Trang 3/4 đầuđầu 1234 cuốicuối
kết quả từ 17 tới 24 trên 28

Ðề tài: [TD] Bá Tước Dracula - Ác Quỉ Dracula

  1. #17
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default



    Chương 16

    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD - TIẾP THEO



    húng tôi trèo qua khu tường thấp để vào nghĩa địa lúc chỉ mới mười hai giờ kém mười lăm. Trời rất tối, thỉnh thỏang mới le lói một chút ánh trăng xuyên qua viền của những đám mây đen dày trôi thẳng cắt ngang bầu trời. Chúng tôi đi sát bên nhau, và Van Helsing hơi nhích lên trước một chút để dẩn đường. Khi đến gần ngôi mộ tôi luôn trông chừng Arthur, bởi vì tôi sợ rằng tại cái nơi đầy rẫy những kỷ niệm đau buồn như thế này sẽ khiến cậu ấy xúc động, nhưng cậu ấy kiềm chế mình khá tốt. Tôi nghĩ rằng câu chuyện bí hiểm đang diễn ra đã giúp cậu ấy kiềm chế được sự đau buồn.
    Giáo sư mở khóa, và nhận thấy sự lưỡng lự theo bản năng của chúng tôi, ông ấy giải quyết vấn đề bằng cách đi vào trước. Bọn tôi đi theo, và ông ấy đóng cửa lại. Ông nâng cái đèn lồng lên và chỉ về phía quan tài. Arthur ngập ngừng bước tới trước. Van Helsing nói với tôi, "Anh đã ở đây với tôi hôm qua. Có đúng là cô Lucy đã nằm trong đây không?"
    "Đúng vậy."
    Giáo sư quay về phía những người còn lại, và nói, "Các anh đã nghe rồi đấy, và hẳn là không còn người nào vẩn chưa tin tôi."
    Ông lấy cái nạy đinh là và một lần nữa bật nắp quan tài. Arthur bước đến, trắng bệch, nhưng im lặng. Khi nắp quan tài được bật lên cậu ấy bước thẳng đến. Cậu ấy không biết rằng còn một cái quan tài chì, hoàn toàn không hề nghĩ đến nó. Khi cậu ấy trông thấy vết rách trên quan tài, trong một thóang máu dồn lên mặt cậu, nhưng nhanh chóng lặng xuống, và cậu ấy vẩn trông trắng bệch một cách đầy kinh hãi. Cậu ta vẩn im lặng. Van Helsing đẩy mạnh cạnh quan tài, tất cả chúng tôi nhìn vào và bật lùi lại.
    Quan tài trống rỗng!
    Không ai nói lên lời nào trong nhiều phút. Sự im lặng được phá vỡ bởi Quincey Morris, "Giáo sư, tôi trả lời ngài đây. Cái tôi muốn bây giờ là lời nói của ngài, tôi không muốn hỏi một câu hỏi rất bình thường này, tôi không muốn xúc phạm ngài bằng sự nghi ngờ, nhưng đây là một sự bí ẩn vượt lên vấn đề danh dự hay bị xúc phạm. Có phải do ngài làm không?"
    "Tôi xin thề với anh với tất cả sự long trọng của mình rằng tôi không hề di chuyển hoặc chạm đến cô ta.
    Những chuyện xảy ra là như thế này. Hai đêm trước bạn tôi Seward và tôi đến đây, với một mục đích tốt, hãy tin tôi đi. Tôi mở nắp quan tài, trước đó nó vẩn được niêm kín, và thấy một tình trạng giống như chúng ta thấy bây giờ, trống rỗng. Sau đó chúng tôi chờ đợi, và thấy một bóng trắng đi qua những hàng cây. Ngày tiếp theo chúng tôi đến đây vào ban ngày và thấy cô ta nằm đây. Có đúng thế không, bạn John."
    "Đúng."
    "Tối hôm đó chúng tôi đã đến kịp thời. Lại thêm một đứa trẻ bé bỏng nữa bị mất tích, và chúng tôi đã tìm thấy nó, tạ ơn Chúa, nó không bị thương tích gì nghiêm trọng. Tối hôm qua tôi đến đây trước khi mặt trời lặn, vì khi mặt trời lặn những kẻ Chưa Chết có thể cử động được. Tôi đợi cho đến khi mặt trời mọc, nhưng không thấy điều gì.
    Chuyện xảy ra như vậy bởi vì tôi đã đặt tỏi, là thứ mà mà những kẻ Chưa Chết không thể chịu nổi, lên khóa cửa, và kèm theo đó là những thứ khác mà chúng lánh xa. Tối hôm qua không có cuộc di cư nào, và đến tối nay, trước khi mặt trời lặn tôi đã lấy tỏi và những thứ khác đi. Và vì vậy chúng ta thấy một cái quan tài trống rỗng. Nhưng hãy cùng chịu đựng với tôi. Đến bây giờ đã có nhiều chuyện lạ xảy ra. Hãy ra ngòai cùng đợi với tôi, đừng nghe và đừng nhìn gì, và sẽ còn nhiều chuyện lạ nữa sẽ xảy đến. Vì thế,"nói đến đây ông ta khép tấm che đèn lại, "bây giờ chúng ta sẽ đi ra." Ông ta mở cửa, và chúng tôi đi ra, ông ta đi sau cùng và khóa cửa sau lưng ông.
    Ôi! Sau khi ra khỏi khu hầm mộ kinh khiếp ấy, không khí ban đêm thật là trong lành và tinh khiết làm sao.
    Thật êm dịu khi ngắm nhìn những đám mây rượt đuổi nhau, những tia sáng mặt trăng lần lượt rọi qua những đám mây khi chúng trôi qua rồi lại lướt đi, giống như những niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống con người.
    Thật là ngọt ngào khi được hít thở không khí trong lành, không có mùi vị tởm lợm của cái chết và sự thối rữa. Thật là đầy nhân tính khi nhìn thấy những tia nắng đỏ chiếu qua bầu trời dưới những ngọn đồi khi nghe thấy những tiếng động ầm ì báo hiệu cuộc sống của thành phố lớn kia. Mỗi thành phần của nó lại bắt đầu cuộc hành trình trang nghiêm và chiến thắng. Arthur im lặng, và tôi có thể nhận thấy cậu ta đang cố tìm hiểu ý nghĩa thực sự của những sự kiện bí ẩn này. Tôi tương đối kiên nhẫn, và trong thâm tâm đang dần xua đi sự nghi ngờ và chấp nhận kết luận của Van Helsing.
    Quincey Morris thản nhiên với cái vẻ của một người chấp nhận hết thẩy mọi chuyện, và chấp nhận chúng một sự dũng cảm lạnh lùng, chấp nhận hết mọi may rủi có thể xảy ra. Do không thể hút thuốc, cậu ta tự cắt một mẩu lớn thuốc và bắt đầu nhai. Còn với Van Helsing, ông ta đang tiến hành những công việc bất tận. Trước tiên ông ta lấy từ trong túi ra một xấp những cái bánh xốp mỏng, nhìn giống bánh bích quy, được đặt cẩn thận trong một cái khăn ăn. Sau đó ông ta lấy ra hai nhúm nhỏ trắng, nhìn giống như bột nhão hoặc mattit. Ông trộn chúng bằng hai tay cho đến khi chúng trở thành một khối lớn giữa hai tay ông.
    Tiếp đó ông đặt chúng trong một mảnh vải dài, bắt đầu rãi chúng trên kẽ nứt giữa cánh cửa và đặt nó trong ổ khóa. Tôi rất khó hiểu về những chuyện này, và tiến lại gần , hỏi xem ông đang làm gì. Arthur và Quincey cũng tiến lại gần, vì họ cũng rất tò mò.
    Ông ta trả lời, "Tôi đang khóa mộ lại để cho kẻ Chưa Chết không thể vào."
    "Và đó thật sự là điều ông sẽ làm ở đấy à?"
    "Chính vậy."
    "Và ông đang dùng cái gì để thực hiện công việc vậy?" Lần này thì đến lượt Arthur nêu câu hỏi. Van Helsing nhấc mũ lên khi trả lời.
    "Bánh thánh. Tôi mang nó đến từ Amsterdam. Tôi có được sự xá tội."
    Câu trả lời đã làm kinh hòang ngay cả kẻ nghi ngờ nhất trong chúng tôi, và chúng tôi đã đặc biệt cảm thấy rằng giáo sư đã có một mục đích vô cùng nghiêm túc, cái mục đích đã khiến ông phải dùng đến một vật linh thiêng như vậy. Trong sự im lặng thành kính chúng tôi ẩn mình trong những khỏang đất quanh ngôi mộ, tránh tầm nhìn của những ai đang đi tới. Tôi cảm thấy thương hại những người khác, đặc biệt là Arthur. Tôi đã được làm quen trước qua những chuyến viếng thăm trước đây để quan sát nơi kinh dị này, và chính tôi, người trước đây một giờ còn bác bỏ những sự chứng minh, cảm thấy tim mình đang đập thình thịch.
    Chưa bao giờ những cây bách, những cây thủy tùng, hay những cây bách xù lại biểu hiện một vẻ tang tóc u ám như vậy. Chưa bao giờ những cây cối hay bãi cỏ lại rung động xào xạc một cách đáng ngại như thế. Chưa bao giờ những cành cây lại rung động một cách đầy bí ẩn, và chưa bao giờ những tiếng sói tru từ xa lại vẳng đến chúng tôi trong đêm vắng những âm điệu đầy linh tính kinh khiếp đến như vậy.
    Đó là một khỏanh khắc dài trong im lặng, nặng nề, đau đớn và trống rỗng, rồi chợt giáo sư thốt lên đầy tinh nhạy "S-s-s-s!" Ông ta chỉ về phía xa trên con đường lớn trồng hai hàng thủy tùng, và chúng tôi thấy một bóng trắng đang đi đến, một bóng trắng lờ mờ, đang ôm một cái gì đen đen ở ngực nó. Bóng trắng ngừng lại, và đúng lúc đó ánh trăng lại chìm vào một đám mây lớn đang phủ đến, và trong vùng tranh tối tranh sáng nổi lên một người phụ nữ tóc sẫm, mặc quần áo liệm trong đám tang.
    Chúng tôi không thể nhìn rõ mặt, nhưng khi nó đang rẽ xuống chúng tôi nhìn thấy một đứa trẻ tóc sẫm. Rồi nó dừng lại một lúc, và chúng tôi nghe một tiếng kêu khẽ rung động, giống như một đứa bé khẽ kêu lên trong giấc ngủ, hoặc như một con chó đang nằm ngủ trước đám lửa và mơ màng. Chúng tôi bắt đầu bước tới, nhưng cánh tay cảnh cáo của giáo sư vung lên, chúng tôi thấy ông vẩn đứng sau những cây thủy tùng, giữ chúng tôi lại. Và chúng tôi thấy cái bóng trắng tiếp tục đi thẳng đến trước.
    Bây giờ nó đã đến gần và chúng tôi có thể nhìn thấy rõ, và ánh trăng vẩn còn đủ sáng. Tim tôi lạnh tóat như băng giá, và tôi có thể nghe thấy tiếng Arthur thở hổn hển, khi chúng tôi nhận ra những dáng vẻ của Lucy Westenra. Phải, Lucy Westenra, nhưng đã thay đổi vô cùng. Vẻ dịu dàng đã trở nên lạnh lùng, độc ác vô cảm, và nét tinh khiết đã trở nên phóng đãng khêu gợi.
    Van Helsing bước ra, và theo sự ra hiệu của ông, cả bọn chúng tôi cũng bước ra. Cả bốn chúng tôi đứng thành một hàng trước cửa mộ. Van Helsing nâng cái đèn lên, và bật sáng. Khi ánh sáng chiếu thẳng vào mặt Lucy, chúng tôi có thể thấy đôi môi nàng đỏ thẩm máu tươi, chúng chảy ròng ròng xuống cằm nàng và đọng lại thành thành vũng trên cái áo chòang bằng vải batit của người chết.
    Chúng tôi rùng mình kinh sợ. Tôi có thể thấy ánh đèn rung lên chứng tỏ ngay cả thần kinh thép của Van Helsing cũng phải sờn. Arthur đứng ngay cạnh tôi, và nếu tôi không chộp kịp cánh tay của cậu ta và giữ cậu đứng yên, thì hẳn cậu đã ngã lăn rồi.
    Khi mà Lucy, tôi gọi cái vật đang đứng trước chúng tôi là Lucy vì nó mang hình hài của nàng, trông thấy chúng tôi, nàng lùi lại với một tiếng gầm gừ giận dữ, giống như một con mèo thình lình bị đánh thức, và mắt nàng chiếu thẳng về phía chúng tôi. Mắt Lucy bây giờ trông thật rực rỡ, nhưng nó u tối và như lấp đầy bởi những ngọn lửa từ địa ngục, thay cho đôi mắt tròn dịu dàng trong trắng và chúng tôi từng biết. Vào lúc này, những tình yêu còn sót lại trong tôi đã hoàn toàn chuyển thành sự căm ghét và ghê tởm. Nếu có thể giết được nó, tôi sẳng sàng làm với một niềm vui hoang dại.
    Khi nó nhìn, mắt nó sáng rực lên thứ ánh sáng xấu xa, và khuôn mặt trở nên nhăn nhúm với một nụ cười khêu gợi. Ôi, Chúa ơi, điều này làm tôi rùng mình đến nhường nào khi phải nhìn nó! Với một cử động cẩu thả, nó ném xuống bãi cỏ, với vẻ tàn nhẫn như một con quỷ, đứa bé mà từ nãy đến giờ nó vẩn giữ chặt trước ngực, gầm gừ như một con chó gầm gừ trước cục xương. Đứa bé khóc thét lên, và nằm rên rỉ. Hành động tàn nhẫn kia khiến Arthur khẽ gầm gừ trong cổ họng. Khi nó đi đến trước cậu ta với đôi tay dang ra và nụ cười phóng đãng thì cậu ấy bước lùi lại và lấy tay che mặt.
    Nó vẩn bước tới, tuy nhiên, với một dáng vẻ uể ỏai, yêu kiều đầy khêu gợi, lên tiếng, "Đến với em, anh Arthur. Hãy bỏ lại những thứ khác và đến với em. Đôi tay em đang khát khao đợi anh. Đến đây nào, anh yêu, và chúng ta sẽ cùng nhau yên nghỉ. Đến đây, chồng em, hãy đến đây nào!"
    Trông giọng nói của nó có một vẻ ngọt ngào ma quái, nghe như tiếng kính đang vỡ vụn, nó vang thẳng vào óc chúng tôi đến nỗi thậm chí ai nghe những lời này thì lại muốn truyền nó cho người khác.
    Còn về phần Arthur, cậu ta giống như đang bị thôi miên, đưa hai tay lên mặt, mở rộng vòng tay ra. Nó nhảy đến vòng tay của cậu ta ngay, nhưng Van Helsing vội phóng đến và đặt giữa họ cái thánh giá nhỏ bằng vàng của ông. Khi chạm phải cây thánh giá, nó lùi lại, vẻ mặt nhăn nhúm một cách đột ngột, chứa đầy giận dữ, lướt qua ông ta như thể muốn đi vào ngôi mộ.
    Tuy nhiên, sau khi đi được một hai bước về phía mộ, nó ngừng lại, như thể bị bắt giữ bởi một lực không thể chống lại được. Đoạn nó quay lại, và khuôn mặt nó được chiếu rọi bởi ánh trăng và ánh đèn, lúc bấy giờ vẩn cho thấy không hề run sợ trước sức mạnh của Van Helsing. Chưa bao giờ tôi thấy một vẻ mặt thất bại đầy hiểm ác, và tôi tin là cũng chẳng bao giờ tôi thấy lại một lần nữa cái khuôn mặt chết ấy.
    Những sắc màu xinh đẹp đã chuyển thành thâm tím, đôi mắt như muốn chiếu ra những tia lửa của địa ngục, lông mày bây giờ cuộn lại như muốn cuốn vào da thịt, nơi ẩn náu những con rắn của Medusa, và đôi môi nhuộm máu xinh đẹp kia mở rộng ra, giống như những mặt nạ giàu cảm xúc của Hy Lạp và Nhật Bản. Nếu như có một khuôn mặt nào đó mang ý nghĩa của cái chết, nếu như một cái nhìn nào đó có thể giết người, thì chính lúc này đây, tôi đang nhìn thấy nó.
    Và trong khỏang nữa phút dài tưởng chừng như vô tận đó, nó đứng giữa cái thánh giá được nâng lên và những vật linh thiêng đang khóa chặt lối đi của nó.
    Van Helsing cắt đứt sự im lặng bằng cách hỏi Arthur, "Hãy trả lời,ôi, bạn tôi! Tôi có thể thực hiện công việc được chứ?"
    "Hãy làm những gì ông muốn, bạn tôi. Hãy làm những gì ông muốn. Sẽ không bao giờ có những việc nào kinh dị như thế này đâu." Và cậu ta gầm gừ trong tâm tưởng.
    Quincey và tôi cùng lúc tiến về phía cậu ấy, và chộp lấy tay cậu ta. Chúng tôi có thể tiếng động lách cách khi Van Helsing đặt cái đèn xuống. Tiến lại gần ngôi mộ, ông ấy bắt đầu lấy ra từ một kẽ nứt một số thứ bột linh thiêng mà ông đã đặt vào đấy. Và tất cả chúng tôi đều kinh ngạc hãi hùng khi thấy lúc ông đứng lùi lại, người phụ nữ, với hình hài con người như chúng tôi, đã lướt xuyên qua kẽ nứt mà ngay cả việc nhét một lưỡi dao vào cũng là khó. Chúng tôi cùng cảm thấy vui mừng nhẹ nhõm khi chúng tôi thấy giáo sư bình thản trát lại kẽ nứt trên cửa bằng một nhúm bột.
    Khi mọi việc đã xong, ông ẵm đứa trẻ lên và nói, "Đi nào, các bạn. Chúng ta sẽ không làm gì hơn cho đến ngày mai. Có một đám tang lúc giữa trưa, và tất cả chúng ta sẽ đến đây không lâu sau đó. Bạn bè của người chết sẽ đi khỏi vào khỏang hai giờ, và khi người gác cổng khóa cổng chúng ta sẽ có mặt. Lúc đó chúng ta sẽ làm thêm một số việc, nhưng không giống như đêm nay. Còn về đứa trẻ này, thì nó không bị thương tích gì nhiều, và đến tối mai thì nó sẽ ổn. Giống như đêm trước, chúng ta sẽ để nó ở nơi cảnh sát có thể tìm thấy nó, và bây giờ thì về nhà."
