. Cô chân dài hôm bữa ngồi ăn buffet ở khách sạn Nikko còn bảo tôi, anh em mình cùng tạo scandal, anh tung lên mặt báo, cứ thế mà hốt bạc, không scandal đâu có thể thành ngôi sao. Tôi chả đủ tự tin để biến mình thành nhân vật trong bài báo của mình, nhưng thấy rằng những tin đồn về chuyện giới tính và quan hệ với đại gia giám đốc quảng cáo không phương hại gì đến đời sống tinh thần, đôi khi đó là cái cớ để làm sang. Giáp ngày phải chụp hình quảng cáo, giám đốc nói, nếu tìm được Giày đỏ giá của tôi sẽ tăng lên ba ngàn. Tôi cười, tôi hết hứng thú rồi. Anh nên kiếm người khác, quảng cáo quần lót không khó, các người mẫu giờ còn làm được nhiều việc mạnh bạo hơn thế, tôi tham gia tụi nó chửi tôi bon chen. Nhưng tôi sẽ đi tìm Giày đỏ về. Tôi sẽ không lấy một xu.

Tất nhiên là cái dự án khoe thân vận quần sịp của tôi đã không bao giờ thành hiện thực. Không hẳn vì tôi sợ. Mà vì Giày đỏ đã kịp được dư luận nhòm ngó quá nhiều. Đại gia bị bắt, điều này không khiến ai bàng hoàng ngoài Giày đỏ. Ông sếp ngồi chờ tôi trong phòng, căn phòng nóng như lửa đốt, máy lạnh chạy dưới 20 độ mà mặt ông như căng ra. Ông sếp nói như sợ những ý nghĩ bay đi mất, này, cậu đi điều tra ngay cho tôi tung tích cô người mẫu này. Cô ta là ai, đến từ đâu và quan hệ với thằng giám đốc kia ra làm sao? Dạo này cậu bê tha nhiều, đây là cơ hội cuối cùng cho cậu đấy. Tôi bắt đầu choáng váng. Lâu lâu tôi mới lại phải ngồi trong căn phòng của mình, ngồi trước máy tính và sổ sách, ngồi trước những phím nháy, những mặt cười của Yahoo Messenger. Chả còn cái mặt nào muốn lao vào chat với mình nữa. Tệ thật. Lâu lâu tôi mới thấy mình phải nghĩ suy nhiều như thế. Cuộc sống kéo tôi đi nhanh đến mức chân tôi chưa kịp mỏi ở cuộc chơi này đã nhảy qua một cuộc chơi khác. Chơi tất bật. Chơi quần quật từ sáng đến tối. Giày đỏ, em ở đâu?

Tôi ngồi trước máy tính, đầu chạy vo vo như cái quạt gió, nào thì viết, nào thì trả xong món nợ đời này. Kiểu gì chứ, với Giày đỏ, mình sẽ làm được một cuốn sách.

Đến lúc này nghĩ lại, tôi cứ ước giá mà lúc đó Giày đỏ gọi cho tôi một tiếng.

Nhưng em đã không gọi.

Tôi hóa điên mà tôi không hề biết.

Em nói chúng ta giống nhau, chúng ta là những cái rễ cây không có đất để víu lại, sống một đời phù du như cát bay. Nhưng có lần, sau khi mệt nhoài bởi rượu và ái ân, tôi và em ngồi cạnh nhau trên sân thượng, nhìn bầu trời ngập sao, em đã nói cho tôi, em đã chui từ đâu ra, đến từ phương nào. Em nói với tôi như nói với chính mình, chẳng bao giờ em trở lại nơi đó nữa, vì em đã không còn niềm tin. Tôi đi như mộng du về quê giày đỏ. Mẹ Giày đỏ bỏ đi lâu rồi, chỉ còn ông bố dượng ngồi ngật ngưỡng trên thềm nhà. Ông nói giày đỏ có về, mang cho ông ít tiền rồi đi mất. Cái con đĩ, hôm trước tao thấy nó trên ti vi, mặc cái áo hở hết cả ngực, phơi cả mông, không biết là cái giống gì, giống hệt con mẹ nó. Tôi hỏi ông già mặt đen thùi lùi như củ ấu, ông có biết Giày đỏ gây chuyện gì không? Nó giống con mẹ nó, tham tiền thôi. Ngày xưa tôi là chủ gỗ, mẹ nó mới theo. Giờ tôi phá sản, mẹ nó cũng bỏ tôi lại một mình, còn nó thì bỏ trốn lên phố học đòi ăn chơi hư hỏng. Hôm qua đọc báo thấy cái mặt nó, danh giá gì chứ. Tôi xấu hổ lắm. Tôi phì cười. Ông là gì của Giày đỏ? Ông đã định cưỡng hiếp cô ấy khi cô ấy mới mười lăm tuổi cơ mà. Ông già quăng cái chén sạt qua tai tôi. Mày cút ngay, thằng mất dạy, mày lấy đâu ra cái tin vớ vẩn đó? Tôi bỏ chạy. Chuyện đó ly kỳ quá, bái hấp dẫn quá, tin độc quá, lũ tin nhắn chúc mừng lúc nhúc trong điện thoại ngay buổi sáng đầu tiên của loạt bài Giày đỏ. Tôi nhìn những bài báo, những con chữ của mình. Người ta nói rằng, khi những ngón tay không cầm bút viết, những con chữ đã không đi ra từ trong tim, vì thế những trang bản thảo cũng lạnh lùng hơn. Bởi những con chữ được số hoá không biết run rẩy. Tôi thường chửi người nói câu đó là triết lý nhảm. Và bây giờ tôi thấy mình nhảm đến không ngờ.

Cuối cùng thì vụ việc Giày đỏ cũng chìm dần vào im lặng. Đi với đại gia thì đâu có gì là xấu, người ta có thể chửi trăm ngày, nhưng Giày đỏ dứt khoát không phạm tội. Giày đỏ xuất hiện trở lại thành phố, cô đi một mình. Cô chủ động đến tìm tôi. Anh ơi, em đi với đại gia mà giờ cái nhà nát chẳng có mà ở. Anh cho em ở nhờ vài hôm được không? Tôi gần như phát câm. Giày đỏ mang túi quần áo đến ở căn phòng trống trong nhà. Rồi Giày đỏ rủ tôi uống rượu, Giày đỏ khóc. Giày đỏ bảo tôi, em là con gái hư thì em chịu, sao dư luận còn bắt mẹ em gánh thay em. Mẹ em nào biết xứ nào để tìm chứ... Giày đỏ lột dần quần áo tôi. Người tôi như lên cơn sốt. Khi tôi nằm đó, thân thể tôi trống rỗng nằm bết trên tấm nệm đó, thì Giày đỏ rũ gục xuống người tôi. Giày đỏ hổn hển khóc, em nghĩ rằng anh vẫn còn yêu em. Chúng mình có một quá khứ chó ghẻ, chúng mình không còn bố mẹ, chúng mình côi cút yêu nhau. Nhưng mà em đau, Giày đỏ khóc to hơn, người ta đã bới cả cái hang ổ cuối cùng mà em không muốn bị móc lên. Lão ta là gì mà phán xét cuộc đời em. Tôi nằm đó, nước mắt Giày đỏ chảy tràn vòm ngực rộng. Tôi nằm đó, thân thể ngập đầy sinh lực, mà sao tôi không thể làm gì, mà sao tôi không thể cày nát em như bao đêm tôi đã cùng em. Tôi nằm im. Tôi khóc...

...Khi Giày đỏ nằm đó, thân hình trắng phơi mở trên tấm nệm, như một sự thách thức, thì tôi bỏ đi. Tôi về với bà. Cháu về để kể với bà chuyện này đấy, bà có đánh cháu tiếp không? Bà không nhìn tôi, nhìn ra những triền núi đầy sương sáng, giọng bà ướt sũng như những tàng cây chó đẻ sau đêm đông. Toàn à, sao mà bà muốn khoẻ lại, bà muốn đập chết mày, thằng ranh con... Bà khóc thành tiếng, tiếng khóc phát ra như gió đụng bờ rào, khô khoảng và xiên xiết. Bà cứ khóc như thế. Để rồi tôi đứng trước bà, khóc thật nhiều, mà chẳng dám ôm bà vào lòng nữa. Tôi khóc như tôi chưa từng là tôi...

***

...Tôi cứ đinh ninh là Giày đỏ sẽ ở lại. Nhưng cô đã ra đi ngay trong buổi sáng đó. Khi tôi về lại thành phố, cô không để lại gì trong căn phòng, ngoài một bộ quần áo lót khi xưa chia tay nhau cô cầm của tôi, bộ quần áo lót mà cô bảo tôi mặc vào trông như một bức tượng trong sạch. Khi đó cô nói, cô cầm đi để khi nào nhớ tôi sẽ lấy ra nhìn ngắm. Tôi khi đó cho là sự rồ dại và bốc đồng trẻ con. Nhưng lúc này, khi sau bao bể dâu, cô vẫn giữ lại và trả về với tôi, tôi biết mình đã mất Giày đỏ. Tôi về lại toà soạn, nói với ông sếp xin chuyển qua làm mảng văn hoá văn nghệ một thời gian, suốt ngày đọc sách, xem phim. Công việc không nhẹ nhàng, nhưng nó làm tôi ít phải gặp, ít quan hệ với con người hơn, thực tâm khi đó tôi sợ những mối quan hệ phức tạp của loài người. Ông sếp không hiểu được, ông cho là tôi bị điên, hay chí ít tôi cũng bị chứng vĩ cuồng của người trẻ nổi tiếng sớm. Ông cho rằng, làm báo phải làm mảng nội chính và xã hội mới mong trưởng thành. Trong phim của ông Phi Tiến Sơn, ông ta bắt một phóng viên mảng xã hội xuống làm mảng văn hoá văn nghệ vì cậu ta... vi phạm kỷ luật. Tôi đang có triển vọng mà đã mắc bệnh ngôi sao...

Tôi giải thích với ông sếp bằng cách làm việc cần mẫn trong căn phòng trống rộng mênh mông, thư viện cơ quan vô cùng nhiều bụi, tôi đọc và lau những cuốn sách. Chúng là những cuốn sách mới lâu ngày...

Những dòng đầu tiên của câu chuyện này tôi ghi lên blog của mình. Thế nên nó hình thành từ những nghĩ suy vụn vặt trong nhiều ngày. Có quá nhiều người hỏi thăm bà tôi, hỏi rằng bà đã ra sao, bà giờ sống thế nào, bà có về lại thành phố để xem cái tủ kem? Tôi im lặng, vì chẳng biết nói làm sao. Bà yêu tôi, yêu báu vật của đời bà nhiều quá. Nên bà sẽ không bao giờ tha thứ, bà sẽ không nhượng bộ tôi với phố phường của tôi.

Trong một lần lang thang trên những trang nhật ký ảo, tôi bất chợt nhận ra chút gì mơ hồ như thân thiết, như quen thuộc. Quá nửa các trang blog cá nhân tại Việt Nam đều trích đăng lại một trang blog của một người khác, trang blog đỏ rực và dở dang. Trang blog được kết thúc đứt đoạn vào cuối tháng bảy năm hai ngàn lẻ sáu, chủ nhân của blog đó nói, cô sẽ tha thứ tất cả mọi lỗi lầm của người cô yêu, dù anh ta có cào muối vào ruột cô đi nữa, nếu người đàn ông của cô biết dùng những nụ hôn xoá đi những muộn phiền. Nhưng người đàn ông ấy đã không làm gì, thân thể cường tráng khoả thân như xác chết ngâm nước, như tảng đá không chịu mòn dù nước mắt cô thành suối, thành sông. Người đàn ông đó đã không dám ái ân với cô sau những ngày đau đớn. Cô biết, cô chẳng còn gì cả. Nên cô đã ra đi...

Tôi luôn thầm mong, đó không phải những trang nhật ký của Giày đỏ...

Tôi không đi tìm Giày đỏ nữa. Bởi những gì tôi tìm kiếm trong những tháng ngày sống trên mặt đất này đều đã trở nên xa dần, tưởng gần mà dần vụt khỏi tay. Ngày rời miền cải vàng của bà ra đi, tôi nghĩ mình có cả thế giới, tôi sẽ làm được những chuyện phi thường và sẽ cho bà sống cuộc sống của những bộ phim truyền hình nhiều tập. Nhưng tôi đã quăng quật cuộc đời mình, để cuối cùng, tôi chỉ còn lại vùng quá khứ mà tôi cố gắng đến tuyệt vọng nhằm chối bỏ và cắt lìa. Khi trắng tay mới hay mình như hạt cải lạc loài, mọc hoang trên cát, mải mê đi cùng cát. Và cát đam mê đã cuốn tôi lẫn nhòa vào với suối sông.

Năm nay tôi hai mươi bảy tuổi, tôi biết đã muộn lắm rồi, ừ, muộn lắm, những vẫn phải trở về, cho một bắt đầu khác...

Cát
01-12-2006, 11:15 AM
Cánh đồng bất tận (Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư)

27-06-2006 09:05:29 GMT +7

1.Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn.

Cha tôi tháo cái khung tre chắn dưới sàn ghe, bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con vịt đói, nhớp nháp bám trên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng lưới rào bầy vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm củi.

Rồi ngọn lửa hoi hót thở dưới nồi cơm đã lên tim, người đàn bà vẫn còn nằm trên ghe. Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau dưới những tiếng rên dài. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt.

Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần chị ta dậy, họ dùng chân đá vói vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài, nếu như không có một ý tưởng mới nảy ra trong cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa, được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.

Đám người ngơ ngác mấy giây để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao tác kêu dưới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ khan, rung bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất …

Cha tôi không đóng vai trò gì trong cuộc tháo chạy ấy, ông im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu. Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.

Suốt một quãng đường, chị không hề thay đổi thế nằm, im lìm, lạnh ngắt như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài, khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào…

Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo lắng khi nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, "tui nuốt còn không vô, nói chi…"

Nhưng chiều hôm đó và cả ngày sau, chị không ăn. Chị từ chối cả uống nước, đợi đôi môi khô đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một vài ngụm ít ỏi, dường như chỉ đủ ướt môi. Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau hơn. Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị…

Tôi nói lại với cha và Điền trong bữa cơm. Tôi nghe hai người lặng đi, tiếng đũa tre khua vào miệng chén ngưng bặt. Điền ngó tôi và tôi thì đọc được sự ghê sợ, kinh tởm cồn lên trong mắt cha. Điền chan nước vào chén, lua vội vàng rồi men theo con đường đất dọc mé kinh, nó đi vào trong xóm. Tôi dặn vói theo, ghé tiệm mua giùm ngàn rưỡi đường cát.

Chắc gió đã bạt mất lời tôi, khi quay về, Điền không mang theo gì, nó lẳng lặng xòe tay trước mặt tôi, tay nó dính một lớp gì đó, bóng mượt, trong suốt, và đang khô quánh lại, khiến những ngón tay đơ ra như đá. Điền bảo, "Keo dán sắt…". Dường như những người sản xuất ra loại keo này cũng không ngờ nó nhiều công dụng đến thế. Hai chị em tôi tỉ mẩn lột lớp keo ra, mảng da non trên bàn tay nó bỏng đỏ nhừ, tươm máu. Chúng tôi cùng ngó về chỗ khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió…

2.

Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang.

Sáng sớm ngày thứ ba, chị ngồi dậy được, ngó quanh, chị hỏi, "Trời đất ơi, chỗ nào mà vắng tanh vậy nè". Làng xóm xa xa đằng phía những rặng dừa xanh thẩm. Đồng đất trống trơn, trên đôi bờ kinh chơ vơ những cây gòn. Hai đứa nhỏ đầu mướt sương đang hí húi trộn thức ăn cho vịt, nhìn chị ngạc nhiên đến ngây ngất. Giọng nói chị không bị thương tích gì hết, trong vắt và ngọt ngào.

Chị hỏi "Tắm ở đâu, mấy cưng ?". Tôi chỉ xuống kinh. Chị ngó những váng phèn, ngao ngán. Điền nói, đằng kia có một cái ao.

Đó là một hố bom cũ, bình bát mọc quanh, rau muống chằng chịt phủ kín mặt nước, cọng rau ốm nhằng, đỏ au. Chỗ này, hôm qua, Điền đã câu được những con cá thát lát ú mềm. Chị trầm mình dưới đó rất lâu, chẳng kỳ cọ gì, chỉ để nước lạnh chườm dịu lại những chỗ đau. Lúc chị lên bờ, tôi thấy máu lợn cợn theo những giọt nước nhỏ xuống giữa hai đùi, chắc chị đã làm gì với chỗ keo dán ác nghiệt ấy. Rồi cũng lâu lắc, cũng cà nhắc từng bước ngắn như lúc đi, chị với tôi quay lại bờ kinh. Điền hí hửng khi thấy chị chịu mặc chiếc áo sơ-mi thẫm phèn và cái quần cụt quăn queo của nó.

Chỉ có cha lầm lì dọn cỏ quanh chòi. Chỉ có cha là hờ hững với thành quả của hai chị em tôi. Không chấp thái độ lạt lẽo của cha, chị ngó về phía người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng: "Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ…".

Vì lẽ đó? Có phải vì cha mà chị ở lại với chúng tôi, trên một cánh đồng vắng ngắt. Những vết thương đã lành rất mau. Chị cười, bị đánh hoài riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, "Làm đĩ". Rồi có lẽ chị áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền "chắc mấy cưng không biết đâu…".

Điền nhìn tôi cười. Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man… lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng nghịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông.

Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín. Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài một người đàn ông vào trò chơi giường chiếu, suốt hai ngày đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn vay xoá đói giảm nghèo, khi về tới nhà, với tám trăm ngàn còn lại trong túi, hẳn người đàn ông ấy não nề biết bao nhiêu, oán chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều.

- Ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta nên lâu lâu bị đánh cũng đáng đời, hen mấy cưng?

Chị nói, và ngã nghiêng cười, dường như chị thấy mình trả giá vậy cũng vừa. "Mà hên nghen, nhờ vậy mà gặp được mấy cưng, được ở chung vầy, vui thiệt vui...".

Cha không vui, vì có thêm một miệng ăn. Bầy vịt cũng không vui, chúng mổ vào chân chị mỗi khi chị bước qua rào, "bà ở đây làm chi để phần ăn của tụi tui bị xén bớt, trong máng độn toàn là trấu ngán thấy ông thấy cha, đã vậy còn bắt tụi tui đẻ trứng để nuôi bà". Chị nhảy xổm ra, la oai oái, sau lại cười (mà con mắt đung đưa phía cha) "mai mốt mấy con vịt quỷ này sẽ khoái chị, mấy hồi…".

Nhưng tôi và Điền biết thể nào chị cũng ra đi, trong mỏi mòn. Quãng thời gian chị bên chúng tôi, vì thế cũng mong manh. Nhiều khi lùa vịt ăn mót một đỗi đồng, nghĩ chị bỏ đi, Điền thảng thốt chạy về.

- Mấy cưng thương chị thiệt hả ? Tội chưa… !?? ".

Chị ngạc nhiên, thấy nước mắt ràn rụa trên má thằng Điền (mà chị không biết là nó bị bệnh chảy nước mắt sống từ hồi chín tuổi). Thật cảm động khi đời đánh ta tả tơi bầm dập, vậy mà hai đứa nhỏ này lại trìu mến, quyến luyến lạ lùng. Thêm một lý do nữa để chị ở lại với chúng tôi, trong một mùa hạn nóng bỏng, bất thường.

Mùa đến sớm. Vì vậy mà nắng rất dài. Mới rồi, chúng tôi dừng chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh mang. Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng (như chúng tôi đi trên đất dằng dặc mà không có cục đất chọi chim). Người họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ gãi đến bật máu. Họ đi mua nước ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài vì đường xa, nước mắc. Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong dành rửa cá. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng ráng chạy ra vườn đái vô chậu ớt, chậu hành (báo hại cây rụi lá). Ở đó, có người con trai bảo, "ước làm sao trước lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã đời". Câu nói này làm tôi thương anh ta quá chừng. Hôm tôi đi, anh tần ngần đứng bên hè, hỏi nhỏ "Không biết em có muốn ở lại với… má tui?!". Tôi lắc đầu, hai gàu nước ít ỏi của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa?

Tôi giục cha rời khỏi cái xóm tàn tạ đó. Những cánh đồng chúng tôi qua, lúa chết khô khi mới trổ bông. Người ta không thể trồng đậu, trồng dưa vì thiếu nước. Bầy con nít giỡn nhoi trên những con kinh khô trơ lòng.

Chỗ chúng tôi cắm lều cầm vịt, nước đã sắc lại thẫm một màu vàng u ám. Nhưng chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi nữa, từ bờ bên kia của sông Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm lớn. Mùa này, người ta lấy nước từ tất cả các dòng sông nhỏ, các con kinh để bơm vào rừng, chống cháy. Chúng tôi cũng không thể ngược sông Bìm Bịp băng qua vùng Kiên Hà, ở đó họ kiểm dịch thú y rất gắt gao. Và dịch cúm gia cầm nghe đâu vẫn còn bùng phát khắp đồng bằng.

Để bầy vịt khỏi bị chôn sống (điều đó đồng nghĩa với việc đứt vốn cho mùa sau), bọn tôi quyết định vẫn cầm chúng ở đây. Chúng được nuôi trong sự mỏi mòn. Ngày ngày, tôi lùa vịt đi ăn mót những bông lúa khô quắt queo trên đồng, không có nước chúng bì bạch, chậm rì và chẳng thể đi xa. Trứng thưa thớt, những quả trứng chúng đẻ ra cũng chai ngắt, dài nhằng, nhẹ tênh, vỏ dày sần sượng. Đòi hỏi gì nữa ở những con vịt đã già, đã đẻ quần quật suốt ba mùa trước, đã vô vọng vì ngày càng khó tìm lúa và cám trong máng thức ăn. Ngay cả nước để chúng tắm táp cũng chua lét vì phèn.

Mà, mùa mưa vẫn còn xa lắm.

Ngày ngày, Điền rủ chị đi giăng lưới, nhắp cá và tát những cái mương cạn. Cá ăn không hết, chị đem vô xóm bán và hãnh diện đưa cho cha vài mươi ngàn thừa sau khi đã sắm ít quần áo. Mắt chị nhìn cha đầy khiêu khích, "Cuộc đeo đuổi vẫn còn dài, cưng à…".

Chị đổ lì. Chị tìm mọi cách để sà vào cha. Một bữa chị bảo Điền xuống ghe ngủ với tôi, còn chị sẽ lên chòi. Đó là một đêm tối nhờ nhờ, trôi trên trời một mảnh trăng mỏng leo lét. Điền ngọ nguậy, xoay trở liên tục, nó kêu khó ngủ, đòi nghe tôi hát, bài gì cũng được. Nhưng Điền vẫn thao thức, dường như giọng hát tôi không át được tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ. Điền chê ngủ ghe chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao.

Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi, "người ta thương mẹ ra làm sao?". Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thác lác… mà nó dành cho chị cũng giống hệt như người ta vẫn thường cho mẹ. Và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dụi mũi mình vào da thịt người đó… cũng tự nhiên như ý nghĩ bình thường nhất của những đứa con. Nhưng những nghi hoặc vẫn loay hoay trong mắt Điền, và nó quyết định chịu đựng một mình, khám phá một mình. Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim ta đau nhói, cái gì làm cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề?

Khi tôi thức dậy, Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp sương giá. Chị bước ra khỏi chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý, mãn nguyện lấp lánh trên khoé mắt. Chị cười, bảo:

- Hồi hôm sương nhiều ghê, nó nhiểu lên mặt chị hoài, nhột gần chết.

Rồi chị giành nấu cơm. Chị xoắn tay áo lên hì hụi thổi lửa, đầu tóc xấp xãi dính đầy vảy cá. Trông chị như bà vợ tảo tần. Hình ảnh ấy làm tôi ứa nước mắt, nhưng cha tôi chỉ lạt lẽo nhếch cười. Vì cái cười đó mà tôi ứa nước mắt thêm lần nữa.

Cha đưa chị một ít tiền ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, "Tôi trả cho hồi hôm…". Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt. Chị nhét tiền vào trong áo ngực, cười, "Trời ơi, ba mấy cưng sộp quá chừng".

Điền và tôi rủ chị đi câu (Chúng tôi cho là chị buồn, dù chuyện đó khá tức cười, làm điếm được trả tiền mà buồn nỗi gì). Suốt buổi, không dính con cá nào, chị nói, "Mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ này còn chê chị". Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phương. Điền lặng bắt con cá rô lội xuống mương, lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu của chị. Lúc nó trồi đầu lên thì đã thấy chị cười.

Trưa ấy chúng tôi trầm nghịch dưới nước rất lâu. Chị cười nôn khi thấy bùn bám dưới mũi tôi xám xanh như bộ râu củ ấu. Tự dưng nét mặt chị bỗng âu yếm lạ, như đang nựng nịu một đứa bé con và thằng em trai mười bảy tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi ngượng ngùng. Nước cồn cào chỗ bụng nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó phía dưới. Rồi phát hiện ra một mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên:

- Trời đất ơi, sao vầy nè, cưng?

Chị toàn hỏi những câu hỏi khó. Chỉ nghe thôi đã đau, nói chi trả lời. Thí dụ như có lần chị hỏi "Má mấy cưng đâu ?", "Nhà mấy cưng ở chỗ nào ?", thằng Điền đổ quạu:

- Biết chết liền!

3.

Những chiều ghe chúng tôi đi ngang qua những người đàn bà ngồi giặt giũ dưới bến sông, tôi hay hỏi lòng, có phải tôi vừa ngang qua má đó không. Tôi cố giữ trong lòng hình ảnh má nhưng rồi ngày càng tuyệt vọng khi thấy nó nhạt nhòa dần, cứ nghĩ mai này gặp lại mà không nhận ra nhau, lòng nghe buồn thiệt buồn.

Má tôi hay mang xoong chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ, sẵn đón ghe hàna (bông) mua ít rau cải tươi và bán lại những quày chuối chín bói trong vườn. Dần dần, buổi chiều, đám thương hồ hay lại neo ghe chỗ mấy cây mấm trước nhà. Một người bảo không sao xa được người đàn bà có cái cười làm lấp lánh cả khúc sông. Má tôi nguýt dài:

- Dóc…

Người đàn ông cười hề hề, thề "Tôi nói láo cô Hai cho xe đụng chết ngắc" (Ngay lập tức, Điền thì thầm, "thằng chả ở dưới ghe kiếm đâu ra chiếc xe, nói dóc…", và bằng cái vẻ ác cảm lạ lùng, thằng Điền biểu tôi nhìn khuôn mặt và tấm lưng trần chi chít những nốt ruồi của ông ta, bảo "Tại hồi đó má ổng mới sanh ổng ra quên lấy lồng bàn đậy, nên ruồi bu tùm lum").

Cho dù người đàn ông ấy có quá nhiều nốt ruồi, cho dù chẳng cao ráo, đầu ít tóc… nhưng với chiếc ghe chở đầy vải vóc, những người đàn bà lam lũ quê tôi vẫn thường trông ngóng ông ta. Tất cả họ đều trở thành trẻ thơ khi bước chân lên ghe, họ tíu tít, háo hức, họ thèm muốn đến bồn chồn rồi dùng dằng trở lên bờ với tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi, thấy mình già khi ngang qua bồ lúa vừa hót bớt một lỏm, thằng cha bán vải lấy mấy giạ mà như khứa một ít tuổi xuân đi.

Bồ lúa nhà tôi đã cạn từ sau Tết. Điều đó làm má tôi hơi buồn, nhưng người bán vải xăng xái bảo, "Cô Hai cứ coi đi, không mua cũng được - rồi ông ta sửng sốt khi thấy má rạo rực khi ướm thử những khúc vải rực rỡ lên người - Chèn ơi, coi nó bình thường vậy mà khoác lên mình cô Hai lại thấy sang quá trời". Má bỗng nhiên bồn chồn:

- Dóc…

Tôi chưa bao giờ thấy cái màu đỏ lạ lùng ấy. Đỏ hơn bông bụp ngoài sân, đỏ hơn máu. Má ngó chúng tôi, hỏi: "Gì mà nhìn trân trân vậy hai đứa?". Tôi nói, "Má lạ quá hà, nhìn không ra". Má mừng quýnh, "Thiệt hả?". Tôi muốn khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau mà sao lại mừng?

Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía má giãy dụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy, siết dần cho tới khi má thành một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt trời. Giật mình thức dậy mới hay mình ngủ quên trong kẹt bồ lúa, con chó Phèn ngoài hè nôn nóng cào đất rột rẹt chỗ cái lổ chui (Chắc má tưởng hai chị em tôi đi chơi nên chốt cửa trước cửa sau mất rồi). Mà Điền ngồi ém ngay đó, lì ra, không cục cựa, mình nó mướt mồ hôi, không có vẻ gì là nó đang khóc, nhưng nước mắt chảy ròng ròng. Tôi ôm đầu nó, giấu ánh nhìn của nó vào ngực mình.

Đứa mười tuổi quay lưng lại, đứa chín tuổi úp mặt vô áo chị nó, nhưng cả hai vẫn như thấy rõ ràng, trên chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi. Họ cấu víu. Vật vã. Rên xiết.

Đó là hình ảnh ấn tượng cuối cùng của má tôi trên nền một cái nhà nhỏ, đằng trước có bộ bàn chữ U, bộ vạc tre, rồi đến một cái bồ lúa nhỏ dựng gần giường ngủ, và gian bếp thấp. Quanh hè, dài theo những lối đi ra vườn, ra bến là những cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai, cha tôi đã hì hục lót để suốt một mùa mưa, chân má tôi không bị dính sình bùn.

Suốt nhiều năm sau đó, tôi không dám nhớ má, bởi ngay vừa khi nghĩ đến má, ngay lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt màu vải má tôi vừa đổi được (không phải bằng tiền, hay lúa). Mà, đáng lẽ phải nhớ tới khúc má nằm võng hát đưa mình ngủ ấy, hay đoạn má ngồi giặt áo bên hè, hay má cúi đầu giữa vầng khói mơ màng, thổi lửa bếp ung…

Má có rất nhiều hình ảnh đẹp, và cả khuôn mặt lo lắng của má khi chiều ấy vẫn còn đẹp, nhìn thấy nước mắt không ngừng tuôn rơi trên mặt thằng Điền, má thảng thốt hỏi : "Mèn ơi, mắt con sao vậy?. Tôi trả lời, day day chậm rãi, "Chắc tại nó nhìn thấy chuyện bậy đó, má. Trưa nay nó ngủ kẹt bồ lúa". Má chết lặng nhìn tôi, cái nhìn như lịm đi trên khuôn mặt đẹp não nề. Không thể giải thích vì sao tôi lại hể hả.