    Đến gần Arthur, ông bảo,"Bạn Arthur của tôi, anh đã trải qua một thử thách đầy đau đớn, nhưng sau này, khi anh nghĩ lại, anh sẽ cảm thấy việc này cần thiết như thế nào. Bây giờ anh đang cảm thấy đau đớn tận tâm can, con trai của ta. Nhưng đến ngày mai, xin Chúa phù hộ, anh sẽ vượt qua được nó, và cảm thấy xoa dịu được cõi lòng. Vì vậy đừng quá đau xót. Từ đây đến lúc đó tôi sẽ không yêu cầu anh tha thứ cho tôi đâu."
    Arthur và Quincey đi về nhà với tôi, và chúng tôi cố an ủi nhau trên đường về. Chúng tôi để đứa trẻ ở một chổ an tòan, và cảm thấy rất mệt mỏi. Vì vậy cả bọn đã lăn ra ngủ, một giấc ngủ không hơn không kém.
    Ngày 29 tháng Chín, đêm khuya. - Trước mười hai giờ một chút, cả ba chúng tôi, Arthur, Quincey Morris và tôi, được giáo sư gọi đi. Thật là lạ khi để ý thấy rằng giống như có một sự thỏa thuận chung, cả bọn chúng tôi đều vận đồ đen. Tất nhiên, Arthur mặc đồ đen, vì cậu ấy đang chìm sâu trong tang tóc, nhưng những người còn lại trong chúng tôi cũng mặc nó theo bản năng.
    Chúng tôi đi đến khu nghĩa địa vào khỏang một giờ rưỡi, và đi dạo quanh nó, chú ý tránh gặp những nhân viên, và khi những nhân viên tang lễ hòan tất công việc của họ và người gác nghĩa trang tin là mọi người đã đi cả, ông ta khóa cổng và chúng tôi đã có mặt đúng chỗ. Thay vì mang theo cái túi nhỏ đen thường lệ, Van Helsing mang theo bên mình một cái túi bằng da dài, giống như một cái túi chơi cricket. Nó rõ ràng là rất nặng.
    Khi chúng tôi chỉ còn lại một mình và nghe thấy những bước chân sau cùng đã chìm hẳn nơi xa trên đường, theo thỏa thuận sẳn, chúng tôi đi theo giáo sư đến bên mộ. Ông ta mở khóa cổng, và chúng tôi đi vào, đóng cổng phía sau mình. Đoạn ông lấy từ trong túi ra một cái đèn, treo lên, rồi đốt lên hai cái nữa, hòa chúng lại với nhau, và ông đã có đủ ánh sáng để làm việc. Khi ông một lần nữa bật nắp quan tài của Lucy, tất cả chúng tôi nhìn vào, Arthur run rẩy như một cây dương, và chúng tôi nhìn thấy thi hài nằm đó, tỏa ra một vẻ đẹp lộng lẫy của cái chết. Nhưng bây giờ trong tim chúng tôi không còn tình yêu nữa, không còn gì ngoại trừ sự kinh tởm đối với cái Vật xấu xa ẩn nấp trong hình hài của Lucy mà không có tâm hồn của nàng. Tôi thậm chí có thể thấy mặt Arthur đanh lại khi cậu ấy nhìn vào.
    Ngay sau đó cậu ấy hỏi Van Helsing, "Đây có thật là thể xác của Lucy, hay chỉ là một con quái vật ẩn dưới hình hài của nàng?"
    "Đây là thân xác của cô ta, nhưng vẩn còn chưa phải là như vậy. Hãy đợi một lát, rồi anh sẽ được thấy cô ta như trước kia."
    Nó nằm đó giống như một cơn ác mộng của Lucy, đôi hàm răng nhọn, đôi môi khêu gợi nhuộm máu khiến ai nhìn thấy cũng phải rùng mình, một sắc diện vô hồn đầy nhục dục, giống như một sự chế nhạo ma quỷ đối với Lucy dịu dàng trong trắng. Van Helsing, với sự ngăn nắp quen thuộc, đang lấy từ trong túi ra những thứ cần thiết và sửa soạn để sử dụng chúng. Đầu tiên ông lấy ra một cái mỏ hàn và một số hợp kim để hàn, sau đó là một cái đèn dầu nhỏ đã cạn, khi treo nó trên góc mộ, thì khí đốt lên một ngọn lửa màu xanh với sức nóng mãnh liệy, rồi tiếp theo là bộ dao mổ của ông, ông cầm chúng trong tay, và cuối cùng là một cái cọc tròn bằng gỗ, dày khỏang hai phân rưỡi hoặc ba phân, và dài khỏang ba bộ.
    Một đầu của nó đã được luyện trong lửa và vọt nhọn. Cùng với cây cọc này là một cây búa nặng nề, giống như thứ mà những bà nội trợ dùng trong hầm than để đập nhỏ chúng ta. Đối với tôi, thì bất kỳ sự chuẩn bị nào của bác sĩ cho công việc đều mang cho tôi sự hăm hở và khuyến khích, nhưng những vật vừa rồi lại khiến cho Arthur và Quincey thất kinh. Tuy nhiên cả hai đều cố giữ can đảm, đứng im lặng và chờ đợi.
    Khi tất cả đã sẳn sàng, Van Helsing nói,"Trước khi chúng ta làm bất kỳ chuyện gì, tôi muốn nói với các anh điều này. Nó dựa trên hiểu biết và kinh nghiệm của người xưa và của những ai đã từng nghiên cứu về năng lực của những người Chưa Chết. Khi chuyển sang trạng thái này, thì họ sẽ chịu ảnh hưởng của một lời nguyền rủa và trở thành bất tử. Chúng không bao giờ chết, do vậy từ thế hệ này sang thế hệ khác, số nạn nhân sẽ gia tăng và số lượng ma quỷ trên trái đất sẽ ngày càng nhiều.
    Và cái vòng tròn ấy sẽ càng mở rộng, giống như những vòng tròn sóng khi một hòn đá ném xuống mặt nước. Bạn Arthur, nếu anh hôn cô ta trước khi Lucy chết, hoặc một lần nữa, khi đêm qua nếu anh mở rộng vòng tay cho cô ta, thì đến lượt anh, sau khi chết, sẽ trở thành "nosferatu " , giống như ở miền Đông châu Âu vẩn gọi, và càng lúc những kẻ Chưa Chết này sẽ càng cho chúng ta đắm chìm trong kinh khiếp. Những đứa trẻ mà cô ta hút máu lúc này vẩn chưa bị tổn thương nhiều, nhưng nếu cô ta tiếp tục ở trạng thái Chưa Chết này thì càng lúc chúng càng mất máu, với năng lực của mình, cô ta sẽ khiến chúng đi theo mình, và cô ta càng có dịp hút máu chúng bằng đôi môi kinh khiếp kia.
    Nhưng nếu cô ta chết thực sự, thì tất cả sẽ chấm dứt. Những vết thương nhỏ xíu kia sẽ biến mất, và chúng sẽ trở lại vui đùa mà chẳng biết gì về những gì đã xảy ra. Nhưng điều vui mừng hơn tất cả là, khi mà kẻ Chưa Chết này được yên nghỉ trong một cái chết thật sự, thì tâm hồn của cô tiểu thư tội nghiệp mà chúng ta hằng thương yêu sẽ được tự do trở lại. Thay vì làm những công việc độc ác vào ban đêm và trở nên ngày càng đê tiện khi tiêu hóa chúng vào ban ngày, cô ta sẽ được an nghỉ tại nơi ở của những thiên thần. Vì vậy, bạn ạ, nó sẽ là một cánh tay ban phúc đánh một đòn cuối cùng để giải thóat cho cô ta.
    Tôi sẳn sàng làm điều đó, nhưng giữa chúng ta, ai là người xứng đáng hơn để làm điều này? Có vui không khi nghĩ về những chuyện nơi đây trong sự im lặng của những đêm không ngủ, Chính cánh tay ta đã đưa nàng trở lại với những vì sao. Đấy là cánh tay người yêu nàng nhất, cánh tay mà chính nàng đã chọn, và cũng là cánh tay để nàng lựa chọn?'Hãy nói với tôi cái người xứng đáng ấy trong số chúng ta?"
    Tất cả chúng tôi đều nhìn Arthur. Cậu ấy cũng đã nhận thấy, sự tử tế vô bờ bến của cái đề nghị chính cậu ấy sẽ đảm nhận việc phục hồi Lucy cho chúng tôi trong những kỷ niệm linh thiêng và báng bổ. Cậu ấy bước thẳng lên và nói một cách can đảm, dù tay cậu ấy run lên, và khuôn mặt cậu ấy trắng bệch như tuyết, "Người bạn thật sự của tôi, từ tận cùng trái tim tan nát của tôi, tôi xin cám ơn ngài. Hãy nói với tôi những gì tôi phải làm, và tôi sẽ làm không chút do dự!"
    Van Helsing đặt tay lên vai cậu ta, và nói, "Chàng trai can đảm! Chỉ cần một khỏanh khắc can đảm, và tất cả sẽ qua. Cái cọc nhọn phải được đóng xuyên qua cô ta. Đó là một thử thách kinh khiếp, nhưng tôi không đánh lừa anh đâu, nó sẽ chỉ là một phút giây ngắn ngủi, và rồi anh sẽ vui mừng nhiều hơn so với vết thương khủng khiếp này. Từ ngôi mộ tăm tối này anh sẽ có thể ưỡn thẳng người mà đi trong không khí trong lành. Nhưng anh không được do dự khi anh bắt đầu. Hãy chỉ một điều rằng chúng tôi, những người bạn thật sự của anh, đang ở quanh anh, và chúng tôi đều cầu nguyện cho anh trong mọi lúc."
    "Hãy nói tiếp," Arthur khàn giọng."Nói cho tôi biết tôi phải làm gì."
    "Hãy cầm lấy cây cọc trong tay trái của anh, đặt mũi nhọn của nó ngay trái tim, và cầm cây búa trong tay phải của anh. Rồi chúng tôi sẽ bắt đầu cầu nguyện cho người chết, tôi sẽ đọc nó, tôi có một quyển kinh đây, và những người khác sẽ đọc theo, thì anh hãy đóng xuống nhân danh Chúa, đó là những điều tốt đẹp mà chúng ta sẽ làm cho người chết mà chúng ta hằng yêu thương và lúc đó kẻ Chưa Chết sẽ bị tiêu diệt." Arthur nắm lấy cái cọc và cái búa, và khi cậu ấy chuẩn bị tinh thần để hành động, tay cậu ấy chẳng hề run rẩy hoặc lo sợ nữa. Van Helsing mở cuốn kinh và bắt đầu đọc, và Quincey và tôi cũng đọc theo.
    Arthur đặt cây cọc lên chỗ trái tim, và tôi có thể thấy nó hằn lên làn da trắng. Rồi cậu ấy lấy hết tinh thần và đóng xuống.
    Các vật trong quan tài dãy dụa, và những tiếng rên rỉ gớm giếc, đọng máu vang lên từ cái miệng đỏ mở rộng.
    Thân hình nó quằn quại và run rẩy và cuộn lại trong một cơn vật vã hoang dại. Đôi hàm răng trắng nghiến vào nhau đến nỗi cắn vào môi, và miệng nó bám đầy những vũng nước bọt đầy máu. Nhưng Arthur không hề do dự. Cậu ấy nhìn giống như một bức tranh về Thor với cánh tay chẳng run rẩy vung lên và giáng xuống, đóng càng lúc càng sâu hơn cái cọc ân huệ, trong khi máu từ trái tim độc ác kia trào ra và bắn vọt lên. Mặt cậu ấy đanh lại, và tỏa ra một quyết tâm cao độ. Cái dấu hiệu ấy làm chúng tôi thêm can đảm và những lời cầu nguyện của chúng tôi càng vang vọng trong khu mộ nhỏ.
    Và rồi những cái quằn quại và run rẩy của thân hình kia giảm dần, và hàm răng nhai vào nhau, khuôn mặt trở nên run sợ. Cuối cùng nó nằm yên. Nhiệm vụ khủng khiếp kia đã chấm dứt.
    Cây búa rơi khỏi tay Arthur. Cậu ấy quay cuồng và sẽ ngã lăn ra nếu chúng tôi không đỡ kịp. Mồ hôi chảy ra từng giọt lớn trên trán cậu ấy, và hơi thở của cậu ấy là những tiếng hổn hển ngắt quãng. Cậu ấy thật sự ở trong một trạng thái căng thẳng ghê gớm, và nếu cậu ấy không thực hiện công việc của mình bằng một ý chí vượt trên sức mạnh con người thì cậu ấy không thể hòan thành được nó. Chúng tôi chăm sóc cậu ấy mấy phút liền và không nhìn vào quan tài. Tuy nhiên khi chúng tôi nhìn lại thì hết người này đến người kia thốt lên những tiếng thì thào kinh ngạc.
    Chúng tôi cứ đứng nhìn đầy hăm hở đến nỗi Arthur đứng dậy, vì từ nãy đến giờ cậu ấy ngồi trên mặt đất, rồi cậu ấy cũng bước đến và nhìn vào, và một tia sáng vui mừng lạ lùng sáng lên trên mặt cậu ấy xua đi cùng với sự u ám kinh dị đang nằm trong quan tài.
    Ở đấy, nằm trong quan tài không còn là cái Vật kinh khiếp mà chúng tôi từng kinh sợ và căm ghét vì những công việc hủy diệt của nó dưới sự điều khiển của một kẻ tòan quyền định đọat mọi việc, mà là Lucy giống như chúng tôi đã thấy nàng trong cuộc sống, với khuôn mặt dịu dàng và trong trắng không gì sánh bằng. Sự thật là như thế, như khi chúng tôi nhìn thấy nó trong cuộc sống, những dấu vết về sự chăm sóc của chúng tôi, về vết thương và sự kiệt sức.
    Nhưng những thứ đó bây giờ lại trở nên thân thương với chúng tôi, vì chúng xác nhận đây chính là cô gái mà chúng tôi biết. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy bình thản như giống như ánh sáng mặt trời đang tỏa ra từ khuôn mặt đang nằm kia đang chiếu rọi lên mặt đất chỉ tòan những dấu vết và ký hiệu cho sự thanh bình sẽ ngự trị mãi mãi.
    Van Helsing bước đến và đặt tay lên vai Arthur, và nói với cậu ấy, "Và bây giờ, bạn Arthur của tôi, chàng trai thân yêu, tôi có được tha thứ chăng?"
    Phản ứng lại là một trạng thái run rẩy khi cậu ấy nắm lấy tay của đàn ông già trong tay mình, nâng nó lên môi, hôn nó và nói, "Tha thứ! Chúa sẽ ban phúc cho ngài khi ngài đã trả lại linh hồn cho con người thân yêu nhất của tôi, và trả lại cho tôi sự bình yên." Cậu ấy đặt tay lên vai giáo sư, và ngã đầu mình vào vai ông, khóc lặng một lúc, trong khi chúng tôi đứng bất động.
    Rồi ông ấy nâng đầu Arthur lên và nói với cậu ấy, "Và bây giờ, con trai ta, con có thể hôn cô ấy. Hãy hôn lên môi người chết nếu con muốn, để cô ấy sẽ là của con, nếu như đó là sự lựa chọn của cô ta. Bây giờ cô ta không còn là một con quỷ ngạo mạn nữa, vĩnh viễn không còn là cái Vật kinh khiếp ấy nữa. Cô ta sẽ không còn lạ một con quỷ Chưa Chết. Cô ta đã có một cái chết thật sự theo ý Chúa, và linh hồn cô ta sẽ ở lại bên Ngài."
    Arthur cúi xuống và hôn nàng, và rồi chúng tôi đưa cậu ấy và Quincey ra ngòai ngôi mộ. Giáo sư và tôi cưa ngang cây cọc, để phần nhọn của nó nằm lại trong cơ thể. Rồi chúng tôi cắt đầu ra và nhét đầy tỏi vào miệng. Chúng tôi hàn lại quan tài, đóng đinh lại nắp, thu dọn lại những thứ của mình, và đi ra. Khi giáo sư khóa cửa ông ta đưa chìa khóa cho Arthur.
    Không khí bên ngòai thật là dịu ngọt, mặt trời tỏa sáng, chim chóc hót vang, và dường như cả thiên nhiên cũng đã chuyển sang một sắc thái khác. Bây giờ thì niềm vui, hạnh phúc và yên bình đã lan tỏa nơi nơi, còn chúng tôi thì tự nghỉ ngơi sau một công chuyện như vậy, chúng tôi cảm thấy vui mừng, dù đó là một niềm vui tĩnh lặng.
    Trước khi chúng tôi bỏ đi, Van Helsing nói, "Nào, các bạn của tôi, một phần việc trong công việc của chúng ta đã làm xong, nó là một sự đau khổ tột cùng cho chúng ta. Nhưng hãy còn một nhiệm vụ khác lớn hơn, để tìm ra tác giả của tất cả những sự đau khổ này và nghiền nát nó. Tôi đã có một số chỉ dẩn mà chúng ta có thể lần theo, nhưng đó là một nhiệm vụ lâu dài, đau khổ và chứa đựng nhiều nguy hiểm, thương đau. Các anh sẽ giúp tôi chứ? Chúng ta đã được học để tin, đúng không? Và từ đó, chúng ta đã thấy được sức mạnh của mình rồi chứ? Đúng vậy! Và phải chăng chúng ta đã không hứa để đi đến tận cùng vị đắng này?"
    Lần lượt, chúng tôi nắm lấy tay ông, và cất lời hứa. Đoạn giáo sư nói trước khi chúng tôi đi khỏi, "Hai đêm nữa kể từ đêm nay các anh sẽ gặp tôi và cùng ăn tối lúc bảy giờ với bạn John. Tôi sẽ yêu cầu thêm hai người nữa, hai người mà các anh chưa biết, và lúc đó tôi sẽ trình bày mọi công việc của chúng ta, giãy bày mọi kế hoạch của chúng ta. Bạn John, anh sẽ cùng về nhà với tôi, vì tôi còn nhiều điều phải hỏi ý kiến anh, và anh có thể giúp tôi. Tối nay tôi sẽ đi Amsterdam, và sẽ trở lại vào đêm mai. Và lúc đó cuộc truy lùng lớn của chúng ta sẽ bắt đầu. Nhưng trước tiên tôi nói thật nhiều, để các anh biết phải làm gì và phải sợ cái gì. Sau đó chúng ta cùng hứa là sẽ bên nhau một lần nữa. Vì chúng ta đang đứng trước một nhiệm vụ ghê gớm, và một khi chúng ta đã đặt chân trên con đường này, thì chúng ta không thể rút lui được nữa."