Và tôi luôn nghĩ rằng chính vì câu nói đó mà má tôi ra đi.

Tôi chạy qua nhà hàng xóm, nói với thím Tư rằng má đi mất tiêu rồi. Cả xóm tưng bừng, kẻ mừng vì vợ mình chưa bỏ theo trai, người vui vì con đàn bà đẹp nhất xóm đã đi rồi, khỏi lo ông chồng suốt ngày thòm thèm dòm ngó, cũng có người buồn, ghe vải chắc chẳng quay lại xóm này. Mọi người bàn ra tán vào, xôn xao, bắt tôi nhớ lại coi trước lúc đi má tôi có hành động gì đặc biệt mang tính dự báo không? Chuyện này quan trọng lắm, nó cho người ta tự kiểm tra trình độ trải nghiệm, suy đoán. Thí dụ như nhà nào có người mới mất họ kêu lên, hèn chi đêm trước có nghe chim cú kêu, thê thiết lắm. Thí dụ như nhà nào bị mất trộm, họ bảo nhau, hồi hôm tui nghe tiếng chó sủa thiệt kỳ, là tui nghi rồi… Nhưng chuyện ra đi của má tôi không mấy ly kỳ...

- Hồi chiều má con không nấu cơm…

- Vậy sao?

- Má con nằm trên giường thở dài…

- Vậy hả ? Thở ra làm sao?

Tôi hết biết tả. Tiếng thở thườn thượt, nghe buồn mênh mông, chảy từng giọt như nước mắt. Má tôi thở dài khi ghe cha ghé bến vì biết mai mốt cha lại đi. Má tôi thở dài khi tắm, khi nước trôi dài trên làn da trắng như bông bưởi. Lúc ngồi vá những bộ quần áo cũ. Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má cũng thở dài, tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng kẹp lép. Thở dài cả khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo, má ơi.

Mọi người không thất vọng, họ cho thời gian lùi lại xa xa, thì ra cũng đã có điềm báo trước mối nhân duyên này tan rã, ngay cái bữa đầu tiên, ngay lần gặp đầu tiên. Má tôi ngồi khóc bên bực con sông Dài, cha tôi chèo ghe đi ngang, đã qua khỏi một quãng nhưng vì mủi lòng, cha quay mũi lại. Cha hỏi, cô về đâu tôi cho quá giang. Má tôi ngước lên, mặt ràn rụa nước, "tôi cũng không biết về đâu". Cha tôi chở người con gái tội nghiệp này về nhà, và trong thời gian suy nghĩ tính coi mình đi đâu, má yêu cha mất rồi, sau đấy thì đẻ hai chị em tôi. Rõ ràng, quá rõ ràng, thấy chưa, má tôi chỉ quá giang một khúc đời rồi đi, ai cũng linh tính vậy, chỉ cha tôi là không, nên bây giờ mới khóc hận, cười đau.

Tới đây thì hết chuyện nói, hàng xóm ra về. Giống hệt như vừa tan đêm hát, họ xì xào đi vào trong đêm, tiếng chó sủa rộ lên dài theo những con đường xóm. Tôi và Điền nằm nhìn trân tráo lên nóc mùng, nghe gió hui hút trên những ngọn tre già bên hè. Một hồi, thím Tư qua, thím kêu hai chị em tôi qua nhà thím ngủ.

Sáng sau, thím đi chợ, tới bến tàu, cho hay "Vợ Út Vũ bỏ nhà. Theo trai". Ông chủ chiếc đò chạy tuyến Hưng Khánh nói lại với mấy bà bạn hàng, và chiều lại cha tôi mới nhận được lời nhắn ấy khi đang lên đòn dong cho một ngôi nhà gần chợ Hội. Nghe nói cha tôi còn cười, giọng ra vẻ giận, "Bộ hết chuyện giỡn rồi sao, cha nội?". Có vẻ khó tin, khi một người nghĩ rằng, chỉ cần mình hết lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng. Có vẻ buồn cười… Và cha tuột xuống đất, run rẩy…

Quãng hành trình về nhà có vẻ rất dài và khắc nghiệt, nó vắt kiệt cha tôi. Cha cười cay đắng, khi thấy quần áo má còn treo trong nhà, còn cả cái khăn tắm và đôi dép Lào cũ, như thể má đang chơi bên xóm, chỉ cần thằng Điền kêu má sẽ xấp xãi chạy về, mừng húm hỏi "Đi chuyến này nữa là đủ tiền mua ti vi màu, phải hôn anh?".

Coi kỹ thì má không đem theo gì. Chi tiết đó làm đau lòng người ở lại, nó cho thấy người đi đã chẳng suy nghĩ, đắn đo, đã không một chút trù trừ, chỉ rũ mình cái rột, sạch trơn, vậy thôi.

Cha đem tất cả đồ đạc của má đem đốt. Khói bay mù mịt trong nhà, mùi vải, mùi nhựa cháy khét lẹt, những cái áo hồng áo tím rúm ró lại, chảy thành những giọt tro. Cha nhìn ngọn lửa, mặt đanh lại, rồi mắt bỗng rực lên, ngây ngất vì một ý nghĩ mới lạ.

Chúng tôi dong ghe đi, quặn lòng ngoái lại căn nhà đang quay quắt dãy dụa trong lửa đỏ. Nghe vẳng theo âm thanh lốp bốp rất giòn của những thanh gỗ cháy, và tiếng xóm giềng í ới gọi nhau. Chắc chắn sẽ có người vỗ đùi cái đét, "Hồi hôm qua, ngó cái mặt u ám của Út Vũ, tui nghi thể nào thằng chả cũng đốt nhà. Nghi đâu có đó, thiệt là y như để vậy, các cha".

Kể nhiều chuyện như vậy là để trả lời chị, nhà tôi, má tôi, rốt cuộc đã trở thành tro bụi mất rồi. Nên khi hết mùa lúa chín, những người nuôi vịt chạy đồng khác đã trở về nhà còn chúng tôi lại tiếp tục lang thang.

Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc sống, chúng là cái cớ để chúng tôi sống đời du mục, tới những chỗ vắng người. Ở đó, ít ai phát hiện ra sự khác thường của gia đình tôi, và ít hỏi cái câu, "Má mấy đứa nhỏ đâu?". Để cha phải buột lòng nói "chết rồi !" và cười lạt khi nghe người nào đó kêu lên: "Mèn ơi, tội hai đứa nhỏ hôn".


4.

Lần đầu tiên hai chị em tôi lạc giữa đồng. Cơn mưa buổi xế chiều làm tắt rụi ánh mặt trời, và đêm tối nhanh chóng ập xuống. Mưa giăng bốn bề, những rặng vườn trở nên xa vời, mờ mịt, căn lều và chiếc ghe của mình nằm ở phía nào vậy ta, Điền hoang mang hỏi. Chúng tôi lội xom xom xuống một mé vườn và rã rời tuyệt vọng xua bầy vịt quay ra. Cha tôi đã bỏ về ghe từ giữa trưa, có thể cha đã uống rượu say và ngủ mất tiêu. Có thể cha còn thức nhưng cha không đi tìm. Khóc đã đời, một hồi, thấy trời ngày càng tối, chúng tôi quyết định buông trôi, tha thểu đi theo bầy vịt, biết đâu…

May sao, chúng nhớ đường về. Khi nhìn thấy ánh đèn chong leo lét đầu ghe, chúng tôi mừng như chết đi sống lại, Điền nắm tay tôi chạy như điên, nước đồng văng sáng trắng. Bầy vịt tao tác một phen (báo hại đêm đó tụi nó nín đẻ). Cha tôi ngồi chờ bên cạnh cây roi.

Sau này, đã tự học cách định hướng bằng bằng mặt trời, bằng sao đêm, bằng gió, bằng ngọn cây… nghĩ tới lần lạc đồng, thấy cười quá chừng. Mắc cười hơn là Điền, vốn rất sành sỏi đường đi nước bước, lại bị lạc lần nữa, giữa ban ngày. Nó loay hoay ở giữa một gò đất chùm gọng leo dày mịt, không biết vô đó bằng đường nào nhưng chẳng thể quay ra, có người đàn bà bưng rổ bánh quy lại, biểu nó ăn. Đói quá, thằng Điền ngốn gần chục cái. Lúc tôi tìm được nó nhờ tiếng rên ư ử, bụng nó đã lặc lè, và miệng đầy sình đất. Quay đi quay lại không có bóng người, chỉ có cái mả lạng nằm sát đất, rời rợi cỏ xanh.

Những ngày sau này, tôi một mình trở lại gò đất, nhưng chờ hoài không thấy ma hiện ra. Nghe thằng Điền kể, người đàn bà đó thiệt hiền, chỉ đau đáu vuốt tóc nó và ánh nhìn chan chứa thương yêu. Tôi nghe mà khóc muốn chết, sao con ma đó không chịu giấu tôi giùm cái.

Rồi tôi ngồi quẹt tay lau nước mắt đi, kỹ càng, để gương mặt an nhiên, ráo hoảnh. Tôi quyết không để cha thấy mình buồn, quyết không để cha bật ra cái câu "Chịu hết nổi cái cảnh sống này rồi hả? Chừng nào đi?".

Cha vẫn thường đánh chị em tôi, thường đánh khi vừa ngủ dậy. Đó là khi người ta thấy hoang hoải, chán chường, sau một giấc dài, mở mắt ra, vẫn gió đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh. Và tôi tự nhớ lại coi hồi sáng này, hồi trưa này mình đã làm gì giống má, kho cá bỏ quá nhiều tiêu? Hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng? Hay tại tôi ngồi bắt chí cho thằng Điền?

Hay tại tôi càng lớn càng giống má. Có bữa, nửa đêm thằng Điền thức giấc, nhìn thấy tôi day lưng lại lui cui vá áo, nó thảng thốt kêu "Má ơi!". Tôi cảm thấy mình thất vọng đến rã rời. Những thói quen, những cái gì liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ hình hài này.

Tôi đành để cha đánh để ông bớt đau chút lòng. Sau này chị em tôi không day dứt chi cho mệt, vì hiểu thấu ra, mình bị đòn chỉ vì là con của má, vậy thôi.

Với chúng tôi, quãng thời gian ấy vẫn còn vui lắm, sau này, cha tôi chán không đánh nữa. Cha ơ thờ, lạt lẽo, chuyện gì cần nói thì nói vài câu nhát gừng. Cha giao bầy vịt cho hai đứa tôi, lúc rảnh ngồi gọt đẽo những cán dao, tấm thớt hay lẳng lặng vác cần câu đi câu cá, vừa bán được tiền, vừa khỏi phải nhìn những đứa con của một bà mẹ bạc lòng. Thành ra, cái ghe thấy nhỏ, lại rộng vô cùng tận, loay hoay chỉ ba con người, nhưng nhiều năm trôi qua, hai chị em tôi vẫn cảm thấy xa cách cha. Có lần, khi đi trên sông, thằng Điền giả đò té chìm ngỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói lói, cha hơi giật mình hoảng hốt, dợm lao xuống nước, nhưng rồi cha điềm nhiên ngồi lại, tiếp tục gọt đẻo, chắc là nhớ ra thằng Điền đã lặn lội nước sông từ năm bốn tuổi, sức mấy mà chết trôi.

Chúng tôi biết là khó đòi hỏi gì hơn nữa, chỉ một chút xao lòng của cha, là mừng lắm rồi. Cha giống như đồ vật bằng gốm vừa qua cơn lửa lớn, vẫn hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên chúng tôi chỉ dám đứng xa mà nhìn, mủ mỉ nâng niu, nếu không thì vỡ mất.

Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông thênh thang mãi…

Tôi và Điền buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến không ngờ… Nhờ Điền bị rắn hổ đất cắn mà chúng tôi biết được cách phân biệt vết răng của rắn độc. Nó để lại trên cổ chân Điền một cặp vết răng như hai cái lổ nhỏ, sâu hoắm. Tất nhiên, phải nhờ người thợ gặt tốt bụng vác thằng Điền chạy một đỗi đồng để tới ông thầy lấy nọc rắn, nó mới giữ được cái mạng để rút… kinh nghiệm. Sau này, một lần băng qua một đám cỏ dày, đến lượt tôi bị rắn cắn, tôi kêu, Điền ơi, chắc Hai chết trước à. Thằng Điền nhìn vết thương nó cười, nói không sao, số Hai sống lâu lắm, hai hàng răng tươm máu giống hệt nhau như vầy, chắc cú là rắn bông súng cắn chơi thôi. Và nhìn bướm bay, nhìn mây trôi tôi biết ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe ở một tuyến kinh nào, thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng và tính toán xem có thể cầm vịt ở đấy bao lâu thì hết thức ăn, đúng chóc. Hay chúng tôi tự phán đoán ở đâu vụ mùa đến sớm, vùng nào lại trễ tràng để rời cánh đồng này, chúng tôi đến ngay một cánh đồng khác, ngay khi lúa vừa chín tới.

Thành ra, mùa du mục của chúng tôi kéo dài liên tục từ mùa mưa sang nắng, rồi lại mưa. Nhiều lúc tôi hơi nhớ con - người. Họ ở trong cái xóm nhỏ kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất. Họ lúc nhúc trên thị trấn kia, nơi chúng tôi vẫn thường ghé lại mua gạo, cám, mắm muối… dự trữ cho những chuyến chạy đồng xa. Và họ ở gần ngay đây, họ vừa gặt lúa vừa nói chuyện tục tĩu rồi cười vang bên bầy vịt đang rúc rích tìm thức ăn, nhưng tôi vẫn nhớ...

Có lẽ vì cuộc sống của họ ngày càng xa lạ, với chúng tôi. Họ có nhà để về, chúng tôi thì không. Họ sống giữa chòm xóm đông đúc, chúng tôi thì không. Họ ngủ với những giấc mơ đẹp, chúng tôi thì không. Nằm chèo queo, co rúm, chen chúc nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói quen chiêm bao. Điều này làm tôi và Điền buồn biết bao nhiêu, vì cách duy nhất để được nhìn lại hình bóng má cũng tan rồi. Mà, thí dụ như những cơn chiêm bao quay trở lại, chúng tôi không biết chắc là hình ảnh ấy của má có xuất hiện hay không.

5.

Mùa khô năm tôi mười ba tuổi, bầy vịt lăn ra chết gió. Để kiếm sống, cha tôi quay lại với nghề thợ mộc. Cha nhận đóng giường, tủ cho một vài nhà trong xóm Bàu Sen, chúng tôi neo ghe lại đó dài ngày.

Cái cảm giác đang ở xóm cũ (có ngôi nhà cũ) vây riết lấy chúng tôi (chữ "chúng tôi" tôi không kể cha vào). Những trưa xế ngồi ngoài hàng ba một nhà trong xóm, tôi tước lá dừa thắt cào cào châu chấu, Điền ngó nắng rưng rưng ngoài sân, nói "sao gió ở đây giống hệt gió nhà mình". Hai đứa tôi muốn khóc.

Chị chủ nhà ngần ngại nói với cha, "Ngó mặt hai đứa con anh thấy thương quá, thấy… không bình thường". Cha tôi cười nhẹ, "Vậy hả ? Ờ ờ…".

Đứa con gái chị chủ nhà trạc tuổi thằng Điền, rủ chúng tôi vào nhà chơi. Nhưng nó luôn nhận được những cái lắc đầu. Chúng tôi sợ quá cái bồ lúa trong nhà, hình ảnh nó làm cả hai chị em ngạt thở. Thật lạ làm sao, khi mà chúng tôi đã quen dần với những - hình - ảnh - giống - mình (tức là bị bỏ giữa đời chơi vơi), thí dụ như nhìn một chiếc đũa gãy, cái nắp nồi vỡ, hay bầy gà con lạc mẹ nhao nhác… Nhưng không quên được, cái bồ lúa ngai ngái mùi cứt trâu, giữa nó và vách nhà là một khoảng hơi tối nhưng rất thu hút trẻ con. Chúng hay giả bộ đó là nhà của riêng chúng, để bày biện, nấu nướng, đóng vai chồng vợ, vai má con. Để lúc bị đòn, chúng cũng chui tọt vào đó, khóc một mình, nhiều khi ngủ quên luôn (và người lớn thì hãi hùng, sao không thấy đứa nhỏ đâu, nó bỏ đi về ngoại, nội? hay đã vô ý trợt chân té xuống đìa?). Cái kẹt bồ lúa, cũng đã từng là thiên đường mơ mộng của hai chị em tôi, bẻ trái trứng cá làm cơm, muổng dừa là chén, giả đò "ăn" no, giả đò tối rồi, đi ngủ, một bữa kia chơi chán lăn ra ngủ thiệt, thức dậy bỗng thấy cuộc đời mình thay đổi quá trời đất, như đã sống qua một kiếp rồi. Nhưng chín mười tuổi đã đủ để gọi là một kiếp người chưa?

Chúng tôi chẳng phải những đứa trẻ bình thường, cuối cùng nhỏ con chị chủ nhà cũng nhận ra, nó bỏ mặc. Nó là một đứa trẻ xinh đẹp nhưng hỗn hào, cáu kỉnh, nó chẳng khi nào kêu má ơi má à, khi cần, nó chỉ cộc lốc bảo, tui đói bụng quá bà ơi. Người mẹ phân bua với cha tôi, "Tại ba nó mê theo vợ bé nên không ai dạy…".

Chị cũng bận rộn, te tái cắp nón đi suốt, tìm ông thầy này, bà cốt kia, để thỉnh bùa chú cho ông chồng quay lại. Và mỗi khi thất bại, chị lại quả quyết là bùa của tình địch mạnh hơn. Nói như vậy dường như để cho tâm bớt đau trước sự thay lòng. Chị có cả một kho tàng về chuyện đồng cốt, những người có khả năng thấu đáo cõi âm, cõi trời và cõi người. Họ biết chữa bệnh (có thể lấy từ bụng ta ra một nùi tóc với cái lưỡi dao cạo, hay dùng hột gà luộc lăn trên da thịt ta, sau đó bẻ cái trứng ra cho ta coi một nhúm lông… chó mực), cũng biết dùng những tấm bùa được vẽ bằng máu… lưỡi để ếm chết người và cuối cùng, họ đem được người ta yêu trở lại. Chỗ này khá mắc cười, bởi tấm bùa có linh nghiệm thiệt thì người quay về cũng không phải của - mình. Những săn sóc nâng niu, những lời nói ngọt ngào… tất cả đều không thật (mình biết tỏng tòng tong là nhờ bùa ngãi chớ thương yêu gì). Và cái cười dịu dàng kia, ánh mắt ấm áp kia, nụ hôn ngọt ngào kia, vòng tay nồng nàn kia… cũng vậy. Đó là chưa kể phải thoi thóp lo âu một ngày bùa thiêng hết tác dụng, thằng đàn ông rùng mình một cái, ngơ ngác hỏi ủa, sao hai đứa mình nằm chung giường vậy, xin lỗi nghen, chắc tại hồi hôm tui xỉn quá nên chui ẩu vô mùng bà. Rồi ông ta nhìn vẻ mặt đau đớn của mình, kinh hoàng: "Trời đất ơi, bộ tui đã làm gì bậy bạ sao ?". Tất cả sẽ chấm dứt ở đó, ông nọ phủi sạch những ngày tháng mặn nồng. Với ký ức trống trơn, họ phơi phới ra đi, còn mình thì nhớ hoài, đau hoài…

Nhưng chẳng tin vào bùa thì còn biết làm gì nữa, chị cũng đã lặn lội tới nhà tình địch, đã xé quần áo của cô ta, xởn tóc, lôi xểnh ra biêu riếu giữa chợ rồi, chị kể. Bằng cái giọng rộn rã, giòn tan chỗ cao trào, rồi chị hết sức chậm rãi, tỉ mỉ, tả cái đoạn chị dùng dao rạch mặt cô ta và xát muối ớt vào (những người quê mình vẫn thường làm chuyện đó rất bình thường, sẽ buồn cười khi có ai đó nói làm vậy là vi phạm điều X chương Y luật hình sự, họ cãi ngay, "Ủa, nó cướp chồng tui thì tui phải đánh cho tởn chớ", với vẻ mặt tự hào ngút ngất, tỉnh bơ, ngây thơ, tựa như một người đi qua trận địa cũ và nói với ông bạn mình, hồi năm bảy hai tui bắn thằng lính cộng hòa ở chỗ này, óc nó nát như chao, con mắt văng ra xa cả thước. Ông bạn chẳng ớn, nói tôi cũng cắt cổ thằng Mỹ ở đây chớ đâu)

Sau đận đó, chồng chị bỏ ngay cô nhân tình này và trớ trêu, anh ta chạy theo… cô khác. Ba mùa lúa rồi chị ra đồng một mình. Một mình nuôi con. Một mình nhìn gương, tự ve vuốt và yêu lấy mình…

Cái sàn lãn sau nhà đã ba năm vắng bóng đàn ông. Một chiều chúng tôi đến, xẻ mấy cây đố xong, cha ra đó tắm. Nước chảy re rắt trên khuôn mặt lạnh lùng, nước mỏng tang tràn qua những thớ thịt đỏ au của cha tôi. Chị chợt giật thót người, cài vội chiếc nút áo bung ra vì không chịu nỗi đôi vú căng tức.

Ngay lập tức, tôi có cảm giác câu chuyện về những lá bùa vẽ nhì nhằng chị giấu trong áo gối, ém dưới chiếu, hay kẹt giường… không còn ý nghĩa gì hết. Chị cũng sửng sốt khi nhận ra điều đó. Giường đã làm xong, đáng lẽ chúng tôi phải dời đi, nhưng chị chủ nhà muốn đóng thêm hai cái tủ nữa. Chị thuê hàng xóm xuống ao mò lên những thân gỗ đã ngâm lâu và chở tới xưởng cưa. Rõ ràng là chị không chuẩn bị trước, rõ ràng chị muốn giữ cả nhà chúng tôi lại.

Chúng tôi được đối xử rất tử tế, ngoài hai bữa cơm, buổi trưa, chị hay đãi thêm nồi chè, hay khoai luộc. Chị nồng nhiệt bảo chúng tôi lên nhà ngủ, nhà rộng rinh như vầy không cớ gì phải ngủ ghe. Cha tôi trù trừ nhưng rốt cuộc cũng gật đầu (với một thoáng giễu cợt), thật không nỡ chối từ một tấm lòng như thế.

Tôi và Điền ở lại ghe, tôi nói, ngủ ở đây gió mát quen rồi, với lại, tụi tui phải giữ đồ. Nói tới chỗ này tôi mắc cười muốn chết, chiếc ghe tơi tả, đáng giá gì đâu mà giữ. Có mấy ông thống kê gì đó làm chứng, mấy ổng đã ngao ngán như thế nào khi thấy chỗ ở ngang mét hai dài ba mét mốt cho ba nhân khẩu, điều tra thêm thì phương tiện nghe nhìn giải trí chỉ cái radio trị giá mười bốn ngàn, nguồn nước sinh hoạt từ sông, thu nhập ờ thì vài ba triệu một năm, tuỳ vào ông trời, như năm nay, thì trắng tay…

Và ngó lại cái khạp da bò nứt, trong rổ úp vài cái chén sành, một thùng giấy chứa quần áo cũ… thấy mình lấy cớ giữ đồ hơi vô căn cớ. Nhưng chị chủ nhà không để ý, chị đang ưng bụng, ngây ngất tràn trề trong mắt. Và cha tôi lên đó, một mình.

Tôi ôm quắp thằng Điền nghe những con sóng nhỏ lách tách vỗ vào mũi ghe, nói, Hai nhớ trường học quá à, cưng (Ôi cái trường xiêu dựng trên khu vườn chùa đầy cây thuốc, có ông thầy trẻ tuổi hay vò đầu tôi và xao xuyến hỏi, má khoẻ hôn con?). Thằng Điền hỏi lại, "Mắc gì mà nhớ? Lãng òm…". Tôi không biết, tôi đã ngưng nhớ nó từ khi sống cuộc sống trên đồng, nhưng đêm nay, sao tôi lại nghĩ tới, cả chuyện kiếm tiền để chữa mắt cho Điền (tôi vẫn nghĩ, sự xuất hiện của nước mắt chỉ có ý nghĩa khi người ta khóc). Đêm nay, tôi sao thế này? Vì nhìn thấy niềm hy vọng ư?

Và tôi ngủ trong nỗi xốn xang.

Lúc thức dậy thì hy vọng cũng thức theo, sáng hôm đó, tôi thấy cha trút bỏ vẻ lầm lũi thường ngày, mắt ông hay rực lên, nói cười rất lạ, dường như cha bừng tỉnh nhận ra giá trị của mình, tìm thấy con đường sẽ đi. Những suy nghĩ cồn cào làm cho vẻ mặt cha lung linh như bầu trời nhiều mây và gió. Thoắt quang đãng thoắt âm u, thoắt khoái trá, thoắt đau đớn…

Chị chủ nhà cũng thất thường, đang tươi hơn hớn bỗng bần thần khi thấy cha đóng xong một cái tủ nữa rồi. Chiếc tủ chén này, cha mất năm ngày mới hoàn thành, nhưng không sớm hơn được, vì chị chủ nhà lúc thì bưng nước ra, lúc lại kêu nghỉ tay ăn bánh, anh thợ à. Nhiều lúc chơi ngoài hàng ba, nghe tiếng bào trượt trên ván ọt ẹt ngừng lại, buổi trưa im phắc. Và đống dăm bào bị dẫm tạo ra âm thanh lạo xạo lao xao lào xào. Chúng tôi biết chị đang ở ngay chỗ cha.

Không hiểu sao tôi lại nghĩ chị chủ nhà chính là hy vọng để chị em tôi trở về cuộc sống bình thường với một người - cha - bình - thường. Chúng tôi luôn tạo cơ hội, khoảng trống cho chị gần gũi với cha. Cực nhất là phải rủ rê lôi kéo nhỏ con chị chơi với chúng tôi, thằng Điền khó chịu, "đồ con nít…". Tôi cười, "thôi, kệ nó…" mà lòng nghĩ, biết đâu mai mốt con nhỏ này với mình là một gia đình. Biết đâu đó là một mối tình dài.

Nên tôi thấy hơi lo khi cha sắp hoàn thành chiếc tủ áo cuối cùng. Buổi chiều, cha xin những mảnh cây ván vụn đắp vá lại mui ghe. Nghĩa là chúng tôi sẽ tiếp tục đi. Chị chủ nhà ủ ê, suốt buổi chị giằm đũa vào chén cơm nguội ngắt. Cha nhìn chị, cười nhẹ, rồi hỏi khẽ khàng:

- Cô đi với cha con tôi nghen?

Như chờ đợi chỉ có thế, chị gật đầu, mặt tở mở và rạng rỡ, gần như không suy nghĩ gì (Má tôi cũng đã từng chọn lựa nhanh như thế sao?). Tôi bất giác ứa nước mắt, rồi nhận thấy cha đang nhìn mình, tôi bệu bạo cười, "cắn trúng cái lưỡi đau quá trời".

Chị chủ nhà bắt đầu sống với những giây phút bồn chồn, chị loay hoay, te tái tới lui. Chị kiếm lủ khủ giỏ xách, những muốn gói ghém thật nhiều đồ đạc nhưng nhận ra chiếc ghe chẳng chứa nổi, nên quăng phẹp một bên. Cuối cùng, chị đưa nhỏ con về chơi bên ngoại, và trong lòng chị em tôi bùi ngùi tiễn nó đi như đưa tiễn một cuộc đời. Mai nó vẫn sống, nhưng mà sống khác. Rồi chị quay lại, ra bực sông, ngồi đắm đuối nhìn ngôi nhà của chúng tôi, "những ngày sắp tới của mình ra làm sao, ta?".

Dễ hình dung lắm. Như chỗ cái sạp xỉn màu tôi đang giặt vải lau đây sẽ là nơi chị sẽ ngủ, sáng ra chị vẫn không phải rời chỗ ấy, vì chỉ cần ngồi dậy, day mặt ra phía sau là đụng bếp, là có thể nhen lên một lọn khói buồn teo. Mấy đêm đầu có lẽ không quen, vì phải nằm chèo queo, ghe thì chao sóng. Mấy đêm đầu chắc chị hơi ngại ngùng, mắc cỡ vì ở ghe không có vách ngăn, vì thế chị em tôi sẽ cố ngủ thật say, ngáy thật to để át những tiếng thở hổn hển, dìu dặt. Chị cũng sẽ mất khá lâu để thích hợp với nhiều hình ảnh mang tính ước lệ, thí dụ như mấy bụi hành ngò trồng trên cái xô bể (thay vì khu vườn cây cỏ hoa trái mênh mông), hay cái lò cà ràng nhỏ (thay vì cả một gian bếp ấm sực mùi củi lửa)… Và nghe cha tôi than, tôi chán cái nhà này quá rồi, thì cũng nên hiểu là không có cái nhà nào cả. Nhà chúng tôi là cái này, là cánh đồng nào đó, con sông nào đó... Riêng chúng tôi thì không cần chị phải yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ gì hết. Chúng tôi không hy vọng điều đó (đến con chị còn không hy vọng gì mà). Ngay lúc này đây, cứ nghĩ, một bữa trưa mai trưa mốt nào đó, có nắng hiu hiu và gió hiu hiu, vì muốn chứng minh tấm lòng của mình với cha, muốn tỏ thái độ hoà hợp với hai đứa trẻ lạ lùng này, chị bắt thằng Điền lại, xối nước kỳ cọ những mảng đất đã dính khắn trên làn da mốc meo của nó, miệng cắm cẳn, cằn nhằn hay biểu tôi ngồi để chị thắt bím tóc cho, chắc tôi thấy khó chịu vì xa lạ và buồn cười.

Nhưng tiếc rằng không có ngày mai, mốt đó. Chị bị cha tôi bỏ lại, khi vừa đi được một đoạn đường. Một đoạn đường đầy khó khăn. Chị buộc mình tin rằng sự chọn lựa này là đúng, tình yêu này xứng đáng được đánh đổi. Xóm làng, ngôi nhà, vườn tược trôi tuột lại phía sau. Và đứa con gái… Rất cố gắng, chị mới thôi thảng thốt. Cha ghé một chợ nhỏ đầu xóm kinh, biểu chị lên mua một ít củ cải muối đem theo. Người vừa khuất trong tiệm tạp hóa, cha cười. Chị em chúng tôi mãi mãi không quên cái cười đó, nó vừa dữ dội, đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã. Cái cười thật dài, riết lấy khuôn mặt cha, làm mắt cha hơi lồi ra, ánh lên như có nước. Cha quăng đồ đạc của chị lên bờ vung vãi. Và nổ máy cho ghe đi.

Có ai chờ chúng tôi, trên những cánh đồng khơi?

6.

Trời đất ủ dột nhìn mưa vào mùa. Thằng Điền kiếm được mấy cây ô môi nhỏ, nó rủ tôi trồng. Chúng tôi dầm mưa, lấy mũi dao đào thành mấy lổ con con, rồi đắp đất ém gốc lại. Cái cảm giác mà cha tôi đã từ bỏ là yêu thương, che chở cho một sinh linh (yếu ớt, nhỏ bé) nào đó thật ngọt ngào. Điền biểu tôi chặt sậy cắm quanh, sợ mấy con vịt ăn trụi lá, với lại, bờ đất này rất nhiều người qua lại, không khéo là bị dẫm bẹp. Hai đứa ngồi nhìn công trình của mình, bỗng buồn, không biết mai này còn có dịp quay lại coi tụi cây này lớn lên, để trèo lên hái trái, để giăng cái võng, ngủ một giấc đã đời.

Chị em chúng tôi nảy ra nỗi thèm muốn, khao khát được trồng cây từ khi rời Bàu Sen, vì biết chẳng bao giờ quay lại sống - bình - thường. Dường như chúng tôi nhớ, nhớ cồn cào. Nỗi nhớ bao gồm được chạy chơi trên cái vuông sân mọc đầy vú sữa đất, được tự mình trồng cây gì đó, có trái, và trái ăn được, ăn rất ngon. Nhưng cái mơ ước nhỏ nhoi là nhìn nó lớn lên cũng mong manh, khi mà đến chưa nóng chỗ đã phải dời đi nơi khác. May là lần này chúng tôi ở Cỏ Úa khá lâu, chăm chút bầy vịt (mới gầy lại) "trơn lông bụng". Thằng Điền một bữa ra coi cây bén rễ, nó bỗng chép miệng, "Ước gì đây là đất - của - mình…".

Tôi cười, điều đó thật xa xôi. Có lần, đi qua xóm, trong một buổi chiều, chúng tôi gặp những ông già ngồi chơi với cháu, thằng Điền đứng tần ngần bên hàng rào dâm bụt, bảo, "Phải chi ông này là ông nội mình, thương đỡ chơi, hen Hai?". Nghe câu đó tôi bỗng thấy mình nghèo rơi nghèo rớt, nghèo đến nỗi không có… ông nội để thương, thèm muốn bên đường. Tôi lắc đầu, bảo thôi, thí dụ như mình lỡ mến người ta, mai mốt dời đi, buồn dữ lắm. Mà, đã ngấm, đã xé lòng toang hoang với nỗi đau chia cắt rồi, chưa sợ sao?

Sống đời mục đồng, chúng tôi buộc mình đừng yêu thương, quyến luyến bất cứ ai, để khỏi ngậm ngùi, để lòng dửng dưng khi cuốn lều, nhổ sào đi sang cánh đồng khác, dòng kinh khác. Chúng tôi vô định hơn bất cứ người nuôi vịt chạy đồng nào. Vì những cuộc tình của cha tôi, ngày càng ngắn ngủi.

Cha tôi đã có - vẻ - bình - thường, hay nói cười, hồ hởi trong những lúc có người (chữ "người" này không tính hai chị em tôi). Nhiều lúc tôi không giấu được thảng thốt, cứ nghĩ mình đã gặp lại cha - của - ngày - xưa. Nhiều lúc tôi ngồi trông người trong xóm đi thăm lúa ghé qua chòi, lúc ấy, cha sẽ kêu, "Nương à, nướng mấy con cá khô, cha lai rai với mấy bác…". Em tôi cũng sướng ran xách chai ra tiệm mua rượu, nó khoái chí nghe cha gọi, "Điền ơi! Điền…". Vui được chút đó thôi, khi khuất bóng người, chị em tôi đắng đót nhìn cha hao hao người đóng tuồng vừa trút lớp. Xanh xao, lạnh lẽo đến ngơ ngác và cô đơn.

Không, lúc chỉ một mình, cha tôi đáng sợ hơn thế. Cha giống như con thú trở về tổ sau khi no mồi. Con thú nằm mơ màng nhấm nháp lại hương vị của miếng mồi, và ngẫm ngợi thòm thèm con mồi kế tiếp. Có lúc sự vật lộn làm vết thương cũ của con thú đau, nó liếm láp vết máu, và tôi hãi hùng nhận ra chỗ đau ấy cứ rộng thêm ra. Đôi khi tôi nhớ người đàn bà ở Bàu Sen, nhớ bóng người xấp xãi, ngơ ngác chạy theo chiếc ghe sáng ấy. Chắc chị đã quay lại, đón đứa con gái về, móc quần áo trở vô tủ. Có hề gì, rồi chị sẽ yêu một người khác, nhưng mãi mãi, chị không quên nỗi ê chề bị bỏ lại bên đường (bằng chứng là ba cha con chúng tôi có quên được đâu). Với những đàn bà sau này, cha tôi tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc. Có người vừa bán xong cái quán nhỏ của mình. Có người vừa nói xong những lời dứt tình với chồng, con. Có người vừa phũ phàng chia xong gia sản, có cô gái sắp về nhà chồng, củi to củi nhỏ chất thành giàn ngoài chái... Hết thảy đều cun cút tin và yêu. Cha mang họ đi một quãng đường vừa đủ để người ở lại nhìn rõ chân dung của sự phản bội, sau đó người đàn bà bị hắt lên bờ. Con đường quay về bị bịt kín.

Cha không tốn nhiều công sức cho việc chinh phục (Những người đàn ông quê mùa đã tự tay đẩy người đàn bà của mình đến với cha, bằng nhiều cách. Họ thích uống say, họ thích dùng tay chân để tỏ rõ uy quyền. Mệt nhọc làm lụng trên đồng, người đàn ông đã trở nên khô cằn, có khi cả đời, họ không nói với phụ nữ một câu yêu thương tử tế. Họ không biết vuốt ve, âu yếm, khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thoả mãn, rồi quay lưng ngủ khò). Sẽ còn bao nhiêu người nữa được cha tôi cho nếm thử niềm đau kia, tôi tự hỏi mình khi nhìn người đàn ông vào tuổi bốn mươi, quyến rũ từ cái cười, từ câu nói, ánh nhìn thăm thẳm, ngọt ngào. Trời ơi, trừ chị em tôi, không ai thấy được đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân.

Nên mỗi lần cha nhìn đăm đắm và mỉm cười với một người đàn bà mới chúng tôi lại thắt thẻo. Thêm mối tình đau trước cả ngày thứ nhất (mà chị em tôi không cách nào ngăn được). Tôi có cảm giác cha quắp lấy người ấy, vùi mặt vào da vào thịt, ngấu ngiến mà lòng cha lạnh ngắt. Thằng Điền cay đắng, "Cha làm chuyện đó thì cũng giống như mấy con vịt đạp mái…". Tôi nạt, "Đừng nói bậy…".

Nhưng tận đáy lòng, tôi cũng nghĩ, cha hơi khác con - người. Nhạt nhẽo hơn cả việc quan hệ theo mùa, theo bản năng, trong cha tôi không còn một chút cảm xúc nào, nét mặt tràn ngập những rắp tâm.

Cha đẩy chúng tôi trượt dài vào nỗi thiếu thốn triền miên. Mỗi lần rời khỏi một nơi nào đó, thật khó để phân biệt, chúng tôi bỏ đi hay chạy trốn. Chúng tôi đánh mất cái quyền được đưa tiễn, được xao xuyến nhìn những cái vẫy tay, được nhận vài món quà quê như buồng chuối và hương hay bó rau ngót cắt trong vườn, cùng lời dặn dò quyến luyến, "Đi mạnh giỏi nghen…".

Chị em tôi hết sức cố gắng để sự giận dữ, chán chường của mình không bùng cháy. Chúng tôi cho vịt ăn thật xa trên đồng, vạ vật ở đó từ sáng tới chiều. Gió hoang liêu trên đồng không làm lòng hai đứa nguội lại. May ra, gió chỉ thổi khô nước mắt lúc nào cũng ri rỉ trên mặt em tôi.

Tôi không còn muốn chữa mắt cho Điền. Bởi Điền khóc suốt (giống hệt tôi), dù vẻ mặt nó rất bình thản (tôi cũng vậy, khác là nước mắt tôi khô rốc trong lòng). Hai đứa tôi đều kỳ dị, đến mức nhiều khi tự giật mình.

Có lần, hai chúng tôi ngồi trên một bờ đất, xung quanh đấy những người thợ gặt đang ăn cơm. Nắng giữa trưa nóng rát. Tôi nói, chỗ khác có nắng dữ dằn vầy không ha. Thằng Điền nói, mùi cá kho quẹt thơm dễ sợ. Ừ, tôi gật đầu, nhưng cái mùi nghèo quá. Vậy mùi gì giàu, thằng Điền hỏi vặn lại. Tôi cười, thịt kho tàu. Rõ ràng hai đứa tôi có cãi qua cãi lại, vậy mà sau đó một người thợ gặt tỏ vẻ ngạc nhiên, "Hai đứa bây ngồi chù ụ cả buổi trời, không nói câu nào, vậy mà cũng chịu nổi sao?"

Thằng Điền cười, "Ủa, tụi mình hỏng nói tiếng - người!?". Tôi nhận ra nó không hề máy môi, tôi đọc được những ý nghĩ trong Điền. Ở đó, đang có bão tơi bời, gió quất điên cuồng vào trái tim nhỏ chi chít vết đau. Thằng Điền nổi loạn.

Dấu hiệu bắt đầu từ một bữa trong xóm đê, tình cờ ngó đôi chó nhảy nhau, thấy các chị đang phơi lúa kêu ó ré lên, tôi rủ Điền giả đò nhắm mắt (trò này cực kỳ trẻ con, vì ai cũng mường tượng mồn một tư thế động tình của hai con chó). Thằng Điền phì cười, nó kêu lớn, "Hai, coi nè…" rồi cầm đoạn cây xông đến quất đôi chó tới tấp. Hai con chó kêu la thống thiết, hoảng loạn, xà quần trong đám bụi đất. Đau đớn cùng cực, chúng rúc vào chân đống rơm, nhưng không chịu rời nhau. Con đực phục đầu sát đất, rên rỉ, nước dãi chảy ròng. Không chạy hả. Bốp. Không chạy nè. Bốp. Thằng Điền gào lên. Cây trúc giập nát. Tôi giữ tay Điền lại bảo, "Ác với tụi nó chi vậy, cưng", thấy nước mắt bê bết trên mặt em tôi.

Ngay từ lúc ấy, tôi đã muốn chạy về và nói với cha "Thằng Điền bị sao rồi, cha ơi...". Tôi sợ, hoảng loạn khi phải chứng kiến một mình.

Thằng Điền biết là tôi đã nhìn - thấy - cái - gì - đó, nó chua chát cúi đầu. Điền chối bỏ niềm vui được trở thành một người đàn ông thực thụ. Nó tự kìm hãm bản năng trổi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng sự tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm thù. Nó phản kháng bằng cách trút sạch những gì cha tôi có, cha tôi làm. Giãy dụa đến rã rời, nhiều bữa, nó dầm mình dưới ao đến khi người tái nhợt. Nó chạy như điên trong đêm, trên những bờ ruộng mướt cỏ đến khi mỏi nhừ, gục xuống. Rồi nằm xoãi trên đồng, tả tơi.

Không phải vậy, không phải vậy Điền ơi, tôi muốn kêu lên, tiếc là sự thất học khiến tôi không diễn đạt được bằng lời. Tôi không chắc lắm, nhưng dục tình và xác thịt không xấu xa, không đáng bị khinh bỉ, không phải là nguyên nhân đẩy chị em tôi đến cuộc sống này với những đổ vỡ này…

Điền mười sáu tuổi, nó có thể mãn nguyện nằm bên tôi, dái tai để mặc tôi mân mê. Điền đã lạnh ngắt. Nó dửng dưng nhìn những đứa con gái làm cỏ lúa, quần xoắn cao, đùi non mởn. Đôi lúc bắt gặp những đôi người quấn nhau giữa các chòi ruộng hay lùm cây, nó khinh khỉnh cười khào. Nó điềm nhiên nói cái giọng hơi run rẩy nhưng rất mỏng và dịu dàng, "Hai, thôi đi. Em đâu có sao, buồn làm chi...".

Tôi cười, nói ờ. Nhưng muốn nghỉ buồn cũng không đơn giản. Phải rất lâu, tôi mới nhìn Điền một cách bình thường, tôi cố quên chuyện của nó, tưởng tượng bây giờ nó mới chín mười tuổi gì đó (cái hồi hai đứa như cây kiểng còi, thẳng đuột như nhau, thằng Điền hay bắt chước đái ngồi).

Và tôi chợt nghĩ, sự bất thường của Điền, chẳng qua nằm trong chuỗi rất dài của sự trừng phạt. Điều đó lý giải cho việc thiên nhiên ngày càng trở nên hung dữ hơn, khắc nghiệt hơn. Bằng những sấm chớp, gầm gừ, dường như trời đất đã nín nhịn nhiều, cuồng nộ bắt đầu rồi đây. Có lần, tôi lấy cao su gói lại mớ mùng chiếu, nhìn mưa thè cái lưỡi ướt nhão nhớt vào lều, khoái trá nếm từng tấc đất, tôi tự hỏi, không biết chỗ khác (chỗ không có chúng tôi) có mưa nhiều như vầy không. Ý nghĩ đó xuất hiện triền miên trong đầu tôi, rằng trời chỉ trút mưa, trút nắng ở nơi chúng tôi dừng chân lại. Nỗi bẽ bàng của những người đàn bà bị cha tôi bỏ rơi (và cộng thêm niềm đau vỡ của những người quây quanh họ) đã thấu qua những tầng mây.

Và dường như cách giao tiếp ngấm ngầm của tôi và Điền cũng trong chuỗi bất thường, nó làm cho mối quan hệ với cha thêm rời rạc. Những bữa ăn nối tiếp nhau trong im lặng. Lúc và cơm, tôi hay bị ảo giác, tưởng mình đang ngồi trên cánh đồng của chín năm trước. Một cánh đồng miên viễn với gió lắt lay những khói nắng héo xèo, một nhúm mây rất mỏng và rời rạc bay tha thểu trên cao. Đường chân trời mờ mờ xa ngái. Một vài gò mả loang lổ dưới chòm trâm bầu. Tiếng chim kêu nhỏ từng giọt thiu thỉu. Mùi rạ mới quyện với bùn tanh tanh. Bầy vịt rúc đầu vào nách, ngủ ơ hờ dưới bóng cây tra treo từng chùm bông vàng tuyệt vọng lay như những chiếc chuông câm. Cảnh không đổi, người cũng không, cứ ngồi ngoáy mãi vết thương cũ, nhỏ nước mắt.

Giống như mấy cái mả ngồi, thằng Điền nhận xét. Vừa may, một bữa trưa nắng rập rờn trên nách rạ, chúng tôi cảm nhận được những tiếng nói lao xao. Thằng Điền thảng thốt, "Tụi mình ba trợn thiệt sao, Hai ?" khi nhận ra đó là tiếng của... vịt. Tôi cười, hớn hở. Thế giới của vịt mở ra. Không ghen tuông, hờn giận, chắc tại cái đầu vịt nhỏ quá nên chỉ đủ cho yêu thương. Tôi thôi thắc mắc vì sao cả bầy trăm con chỉ cần mười, mười lăm con vịt trống.

Đắm đuối với loại ngôn ngữ mới, chúng tôi chấp nhận để cho người ta nhìn mình như những kẻ điên (miễn là tạm quên nỗi buồn của cõi - người). Chị em tôi học cách yêu thương đàn vịt (hy vọng sẽ không bị đau như yêu thương một - con - người nào đó). Nhưng nhiều khi nhìn thằng Điền dõng tai coi mấy con vịt nói cái gì, tôi giật mình, nuốt một họng đắng, tự hỏi đã đến nỗi này sao, đến nỗi chơi với người thấy buồn, nên chuyển qua chơi cùng vịt. Đêm nào cũng vậy, cũng rón rén, từ tốn, hai chị em thắp một ngọn đèn giữa chuồng, để lúc bọn tôi ra, chúng nhìn, biết không phải người lạ, không xao động. Vừa nhỏ nhẻ lấy trứng, tôi vừa hát một bài hát bâng quơ, đôi chỗ vì hạ giọng thấp mà hụt hơi. Bầy vịt nhạy cảm khủng khiếp, sau này, tôi cố sửa lại những chỗ hụt hơi ấy, chúng nhận ra ngay, và nhìn tôi với vẻ ngờ vực, "Ủa, phải con - người hôm trước không ta ?". Một con vịt đui khịt mũi, cười, "Nó chớ ai, giọng có khác, nhưng rõ ràng là tiếng trái tim nó. Quen lắm. Chập chờn, thút thít, đòng đưa như sắp rụng... "". " Có nổ hôn đó, cha nội?" "Sao không, mấy người thử đui đi rồi biết". Bất giác, tôi nhắm mắt để nghe lại tiếng tim mình.

Nhưng sự trừng phạt tính toán cũng vừa vặn, vừa đủ vui, vừa đủ thương, quấn quýt, nó lại đứng sau lưng và cười nhạo chúng tôi.

Gió chướng trở ngọn, trên những cánh đồng ủ ê tin buồn. Chúng tôi nghe được một cụm từ lạ, dịch cúm gia cầm. Những người nuôi vịt chạy đồng cười khào, "Chậc, mấy con vịt chết gió, mấy ông nhà nước nói cho quá…". Hôm chính quyền thông báo tiêu huỷ tất cả các bầy đàn, họ xửng vửng kêu lên, "Trời trời, bộ hết chuyện giỡn sao, mấy cha?"

Chẳng ai giỡn cả. Người ta dùng ý tưởng của Tào Tháo thời Tam Quốc, "thà giết lầm còn hơn tha lầm", dồn tất cả vịt trên cánh đồng lại và đào hố chôn. Thằng Điền mếu máo:

- Mấy ông ơi, vịt tui sân sẩn, có bệnh tật gì đâu…

Một người càu cạu:

- Sao cậu biết?

- Rõ ràng tụi vịt nói với tui.

Mọi người cười ha ha, bữa nay vui quá chừng. Họ bắt đầu trùm kín mình bằng những bộ đồ đi mưa. Họ rải vôi trên những hố chôn lớn bằng mấy khẩu đìa cộng lại. Họ tọng những con vịt còn sống, còn giãy dụa, còn gào thét vào bao tải, buộc miệng và quăng xuống đó.

Đám nuôi vịt chạy đồng tụm lại ở một chỗ, cúi mặt vào lưng nhau. Họ xót của, tiếc tiền, họ cảm nhận được sự kiệt quệ, đói nghèo đang vây bủa. Lần rủi ro này (của cái nghề lắm rủi ro) thật khốc liệt.

Cha tôi ngồi riêng biệt ở một bờ đất và đốt thuốc ngó trời, điệu bộ hơi dửng dưng. Với nỗi đau sâu hoắm sẵn trong lòng, thì những biến cố khác chẳng qua như một vết xước nhỏ ngoài da, nhằm nhò gì.

Hình ảnh đó, nét mặt đó làm cho tôi tuyệt vọng. Mà, lúc đó, tôi đang chết điếng, sao tôi lại nhìn về phía cha? Vì tôi muốn cầu cứu (như những đứa trẻ con gặp chuyện giật mình, hay buột miệng gọi má ơi hoặc cha ơi!)? Vì tôi thấy mình không thể chịu đựng được tiếng gào khóc thê thiết của những con vịt bị vùi sâu dưới lòng đất?

Mất nửa ngày những cái hố mới được lấp đất đầy. Xuyên qua những lớp đất bầy nhầy, tôi nghe vịt - của - tôi vẫn còn thoi thóp, chúng đau đớn vì những cái cổ gãy, rối quặt quẹo, chúng hỏi nhau vì sao tụi - người - ta lại ác. Rồi thinh lặng. Trong cái im ắng đến rợn người, tôi nhận ra tiếng của con vịt mù, có lẽ vì không sợ tối, nên sự sống kéo dài.

Rồi ánh sáng nhập nhoạng cuối ngày loang lổ đổ xuống, tôi và Điền khóc hức, cảm nhận được cái thở hướt ngắn dần, ngắn dần của con vịt sau cùng. Và nín bặt. Và tan hết. Chỉ còn gió cười từng tràng dài... Tôi tiếc thôi là tiếc sinh linh nhỏ bé đã thấu được tim mình.

Sáng sau, người ta tìm được một người chăn vịt nằm sát mép hố, mắt chong chong ngó trời không chớp, miệng sủi ra thứ bọt, trong vắt như bọt cua nhưng hôi nồng nặc. Chai thuốc trừ sâu lăn lóc cạnh đó đã cạn tới giọt cuối cùng. Sống thì khó chứ chết sao mà dễ.

Tôi đứng nhìn, tiếc rẻ, ủa, cái người nằm sóng xoài kia, sao không phải là chúng tôi?

Sự báo ứng dường như đang ở rất gần.

7.

Tôi bắt đầu hối hận vì đã cứu chị và mang chị đi cùng. Có cảm giác chúng tôi nắm tay kéo chị lên khỏi một vũng lầy để đẩy chị vào một vũng khác, cũng sâu.

Chị xuất hiện không đúng lúc. Cha tôi có dấu hiệu mệt mỏi. Đàn bà, với cha, càng trải nghiệm càng chán chường. Càng gieo rắc càng đau. Vết thương cũ mở miệng toang hoác, không da thịt nào có thể lấp đầy. Cha không chấp nhận cả những người phụ nữ mà ông kỳ công chiếm đoạt (của người khác), thì sao ông có thể tin tưởng ở sự hiến dâng?

Vậy đó, cuối cùng chị hiểu được tại sao cha tôi lại phớt lờ mình. Tôi và Điền buộc phải kể câu - chuyện - của - chúng - tôi để chị không phải ray rứt gì với thân phận làm đĩ. Những ký ức chắp vá, đứt đoạn được chúng tôi kể khá chậm, một phần vì đã lâu không dùng cách giao tiếp bằng lời, một phần do vài chi tiết khiến chúng tôi phải dừng câu chuyện lại, vì thấy nhói ở đâu đó hay đợi chị thôi khóc. Thí dụ như cái đoạn kể về kỳ kinh nguyệt đầu tiên của tôi. Máu chảy giữa hai đùi không tạnh được, tôi thụp xuống, bụm chỗ ấy lại. Máu từ từ chảy qua kẻ tay, tôi thấy mình rỗng ra, tái nhợt, chết dần. Thằng Điền vói bứt đọt chuối, tọng vào miệng nhai ngốn ngấu, điên dại, để lấy bả rịt lại chỗ máu. Thuốc gò nghe nói cầm máu rất tốt, cũng chẳng ăn thua. Hai đứa nhìn nhau khóc, tôi đã mơ thấy ngôi mộ của mình, như chiếc giường giữa bốn bề đồng nước... Chị mếu máo vít đầu tôi vào lòng, "Trời ơi, tội hôn. Lúc đó cha mấy cưng ở đâu?". Tôi ngơ ngác, không biết, nhưng dù cha có ở gần ngay đấy thì chúng tôi cũng chẳng thể cầu cứu.

Đã nói là chị em chúng tôi phải tự học đủ thứ rồi mà. Những gì không biết, chúng tôi thử. Những gì không hiểu, chúng tôi chất thành khối trong lòng. Nhiều khi thấu đáo được một điều nào đó, chúng tôi phải trả giá cao.

Có lần chúng tôi thả vịt nghỉ khúc kinh có bóng cây. Bỗng nỗi xấu hổ vì mình là con người xộc lên mũi sặc sụa, khi tôi phát hiện ra chúng chẳng bao giờ cưỡng đoạt và gạt gẫm nhau. Khoảng thời gian trước khi con trống trèo lên con mái rất thật, mềm mại, êm đềm... Tuyệt không có gì là thô tục. Tôi sửng sốt. Thằng Điền sửng sốt. Trời ơi, khác với những gì chúng tôi biết (qua cha tôi, má tôi), trong sự hoan lạc (của những con vịt) đầy ắp thứ gọi là tình - yêu. Điền chới với, nghi hoặc lan ra như một vòng sóng. Và khi chị xuất hiện, thì trong nó chỉ còn nỗi ân hận giày vò.

Điền yêu chị, nhưng tình yêu đó khiếm khuyết mất rồi. Sau giấc ngủ dài, bản năng nó đã không trở dậy. Trái tim nó chỉ là hòn than nhỏ, không thể hâm nóng lại cơ thể ngã màu tro. Sợi dây xúc cảm như lối đi lâu lắm không người lui tới, cỏ dại mọc bít mất, đường đứt, cầu gãy...

Mà, kiểu yêu tinh thần để nhìn nhau, để nắm tay, vuốt tóc, để nín nhịn và hy sinh chỉ tồn tại trong văn chương Nguyễn Ngọc Tư. Chị cần nhiều hơn, nhiều hơn, nhiều khủng khiếp, tưởng như chị có thể ngốn ngấu, bào mòn tất cả đàn ông trên thế gian này. Lúc đầu là kiếm sống, nhưng lâu dần, sự chung đụng của thể xác làm chị nghiện. Thằng Điền tuyệt vọng.

Tôi cảm giác sự đổ vỡ khi Điền đuổi theo chị, và chị thì chạy theo cha.

Một cuộc đua rã rượi, chẳng đến đâu. Chúng tôi còn phải dành sức cho cuộc mưu sinh dưới nắng như tát lửa. Cha quyết định bán bầy vịt đi. Ba người, mỗi lần xách vài ba con, chúng tôi chia nhau đi dài xóm để bán lẻ. Nhưng cách ấy chẳng cho kết quả nhiều, nắm con vịt ốm nhằng trong tay, xương ức gò ra bén ngót cũng đã đoán được. Thêm nữa, mùa giáp hạt kéo dài, nhiều nhà chạy gạo còn gay, thịt vịt trở nên xa xỉ. Tivi thì vẫn đang ra rả về dịch cúm, những người biết chút đỉnh, rụt đầu, "Ăn vịt đặng lây bệnh chết à?".

Chúng tôi mang lũ vịt trở về, con đường dẫn lên đồng rập rờn hoa mua tím. Cũng theo lối này, vài hôm sau, ông trưởng ấp dẫn theo một cán bộ xã xồng xộc đến chỗ chúng tôi.

Tôi vừa sợ, vừa biết ơn những người như thế này. Họ làm cho chúng tôi cảm thấy bớt hoang dã, họ làm chúng tôi hiểu rằng, ngay cả trên những cánh đồng hoang liêu nhất thì chúng tôi vẫn bị ràng buộc bằng hàng vạn luật lệ. Nhưng đồng thời họ luôn mang tai họa đến. Dường như sự trừng phạt đang núp sau hai khuôn mặt bị nướng dưới mặt trời, bóng nhẫy, tươm mỡ. Họ phơ phởn nói bằng thứ ngôn ngữ buồn cười (bọn chăn vịt chúng tôi chẳng khi nào dùng những chữ chỉ thị, loại trừ tận gốc hay giải quyết dứt điểm...). Thật đơn giản, khi nói "các người phải huỷ bầy vịt". Cha tôi cáu kỉnh gật đầu. Tôi và Điền kêu lên một tiếng buốt, ôi, những bạn - bè của chúng tôi sắp bị chôn sống nữa rồi.

Cái nhìn chị chảy theo nước mắt của thằng Điền, chị khẽ bảo, không sao đâu, mấy cưng. Chị đon đả, chèo kéo hai người đàn ông lạ về phía mình, "Mấy anh thương em với, nỡ nào để cả nhà em chết đói". Một người càu cạu:

- Ở trên lịnh xuống tụi tui cãi sao được.

Nụ cười đong đưa, tung tẩy trên khoé mắt, thì em có bảo mấy anh cãi ai đâu, mấy anh giả đò không biết, không nhìn thấy bầy vịt của em là được rồi. Dễ ợt... Thằng Điền bệu bạo cắn răng, nó tự kìm nén bằng cách siết vai tôi đau nhừ. Cách đó năm bảy bước, giọng nói của chị vẫn lướt như một dòng gió đầy hơi nước, thấm dịu lại hai khuôn mặt (cố tỏ ra) cứng đơ. Một người nuốt nước miếng, ánh nhìn ham muốn như mũi kim thò ra khỏi bọc, lơ láo. Mắt ông ta lột trần chị, và toan tính một thoáng. Người còn lại có vẻ thú vị, háo hức như sắp được xem một vở cải lương hay. Chị thấu hiểu đàn ông đến nỗi, ngay lập tức chị ngó về phía chúng tôi, ngầm báo, cuộc thương lượng (về một sự đổi chác) đã kết thúc rồi.

- Hai anh cứ về trước, chút nữa, em lựa mấy con vịt tơ đem lại cho các anh lai rai. Nhà anh Năm đây em biết chớ sao không, đi tới đâu, em cũng coi mặt thổ địa trước chớ...

Nụ cười chị chợt mỏi mê mỏi nhừ. Có một chút tàn nhẫn, một chút man rợ trong cuộc thương lượng này. Hai người đàn ông quay vào xóm, không quên vói lại một câu, nửa đe nẹt, nửa xuề xòa, "tụi tôi nể vợ anh...". Cha tôi cười hết sức độ lượng, ôi những thằng trẻ con...

Chị vò đầu thằng Điền, bảo "chuyện nhỏ thôi mà, đi bắt vịt dùm chị, nhỏ cưng". Và hướng cái nhìn sâu nhói về phía cha tôi, rất chậm rãi, chị thay áo, lấy nón, xỏ dép... Thời gian dằng dặc. Tôi biết chị chờ, hy vọng. Tôi biết, đi một quãng xa, chị vẫn còn dõng tai đợi một tiếng gọi, "quay lại đi, Sương". Nhưng chỉ gió ngêu ngao xoi mói vào mảng thịt sau tà áo người phụ nữ đang xiên xiên trên bờ cỏ rập rờn.

Chị về khi trăng rạng rỡ trên đầu (mãi sau này, tôi vẫn còn ghê sợ cái màu trăng ấy). Ống quần quệt vào cỏ ướt đẫm sương. Hơi rượu quyện với mùi thuốc lá làm tôi chạo chực. Nhác thấy hai chị em tôi ngồi thù lù, chị kêu lên, trời đất, hai cưng chờ chị chi vậy. "Chị... làm đĩ quen rồi, mấy chuyện này nhằm bà gì mà mấy cưng buồn?". Rồi khom người nhìn vào chòi, chị chắc lưỡi tấm tắc, " Coi nè... Trời ơi, bữa nay bộ gió mát sao mà người ta ngủ ngon dễ sợ". Chao, tiếng ngáy của cha tôi sao mà đều, sao mà thơ thới. Tôi chực khóc, ngay lúc này đây, dường như chị - đang - chết. Chị lẹ làng lấy tay quệt lên mắt, mảng nước nhoè nhoẹt bên màng tang, bết cả vào mớ tóc mai.