  2. #18
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default



    Chương 17

    NHẬY KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD - TIẾP THEO



    Khi chúng tôi đến khách sạn Berkely, Van Helsing thấy một tờ điện tín đang chờ đợi ông.
    "Tôi đang đến bằng xe lửa. Jonathan ở Whitby. Có những tin tức rất quan trọng. Mina Harker."
    Giáo sư có vẻ vui mừng. "Ah, điều này thật là tuyệt diệu, bà Mina," ông ta nói, "một viên ngọc trai giữa những người phụ nữ! Bà ấy đang đến, nhưng tôi không thể tiếp bà được. Bà ta sẽ đến nhà anh đấy, bạn John. Anh phải đón bà ta tại nhà ga. Hãy đánh điện cho bà ấy trên đường để bà ấy có thể chuẩn bị."
    Khi điện tín được đánh đi, ông ta uống một tách trà. Sau đó ông ta nói với tôi về cuốn nhật ký được viết khi Jonathan Harker đi nước ngòai, và đưa cho tôi một bản sao của nó, và thêm một bản sao của bà Harker ở Whitby. "Hãy giữ nó," ông ta nói, " và đọc cho kỹ. Khi tôi quay về thì anh đã thông suốt mọi sự việc, và chúng tôi có thể điều tra tốt hơn. Hãy giữ nó cho cẩn thận, vì nó chứa đựng rất nhiều thông tin quý giá. Anh sẽ phải cần đến tất cả niềm tin của mình khi đọc nó, dù rằng ngày nay anh đã có nhiều kinh nghiệm rồi.
    Những gì được trình bày trong này," ông ta lấy ra một xấp giấy nặng và dày khi ông nói," có thể điều này là bắt đầu cho sự kết cục của tôi, anh và những người khác, hoặc nó sẽ gióng lên hồi chuông báo tử cho những kẻ Chưa Chết đang lang thang trên quả đất. Xin anh hãy đọc nó với tâm hồn rộng mở, để cho anh có thể hiểu được những gì được kể lại, vì điều này rất quan trọng. Hẳn anh cũng biết là quyển nhật ký này chứa đựng những chuyện rất lạ lùng, đúng không? Vâng! Và chúng ta tiếp tục cùng nhau đi đến tận cùng khi chúng ta gặp lại." Ông ta sửa soạn khởi hành và ngay sau đó đi xuống đường Liverpool. Tôi thì xuống đường Paddington, tôi đến đó trước khi xe lửa đến nơi khỏang mười lăm phút.
    Tôi rẽ vội đám đông, hộc tốc lao theo lối đi chính đến cổng xuống, đến đó thì tôi cảm thấy nhẹ nhõm vì tôi biết rằng chưa lỡ mất người khách của mình khi mà có một cô gái xinh xắn với khuôn mặt dịu dàng bước đến chỗ tôi, và sau một cái liếc nhanh, cô ta nói,"Bác sĩ Seward, phải không ạ?"
    "Và hẳn bà là bà Harker!" tôi trả lời ngay, và sau đó cô ta đưa tay ra.
    "Tôi biết ông qua sự mô tả của Lucy tội nghiệp, nhưng..." Cô ta thình lình ngưng bặt và đỏ ửng mặt mày.
    Cái đỏ mặt đó lan đên đôi má của tôi và chúng tôi cảm thấy gần gủi nhau, vì đó là sự trả lời ngầm cho câu nói của cô ta. Tôi cầm lấy hành lý của cô ta, nó bao gồm một cái máy đánh chữ, và đón xe ở đường Fenchurch, sau đó tôi đánh điện cho người quản gia của tôi dặn chuẩn bị phòng và giường ngủ ngay cho bà Harker.
    Bây giờ thì chúng tôi đã đến nơi. Tất nhiên cô ta biết rằng đây là một viện điều dưỡng tâm thần, nhưng tôi thấy cô ta không thể ngăn được một cái rùng mình khi chúng tôi đi vào.
    Cô ấy nói với tôi rằng nếu không có gì phiền thì cô ấy sẽ gặp tôi ở phòng nghiên cứu của tôi, vì cô ấy có nhiều điều để nói. Do đó tôi tôi kết thúc đoạn nhật ký được thu băng này tại đây trong khi chờ đợi cô ta. Đến lúc này tôi vẩn chưa có cơ hội để đọc những giấy tờ và Van Helsing để lại cho tôi, dù nó đã mở sẳn trước mặt tôi. Tôi phải hướng sự chú ý của cô ta đến một cái gì đó, để tôi có cơ hội đọc chúng mới được. Cô ta không biết là thời gian quý giá như thế nào, hoặc là chúng tôi đang có một nhiệm vụ ghê gớm phải giải quyết. Tôi phải cẩn thận đừng làm cô ta sợ mới được. Cô ta đến kia!
    NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER
    Ngày 29 tháng Chín. - Sau khi đã dọn dẹp xong, tôi đi xuống chỗ phòng làm việc của bác sĩ Seward. Tôi ngừng một chút tại cửa, vì hình như tôi nghe thấy anh ta đang nói chuyện với ai đó. Tuy nhiên, vì anh ấy muốn tiến hành mọi việc nhanh chóng, nên tôi gõ cửa và nghe tiếng anh ấy gọi, "Mời vào," tôi đi vào.
    Tôi vô cùng ngạc nhiên khi không thấy ai bên cạnh anh ta. Anh ta ngồi một mình, và đối diện với anh ấy trên bàn là một vật mà tôi biết ngay là một loại máy ghi âm. Tôi chưa thấy nó bao giờ, nên tôi quan sát nó rất thích thú.
    "Hy vọng là tôi không làm ông phải đợi," tôi nói, "nhưng tôi đứng ở cửa khi nghe thấy ông đang nói, và nghĩ rằng ông đang có chuyện với ai đó."
    "Ồ," anh ta trả lời với một nụ cười, "tôi chỉ đang thu nhật ký thôi."
    "Nhật ký của ông à?" tôi hỏi anh ta một cách ngạc nhiên.
    "Vâng," anh ta trả lời. "Tôi lưu nó vào đây." Anh ta vừa nói vừa đặt tay lên chiếc máy ghi âm. Tôi cảm thấy rất thú vị với điều này, và buột miệng, "Thật vậy, cái này đánh bại mọi thứ tốc ký! Tôi có thể nghe một chút không?"
    "Tất nhiên rồi," anh ta nói với vẻ sốt sắng, và đứng dậy chuẩn bị để nói. Nhưng anh ta ngừng lại, và một vẻ lúng túng hiện ra trên mặt anh ta.
    "Chuyện là thế này," anh ta bắt đầu một cách bối rối."Tôi chỉ ghi lại nhật ký của tôi trong này, và nó hoàn toàn, gần như hoàn toàn là chuyện riêng, thật là đáng tiếc, nó có nghĩa, tôi muốn nói là..." Anh ta ngừng lại, và tôi cố giúp anh ấy hết bối rối.
    "Ông đã chăm sóc Lucy thân yêu ở những giây phút sau cùng. Hãy cho tôi biết bạn ấy đã chết như thế nào, hãy cho tôi biết mọi chuyện về bạn ấy, tôi sẽ rất biết ơn ông. Bạn ấy rất, rất thân thiết với tôi."
    Trước sự ngạc nhiên của tôi, anh ta trả lời, với một vẻ khiếp hãi hiện ra trên mặt, "Nói với bà về cái chết của nàng? Không, không, vì thế giới rộng lớn này!"
    "Vì sao không?" Tôi hỏi với một cảm giác kinh hãi và lo lắng lan tỏa trong người.
    Một lần nữa anh ta ngừng lại, và tôi có thể thấy rõ là anh ta đang cố phát minh ra một lời bào chữa nào đó. Cuối cùng, anh ta lắp bắp, "Bà thấy đấy, tôi không biết làm cách nào để quay lại đúng một đoạn đặc biệt nào đó trong nhật ký."
    Thậm chí khi đang nói thì anh ta lại nảy ra một ý nghĩ, và anh ta nói với một vẻ vô thức dễ thấy, giọng nói của anh ta thay đổi, với một vẻ ngây thơ như một đứa trẻ, "điều ấy là sự thật, xin thề với danh dự của tôi. Lời thề trung thực của một người Ân Độ!"
    Tôi không thể không mỉm cười, khi mà anh ta nhăn nhó nói tiếp "Tôi vừa ngãng ra một lúc!" anh ta. "Nhưng bà cũng biết đấy, mặc dù tôi đã thu cuốn nhật ký này nhiều tháng trước, nhưng tôi chưa một lần nảy ra ý nghĩ tìm đến đúng một đoạn đặc biệt nào đó trong trường hợp tôi muốn xem qua nó cả?"
    Lúc này trong tâm trí của tôi đang bị xâm chiếm bởi ý nghĩ quyển nhật ký của vị bác sĩ đã chăm sóc cho Lucy sẽ giúp tôi thêm vào những kiến thức cần thiết để biết những điều khủng khiếp nào Đang Diễn Ra, nên tôi nói một cách cứng rắn, "Vậy thì, thưa bác sĩ Seward, tốt hơn ông nên để tôi đánh máy lại đoạn nhật ký của ông."
    Anh ta trở nên trắng bệch cả mặt mày, và thốt lên, "Không! Không! Không! Vì cả thế giới này. Tôi không thể kể lại với bà câu chuyện khủng khiếp này!"
    Thật là khủng khiếp. Trực giác của tôi đã đúng! Trong một thóang, tôi suy nghĩ, và khi mắt tôi lướt qua căn phòng, với một cái nhìn vô thức tìm kiếm một cái gì đó hoặc một cơ hội nào đó có thể giúp mình, tôi liếc thấy một xấp giấy tờ dày cộm được đánh máy trên bàn. Mắt anh ta gặp cái nhìn của tôi, và hướng theo chùngm không suy nghĩ gì. Khi thấy xấp giấy, anh ta hiểu tôi muốn gì.
    "Ông chưa hiểu tôi rồi," tôi nói. "Khi ông đọc những giấy tờ kia, nhật ký của tôi và chồng tôi mà tôi đã đánh máy lại, ông sẽ hiểu tôi nhiều hơn. Tôi không dao động với những ý nghĩ đập vào tim mình lúc này đâu. Nhưng, tất nhiên, ông chưa biết rõ tôi, vì vậy tôi không mong đợi ông sẽ tin tưởng tôi lúc này."
    Anh ta là một nhà quý tộc bẩm sinh. Lucy tội nghiệp thân yêu đã đúng khi đánh giá về anh. Anh ta đứng dậy, mở một ngăn kéo, trong đó chứa đầu những ống xylanh rỗng bao bởi sáp đen được đánh số thứ tự, và nói,
    "Bà nói đúng. Tôi không tin bà bởi vì tôi không biết bà. Nhưng bây giờ tôi đã biết bà, và hãy để cho tôi nói rằng tôi đúng ra nên biết bà từ trước. Tôi biết rằng Lucy đã nói với bà về tôi. Nàng cũng nói với tôi về bà. Cho phép tôi chuộc lỗi trong khả năng của mình chăng? Bà hãy lấy những cuộn băng này và nghe chúng. Nữa tá đầu tiên của chúng là những vấn đề riêng tư của tôi, và chúng sẽ không làm bà kinh hãi. Và bà sẽ hiểu rõ tôi hơn. Bữa ăn tối sẽ được chuẩn bị. Trong thời gian đó, tôi sẽ đọc những tài liệu này, và tất nhiên là có thể hiểu được mọi chuyện rõ ràng hơn."
    Anh ta tự mình mang chiếc máy ghi âm vào phòng tôi và điều chỉnh nó giúp tôi. Nào, bây giờ thì tôi tin chắc là tôi sẽ được một cái gì đó đáng hài lòng đây. Nó sẽ kể với tôi về mặt bên kia của một thiên tình yêu đích thực mà tôi chỉ mới biết được một mặt.
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 29 tháng Chín. - Tôi bị thu hút bởi quyển nhật ký hấp dẩn của Jonathan Harker và quyển nhậ ký của vợ ông ta đến nỗi tôi không hay biết thời gian đang trôi đi như thế nào. Bà Harker đã không đi xuống khi người hầu gái thông báo về bữa ăn tối, và tôi nói, "Có thể bà ấy đang mệt. Hãy đợi thêm một giờ nữa hãy ăn tối." Và tôi lại tiếp tục công việc. Khi tôi đọc xong quyển nhật ký của bà Harker thì cô ta đi vào.
    Cô ta trông thật dịu dàng, nhưng thật buồn bã, và mắt cô ta đẫm lệ. Có một cái gì đó làm tôi xao xuyến. Chúa biết rằng chỉ mới đây thôi tôi đã có nguyên nhân để rơi lệ! Nhưng tôi đã cố để kiềm chế nó, nhưng bây giờ thì dáng vẻ của đôi mắt dịu dàng kia, long lanh với những giọt nước mắt, đã xuyên thẳng vào tim tôi. Vì vậy tôi nói với tất cả vẻ lịch thiệp của mình, "Tôi vô cùng lo sợ là tôi đã làm bà đau buồn."
    "Ồ không, ông không làm tôi đau buồn," cô ta trả lời. "Nhưng tôi đã bị xúc động nhiều hơn tôi có thể nói bởi nỗi buồn của ông. Đấy là một cái máy tuyệt vời, nhưng thật sự là một vật độc ác. Nó đã kể với tôi bằng cái giọng đều đều của nó nỗi thống khổ trong tim ông. Nó giống như một tiếng kêu gào từ tận đáy lòng gửi lên Chúa Tòan Năng. Mong sao cho đừng ai phải nghe lại nó lần nữa! Xem này, tôi đang cố tỏ ra hữu dụng. Tôi đã đánh máy lại chúng, và không ai cần phải nghe những nhịp đập đau khổ trong tim ông như tôi nữa."
    "Không một ai cần nghe nó nữa, sẽ không một ai nữa," tôi trầm giọng nói. Cô ta đặt tay mình lên tay tôi và nói thật trịnh trọng, "Ah, nhưng họ phải nghe!"
    "Phải! Nhưng vì sao?" tôi hỏi.
    "Bởi vì đây là một phần của câu chuyện kinh khủng này, một phần về cái chết của Lucy tội nghiệp và tất cả những chuyện dẩn đến nó. Bởi vì trong cuộc đấu tranh này chúng ta đang đứng trước nhiệm vụ giải thóat trái đất ra khỏi con quái vật kinh khủng này, vì vậy tất cả chúng ta phải có kiến thức và những sự giúp đỡ cần thiết. Tôi nghĩ rằng những cuộn băng ghi âm mà ông đưa cho tôi chứa nhiều điều hơn những việc mà ông muốn tôi biết. Và tôi có thể trong những cuộn băng ấy nhiều ánh sáng rọi lên những bí ẩn tăm tối.
    Ông sẽ giúp tôi, có phải thế không? Tôi chỉ mới biết được mọi việc đến thời điểm mà tôi vừa đọc được, vì nhật ký của ông chỉ cho tôi biết đến ngày 7 tháng Chín, về việc Lucy tội nghiệp bị vây hãm và sự bất hạnh kinh khủng của bạn ấy kết thúc ra sao. Jonathan và tôi đã làm việc cả ngày lẩn đêm từ khi giáo sư Van Helsing gặp chúng tôi. Anh ấy đễ đến Whitby để thu thập thêm thông tin, và ngày mai anh ấy sẽ đến giúp chúng ta. Chúng ta không cần phải giữ bí mật với nhau. Khi làm việc cùng nhau với niềm tin tuyệt đối, chúng ta chắc chắn sẽ mạnh hơn so với việc một số trong chúng ta cố giữ mình trong bóng tối."
    Cô ấy nhìn tôi thật quyến rủ, và cùng lúc đó hiện rõ vẻ can đảm và cương quyết trong con người cô ta, đến nỗi tôi trả lời ngay những đòi hỏi của cô ta. "Bà sẽ," tôi nói "làm mọi điều bà muốn trong vấn đề này. Chúa tha lỗi cho tôi nếu tôi làm gì đó sai lầm! Có một số chuyện kinh khủng chưa được nói ra. Nhưng nếu bà muốn khám phá câu chuyện về cái chết của Lucy tội nghiệp, tôi biết rằng lúc này bà chưa hài lòng vì còn một phần được giữ trong bóng tối.
    Không những thế, sự kết cục, sự kết thúc cuối cùng sẽ mang đến cho bà những tia sáng bình yên. Nào, bây giờ chúng ta hãy ăn tối. Chúng ta phải giữ cho khỏe mạnh để đương đầu với những chuyện sắp đén. Chúng ta có một nhiệm vụ tàn ác và kinh khiếp. Sau khi ăn xong bà cần nghỉ ngơi, và tôi sẽ trả lời mọi câu hỏi của bà, nếu như còn vấn đề gì mà bà chưa hiểu, dù nó hiện rõ rành rành đối với những người chứng kiến."
    NHẬT KÝ CỦA MINA JOURNAL
    Ngày 29 tháng Chín. - Sau bữa ăn tôi đi cùng với bác sĩ Seward đến phòng nghiên cứu của anh ấy. Anh ra mang chiếc máy ghi âm từ phòng tôi trở lại, còn tôi thì lấy cái ghế, anh ta sắp xếp sao cho tôi có thể với tới cái máy ghi âm mà không cần đứng dậy, và chỉ tôi cách dừng máy trong trường hợp tôi muốn ngừng. Rồi anh ấy rất thong thả lấy một cái ghế, ngồi quay lưng lại phía tôi, để cho tôi tự nhiên, và bắt đầu đọc. Tôi gắn cái ống nghe lên tai và lắng nghe.
    Khi câu chuyện khủng khiếp về cái chết của Lucy và những gì diễn ra tiếp theo chấm dứt, tôi ngã nhũn người trên ghế. May là tôi chưa đến nỗi ngất xỉu. Khi bác sĩ Seward thấy tôi anh ấy nhảy vội đến với một tiếng kêu khủng khiếp, vội vã lấy một chai rượu từ tủ bup-phê, tiếp cho tôi một chút rượu mạnh, và vài phút sau tôi phần nào phục hồi.
    Đầu óc của tôi quay cuồng, và nó tòan những điều kinh dị khủng khiếp, mà chỉ có một tia sáng là cuối cùng bạn Lucy thân yêu của tôi cũng được bình yên, tôi nghĩ là tôi không thể chịu đựng nỗi nếu không có được điều này. Tất cả mọi chuyện thật là man dại và huyền bí, và lạ lùng đến nỗi nếu tôi không có được những kinh nghiệm từ câu chuyện của Jonathan ở Transylnavia tôi không thể tin điều này. Và nếu như vậy, tôi sẽ không biết phải tin vào điều gì, và sẽ rất gay go để biết phải làm gì. Tôi mở nắp máy chữ và nói với bác sĩ Seward.
    "Hãy để tôi viết lại những thứ này ngay. Chúng ta phải chuẩn bị sẳn sàng mọi thứ khi bác sĩ Van Helsing đến. Tôi sẽ gửi điện cho anh Jonathan đến đây khi anh từ Whitby về London. Trong chuyện này những ngày tháng là tất cả, và tôi nghĩ rằng nếu chúng ta muốn tận dụng mọi tài nguyên của mình và sắp xếp chúng theo thứ tự, thì chúng ta sẽ có nhiều chuyện phải làm."
    "Bà làm tôi nhớ rằng Huân tước Goldaming và ngài Morris cũng đang đến. Chúng ta hãy sẳn sàng để kể với họ khi họ đến."
    Anh ta điều chỉnh chiếc máy cho tốc độ chậm lại, và tôi bắt đầu đánh máy lại bắt đầu từ cuộn băng thứ bảy.
    Tôi đánh làm nhiều bản, tất cả là ba bản, nhưng khi đã làm trong khi rảnh rỗi. Khi tôi bắt đầu thì đã trễ, nhưng bác sĩ Seward đi giải quyết một số công việc với những bệnh nhân, và khi xong việc thì anh ấy quay lại và ngồi xuống gần bên tôi, để tôi không cảm thấy cô đơn khi làm việc. Anh ấy thật là tốt bụng và chu đáo. Thế giới này hình như vẩn tòan những người tốt, dù rằng trong đó vẩn hiện hữu những con quái vật.
    Trước khi tạm biệt anh ta tôi nhớ ra rằng Jonathan có ghi vào nhật ký sự lo lắng của giáo sư khi đọc những điều ghi trong tờ xuất bản chiều tại ga Exeter, nên khi bác sĩ Seward có giữ lại những báo chí của anh ta, tôi mượn những số Nhật báo Westminster' và Nhật báo Pall Mall' và mang về phòng. Tôi vô cùng nhớ tờ Dailygraph'và Nhật báo Whitby'trong đó tôi đã cắt những bài giúp chúng tôi hiểu về những biến cố kinh khiếp tại Whitby mỗi khi bá tước Dracula xuống núi, nên tôi sẽ đọc những tờ báo buổi chiều tại đây, và có thể tôi sẽ có một số ánh sáng. Tôi không buồn ngủ, và công việc sẽ giúp tôi bình tâm.
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 30 tháng Chín. - Ông Harker đến lúc chín giờ. Ông ta đã nhận được điện tín của vợ ông trước khi đến đây. Ông ta có một vẻ thông minh đặc biệt, nếu như ta có thể đánh giá một con người qua khuôn mặt, và tràn đầy sinh lực. Nếu như cuốn nhật ký của ông ta là sự thật, và đánh giá về một con người đã trải qua những kinh nghiệm tuyệt vời như vậy, thì điều này cũng có nghĩa ông ta phải là một con người dũng cảm tuyệt vời. Để có thể nhảy qua lần thứ hai qua một một nơi đầy những thách thức như thế. Sau khi đọc những ghi chép của ông ta tôi đã chuẩn bị để gặp một mẫu vật tuyệt vời cho nam tính, như hơi trầm lặng, một người quý phái có dáng vẻ kinh doanh sẽ đến đây vào hôm nay.
    ĐÊM KHUYA. - Sau bữa ăn tối Harker và vợ ông ta trở về phòng của họ, và một lúc sau khi tôi đi qua, tôi nghe thấy tiếng máy chữ lách cách. Họ đang làm việc cật lực. Bà Harker nói rằng sẽ chấp lại theo thứ tự những mẩu chứng cứ mà họ có được. Harker đã có những bức thư về việc vận chuyển những cái hộp tại Whitby và gặp những người vận chuyển tại London đã chuyển chúng. Ông ta bây giờ đang đọc những đoạn nhật ký của tôi mà vợ ông đã ghi lại. Tôi không biết là họ có tìm ra được điều gì hay không. Nó là...