Sáng sau, gặp ở quây vịt, cha tôi cười, hơi giễu cợt, "Sao, hồi tối vui không? Chắc họ tưởng cô là vợ tôi nên hứng thú lắm hả? Cứ để họ nghĩ vậy... ". Chị ngó trân vào cha, rồi day qua tôi, chị để rớt từng lời:

- Má cưng ác một, nhưng người cha này của cưng ác tới mười.

Nói rồi, chị quay đi. Chân vướng dấp dúi vào cỏ. Con đường nhỏ dầm chan trong màu hoa mua tím. Tôi đắng đót thầm trong lòng một cái vẫy tay. Bóng người khuất trong vườn. Thằng Điền xách nước về, nó cuồng lên hỏi chị đâu. Tôi chỉ con đường kinh xao xác hoa cỏ dại. Em tôi chạy hồng hộc về phía đó.

Điền, cũng không trở lại.

Tôi đã chờ nó đến khi mùa mưa đổ xuống cánh đồng Chia Cắt (tôi tạm gọi vậy) một trời sao. Chờ chơi vậy, chứ tôi biết Điền chẳng quay về. Tôi nhớ nó (và nhớ chị) không thôi. Những lần dọn cơm tôi hay lấy chén đũa cho cả bốn người. Cha tôi rất khó chịu, ông ngán ngẩm đứng dậy. Tôi ngồi một mình, chan nước vào chén cơm như chan nỗi trống trải khủng khiếp. Đi qua những xóm kinh chộn rộn ánh đèn, tôi thường ngóng lên bờ mong có thể gặp được thằng Điền và chị. Không biết em tôi có đuổi kịp chị, hay vẫn tiếp tục kiếm tìm. Không biết nó đã đánh thức được bản năng, đã tìm thấy nhục cảm, đã biết thèm muốn chưa. Không biết tối nay thằng Điền có được mệt nhoài úp lên chị, hay vạ vật ở đâu đó, bên vách buồng (hay một tấm ghi-đô bằng vải), đau vật đau vã nghe hoan lạc chảy thành những dòng rên xiết, kêu thét. Không biết nước mắt của nó đã khô chưa hay vẫn rỉ từng giọt như máu tươi.

Tôi nhớ Điền, bao gồm nhớ một đồng - loại (và tôi là đồng - loại còn lại), nhớ một cách trò chuyện (đọc thấu lòng nhau), nhớ một người nghe được tiếng tim mình (điều này thì con vịt mù làm được, nhưng nó đã chết rồi), và nhớ một người che chở (công việc này, đáng lẽ là của cha, má tôi). Tôi biết ơn Điền, từ một gói băng trắng mà Điền mang về hôm tôi mười bốn tuổi, bảo thứ này dùng khi có kinh nguyệt, nó sẽ ngăn không vấy máu ra quần. Điền đi hỏi ai đó, nó nói, máu không cầm được cho đến khi nào tự nó ngưng chảy. Điền xót xa khi thấy tôi trổ mã con gái, "Đẹp làm chi dữ vậy, Hai? Ở cái xó quê này, có đẹp mai mốt cũng phải lấy chồng, đẻ một bầy con nheo nhóc, cũng ra ruộng ra vườn làm lụng đến hết đời, xẹp lép như xác ve. Đẹp, mắc công giữ...". Điền dặn tôi đừng xoắn quần quá cao, đừng mặc áo quá rộng cổ... Với bọn đám thanh niên lúc nào cũng kiếm cớ lảng vảng, Điền giang tay bọc lấy tôi, nó giễu cợt, "Anh kia, lượm con mắt lên, anh nhìn vậy, chị tôi mòn còn gì". Đám người cụt ngòi, tẽn tò dạt ra. Ngay cả khi Điền bỏ đi cùng chị, nó cũng để lại cho tôi một món quà lớn.

Cha bắt đầu có một chút quan tâm với tôi. Dường như chỗ trống của thằng Điền nhắc cha nên quý những gì còn lại. Bắt đầu từ một đêm, cha đứng đằng xa, bảo, "Nương, ngủ sớm đi!", tôi nghe mắt mình cay, ngợp như ai đó tọng một đám khói vào mặt. Mắc cười, câu nói chẳng ý nghĩa gì lớn lao, những người cha người mẹ nói với con họ hàng ngàn lần, đến phát bực mà tôi lại xốn xang.

Tôi ước gì có thể chếnh choáng thật lâu, nhưng nó mau chóng tắt rụi vì một ý nghĩ kỳ lạ. Dường như không còn kịp nữa, để hàn gắn sự đổ nát, để sắp xếp những mảnh vỡ lạo xạo trong lòng.

Chúng tôi tập nhìn nhau, điều đó khó khăn biết bao. Nhất là với cha, tôi cảm nhận được sự cố gắng lớn. Mỗi lần ngó về phía tôi, ông phải trợn trạo nuốt nghẹn những cảm xúc, vì tôi giống má khủng khiếp.

Không cần gương, tôi thấy hình bóng má trong mắt người đối diện. Trước ánh nhìn của cha, tôi cảm giác mình soi xuống dòng nước đêm. Với những người đàn ông khác, tôi bị rực lên như đứng trước mặt trời. Bằng mắt, họ sờ soạng khắp người tôi. Ánh mắt giống bàn tay của ông xẩm mù mà tôi từng gặp, đụng chỗ nào cũng dừng lại, vuốt vuốt bóp bóp (chắc là cho dễ hình dung), rồi lần dò tới một chỗ khác, rờ nắn mê miết. Và tôi đón nhận một cách hằn học, cục cằn.

Hôm bán bầy vịt, cha tôi sắm một chiếc nhẫn vàng, ông đẩy nó về phía tôi, ngượng ngập như sắp chết giấc, "Để dành khi đi lấy chồng...". Tôi sặc ra một bụm cười, trời ơi, tôi biết lấy ai bây giờ?

Suốt những tháng năm sống tù đọng trên đồng, tôi có biết ai ngoài những người đàn ông quê mùa cũ kỹ. Tôi biết lấy ai trong số đó? Lấy một người cắm mặt xuống đất, mệt nhừ với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt, tôi nghe tiếng cạo cháy của con, tiếng muổng dừa vét gạo dưới đáy thạp mà rát bỏng trong lòng? Hay tôi sẽ chọn một người chăn vịt, mê mỏi với chuyến đi xa, sống cuộc sống hờ hững tạm bợ, thấp thỏm với rủi ro, và đến một lúc nào, tôi ôm con nghe đêm của mùa gặt thật dài với tiếng rúc rích của chồng cùng cô điếm già nua. Tôi lấy ai bây giờ, một người thợ gặt? Một anh chạy đò? Ý nghĩ mình là bản sao của má làm tôi sợ. Tôi không chắc mình có đủ kiên nhẫn sống cuộc sống nghèo túng, nhàm chán ấy suốt đời, hay nửa chừng bỏ dỡ. Và bi kịch chất đống lên những người ở lại.

Cha tôi hơi hoảng. Vậy đó, chỉ cần để ý một chút, là có thể nhận ra, xót xa vì sự quái dị, khác thường của tôi. Cha tôi vừa kịp nhìn thấy điều ấy, bối rối đến mức không biết diễn tả sự đau lòng như thế nào, bằng mặt, hay chỉ âm thầm trong lòng. Mà có đau, dường như cũng trễ...

Cái ý nghĩ đã muộn màng, trễ tràng, không còn kịp nữa như một cái rốn nước sâu hoáy, điên cuồng hút tôi vào, cảm thấy mọi nỗ lực của cha trở nên vô nghĩa, tôi nghĩ vậy. Tôi nghĩ đến sự trừng phạt, sự báo ứng bất chấp trời im ắng như đã nguôi quên chuyện cũ rồi. Bây giờ, đang vào mùa đẹp nhất trong năm.

8.

Bây giờ, gió chướng non xập xoè trên khắp cánh đồng Bất Tận (tên này tôi tự dưng nghĩ ra). Ven các bờ ruộng, bông cỏ mực như những đường viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng của lúa. Rất thính nhạy, (như kên kên ngửi được mùi xác chết), đám thợ gặt đánh hơi kéo đến, những người nuôi vịt chạy đồng lục tục ở đằng sau.

Những cánh đồng trở thành đô thị; những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát; những cánh đồng vắng bóng người, và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa nghẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh đồng đó, đã hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần. Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình, vì không thể quay lại những cánh đồng cũ (với người quen cũ). Tôi đã từng trở ngược về những nơi đó theo cách của tôi, bằng mường tượng. Tôi gặp nhiều đứa trẻ tên Hận, tên Thù mang khuôn mặt rắp tâm của cha tôi, với đôi mắt sâu và chiếc mũi thẳng. Những đứa trẻ nhàu úa, cộc cằn, cắm cẳn, chỉ tiếng chửi thề là tươi rói, nhảy ra xoi xói ở đầu môi. Và hình ảnh đó thật đến nỗi, tôi bất giác lùi lại vì một đứa đang nhìn trân trối vào mình, ngạo nghễ "Tao không thích học, chừng nào lớn, tao đi chăn vịt. Má tao (hoặc ba tao) dặn, phải đánh chết tụi chăn vịt kia".

Tôi giễu cợt, không biết mày có kịp lớn không. Và nó nhăn nhở cười trước khi tan mất vào vũng đêm.

Tôi không mất nhiều thời gian để hiểu được cái cười ấy.

Đơn giản là ngay bây giờ, trên cánh đồng này, cũng đang lảng vảng những thằng Hận, chúng lớn hơn, cũng thất học, hung hãn. Bọn người này cướp vịt ở các bầy khác (trong đó có của chúng tôi) bằng cách lén phết sơn đen lên đầu những con vịt và phơ phởn đến nhận chúng là của mình, hiển nhiên mang đi. Bắt đầu xảy ra vài cuộc xô xát trên đồng, người ta đem hết những bản năng hoang dã của mình ra để giành lại miếng ăn.

Cha biểu tôi đứng ở đằng xa. Chờ đợi. Rốt cuộc, bầy vịt của chúng tôi vẫn mất ngót một nửa. Chúng tôi ra về. Cha tha thểu đằng trước với một thân xác nhừ bùn sau cuộc đánh nhau. Cố đi tụt lại phía sau, tôi giấu nỗi vui đang thổn thức, cồn cào. Sẽ không ra gì nếu một đứa gái tỏ ra mừng rỡ khi cha nó bị đánh tả tơi, nhưng rõ ràng là cha tôi đang thay đổi, đang sống lại những cảm xúc bình thường nhất. Tôi thích ông như thế này.

Sau này, tôi luôn hối tiếc là tại sao ngay lúc ấy không chạy đến và cùng sóng bước cùng ông, tại sao tôi không nhìn ông và mỉm cười. Để khi đám người kia đuổi kịp, tôi đã không còn cơ hội.

Ba người họ quây lấy tôi, quần áo vẫn đẫm bùn, mặt mũi sưng sỉa. Họ hơi ngỡ ngàng, khi nhìn thẳng vào tôi, một đứa gầy trạc thằng Điền lau dãi ròng rãi trên khoé miệng, thảng thốt, "con nhỏ đẹp quá, mày".

Tôi coi đó là lời phán quyết cho mình. Giọng điệu của hắn giống như đang tấm tắc trước một món hàng ngon mắt.

Và món hàng bị ghì ngửa trên mặt ruộng bì bỏm nước. Tôi ngạc nhiên thấy bầu trời im sẫm. Mênh mông. Không biết đã tắt nắng hay mặt trời không vói được ánh sáng đến nơi này? Hay những khuôn mặt nghèo đói, dốt nát tăm tối đã che khuất nó? Ngoái nhìn về phía cha và thấy ông lầm lũi đằng xa, tôi mong ông đừng quay mặt lại. Sau đó thử chống cự một lần, rồi thôi, sự vùng vẫy chỉ kích thích lòng ham muốn. Tôi không muốn bị đè nghiến, bị vùi nghẽn trong bùn.

Bọn chúng hơi khó chịu trước một đứa con gái yếu ớt và câm lặng. Sự hưng phấn giảm đi ít nhiều, đến nỗi, chúng tỏ ra đờ đẫn, nghi hoặc khi bóc trần tôi ra. Tôi nhìn chúng, cười cợt, "Chúng mày có lột bỏ có trăm có ngàn, tầng tầng lớp lớp những vỏ bọc, cũng chẳng bao giờ thấu đến tận tao". Ý nghĩ đó làm tôi bớt nhói cho nông nỗi này.

Vậy thì, cha ơi, quay lại làm gì, tôi than thầm khi nghe tiếng chân ông nôn nả, giận dữ lỏm thỏm trên mặt nước. Cha tôi gầm gừ nắm cổ một tên bật ngửa ra đằng sau như một người cố cất cái vó sông nặng nề, đẫm nước. Tôi khóc. Vì thấy ông đã kiệt sức, hoàn toàn. Và tôi buộc miệng thất thanh: "Điền! Điền ơi!" trước khi một tên ghí đầu ông dập xuống bùn.

Tiếng gọi ấy làm cha đau đến sững sờ, ông rướn ngước mặt về phía tôi, miệng há hốc. Tôi chực hiểu, ngay lập tức hối hận tràn đầy, trong ý thức cầu cứu, một bản năng đơn giản nhất, đứa con gái đã quên mất người cha.

Thằng Điền thì ở xa. Tôi biết rằng, không có cái gì làm cho cuộc chiếm đoạt này dừng lại. Ước gì cha có thể hiểu và chấp nhận điều đó. Ông liên tục vùng vẫy và chống trả. Một tên côn đồ bụm lấy mắt, vừa kêu rên vừa chửi bới ngậu xị. Không đánh trả, nó có cách trừng phạt khác, nó đè nghiến, giữ cho mặt ông hướng về phía tôi. Và bọn chúng thay phiên nhau, giữ cho cha chỉ một tư thế đó.

Mắt cha tôi ầng ậc nước, tôi không rõ là phèn hay máu nhoèn nhoẹt. Ước gì cha tôi hiểu, để mà thanh thản, xưa rày, cái gì không biết hai chị em cũng đã thử, đó là một cách tự học để sống. Chỉ có sự giao tiếp giữa thân xác là tôi chưa từng trải qua.

Nhưng lúc này, cảm giác thật đơn điệu. Đầu tiên là sự xé toạc, và từ rách nát, đau đớn như lũ kiến cánh được giải thoát, chúng bò rân khắp thân thể, tôi thấy mình đang chết. Rồi ký ức ùa về kinh hãi, vẻ mặt má tôi cái hôm bị người đàn ông bán vải đo lên người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau nhói. Tôi tiếc mình không hiểu điều đó sớm hơn.

... Mặt trời le lói ánh sáng trở lại khi trên đồng chỉ còn hai thân thể nhàu nhừ. Ai đó vãi từng chùm chim én lên cao, chúng cố chao liệng để khỏi phải rơi như lá. Người cha cởi cái áo trên người để đắp lên đứa con gái. Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dưới mặt trời. Dường như đứa con gái đang chết, chỉ đôi mắt là rưng rức chớp mở không thôi. Câu đầu tiên nó hỏi:

- Không biết con bị có con không, hả cha?

Cảm giác một cái gì, nhỏ xíu nhưng lanh lợi như con loăng quăng đang vui sướng, ngụp lặn trong nó. Đứa con gái thoáng nghĩ, có thể mình sẽ sinh con. Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường... Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn.

[Lady] Eric [V.Pi]
02-12-2006, 10:21 AM
truyện của chị đọc thấy cảm động wá !!!
nếu không phải đang ngồi trong tiệm, em đã khóc oà lên như một đứa trẻ thơ, em đã thì thầm rằng phải chi mình là bà già ấy, em đã ước rằng mình có thể có một câu chuyện như vậy, em đã nói rằng em sẽ không thua chị đâu, và khi ra khỏi tiệm, em đã nói rằng, ước mơ của mình thật wá xa vời!!!

Cát
02-12-2006, 11:26 AM
Phía Tây thành phố

Đào Duy Hiệp

Có ba người đàn ông: một người to, một người nhỏ, một người trung bình. Đàn ông chẳng bao giờ là không giống nhau. Ba cái đầu nhìn vào quyển thực đơn giả da màu mận chín để trên bàn. Ánh nắng qua cửa sổ chiếu lên những chữ mạ vàng lấp lánh. Chẳng phải bao giờ cái gì lấp lánh cũng đều là vàng.

Cuốn Kinh phúc âm của dạ dày được lần lượt mở ra. Dòng sông thức ăn sơn hào hải vị tràn trề. Những dòng chữ đen lấp loá như dòng cát bùn lẫn sỏi sạn tuôn ra từ lòng mỏ để đãi lấy những hạt vàng. “Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Trong đời, mỗi người một nghề. Khói, lửa, mồ hôi, đôi khi cả máu… để được no lòng. Còn hạnh phúc lại là một chuyện khác. Phía Tây có nhiều chuyện lạ. Quyển sổ dừng ở trang đồ uống. Đồ uống bao giờ cũng giản dị, ngắn gọn. Nghe tên không kêu bằng món ăn. Kêu và cũng khó hiểu nữa. Ở một quán rượu trong phố có rượu dân tộc và rượu quốc tế. Rượu “dân tộc” có Chúa Trịnh đứng đầu bảng, rồi Tây Môn Khánh, Hoàng Đế, Minh Mạng (Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử)… Hàng chục loại khác nghe như tên các danh nhân. Ba ngón tay cùng chụm vào một hàng chữ. Sau rút về. Trên các ngón tay có đeo nhẫn vàng. Có cái gắn ngọc màu đỏ. Bàn tay đó đặt chặn lên cuốn kinh giả da đã gấp lại.

Họ ngẩng lên nhìn trần nhà theo khói thuốc. Trần nhà màu kem nhẹ nhõm, hoa văn nổi nối đuôi nhau đến tận sát tường có gắn điều hoà nhiệt độ. Một chấm đèn sáng xanh bằng đầu que hương: máy đang làm việc. Khói thuốc tan loãng. Kính cửa sổ đóng kín. Màn lụa mỡ gà mỏng nhẹ phất phơ. Dưới kia dòng người xuôi ngược. Đời bao giờ mà chẳng phải tất bật, lo toan? Cả nhớ nhung nữa. Bây giờ nàng đang làm gì, ở đâu? Mọi sự rồi thành chả ra sao cả. Chỉ thấy thương, mà cũng tội nữa. Nói dối cũng là việc cùng chẳng đã. Nói dối thì đau mình, lại đau người. Người yếu đuối thì hay làm thế. Tươm tất phủ lên những nhếch nhác, ê chề. Người con trai kia đang nói chuyện gì với người con gái? Tất cả rồi cũng phải kết thúc thôi. “Tình ngỡ đã quên đi, nhưng tình vẫn lại về”…

Việc nhiều quá mà chưa xong. Những sự hiếu, hỉ, đáp lễ nhau rất mất thì giờ. Tý nữa phải tạt qua buy-rô xem có công văn giấy tờ gì không. Con bé thư ký bắt đầu hỗn rồi. Có lẽ phải thay đứa được việc hơn. Không cần xinh lắm. Mất rất nhiều thời gian. Mai thằng ấy ở trong Nam ra, bàn lại. “Típ, típ”… lại nhắn cái gì thế này? Được gọi cho nó bảo đang tiếp khách quốc tế. Có tiếng rao thuốc bả chuột: “Chuột đồng chuột cống chuột chù ăn vào gật gù một tí chết ngay. Kể cả chuột Tây chuột ta chuột Bồ Đào Nha chuột Nga chuột Pháp chuột Tuynidi chuột Thổ Nhĩ Kỳ chuột gỉ chuột gi chuột gì cũng chết”… Lại rao: “Ai mà chẳng có đôi tai, Mẹ ơi con muốn có hai cái vòng, Bao ngày con đợi con mong, Giờ đây con đã có vòng đeo tai”. Đấy là rao xỏ lỗ tai, bấm máy.

Miếng đất ấy bây giờ lãi gấp ba. Hôm nọ nhờ xem bảo đất hình Mộc (dài) phát về đường văn. Rồi đọc: “Thắt cổ bồng phồng ra huyệt kết, / Xem cho biết mộc tiết, kim loan; / Mộc tiết, văn đỗ trạng nguyên; / Kim loan, võ được tước quyền Quận công”. Văn cao nhất là Trạng nguyên, Tể tướng rồi thấp dần xuống thư ký. Lại hỏi về hướng nên làm nhà. Bảo: “Thuỷ mệnh cấn trạch, chính Tây diên niên, Tây - Nam sinh khí, tương hợp giai ngâu, gia giáo huy hảo, phúc đức tổ phùng lai”. Diên niên thì thọ, sinh khí thì khoẻ mạnh.

*

Ba cái đầu thôi không nhìn trần nhà, nhìn khói nữa. Nhìn nhau. Họ ngồi theo thế chân vạc, chia thật đều cái bàn tròn thành ba điểm cân đối. Tam giác đều. Có một người bỏ cuộc nhìn nhau, nhìn đi nơi khác. Nơi khác ấy có một người khác giới còn trẻ, đứng ở quầy bar, quay lưng lại đang trang điểm. Trong gương có một màu da giống màu rượu Johnnie Walker đỏ pha đá hay màu nước chè nhạt. Không thể nói đó là nước da vùng Amazôn, nhưng nước da thật mịn. Mỹ phẩm đắt đỏ. Đang là “mốt”. Dịch lên một chút là đôi mắt. Đôi mắt im lặng, đẹp, giông bão. Lại như dò hỏi, đo lường. (Nhìn nhau qua gương thì được lâu mà không ai biết). “Tấm gương… phản ánh… khi thì mầu xanh thẳm bầu trời, khi thì bùn nhơ…”. Nước da vùng Amazôn đó mặc áo đỏ, riềm đăng-ten đen ở cổ, váy đen dài thướt tha, bí ẩn. Người bỏ cuộc không dám nhìn lâu, đôi mắt đọng ở sâu đáy cốc. Cốc sóng sánh. Người ngồi bên cạnh phía phải lại “Típ, típ” nhắn tin. Người thứ ba đang nghịch chiếc thìa hình Mộc, phát về văn. Nhìn qua thành cốc đầy màu nước lửa thấy đĩa xa-lát rất đẹp. Những lát cà chua đỏ tươi xắt mỏng bày xung quanh. Những miếng dưa chuột cắt đôi, chẻ tư châu tuần. Rau mùi xoắn xuýt ôm lấy rau xà lách trộn dầu, ngóc lên như là ngạt thở, như là tìm ánh sáng. Bát xúp toả khói mờ, uể oải. Xúp trong sánh như bột lọc có các sợi trứng tráng mỏng, thái nhỏ như cái tăm, thịt lươn màu trắng nhìn thấy thớ nhỏ li ti, mộc nhĩ màu nâu rất đẹp, lại có những hạt sen lững lờ, hạt tiêu xay nhỏ, mịn trải đều trên mặt. Đĩa muối tiêu, chanh, ớt đặt bên cạnh. Ăn xúp bằng thìa sứ, màu trắng.

Đồng hồ chỉ quá Ngọ. Nước xốt nâu xẫm đọng trên bàn trải khăn trắng. Những giọt nâu. Đống xương chim bồ câu quanh đĩa. Những cái xương nhỏ và mảnh. Ba người đàn ông cùng cúi xuống, cùng ngẩng lên, cùng nhìn nhau, cùng ngửa cổ. Một cái miệng mấp máy; một cái giống như cười phô hàm răng ám khói; một cái nhai, ngẫm nghĩ. Thịt bò mềm, ngọt có vị oi khói rất tự nhiên, giống ngày xưa ở rừng. Rừng lúc đó ấm áp, chưa bị chặt nhiều cây. Đêm quanh đống lửa nghe con nai tác ở xa rất thảm thiết. Thịt nai nướng bùi, thơm, rất ngon. Sấy khô cho vào ba lô, ăn dần. Cây chặt nhiều để làm nhà, để đốt, để lấy rễ bán. Lại “Típ, típ”. Bàn tay xạm, tái bệnh sốt rét lập cập, nóng nảy rút cái máy ra, bấm tắt máy, cho vào túi áo ngực. Ở đằng kia, bàn tay đeo nhẫn ngọc đỏ đang búng cái thìa hình Mộc quay tít. Bàn tay khác mũm mĩm đang dày vò chiếc khăn bông mới thay tẩm nước hoa mát lạnh, rồi đưa lên lau đôi môi dày bóng nhẫy. Những ngón tay mũm mĩm cụ cựa, ngập ngừng, mơ màng nghĩ đến vùng rừng rậm Amazôn. Bàn tay đó, bàn tay xạm, bàn tay đeo nhẫn nạm ngọc đỏ, cùng nâng cốc. Người khác giới ở quầy bar nhướn gót, nhìn xuống đường. Các động mạch ở thái dương ba người đàn ông giật giật như có lửa. Máu họ có lửa, có axít chứ không phải sữa.

Ba cái đầu cùng hướng ra cửa sổ có màn mờ màu mỡ gà. Ngã tư nhốn nháo, rất đông người. Màn mờ màu mỡ gà được bàn tay Amazôn nhỏ nhắn, thanh mảnh, vén lên. Ba cái đầu lần lượt đứng lên tụ lại bên cửa sổ. Nhìn xuống đường. Nín thở. Một người thở cạnh cái đầu. Qua ánh sáng cửa sổ thấy những sợi tóc mềm bay lên, lại nằm xuống lại bay lên gấp gáp, đều đặn. Một người thở cạnh cổ. Cái cổ cao hơi ngọ nguậy. Một người thở cạnh áo. Áo vải dày không có biểu hiện gì. Áo màu đỏ riềm đăng-ten đen ở cổ. “Vũ vô kiềm toả năng lưu khách”… Trời quang, chẳng có một giọt mưa.

Mưa không quá Ngọ, gió chẳng quá Mùi. Cái gì rồi chẳng chóng qua, phấn hồng chẳng phụ phôi pha má đào. Đôi mắt sắc sảo, u buồn nữa, mà khinh bỉ thăm thẳm trên nước da nâu mịn, ánh lên bất ngờ trên khung kính cửa sổ. Đôi mắt như dò hỏi, như đo lường, như giông bão… Ba cái đầu giãn ra, giật lùi. Đàn ông chẳng bao giờ là không giống nhau. Ở dưới đường chỗ ngã tư có một chiếc xe máy nằm kềnh, xăng chảy ra. Một người con trai nằm úp mặt xuống đường. Máu ở tai rỉ ra. Một người con gái trẻ, xinh đẹp ngồi cạnh đang xoa đầu gối khóc, trông rất tội. “Ai mà chẳng có đôi tai”…

Từ cửa sổ theo đường chim bay đến chỗ họ là 31m15. Còn đi bộ theo hai cạnh tam giác, xuống cầu thang ngang qua đường, phải xa hơn, 50m80.

Từ cửa sổ đến bàn ăn là 4m25, từ bàn ăn đến quầy bar là 3m. Ba mét tai nạn chia cho ba người. Tai biến của cái đẹp vừa mơn chớn, mơ hồ, vừa tàn nhẫn, sâu sắc. Đôi mắt và làn da mịn: ở trong gương.

Một cái đầu “Típ, típ” nghĩ về tương lai, một cái đầu hình Mộc nghĩ về hiện đại, cái còn lại nghĩ về quá khứ vùng Amazôn. Cả ba cùng ngả vào nhau rập rờn, lử lả lướt qua quầy Bar, ra tiền sảnh, xuống đường.

Bắt tay nhau cùng ngửa cổ ứng thiên, cười to một tiếng… rồi chia tay.

(Rút từ tập Nước Thiên đàng xuất bản 1996)





Các bài khác:
Tiên - Phan Nhật Chiêu (04/09/2006)
Thanh toán chuyện - Đường Hải Yến (29/08/2006)
Đoản khúc mùa thu - Nguyễn Đình Tú (17/08/2006)
Chuyện phiêu lưu của dê trắng - Nguyễn Phan Hưng (01/08/2006)
Cây pha lê - Frances Towers (26/07/2006)
Rãnh đen - Lâm Thiếu Mai (18/07/2006)
Bên ngoài căn phòng số 6 - Tiến Đạt (08/07/2006)
Tiếng vang cuộc sống (chùm truyện cực ngắn) - Hoàng Long (26/06/2006)
Chuyện yêu - Đường Hải Yến (08/06/2006)
Động Từ Thức - Phan Nhật Chiêu (31/05/2006)
Chuyện ở vườn hoa tỉnh lẻ - Nguyễn Đình Tú (26/05/2006)
Phía trước - Hà Huy Tuấn (27/04/2006)
Còng lưng bệ vịn - Lê Vũ Hương Duyên (18/04/2006)
Tung cánh - Doris Lessing (11/04/2006)
Kỷ vật - Trọng Huấn (27/03/2006)






Gương chiếu hậu, đồ thị, mùi xoa

Mờ nhân ảnh

Hoa Tiên Nữ

Cây hồng vàng

Điệp vàng

Quán ăn chay

Sông cạn

Về phía những hạt mưa

Phía Tây thành phố

Tiên









Theo tên tác giả #
A B C D Đ E F G H

I J K L M N O P Q

R S T U V W X Y Z











Phía Tây thành phố

Đào Duy Hiệp

Có ba người đàn ông: một người to, một người nhỏ, một người trung bình. Đàn ông chẳng bao giờ là không giống nhau. Ba cái đầu nhìn vào quyển thực đơn giả da màu mận chín để trên bàn. Ánh nắng qua cửa sổ chiếu lên những chữ mạ vàng lấp lánh. Chẳng phải bao giờ cái gì lấp lánh cũng đều là vàng.

Cuốn Kinh phúc âm của dạ dày được lần lượt mở ra. Dòng sông thức ăn sơn hào hải vị tràn trề. Những dòng chữ đen lấp loá như dòng cát bùn lẫn sỏi sạn tuôn ra từ lòng mỏ để đãi lấy những hạt vàng. “Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Trong đời, mỗi người một nghề. Khói, lửa, mồ hôi, đôi khi cả máu… để được no lòng. Còn hạnh phúc lại là một chuyện khác. Phía Tây có nhiều chuyện lạ. Quyển sổ dừng ở trang đồ uống. Đồ uống bao giờ cũng giản dị, ngắn gọn. Nghe tên không kêu bằng món ăn. Kêu và cũng khó hiểu nữa. Ở một quán rượu trong phố có rượu dân tộc và rượu quốc tế. Rượu “dân tộc” có Chúa Trịnh đứng đầu bảng, rồi Tây Môn Khánh, Hoàng Đế, Minh Mạng (Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử)… Hàng chục loại khác nghe như tên các danh nhân. Ba ngón tay cùng chụm vào một hàng chữ. Sau rút về. Trên các ngón tay có đeo nhẫn vàng. Có cái gắn ngọc màu đỏ. Bàn tay đó đặt chặn lên cuốn kinh giả da đã gấp lại.