    Thật là lạ khi chưa bao giờ tôi lại lóe lên ý nghĩa rằng chính cái ngôi nhà sát nơi tôi ở lại chính là nơi ẩn náu của bá tước! Thật may chúng tôi đã có thể được chỉ dẩn đầy đủ từ những hành động của bệnh nhân Renfield! Những xấp thư từ thuật lại cuộc mua bán ngôi nhà đã được đính kèm vào bản ghi. Ôi, nếu như chúng tôi có được nó sớm hơn thì chúng tôi đã có thể cứu được Lucy tội nghiệp! Ngừng lại! Đấy chỉ là một mơ tưởng điên cuồng viễn vông mà thôi! Harker đã trở lại, và một lần nữa thu thập các tài nguyên.
    Ông ta nói tại bữa ăn chiều rằng họ đã có thể chỉ ra được mối liên hệ giữa tòan bộ các câu chuyện. Ông ta nghĩ rằng với những chuyện diễn ra khi tôi gặp Renfield, ông ta có thể dựa vào đó để sắp xếp lại thứ tự ngày đi và đến của bá tước. Tôi cảm thấy điều này thật khó khăn, nhưng tôi sẽ cố sắp xếp các ngày tháng mà tôi có thể nhớ được. Thật là hay là bà Harker đã đánh máy lại những băng ghi âm của tôi! Nếu không thì có thể chẳng bao giờ chúng tôi có được những ngày tháng chính xác.
    Tôi thấy Renfield đang ngồi yên lặng trong phòng ông ta, hai tay khoanh lại, mỉm cười hiền hậu. Lúc này trông ông tỉnh táo như tất cả mọi người tôi từng gặp. Tôi ngồi xuống và nói chuyện với ông ta về rất nhiều chủ đề, tất cả những thứ nào mà ông ta tỏ ra tự nhiên. Và ông ta đã chấp nhận nói đến việc về nhà, một chủ đề mà ông chẳng bao giờ đề cập đến trong khi ông lưu trú ở đây. Lần này, ông nói một cách tự tin về việc giải phóng ông ta ngay lúc này.
    Tôi tin là, nếu như tôi không có cuộc trao đổi với Harker, đọc những bức thư và về những ngày tháng cơn động kinh của ông ta bùng nổ, tôi sẽ không hề chuẩn bị để ký quyết định trả ông về sau một thời gian theo dõi ngắn. Về việc này, tôi vẩn còn khá nghi ngờ. Tất cả những cơn bộc phát trên đều có mối liên hệ với sự xuất hiện gần gũi của bá tước. Điều này thật sự có nghĩa là gì? Có thể do bản năng của ông ta thỏa mản với sự chiến thắng tuyệt đối của ma cà rồng? Khoan đã.
    Tự bản thân ông ta là một kẻ ăn thịt động vật, và trong những cơn giận dữ hoang dại của ông bên ngòai cánh cửa giáo đường của ngôi nhà hoang kia ông ta luôn nhắc đến ông chủ'. Tất cả những điều này có vẻ đã xác nhận cho những ý kiến của chúng tôi. Tuy nhiên, sau một lúc tôi lại đi ra. Ông bạn của tôi lúc này có vẻ khá tỉnh táo để có thể tự do thăm dò ông ta bằng những câu hỏi hơi tọc mạch. Ông ta đang bắt đầu suy nghĩ, và rồi... Vì vậy tôi đi ra. Tôi không tin tưởng lắm vào cái kiểu im lặng này của ông ta, và tôi nghĩ ra một gợi ý là mỗi khi gặp ông ta gần gủi như vậy, nên chuẩn bị một cái áo trói phòng khi cần thiết.
    NHẬT KÝ CỦA JONATHAN HARKER
    Ngày 29 tháng Chín, trên chuyến xe đến London. - Khi tôi nhận được một thông điệp lịch sự được gửi từ ông Billington rằng ông ta sẽ cung cấp cho tôi tất cả những thông tin trong khả năng của mình, tôi nghĩ rằng tốt nhất tôi sẽ xuống Whitby và đặt ra tất cả những yêu cầu của mình ở đây. Bây giờ mục tiêu của tôi là lần theo những dấu vết về chuyến hàng khủng khiếp của bá tước để tìm nơi nó được chuyển tới ở London. Sau nữa, chúng tôi có thể giải quyết nó.
    Con trai của Billington, một chàng trai dễ thương, đã đón tôi ở nhà ga, và đưa tôi về ngôi nhà cha anh ta, và họ quyết định là tôi phải qua đêm ở đấy. Họ rất hiếu khách, sự hiếu khách thực thụ của vùng Yorkshire, cung cấp cho khách tất cả mọi thứ cần thiết và để anh ta làm những gì anh ta muốn. Bọn họ đều biết là tôi đang rất bận rộn, rằng sự lưu trú của tôi là rất ngắn ngủi, và ông Billington đã chuẩn bị sẳn sàng trong văn phòng của mình những giấy tờ liên quan đến việc ký gửi những chiếc hộp.
    Nó khiến cho tôi một lần nữa đọc lại những bức thư mà tôi đã từng đọc trên chiếc bàn của bá tước và những kế hoạch độc ác của hắn ta. Tất cả mọi thứ đã được chuẩn bị cẩn thận, và thực hiện với một sự tỉ mỉ có kế hoạch. Hình như hắn đã đã chuẩn bị sẳn cho mọi trở ngại có thể xảy ra bởi những tai nạn bất ngờ trên đường đi của hắn. Nói như người Mỹ, hắn đã nắm hết mọi may rủi, và sắp xếp mọi việc tuân theo những chỉ thị của hắn một cách chính xác tuyệt đối đơn giản mang lại cái kết quả hợp lý mà hắn tiên liệu. Tôi thấy một hóa đơn, và ghi lại nó. Năm mươi hộp đất thường, dùng cho mục đích thử nghiệm'. Nó còn có bản sao một bức thư gủiw đến Carter Paterson và thư trả lời của họ.
    Tôi chép lại cả hai bức thư. Đó là tất cả thông tin mà ông Billington có thể cung cấp cho tôi, nên tôi đi xuống cảng và gặp những lính tuần duyên, Văn phòng Hải quan và trưởng cảng, một người tử tế đã cho tôi liên hệ với những người đã thật sự nhậ được những cái hộp. Họ kiểm tra lại chính xác danh sách, và họ không có gì để thêm vào sự mô tả đơn giản năm mươi hộp đất thường', ngoại trừ rằng những cái hộp nặng và quan trọng ghê gớm', và công chuyện vận chuyển của họ là một việc khô khan.
    Một người trong số họ thêm vào rằng có một điều hơi lạ là chẳng hề có một quý ngài giống như ngài vậy, thưa ngài', để đánh giá những nỗ lực của họ để chuyển chúng sang dạng chất lỏng. Một thông tin khác thêm vào bởi người đánh xe rằng dù cái khát đã được hiện rõ khi thời gian trôi qua mà chẳng có gì để làm dịu nó. Chẳng cần phải tìm hiểu thêm gì nữa, trước khi rời đi tôi đã quan tâm để sao cho những lời trách móc kia sẽ không phải lặp lại một cách thích đáng vì những mục đích hợp lý nữa.
    Ngày 30 tháng Chín. - Ông trưởng ga tốt bụng đã nối liên lạc cho tôi với người bạn già làm trưởng ga tại Chữ Thập Vưa, nên khi tôi đến vào buổi sáng tôi có thể hỏi ông ta về việc di chuyển những chiếc hộp. Ông ta cũng ngay lập tức giúp tôi liên hệ với những nhân viên cũ, và tôi thấy rằng những điều kể lại của họ đúng với những điều ghi trên hóa đơn gốc. Cơ hội để đạt đến sử dụng một cách hữu hiệu sự khát nước đặc biệt của con người đã kết thúc ở đây. Tuy nhiên tôi lại có thể dùng nó một cách quý phái, và một lần nữa tôi bị hấp dẩn để thỏa mản với kết quả đạt được tại người chủ gian hàng nơi đây.
    Từ đây tôi đến văn phòng trung tâm tại Carter Paterson, nơi tôi được đón tiếp rất nồng hậu. Họ kiểm tra lại những điều được ghi trong sổ ghi chép và sổ lưu thư từ của họ, sau đó ngay lập tức gọi điện đến văn phòng Chữ Thập Vua để biết thêm chi tiết. Thật là may mắn, những người đã tham gia đội chuyên chở nọ đều có mặt để đợi việc, và văn phòng đã gửi ngay họ đến, cũng gửi kèm những vận đơn và những giấy tờ liên quan đến việc vận chuyển những cái hộp tại Carfax. Ở đây tôi một lần nữa lại được xác nhận là câu chuyện hoàn toàn chính xác. Những người vận chuyển chỉ có thể cung cấp rất hạn chế các câu chuyện với rất ít chi tiết.
    Tôi nhanh chóng nhận ra điều này liên quan đến sự khô khan bản năng của nghề nghiệp, và hậu quả từ do những cơn khát mang lại. Với khả năng của tôi trong trường hợp, với với một khoản kha khá tiêu pha những đơn vị tiền tệ được lưu thông trên vương quốc, khiến cho càng về sau thì cái cảm giác tệ hại kia càng giảm đi, và một người trong số họ nhận xét
    "Cái ngôi nhà ấy, ông biết đấy, là cái nơi kỳ quặc nhất mà tôi đã từng đến. Quái quỷ! Nhưng hình như chẳng có ai đụng đến nó cả trăm năm nay rồi. Nó đầy những bụi và dày đến nổi ông có thể chọn nó làm chỗ ngã lưng êm ái đấy. Cái nơi đấy trông lôi thôi lếch thếch đến nỗi ông có thể ngửi thấy mùi Jerusalem cổ kính ở đấy. Lại còn cái nhà thờ cỗ nữa, nó thật là khiếp. Tôi với thằng bạn, chúng tôi nghĩ ngay đến việc cố chuồn khỏi đó càng nhanh càng tôi. Thưa ông, tôi sẽ không ở đấy dù chỉ là một khỏanh khắc sau khi đêm xuống."
    Đã từng ở ngôi nhà đó, tôi có thể tin ông ta, nhưng nếu ông ta biết những gì tôi biết, tôi nghĩ sẽ khiến ông ta nhảy dựng lên.
    Bây giờ thì tôi đã thỏa mãn với một điều. Tất cả những cái hộp kia đều được chuyển đến Varna trên con Demeter và được đặt chuyển đến ngôi nhà thờ cổ ở Carfax. Hiện nay ở đó có khoảng năm mươi thùng, trừ phi nó đã được dời đi, giống như điều tôi đã e sợ khi đọc nhật ký của bác sĩ Seward.
    Đêm khuya. - Mina và tôi đã làm việc suốt cả ngày, và bây giờ chúng tôi đang sắp xếp những giấy tờ này theo thứ tự.
    NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER.
    Ngày 30 tháng Chín. - Tôi rất vui khi cuối cùng tôi cũng biết cách kiềm chế ch mình. Tôi sợ rằng dưới tác dụng từ nỗi sợ hãi ám ảnh đã gây nên những tác động kinh khiếp và làm tấy lại vết thương cũ sẽ khiến Jonathan có những hành động tiêu cực. Mặc dù tôi thấy anh ấy đi Whitby với vẻ can đảm nhất của mình, nhưng tôi gần như khiếp hãi vì sợ hãi.
    Tuy nhiên những cố gắng của anh ấy đã có tác dụng tốt. Anh ấy chưa bao giờ cương quyết, chưa bao giờ mạnh mẽ, chưa bao giờ sôi sục nhiệt huyết như lúc này. Đúng như giáo sư Van Helsing thân thương tốt bụng đã nói, anh ấy thật sự là một người gan góc, và hoàn cảnh đã giúp anh cải thiện đức tính và giết đi bản chất yếu đuối tự nhiên. Anh ấy đã trở về, tràn đầy sức sống, hy vọng và cả quyết. Tối nay chúng tôi đã có mọi thứ. Tôi cảm thấy bị kích thích một cách dữ dội. Chẳng thể nào thương hại một kẻ như bá tước. Đúng là như thế.
    Đấy không phải là con người, thậm chí không phải là con thú. Những gì đọc được từ nhật ký của bác sĩ Seward về cái chết của Lucy tội nghiệp và những gì tiếp theo đủ làm khô cạn mọi suối nguồn thương hại trong đáy tim của mỗi con người.
    Đêm khuya. - Huân tước Goldaming và ông Morris đến sớm hơn chúng tôi chờ đợi. Bác sĩ Seward bận công việc và đã kéo anh Jonathan cùng đi, nên tôi phải tiếp họ. Đó là một cuộc gặp gỡ đau buồn cho tôi, vì nó gợi lại tất cả những niềm hy vọng của Lucy tôi nghiệp mới chỉ vài tháng trước thôi. Tất nhiên họ đã nghe Lucy nói về tôi, và hình như là bác sĩ Van Helsing cũng đã thổi bùng cây trumpet của tôi', theo cách diễn đạt của ông Morris.
    Những chàng trai tội nghiệp, chẳng có ai trong số họ biết rằng tôi đã biết tất cả những gì họ làm cho Lucy. Họ không biết phải nói hay làm gì, khi họ vẩn chưa biết là tôi đã biết được những gì. Vì vậy họ vẩn giữ kín mục đích của mình. Tuy nhiên, khi tôi nghĩ cách giải quyết vấn đề, tôi đi đến kết luận rằng điều tốt nhất tôi có thể làm là nói cho họ biết mọi chuyện đã xảy ra cho đến lúc này. Từ nhật ký của bác sĩ Seward tôi biết rằng họ đã có mặt lúc Lucy chết, lúc bạn ấy chết thật sự, và tôi không cần phải sợ rằng mình đã phản bội lại những sự bí mật trước đó.
    Vì vậy tôi nói với họ, với tất cả khả năng của mình, rằng tôi đã tất cả các giấy tờ và nhật ký, và chúng đã được chồng tôi cùng với tôi đánh máy lại, cũng như sắp đặt lại chúng theo thứ tự thời gian, tôi giao cho họ mỗi người một bản sao để đọc trong thư viện. Khi huân tước Godalming nhận bản giấy của anh ấy và cuộn lại thành một cuộn lớn, anh ta nói, "Có phải là bà đã viết lại những thứ này không, bà Harker?"
    Tội gật đầu, và anh ta tiếp tục.
    "Tôi chưa hiểu rõ lắm mục đích của những thứ này, nhưng bà thật là tốt bụng và tử tế, bà đã làm việc đầy nghiêm túc và hăng hái, cho nên tôi sẽ làm điều này dù chỉ là mù quáng tuân theo ý muốn của bà và để giúp đỡ bà. Tôi đã có một bài học là hãy chấp nhận những thứ thứ khiến cho một người đàn ông trở nên nhún nhường trong những giờ cuối cùng trong cuộc đời mình. Ngòai ra, tôi biết rằng bà rất yêu mến Lucy của tôi..."
    Nói đến đây anh ta quay đi và lấy tay che mặt. Tôi có thể nghe tiếng nức nở trong giọng nói của anh. Ông Morris, với sự tế nhị bản năng, đặt tay lên vai anh ấy một lúc rồi nhẹ nhàng đi ra khỏi phòng. Tôi biết rằng trong bản chất tự nhiên của người phụ nữ có cái gì đó khiến cho người đàn ông đễ dàng quỵ ngã trước cô ta và bộc lộ những tình cảm ở khía cạnh nhạy cảm và xúc động của nó đi ngược lại với bản chất nam tính của anh ta. Khi huân tước Godalming thấy chỉ còn tôi với anh ta, anh ngồi bên ghế xofa, hoàn toàn và công khai buông mình trong cảm xúc. Tôi ngồi cạnh anh ta và nắm lấy tay anh ta.
    Tôi hy vọng là anh ấy không nghĩ về điều này trươc tôi, và nếu anh ấy có nghĩ đến sau này thì anh ta chẳng bao giờ có ý nghĩa như vậy. Về điểm này thì tôi đã đánh giá sai anh. Anh ta cũng thật sự là một người chính trực. Tôi nói với anh ta vì tôi thấy rõ trái tim anh đang tan vỡ, "Tôi rất yêu mến Lucy thân thương, và tôi biết bạn ấy với anh là thế nào, cũng như anh với bạn ấy là thế nào.
    Bạn ấy với tôi giống như là chị em, và bây giờ bạn ấy đã đi xa, anh có cho phép tôi là một người chị em với anh trong nỗi đau đớn này? Tôi biết anh đau khổ như thế nào, dù tôi không thể đo lường sự sâu thẳm bên trong nó. Nếu như sự thông cảm và lòng thương có thể giúp được anh trong lúc khổ đau, thì anh hãy để cho tôi mang nó lại cho anh, vì những điều tốt đẹp cho Lucy?"
    Trong một thóang chàng trai tội nghiệp dễ thương ấy chìm đắm trong đau buồn. Hình như rằng tất cả sự đau khổ đã đi đến trong im lặng vào tất cả các huyệt của anh lúc này. Anh ấy trở nên kích động, nâng cao bàn tay mở rộng, đập hai bàn tay vào nhau với cảm giác đau buồn tuyệt đối. Anh ấy đứng lên và ngồi xuống trở lại, trong khi nước mắt chảy dài trên má. Tôi cảm thấy vô cùng thương xót anh, và mở rộng vòng tay của mình mà chẳng suy nghĩ gì. Anh ấy nấc lên, gục đầu lên vai tôi khóc như một đứa trẻ yếu ớt, trong khi thân người anh ấy run lên trong xúc động.
    Những người phụ nữ chúng tôi có được trong mình cái gì đó từ mẹ mình khiến chúng tôi vượt lên những vấn đề khác nhỏ hơn mỗi khi tinh thần người mẹ được đánh thức. Tôi cảm thấy cái đầu đầy đau khổ của người đàn ông đang dựa vào tôi, giống như của một đứa bé một ngày nào đó sẽ nằm trước ngực tôi, tôi vuốt tóc anh như thể anh là con trai của chính mình. Tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng lúc đó tất cả mọi việc có vẻ lạ lùng như thế nào.
    Sau một lúc những tiếng nấc của anh ấy ngừng lại, anh ấy đứng lên với một lời xin lỗi, dù rằng anh ấy chẳng che giấu sự xúc động của mình. Anh ấy nói với tôi rằng trong những ngày và đêm vừa qua, những ngày mệt mõi và những đêm mất ngủ, anh ấy không thể nói với bất kỳ ai, khi mà một người đàn ông phải nói trong lúc anh ta đang đau khổ. Không có một người phụ nữ đầy cảm thông để mang cho anh, hoặc cùng những gì mà với những sự kiện bi thảm đang bao quanh để anh có thể thốt lên thành lời.
    "Tôi biết là lúc này tôi đau đớn đến mức độ nào," anh ta nói khi đang quệt nước mắt, "nhưng tôi thậm chí vẩn không biết đủ, và không một ai khác có thể biết được sự cảm thông của bà dành cho tôi ngày hôm nay như thế nào. Thời gian sẽ giúp tôi biết được nó tốt hơn, và dù lúc này tôi không đến nỗi quá vô ơn, tôi tin rằng lòng biết ơn sẽ còn tăng thêm khi tôi hiểu ra. Bà sẽ cho phép tôi làm một người anh em với bà nhé, vì tất cả chúng ta sẽ sống vì lợi ích của Lucy thân yêu?"
    "Cho lợi ích của Lucy thân yêu," tôi nói khi chúng tôi nắm tay nhau, "Ay, và cho lợi ích của bạn nữa," anh ta thêm vào, "bởi vì nếu như lòng kính trọng và sự biết ơn nơi một người đàn ông đáng giá một chiến thắng, thì bạn đã thắng tôi hôm nay. Và nếu như có lúc nào đó trong tương lai bạn cần đến sự giúp đỡ của một người đàn ông, xin hãy tin tôi, lời kêu gọi của bạn sẽ không chìm vào hư ảo đâu. Chúa sẽ phù hộ cho cuộc đời bạn không bao giờ tắt đi ánh sáng, nhưng nếu điều đó xảy đến, hãy hứa với tôi là bạn hãy cho tôi biết."
    Anh ta trông thật là nhiệt tình, và nỗi buồn của anh ấy vẩn còn chưa phai mờ, nên tôi cảm thấy rằng điều này sẽ an ủi được anh, tôi nói "Tôi hứa."
    Khi tôi đi dọc theo hành lang tôi thấy ông Morris đang nhìn ra cửa sổ. Ông ta quay lại khi nghe thấy tiếng chân của tôi. "Art thế nào rồi?" ông ta nói. Và nhận thấy mắt tôi đo đỏ, ông ta tiếp tục, "Ah, tôi thấy rằng bà đã an ủi cậu ấy. Ông bạn cũ đáng thương! Cậu ta đang rất cần điều này. Nhưng không một phụ nữ nào có thể giúp đỡ một người đàn ông khi ông ấy có vấn đề với tim mình, và chẳng có điều gì có thể an ủi ông ta được."
    Ông ta đã lảng tránh nỗi đau của riêng mình một cách đầy dũng cảm khiến cho trái tim tôi phải rung động vì điều đó. Tôi thấy bản đánh máy của mình trong tay anh ta, và tôi biết rằng sau khi đọc nó ông nhận thức được tôi đã biết những gì, nên tôi nói với ông ta, "Ước gì tôi có thể an ủi được nỗi buồn trong đáy tim của tất cả các bạn. Ông có thể nhận tôi làm bạn, và ông sẽ đến với tôi để làm vợi bớt lòng mình nếu như ông cần đến nó nhé? Sau này ông sẽ biết vì sao tôi lại nói thế."
    Anh ta nhìn tôi thật nồng nhiệt, và cúi xuống, nắm lấy tay tôi, nâng lên môi và hôn. Hành động an ủi tội nghiệp này chứng tỏ một tâm hồn dũng cảm và không vị kỷ, thôi thúc tôi cúi xuống và hôn anh ấy. Những giọt lệ lăn ra từ mắt anh ta, và trong một thóang cổ họng anh ta như nghẹn lại. Anh ấy nói thật bình thản, "Cô gái nhỏ, bạn sẽ không bao giờ quên rằng có một trái tim thật sự thân ái trong suốt cuộc đời bạn sống!" Và anh ấy quay đi gặp các bạn mình.
    "Cô gái nhỏ!" Đó là những từ mà anh ấy đã dùng để nói với Lucy, và, ôi, anh ấy đã chứng minh rằng anh ấy chính là một người bạn.