Họ ngẩng lên nhìn trần nhà theo khói thuốc. Trần nhà màu kem nhẹ nhõm, hoa văn nổi nối đuôi nhau đến tận sát tường có gắn điều hoà nhiệt độ. Một chấm đèn sáng xanh bằng đầu que hương: máy đang làm việc. Khói thuốc tan loãng. Kính cửa sổ đóng kín. Màn lụa mỡ gà mỏng nhẹ phất phơ. Dưới kia dòng người xuôi ngược. Đời bao giờ mà chẳng phải tất bật, lo toan? Cả nhớ nhung nữa. Bây giờ nàng đang làm gì, ở đâu? Mọi sự rồi thành chả ra sao cả. Chỉ thấy thương, mà cũng tội nữa. Nói dối cũng là việc cùng chẳng đã. Nói dối thì đau mình, lại đau người. Người yếu đuối thì hay làm thế. Tươm tất phủ lên những nhếch nhác, ê chề. Người con trai kia đang nói chuyện gì với người con gái? Tất cả rồi cũng phải kết thúc thôi. “Tình ngỡ đã quên đi, nhưng tình vẫn lại về”…

Việc nhiều quá mà chưa xong. Những sự hiếu, hỉ, đáp lễ nhau rất mất thì giờ. Tý nữa phải tạt qua buy-rô xem có công văn giấy tờ gì không. Con bé thư ký bắt đầu hỗn rồi. Có lẽ phải thay đứa được việc hơn. Không cần xinh lắm. Mất rất nhiều thời gian. Mai thằng ấy ở trong Nam ra, bàn lại. “Típ, típ”… lại nhắn cái gì thế này? Được gọi cho nó bảo đang tiếp khách quốc tế. Có tiếng rao thuốc bả chuột: “Chuột đồng chuột cống chuột chù ăn vào gật gù một tí chết ngay. Kể cả chuột Tây chuột ta chuột Bồ Đào Nha chuột Nga chuột Pháp chuột Tuynidi chuột Thổ Nhĩ Kỳ chuột gỉ chuột gi chuột gì cũng chết”… Lại rao: “Ai mà chẳng có đôi tai, Mẹ ơi con muốn có hai cái vòng, Bao ngày con đợi con mong, Giờ đây con đã có vòng đeo tai”. Đấy là rao xỏ lỗ tai, bấm máy.

Miếng đất ấy bây giờ lãi gấp ba. Hôm nọ nhờ xem bảo đất hình Mộc (dài) phát về đường văn. Rồi đọc: “Thắt cổ bồng phồng ra huyệt kết, / Xem cho biết mộc tiết, kim loan; / Mộc tiết, văn đỗ trạng nguyên; / Kim loan, võ được tước quyền Quận công”. Văn cao nhất là Trạng nguyên, Tể tướng rồi thấp dần xuống thư ký. Lại hỏi về hướng nên làm nhà. Bảo: “Thuỷ mệnh cấn trạch, chính Tây diên niên, Tây - Nam sinh khí, tương hợp giai ngâu, gia giáo huy hảo, phúc đức tổ phùng lai”. Diên niên thì thọ, sinh khí thì khoẻ mạnh.

*

Ba cái đầu thôi không nhìn trần nhà, nhìn khói nữa. Nhìn nhau. Họ ngồi theo thế chân vạc, chia thật đều cái bàn tròn thành ba điểm cân đối. Tam giác đều. Có một người bỏ cuộc nhìn nhau, nhìn đi nơi khác. Nơi khác ấy có một người khác giới còn trẻ, đứng ở quầy bar, quay lưng lại đang trang điểm. Trong gương có một màu da giống màu rượu Johnnie Walker đỏ pha đá hay màu nước chè nhạt. Không thể nói đó là nước da vùng Amazôn, nhưng nước da thật mịn. Mỹ phẩm đắt đỏ. Đang là “mốt”. Dịch lên một chút là đôi mắt. Đôi mắt im lặng, đẹp, giông bão. Lại như dò hỏi, đo lường. (Nhìn nhau qua gương thì được lâu mà không ai biết). “Tấm gương… phản ánh… khi thì mầu xanh thẳm bầu trời, khi thì bùn nhơ…”. Nước da vùng Amazôn đó mặc áo đỏ, riềm đăng-ten đen ở cổ, váy đen dài thướt tha, bí ẩn. Người bỏ cuộc không dám nhìn lâu, đôi mắt đọng ở sâu đáy cốc. Cốc sóng sánh. Người ngồi bên cạnh phía phải lại “Típ, típ” nhắn tin. Người thứ ba đang nghịch chiếc thìa hình Mộc, phát về văn. Nhìn qua thành cốc đầy màu nước lửa thấy đĩa xa-lát rất đẹp. Những lát cà chua đỏ tươi xắt mỏng bày xung quanh. Những miếng dưa chuột cắt đôi, chẻ tư châu tuần. Rau mùi xoắn xuýt ôm lấy rau xà lách trộn dầu, ngóc lên như là ngạt thở, như là tìm ánh sáng. Bát xúp toả khói mờ, uể oải. Xúp trong sánh như bột lọc có các sợi trứng tráng mỏng, thái nhỏ như cái tăm, thịt lươn màu trắng nhìn thấy thớ nhỏ li ti, mộc nhĩ màu nâu rất đẹp, lại có những hạt sen lững lờ, hạt tiêu xay nhỏ, mịn trải đều trên mặt. Đĩa muối tiêu, chanh, ớt đặt bên cạnh. Ăn xúp bằng thìa sứ, màu trắng.

Đồng hồ chỉ quá Ngọ. Nước xốt nâu xẫm đọng trên bàn trải khăn trắng. Những giọt nâu. Đống xương chim bồ câu quanh đĩa. Những cái xương nhỏ và mảnh. Ba người đàn ông cùng cúi xuống, cùng ngẩng lên, cùng nhìn nhau, cùng ngửa cổ. Một cái miệng mấp máy; một cái giống như cười phô hàm răng ám khói; một cái nhai, ngẫm nghĩ. Thịt bò mềm, ngọt có vị oi khói rất tự nhiên, giống ngày xưa ở rừng. Rừng lúc đó ấm áp, chưa bị chặt nhiều cây. Đêm quanh đống lửa nghe con nai tác ở xa rất thảm thiết. Thịt nai nướng bùi, thơm, rất ngon. Sấy khô cho vào ba lô, ăn dần. Cây chặt nhiều để làm nhà, để đốt, để lấy rễ bán. Lại “Típ, típ”. Bàn tay xạm, tái bệnh sốt rét lập cập, nóng nảy rút cái máy ra, bấm tắt máy, cho vào túi áo ngực. Ở đằng kia, bàn tay đeo nhẫn ngọc đỏ đang búng cái thìa hình Mộc quay tít. Bàn tay khác mũm mĩm đang dày vò chiếc khăn bông mới thay tẩm nước hoa mát lạnh, rồi đưa lên lau đôi môi dày bóng nhẫy. Những ngón tay mũm mĩm cụ cựa, ngập ngừng, mơ màng nghĩ đến vùng rừng rậm Amazôn. Bàn tay đó, bàn tay xạm, bàn tay đeo nhẫn nạm ngọc đỏ, cùng nâng cốc. Người khác giới ở quầy bar nhướn gót, nhìn xuống đường. Các động mạch ở thái dương ba người đàn ông giật giật như có lửa. Máu họ có lửa, có axít chứ không phải sữa.

Ba cái đầu cùng hướng ra cửa sổ có màn mờ màu mỡ gà. Ngã tư nhốn nháo, rất đông người. Màn mờ màu mỡ gà được bàn tay Amazôn nhỏ nhắn, thanh mảnh, vén lên. Ba cái đầu lần lượt đứng lên tụ lại bên cửa sổ. Nhìn xuống đường. Nín thở. Một người thở cạnh cái đầu. Qua ánh sáng cửa sổ thấy những sợi tóc mềm bay lên, lại nằm xuống lại bay lên gấp gáp, đều đặn. Một người thở cạnh cổ. Cái cổ cao hơi ngọ nguậy. Một người thở cạnh áo. Áo vải dày không có biểu hiện gì. Áo màu đỏ riềm đăng-ten đen ở cổ. “Vũ vô kiềm toả năng lưu khách”… Trời quang, chẳng có một giọt mưa.

Mưa không quá Ngọ, gió chẳng quá Mùi. Cái gì rồi chẳng chóng qua, phấn hồng chẳng phụ phôi pha má đào. Đôi mắt sắc sảo, u buồn nữa, mà khinh bỉ thăm thẳm trên nước da nâu mịn, ánh lên bất ngờ trên khung kính cửa sổ. Đôi mắt như dò hỏi, như đo lường, như giông bão… Ba cái đầu giãn ra, giật lùi. Đàn ông chẳng bao giờ là không giống nhau. Ở dưới đường chỗ ngã tư có một chiếc xe máy nằm kềnh, xăng chảy ra. Một người con trai nằm úp mặt xuống đường. Máu ở tai rỉ ra. Một người con gái trẻ, xinh đẹp ngồi cạnh đang xoa đầu gối khóc, trông rất tội. “Ai mà chẳng có đôi tai”…

Từ cửa sổ theo đường chim bay đến chỗ họ là 31m15. Còn đi bộ theo hai cạnh tam giác, xuống cầu thang ngang qua đường, phải xa hơn, 50m80.

Từ cửa sổ đến bàn ăn là 4m25, từ bàn ăn đến quầy bar là 3m. Ba mét tai nạn chia cho ba người. Tai biến của cái đẹp vừa mơn chớn, mơ hồ, vừa tàn nhẫn, sâu sắc. Đôi mắt và làn da mịn: ở trong gương.

Một cái đầu “Típ, típ” nghĩ về tương lai, một cái đầu hình Mộc nghĩ về hiện đại, cái còn lại nghĩ về quá khứ vùng Amazôn. Cả ba cùng ngả vào nhau rập rờn, lử lả lướt qua quầy Bar, ra tiền sảnh, xuống đường.

Bắt tay nhau cùng ngửa cổ ứng thiên, cười to một tiếng… rồi chia tay.

(Rút từ tập Nước Thiên đàng xuất bản 1996

Cát
02-12-2006, 11:29 AM
Phía trước

Hà Huy Tuấn

Bố Lâm sáng nào cũng thức dậy từ ba giờ, xắn quần nhảy vào chuồng lợn, bắt một con đã chuẩn bị từ tối qua, chọc tiết.

Chị Lâm dọn quán bán lòng lợn tiết canh. Em gái Lâm đội thúng mẹt ra chợ làng bán thịt lợn. Tầm trưa, mẹ Lâm mở hàng cơm bình dân.

Lâm học chưa xong cao đẳng sư phạm thì bỏ. Lâm bảo dạy học ở làng, chán! Mẹ dúi cho một cọc tiền, bảo đi đâu thoát được luỹ tre làng thì đi. Lâm đi ba tháng, quay về, gầy quắt, đen đúa, tiền nhẵn túi, mặc độc một bộ quần áo bẩn thỉu. Chị Lâm bĩu môi: “Mày tưởng đua tranh bên ngoài dễ lắm phỏng?”. Mẹ Lâm nạt: “Chị lo cái phận của chị ấy, khéo lại thành gái già!”. Bố Lâm nói: “Tạm đi lái heo cho bố, bố trả công xá đàng hoàng. Bao giờ lưng lửng hầu bao rồi lại đi”. Lâm nhìn mẹ. Mẹ nhìn bố. Bố quẳng cho Lâm túi đồ nghề rồi bỏ vào buồng nằm. Thỉnh thoảng trở mình, cái giường cũ cứ lay óp ép.

Chưa đầy một tháng, Lâm đã chán ngấy cái công việc nhàm tẻ này. Đôi khi giả ốm để trốn việc. Chiều chiều tha thẩn trên mấy đỉnh đồi trọc hoang vu, gió Lào thổi hơi nóng hừng hực, khô rang. Suy nghĩ mông lung. Đầu tiên là nghĩ về mình.

Ô hô, trai tráng, hề
Đá sỏi trơ cằn
Nhọc nhằn năm tháng
Gió thổi, hề
Tôi đi về
Phía biển khơi
Nơi hú gọi số phận
Tiếng hú đáp trả còn ở trong lồng ngực

Sau đó, Lâm nghĩ về điều Lâm nghĩ, thấy nó thật vô nghĩa. Lại nghĩ tiếp về ý nghĩa của điều Lâm vừa nghĩ, thấy hình như nó có một ý nghĩa mơ hồ nào đấy. Lâm về nhà, nằm vật ra phản, thở dài sườn sượt. Mẹ Lâm lo lắng định hỏi nhưng bị ánh mắt như sắt nung của chồng ngăn lại. Mẹ Lâm xuống bếp thổi cơm chiều, hì hụi mãi mà lửa không bén, khói um lên như củi ướt.

***

Lâm lên thành phố. Mấy tháng đầu sống vất vưởng. Sáng đến chiều phục dịch ở chợ, gánh nước, chùi phản thịt, căng lều bạt... Đêm về, thu lu trên cái gác xép của nhà trọ cao không quá đầu, khó ngủ. Xung quanh toàn tiếng rúc rích. Lâm lôi giấy bút ra, tính viết thư, nhưng viết xong đọc thấy giống một câu chuyện. Vài lần như thế, Lâm mạnh dạn gửi cho một số tờ báo nhỏ có trang văn nghệ. Thế là thành người viết văn. Lâm ở gần chợ ồn ào, một thời gian thấy không hợp với nghề viết nên chuyển ra ngoại thành.

Chỗ Lâm trọ mới từ làng lên phố. Trước cả làng đều trồng hoa. Nay thì làm đủ nghề. Ông bà chủ bảo, bác có đứa út đi học trong Huế bốn năm, ngôi nhà này xây để nó lấy vợ, cháu ở coi như trông nhà hộ hai bác. Nhà rộng rãi, giá rẻ, khép kín, Lâm ưng lắm. Nhưng vẫn khó ngủ. Lâm lân la quán nước dò hỏi mới biết ngôi nhà ấy năm trước có người nghiện chết vì chích quá liều. Nhà đó bốn thằng con trai, một chết hai đi tù, không ngờ lại có thằng út đỗ đại học.

Lâm về nghĩ bụng, nghiện mà chết thì càng sạch cho xã hội, can gì! Rồi lau chùi nhà cửa suốt một ngày cho láng bóng lên, xịt Comfort thơm phức. Từ đó đêm nào Lâm cũng ngủ ngon lành.

Số phận con người, trước thì ở trong bi kịch của đói nghèo, đô thị hoá bán đất làm nhà, ngỡ là mở mày mở mặt thì lại rơi vào bi kịch của nghiện hút, tù tội. Rồi người ta cũng phải thích nghi thôi, để sống.

Lâm cũng thế, không chịu nhốt mình ở xó quê thì rốt cuộc lại giam mình ở phố thị, đâu mà chẳng là lồng.

Lâm chạy quảng cáo cho một vài tờ báo, ăn phần trăm. Xin quảng cáo phải dẻo miệng, phải chơi đẹp, khứ hồi cả hai bên. Cuối cùng phần của Lâm cũng chỉ còn đủ đắp đổi miếng ăn, xăng xe để chạy. Thỉnh thoảng Lâm chơi quả lô đề đầm đậm cầu may. Nhưng may chưa tới. Văn càng ngày càng đi vào bế tắc, chị biên tập ở một toà soạn quen bảo, sao em cứ nhìn mãi vào cái mảng tối thế nhỉ, khó đi lắm. Lâm cười như mếu, tại cái cảnh của em vốn chẳng sáng sủa gì. Thôi thế này vậy, em chuyển sang viết tạp văn cho chị. Tạp văn là thể loại như thế nào, Lâm nghĩ mãi mà không ra. Lôi Lỗ Tấn về đọc, lại cả Vũ Bằng, Giả Bình Ao… không rút ra được điều gì.

Tạp nham ngôn ngữ
ý đi cùng tứ
Lạc lõng bơ vơ
Bên này nghĩa
Bên kia chữ
Bên nào ta
Ta hư vô
Bên nào em
Em tồn tại
Khôn?
Không khôn!
Dại?
Không dại!
ở giữa là
Ai? Ai? Ai? Ai? Ai?...

Một thằng bạn cũ bỗng dưng gặp Lâm ở đường, rủ vào quán bia. Nó bảo sống như thế đếch phải là sống. Thế là nó trình bày cái sự sống của mình. Lâm không đồng tình, cũng không phản đối. Lâm biết, quan hệ với những người hay phát biểu thì tốt nhất là ngậm miệng ăn tiền. Nó cho Lâm một cái cácvidít, ở đó người ta cần nhân viên kinh doanh bột đá. Lâm trở thành người buôn nước bọt, lương cũng đủ ngày ba bữa cơm, tiền nhà, tiền điện thoại, thỉnh thoảng đi chơi cho đỡ buồn. Lâm đang sống theo cái cách mà thằng bạn chỉ vẽ, cái cách mà nó cho là đáng sống.

Chủ nhật buồn, lôi giấy tờ cũ ra soạn, hý hoáy sửa, tự nhiên thấy hứng thú. Lâm đem ra hàng vi tính đánh máy, phôtô thành ba bản. Cô bé phôtô nhìn trộm Lâm. Cô bé này suốt ngày chẳng đi đến đâu, thấy anh chàng tóc xoăn, mũi cao chắc là hơi rung động. Lâm thoáng có ý nghĩ hay là làm quen, khi nào buồn có chỗ mà tán gẫu? Rồi lại gạt phăng đi, hơi đâu mà tán gái lành cho mệt. Cô bé này chắc chỉ độ mười sáu chứ mấy, cái tuổi hay thần tượng con trai. Em gái Lâm ở nhà cũng mười sáu, nhưng nó ma lanh, chửi bậy nhem nhẻm, bỏ học từ năm cấp hai. Nó chỉ có cái tài bán thịt lợn đắt hàng. Lâm nghĩ, nếu nó có thần tượng ai thì chắc là thằng lái lợn ở làng bên.

Mấy chủ nhật liền Lâm đều có cảm hứng, chẳng mấy chốc được một tập bản thảo nặng tay, liều đem tới một nhà xuất bản không chuyên sách văn học. Họ bảo cứ để đấy xem đã. Lâm nhìn ông biên tập thấy thật đáng ngưỡng mộ, trước mặt có hàng chồng bản thảo, tay lăm lăm cây bút, kính trễ trên mũi, một chữ ký là một tác phẩm ra đời. Hình ảnh ấy cứ lởn vởn trong đầu Lâm cho đến khi Lâm ra khỏi cổng, và biến mất vì tâm trí bận chỉ đạo việc chen lấn lên xe buýt.

***

Cái công ty bán bột đá đúng là loại ăn xổi ở thì, được dăm ba tháng quen mối liền sa thải Lâm. Cắt mất một khoản thu nhập, Lâm tìm người ở trọ cùng để san sẻ. Thằng trọ cùng người Nghệ, nói trọ trẹ mãi không nên lời, chưa tốt nghiệp đại học vì nợ môn, mở văn phòng gia sư, tham vọng làm thầy thiên hạ. Trên tường nhà trọ, nó treo đủ thứ ảnh danh nhân, từ Phan Bội Châu đến Anhxtanh, từ Nguyễn Trãi đến Các Mác. Có lần nó chỉ ảnh Bin Ghết hỏi Lâm, ai đây? Lâm bảo chắc là anh hùng Gagarin bay vào vũ trụ. Nó cười hô hố. Lại hỏi có biết Bin Ghết là ai không? Lâm bảo chắc là đồng bọn của Bin Lađen. Nó vùng lên cười sằng sặc, mãi không ngắt được cơn. Lâm đứng dậy, đi vào nhà xí, đái tồ tồ. Mấy tuần sau thì dọn đi, không ở cùng nữa.

Tìm được nhà trọ mới, chung phòng với một người tên là Đ., bạn cùng nghề, Lâm nghĩ chắc là ổn. Anh Đ. người nhỏ thó, đen đúa, răng vàng khè, hay thở dài phả ra hơi khắm. Mỗi lần Lâm đến hàng phôtô về, anh Đ. lại căn vặn, sao lâu thế? Dạo này cô bé phôtô không nhìn trộm Lâm nữa mà chuyển sang nói chuyện với Lâm. Đại loại, em thích đọc truyện lắm, ở nhà quê chẳng có truyện mà đọc, những cái này là anh viết à, hay nhỉ, viết truyện có khó không hả anh, chắc là khó vì nếu không ai cũng thành nhà văn hết, chuyện anh kể cứ buồn buồn, nhưng mà hay, nếu em viết được cũng có khối chuyện ra đấy, hay là em kể cho anh rồi anh viết lại thành truyện nhé, ừ, khi nào rỗi, nhưng mà biết khi nào rỗi, em cứ trông cửa hàng từ sáng đến tối, có lúc nào bỏ đi được đâu… Đại loại thế, cứ rủ rỉ rù rì, tay nó phôtô lật giấy, mồm nó nói. Rồi Lâm thấy nhớ cô bé lúc nào không biết, hai hôm không gặp là trống trải. Anh Đ. nói lẫy, đi đánh máy mà chải chuốt xịt gôm? Lâm cười thẹn, chẳng để ý đến anh Đ. cứ vật mình trên giường.

Anh Đ. viết truyện, cái nào cũng đóng vai nhân vật nữ, ngôi thứ nhất. Lâm bảo viết được như thế khó đấy vì phải hiểu giới nữ. Anh Đ. cho đấy là một lời khen, thích lắm. Ở cùng nhà, nhưng Lâm không thích ngủ chung giường, khó chịu. Anh Đ. không dám phản đối, nhưng có đêm, Lâm thấy anh chui vào màn, nép sát vào Lâm. Anh bảo, thỉnh thoảng anh hay gặp ác mộng nên mới thế, thông cảm nhé. Lâm bày cho anh một số cách, đặt con dao dưới chiếu, treo túm tỏi trên đầu giường, xoay giường sang hướng khác… vẫn không chữa được. Lâm đùa, thế thì chỉ còn mỗi một cách là lấy vợ, tha hồ có người nằm cạnh đuổi ma cho. Anh Đ. lẳng lặng bỏ ra ngoài. Suốt mấy tháng như thế, Lâm không thấy anh Đ. nóng ruột bao giờ. Lâm hỏi, anh có buồn không? Đi chơi một bữa. Anh quát um lên làm cho căn nhà rơi từng mảng vữa, bụi lả tả từ trên mái. Lâm ngạc nhiên, sao anh phải làm găng như thế? Không đi thì thôi. Hôm sau, anh xếp quần áo vào túi du lịch, bảo, phải về quê ít hôm, ông cụ ở nhà ốm, chắc khó qua khỏi. Lâm định về cùng, anh xua tay, thôi, có gì anh sẽ điện. Nhưng rồi không thấy anh điện, cũng không thấy anh trở lại nhà trọ. Lâm soát lại mới biết anh đã thu dọn hết đồ cá nhân của mình. Lâm áy náy, ở với nhau lâu như thế, cũng chẳng biết quê anh ở đâu?

Sau này, thi thoảng gặp một cái truyện của anh đăng báo, vẫn giọng văn dịu dàng, vẫn những nhân vật nữ xưng tôi, vẫn những câu chuyện tình nhàn nhạt, ngòn ngọt chẳng có gì đặc sắc nhưng Lâm lại thấy xa xót. Viết được như thế cũng khó đấy, vì phải hiểu giới nữ là thế nào. Đời trai như những nhân vật của Lâm thì có hơn gì, những kẻ đào vàng phải bỏ mạng, những gã quê lên thành phố dật dờ như kiếp hoa bèo, những gã lực điền không chịu rời làng cam chịu nhìn người phụ nữ của đời mình ra đi… ngẫm cũng chẳng sâu sắc gì hơn những truyện anh Đ. viết.

Nhà xuất bản hứa lên hứa xuống, tập truyện của Lâm in được, vì nó có một chủ đề, chỉ còn chờ đầu nậu khảo sát thị trường nữa thôi. Bây giờ Lâm không muốn in nữa, đến xin lại bản thảo. Lâm bảo, nó cũ quá, những chuyện như thế này chẳng ai buồn đọc, in ra chỉ lỗ vốn. Ông biên tập nhìn Lâm bằng con mắt lạ lẫm, rút tập bản thảo từ trong ngăn kéo ra, phủi bụi, cho vào trong bì ximăng cẩn thận trước khi trao tận tay tác giả. Ông bắt tay Lâm thân thiện, giọng ái ngại, này, khi nào nghĩ lại thì đem đến nhé, in được đấy. Và lắc đầu nhìn theo bóng Lâm khuất xuống cầu thang.

Cô bé phôtô là người đầu tiên Lâm nghĩ tới trong lúc này. Nó bảo có truyện gì đem cho nó đọc, buồn cũng được. Lâm cầm cái bì ximăng dày cộp đến, nghĩ bụng tặng cho cô bé phôtô làm quà. Hình như từ khi quen nhau, Lâm chưa tặng quà gì cho cô cả. Đến nơi, chẳng thấy cô bé đâu. Cửa hàng vắng ngắt.

Nó về quê lấy chồng rồi, để lời ru thêm buồn, chị chủ hát i ỉ, đưa truyện đây chị pôtô cho.

Lâm bảo, cảm ơn, rồi thập thững đi.

Nghĩ vơ nghĩ vẩn, nghĩ về bố Lâm, ba giờ sáng chọc tiết lợn, nghĩ về chị Lâm, bán lòng lợn tiết canh, nghĩ về em Lâm, bán thịt lợn ngoài chợ, nghĩ về mẹ Lâm, bán cơm bình dân, nghĩ về thằng bạn cũ hay phát biểu về cách sống, nghĩ về thằng gia sư người Nghệ, thuộc làu giai thoại các danh nhân, nghĩ về anh Đ., hay gặp ác mộng cả khi không ngủ được, nghĩ về cô bé phôtô, thích đọc những câu chuyện buồn, nghĩ về Lâm, một-gã-trai-hay-nghĩ…, đấy là my life của Lâm.

Nhưng cuộc sống thì còn ở phía trước.

Cát
02-12-2006, 11:31 AM
Đôi mắt

Dương Thanh Vân

Hình như người đàn ông bán táo cúi gằm mặt, lầm lũi đẩy xe từ từ lui ra khỏi con hẻm, mấy lỗ thủng sau lưng áo anh ta trông thật thảm hại. Và hình như… Vâng… hình như tôi đã được nhìn vào đôi mắt của Bảnh Bao. Đó là đôi mắt nhỏ, ti hí, dưới mỗi con mắt là túi thịt hum húp… Đôi mắt đó lạnh lùng và không đẹp như tôi nghĩ…

Ngôi nhà mà tôi trọ học nằm khuất sâu trong một ngõ hẻm của xóm lao động nghèo. Vào mùa khô, con đường dài, hẹp te, ngoằn ngoèo, quanh co của con hẻm này lởm chởm những đá, gạch vụn, đôi chỗ có xây xi măng bị trốc lở. Khi chiều về, lũ trẻ chơi trò rượt nhau dọc con hẻm, đàn ông cởi trần, hút thuốc, hoặc ngồi trước cửa nhà, hoặc tụm nhau tán gẫu dưới những cột điện, đàn bà quét tước, phơi phóng trước khoảnh sân bé như cái lỗ mũi. Mùa mưa, con đường trở thành một dòng sông nhỏ, lều bều những rác, trẻ con chỉ còn biết ngồi trong nhà thả ra ngoài đường những thứ có thể thả: cái ca mũ bị thủng, đôi dép con nít bị đứt quai, tờ giấy báo… Người lớn đi làm về lếch thếch dắt xe chết máy, chiếc trước chiếc sau, chỉ thấy những chiếc áo mưa sùm sụp lầm lũi, trông như mấy con quạ xơ xác…

Tôi sống một mình trên căn gác cây, căn gác có cái cửa sổ nhìn xuống đường. Ngày này qua ngày khác, mùa mưa cũng như mùa khô, chỗ tôi ngồi học bài cũng là vọng gác, là cái trạm để tôi quan sát. Từ cái đài là cái cửa sổ của mình tôi có ba kênh “truyền hình trực tiếp”. Kênh Bên Trái là nhà của Bảnh Bao. Kênh Trước Mặt là nhà của một đại gia đình mà từ bà lão già cho đến thằng con trai út đều làm nghề thu lượm đồ phế thải. Kênh Bên Phải là nhà của một thằng bé con dễ thương, hình như ba nó là công nhân, mẹ nó là thợ uốn tóc và làm móng tay, tất cả đồ nghề của chị ta đều được xếp gọn ghẽ trong một cái giỏ nhựa và chị ta lang thang khắp xóm nhỏ này để kiếm sống.

Nhân vật chính của tôi là Bảnh Bao. Không hiểu sao một người như hắn lại chịu đút đầu vào trọ ở trong con hẻm như thế này. Hắn chạy chiếc Attila màu mận chín, bao giờ cũng ra đường trong tư thế nai nịt chặt chẽ, tôi không bao giờ nhìn được vào mắt hắn vì hắn luôn đeo cái kính đen to đùng trên mặt. Căn nhà hắn trọ thuộc vào loại tươm tất trong xóm, tuy nhỏ và cánh cổng gỗ đã xập xệ nhưng nền cao không bao giờ bị nước xâm lăng vào nhà và cánh cửa kính được phủ bởi một lượt rèm mỏng buông chùng màu xanh nhạt. Hình như hắn không tự giặt giũ mà hay gom đồ ra tiệm giặt ủi ở đầu hẻm. Phải công nhận là hắn đẹp trai, tướng tá phong độ lại biết cách ăn mặc, đôi khi tôi nhìn những chiếc áo sơ mi màu hắn mặc, nhìn tấm lưng vững chãi của hắn mà thấy nao nao trong lòng: giá mà là người yêu của hắn, giá mà được hắn chở sau chiếc xe màu mận chín, vòng tay qua eo hắn, áp mặt vào cái lưng nam nhi vững chãi ấy. Hẳn hắn phải là một người trẻ rất có trách nhiệm với công việc. Hắn đi làm từ sớm, tối mịt mới về. Tôi ước gì có thể nhìn được vào mắt hắn, đó hẳn phải là một đôi mắt đẹp và buồn, với những tia nhìn ấm áp… Một lần vào buổi tối, tôi đi học Anh văn về cọc cạch đạp xe vào hẻm thì bị hắn đụng phải “Xin lỗi nghe em!” hắn nói rồi phóng vượt lên trước, hình như hắn say và đó cũng là lần đầu tiên tôi nghe giọng hắn, và từ hôm đó tôi lại càng cảm thấy thích hắn. Trong mắt tôi hắn thật mạnh mẽ, đáng yêu và pha một chút bí ẩn. Có một lần vào một buổi tối đã khuya, trời mưa, tôi đã mệt nhoài với những tài liệu của mình nhưng Bảnh Bao chưa về, ngoài trời tối và chỉ có ánh sáng từ chiếc đèn học của tôi tạo thành một quầng sáng nhỏ. Cuối cùng Bảnh Bao cũng về, chiếc xe hắn chạy tóe nước qua hai bên đường nghe loẹt xoẹt trong tiếng mưa rào rào. Hắn không về một mình, sau yên xe hắn lù lù một dáng người, hắn hấp tấp đẩy cổng cho xe vào, người sau xe hắn là một cô gái, cô ta đứng run lập cập vì lạnh khi hắn đang mở khóa cái cửa kính, và khi cửa đã mở được nhanh như chớp tôi thấy hắn kéo cô gái vào trong, ánh đèn đường nhòe nhoẹt vì mưa cũng đủ cho tôi thấy hai người đang xoắn lấy nhau, hắn cật lực lột bỏ những gì ướt mèm trên người cô gái. Tại sao hắn không đóng cửa lại? Lúc đó trong đầu tôi chỉ vang vang lên câu hỏi ngờ nghệch đó, trong tiếng mưa ngày càng lớn sầm sập, bỗng dưng tôi cảm thấy buồn, lạnh lẽo và cô đơn, hình như tôi đã ngủ gục trên bàn học mặc cho tập vở ướt mèm…

Sáng hôm ấy Bảnh Bao đi rất sớm, cái đồng hồ báo thức của tôi đã giúp tôi còn kịp nhìn thấy hắn tươm tất trong chiếc áo màu xanh biển, cặp kính đen quen thuộc, sau lưng là cô gái mặc quần Jeans xanh, áo sơ mi hồng dễ thương và mệt mỏi. Cô ta ngồi rất ngay ngắn trên yên xe, và không vòng tay qua ôm eo hắn… Chiếc xe chạy mất hút dần theo con đường ngoằn ngoèo. Khi tầm mắt tôi không còn có thể thấy cái gáy trắng trẻo và mái tóc dài vẹt qua hai bên vai của cô gái nữa, tôi không bao giờ còn gặp lại cô ta…

Bảnh Bao cứ đi về như thế, có khi hắn đi mấy ngày liền, có lẽ là đi công tác, tôi khao khát được biết ánh mắt hắn biết bao, tôi đã có trong đầu trọn vẹn bức chân dung về hắn, ngọai trừ đôi mắt. Chắc đó phải là đôi mắt đa tình, dù sao tôi cũng đã từng thấy hắn yêu một người con gái như thế nào mà. Đôi khi trong giấc mơ, tôi thấy Bảnh Bao, không đeo kính, chở tôi ra khỏi con hẻm nhỏ, vào trung tâm thành phố, hình như là vào một ngày lễ nên thành phố đông vui khác lạ, hắn dừng lại mua cho tôi một cái bong bóng to thật to màu mận chín, khi hắn quay lại trao cái bong bóng cho tôi, tôi nhìn vào mắt hắn, một đôi mắt tuyệt đẹp, to và đen lay láy, có những chùm sao nhỏ nhảy nhót vui tươi trong ấy…

Kênh Trước Mặt thường có những cảnh đánh nhau ngoạn mục, vợ chồng thằng con trai lớn của bà lão luôn khuấy động cái hẻm nhỏ này với những pha mắng mỏ và ném đồ đạc… Kênh Bên Phải hiền hơn, thường thì vào những buổi chiều, khi chờ ba của thằng bé đã đi làm về, mẹ nó thường lui cui nấu nướng và mùi thơm của thức ăn lan tỏa trong gió, thằng bé ngồi trên cái ghế sắt đặt trước cửa và chơi với chiếc ô tô cũ kĩ của nó. Những khi Bảnh Bao không có nhà tôi thường chuyển hướng qua Kênh Bên Phải. Có một lần khi chiếc ô tô của thằng bé đang chạy, từ trên gác, tôi ném một viên cuội trúng chiếc ô tô, thằng bé thấy tôi và nó cười toe toét, nó có vẻ thích tôi và cầm chiếc ô tô dứ dứ ý muốn tôi tham gia tiếp tục cái trò ném cuội đó. Hai má nó phúng phính thật dễ thương…

Rồi bỗng nhiên có một sự kiện vụn vặt xảy ra. Đó là vào một buổi sáng chủ nhật. Một người đàn ông bán táo đang chậm rãi đẩy chiếc xe đạp với cái rỗ to đùng phía sau: “ Táo đê… táo đê… vừa rẻ vừa ngon, vừa giòn vừa ngọt…”. Cả ba “Kênh truyền hình" của tôi đều hoạt động. Thằng bé Kênh Phải miệng bi bô: “Mẹ… táo…táo…!”, vợ thằng con trai bà lão Kênh Trước Mặt đang phơi quần áo, chị ta dợm nhìn những quả táo căng bóng và có vẻ định mua. Vừa lúc đó Bảnh Bao về tới, hắn ngoái nhìn rổ táo và gọi người đàn ông:

- Bao nhiêu một cân?

- Cho em xin mười nghìn thôi, táo ngon lắm anh ạ?

- Bớt đi táo nhỏ thế này, có phải là táo Mỹ đâu mà đắt thế?

- Một cân em chỉ lời năm trăm đồng thôi anh ạ, hay là em lấy vốn thôi, một cân chín nghìn rưỡi…

- Không, tám nghìn nhé tôi mua hai cân.

- Thôi chắc giá chín nghìn, anh lấy giùm em…

- Ừ thì cân đi…

Người đàn ông trao cho hắn bọc táo, chợt hắn nói:

- Đợi chút, tôi muốn cân lại…

Hắn nhìn ngược, nhìn xuôi để tìm chỗ mượn cân, hắn hướng về nhà tôi, đó là căn nhà bán tạp hóa trong xóm và bà chủ nhà đang đi vắng, tôi trông chừng tiệm giùm bà ta một chút… Hắn bước đến. Hắn tháo cái kính đen ra cho vào túi áo. Tôi chú mục vào hắn. Hình như tôi nghe thấy hắn hỏi: “Cho anh mượn cái cân cô bé!”. Hình như tôi đã đưa cho hắn cái cân. Hình như sau khi cân xong hắn nói: “Rõ ràng là thiếu hai lạng nhé!”. Hình như hắn thảy một nắm tiền lẻ vào rổ táo rồi đẩy xe vào trong nhà. Hình như chị vợ thằng con lớn bà lão không mua táo, chị rủa bâng quơ: “Cái lũ này!…” chẳng biết rủa ai. Hình như thằng bé Kênh Phải đang bi bô: “Cân kìa…cân kìa…!”.

Hình như người đàn ông bán táo cúi gằm mặt, lầm lũi đẩy xe từ từ lui ra khỏi con hẻm, mấy lỗ thủng sau lưng áo anh ta trông thật thảm hại. Và hình như… Vâng… hình như tôi đã được nhìn vào đôi mắt của Bảnh Bao. Đó là đôi mắt nhỏ, ti hí, dưới mỗi con mắt là túi thịt hum húp… Đôi mắt đó lạnh lùng và không đẹp như tôi nghĩ…

Cát
02-12-2006, 11:34 AM
Dạo bước 13 phút

Trương Quế Chi

13 giờ. Dương bảo tôi rằng Dương cần thời gian mới - 13 phút không tôi. Trời nóng. Đổ tiếng lùng bùng. Tôi chỉ có cảm giác tiếng Dương bão hoà với không khí ẩm ướt nồng nồng. 13 giờ. Tôi không hiểu sao mình lại nhìn đồng hồ.

13 giờ. Dương bảo tôi rằng Dương cần thời gian mới - 13 phút không tôi. Trời nóng. Đổ tiếng lùng bùng. Tôi chỉ có cảm giác tiếng Dương bão hoà với không khí ẩm ướt nồng nồng. 13 giờ. Tôi không hiểu sao mình lại nhìn đồng hồ. Trời nóng. Tôi chỉ nhìn thấy môi Dương cử động chân thành. Dương hạ giọng, đưa bàn tay của tôi áp vào mặt. Tôi không thấy gì đáng bận tâm. 13 giờ 13 giây. “Dù sau 13 phút có chuyện gì xảy ra, em mãi mãi là người anh yêu”. Chẳng có gì đáng bận tâm. Tôi không có vẻ gì bất ngờ hay sửng sốt. Điều này khiến tôi bật cười. Những gì mãi mãi là những gì không có thật. Chẳng có gì đáng bận tâm. 13 giờ 13 phút. Quán cà phê ngoài trời dưới vòm lá trang bị không đủ để chắn nắng nóng. Hơi bốc lên ngùn ngụt. Tôi không hay biết Dương đã đi tự khi nào: bắt đầu 13 phút. Tôi ngồi đây im lặng và bắt đầu tha thẩn với những ý nghĩ tôi tự cho là mới mẻ. Tôi thở nhẹ hơn bình thường. Tôi muốn dạo bước một lát. Phố cổ quen thuộc vẫn đón chào tôi. Quán cà phê nằm sâu trong ngõ này tôi đã ngồi uống từ năm 13 tuổi, nơi tôi và Dương gặp nhau được 13 tháng 13 ngày. Những đường phố cổ cách quán 13 mét tôi đã lang thang suốt từ năm 13 tuổi và lang thang cùng Dương được 13 tháng 13 ngày. Hôm nay, tôi quên mất tên con phố. Tôi không muốn nhớ tên con phố. Tôi không thể nhớ nổi tên con phố. Đêm qua, tôi mơ thấy một con chim sẻ bị chết rũ trên cành. Nó khiến tôi manh nha cái ý nghĩ sẽ luẩn quẩn bên những gốc cây hiếm hoi trên con đường tấp nập. Tôi đi ra phố với một cú sốc nho nhỏ vì tiếng ồn ào. Có lẽ tôi đã vừa ở một miền nào khác. Những luồng di chuyển ào ào trên phố. Tự nhiên tôi thấy mình xa lạ. Rất nhiều người di chuyển với một vận tốc nhanh đến nỗi tôi không nhìn rõ mặt mũi họ ra sao. Họ đi về hai phía, tiến rất nhanh nhưng tôi không phân biệt nổi người nào tiến về phía trước, người nào tiến về phía sau. Tất thảy họ trông rất căng thẳng. Có lẽ vì trời nóng. Có lẽ vì họ đang lo lắng. Cuộc sống có quá nhiều thứ để lo lắng. Đáng nhẽ tôi cũng nên lo lắng. Hay tôi thật ra đang lo lắng mà chính tôi không hay biết. Chẳng có gì đáng để bận tâm. Họ sẽ chẳng bao giờ bỏ thời gian lo lắng cho tôi. Tôi cũng sẽ không tự bỏ phí thời gian nghĩ quá nhiều tới họ. Khi tôi đi lang thang với Dương, tôi chỉ nhìn thấy khuôn mặt Dương, chỉ có Dương là ít khi quay lại nhìn tôi, Dương thích ngắm mọi người, có lẽ cũng chăm chú như tôi bây giờ. Chẳng có gì đáng bận tâm. Tôi đang đi trên một con phố tôi quên mất tên. Tôi không muốn nhớ tên con phố. Tôi không thể nhớ nổi tên con phố. Tôi nghĩ mình thực sự đang dạo bước. Tôi đi với một vận tốc chậm hơn vận tốc của mọi thứ xung quanh. Có lẽ nhìn tôi đi chậm rãi tới mức ngứa mắt. Chẳng có gì đáng bận tâm. Tôi cho mình cơ hội ngắm những tiểu tiết. Đây là cơ hội lần thứ bao nhiêu tôi không nhớ. Tôi vẫn thường cho mình cơ hội ngắm những tiểu tiết. Cái vỉa hè nắm dưới chân tôi nhìn bẩn thỉu và nhộn nhạo. Tôi nhìn thấy nhiều rác và bã kẹo cao su vô kể. Cái vỉa hè có một bản lề đen sì là cái cống. Tôi thấy mình cứ đi một lát lại thấy một đống rác tạp nham - 13 đống rác to uỵch nằm ngay trước những cửa hàng, cửa hiệu bán toàn đồ truyền thống. Không hiểu sao tôi thấy buồn cười. Chẳng có gì đáng bận tâm. Khi lang thang với Dương, tôi chưa bao giờ nhìn xem dưới chân mình có những gì, có lẽ vì Dương cao hơn tôi 13 cm, tôi đã đo rồi, đỉnh đầu Dương cách đỉnh đầu của tôi 13 cm. Cái mùi quyện đặc biệt mà hôm nay tôi mới có dịp ngửi lại, cách đây 13 tháng 13 ngày, giống như mùi sữa tươi đóng váng lâu ngày, với tôi, như thế không dễ chịu, mỗi lần ngửi thấy mùi sữa tươi, tôi luôn buồn nôn. Cảm giác ngao ngán. Khi ở bên Dương, tôi chỉ ngửi thấy mùi nước hoa Dương dùng, mùi gỗ thông mát thoang thoảng, tôi thấy nhẹ người. Tôi lơ đễnh nhìn thấy mình trong gương những cửa hàng lụa. Trông vô duyên và xấu xí. Chẳng có gì đáng bận tâm. Chợt nhớ lại cái cảm giác ngạc nhiên khi tôi cùng Dương vào một cửa hàng thổ cẩm cuối phố chọn đồ, người trông hàng nói một tràng tiếng Anh với chúng tôi, tất nhiên tôi và Dương phải đính chính lại ngay, nhưng không chỉ để mua được đồ với giá rẻ... Ngày hôm đó, tôi và Dương cùng đứng trước gương gần giờ đồng hồ, không biết để làm gì. Tôi biết Dương buồn. Tôi cũng vậy. Tôi có thật sự xa lạ đến thế? Tôi không còn nghe thấy tiếng ồn ã xung quanh. Tôi đã bỏ lại nó phía sau lưng… Những vị du khách nước ngoài to béo, những chiếc xe xuồng to uỵch màu mè có trị giá bằng cả năm du học của tôi đặt ngông nghênh giữa đường khiến lối dạo bước của tôi trông mất cân đối. Khi tôi quen Dương, với tôi, xe Piaggio màu xanh rêu của Dương là đẹp nhất, cả đến lúc này, sau 13 tháng 13 ngày, tôi vẫn chưa thấy xe nào đẹp hơn xe Piaggio màu xanh rêu. Tôi quay sang đếm những hàng hoa trên đường. Tôi thích nhìn những khóm hoa lộng lẫy di chuyển trên đường, từ từ, đằng sau một cô đội nón. Dương, mỗi lần đèo tôi, vẫn luôn chọn con đường có nhiều gánh hoa nhất, dù đôi khi đó là con đường xa nhất, Dương nói thế, còn tôi, tin như thế. Tôi thường xuyên ngần ngại mua hoa của những gánh hoa di động, lúc nào tôi cũng muốn nhìn những gánh hoa đầy ắp. Dương bảo tôi ngốc vì nếu ai cũng nghĩ như tôi thì sẽ chẳng còn hàng hoa di động nữa. Hôm nay, cô đội nón thứ nhất bán toàn hoa chuối - thứ hoa tưởng dân dã nhưng không hiểu sao lại thường xuyên xuất hiện ở những nơi sang trọng. Đến lượt cô đội nón thứ hai, thứ ba,… 13 gánh hoa -13 cô đội nón làm tôi thấy người nhè nhẹ. Tôi bước 13 bước trên mây. Nhưng cô đội nón thứ 13 đi được một đoạn thì chuệnh choạng ngã xe, có một người phóng ẩu lướt qua làm cô bị mất thăng bằng. Chẳng có gì đáng bận tâm. Tôi cũng không ngạc nhiên khi cô hàng hoa chẳng nói câu nào. Tôi cũng không ngạc nhiên khi người phóng ẩu đang mặc một bộ quần áo nhìn rất lịch sự và đi một cái xe đắt tiền quay lại nói câu: “Con nhà quê!” rồi hậm hực lao đi như thể chính mình bị ngã. Tôi cũng không ngạc nhiên khi xung quanh không ai phản ứng gì và tiếp tục việc làm của mình một cách bình thản. Khi ngạc nhiên quá nhiều lần rồi, người ta không thể ngạc nhiên được nữa. Cả gánh hoa rơi xuống đất và bị nát gần nửa. Cô hàng hoa thứ 13 ngã với 13 vết xước chảy máu. Không hiểu sao, tôi lại chạy đến tới chỗ cô, nhặt giúp cô những khóm hoa bị văng ra xa. Tôi không chờ đợi gì. Tôi không ngạc nhiên khi cô nhìn tôi dè chừng. Tôi chào cô và lại tiếp tục dạo bước. Tôi biết tôi có thể cho cô hết thảy số tiền trong túi, có lẽ nó cũng đủ để trả cho số hoa bị nát của cô nhưng tôi nghĩ nếu làm vậy, có lẽ tôi cũng không khác người vừa phóng xe làm cô ngã là mấy. Khi ở bên Dương , tôi nghĩ mình lương thiện hơn, chí ít là lương thiện như một người bình thường. Dương hay giúp đỡ người khác trong số đó có rất nhiều người hoàn toàn xa lạ, khi tôi hỏi lý do, Dương hay ngân nga câu: “Vì tôi là một người lịch thiệp” và kết thúc bằng một nụ cười bâng quơ. Ừ, tôi giúp cô hàng hoa vì tôi là một người lịch thiệp. Tôi bật cười. Người thành phố là những người lịch thiệp. Tôi bật cười lần nữa. Điệu bộ của tôi có lẽ nhìn ngớ ngẩn. Chẳng có gì đáng bận tâm. Tôi đi chậm nhất đến mức có thể. Tôi gần như chạm được cả vào thời gian. Một con phố tôi quên mất tên. Một con phố tôi chẳng muốn nhớ tên. Một con phố tôi không nhớ nổi tên. Cũng không có gì đáng để bận tâm. 13 giây nữa hết 13 phút dạo bước.13 giây nữa hết 13 phút Dương không có tôi. Một-hai-ba-bốn, tôi trả lại cho con phố sự ồn ào, năm-sáu-bảy-tám-chín -mười, tôi trả lại sự bình tâm cho những khuôn mặt trên đường, họ vẫn tiếp tục lao đi để hoàn thành nốt những công việc giống ngày hôm qua và giống ngày mai, cũng như tôi, mười một - mười hai - mười ba, tôi trả lại sự tò mò của mình lên những khóm cây, không nghe thấy nổi một tiếng chim ở đây, sẽ chẳng có con chim sẻ nào hết, một con chim sẻ chết rũ lại càng không. Chuông điện thoại của tôi reo, tôi chờ 13 hồi chuông đổ và nhấc máy để nghe 13 từ quen thuộc của Dương...

Cát
05-12-2006, 11:01 AM
Bức họa tàn phai (phần 1)

Vũ Đình Giang
Hôm qua tôi nhìn thấy em đỏ chóe trên tivi tựa vệt phẩm màu đổ vội. Em nhảy loi choi kiểu khỉ trong một trò chơi gì đấy tôi không nhớ rõ tên. Thông cảm cho tôi, dạo này gameshow nở tưng bừng như mai vàng mùa xuân mà tôi không đủ thời gian theo dõi kịp.

Trông em hớn hở với chiếc áo thun body cộc tay chẳng ăn nhập gì với đôi kính cận gắn trên gương mặt trắng xanh lại lơ đãng một cách khờ khạo, nhưng lượng kiến thức về nghệ thuật phổ thông của em khiến tôi phải giật mình. Khác với trí tưởng tượng của tôi về em trước đây. Cũng không thể trách, cả tháng nay tôi có được gặp em đâu. Em bảo phải huy động toàn bộ thời gian để cật lực chuẩn lại mớ tiếng Anh ba rọi. Em sắp dùng đến nó rồi. Hay chính xác hơn là em buộc phải dùng. Tôi hỏi vấn đề gì nghiêm trọng vậy, hay em định thay đổi việc làm. Em không trả lời cụ thể, bảo phải giữ bí mật. Đằng nào rồi anh cũng biết mà. Nói chung là em đang có một kế hoạch tích cực, anh không nên lo lắng quá - em trấn an tôi.

Tôi nhớ dạo trước những cuộc hẹn hò hầu hết diễn ra trong chiều nhập nhoạng. Em vận bộ váy vẽ cánh côn trùng trông thật quái đản. Mồm miệng phì phèo các câu chuyện điên rồ, thậm chí những chữ cuối câu lại còn hay nói lắp. Kiểu như em dễ bị bọn đàn ông chụp cho cái mũ vô duyên còn các chị bạn thì bĩu môi rằng gái đoảng. Nhưng riêng tôi thì lại thấy hay hay.

Lai - gã designer bạn tôi, mắng rằng chữ hay hay của mày đáng vo viên vứt vào bồn cầu rồi giật nước. Với hắn thì yêu là yêu, hoặc yêu vì cái gì, cụ thể hóa mọi thứ từ tiền bạc đến nhan sắc lẫn xác thịt, chứ không có cái kiểu mơ hồ hay hay. Tao chả biết hay là hay chỗ nào. Bọn mày đúng thật là lũ điên.

Mắng xong hắn te tái đi xem tranh. Hắn tiết lộ anh trai hắn cũng là họa sĩ nhưng phong cách lập thể vị lai của anh ta không chinh phục được hắn. Biết sao được, mỗi người một gu riêng mà. Rồi hắn khịt mũi bảo cái đám tranh tôi vẽ cũng xoàng thôi, chẳng giá trị gì, chẳng hứa hẹn một tương lai gì, giống hệt mớ giẻ rách, đôi lúc trông khó hiểu nhưng quả thật nhìn mãi quen mắt cũng "cảm" được, cũng thấy... hay hay. Thấy chưa, mày nhiễm tư duy từ vựng của tao rồi - tôi cười khanh khách trả đũa. Hắn gãi đầu vì ngượng, bỏ lên gác lục lọi đám mặt nạ tôi nặn trong vô thức nên vẹo vọ xấu mù. Hắn chọn được một cái, rồi xí phần đem về. Hắn thường cướp cạn tác phẩm của tôi một cách trắng trợn như vậy.

Nhưng tôi cũng thấy vui, giẻ rách mà có người dùng thì giẻ rách có ích quá đi chứ. Dù sao hắn cũng đánh giá tài năng tôi nhỉnh hơn anh trai hắn. Nhưng mỉa mai thay, anh trai hắn lại kiếm tiền giỏi hơn tôi. Cả năm tôi bán lác đác được vài bức. Chủ gallery chỉ trích rằng tranh tôi biểu lộ một tâm thế bi quan, nhìn kỹ có hơi hướng gì đó gần như là ê chề hay mặc cảm nhục dục, hoặc một thứ gì đại loại thế. Tôi mặc ông ta nói, không bình luận hay bào chữa gì. Tôi biết rõ nội tâm tôi thế nào và tôi chỉ diễn tả trung thực cảm xúc. Lúc này cũng vậy, tôi mặc Lai muốn lục lọi gì thì cứ việc, bởi tôi đang bận vừa nhai kẹo cao su vừa dằn vặt về hình ảnh em mà tôi đã nhìn thấy trên tivi. Vì sao hôm qua em lanh lợi và sắc sảo đến bất ngờ?

Tôi không dám kết tội là trước đây em diễn kịch. Hoặc giả em bối rối. Vì tần số gặp nhau hai lần một tuần là thưa thớt quá chăng? Trước khi gặp em, tôi luôn tự hào về chiều cao đủ chuẩn. Đến khi úp vào nhau tôi chợt nhận ra mình nhầm. Em đã vượt chuẩn gien dân tộc để vươn đến tầm quốc tế. Nhưng sự tự ti của tôi và em thì có vẻ ngang nhau. Bởi tôi ngực gầy má hóp thì em vai xuôi đùi béo. Nhìn chung niềm kiêu ngạo chiều cao càng tô đậm sự bất cân đối của cả hai.

Gần đây tình trạng sức khỏe tôi có dấu hiệu tuột dốc. Nguyên nhân có thể do tôi biếng ăn lại lười tập thể dục. Một phần vì bầu trời mùa hè như chảo lửa ninh nhừ tôi như người ta nấu cao hổ cốt. Nhưng phần lớn vì nhớ em. Ngày tôi ăn qua quýt dăm lát bánh mì vẫn chịu được nhưng quả thực tôi không chống đỡ nổi cảm giác đói em. Vì thế mà tôi cứ thoi thóp dần.

oOo

Châu chấu ma ơi, châu chấu ma à! Tôi thầm gọi em trong những chiều ngoại ô xanh xao nằm bất động trên sofa đỏ đổ nghiêng một góc thềm nhà như vệt máu loang dài. Ngoài kia xa lộ rì rầm bao làn xe chuyển động ngỡ tiếng mưa rơi không ngớt. Cành cây dương xỉ oằn lưng phả ra từng hơi thở ngai ngái bên cổng sắt tróc sơn. Nơi ấy em thường xuất hiện với vạt váy phất phơ tựa bóng ma phiêu dạt. Cổng sắt rên rẩm một hồi dài rồi run rẩy đón em vào. Mỗi lần mở ra khép lại là bao tàn dư oxy hóa cứ rụng lả tả vào lòng tay em trông như người ta đang tẩm bột rán một con châu chấu.

Châu chấu ma ơi, châu chấu ma à! Tôi khẽ rít lên nửa sung sướng nửa hoảng sợ. Sao lần nào hẹn hò với tôi em cũng hay phất phơ vạt váy vẽ cuồng loạn đàn châu chấu ma? Bộ cánh rằn rực sắc màu ma quái phủ lên sofa đỏ làm chủ nhân xanh xao trên đó ngộp thở. Em nhe răng nở nụ cười man rợ, hỏi tôi - thế anh nghĩ em là châu chấu ma thật à? Nếu vậy lần sau em sẽ mặc váy vẽ chuồn chuồn cho hiền lành, cho giống cái cô ca sĩ gì đó có gương mặt quai quái hay chả chớt hát trên tivi có được không? Còn nếu anh không hài lòng hoặc tỏ thái độ dị ứng nữa thì em sẽ chuyển qua những con bọ hung. Ồ, hay là ruồi nhé? Anh xem, những con ruồi xanh gớm ghiếc biết đâu chẳng gợi cho anh vẽ một cái gì đó hứng khởi hơn nhiều những gương mặt tróc lở nhàu nát? Tôi ho sặc sụa vội hất em qua một bên, rên thêm một tràng nữa. Lòng ngờ vực không biết sau mốt thời trang côn trùng và bọ cánh cứng em có chuyển qua loài bò sát? Nếu vậy mỗi lần chúng mình quấn lấy nhau có khác gì đang đóng phim tình người kiếp rắn? Em vả yêu vào mồm tôi, bật cười khanh khách rồi kéo tôi vào nhà. Trong nhà kín đáo muốn diễn gì thì diễn. Bởi nếu còn ở ngoài hiên mà cả hai cứ chơi trò chụp váy phủ mặt nhau thế này, thiên hạ đi ngang tưởng có ma nữ khổng lồ đang ăn thịt hình nhân làm tươm máu cả chiếc sofa thì nguy to.

Cứ thế mà chiều đi qua, đủng đỉnh trong tiếng chuông nhà thờ phía xa đổ từng giọt ngắn thật tiết kiệm. Trộn lẫn tiếng động cơ chảy không ngớt trên xa lộ. Ngoài kia bụi dương xỉ có lặng thầm thả rơi vài bào tử nhỏ bé đáng thương? Trong này tôi với em chia nhau chuẩn bị dạ tiệc.

Dạ tiệc kỳ thực chẳng có gì xa hoa. Em vừa trút một bãi máu bầm từ hộp nhựa trắng ra chiếc đĩa sứ cũng trắng và hít hà dọn rau răm cùng chanh ớt ra mâm. Em ghiền món tiết canh. Nhìn cái miệng xinh xinh của em khoái trá hút dần đĩa tiết canh trông khiếp đảm như ma cà rồng tái sinh. Vừa ăn em vừa luôn miệng ngợi khen cái siêu thị nằm lửng lơ trên đường về nhà tôi. Nó bát nháo khủng khiếp và cách trưng bày hàng hóa thì thiếu logic. Nhưng ưu điểm là bán fast-food có sáng tạo. Ối chà chà, tôi ngạc nhiên vì khả năng phát hiện của em. Dân Mỹ đến đây hẳn sẽ nghẹn họng khi biết tiết canh cũng được em xếp vào nhóm fast-food và lại còn bán đường hoàng trong siêu thị. Từ hiện tượng đột phá này hẳn các nhà xã hội học thôi không còn lớn tiếng chỉ trích là dân kinh doanh xứ mình thiếu tinh thần sáng tạo.

Tôi lập cập tuột từ căn gác xuống. Thả vào đầu đọc chiếc DVD mới. Em trợn mắt ồ lên thích thú. Phim kinh dị hả anh? Sao lúc nào anh cũng sưu tập nhiều phim kinh dị thế hả? Lần này là kinh dị tâm lý, kinh dị hình sự hay kinh dị siêu nhiên? Mà này, sao anh không thử xem kinh dị Hàn Quốc đi nào. Hôm nọ đứa đồng nghiệp cho em mượn một phim, tựa gì quên rồi, nhưng có cái cô Kim... ơ... Kim Nam Châm gì đó, tóc dài mượt ơi là mượt, cứ như đang quảng cáo dầu gội, mà nội dung hay lắm, xem đến hết phim em mới biết cô ta là ma. Nhìn cảnh cô ta nhe răng nanh và các búi cơ thối rữa dần mà nghẹt thở. Khiến anh chàng cảnh sát người yêu cô ta vãi hết ra quần, chân nhũn như bột nhão, tay cầm khẩu súng mà cứ run lên không thể nào khạc ra đạn. Đấy anh xem có khiếp không chứ? Dứt màn kể lể là em vứt đĩa tiết canh xuống sàn đánh roẹt, vài hạt đậu phộng thừa vương vãi nền gạch khô khốc. Em túm nhàu vạt váy, co rúm người lại, ép sát vào người tôi, mắt mở thao láo nhìn lên cảnh tượng bí ẩn trên khuôn hình tối thẫm. Không gian lặng phắt tô đậm tiếng cánh cửa mở ra đột ngột. Hiệu ứng âm thanh dồn nén gây nỗi ám ảnh sợ hãi siết chúng tôi thành một.