  3. #19
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default


    Chương 18

    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD



    Ngày 30 tháng Chín. - Tôi trở về nhà lúc năm giờ, và thấy rằng Godalming cùng Morris không những đã đến, và đã đọc những bản ghi chép cùng những bức thư, không phải từ sau cuộc viếng thăm những người chuyên chở của Harker mà do bác sĩ Hennessey viết cho tôi. Bà Harker pha trà cho chúng, và tôi thành thật mà nói rằng lần đầu tiên trong căn nhà cũ kỹ này lại có một không khí gia đình. Khi chúng tôi kết thúc, bà Harker nói,
    "Bác sĩ Seward, tôi có thể xin ông một đặc ân hay không? Tôi muốn gặp bệnh nhân của ông, bác sĩ Renfield. Hãy để tôi gặp ông ta. Những điều ông nói về ông ta trong nhật ký đã kích thích tôi rất nhiều!"
    Cô ấy trông thật là hấp dẩn và dễ thương đến nỗi tôi không thể từ chối cô ta, mà tôi cũng không thể tìm ra được một lý do khả dĩ cho chuyện này, nên tôi mang cô ta đi với mình. Khi vào phòng, tôi nói với người đàn ông rằng có một quý bà muốn gặp ông ta, ông ta chỉ trả lời đơn giản, "Vì sao?"
    "Bà ấy đi thăm nơi này, và muốn gặp mọi người bên trong nói," tôi trả lời.
    "Ồ, rất tốt," ông ta nói, "hãy để cô ấy vào, bằng bất kỳ cách nào, nhưng hãy đợi một phút để tôi dọn dẹp phòng ốc đã."
    Phương thức ông ta dùng để dọn dẹp rất độc đáo, ông ta chỉ đơn giản nuốt gọn tất cả ruồi và nhện trong hộp trước khi tôi có thể ngăn cản. Rõ ràng là ông ta sợ hãi hoặc đang ngờ vực một trở ngại nào đó. Khi đã hòan thành cái nhiệm vụ kinh khiếp của mình, ông ta nói một cách hoan hỉ, "Nào, hãy mời quý bà ấy vào," rồi ngồi ở mép giường, đầu cúi xuống, nhưng mi mắt nhướng lên để ông ta có thể nhìn thấy khi cô ta đi vào. Trong thóang chốc tôi nghĩ rằng có thể ông ta đang có ý định giết người. Tôi nhớ lại ông ấy đã tỏ ra yên lặng như thế nào trước khi ông ta tấn công tôi trong phòng nghiên cứu, và tôi cẩn thận đứng ở vị trí sao cho tôi có thể tóm được ông ta khi ông có ý định nhảy đến chỗ cô ta.
    Cô ấy bước vào với một vẻ duyên dáng đến nỗi ngay tức khắc khiến cho bất kỳ người tâm thần nào cũng phải ngưỡng mộ, vì đức tính như thế sẽ dễ dàng gây ra ngưỡng mộ cho những người điên. Cô ấy bước đến chỗ ông ta, mỉm cười hiền hậu và chìa tay ra.
    "Xin chào, ông Renfield," cô ta nói. "Ông thấy đấy, tôi biết ông vì bác sĩ Seward đã kể cho tôi nghe về ông." Ông ta không trả lời ngay, nhưng nhìn cô ấy với tất cả vẻ chăm chú tạo nên một sự trầm tư trên khuôn mặt ông ta. Cái nhìn ấy là sự pha trộn giữa sự ngạc nhiên và sự nghi ngờ, và trước sự ngạc nhiên tột độ của tôi, ông ta nói, "Bà không phải là cô gái mà bác sĩ muốn cưới, đúng không? Bà không thể là cô ta, bà biết đấy, cô ta đã chết."
    Bà Harsker mỉm cười dịu dàng khi cô ta trả lời, "Ồ không! Tôi đã có chồng của mình, một người mà tôi đã cưới trước khi tôi gặp bác sĩ Seward hoặc ông ấy gặp tôi. Tôi là bà Harker."
    "Và bà làm gì ở đây?"
    "Chồng tôi và tôi đang ở thăm bác sĩ Seward."
    "Vậy thì đừng ở lại."
    "Nhưng vì sao chứ?"
    Tôi nghĩ rằng tình trạng của cuộc đối thoại này hẳn không làm bà Harker hài lòng, và với tôi thì còn hơn thế nữa, nên tôi tham gia vào, "Làm sao mà ông biết là tôi muốn cưới ai đó?"
    Câu trả lời của ông ta rất đơn giản, sau khi ngừng một lúc để mắt ông ta đảo từ bà Harker qua tôi, ngay sau đó những tia nhìn của ông quay trở về chỗ cũ, "Thật là một câu hỏi của lòai lừa!"
    "Tôi không thấy như vậy chút nào, ông Renfield," bà Harker lên tiếng bênh vực tôi ngay.
    Ông ta trả lời cô ta với sự kính trọng và nhã nhặn ngang với sự khinh thường mà ông ta biểu lộ với tôi, "Tất nhiên là bà sẽ hiểu ngay thôi, thưa bà Harker, rằng khi một người đàn ông đã yêu say đắm như chủ nhà của chúng ta, thì mọi thứ hiện ra trước mắt ông ta là mối quan hệ thú vị của chúng ta. Bác sĩ Seward không chỉ được yêu thương bởi những người trong gia đình và bạn bè ông ấy, mà còn thậm chí bởi bệnh nhân của ông ta, những người mà một số trong bọn họ mất thăng bằng về tinh thần, nên có khuynh hướng bóp méo mọi nguyên nhân và nỗ lực. Do tự bản thân tôi cũng là một bệnh nhân trong cái viện điều dưỡng an thần này, tôi không thể không nhận ra rằng một số bệnh nhân đang có khuynh hướng ngụy biện, dẩn đến những lỗi lầm về việc không có khởi thủy cũng như bỏ qua những mối quan hệ nhân quả."
    Tôi trợn tròn mắt trước sự phát triển này. Đây là bệnh nhân đáng quan tâm nhất của tôi, một dạng đặc biệt nhất mà tôi đã từng gặp, nếu chỉ nói đơn thuần trên phương diện triết lý, và có vẻ ngòai của một người quý tộc lịch sự . Tôi tự hỏi phải chăng sự có mặt của bà Harker đã làm khơi dậy một cái gì đó trong trí nhớ của ông ta.
    Nếu hiện trạng này là sự vô ý, hoặc do một sự ảnh hưởng vô thức của cô ta, thì quả thật cô ta có một tài năng hoặc năng lực hiếm thấy.
    Chúng tôi tiếp tục nói chuyện thêm một lúc, và thấy rằng ông ta có vẻ khá chừng mực, cô ta mạo hiểm, sau khi liếc tôi một cách dò hỏi, cô ta bắt đầu hướng ông ta về chủ đề ưa thích của ông ta. Tôi một lần nữa ngạc nhiên, khi ông ta tự mình đón nhận câu hỏi một cách vô tư như một người tỉnh táo hoàn toàn.Thậm chí ông còn lấy mình ra làm ví dụ khi đề cập đến vấn đề này.
    "Vâng, chính bản thân tôi là một ví dụ về một người có một niềm tin kỳ lạ. Thật sự, không có gì lạ khi bạn bè tôi luôn cảnh giác và khăng khăng muốn khống chế tôi. Tôi đã từng mơ tưởng rằng cuộc sống là một vật thể xác thực và bất diệt, và bằng cách tiêu thụ vô số những vật thể sống, không kể là nó là những sinh vật cấp nào, một con người có thể kéo dài cuộc sống của mình vĩnh viễn. Lúc đó tôi giữ một niềm tin rằng tôi đã thật sự nắm trong tay sức mạnh của con người.
    Bác sĩ đây sẽ xác nhận rằng tôi đã có trường hợp cố giết ông ta với mục đích gia tăng quyền lực sống còn của tôi bằng cách tiêu hóa trong cơ thể tôi cuộc sống của ông ta qua trung gian là máu ông ấy, điều này là tất nhiên, dựa trên câu nói trong kinh thánh, Cái dành cho máu là cuộc sống.' Dù sao thì người cung cấp những phương thức lang băm vẩn luôn là kẻ gánh chịu những lời khinh bỉ. Đúng vậy không, bác sĩ?"
    Tôi gật đầu xác nhận, bởi vì tôi quá kinh ngạc để có thể biết phải nói hay nghĩ gì, thật khó mà tưởng tượng rằng tôi chỉ mới thấy ông ta ăn những con nhện và ruồi năm phút trước đây. Nhìn vào đồng hồ, tôi thấy rằng đã đến lúc phải ra ga đón Van Helsing, nên tôi nói bà Harker là đã đến lúc phải đi.
    Cô ta đi ngay, sau khi nói một cách vui vẻ với ông Renfield, "Tạm biệt, và tôi hy vọng là sẽ thường gặp ông, nó sẽ mang lại cho ông nhiều niềm vui hơn."
    Trước sự ngạc nhiên của tôi, ông ta trả lời, "Tạm biệt, bạn thân mến. Tôi cầu Chúa cho tôi không bao giờ gặp lại khuôn mặt ngọt ngào của bà thêm lần nào nữa. Mong sao Ngài có thể ban phúc và gìn giữ cho bà!"
    Khi ra ga đón Van Helsing, tôi đã không lôi các bạn tôi theo. Art tội nghiệp đã tươi tỉnh hơn so với lần đầu Lucy bị bệnh, và Quincey đã lại càng họat bát hơn so với cái tính nết cố hữu cậu ta cậu ta vốn có trước đây.
    Van Helsing bước ra khỏi xe ngựa với vẻ hăm hở và lanh lẹn của một cậu bé. Ông ta nhìn thấy tôi ngay và chạy bổ đến, cất tiếng, "A, anh bạn John, mọi sự thế nào? Thế đấy? A ha! Tôi đã rất bận, và tôi chỉ đến ở lại đây nếu cần thiết. Tôi đã sắp đặt xong mọi việc, và tôi có rất nhiều thứ để nói. Bà Mina đã đến chỗ anh? Đúng vậy. Và người chồng tốt bụng của bà cũng thế? Còn Arthur và anh bạn Quincey của tôi, họ cũng đến chỗ anh rồi chứ? Tốt."
    Trong khi đánh xe về nhà tôi kể lại với ông ấy những gì đã xảy ra, quyển nhật ký của tôi đã được sử dụng theo cách mà bà Harker đề nghị như thế nào, đến lúc đó thì giáo sư ngắt lời tôi.
    "A, bà Mina thật là tuyệt vời! Bà ấy có khối óc của một người đàn ông, khối óc của một người đàn ông đầy tài năng, và trái tim của phụ nữ. Chúa nhân từ đã có mục đích để tạo ra bà ta, tin tôi đi, khi mà Ngài tạo ra một sự kết hợp tuyệt vời như vậy. Bạn John, đến lúc này thì vận may đã mang đến cho chúng ta một người phụ nữ để giúp đỡ chúng ta, nhưng đến sau đêm nay thì bà ta sẽ không phải làm gì nữa trong cái công việc khủng khiếp này. Sẽ không tốt nếu đưa bà ấy vào một sự mạo hiểm lớn như vậy.
    Những người đàn ông chúng ta đã xác định, không những thế, chúng ta đã cam kết để tiêu diệt con quái vật này, đúng không? Nhưng đây không phải là công việc dành cho phụ nữ. Thậm chí nếu bà ta không bị thương tích gì, thì trái tim của bà ấy cũng sẽ khiến bà ta quỵ ngã bởi quá nhiều và quá lớn những câu chuyện kinh dị khiến cho sau đó bà ta có thể bị tổn thương cả khi thức tỉnh bởi tinh thần và cả khi ngủ bởi những cơn mộng. Và ngòai ra, bà ấy là một phụ nữ trẻ vừa mới lập gia đình không lâu, và còn nhiều việc khác phải quan tâm sau này, nếu như không phải lúc này. Anh kể với tôi rằng bà ấy đã viết lại tất cả, và bà ấy hẳn có suy nghĩ giống với chúng ta, nhưng từ ngày mai bà ấy sẽ từ giã công việc này, và chúng ta sẽ lên đường một mình."
    Tôi nồng nhiệt đồng ý với ông, và đoạn tôi nói với ông rằng chúng tôi đã phát hiện ra trong lúc ông vắng mặt, rằng Dracula đã mua một ngôi nhà gần sát ngay nhà tôi. Ông ấy giật mình, và lập tức quan tâm rất chăm chú.
    "Ôi, giá mà chúng ta biết được điều này sớm hơn!" ông ta nói, "thì chúng ta có thể tóm được hắn kịp lúc để cứu Lucy tội nghiệp. Tuy nhiên, sữa đã đổ ra thì không thể thu lại sau đó nữa,' như người ta vẩn thường nói.
    Chúng ta sẽ không nghĩ đến điều đó nữa, nhưng sẽ tiếp tục đi đến tận cùng con đường của chúng ta." Đoạn ông rơi vào trạng thái trầm mặc cho đến khi chúng tôi về đến cổng chính Trước khi chúng tôi chuẩn bị đi ăn tối, ông nói với bà Harker, "tôi được nghe bạn John của tôi nói là bà và chồng bà đã sắp đặt lại chính xác mọi việc theo thứ tự ngày tháng cho đến lúc này."
    "Không phải đến lúc này, giáo sư," cô ta hấp tấp nói, "mà đến sáng nay."
    "Nhưng vì sao lại là không phải đến lúc này? Cho đến giờ chúng ta đã soi ánh sáng lên tất cả mọi vật. Chúng ta đã kể cho nhau nghe những bí mật của mình, mà không ai giữ kín lại điều gì."
    Bà Harker bắt đầu đỏ mặt. và rút ra từ trong túi một tờ giấy, cô ta nói "Bác sĩ Van Helsing, xin ông hãy đọc những thứ này và nói với tôi xem nó có cần thiết không. Đó là những ghi chép của tôi ngàu hôm nay. Tôi cũng đã ghi lại mọi thứ đến lúc này, dù là những điều tầm thường, ngoại trừ những điều riêng tư. Liệu nó có cần không?"
    Giáo sư đọc nó rất chăm chú, rồi cầm nó trở lại, nói, "Nó sẽ không cần thiết nếu như bà không muốn, nhưng tôi cầu mong sao nó có thể. Nhưng nó sẽ làm cho chồng bà thêm yêu bà, và tất cả chúng tôi, những người bạn của bà, càng thêm kính phục cũng như quý mến và yêu thương đối với bà." Cô ta lại một lần nữa đỏ mặt và quay đi với nụ cười rạng rỡ.
    Và đến lúc này, sau một lúc lâu, tất cả tài liệu đã hòan tất và sắp xếp lại. Giáo sư lấy ra một bản sao và đi vào phòng nghiên cứu sau bữa tối, vì chúng tôi dự định sẽ họp vào lúc chín giờ. Những người còn lại trong số chúng tôi đã đọc xong mọi thứ, nên khi họp mặt lại chúng tôi đã nắm được các sự kiện và có thể sắp xếp kế hoạch chiến đấu với kẻ thù kinh khiếp và bí ẩn này.
    NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER
    Ngày 30 tháng Chín. - Khi chúng tôi gặp nhau trong phòng nghiên cứu của bác sĩ Seward hai giờ sau bữa ăn chiều lúc sáu giờ, chúng tôi vô tình đã tạo thành một thứ đại loại như một bộ hoặc một ủy ban. Giáo sư Van Helsing ngồi ở đầu bàn, nơi mà bác sĩ Seward đã ra hiệu cho ông lúc ông tiến vào phòng. Ông đặt tôi ngồi sát bên phải ông, và yêu cầu làm thư ký. Jonathan ngồi sát bên tôi. Đối diện với chúng tôi là Huân tước Godalming, bác sĩ Seward và ông Morris, Huân tước Godalming ngồi bên giáo sư, và bác sĩ Seward ngồi giữa.
    Giáo sư nói, "Tôi cho rằng mọi người đã biết được tất cả những việc được ghi lại trong những giấy tờ này." Tất cả chúng tôi đều biểu lộ sự đồng ý, và ông ta tiếp tục, "Vậy thì, tôi nghĩ rằng đã đến lúc tôi nói với các bạn đôi điều về cái thứ kẻ thù mà chúng ta đang đương đầu. Tôi sẽ cho các bạn biết một chút về lịch sử của con người này mà tôi đã tìm hiểu được. Sau đó chúng ta thảo luận xem chúng ta sẽ làm gì và đi đến kết luận cuối cùng.
    "Chúng ta đã dần chấp nhận rằng tồn tại một thứ gọi là ma cà rồng. Thậm chí nếu chúng ta không được chứng minh bởi những kinh nghiệm đau buồn của mình, thì những bài học và tài liệu của quá khứ cũng đủ chứng minh cho những người có đầu óc lành mạnh. Tôi thú nhận rằng đầu tiên tôi cũng hòai nghi. Qua một thời gian dài tôi cố giữ cho mình có một tâm hồn rộng mở, tôi không thể tin được cho đến một khi một cái gì đó như một tiếng sấm vang lên trong tai tôi, Xem này! Xem này, tôi chứng minh này.'
    Than ôi! Trước tiên tôi đã biết cái mà bây giờ tôi biết, không những thế, tôi thậm chí còn đóan ra hăn, kẻ có một cuộc sống, kẻ mà sức sống ghê gớm của hắn có thừa để đối phó với chúng ta, những người yêu dấu cô gái ấy. Nhưng tất cả đã qua, và bây giờ chúng ta phải làm việc, để cho những tâm hồn tội nghiệp khác sẽ không bị những nỗi đau khổ này trong khi chúng ta còn có thể cứu giúp họ được. Cái thứ này không phải như lòai ong chết sau khi chích lần đầu.
    Nó chỉ càng mạnh lên, lại càng có thêm sức lực để làm những điều độc ác. Con ma cà rồng này sống giữa chúng ta trong hình hài con người và có sức mạnh bằng với mười hai người, và sự xảo nguyệt của hắn thì càng hơn thế, vì sự xảo nguyệt của hắn ngày càng lớn dần theo năm tháng, ngòai ra hắn còn được trợ lực bởi thuật gọi hồn, có nghĩa là hắn có thể phát ra những thông điệp được đóan nhận bởi người chết, và tất cả những người chết ở gần hắn đều nghe lệnh hắn, hắn là một kẻ độc ác, và hơn cả độc ác, hắn là một tên ác quỷ tàn nhẫn, hắn không có trái tim, trong cơn giận của mình, hắn có thể ra lệnh trực tiếp cho các nguyên tử điện, bão tố, sương mù, sấm sét, hắn có thể ra lệnh cho nhiều động vật khác, chuột, cú, và dơi, bướm đêm, và cáo, chó sói, hắn có thể lớn lên hay bé đi, và hắn có thể tàng hình ngay tức khắc và biến đi không ai thấy.