Sau đó chúng tôi chìm vào nhau. Trời ngoại ô về khuya gió rít qua hiên nhà nghe hoang lạnh và u ẩn. Bộ cánh châu chấu ma em vứt trễ nải trên thành giường, trong bóng tối đèn ngủ ánh lên từng vệt màu xanh ma quái. Tôi thở dài, khẽ vuốt dọc lưng em. Em lột xác cho tôi để tận hưởng niềm vui ít ỏi mà vẫn không thể che giấu nét hoang hoải u buồn. Đôi lúc tôi tự hỏi qua những giấc ngủ thế này, rồi sẽ đọng lại trong nhau chút gì không? Hay chỉ vài giấc mơ chắp vá nhuốm mùi tiết canh và phảng phất phong cách phim kinh dị?

oOo

Kết thúc đợt chuẩn hóa mớ tiếng Anh ba rọi, em rẽ hướng cuộc đời. Chúng tôi đành tạm chia tay.

Em sang Thái làm việc, song song theo đuổi chương trình học về hiệu ứng kỹ xảo dành cho công nghệ phim quảng cáo. Kiểu vừa học vừa hành. Các e-mail mô tả cuộc sống mới của em nơi đất khách không kiềm chế tâm trạng phấn khích. Trong một môi trường dồn dập những ấn tượng thị giác và bao cuộc giao thoa cởi mở đến mức rối loạn của các dòng chảy văn hóa dị biệt, tôi sợ em choáng ngã. Nhưng em trấn an tôi, rằng các loại hình kinh doanh những kích thích dục vọng chỉ mê đắm được bọn đàn ông, chứ em thì miễn nhiễm. Anh cũng đừng bận rộn ghen tuông với gã sếp bé ManYi làm gì. Em tuyệt đối an toàn bên gã. Vừa qua xứ này gã đã sưu tập cho mình một boyfriend mới rồi. Anh hiểu vấn đề em nói chứ? Tôi gật đầu chiếu lệ, an tâm. Qua màn hình webcam gương mặt tôi thuỗn ra như chiếc lưỡi cày.

Tôi hỏi em dạo này thay đổi phong cách ăn mặc rồi sao. Bất ngờ quá! Em cười tít, thì cũng phải hòa nhập môi trường thôi. Chứ thực ra để giã biệt những bộ cánh côn trùng em có cảm giác đau đớn như rắn bị lột xác. Nhưng như thế này thì trông em có khá hơn ấy chứ? Vừa nói em vừa đứng lên, lùi ra xa, xoay chầm chậm một vòng cho tôi thấy hình ảnh toàn thân. Mode! Vậy mà tôi cứ băn khoăn không biết cho em mấy điểm. Nói chung là em đã hiện đại rồi. Nhưng sự đổi mới này trông quần chúng và hơi mất cá tính. Tôi quen hình ảnh côn trùng của em hơn. Tuy điên điên nhưng... hay hay. Nói chung không cắt nghĩa nổi. Rồi em hỏi tôi về xóm nhỏ ngoại ô có gì mới không. Tôi bảo mình cũng yên ổn bên những người hàng xóm. Họ không quấy rầy gì. Trừ Lai - gã bạn designer thực dụng của tôi. Em biết loáng thoáng về Lai rồi mà. Cái gã hay cướp cạn những tác phẩm giẻ rách của anh đấy! Em ậm ừ. Nhưng mà em chẳng thể an tâm. Anh nên dè chừng. Em linh cảm anh ta ít độ tin cậy. Nói chung là linh cảm đàn bà, không giải thích được. Vì thế phải cảnh giác. Tôi nhận ra đề tài đang bị chệch hướng. Tôi đề nghị thôi chúng mình nói chuyện khác đi. Rằng anh nhớ em lắm. Nhớ gần như là đói. Anh đói em! Em nhanh chóng buông thả cảm xúc, hưởng ứng bằng đôi mắt hoe đỏ. Em cũng nhớ anh mà. Nhưng anh phải hiểu cho em. Bên này vừa làm vừa học khá vất vả. Theo đuổi công nghệ cao, tốn kém lắm! Vả lại, gã sếp bé ManYi ngoài giờ quấn quýt với boyfriend thì gã quản em khá chặt. Nhưng có thế thì em mới mau giỏi nghề. Khi nào ngơi việc và kiếm đủ tiền vé máy bay, em sẽ vèo một chuyến về thẳng ngoại ô thăm anh. Em thèm món tiết canh ghê gớm. Ở đây không có bán anh à. Nói xong em khóc. Tình cảnh thật thảm thương.

Khi cuộc than vãn chấm dứt, màn hình webcam tắt thì chiều cũng sầm sập trôi qua. Bóng tối khoái trá bò dần vào con đường ngoại ô vắng lặng. Tôi trông ra cổng sắt, thấy cụm dương xỉ đang già đi, những tàu lá còng xuống, uể oải. Hình như lâu lắm rồi tôi không tưới giọt nước nào cho nó. Khéo chừng nó đang chết đi. Mà sao đám bào tử bé nhỏ rụng xuống không để lại vết tích sinh sôi gì?

Nằm dài trên sofa đỏ, tôi nghĩ về tám năm tuổi trẻ đã trôi qua. Chật vật và dùng dằng phương hướng. Một quãng đời hơi bất động, gần như vô dụng. May quá, tôi còn một cuộc yêu đương. Nhưng kết quả của nó là gì? Khi mà em không xác định được khi nào sẽ trở về cùng tôi. Làm sao tôi có thể loại bỏ những hạt nghi ngại vẩn vơ đang manh nha nảy mầm trong lòng?

oOo

Vắng em, tôi đành chấp nhận chơi thân với Lai. Dù trước đây tôi không ưa gì hắn. Mà hắn và em cũng khắc khẩu nhau. Em luôn cảnh giác với hắn còn hắn nhận xét em là phường mọi rợ. Cũng bởi hắn có đôi mắt cú vọ cứ nhìn xoi xói ruột gan người đối diện rồi buông ra những nhận xét lạnh lùng. Nó khiến người ta tổn thương. Nhưng vì lẽ gì tôi qua lại với Lai? Đơn giản bởi ở khu ngoại ô heo hút và rác rưởi này, tôi chẳng tìm ra ai phù hợp để chơi. Lai là kẻ duy nhất có chút hiểu biết về nghệ thuật - kết quả của năm năm theo học ngành thiết kế. Chuyên gia sáng tạo ra những poster quảng cáo ăn khách, nhưng ngoại hình kém hấp dẫn cộng cách ăn mặc luộm thuộm phản mode đã không giúp hắn kiếm được một chỗ trong thế giới thiết kế thượng lưu. Có lẽ vì lý do này mà Lai bộc lộ tư tưởng sùng bái đồng tiền một cách không giấu giếm. Những tờ bạc có màu xanh tái luôn hấp dẫn Lai đến mức, khi nhìn vào các bức họa của tôi, hắn ta luôn nghiêng về các gam lạnh u buồn. "Nhìn xem, chúng đẹp làm sao. Đấy, đấy, tôi thích nhát cọ ấy. Chúng xanh như một tờ đô la". Ôi trời, lối so sánh rẻ tiền khiến tôi phát cáu. Tôi đẩy hắn ra cửa, hét lên trả đũa: "Và cũng xanh như nước da xanh xao của cậu. Cút về với những poster thương mại rỗng tuếch đi!". Hắn phá vỡ mạch cảm xúc trong tôi. Chúng tôi thường xuyên xung đột kiểu như vậy. Chúng tôi đều là những kẻ ích kỷ và bảo thủ.

Tình hình suy nhược kéo dài và có dấu hiệu ngày càng trở nên trầm trọng đẩy tôi vào trạng thái cáu kỉnh, rồi sau đó lẩn tránh hầu hết các cuộc giao tiếp. Nhiều tháng nay các cuộc online giữa tôi và em cứ thưa thớt dần. Câu chuyện kém hưng phấn từ phía em. Mối quan hệ đang tiến vào vùng trung tính. Lai lại đột ngột chuyển nhà. Hắn ta nói muốn dọn về nội thành ở cho tiện việc đi làm. Người anh lập thể vị lai của hắn giúp một nửa tiền mua nhà. Mỗi quãng đời đều cần một thay đổi - hắn kết luận bằng một giọng nghiêm túc. Nhưng khiến tôi đau đớn. Suốt tám năm tuổi trẻ mất đi, tôi đã thay đổi cái gì?

Chúng tôi ra ngồi trên sofa đỏ. Không nói được chuyện gì ra hồn. Sự ngắt câu lộn xộn thiếu ý thức khiến Lai trở nên khó hiểu. Thà rằng hắn ta cứ tiếp tục phong cách láu cá như mọi khi thì tôi sẽ thấy thoải mái hơn. Lai xoay trở thế ngồi chậm chạp, hắt hơi liên tục vì mùi cánh gián xộc lên trong bầu không khí ẩm ướt. Cơn mưa đầu hè trút xuống vội vã đưa tiễn những đám lá úa lìa cành trong khu vườn nhỏ đùn lên các tổ kiến đen dị thường. Đám nấm tai mèo ve vẩy nơi cội dong riềng rung lên từng chập theo tiếng sấm rền trong cơn mưa. Lai lui vào nhà, nhìn luyến tiếc các bức vẽ dang dở. Đó là lần hiếm hoi hắn không chiếm đoạt của tôi thứ gì. Khi cái bóng xấu xí ấy khuất sau cánh cổng sắt mục nát, tôi ngồi bó gối trong bóng tối, dòng nước ấm lặng lẽ bò trên má. Có bức thiết lắm không sự thay đổi cho mỗi quãng đời? Vì sao tôi điều khiển cuộc sống mình một cách lung tung thế này? Vì sao tuổi trẻ qua đi thì tôi cũng mất dần nhiều thứ đến vậy?

Càng nỗ lực níu kéo nhịp sinh hoạt trước đây, tôi càng nhận ra mình không thể. Hình như tôi mất hẳn em rồi. Đường bay Bangkok - Sài Gòn có là bao? Vì sao em im lặng? Vì sao tôi không dám thử tìm em một chuyến cho rõ trắng đen? Nhưng tôi sợ đối diện một sự thật. Tôi sợ gã sếp bé ManYi biết đâu không phải là tên đồng tính. Biết đâu đó là một kế hoạch đã được sắp xếp tinh khôn? Hay là em đã choáng ngã vào một trào lưu sống nào đó? Biết đâu biết đâu?...


Trong những chiều ngoại ô xanh xao nằm bất động trên sofa đỏ đổ nghiêng một góc thềm nhà như vệt máu loang dài, tôi dằn vặt mình bằng những câu hỏi biết đâu biết đâu...?

Đường về ngoại ô xa tít, hết nắng và bụi bao vây lại đến mưa với bùn phục kích. Nhìn từ trên cao, xe buýt trôi lờ đờ giống hệt con bọ cánh cứng diêm dúa vừa trở thành chiến lợi phẩm cho đàn kiến đông đúc lôi đi. Một tháng đôi lần tôi chui vào bụng con bọ cánh cứng ấy đi về trung tâm mua sắm các thứ cần thiết, chủ yếu là toan và màu vẽ. Phần lớn thời gian chui rúc trong nhà, đối diện tình trạng suy sụp và căn bệnh trầm cảm. Mùi sơn dầu trộn lẫn trong không gian nồng đượm hương chuối tỏa ra từ xưởng bánh kẹo trong vùng. Các bữa ăn tự nấu thường trực món rau diếp trộn dầu giấm theo sở thích hơn là lời khuyên của bác sĩ. Hiếm hoi những cuộc thăm viếng của Lai. Trước đây em từng nếm thử món này và không thể nuốt trôi, nếu không muốn nói là buồn nôn. Còn Lai thì khịt mũi bảo rằng hắn vốn dị ứng với mùi chua nồng của giấm. Ăn mãi một món, ngửi mãi một mùi, vậy mà cậu chịu được sao? Tôi buồn bã gật đầu, quen rồi mà. Có những thứ mãi mãi thuộc về mình, muốn thay đổi mà không thể được. Đột nhiên ngân dài trong tôi câu nói của Lai - mỗi quãng đời đều cần một sự thay đổi. Nhưng sở thích vị giác và yêu đương có cần thiết đổi thay không?

Lai đặt tay lên vai tôi, đôi mắt cú vọ nhìn sâu thẳm, giọng chân thành - cậu đi tìm cô ấy một lần đi. Để làm gì? - tôi chua xót hỏi. Để kết thúc. Sau kết thúc sẽ là cuộc thay đổi. Biết rõ trắng đen để thay đổi. Tôi nói tôi sợ. Tôi đoan chắc mọi thứ nhưng vẫn sợ đối diện em. Nhiều tháng nay em không hề liên lạc. Điện thoại biến mất. Hộp thư trống rỗng. Các e-mail vô vọng. Như thế không đáng cho cậu thay đổi ư? - Lai lại cất giọng, lần này nghe rõ ngữ điệu thúc giục. Hoặc cậu trở lại nghề thiết kế. Hai năm chểnh mảng như thế là ngu ngốc lắm rồi. Nếu vượt ngưỡng thời gian này, cậu sẽ phải bỏ cuộc. Cậu đang đánh rơi phương hướng sống. Hai năm, cậu đã loay hoay trong sự mục ruỗng! Những bức tranh rác rưởi, nhiều năm dài tốn sức cho cuộc yêu đương kỳ quái không hứa hẹn gì, tài chính teo quắt, thái độ sống không dấn thân... Tất cả đã tàn phá cuộc đời cậu. Cậu hiểu chứ?

Tôi ngã xuống sofa, run rẩy. Tôi đã không nổi cáu trước Lai. Bởi hắn nói đúng quá. Tôi kiệt sức rồi. Tôi cố thều thào rằng tôi cảm ơn cậu, nhưng tôi cần có thời gian để làm lại. Lai hét lên - thế cậu còn chờ đến bao giờ? Nếu cậu không ra sức tự cứu, sẽ chẳng có ai vực nổi cậu dậy. Vứt hết, đốt hết mọi thứ đi, từ bỏ căn nhà u ám này, con đường ngoại ô chết tiệt này. Càng nhanh càng tốt. Có thế mới xóa hết mọi dấu vết. Rồi làm lại! Ừ, có thể cậu không cần đến Bangkok làm gì. Đôi lúc một chút mù quáng, một chút ảo vọng cũng khiến người ta sống có niềm tin hơn.

Vì sao lang thang

Từ Nữ Triệu Vương

Cô ngước mắt lên nhìn Chúa, vẫn là bức tường vàng nhũ đen thẫm trong khoảng trời đêm xam xám ấy. Chúa bế một đứa trẻ nhỏ, nhìn xuống mỉm cười. Chuông đồng hồ của Nhà Thờ Lớn kêu lanh thanh điểm 12 giờ 15 phút, cô bật cười vì sự sai lệch bất bình thường của chiếc đồng hồ này và những chiếc đồng hồ treo tường trong mọi gia đình. Nhà Thờ Lớn vẫn đứng im lìm, cứng cắc như tấm bìa lớn trên nền trời, trông chẳng có hồn như những ngày lễ thứ bảy .

Cô thở dài sượt, rời khỏi đó, mưa nhẹ lất phất, gió cũng thổi lất phất, thi thoảng ồ lên từng trận khiến cô co rúm người lại xuýt xoa. Lang thang trong chiếc áo mỏng, màu vàng, chiếc quần Jeans nhiều túi, cô cho xe chạy chậm hơn.

Mưa. Mưa bất đầu rơi nặng hạt. Cô hít sâu một hơi lạnh vào lồng ngực thầm nghĩ: Có nên chạy vào đâu đó để tránh mưa không nhỉ? Chẳng cần. Tóc cô ngắn cũn thế này, ướt chút rồi sẽ khô. Còn quần áo sẽ ướt. Cũng chẳng sao, đi bụi đêm phải chấp nhận chứ!

- Ai bánh bao nóng đê... Ăn bánh bao không cô ơi?

Một người đàn ông bán bánh ngoái cổ nhìn cô hỏi. Cô ngoắc tay ra hiệu người đàn ông quay lại.

- Cho cháu mấy chiếc.

Mùi thơm của bánh bốc lên, cô nghe bụng reo dữ dội, bóc ngay một cái cho vào miệng cắn, xuýt xoa.

Người đàn ông nhìn cô bật cười:

- Cô có vẻ đói lắm

- Vâng, cháu có thể ăn hết cả xe bánh của chú đấy.

Người bán bánh hồ hởi:

- Cô nói vui chứ… mà cô đi đâu muộn vậy?

- Cháu đi đánh ghen.

Người đàn ông tròn xoe mắt rồi ông ta lắc đầu

- Cô nói thế nào. Nhìn cô, tôi đoán, chắc cô thích lang thang phố đêm thôi.

- Chú tài nhỉ.

Người đàn ông sôi nổi hơn.

- Tôi hay gặp những người trẻ như cô lắm, nhưng họ đi đông cơ. Mỗi tốp đến chục người chứ không một mình đâu. Cô cũng liều đấy.

Cô mỉm cười, nhai sang cái bánh thứ 2, rồi hỏi:

- Thế có nhiều vụ trấn lột, đánh nhau sao chú?

- Không, không có, nhưng... cô... vẫn liều. Cô không sợ ma à?

Cô bật cười nắc nẻ rồi khẽ gật gật cái đầu ngắn toe đó theo giai điệu "Giọt đắng" của băng nhạc THE WALL.

- Không! Cháu đang đi tìm một chàng ma đây.

Rút tiền ra trả người bán hàng, cô khen:

- Bánh của chú ngon ghê! Cháu đỡ đói hẳn.

Người đàn ông cầm tiền, cảm ơn, rồi lóc cóc đạp xe, miệng rao tiếp: "Bánh bao nóng đê, ai bánh bao nào…".

Cô cho xe chạy tiếp. Hà Nội đêm mùa thu khác hẳn quê cô. Mùa này, quê cô hoa sữa chưa ra bông. Con đường Lý Thường Kiệt sẽ oằn mình ngột ngạt đến khó thở khi hoa sữa phủ trắng. Cô nhớ biển Nhật Lệ, ồn ào tiếng sóng, xoa tràn lên những bờ cát trắng. Cô nhớ quán cà phê Sơn Ca da diết nhạc Trịnh phiêu du. Cô nhớ những hàng dương xanh thẫm phủ dài trên những đồi cát, mà buổi trưa cô cùng tụi trẻ con hay chạy chân đất để tìm quả khô. Đêm Đồng Hới quê cô thật thâm trầm, lắng đọng, ngọt ngào chẳng khác giọt mật ong im lìm ngủ ngoan nơi lòng bàn tay con trẻ.

Cô thấy sống mũi cay cay, nước mắt ngân ngấn. Kệ chứ! Cứ để cho nước mắt rơi đi. Đã lâu lắm rồi, cô không còn biết khóc. Nhiều khi, cô cứ nghĩ mình sẽ không bao giờ khóc được nữa.

Cô rẽ lên phía con đường Điện Biên Phủ, buớc vào quán trà Dilmah, tiếng nhạc ghi-ta vang lên bản Sa-kư-ra buồn lay lắt, cô thấy tâm hồn mình như được buộc túm lại, não nề. Hương hoàng Lan thoảng đưa lại, cô cố hít thật sâu rồi khẽ mỉm cười khi chợt nhớ đến mấy câu thơ của Bùi Giáng:

Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng với lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời

* * *

Mưa tạnh, gió vẫn thổi, từng đám lá vàng ẩm ướt nước mưa thi thoảng bật nghiêng mình rồi lại im lặng. Lá reo xào xạc trên đầu, kéo theo ánh sáng loang loáng của những chiếc đèn cao áp đường phố hất vào, nhìn chẳng khác gì những ngôi sao dát bạc. Bên kia đường là toà nhà lớn của Đại sứ quán nào đó, cô không biết tên, cô chỉ thích những cây chuối lênh khênh được cắt tỉa những tàu lá thật công phu trồng hai bên lối vào, nhìn chúng cứ là lạ.

Đã không ít lần cô lang thang đêm Hà Nội, nhưng sao mỗi lần lang thang ấy cô vẫn có cảm giác thèm đi nữa. Đêm Hà Nội cứ cuốn hút và ám ảnh cô đến lạ kỳ.

Người phục vụ bê thêm ly cafe đen đến, nhấp chút vị đắng đấy, cô nhớ lại những hình ảnh cũ khi mới bỡ ngỡ đặt chân lên mảnh đất sầm uất này.

* * *

Tiếng người phát thanh đọc to dõng dạc từng câu: "Chuyến tàu S2 sắp vào ga, mời mọi người tránh xa đường ray xe lửa…". Tàu hú dài, tiếng bánh xe nghiến lên đường ray ken két rồi ngừng lại. Đoàn người xuống vội, líu ríu gọi nhau. Kẻ đón người đưa, kẻ xách, người mang huyên náo cả sân ga, cô lẫn vào trong đám người.

Đồng hồ nhà ga chỉ 4 giờ đúng. Tàu đến Hà Nội chậm 30 phút. Chậm hay nhanh cũng không quan trọng đối với cô. Vì cô còn ngồi trong nhà ga đợi đến sáng cơ mà. Cô kéo ba lô đi về phía phòng đợi, yên lặng nhìn ra khung trời dần tảng sáng.

Vậy là cô đã đến Hà Nội, tờ giấy báo trúng tuyển trường đại học đã thôi thúc cô ra ngoài này. Ba cô theo người đàn bà khác sang Mỹ từ khi cô chưa ra đời. Hai anh một lần đi công tác ở Lào về thăm mẹ thì gặp tai nạn máy bay. Mẹ cô nghĩ quá nhiều nên bị điên, giờ đang điều trị ở Huế. Còn cô sống nhờ vào đồng trợ cấp đến hết tuổi 18. Giờ thì hết rồi, cô đã trưởng thành, phải tự kiếm tiền ăn học vậy.

Cô thuê nhà gần trường. Tiền ăn, tiền học, tiền sách vở thúc đẩy. Cô xin vào làm tại Vũ trường New Centery, một vũ trường nổi tiếng đất Hà thành. Vũ trường thật phức tạp, cô biết điều đó. Cô không tránh được những bàn tay sờ mó, nắn bóp của bọn đàn ông trên cơ thể, không thể tránh được mùi bia rượu của chúng phả nơi gáy, cùng những lời mời mọc ngọt ngào lẫn bặm trợn. Mới đầu, cô cảm thấy tủi nhục, cô thường chạy vào toilet khóc một mình và gọi mẹ. Về sau, cô không vậy nữa, gặp những chuyện nho nhỏ đó cô chỉ khẽ mỉm cười và quên đi nhanh chóng.

Vũ trường hôm đó xảy ra vụ scandal, một số tay anh chị đến quậy tưng bừng. Người quản lý sau một lúc thương lượng ngầm cũng giải quyết ổn thoả. Cô ra về muộn hơn mọi khi 2 tiếng. Cô mệt mỏi dắt xe vào con đường ngập đầy bóng đêm, tiếng rú ga ầm ầm từ xa vọng lại khiến cô phải tấp vào lề đường chờ cho dải xe đó đi qua.

Tiếng rú máy của dân đua còn vẳng lại, cô dắt xe xuống lề đường đề máy. Chiếc xe dở chứng kêu rè rè. Sáng nay, cô đã kiểm tra rồi cơ mà, sao lại thế này. Cô đạp máy, máy vẫn không nổ, đạp thêm mấy lần nữa vẫn vậy. Đêm, sương xuống dầy hơn, mồ hôi lấm tấm trên trán, cô thở dài dắt xe, bước chân trệu trạo, đầy ngán ngẩm.

Ba năm học và làm, cô đã tự mua một chiếc xe cũ của người quen, và có tiền ăn học. Ba năm sống ở Hà Nội, cô chỉ về thăm mẹ tổng cộng được chín ngày trong dịp tết, và rồi vội vã có mặt tại Hà Nội để đi làm. Tình yêu và các cuộc đi chơi của bạn bè là món quà xa xỉ mà cô không thể nhận. Thời gian, cô dành cả cho học trên giảng đường và đi làm. Điều này khiến bạn bè trong lớp luôn cảm thấy cô khó gần, nhất là cánh con trai, chẳng ai dám bắt chuyện, cho dù cô đẹp, một vẻ đẹp kín đáo với đôi mắt nâu bình thản.

- Chị cần tôi kéo xe cho không? - Tiếng nói thoảng nhẹ như tiếng gió

Đang dắt xe, cô giật mình quay sang thấy một người con trai lịch sự trong bộ veston tối màu, ngồi trên chiếc Dream II nhìn cô. Cô thầm cảm ơn thượng đế rủ phép nhiệm màu. Cô mừng rỡ:

- Vâng, anh làm ơn giúp tôi với. Xe của tôi không hiểu sao lại không đi được

- Chị nắm tay tôi được không. Tôi sẽ kéo chị. - Chàng trai nhìn cô, ánh mắt thoảng gió.

Cô cười, đáp:

- Được chứ!

Người con trai đưa cánh tay trái cho cô nắm vào. Người cô như có luồng điện chạy khắp sống lưng. Một bàn tay thật lạnh, lạnh như đá. Cô nghĩ đến bàn tay của những con ma đói đi trong đêm. Cô run rẩy, lắc đầu xua tan ý nghĩ đó.

- Tay chị ấm quá, lại mềm nữa.

Cô khẽ cười không đáp.

- Chị đi làm về muộn thế không sợ ai bắt nạt sao?

Cô lắc đầu, mỉm cười.

Hai chiếc xe máy đi chầm chậm bên nhau, người con trai nói chuyện với cô thật tự nhiên.

- Tôi tên Vũ, Vũ có nghĩa là mưa, chữ Hán viết nét ngang ở trên trời, nét cong là mây, chữ thuỷ ở giữa nét cong chỉ nước mưa từ trên mây rơi xuống.

Cô cười, nghĩ Vũ thật vui tính.

- Đêm nay sao thật sáng chị nhỉ. Chị có biết những ngôi sao sáng loá bay ngang qua trời kéo theo những chùm ánh sáng nhỏ phía sau không? Người ta nói có sự ra đi của một kiếp người, còn đám học trò mơ mộng thì biến cái đó thành điều ước về tình yêu. Riêng tôi, tôi nghĩ những ngôi sao đó là những vì sao lang thang, lang thang như tôi vậy. Trong dải ngân hà có hai trăm ngàn tỷ ngôi sao mà dải thiên hà thì không biết bao nhiêu mà đếm. Dải thiên hà đó có bao nhiêu vì sao lang thang nhỉ? Chị có biết không? Chắc chị cũng không biết đâu. Và tôi cũng như chị, cũng không biết.

Chị thấy trăng thượng tuần có đẹp không? Tôi thấy nó quyện với mùi hương hoàng lan và hoa sữa còn vương lại, hương không nồng nàn như mùa thu, chỉ thoang thoảng thôi. Cả hương của chợ hoa đêm Quảng Bá nữa, huyền diệu phiêu linh, ở đó lung linh sắc hoa, sự tinh khiết của hoa huệ và cúc trắng, tiểu thư như hoa baby, man dại như Thuỳ Dương và dù quê kệch như đám lau rừng cũng làm tôi rất thích

Cô nhìn sang Vũ, ánh mắt anh như đang ở trong cõi hư vô, anh nói như cho chính bản thân mình. Cô nhìn Vũ lâu hơn khiến chút xíu nữa xe cô đâm vào lề đường. Cô giật mình, hốt hoảng kêu khẽ: "Ôi, lạy Chúa tôi!".

Vũ mỉm cười, một nụ cười thật hiền nhưng nghe ren rét trong đêm lạnh. Nụ cười phảng phất sương đêm. "Anh ấy thật đẹp" - cô nghĩ - "Một vẻ đẹp sương khói". Tiếng Vũ thoảng nhẹ cắt dòng suy nghĩ của cô:

- Ta dừng lại ở đầu phố kia nhé, ở đó có người bán xăng đấy, xe cô chỉ hết xăng thôi.

Cô dắt xe lại lề đường, người bán xăng lẻ đang ngủ gà ngủ gật bên chiếc ghế, cô đánh thức ông ta dậy. Người đàn ông uể oải ngáp dài, nhìn cô:

- Cháu đổ xăng hả?

- Dạ!

Người đàn ông vừa đổ xăng vào bình xe, vừa nhìn cô ái ngại:

- Cháu dắt xe xa không, đi công việc gì đêm hôm cho khổ.

- Dạ, cháu đi cùng bạn.

Người đàn ông nhét tiền vào túi:

- Ừ, chú tưởng… mà bạn cháu đâu?

Quay lại phía sau, cô nhìn xung quanh chẳng thấy ai ngoài mấy quán cóc nho nhỏ ven đường lập lờ ánh sáng nhờ mấy chiếc đèn dầu leo lét.

Cô khẽ gọi:

- Anh Vũ ơi!

Người bán xăng nhìn cô rất lâu, hỏi nhát ngừng:

- Bạn cháu... có phải... cậu con trai... mặc bộ veston tối màu không...?

- Dạ vâng!

- Cậu ấy tên Vũ..

- Dạ, chú quen anh ấy?

Người bán xăng lắc đầu, giọng run run:

- Không...

- Vậy sao…

- Thế này cháu ạ - người đàn ông kể - trong đêm nay tôi bán xăng cho cháu là người thứ ba rồi.

Người đàn ông thở dài đánh sượt rồi ngập ngừng kể:

- Cách đây không lâu, vào ngày đầu tháng, bọn đua xe gây ra một vụ tai nạn trên đường này… Lúc đó cũng vào nửa đêm... tôi đã vuốt mắt cho cậu ấy. Về sau tôi được biết cậu ấy tên là Vũ, sinh viên Mỹ thuật. Thật tội nghiệp! Cậu ấy còn trẻ quá.

Cô nhìn xuống tay mình, cảm giác giá lạnh của bàn tay Vũ vẫn còn đấy, cô run rẩy đưa bàn tay lên môi, bật khóc.

*
* *

Hà Nội vẫn đẹp và huyền diệu về đêm. Cô nhìn lên bầu trời, ngàn vì sao vẫn lấp lánh, có những ngôi sao chợt lóe sáng lướt qua bầu trời rồi vụt tắt, dù sao cũng là lãng quên một nơi này để đi về một chốn khác, cô khẽ nhủ thầm: Vì sao lang thang.

Cát
09-12-2006, 11:00 AM
Vẻ đẹp vĩnh hằng

Phan Thị Thu Loan

Dường như Nàng đã chọn tôi chứ không phải thần Gió Vayu để kể chuyện đời Nàng. Tôi dần nhận ra điều này dẫu trong lòng đôi lúc còn thoảng chút hồ nghi.