    Chúng ta sẽ bắt đầu cuộc chiến để tiêu diệt hắn như thế nào? Chúng ta sẽ tìm hắn ở đâu, và nếu tìm thấy thì làm thế nào diệt được? Các bạn ạ, đó là một nhiệm vụ nặng nề và ghê gớm mà chúng ta phải đảm trách, và sự gánh vác trách nhiệm này sẽ khiến cho những người can đảm cũng phải rùng mình. Bởi vì nếu chúng ta thất bại trong cuộc chiến của mình, nghĩa là nếu hắn chiến thắng, thì kết cục của chúng ta sẽ là gì? Cuộc sống chẳng là gì cả, tôi không sợ về chuyện này. Nhưng vấn đề ở đây là, nếu như thất bại, thì không chỉ đơn thuần là chuyện sống hay chết. Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ trở thành như hắn, và từ lúc đó chúng ta sẽ trở thành những kẻ ghê rợn trong bóng đêm như hắn, không có trái tim và lương tâm, săn đuổi thể xác và tâm hồn của những người mà chúng ta yêu thương nhất.
    Với chúng ta, cánh cửa thiên đàng đã đóng lại vĩnh viễn, bởi vì ai sẽ mở nó lại cho chúng ta? Chúng ta sẽ mãi mãi bị ghê tởm bởi tất cả mọi người, sẽ là những vết nhơ trong ánh hào quang của Chúa, sẽ là mũi tên trong tay Hắn để chống lại lòai người. Nhưng chúng ta đang mặt đối mặt với bổn phận của mình, và trong lúc này chúng ta rút lui chăng? Với tôi, tôi nói là không, nhưng bởi vì tôi đã già, và cuộc sống, với ánh sáng rực rỡ, những vùng đất tươi đẹp, tiếng chim ca hát, âm nhạc và tình yêu đã trôi xa rồi. Các bạn khác còn trẻ. Một số đã có những ngày đau khổ, nhưng vẩn còn rất nhiều những ngày tươi đẹp trước mặt. Các bạn nói sao?"
    Trong khi ông ta nói, Jonathan nắm lấy tay tôi. Tôi run rẩy, ôi, tôi sợ ghê gớm, cái cảm giác kinh hỏang tự nhiên về sự nguy hiểm của chúng tôi xâm chiếm lấy anh khi tôi thấy tay anh ấy duỗi thẳng ra, nhưng tôi dường như sống lại khi tôi cảm thấy trong bàn tay ấy sự xúc động, sự mạnh mẽ, sự tự tin vào chính mình, đầy kiên quyết. Một cánh tay của một người đàn ông can đảm có thể nói thay cho anh ta, thậm chí không cần có tình yêu của người phụ nữ để lắng nghe khúc ca của nó.
    Khi giáo sư nói xong, chồng tôi nhìn vào mắt tôi và tôi nhìn vào mắt anh ấy, và giữa chúng tôi không cần phải nói gì nữa.
    "Tôi trả lời cho Mina và tôi," anh ấy nói.
    "Tính thêm tôi nữa, giáo sư." ông Quincey Morris nói, gọn gàng như thường lệ.
    "Tôi sẽ ở bên các bạn," huân tước Godalming nói, "chỉ vì lợi ích của Lucy, không có lý do nào khác."
    Bác sĩ Seward chỉ đơn giản gật đầu.
    Giáo sư đứng dậy, và sau khi đặt cây thánh giá bằng vàng của ông ấy lên bàn, đưa tay ông ấy sang hai bên.
    Tôi nắm lấy tay phải của ông ấy, và huân tước Godalming nắm lấy tay trái, Jonathan nắm tay phải tôi trong tay trái của anh và vươn tay sang cho ông Morris. Và khi tất cả chúng tôi nắm tay nhau như vậy, xem như một hiệp ước chính thức đã được xác lập. Tôi cảm thấy như tim mình đông lạnh đi, nhưng không hề có một ý nghĩ thối lui. Khi chúng tôi trở về chỗ, và bác sĩ Van Helsing tiếp tục với một vẻ phấn khởi lộ rõ là công việc ghê gớm này đã bắt đầu. Nó được tiến hành với vẻ trang trọng, và có tổ chức, giống như những công việc giao dịch khác của cuộc sống.
    "Thế đấy, bây giờ thì chúng ta đã biết chúng ta phải chiến đấu với cái gì, nhưng chính bản thân chúng ta cũng không hề thiếu sức mạnh. Về phía mình, chúng ta có sức mạnh của sự hiệp lực, một sức mạnh mà lũ ma cà rồng không có, chúng ta có khoa học, chúng ta tự do hành động và suy nghĩ, và đối với chúng ta ngày và đêm đều như nhau. Như vậy, khi chúng ta triển khai năng lực của mình, chúng được tự do và chúng ta không thể dùng nó mà không hề bị ngăn trở. Chúng ta có sự tận tâm với chính mình, và điều đó cần lẫn đủ để không một ai trở nên ích kỷ. Những điều đó đáng kể lắm chứ.
    "Bây giờ thì chúng ta sẽ xem xét xem những thế lực đang đối chọi với chúng ta có những giới hạn gì, và không thể làm được những gì. Vậy đấy, chúng ta hãy tập trung vào những giới hạn chung của ma cà rồng, và của tên này nói riêng.
    "Tất cả những gì chúng ta có dựa trên truyền thuyết và sự mê tín. Trước tiên chúng ta không có gì nhiều, khi vấn đề là sự sống và cái chết, thậm chí còn hơn sự sống và cái chết. Một lần nữa chúng ta phải thỏa mãn với những thứ này, bởi vì thứ nâst chúng không có gì trong tầm tay cả, và thứ nhì, tất cả những truyền thuyết và sự mê tín đều bắt đầu từ sự thạt. Không thể tin rằng ma cà rồng sống lẫn lộn giữa mọi người, thậm chí, than ôi, giữa chúng ta, là bọn chúng! Một năm trước ai trong chúng ta có thể tin vào điều này, giữa đầy rẫy những khoa học, những điều hòai nghi, những thực tế đang diễn ra ở thế kỷ mười chín?
    Chúng ta theo đuổi một niềm tin rằng chúng ta sẽ được chứng minh dưới những sự việc đã được quan sát. Hãy tin rằng có ma càng rồng, và chúng có những giới hạn và khả năng phục hồi khi nghỉ ngơi trong những cơ sở chúng chúng. Để tôi nói các bạn rằng, chúng đã được biết đến ở bất kỳ nơi đâu mà con người đã từng tồn tại.
    Ở Hy Lạp cổ, ở Rome cổ, chúng phát triển hưng thịnh ở Đức sau đó, ở Pháp, Ấn Độ, thậm chí ở Chermonese, ở Trung Quốc, ở những nơi rất xa chúng ta, và thậm chí dòng giống của chúng vẩn còn ở đấy trong những ngày này. Chúng đã theo những chuyến tàu của người Icelander cáu kỉnh, những người Hun độc ác bẩm sinh, người Slav, người Saxon, người Magyar.
    "Đến lúc này, tất cả chúng ta đã có cơ sở để hành động, và hãy để tôi nói với các bạn rằng những niềm tin ấy đã được chứng minh bởi những kỷ niệm đau buồn mà chúng ta đã từng nếm trải qua. Ma cà rồng sống mãi, không thể chết đơn thuần bởi thời gian, chúng càng phồn thịnh khi được vỗ béo bởi máu của sinh vật sống.
    Thậm chí hơn nữa, trong số chúng ta đã có người thấy hắn có thể trẻ lại, sức mạnh sống còn của hắn càng gia tăng, và có vẻ chúng tự phục hồi khi chúng có dồi dào thức ăn.
    "Nhưng hắn không thể tác yêu tác quái mà không ăn gì, hắn không ăn những thứ gì khác. Thậm chí bạn Jonathan đây đã sống với hắn hàng tuần mà chưa bao giờ thấy hắn ăn, chưa bao giờ! Hắn đi không có bóng, hắn không có hình phản chiếu trong gương, một lần nữa Jonathan có thể xác nhận điều này, Hắn có sức mạnh ghê gớm trong tay, Jonathan lại có thể làm chứng về điều này khi thấy hắn mở cửa với bầy sói, và hắn cũng có một chiếc xe ngựa để dùng khi cần. Hắn có thể biến thành sói, chúng ta biết điều này qua chuyến tàu đến Whitby, khi hắn xé xác một con chó, và có thể biến thành dơi, khi bà Mina thấy hắn bên cửa sổ ở Whitby, khi bạn John thấy hắn bay từ căn nhà gần đây, và khi anh Quincey của tôi thấy hắn tại cửa sổ phòng cô Lucy.
    "Hắn có thể biến vào trong đám sương mù do hắn tạo ra, người thuyền trưởng trung hậu của chuyến tàu trên đã chứng minh điều này, nhưng chúng ta cũng biết từ đó rằng khỏang cách của đám sương mà hắn tạo ra là có giới hạn, chúng chỉ có thể bao quanh hắn mà thôi.
    "Hắn có thể đi trong ánh trăng dưới dạng những đám bụi, như Jonathan đã ở những chị em của hắn trong lâu đài Dracula. Hắn có thể trở thành rất nhỏ, như chúng ta đã thấy ở cô Lucy, trước khi cô ấy trở về với sự yên bình, đã biến qua khe hỡ nhỏ như sợi tóc trên cửa mộ. Một khi đã tìm thấy đường đi rồi, hắn có thể đi vào ra đi ra bất cứ vật gì, bất kể nó được bao bọc như thế nào, hay thậm chí nấu chảy ra trong lửa hoặc hàn kín lại. Hắn có thể nhìn thấy trong bóng đêm, một sức mạnh không nhỏ, trong một nữa cái thế giới không có ánh mặt trời. A, nhưng hãy nghe tôi nói này.
    "Hắn có thể làm tất cả mọi thứ, nhưng hắn không phải là kẻ tự do. Thậm chí, hắn còn bị giam hãm còn hơn cả những nô lệ trên những chiến thuyền, những người điên trong ngục. Hắn không thể đi bất kỳ đâu hắn thích, hắn không phải là một sinh vật tự nhiên để tuân theo những quy luật tự nhiên mà chúng ta đã biết. Hắn không thể đi vào bất kỳ nơi nào đầu tiên, trừ phi có một ai trong gia đình mời chào hắn vào, dù sau đó hắn có thể lui đến tùy thích. Năng lực của hắn dừng lại cùng với tất cả những sự việc ma quái khác khi mà ngày mới bắt đầu.
    "Rõ ràng tại thời điểm ấy tự do của hắn bị giới hạn. Nếu hắn không có một ở bao bọc lấy hắn, hắn chỉ có thể tự biến đổi vào lúc đứng bóng, hay đúng hơn là lúc mặt trời mọc hoặc mặt trời lặn. Những điều này chúng chúng ta đã được biết, và từ những tài liệu của chúng ta, chúng ta có thể suy luận để chứng minh nó. Như vậy, hắn có thể làm được mọi thứ trong giới hạn này, khi mà hắn có một ngôi nhà - đất, một ngôi nhà - quan tài, ngôi nhà địa ngục của hắn, một nơi không linh thiêng, như chúng ta đã thấy hắn chui vào trong một ngôi mộ của một người tự tử tại Whitbym, ở trong đấy đến tận khi thời điểm mà hắn có thể tự biến đổi. Nó cũng nói rằng hắn chỉ có thể đi trên nước theo sự lên xuống của thủy triều.
    Và còn có những vật khó chịu đối với hắn khiến hắn không còn quyền lực, mà chúng ta đã biết như là tỏi, và những thứ linh thiêng khác, như cái vật này, cây thánh giá của tôi, chúng ta đã biết hoặc thậm chí bây giờ mới biết, đối với chúng hắn chẳng là gì, nhưng khi có chúng thì hắn phải tránh xa, lặng im kính cẩn. Cũng còn có những thứ khác mà tôi sẽ nói với các bạn, để chúng ta nắm giữ phòng khi chúng ta cần đến.
    "Cành hoa hồng dại nếu đặt trên quan tài của hắn sẽ giữ hắn bất động, một viên đạn làm phép bắn vào quan tài của hắn sẽ giết hắn và khiến hắn có một cái chết thật sự, cũng như đóng một cái cọc xuyên qua hắn, chúng ta đã thấy công việc bình yên này, hoặc là cắt rời đầu hắn ra sẽ cho sự yên nghĩ. Chúng ta đã thấy điều này bằng mắt mình.
    "Như vậy chúng phải tìm nơi cư trú của kẻ đã-từng-là-người này, chúng ta có thể giam hãm hắn trong cái quan tài của hắn và giết hắn, nếu chúng ta tuân theo những gì chúng ta biết. Nhưng hắn là một kẻ thông minh. Tôi đã hỏi bạn tôi Arminius, của trường đại học Buda-Pesh, để mượn cái tài liệu của ông ta, và từ những thứ này, chúng đã kể lại cho tôi biết về quá khứ của hắn. Thật sự, hắn chính là Voivode Dracula, kẻ đã có được chiến thắng lưu danh trước quân Thổ trên con sông lớn tại biên giới Thổ Nhĩ Kỳ.
    Nếu đúng vậy, thì hắn không phải là một kẻ tầm thường, bởi vì vào thời điểm đó, vào hàng thế kỷ trước, hắn được nói đến như một người thông minh và xảo nguyệt nhất, cũng như là kẻ can đảm nhất trong những đứa con của vùng đất phía sau cánh rừng.' Bộ óc ghê gớm cùng quyết tâm sắt thép này đã đi cùng với hắn xuống mộ, và thậm chí bây giờ lại dàn trận chống lại chúng ta. Arminius nói rằng, Dracula là một dòng giống vĩ đại và quý phái, dù thỉnh thỏang vẩn còn sót lại trong tâm tưởng của những người cùng thời là họ phải giao thiệp với Ác Quỷ Số Một. Họ biết được điều bí mật của hắn ở Scholomance, giữa những ngọn núi trên hồ Hermanstadt, nơi mà ác quỷ cầu khẩn nhận được ân huệ thứ mười như hắn.
    Trong tài liệu đó có những từ như 'stregoica' phù thủy, ordog và pokol. Quỷ vương và địa ngục, và trong bản viết tay này, Dracula được nói đến như như là wampyr ma cà rồng, mà chúng ta đã hiểu khá rõ. Nó được tạo ra từ thắt lưng của những người đàn ông vĩ đại và những người đàn bà tốt bụng, mà mồ mả của họ trong lòng đất trở thành nơi cho những thứ ghê tởm này có thể trú ẩn đơn độc. Vì nó không phải là lãnh thổ cuối cùng của những thứ ma quái này, nó có nguồn gốc sâu trong tất cả những điều tốt đẹp, trong những nơi cặn bã cằn cỗi mà không một kỷ niệm linh thiêng nào có thể an nghĩ."
    Trong khi họ đang nói chuyện, ông Morris vẩn nhìn chăm chăm ra ngòai cửa sổ, và bây giờ ông ấy trở nên lặng lẽ, rồi đi ra khỏi phòng. Giáo sư ngừng lại một thoáng và tiếp tục.
    "Và bây giờ chúng ta phải xác định những gì chúng ta phải làm. Chúng ta đã có nhiều dữ liệu, và chúng ta phải sắp đặt chiến dịch của mình. Từ cuộc điều tra của Jonathan chúng ta đã biết rằng từ lâu đài đã có năm mươi thùng đất được chuyển đến Whitby, tất cả chúng được phân phối đến Carfax, và ít nhất chúng ta cũng biết rằng những thùng này đã được chuyển đi. Đối với tôi, điều đầu tiên nên xác định là còn lại những gì trong ngôi nhà phía sau những bức tường mà chúng ta có thể quan sát thấy từ chỗ này đã được chuyển đi hay không. Nếu còn, chúng ta phải lần theo..."
    Đến đây thì chúng tôi bị ngắt quãng một cách kỳ lạ. Bên ngòai ngôi nhà vẳng đến tiếng súng lục, kính cửa sổ vỡ lỏang xỏang bởi tiếng tiếng đạn, bắn tung tóe từ đỉnh của lỗ châu mai, văng ra từ bức tường phía xa của căn phòng. Tôi sợ là tôi đã nghe thấy tiếng của một tên trộm, nên tôi kêu thét lên. Mọi người nhảy dựng lên, huân tước Godalming nhảy đến cửa sổ và mở cửa chớp. Khi anh ấy làm điều đó chúng tôi nghe tiếng ông Morris vọng lại, "Xin lỗi! Tôi e là rôi đã làm mọi người giật mình. Tôi sẽ đến và nói lại với các bạn chuyện gì đã xảy ra."
    Một phút sau ông ta đi vào và nói, "Tôi thật là ngu ngốc khi làm điều này, và tôi phải thành thật xin lỗi bà, bà Harker, tôi sợ là tôi đã làm bà chết khiếp. Nhưng mọi chuyện là trong khi giáo sư đang nói thì có một con dơi lớn bay đến và đậu bên ngưỡng cửa sổ. Từ những biến cố gần đây thì cái thứ thú vật kinh tởm này trở nên vô cùng kinh dị khiến tôi không thể chịu nỗi chúng, nên tôi đi ra để bắn nó, giống như tôi đã làm hồi lúc chiều tối, lúc tôi thấy một con. Cậu có thể cười nhạo tớ về việc này đấy, Art."
    "Anh bắn trúng nó chứ?" bác sĩ Van Helsing hỏi.
    "Tôi không biết, tôi không thể xác định được, vì nó bay vào rừng mất." Không nói thêm một lời, ông ấy trở về chỗ ngồi, và giáo sư bắt đầu trở lại với ý kiến của mình.
    "Chúng ta phải lần theo những cái hộp trên, và khi chúng ta làm được, chúng phải hoặc là bắt hoặc là giết con quái vật này trong hang ổ của nó, hoặc chúng ta phải, nói hơi quá lời, làm trong sạch quả đất, để hắn không có một chỗ nào an toàn để ẩn náu. Theo cách đó cuối cùng chúng ta có thể tìm gặp hắn trong hình dạng con người vào những lúc giữa lúc đứng bóng và hoàng hôn, khi đó hắn ở vào tình trạng yếu ớt nhất.
    "Và bây giờ là đến phần bà, bà Mina, đêm nay sẽ là chấm dứt mọi chuyện đối với bà cho đến khi tất cả đều ổn. Bà thật quá quý giá đối với với chúng tôi trong canh bạc này. Chúng ta sẽ chia tay vào đêm nay, mà bà không được có câu hỏi nào. Chúng tôi sẽ kể lại với bà vào thời điểm thích hợp. Chúng tôi là đàn ông và có thể chịu đựng được, nhưng bà là ngôi sao và niềm hy vọng của chúng tôi, và chúng tôi sẽ hành động thoải mái hơn khi biết bà ở ngòai vòng nguy hiểm khi chúng tôi đang đương đầu với nó."
    Tất cả mọi người, thậm chí cả Jonathan, đều hài lòng, nhưng điều đó không phải là hay cho tôi khi họ chấp nhận nguy hiểm một cách dũng cảm, và có thể sự an tòan của họ sẽ giảm đi, khi họ dành sức để bảo đảm an tòan tuyệt đối cho tôi, nhưng tâm tưởng của họ đã quyếtm và dù đó là một viên thuốc đắng mà tôi phải nuốt, tôi cũng không thể nói gì ngòai việc chấp nhận sự quan tâm hào hiệp của họ dành cho tôi.
    Ông Morris trở lại cuộc thảo luận, "Bây giờ thì không nên để mất thời gian, tôi đề nghị chúng ta nên quan sát ngôi nhà kia ngay.Với hắn thì thời gian là mọi thứ, và nếu chúng ta hành động nhanh, chúng ta có thể cứu được những nạn nhân khác."
    Tôi tự cảm thấy rằng trái tim mình đã bắt đầu chịu thua tôi khi mà thời gian hành động đến gần, nhưng tôi vẩn không nói gì, vì tôi lo là nếu tôi xuất hiện như một vật cản hay một chướng ngại trên công việc của mình, thì thậm chí họ sẽ gạt tôi ra khỏi mọi cuộc thảo luận của họ. Bây giờ họ đang đi đén Carfax, với ý định là đi vào ngôi nhà kia.
    Như những người đàn ông, họ bảo tôi lên giường và nằm ngủ, cứ như là một người phụ nữ có thẻ ngủ khi mà những người thân yêu của cô ta đang trong vòng nguy hiểm! Tôi nằm xuống và giả vờ ngủ, để cho Jonathan đừng thêm bận tâm về tôi khi anh ấy trở về.
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 1 tháng Mười, 4 giờ sáng. - Ngay khi chúng tôi chuẩn bị rời nhà, có một thông điệp khẩn cấp từ Renfield được chuyển tới tôi, ông ta muốn gặp tôi ngay vì ông ta có một điều vô cùng quan trọng để nói với tôi. Tôi nói với người chuyển tin là tôi sẽ thỏa mãn yêu cầu của ông ta vào sáng mai, bởi vì lúc này tôi rất bận.
    Người hầu thêm vào, "Ông ấy trông có vẻ rất nài nỉ, thưa ngài. Tôi chưa bao gơf thấy ông ta hăm hở như vậy.
    Tôi không biết vì sao như vậy, nhưng mà nếu ngài không gặp ông ấy sớm, thì ông ta hẳn sẽ nổi cơn như trước đây mất." Tôi biết người đàn ông này không bao giờ nói điều gì mà không có lý do, nên tôi nói, "Được rồi, tôi sẽ đi ngay," và tôi nói mọi người đợi tôi vài phút, để tôi đi gặp bệnh nhân của mình.
    "Cho tôi đi với, bạn John," giáo sư nói,"Trường hợp của người này được miêu tả trong nhật ký của anh làm tôi rất thú vị, và nó có lẽ cũng đáng quan tâm ở mức độ nào đấy trong công việc của chúng ta. Tôi rất muốn được gặp ông ta, đặc biệt khi tâm hồn ông ta đang bị xáo trộn."
    "Tớ cũng có thể đi chứ?" Huân tước Godalming nói.
    "Tớ nữa?" Quincey Morris nói. "Tôi có thể đi được không?" Harker nói. Tôi gật đầu, và tất cả chúng tôi cùng đi ra lối đi.
    Chúng tôi thấy ông ta trong một tình trạng rất kích động, nhưng giọng nói và dáng vẻ của ông ta có một vẻ đầy lý trí mà tôi chưa bao giờ thấy trước đấy. Tự bản thân ông ta có một trí tuệ dị thường, không giống với bất kỳ ai mà tôi đã gặp trong viện điều dưỡng, và ông ta dùng nó để thuyết phục tất cả những người hoàn toàn tỉnh táo khác. Cả năm chúng tôi bước vào phòng, nhưng không ai mở miệng trước. Ông ta yêu cầu tôi thả ông ta ra khỏi viện điều dưỡng và cho ông về nhà ngay. Ông ta hùng hồn tranh cãi rằng ông ta đã hồi phục hoàn toàn, và viện dẩn những lý lẽ chứng minh cho sự tỉnh táo của ông ta.
    "Tôi khá là lôi cuốn đối với các bạn của ngài," ông ta nói, "và các ngài đây có thể sẽ không phiền khi đưa ra lời phán xử đối với trường hợp của tôi. Nhân tiện, hình như ngài chưa giới thiệu tôi."
    Tôi khá là ngạc nhiên, bởi vì cái sự việc giới thiệu một người điên trong viện điều dưỡng chẳng làm tôi cảm thấy kỳ cục vào lúc ấy, và ngòai ra, dáng vẻ trịnh trọng tuyệt đối của của người đàn ông khiến ông trở nên ngang bằng với những người bình thường, và tôi giới thiệu ngay tức khắc, "Huân tước Godalming, giáo sư Van Helsing, ngài Quincey Morris, từ Texas, ông Jonathan Harker, ông Renfield."
    Ông ta bắt tay từng người trong số họ, và nói với từng người khi đến lượt, "Huân tước Godalming, tôi có vinh dự là phụ tá của cha ngài tại Windham, và tôi lấy làm khi được tin từ ngài là ông ấy không còn nữa. Ông ấy là người mà tất cả ai đã biết ông ấy đều yêu thương và kính trọng, và tôi đã từng nghe nói là vào lúc còn trẻ, ông ấy đã sáng chế ra cách uống rượu rum nóng được hoan nghênh rất nhiêu trong các quán ở Derby. Ngài Morris, ngài quả đáng tự hào về bang của ngài.
    Sự tiếp đón một người con của Hiệp Chủng Quốc tại đây có thể sẽ là một tiền lệ để đạt đến một nỗ lực lớn hơn sau này, khi mà vùng Cực và Nhiệt Đới sẽ trở thành khối đồng minh với mảnh đất Sao và Sọc Vằn. Quyền lực của Hiệp Ước sẽ có thể chứng minh thêm lần nữa trên một phương diện rộng lớn, khi mà học thuyết Monroe sẽ nhận đúng vai trò của nó như là một truyền thuyết chính trị. Và bất cứ ai cũng sẽ nói như thế nào về sự hài lòng của họ khi gặp Van Helsing nhỉ? Thưa ngài, tôi sẽ không xin lỗi vì đã bỏ rơi đến những tước hiệu quy ước cần phải gọi.
    Khi mà một cá nhân đã mở ra một cuộc cách mạng về chữa bệnh dựa trên sự khám phá về sự hoạt động tiếp diễn trên não bộ, thì những tước hiệu trên là không thích hợp, vì nó có vẻ như giới hạn ông ta trong một tầng lớp nào đó. Ngài, một nhà quý tộc, người đáng được kính trọng ở khắp mọi nơi trên trái đất mà ngài đi đến, bởi quốc tịch, bởi sự di truyền, hoặc bởi sự sở hữu trong tay những món quà của tự nhiên, tôi không nghi ngờ rằng tôi là một người hoàn toàn tỉnh táo như phần lớn những người có đầy đủ tự do. Và tôi tin chắc rằng, ngài, bác sĩ Seward, đầy nhân đạo, một luật sư-thầy thuốc cũng như là một nhà khoa học, sẽ cho rằng đây là một trách nhiệm đạo đức để xem tôi như một trường hợp biệt lệ." Ông ta đưa ra lời thỉnh cầu cuối với một vẻ nhã nhặn, đầy sức thuyết phục mà không mất đi sự quyến rũ của riêng ông ấy.
    Tôi nghĩ rằng tất cả chúng tôi đều do dự. Về phần mình, tôi bị thuyết phục dữ dội, bất chấp những gì tôi biết về tính cách và quá khứ của người đàn ông, rằng lý trí của ông ta đã được phục hồi, và tôi cảm thấy có một sự thôi thúc bốc đồng mạnh mẽ để nói với ông ta rằng tôi rất hài lòng về sự tỉnh táo của ông ta, và sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để giải phóng ông ta vào buổi sáng. Tuy vậy, tôi nghĩ rằng tốt hơn nên đợi trước khi đưa một quyết định quan trọng như vậy, bởi vì tôi biết người đàn ông già này có thể thình lình biến đổi thành một bệnh nhân đặc biệt là một điều có thể xảy ra. Vì vậy tôi đấu tranh với bản thân để đưa ra một phán định chung rằng tình hình bệnh tật của ông ta đã được cải tiến rõ rệt, và tôi sẽ nói chuyện thêm với ông ta vào buổi sáng, rồi sẽ xem xét xem tôi có thể làm gì với ước nguyện của ông ta.
    Điều này không làm ông ta thỏa mãn, và ông nói gấp gáp, "Nhưng tôi sợ là, bác sĩ Seward ạ, ngài đã tỏ ra quá nghiêm khắc với ước nguyện của tôi. Tôi muốn được đi ngay lúc này, ở đây, ngay bây giờ, tại giờ này, tại thời điểm này, nếu như tôi có thể. Thời giờ rất gấp, và sự đồng ý của chúng ta bao hàm với một người già là phần chính yếu của thỏa ước. Tôi chắc rằng chỉ cần đưa nó ra trước một con người đáng kính trọng, một bác sĩ đang hành nghề như bác sĩ Seward đây là đầy đủ, và cũng đủ quan trọng cho lời ước nguyện của tôi, để bảo đảm cho nó được thực hiện.
    Ông ta nhìn tôi đầy sắc sảo, và thấy sự cự tuyệt trên gương mặt tôi, ông quay sang những người khác, và chăm chú quan sát họ. Không nhận được sự đáp ứng như ý, ông tiếp tục, "Có thể là tôi đã phạm sai lầm trong ước đóan của mình chăng?"
    "Có đấy," tôi nói thẳng, nhưng ngay lúc đó, tôi cảm thấy nóng máu.
    Sau một lúc ngần ngừ suy xét, ông ấy nói chậm rãi, "Vậy thì tôi nghĩ rằng tôi phải thay đổi cơ sở cho yêu cầu của tôi. Liệu tôi có thể yêu cầu ngài sự nhượng bộ, một ân huệ, một đặc ân hay không. Tôi đang tranh đấu để phải van nài trong trường hợp này, không phải là vì một lý do cá nhân, mà vì lợi ích của những người khác.
    Tôi không thể cho ngài biết tòan bộ lý do, nhưng ngài có thể tin, tôi đảm bảo với ngài rằng, nó là những điều tốt, lành mạnh và không vị kỷ, và nó xuất phát từ những ý thức cao nhất của trách nhiệm.
    "Ngài có thể nhìn vào tim tôi đây này, thưa ngài, ngài có thể chứng thực được những tình cảm tràn ngập đang cuộn trào trong tôi. Không những thế, ngài còn có thể liệt tôi vào giữa những người bạn tốt nhất và trung thực nhất của ngài."
    Một lần nữa ông ta lại nhìn tất cả chúng tôi đầy nhiệt tình. Tôi càng lúc càng nhận thức rõ rằng sự thay đổi thình lình này của ông ta hoàn toàn chỉ là một phương pháp có đầu óc, nhưng lại chính là một phương diện khác trong cơn điên của ông ta, và quyết định để ông như vậy một thời gian, theo kinh nghiệm, ông ta cũng như các bệnh nhân khác, cuối cùng sẽ để lộ con người thật của mình. Van Helsing nhìn ông ta chằm chằm với một sự tập trung cao độ, cặp lông mày rậm của ông gần như chạm vào nhau với sự tập trung ghê gớm trông cái nhìn của ông.
    Ông nói với Renfield bằng một giọng nói không làm tôi ngạc nhiên lúc đó, nhưng chỉ khi tôi nghĩ về nó sau này, tôi mới thấy ngach nhiên, bởi vì ông nói như thể nói chuyện với một người ngang hàng, "Ông có thể nói thức với tôi lý do ông muốn được tự do tối nay hay không? Tôi xin hứa là nếu ông thỏa mản yêu cầu của thậm chí đối với tôi, một người lạ, không có thành kiến gì, người luôn có sở thích giữ một tâm hồn rộng mở, thì bác sĩ Seward sẽ cho ông đặc ân mà ông yêu cầu, với sự mạo hiểm và tinh thần trách nhiệm của ông ấy."
    Ông ta lắc đầu buồn bã với một vẻ hối tiếc buồn bã trên gương mặt. Giáo sư tiếp tục, "Nào, thưa ngài, hãy suy nghĩ đến bản thân mình nào. Ông đòi hỏi một đặc ân đáng được suy xét ở mức độ cao nhất, vì ông đã gây được ấn tượng cho chúng tôi là ông hoàn toàn có lý do. Ông làm vậy, và những người tỉnh táo chúng tôi có lý do để nghi ngờ, rằng ông chưa được tự do bởi vì những biện pháp y học của chúng tôi có vấn đề. Nếu ông không giúp đỡ chúng tôi trong những nỗ lực của mình để chọn ra cách hành xử đúng đắn nhất, thì làm sao chúng tôi có thể thi hành trách nhiệm mà chính ông đã đặt ra cho chúng tôi được? Xin hãy khôn ngoan và giúp đỡ chúng tôi, và nếu có thể chúng tôi sẽ giúp ông đạt được yêu cầu."
    Ông ta vẩn tếp tục lắc đầu và nói, "Bác sĩ Van Helsing, tôi không có gì để nói. Yêu cầu của ngài là đúng đắn, và nếu có tòan quyền tôi sẽ sẽ chẳng hề do dự chút nào để nói cho ngài, nhưng tôi không có quyền quyết định trong trường hợp này. Tôi chỉ có thể yêu cầu ngài tin tôi. Nếu như tôi bị từ chối, thì tôi sẽ không phải chịu trách nhiệm về việc này nữa."
    Tôi nghĩ đã đến lúc kết thúc câu chuyện này, khi mà nó đã bắt đầu trở nên khá là lố bịch, vì vậy tôi đi đến bên cửa, nói một cách đơn giản, "Thôi được, ông bạn, chúng tôi còn có chuyện để làm. Xin chào."
    Tuy nhiên, khi tôi đi đến gần cửa, một sự thay đổi mới đã diễn ra nơi bệnh nhân. Ông ta phóng đến chỗ tôi thật nhanh đến nỗi trong thóang chốc tôi sợ là ông ta có lại ý định giết người. Tuy nhiên nỗi sợ hãi của tôi đã không có căn cứ, bởi vì ông ta giơ hai tay một cách van nài, và van xin trong một điệu bộ đầy cảm động. Khi ông thấy rằng những nỗ lực quá mức trong cơn xúc động của ông đã trở nên chống lại ông, vì nó khiến cho chúng tôi nhớ lại mối quan hệ cũ giữa chúng tôi với ông, ông ấy vẩn tiếp tục van nài.
    Tôi liếc Van Helsing, và thấy sự xác nhận của tôi phản chiếu trong mắt ông ấy, nên tôi cố điều khiển dáng điệu của mình, không còn tỏ ra nghiêm khắc nữa, và ra hiệu cho ông ấy biết rằng những nỗ lực của ông ấy là vô vọng. Tôi đã từng thấy những chuyện xảy ra giống như vậy sẽ khiến ông ta thêm khích động khi ông ta đưa ra những yêu cầu về những việc ông đã suy nghĩ rất nhiều, chẳng hạn như chuyện ông ta muốn một con mèo, và tôi đã chuẩn bị tinh thần để thấy ông ta đổ sập xuống trong buồn bã phục tùng ở trường hợp này.
    Sự chờ đợi của tôi không xảy ra, vì khi thấy rằng những sự van nài của mình không thành công, ông ta trở nên điên cuồng. Ông quỳ sụp xuống trên đầu gối, giơ cao cánh tay, vặn vẹo chúng trong một sự van xin ai óan, đổ ập ra phía trước trong một cơn thác van nài, với những dòng nước mắt chảy dài trên má, trên cả khuôn mặt ông, biểu lộ một sự xúc động cao độ nhất.
    "Tôi van nài ông, bác sĩ Seward, ôi, tôi khẩn cầu ông, hãy để tôi ra khỏi ngôi nhà này ngay. Hãy tống tôi vào nơi nào ông vào một bất kỳ đâu và như thế nào mà ông muốn, hãy cho người canh gác tôi với roi da và dây xích, hãy cho tôi mặc áo trói chặt cứng, xích tay và chân bằng thép, thậm chí tống tôi vào tù, nhưng hãy để tôi ra khỏi đây. Ông không biết ông đang làm gì khi giữ tôi ở đây đâu.
    Tôi nói bằng tất cả những gì sâu thẳm trong trái tim, trong tâm hồn mình. Ông không biết là ông đã làm cái gì sai và như thế nào đâu, và tôi không thể nói với ông. Sao mà tôi khổ thế này! Tôi không thể nói được. Bằng những gì thiêng liêng nhất của ông, bằng những gì thân thương nhất của ông, bằng tình yêu mà ông đã mất, bằng những niềm hy vọng vẩn còn sống trong ông, vì mục đích của đần Tòan năng, hãy mang tôi ra khỏi đây và bảo vệ tôi khỏi tội lỗi! Ông không thể nghe tôi sao, con người kia? Ông không thể hiểu sao? Ông sẽ chẳng bao giờ nhận thức được à? Chẳng lẽ ông không biết là tôi đang rất tỉnh táo và nghiêm chỉnh lúc này à, rằng tôi không phải là người điên và đang lên cơn, mà là một người tỉnh táo đang chiến đấu vì tâm hồn của chính mình sao? Ôi, hãy nghe tôi! Hãy nghe tôi! Hãy để tôi đi, để tôi đi, để tôi đi!"
    Tôi nghĩ là mọi chuyện càng tiếp tục thì ông càng hoang dại hơn, và còn thể sẽ khiến ông lên cơn, nên tôi nắm tay ông và nâng ông dậy.
    "Thôi nào," tôi nói một cách nghiêm khác, "không nói về chuyện này nữa, chúng ta đã nói đủ rồi. Hãy trở về giường và cố cư xử đúng mực hơn."
    Ông ta thình lình ngừng lại và nhìn tôi chăm chú một lúc lâu. Đoạn, không nói một lời, ông đứng dậy và bỏ đi, ngồi xuống bên cạnh giường. Sự đổ sụp đã đến, giống như những trường hợp trước, như là tôi chời đợi.
    Khi tôi là người cuối cùng trong nhóm rời khỏi phòng, ông ta nói với tôi bằng một giọng nói êm ả, chững chạc, "Tôi tin rằng rồi đây, bác sĩ Seward ạ, ngài sẽ đối xử với tôi công bằng hơn trong tâm tưởng với những gì tôi đã có thể làm để làm cho ngài tin vào đêm nay."