Lần đầu tiên tôi gặp Nàng là lúc đứng ngắm nữ thần Sarasvati chạm trên chiếc lá bồ đề trong Cổ viện Chàm. Nàng đến với tôi trong dáng hình vũ nữ. Bộ ngực trần nổi hẳn trên phiến đá, lồ lộ căng tròn như chưa hề trải qua sức công phá của thời gian. Những chuỗi ngọc thạch đều tăm tắp buông lơi trên ngực Nàng, trên đôi cổ tay tròn lẳn và cặp chân thon thả. Tất cả cơ bắp trên thân thể Nàng uốn cong, vặn xoắn trong thế múa Tribhanga huyền diệu.

Tôi mở tập giấy trắng, bắt đầu bức ký họa đầu tiên.

Chiều đã xuống qua cửa sổ để ngỏ, tôi thất vọng ngồi bên những trang giấy vô hồn, đầy những nét chì đậm nhạt.

Bất lực với việc khắc họa sức hấp dẫn mê hồn của Nàng vũ nữ, tôi đâm ra căm ghét chính mình. Nàng ám ảnh tôi suốt một đời cầm cọ. Dù tôi cố tìm quên bằng cách vẽ tất cả những gì chợt nhìn thấy, Nàng vẫn chẳng hề buông tha.

Trong những giấc mơ đứt đoạn, Nàng giễu cợt sự bất tài của tôi bằng vẻ kiều diễm tuyệt trần. Mặc cho tôi toan chạy trốn vào việc bôi quệt những bức tranh mỹ nghệ suốt cả ngày, đêm đến Nàng vẫn hiện ra, dẫn dắt tôi về xứ sở đầy hoa sứ trắng và những câu chuyện thần thoại cổ xưa.

Trong giấc mơ tôi, Nàng tươi tắn, trắng ngần như bông sứ. Nàng múa Apsara cùng điệu kèn Saranai réo rắt, lả lơi. Âm nhạc chắp cho Nàng đôi cánh để Nàng nhẹ nhàng, thanh thoát bay lên. Bay trên những đền đài thành quách nguy nga. Và tôi, một chàng trai si ngốc, hối hả lướt theo Nàng. Nhưng tôi bị chắn lại bởi những nóc cung điện nhọn hoắt, dày sin sít không biết chỗ nào thoát ra. Bên dưới, những tên lính mặc giáp phục, gươm giáo sáng loà tìm mọi cách túm lấy tôi. Kinh hãi nhất là chúng cũng biết bay! Tôi tỉnh dậy, mồ hôi đầm đìa, tim nhảy loi thoi trong lồng ngực, và nhẹ cả người khi biết rằng đây chỉ là một giấc mơ.

Lúc ấy đang là mùa hạ. Thu sang tôi lại gặp Nàng.

Tôi mơ thấy mình thổi kèn cho Nàng múa. Ngồi lẫn trong dàn nhạc cung đình, tôi trộm ngắm Nàng - tuyệt tác vô song của hóa công. Qua tấm sa mỏng phủ ngoài trang phục vũ nữ, thân thể Nàng lộ ra quyến rũ, nõn nà. Sau buổi luyện múa, tôi nấp trong bệ đá, hồi hộp nhìn Nàng thay đổi y trang. Bỗng tôi giật thót mình. Từ trong đêm tối một bóng đen vụt xuất hiện, ôm chặt lấy Nàng. Tôi chợt nhận ra tên hề của Thái tử, một kẻ có bộ mặt của ác quỷ Rahu. Nàng khóc lóc van xin nhưng vô hiệu. Trước khi tên khốn kiếp kịp tước đi sự trinh bạch của Nàng, tôi cầm chiếc kèn Saranai nện mạnh vào đầu hắn. Máu tươi phun ra, bắn lên cả người Nàng. Đúng lúc ấy thì tôi tỉnh dậy. Đầu óc quay cuồng. Mãi mới tin rằng đó chỉ là một cơn ác mộng.

Thấm thoắt mùa đông đã đến. Tôi chưa kịp xếp vào ký ức những giấc mơ kia thì Trời lại cho tôi cơ hội nữa để gặp Nàng. Tôi mơ thấy mình ngồi trong nhà hát xem nhạc kịch. Sân khấu tối đen. Giai điệu Chàm thần bí ngân nga. Luồng ánh sáng từ trên cao vụt rọi xuống một sản phụ quằn quại trong cơn đau sinh nở. Tôi nghe tiếng khóc của một sinh linh mới chào đời. Ánh sáng bừng lên soi rõ một bé gái linh lợi đang tập múa. Tiếng cười thơ trẻ của Nàng lanh lảnh ngân vang. Khúc nhạc chuyển dần sang màu sắc tang lễ. Lòng tôi thắt lại với nỗi lo lắng mơ hồ, không rõ nguyên do.

Đột nhiên tôi nhìn thấy Nàng bị trói chặt trên giàn hỏa. Lửa cháy rừng rực. Tiếng cầu siêu rộn lên từng hồi và kết thúc bằng tiếng thét ai oán vang động cả không trung. Không ngăn được nỗi xót thương, tôi lao vào đống lửa để được chết chung với Nàng. Sức nóng ngột ngạt của dàn hoả làm tôi đau đớn vã mồ hôi. Tỉnh dậy với trái tim nhói buốt như bị xé làm đôi, từ lúc ấy tôi không sao ngủ lại được. Chỉ thấy bồn chồn, xáo động cả tâm can.

Tôi tự hỏi Nàng là ai trong số những kiệt tác tôi từng chiêm ngưỡng? Nữ thần Tình yêu trên chiếc lá bồ đề hay người vũ nữ trong bức phù điêu? Tại sao số mệnh của Nàng lại làm tôi quan tâm đến thế?

Nàng gợi cho tôi nhớ về bông hoa sứ, ẩn trong tán lá rợp trước Cổ viện Chàm. Hoa sứ rất đẹp, cánh hoa trắng ngà viền chỉ hồng. Dẫu đã rơi xuống đất vẫn ngan ngát thơm. Tươi rói như vừa hé nở. Cầm bông sứ trong tay, tôi chợt nghĩ đến những loài hoa có sắc không hương. Tuy còn đậu nguyên trên cành, nhưng không hề toả mùi thơm. Cũng có cô gái tôi đã gặp, dẫu xinh xắn đến mấy vẫn không có được sức quyến rũ bí ẩn của Nàng, một bông hoa lìa cành đã ngót nghìn năm.

Cố gắng nắm bắt vẻ đẹp vĩnh hằng ấy, tôi dần bị chinh phục bởi sức cám dỗ mơ hồ nhưng mãnh liệt của người vũ nữ ẩn mình trong thớ đá sa thạch tưởng chừng như vô tri vô giác kia. Tôi tìm kiếm vô vọng những bức tranh, bản nhạc, điệu múa, bài thơ về vũ nữ Chàm, mong lý giải được ma lực có một không hai của Nàng.

Một sớm mùa xuân ngút ngát cỏ xanh. Tôi lần bước trên con đường hẹp ven sườn núi đến ê ẩm đôi chân. Tại Thánh địa Mỹ Sơn, tôi vui sướng gặp lại Nàng. Trên những phù điêu chạm nổi của tháp cổ rêu phong, Nàng múa Apsara trong tiếng gió thổi u u qua vách núi. Vượt lên thời gian, chiến tranh và bao nhiêu vương triều khắc kỷ, Nàng vẫn kiêu hãnh đứng đây, minh chứng cho sức sống bất tử của mình.

Tôi vẽ Nàng và thốt giật mình. Dường như có ai đó dẫn dắt cây cọ trong những ngón tay tôi. Mê man cùng cảm hứng, tôi không hề nhận ra một ngày dài sắp trôi qua. Trong phút xuất thần, tôi lẩm nhẩm đọc bài thơ về người vũ nữ Apsara cao quý. Bài thơ được cắt từ một tờ báo và cất kỹ trong cuốn sổ lưu niệm, chẳng hiểu sao tự dưng biến mất. Nhưng những dòng thơ ca tụng vẻ đẹp vĩnh cửu của Nàng đã in sâu vào tiềm thức tôi.

Trời trở gió. Đầu tôi váng vất. Nhưng đôi tay vẫn loang loáng lướt trên bức vẽ. Dường như chúng được điều khiển bởi một lực dẫn vô hình.

Trên nền toan trắng, Nàng vũ nữ dần hiện ra, ám ảnh đến ma mị, vượt lên khả năng hội hoạ ngày thường khiêm tốn của tôi. Bức họa sống động rất có hồn, chắc chắn sẽ khiến giới hoạ sĩ tài danh và người yêu tranh sửng sốt. Tôi kinh ngạc ngắm nhìn: Ơn Trời! Nàng đã nhờ tay tôi để được tái sinh! Cuối cùng, Nàng cũng đến với tôi bằng con đường riêng của mình, con đường không dễ thấu hiểu và đoán định trước của tâm linh.

Mắt tôi hoa lên khi vũ nữ Chàm thoáng cử động và từ từ tách khỏi bức tranh. Đúng lúc ngón tay Nàng chạm vào má tôi, cũng là lúc tôi lăn ra bất tỉnh…

Trong điệu nhạc thần tiên, từ một đám mây vàng óng, tôi nhìn xuống đám tang của mình. Bạn bè thân hữu nâng bức tranh tôi vẽ Nàng đi sau linh cữu. Đó là vòng hoa đẹp nhất trong cả rừng hoa tang.

Lướt qua Thánh địa, tôi thầm tạ ơn Nàng - người thiếu nữ duy nhất trên đời đã giúp tôi vẽ được Giấc mơ.

Cát
09-12-2006, 11:02 AM
Thanh toán chuyện

Đường Hải Yến

Vào Sài Gòn chưa đầy hai ngày thì chị gái điện thoại với: "nhớ C bạn chị nữa không cún yêu? giờ sống trong đó. gọi điện bắt hắn đưa đi chơi cho đỡ buồn. ghi số vào nhé, 0908… đã ghi chưa không rồi lại quên? rồi à? ừ! chị đã nói là em vào công tác một tháng. C bảo chắc dạo này em lớn và khác lắm… ".

***

Vâng.

Lớn chứ.

Khác chứ.

Hồi C bắt đầu thân với chị gái và chăm đến nhà thì em mới bảy tuổi. Bảy tuổi trong một gia đình đông chị em lại ở thời bao cấp thì sẽ chỉ như năm tuổi con nhà người.

Em, đứa con "vét" của bố mẹ, cô độc giữa thế giới của bốn chị gái mà cả bốn đã biết làm điệu, riêng hai chị lớn đã bắt đầu công khai có bạn trai đón đưa tán tỉnh.

Em, bảy tuổi vắng mẹ, vắng hết mọi điều. Cái gì cũng đủ để làm em sợ.

Đều đặn hàng tháng các chị gái lôi ra cắt cho tóc ngắn cũn, để đỡ phải chải nhiều vì tóc em dễ rối, để đỡ phải gội nhiều vì tính em sợ nước, cứ mỗi lần các chị bắt đi gội đầu là đã thấy em nước mắt ngắn dài trông rất tội. Mà các chị thì có đủ trò để vui, ít người kiên nhẫn nổi với em.

Tất cả những chuyện ấy có C làm chứng. Anh hay mắng các chị gái, dỗ dành em rồi thay họ giúp em gội đầu, tiện thì tắm luôn cho em, mà thường thì tiện vì các chị gái còn hơn cả sung sướng khi có người làm hộ cái việc mà vốn họ chẳng thích tẹo nào.

C trở thành người thân.

Em không biết C có yêu một trong các chị gái không, chỉ biết là hay đến nhà, sẵn sàng giúp các chị làm những việc nặng và thỉnh thoảng ngủ lại qua đêm trên chiếc giường nhỏ ở phòng khách trong khi tất cả các chị gái và em ngủ trong buồng, gần giường bố. Đêm nào các chị gái cũng kể đầy những chuyện ma chơi quỷ khóc dọa nhau, và đêm nào em cũng mướt mải mồ hôi vì sợ.

Em nhớ, chao ôi là em không thể quên những đêm có C ở lại em đã vui đến thế nào. Anh dỗ dành cho em hết sợ, rủ em sang ngủ cùng, tránh xa ra các chị gái vô tâm đang ôm nhau rúc rích cười. Các chị gái đồng ý ngay, đỡ chật, con bé lại ngủ hỗn, cứ xoay ngang chuyển dọc chiếm hết diện tích cái giường vốn đã quá nhỏ cho cả bốn chị em.

Em nhớ nữa là những đêm như thế thường là nóng, hình như đã luôn là mùa hè, C ôm em thật chặt, C thì thầm vào em những lời âu yếm ân cần, như trò chuyện với người lớn…

Và rồi mỗi lần C ngủ lại nhà là một lần em lạc đi trong cái cảm giác vừa sợ hãi vừa chờ đợi. Sợ đến hoảng hốt cánh tay C nóng rực mỗi lần ôm em vào lòng, sợ cảm giác run rẩy khi C thì thầm vào tai "ngoan nào, ngoan nào rồi anh yêu" những lúc giữa lưng chừng giấc ngủ, em cứng người trong một trạng thái phản ứng mơ hồ ngần ngại.

Tất cả những chuyện này em giữ riêng cho em, hả hê lẫn lo sợ hỗn độn. C thường bảo đó là điều bí mật chỉ có anh và em nắm giữ mà thôi. C cùng em sẻ chia một thế giới mà không một chị gái mỹ miều nào của em đủ sức khám phá. Bố thì dĩ nhiên là không biết và cũng chưa một lần băn khoăn.

Nhưng đó chỉ là thế giới của buổi đêm, ban ngày em trốn biệt, ban ngày khi khuôn mặt tròn tròn có vẻ hơi đầy của C không giấu lẫn vào đâu được.

***

Ở Sài gòn được một tuần thì chị gái lại gọi, giọng như kim, cười rất trong so với tuổi chị, và cười cũng rất nhiều: "cún ơi sợ tốn tiền hay sao mà không gọi cho C? chị cho hắn số của em rồi, đề phòng trường hợp em không gọi. biết tính em quá rồi mà. đến đâu cún cũng hì hụi một mình vậy mà không thấy chán sao? thế nhé, chắc C sẽ gọi đấy, hắn bảo cũng muốn gặp để xem gần hai mươi năm rồi trông em như thế nào".

Gần hai mươi năm rồi, em trông thế nào mà sẵn sàng cho lần gặp tới, nếu có?

Da vẫn nâu dễ chìm, mắt vẫn nâu lạc lõng, vẫn hay lẳng lặng một mình như không có ai, như luôn cần bất kỳ ai.

Nhưng em thì biết là em đã khác, rất khác.

Và em biết là mình sẽ không nói được với chị gái chuyện này, dù lý do của sự im lặng có giống hay khác với ngày xưa đi nữa thì em cũng quen rồi với việc im lặng.

***

Chị gái lớn rời nhà đi du học ở một nước Đông Âu, kéo theo sự ngừng xuất hiện của gương mặt ấy. Em thở phào nhẹ nhõm trong hụt hẫng mênh mông mà vào cái tuổi lên bảy lên tám em không tự giải thích được.

Hơn mười năm chị gái quay về thấy em út cao vống mà mặt mũi vẫn thường xuyên buồn thỉu, rất lạc lõng với thân hình nâu bóng khỏe mạnh đang đà phát triển. Thật là vô lý, thật là phí phạm !

Chị mắng yêu, chị cười, chị ôm vào lòng hỏi vẫn chưa yêu ai à? giời ạ! chị mười chín tuổi đi học xa nhà, có anh người Nga mê lắm. mười hai giờ đêm gõ cửa ốp lè nhè say rượu đòi ngủ nhờ. chị và cô bạn cùng phòng khóc như ri vì sợ, cực chẳng đã thú thật là em chưa ngủ với đàn ông bao giờ. biết chàng Nga ngố nói sao không? nói "ôi bọn đàn ông Việt chúng mày thật dã man, mày chừng này tuổi mà chúng nó vẫn để cho mày còn trinh…".

***

"Bọn đàn ông Việt" có "dã man" như anh bạn "Nga ngố" (sau này từng là người yêu của chị) nói trong cái lần say rượu ấy không?!

Chị gái ơi, em không trả lời được!

Lúc đó em đang học năm thứ hai trường Luật, nghĩa là vẫn chỉ đang học "Lý luận chung" và "Luật đại cương" chứ chưa học đến điều nọ điều kia trong các Bộ Luật.

Em chưa biết cách trả lời.

***

Giờ các chị gái người người đã chồng chồng vợ vợ con con, ngạc nhiên thấy em út hai bảy tuổi, xinh xinh ngoan ngoan như một bông hoa hiền mà sao khó, đến giờ vẫn chẳng có ai.

Em út trợ lý đối ngoại cho giám đốc của một tập đoàn công ty lớn, mỗi ngày tiếp xúc với cả chục đàn ông mà sao không yêu được ai, sao nhìn ai cũng không thôi liên tưởng đến "mặt đầy".

Và cách đây một tuần chị gái đã gọi thẳng "mặt đầy" đó thành tên, tuy chỉ qua điện thoại nhưng cái tên vẫn đủ sức thúc thẳng vào em, ngay giữa ngực.

***

Chị gái đã báo trước là C sẽ gọi nhưng em vẫn bất ngờ, hình như trong thâm tâm em hy vọng là C sẽ không gọi, sẽ không đời nào dám gọi.

Cú điện thoại tưởng gây xáo trộn lại mở ra một cơ hội tốt. Em hẹn gặp, hẹn dễ dàng như là đã gần hai mươi năm nay em chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này vậy.

Café gần hồ Con rùa.

Thế cũng được, cafe này đông người nhưng nhạc nhẽo không quá nhiều gào thét, một thế giới đáng ngạc nhiên giữa Sài Gòn ồn ào. Ở những nơi đông người em vốn thoải mái, ở đó không ai để ý đến em và đó là tín hiệu để em nhận ra là em đang được an toàn.

***

Em đến nơi hẹn, quần jean, áo sơ mi dài tay nhưng vẫn bị đàn ông nhìn bằng mắt kẻ trộm, mắt cướp biển, mắt đồ tể, mắt "ngoan nào rồi anh yêu"…

Lạc lõng như vẫn từng, em cố tình chần chừ như tìm kiếm. Rất nhiều khuôn mặt xung quanh, thế mà đã nhận ra ngay trong giây khắc mặt ấy, mặt tưởng như đã chưa bao giờ nhìn rõ trong những ngày hè cũ.

Những ngày hè em bận giả vờ ngủ, mắt cay xè vì bóng tối. Ngủ mà môi khô rát, mà ước được tự do di chuyển cánh tay cùng phần hông đang bị nghiến chặt, rồi nữa di chuyển đến cặp đùi gầy, để được sang một tư thế dễ chịu hơn chút. Ngủ mà thèm được nuốt đi cái cục nước bọt cứ chờ chực chận ngang cổ. Ngủ mà cảm thấy rất rõ tay C đang cuống cuồng trong cơn xúc động khó hiểu nhưng cũng đủ khiến em choáng váng. Cơ thể (dẫu bảy tuổi) đang bơi trong một trạng thái ức chế hoang mang đã tố cáo tất cả. C cảm nhận thấy sự đồng lõa trong cách bất động tuyệt vọng của em, như thông cảm với sự chịu đựng mà C đang nếm trải. Sự thông cảm mơ hồ đó đã giúp C giải thoát. Và em, cùng những đêm hè ngái ngủ, thấy như mình đang chìm dần, chìm dần, từng bộ phận một trên cơ thể lần lượt rơi vào vùng tối không lối thoát. Và thường thì em thấy mình đang trốn khỏi C, đi vào một thế giới rất riêng và rất sâu của mình em, bình yên, trống rỗng, cơ thể không gây phiền hà.

Người đàn ông này, bạn lớn của gia đình em, người không có mặt, người đã không bao giờ có một gương mặt rõ nét.

Giờ đây, ở góc quán cafe này, vẻ mặt ấy vẫn chưa có gì tỏ ra là đã phát hiện ra sự hiện diện của em, chắc chắn chưa nhận ra em. Em cứ có thể đứng đây mà nhìn nữa, quan sát thêm nữa, tìm kiếm bằng được một điểm bất thường trên khuôn mặt ấy, để thấy mình có ưu thế hơn, vậy mà tuyệt đối không thể, mọi sự có vẻ bình thường, hình như cuộc sống không quá khắc nghiệt.

***

Giới thiệu mãi C vẫn không thôi ngạc nhiên nhìn. Xin cứ ngạc nhiên, nếu không ngạc nhiên thì mới lạ. Em đặt cái túi xách nhỏ lên bàn, giũa hai người, cẩn thận lấy thuốc lá ra hút, quên không kéo khóa nắp túi vào. Chi tiết này C không để ý. C mang theo con gái nhỏ, đang mải rối rít bảo cô bé chào em, mặt xúc động thật lòng, em đoán chắc là một người khá yêu con. Con gái C tên Vi, khá trắng trẻo và dạn dĩ nhưng có vẻ ngoan. Dù sao thì cũng nên bình tĩnh, trẻ con rất dễ khiến em quay lại cảm giác bất an, cảm giác thường trực ngày xưa với các bạn gái cùng trang lứa, lạc lõng cách biệt và nhiều bí mật.

Thấy em chằm chằm vào cô bé, C cười:

“kể cũng nhanh thật đấy, hồi anh hay đến nhà chơi em cũng chỉ bằng Vi bây giờ chứ bao nhiêu”.

Rồi, sự vào cuộc rất tự nhiên, sau chừng ấy thời gian. Chừng ấy thời gian gói gọn trong cú nháy mắt rất người lớn của C, với em, một người đã lớn đối diện, chứng tỏ chưa từng có điều gì được quên.

Phán đoán này khiến em tức giận, như bị phỉnh phờ, bị phản bội thêm trăm nghìn lần nữa. Không chỉ em mà cả mấy thế hệ lớn bé già trẻ đàn ông đàn bà trong nhà em bỗng chốc như bị lột trần truồng trước mặt kẻ phản bội, kẻ phỉnh phờ. Vậy thì phải đòi lại thôi, lòng tự trọng chỉ gói gọn trong bấy nhiêu mà không dám đòi thì còn để làm gì!

Em đã học Luật năm năm, làm việc trong môi trường về Luật cũng đã gần năm năm nữa như chỉ để cho lần đòi nợ này. C đã bắt đầu và em sẽ phải kết thúc tình thế, càng hay khi con gái C được nghe, được chứng kiến, không hiểu lúc này thì về sau sẽ hiểu, chẳng vội vàng gì. Cuộc sống êm êm nhiều lúc cũng cần được xáo trộn, thế mới là công bằng giữa trẻ con này và trẻ con nọ.

Mặt C hết đỏ lại tái, môi miệng tơ hơ mở vô tình phác một hình ảnh như cười như mếu nhưng lộ vẻ thật thà. Diễn biến sự việc hoặc quá nhanh, hoặc không nằm trong tiến trình suy nghĩ của C, hoặc trong mắt C em chưa bao giờ thôi là kẻ đồng lõa, chưa một lần qua tuổi lên bảy, hoặc nữa bằng cách này hay cách khác C đã chuẩn bị cho phút giây này, ngay từ những ngày hè hừng hực nóng đó…

Dù với bất kỳ lý do gì thì lời xin lỗi cuối cùng cũng được bật ra từ C lại khiến em chững lại, ước được một lần nữa thoát khỏi em, trong bóng tối, để không còn phải tiếp tục hỏi cái câu hỏi đã được soạn sẵn trong đầu. Quan trọng gì nữa câu trả lời từ cung cách cố tình tỏ vẻ thành thật không mấy thành công, cùng lắm sẽ nhận được một sự thật chẳng hữu ích gì hơn những sự thật đã được thừa nhận khác.

Em kết thúc đợt nói bằng cử động vung tay, vẽ một hình cung thật lực. Bàn tay em đáp xuống khuôn mặt đối diện không mấy nhẹ nhàng. Cử chỉ này hoàn toàn bột phát, nó không nằm trong kế hoạch của em nhưng nó lại logic đến nỗi em không thể ngừng lại một giây mà ngạc nhiên hay chần chừ.

“Mặt đầy” vẫn chưa nói thêm được một câu, phản ứng đầu tiên là quay sang nhìn con gái.

Con bé đang nhìn em, như chực khóc, mặt công khai lộ vẻ sợ hãi và uất ức.

Em không quan tâm, em đang phải quan sát xung quanh. Cả cái quán café như ngưng thở trong một tích tắc đầy hân hoan vì được chứng kiến một câu chuyện hứa hẹn nhiều kịch tính, rồi lại rơi ngay vào cái vẻ văn minh công cộng - văn minh thờ ơ.

Vậy là không ai nhìn em nữa, ít ra thì không còn ai công khai nhìn. Em đang an toàn. Không có gì nguy hiểm, cũng không có vẻ gì gọi là hiểm nguy sẽ xảy ra.

Nhưng em biết là tình tiết này sẽ được kể lại, như một câu chuyện làm quà, từ người này qua người kia, kèm theo những nhận xét giễu cợt. Cảnh cái gã đàn ông ngồi giơ mặt cho một cô gái tát, thật không hay ho một chút nào! Dẫu có thể người biết người không tên gã đàn ông hoặc tên cô gái kia nhưng nó sẽ là một câu chuyện tồn tại lâu dài, ngoài ý muốn của chủ thể, rồi mỗi lần dù chỉ vô tình nghe nhắc đến tình cảnh này hoặc một tình cảnh tương tự thì “mặt đầy” ấy sẽ nhận ra rằng muốn hay không muốn cũng đang bị tát thêm lần nữa .

Vậy là quá khứ được thanh toán đàng hoàng rồi nhé, không ai nợ ai nữa nhé!

Em duyên dáng một cách tự nguyện, đứng dậy rời khỏi quán, ra đến chỗ đậu xe mới dừng, tắt máy ghi âm đã được bật nốt on và cẩn thận giấu vào túi xách ngay từ đầu, túi xách lại không kéo khóa, lại được để ở vị trí thuận lợi.

***

Chị gái vẫn gọi điện giọng kim: “gặp nhau rồi à? vui không? C có khen em xinh không? chị đã bảo với hắn ngay từ đầu là gặp em sẽ rất ngạc nhiên vì em giờ khác hẳn, là người lớn rồi chứ không phải như con ốc sên, con cá mắm ngày trước nữa đâu!”

Ôi chị gái, chị cười giọng kim vô tư thế kia!

Em là người lớn rồi chị nhỉ? Vậy mà sao em đã thỉnh thoảng quên mất tuổi của mình?!

Em đã từng hai bảy tuổi đội lốt một hình hài ốc sên, cá mắm bảy tuổi, trong những đêm hè bỏng rẫy ngày xưa. Và giờ đây em hai bảy tuổi lại quay về thời bảy tuổi, giữa thành phố không có mùa đông này, không nhìn vào đôi mắt sợ hãi và uất ức của cô bé cùng trang lứa, đánh một đòn chí mạng vào cái tuổi thơ rồi sẽ sớm còi cọc kia.

Vậy là chẳng ai nợ ai nữa rồi nhé!

Vậy là quá khứ được thanh toán đàng hoàng rồi nhé!

Chúng ta, người lớn đã luôn đúng khi tin rằng cứ là trẻ con thì sẽ không biết gì.

Có phải thế không, chị gái giọng kim thân yêu của em!

Cát
09-12-2006, 11:09 AM
Nhắn tin

Phan An Tuân

Tâm có hai cái simcard điện thoại. Lúc nào Tâm cũng mang theo trong người cả hai cái, một cái lắp sẵn trong điện thoại, một cái bọc trong phong bì để ở túi áo ngực. Thời buổi này có hai cái simcard thật ra cũng bình thường như một sinh viên có hai cái quần bò.

Tâm ngồi ở quán cà phê uống một đen nóng, hút ba điếu ba số lẻ như mọi khi và nhắn tin.

Tâm tháo simcard

Tâm soi mình qua cốc cà phê. Cặp mắt Tâm buồn kinh khủng. Tâm bấm máy nhắn lại: “Cần phải làm gì đó”.

Trong khi chờ để làm gì đó mà Tâm vẫn chưa biết là làm gì, Tâm chuyển từ quán cà phê sang quán bia hơi Hà Nội 100% nguyên chất. Cô gái phục vụ bê ra ngay cho anh một bia, một lạc như mọi khi.

Tâm tháo simcard Connecting People. Quán bia hơi Hà Nội 100% nguyên chất ồn ào đến mức chính mình cũng không thể nghe thấy mình nói gì. Tâm nghĩ: “Lẽ ra phải đổi là: BIA HÀ NỘI – Connecting People”.

Tâm uống một hơi gần cạn cốc bia. Cô phục vụ nhanh nhảu bê ra ngay cho Tâm một cốc bia mới. Tâm muốn nhắn tin cho cô phục vụ này là: “Hôm nay anh không uống nhiều bia”. Nhưng để nhắn tin cần có số điện thoại di động của cô, mà không phải ai cũng có điện thoại di động.

“Cần phải làm gì đó”…Tâm nhắn tin đi: “Suy cho cùng, cuộc đời này là của tôi, tôi muốn làm gì thì làm”.


Tâm soi mình qua cốc bia đã tan hết bọt. Cặp mắt Tâm buồn kinh khủng. Tâm nhắn tin đi: “Làm ơn cho vay một viên ****** để thấy vui lên”.

Để vui lên, từ quán bia hơi Hà Nội 100% nguyên chất Tâm chuyển sang hàng Net - tên nguyên bản là: “Điểm truy cập Internet”. Tâm vào chat webcam (vừa tán gẫu qua mạng vừa nhìn hình ảnh, cử động của nhau) với một cô gái trông đẹp đến mức trong lúc chat Tâm không dám văng tục như mọi khi. Cô gái hình như không mặc áo. Tâm gõ vào máy một lời tán tụng: “Khi không mặc áo, em đẹp nguyên bản. Em họ Trần à?”. Cô gái cười, qua webcam Tâm không nhìn rõ mắt cô. Tâm hỏi: Where are you?. Cô gái trả lời: I am in love. (Câu trả lời kiểu này đã được dùng đi dùng lại nhiều lần rồi). Tâm gõ bàn phím: “Khi in love người ta không mặc áo như thế à?”. Cô gái cười, qua webcam Tâm không nhìn rõ mắt cô.

Tâm soi mình qua

“My Sweet, anh nghĩ về em nhiều lắm”.

“Anh đừng nghĩ nhiều như thế, có thể ốm đấy”…

Tâm giở máy điện thoại NOKIA - Connecting People ra gọi liên tục cho ai đó. Tâm giở máy điện thoại NOKIA - Connecting People ra nhắn tin.

Tâm tháo simcard

Một lúc sau có tiếng “tít…tít”. Tâm giở điện thoại ra: “Có 10 cuộc gọi nhỡ”. Có 10 cuộc gọi nhỡ nhưng chỉ có 1 số mới, số điện thoại của Sweet. “Có 1 tin nhắn mới”. Tâm mở tin nhắn: “Press Ctrl+Alt+Del to restart your life”.