  4. #20
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default



    Chương 19

    NHẬT KÝ CỦA JONATHAN HARKER



    Tháng Mười, 5 giờ sáng. - Tôi cùng các bạn tìm kiếm với một tâm trạng thoải mái, bởi vì tôi nghĩ rằng tôi chưa bao giờ thấy Mina hoàn toàn cứng cỏi và tuyệt vời đến như vậy. Tôi rất vui vì nàng đã đồng ý rút lui và để cho những người đàn ông chúng tôi tiến hành công việc. Việc để nàng tham gia trong câu chuyện khủng khiếp này có phần nào khiến tôi ghê sợ, nhưng bây giờ phần của nàng đã xong, và bằng nguồn năng lượng, khối óc và khả năng tiên đóan của mình, nàng đã ráp tòan bộ câu chuyện vào nhau chặt chẽ ở mọi chi tiết, và nàng có thể an tâm rằng phần việc của nàng đã hòan tất, và do đó nàng có thể để cho chúng tôi đảm nhiệm phần còn lại. Tôi cho rằng tất cả chúng tôi đều có phần bối rối bởi những gì vừa diễn ra với ông Renfièld. Khi chúng tôi ra khỏi phòng ông ấy, chúng tôi im lặng cho đến khi chúng tôi quay trở về phòng nghiên cứu.
    Đoạn ông Morris nói với bác sĩ Seward, "Jack này, nếu như người đàn ông đó không cố gắng để đánh lừa chúng ta, thì hẳn ông ta là người điên tỉnh táo nhất mà tớ đã từng thấy. Tớ không chắc lắm, nhưng mà tớ tin rằng hẳn ông ta có một mục đích nghiêm chỉnh nào đó, và việc ông ấy không có được cơ hội để thực hiện hẳn đã khiến ông rất khó chịu."
    Huân tước Goldalming và tôi im lặng, nhưng bác sĩ Van Helsing thêm vào, "Bạn John này, anh biết về người điên nhiều hơn tôi, nhưng tôi rất vui về điều này, bởi vì tôi sợ rất sợ trường hợp chính tôi phải quyết định trước khi ông ta bùng nổ cơn điên cuối cùng và trốn thóat. Nhưng chúng ta đang sống và học tập, và trong công chuyện hiện giờ của chúng ta, chúng ta phải đảm bảo mọi chuyện, như là anh bạn Quincey đây đã nói. Đó là những điều tốt nhất."
    Bác sĩ Seward có vẻ mơ màng khi trả lời cả hai người, "Tôi không biết chắc, nhưng tôi đồng ý với giáo sư và cậu. Nếu như người đàn ông ấy chỉ là một người điên bình thường thì hẳn là tôi đã tự cho mình một cơ hội để tin tưởng ông ta, nhưng qua các sự kiện đã qua cho thấy ông ta có vẻ khá là dính dáng với bá tước và tôi sợ rằng mình làm một điều gì đó sai lầm khi giúp đỡ cho ước vọng của ông ta. Tôi không thể quên được ông ta cầu mong, gần như là khẩn cầu một ân huệ là có được một con mèo, và đã thử để xé toạc cổ họng của tôi bằng hàm răng của ông ta.
    Ngòai ra, ông ta gọi bá tước là chúa tể và ông chủ', và có thể ông ta muốn thóat ra để giúp đỡ hắn trong những công việc ma quỷ kia. Cái thứ kinh khủng kia đã có trong tay chó và chuột để giúp hắn, và tôi nghĩ là hắn sẽ không qua việc thử dùng một người điên đáng kính. Mặc dù ông ta đã tỏ ra khá nghiêm chỉnh. Tôi chỉ hy vọng là chúng ta đã làm điều tốt nhất. Khi mà gắn chặt vào công việc man dại này trong tay, thì điều đó sẽ giúp cho một người đàn ông mất can đảm."
    Giáo sư bước đến, đặt tay lên vai anh ta, nói một cách trịnh trọng và thân thiết, "Bạn John, đừng sợ. Chúng ta đang cố thi hành bổn phận của mình trong một tình cảnh rất đáng buồn và đau khổ, chúng ta chỉ có thể làm điều mà chúng ta cảm thấy là tốt nhất, và chúng ta còn hy vọng vào điều gì nữa, ngòai trừ lòng thương của Chúa."
    Huân tước Godalming hơi lảng đi vài phút, nhưng bây giờ thì anh ta đã quay lại. Anh cầm một cái còi bạc, nói, "Vùng đất cổ này có thể đầy những chuột, và nếu vậy tôi có thứ để nổi lên hiệu trừ tà."
    Khi đi qua cửa, chúng tôi mở cửa vào nhà, chú ý ẩn mình trong bóng đen của cây cối trên bãi cỏ dưới ánh trăng sáng. Khi chúng tôi đến cổng vòm, giáo sư mở túi và lấy ra một số vật dụng, đặt lên bậc thang, chia chúng làm bốn nhóm nhỏ, cuối cùng đưa mỗi nhóm cho một trong chúng tôi. Đoạn ông nói.
    "Các bạn, chúng ta đang dấn thân vào một mối nguy hiểm rất lớn, và chúng ta cần phải vũ trang bằng nhiều cách. Kẻ thù của chúng ta không chỉ thuần túy ở tâm linh. Hãy nhớ rằng hắn có sức mạnh của hai mươi người, và do đó, cho dù cổ hay khí quản của chúng ta hoàn toàn bình thường, vẩn có thể bị bẻ gãy hay nghiền nát dưới tay hắn. Chỉ đơn thuần bằng sức mạnh không thể khuất phục được hắn. Một người khỏe hơn, hoặc lấy số đông của một nhóm người có thể mạnh hơn hắn, và có thể bắt giữ hắn, nhưng họ không thể làm hắn bị thương như chúng ta có thể bị thương từ hắn.
    Do vậy chúng ta phải tự bảo vệ chúng ta trước khi va chạm với hắn. Hãy giữ cái này ở gần tim." Trong khi nói, ông ta đưa một cây thánh giá bằng bạc lên và giơ ra cho tôi, người đang ở gần ông nhất, "hãy đeo những vòng hoa này quanh cổ anh," ông ta đưa cho tôi những vòng hoa tỏi khô héo, "với những kẻ thù khác trần tục hơn, thì có cây súng lục ổ quay và con dao này, để trợ giúp thêm, hãy dùng những cây đèn điện tử nhỏ xíu này, anh có thể buộc chặt nó vào ngực, và quan trọng hơn cả, đáng giá hơn tất cả là thứ này đây, để trừ tà, chúng ta không thể không cần nó."
    Đó là một phần của bánh thánh, ông ta đặt trong một cái phong bì và đưa nó cho tôi. Mỗi người còn lại cũng được vũ trang như vậy.
    "Nào," ông ta nói, "bạn John, chiếc chìa khóa chính đâu? Nếu chúng ta có thể mở được cửa, chúng ta không cần phải bẻ cửa sổ vào nhà, như lần trước ở nhà cô Lucy."
    Bác sĩ Seward thử một hoặc hai cái chìa khóa chính, sự khéo tay máy móc của một bác sĩ phẫu thuật đã khiến cho công việc của anh có nhiều thuận lợi. Sau đó anh tra được một chiếc vừa khớp, sau khi xoay tới xoay lui một lúc thì cái then cài bắt đầu lay động, và với một tiếng cót két han gỉ, nó bật lên. Chúng tôi đẩy cánh cửa han gỉ khiến nó kêu ken két và chậm chạp mở ra. Đáng ngạc nhiên là cảnh tượng lúc này giống như là lúc bác sĩ Seward mở cánh cửa mộ của cô Westenra mà tôi đọc được trong nhật ký của anh, tôi đóan là ý nghĩa này cũng đập vào những người khác, khiến cho họ cũng đều lui lại. Giáo sư là người đầu tiên bước tới, và bước vào sau cánh cửa mở.
    "In manus tuas, Domine!" ông nói, làm dấu thánh khi ông bước qua ngưỡng cửa. Chúng tôi đóng cửa, để cho những người ở ngòai đường không chú ý đến ánh đèn của chúng tôi. Giáo sư cẩn thận kiểm tra lại cửa, để chúng tôi có thể mở được nó trong trường hợp khẩn cấp chúng tôi cần phải thóat ra. Đoạn tất cả chúng tôi bật đèn và bắt đầu lục sóat.
    Ánh sáng từ ngọn đèn nhỏ li ti đã khiến cho tất cả mọi vật trở nên có hình dáng kỳ lạ khi những tia sáng cắt lẫn nhau, hoặc do những bóng người mờ đục tạo nên những bóng đen khổng lồ. Tôi không thể dứt được cảm giác là đang có ai đó lẩn quẩn giữa chúng tôi. Tôi tưởng tượng lại hồi ức, chúng âm u bủa vây, đem tôi lao vụt về những câu chuyện khủng khiếp ở Transylvania. Tôi nghĩ mọi người trong số chúng tôi đều có cảm giác này, vì tôi để ý thấy ai cũng nhìn ngược lại sau vai mình mỗi khi nghe thấy tiếng động hoặc bắt gặp một cái bóng thấp thoáng, giống như tôi đang làm với chính mình.
    Toàn bộ nơi này phủ đầy tòan bụi. Trên nền nhà bụi dầy đến hàng inch, ngòai trừ đôi chỗ thấp thóang dấu chân. Khi chiếu đèn xuống tôi thấy dấu vết của những chiếc ủng khắc lên đám bụi. Tường thì mịn mượt và đầy bụi, trong một góc là một đống mạng nhện lớn, trên đó bụi đọng lại nhiều đến nỗi trông nó như những mảnh giẻ rách mà sức nặng của chúng khiến đám mạng nhện phải chùng xuống. Ở trên bàn trong tiền sảnh là một chùm chìa khóa lớn, có dán nhãn vàng trên mỗi chiếc. Chúng hình như đã được dùng nhiều lần, bởi vì trên bàn có nhiều dấu vết tương tự nhau trên đám bụi, tương tự như vết mà giáo sư tạo ra khi nhấc chùm chìa khóa lên.
    Ông ta quay lại phía tôi và nói, "Anh hẳn là biết nơi này, Jonathan. Anh đã vẽ lại tấm bản đồ nơi này, và ít ra anh biết về nó nhiều hơn chúng tôi. Đường nào sẽ dẩn đến nhà thờ?"
    Tôi cũng biết đôi chút về các lối đi, dù lần trước khi vào thăm nơi đây tôi không thể thu tóm chúng vào nhận thức của mình, nên tôi dẩn đường, vào sau vài lần rẽ sai hướng tôi cũng thấy mình đối diện với một cánh cửa bằng gỗ sồi thấp, mái vòm, chống đỡ bằng những thanh sắt.
    "Chính là nơi này," giáo sư nói khi ông đưa cây đèn về phía tấm bản đồ ngôi nhà, được sao chép từ trong hồ sơ gốc của tôi về các vấn đề liên quan đến cuộc mua bán này. Run rẩy một lúc chúng tôi cũng tìm thấy được chiếc chìa khóa thích hợp trong chùm chìa khóa và mở cửa. Chúng tôi chuẩn bị đón chờ những chuyện không dễ chịu gì, bởi vì khi chúng tôi mở cửa thì một luồng khí ngột ngạt, hôi thối xộc ra dù cho khỏang cách còn khá xa, nhưng không có ai trong chúng tôi chờ đợi hương hoa khi chúng tôi đến đây.
    Không một ai khác trong số các bạn tôi đã từng gặp bá tước dù chỉ trong thóang chốc, còn tôi thì đã thấy hắn khi hắn tồn tại trong trạng thái nhịn ăn ở trong phòng, lẫn khi hắn no nê máu tươi, trong một lâu đài lớn rộng rãi, nhưng ở nơi này thật là nhỏ bé và chật hẹp, và việc bỏ hoang một thời gian dài đã khiến không khí ở đây trở nên ngột ngạt và hôi thối. Đấy là làn hơi của đất đen, của chướng khí khô lạnh, thổi xuyên qua bầu không khí oi tù. Nhưng chính cái làn hơi này thì tôi sẽ mô tả nó như thế nào đây nhỉ?
    Nó không chỉ một mình đơn độc mà dương như nó kết hợp với tất cả bệnh tật chết chóc với cái vị hăng cay của máu, nhưng dường như chính bản thân sự mục nát này cũng đang tự mục nát. Khiếp thật! Nó làm cho chính tôi cảm thấy bệnh khi nghĩ về nó. Mỗi hơi thở đều cho thấy rằng hình như con quái vật kia đang bám lấy nơi này để làm tăng cao vẻ gớm ghiếc.
    Trong trường hợp bình thường thì hẳn là cái mùi hôi thối như vậy đã khiến cho công việc mạo hiểm của chúng tôi chấm dứt ngay rồi, nhưng đây không phải là một công việc bình thường, và cái mục đích cao cả và kinh khiếp mà chúng tôi đang dấn thân vào đã cho chúng tôi sức mạnh để vượt qua những điều kiện vật chất thông thường. Sau khi vô tình giật ngược lại dưới tác dụng của làn hơi tanh tưởi đầu tiên ập đến, chúng tôi, mọi người như một lại tiếp tục công việc của mình như thể cái vùng đất hôi hám này là một vườn hồng rực thắm.
    Chúng tôi bắt đầu kiểm tra tỉ mỉ nơi này, giáo sư nói khi chúng tôi bắt đầu, "Điều đầu tiên là phải xem coi có bao nhiêu hộp còn lại, chúng ta phải kiểm tra từng lổ hỗng, từng góc cạnh, từng vết nứt và kiểm tra xem chúng ta có thể rút ra được những điều gợi ý nào từ những thứ còn lại."
    Những tia sáng đủ để thấy xem còn lại bao nhiêu cái rương đất đồ sộ kia, và không thể nào đếm chúng lầm được.
    Chỉ còn lại hai lăm trong số năm mươi thùng! Ngay khi đó tôi vô cùng hỏang sợ khi thấy huân tước Godalming thình thình quay ngoắt lại và nhìn vào một cánh cửa vòm dẩn vào một lối đi tối phía sau, tôi cũng nhìn theo, và trong một thóang tim tôi như ngừng đập. Thấp thóang trong bóng đêm bên ngòai, hình như tôi nhìn thấy khuôn mặt ma quái sáng rực của bá tước, với cái sống mũi, đôi mắt đỏ, đôi môi đỏ, màu nhợt nhạt dáng sợ.
    Nó chỉ trong một thóang, nên huân tước Godalming nói, "Tôi nghĩ là tôi nhìn thấy một khuôn mặt, nhưng nó chỉ là một cái bóng," và tiếp tục cuộc điều tra của mình, tôi quay đèn về phía lối đi và bước đi vào trong lối đi. Không có dấu hiệu của ai trong đó cả, và cũng chẳng có một góc cạnh, một cánh cửa, không một kẽ hở nào, mà chỉ có một bức tường lớn chắn lối, không thể có một chỗ nào để cho hắn trốn tránh. Tôi nghĩ rằng có thể nỗi sợ hãi đã hình thành sự tưởng tượng, và không nói gì.
    Vài phút sau tôi thấy Morris thình lình bước lùi vào một góc để kiểm tra. Tất cả chúng tôi đều chăm chú theo dõi anh ta, không nghi ngờ gì nữa, sự căng thẳng trong chúng tôi đang mỗi lúc mỗi lớn, và chúng tôi thấy một mảng lân tinh lớn, phát quang lấp lánh như những ngôi sao. Tất cả chúng tôi đều lùi lại một bước theo bản năng. Cả nơi đó bắt đầu xuất hiện đầy những con chuột sống.
    Trong một lúc chúng tôi đứng thất kinh, và huân tước Godalming đã cứu chúng tôi, anh ấy có vẻ nhưng đã chuẩn bị trước năng lực cho sự việc này. Bước nhanh về phía cánh cửa gỗ sồi bọc thép lớn mà bác sĩ Seward đã mô tả từ bên ngòai, và chúng mắt tôi trông thấy, anh ấy quay chìa khóa trong ổ, kéo cái chốt lớn, và giật tung cánh cửa ra. Đoạn, lấy cái còi nhỏ bằng bạc trong miệng ra, anh ấy thổi một hồi dài, lanh lảnh. Có tiếng chó vang lên ăng ẳng từ phía sau nhà của bác sĩ Seward để trả lời, và vài phút sau ba con chó săn vùn vụt lao đến góc nhà. Một cách vô thức tất cả chúng tôi đi ra phía cửa, và khi chúng tôi đi, tôi để ý thấy bụi đã được xáo trộn nhiều.Những chiếc hộp đã được mang đi theo lối này. Nhưng cứ từng phút trôi qua thì số lượng chuột lại càng gia tăng vùn vụt.
    Chúng xuất hiện thành đàn ở khắp mọi nơi cùng lúc, dưới ánh đèn, những thân thể tối tăm đang chuyển động của chúng sáng lên và lấp lánh, và những đôi mắt lóng lánh, khó nhìn của chúng khiến cho nơi đây trở thành một xó xỉnh của trái đất chứa đầy những con ruồi lửa. Những con chó vẩn lao vụt đến, nhưng khi đến ngưỡng cửa thì chúng thình lình dừng lại và gầm gừ, rồi đoạn, đồng loạt ngước mũi lên, bắt đầu tru lên trong một dáng điệu sầu thảm nhất. Số lượng chuột đã lên đến hàng ngàn, và tất cả chúng tôi đi ra.
    Huân tước Godalming nhấc một con trong lũ chó lên, mang nó đến, đặt nó lên nền nhà. Ngay lúc mà chân nó chạm vào đất mẹ, hình như sự can đảm của nó được phục hồi, và nó phóng đến lũ những kẻ thù tự nhiên của mình. Chúng chạy trốn ào ạt trước nó nhanh đến nỗi nó không đạt được những chiến công đáng kể , và những con chó khác, cũng được nhấc lên theo cách đó, thì cũng có được một số ít nạn nhân trước khi cả đám chuột kia biến mất.
    Cùng với sự ra đi của lũ chuột, có vẻ như sự hiện diện của ma quỷ cũng chết theo, vì bầy chó bắt đầu vẫy đuôi và sủa đầy vui mừng khi chúng thình lình phóng đến bên kẻ địch đã bất lực của chúng, vờn chúng, tung chúng lên không khí và nhảy đến đớp mạnh. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy lên tinh thần. Có thể do không khí chết chóc đã được quét đi bằng cách mở toang các cánh cửa nhà nguyện, hoặc do sự khuây khỏa mà chúng tôi có được khi lại thấy mặt nhau ở bên ngòai, tôi không biết rõ, nhưng rõ ràng nhất là cái bóng đen của nỗi sợ hãi đã tuột khỏi chúng tôi như một cái áo chòang, và việc chúng tôi thóat ra đã mất đi một chút gì nghiệt ngã nhất của nó, dù chúng tôi mất đi chút nào sự kiên quyết của mình.
    Chúng tôi đóng cánh cửa thông ra ngòai, ngăn và khóa nó lại, và mang lũ chó đi với mình, chúng tôi bắt đầu kiểm tra ngôi nhà. Chúng tôi chẳng tìm thấy gì ngòai trừ một số lượng bụi khủng khiếp, và chẳng hề có dấu vết gì chạm đến nó ngòai dấu chân của tôi khi tôi ghé qua nó lần đầu. Lũ chó chẳng hề biểu lộ bất kỳ triệu chứng gì đáng để ý, thậm chí khi chúng tôi quay lại nhà nguyện, chúng còn tỏ ra vui mừng như thể chúng lại sắp được đi săn thỏ trong rừng vào mùa đông.
    Từ phía Đông, buổi sáng đang nhanh bước xuất hiện trước chúng tôi. Bác sĩ Van Helsing lấy chiếc chìa khóa tiền sảnh ra khỏi chùm chìa khóa, khóa cửa một cách chính thống, đặt chiếc chìa khóa vào túi sau khi đã làm xong việc này.
    "Đến lúc này," ông ta nói, "rõ ràng đêm nay là một đêm thành công của chúng ta. Chúng ta đã chẳng bị tổn hại nào như tôi đã từng lo sợ và hơn nữa chúng ta đã xác định được rõ có bao nhiêu thùng gỗ đã mất đi. Điều làm tôi vui mừng hơn tất cả, cái điều khó khăn và nguy hiểm đầu tiên, và có thể là hơn tất cả là chuyến đi đã thành công mà không đem đến cho bà Mina dịu dàng nhất của chúng ta hay làm bà ấy run sợ cả khi thức lẩn khi ngủ dù với dấu hiệu, âm thanh hay mùi vị của những điều kinh dị mà có thể bà ấy sẽ không bao giờ quên.
    Chúng ta cũng học được một bài học nữa có thể cần phải tìm hiểu kỹ là ngay những con thú hoang tuân theo lệnh của bá tước cũng không tuân theo sức mạnh tinh thần của hắn, xem nào, những con chuột đã đến theo tiếng gọi của hắn, giống như hắn đã gọi bầy sói từ trên đỉnh lâu đài để ngăn cản chuyến đi của anh hay để chấm dứt tiếng gào khóc của bà mẹ tội nghiệp, dù chúng đã đến theo lệnh hắn, chúng đã bỏ chạy tóan loạn trước bầy chó nhỏ bé của anh Arthur bạn tôi.
    Chúng ta có trước mặt mình những con quái vật mới, những mối nguy hiểm mới, những nỗi sợ hãi mới, và con quái vật này... Hắn sẽ không dùng sức mạnh của hắn với thế giới hoang dã chỉ trong đêm nay. Lúc này thì hắn đã đi đâu đó. Được lắm! Nó sẽ cho chúng ta cơ hội để có được một số cách để thét lên câu "chiếu tướng" trong ván cờ này, ván cờ mà chúng ta chơi với sự đặt cược là tâm hồn con người. Còn bây giờ thì chúng ta hãy về nhà. Bình minh đã sắp đến, và chúng ta có lý do để hài lòng với những công việc đầu tiên của chúng ta trong đêm nay. Công việc này sẽ khiến chúng ta mất nhiều ngày đêm theo đuổi, nó đầy rẫy nguy hiểm, nhưng chúng ta phải tiếp tục, và sự nguy hiểm càng lúc càng co lại gần chúng ta."
    Ngôi nhà khá yên tĩnh khi chúng tôi trở về, trừ ra một số kẻ tội nghiệp đang gào thét từ một khu dành riêng ở khá xa, và những âm thanh gầm gừ khẽ từ phòng Renfield. Con người khốn khổ tội nghiệp ấy không nghi ngờ gì nữa lại đang tự tra khảo mình, sau khi đã trở nên điên loạn và không cần biết gì về sự đau đớn nữa.
    Tôi nhón chân đi về căn phòng của mình, và thấy Mina đã ngủ, thở nhẹ đến nỗi tôi phải lắng tai mới nghe được. Nàng trông trắng hơn thường lệ. Tôi hy vọng cuộc họp tối nay sẽ không làm nàng phải phiền muộn. Tôi thật sự nhẹ nhõm rằng nàng sẽ không tham dự vào những công việc tương lai của chúng tôi nữa, thậm chí trong các cuộc bàn tính của chúng tôi. Nó thật là một sự căng thẳng quá mức sức chịu đựng của một người phụ nữ. Đầu tiên tôi không nghĩ đến điều này, nhưng bây giờ thì tôi đã biết rõ hơn. Vì vậy tôi rất vui khi mọi chuyện đã được xác định rõ.
    Có những điều có thể sẽ làm nàng hỏang hốt khi nghe thấy, và lúc này che giấu chúng trước nàng có thể còn tệ hơn là nói với nàng nếu như nàng đã có ý nghi ngờ rằng có một sự giấu diếm nào đó. Do đó công việc của chúng tôi sẽ là một cuốn sách đóng kín trước mặt nàng, đến lúc cuối cùng, khi mà chúng tôi có thể nói với nàng rằng mọi chuyện đã kết thúc, và thế giới này đã được giải phóng khỏi con quái vật dưới âm ty kia. Tôi dám nói rằng sẽ rất khó khăn để giữ im lặng giữa những người hoàn toàn tin cậy nhau như chúng tôi, nhưng tôi sẽ cương quyết, và ngày mai tôi sẽ phủ một màn đen lên những sự việc của tối nay. Tôi ngủ trên ghế sofa, để không làm rộn nàng.
    Ngày 1 tháng Mười, sau đó. - Tôi nghĩ rằng thật là tự nhiên khi tất cả chúng tôi đều ngủ quá giấc, bởi vì ngày hôm trước đã quá bận rộn và đến đêm thì hầu như chẳng ngủ chút nào. Thậm chí Mina cũng cảm thấy kiệt sức, vì mặc dù tôi đã ngủ đến khi mặt trời lên cao, tôi vẩn thức dậy trước nàng, và phải gọi hai hoặc ba lần nàng mới thức dậy. Thực tế là, nàng đã có một giấc ngủ say đến nỗi vài giây sau nàng mới nhận ra tôi, nhưng nhìn tôi với một vẻ hỏang sợ xa vắng, cái nhìn của một người vừa trải qua một cơn ác mộng. Nàng phàn nàn rằng nàng còn mệt lắm, và tôi để nàng ngủ thêm. Chúng tôi bây giờ đã biết rằng có hai mươi mốt chiếc hộp đã được mang đi, và nếu có nhiều chiếc hộp được mang đi như vậy theo bất kỳ cách nào, chúng tôi cũng có thể lần theo dấu vết của tất cả chúng. Tất nhiên, điều đó sẽ là một sự lao động khó khăn hiển nhiên, và các vấn đề sẽ được xác định rõ hơn sớm hơn. Tôi sẽ tìm Thomas Snelling hôm nay.
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 1 tháng Mười. - Tôi thức giấc khi trời đã gần đứng bóng bởi tiếng chân của Giáo sư đi vào phòng. Ông ta có vẻ vui và phấn khởi hơn thường lệ, như vậy chắc chắn rằng những công việc đêm qua đã giúp ông ấy giải quyết một số vấn đề còn tồn đọng trong tâm tưởng.
    Sau khi nói qua về cuộc mạo hiểm tối hôm qua ông thình lình lên tiếng, "Bệnh nhân của anh làm tôi rất chú ý. Tôi có thể đi thăm ông ta với anh không? Hoặc, nếu như anh quá bận rộn, tôi sẽ đi một mình nếu như có thể được. Đây là lần đầu tôi thấy một người bệnh tâm thần triết lý, và đó là một lý do hấp dẩn đấy."
    Tôi có một số công việc phải giải quyết, vì vậy tôi nói ông ấy rằng tôi sẽ rất vui nếu ông ấy có thể đi một mình, và tôi không muốn để ông ấy phải chờ đợi, vì vậy tôi gọi một người hầu và dặn anh ta những chỉ thị cần thiết. Trước khi giáo sư rời khỏi phòng tôi khuyến cáo ông ấy đừng có những ấn tượng sai lầm về người bệnh của tôi.
    "Nhưng," ông ta trả lời, "tôi muốn ông ấy nói chuyện về chính bản thân anh ta và về ảo tưởng của anh ấy trong việc tiêu thụ cuộc sống. Ông ta đã nói với bà Mina, như tôi đã đọc trong nhật ký của anh vào hôm qua, và ông ta đã có niềm tin về việc này. Vì sao anh lại mỉm cười, bạn John?"
    "Xin lỗi," tôi nói, "nhưng câu trả lời là ở đây." Tôi đặt tay trên xấp giấy được đánh máy. "Khi những người tỉnh táo chúng ta học từ kẻ tâm thần những phát biểu về cách nào ông ta tiêu thụ cuộc sống, miệng của ông ta lại nồng nặc mùi tanh của những con ruồi và nhện mà ông ta chỉ vừa kịp xơi chúng trước khi bà Harker bước vào phòng."
    Đến lượt mình, Van Helsing mỉm cười. "Tốt!" ông ta nói. "Trí nhớ của anh chính xác, bạn John ạ. Tôi cũng nên nhớ điều này. Và lần này rất rõ ràng rằng suy nghĩ và trí nhớ sẽ tạo nên một bài học đáng giá trong một trường hợp tâm thần bệnh lý. Có thể tôi sẽ thu được nhiều kiến thức từ sự điên khùng của một người điên hơn là tôi sẽ thu được qua lời dạy của những bậc thông thái nhất. Ai mà biết được, phải không?"
    Tôi tiếp tục công việc, và giải quyết chúng chóng vách. Có vẻ là thời gian mới trôi qua rất ít, nhưng Van Helsing đã trở về phòng nghiên cứu.
    "Tôi quấy rầy anh chăng?" ông ta hỏi một cách lịch sự khi đứng trước cửa.
    "Hoàn toàn không," tôi trả lời. "Xin mời vào. Công việc của tôi đã chấm dứt, và tôi đang tự do. Tôi có thể đi với ông, nếu ông muốn."
    "Điều đó không cần thiết nữa. Tôi đã gặp ông ta!"
    "Thế ư?"
    "Tôi sợ rằng ông ta không đánh giá cao tôi. Cuộc phỏng vấn của tôi rất ngắn. Khi tôi đi vào pòng ông ta đang ngồi trên một cái ghế đẩu ở giữa phòng, gối khuỷu tay lên đầu gối, và khuôn mặt của ông ấy tạo ra một bức tranh về sự bất mản ão não. Tôi nói với ông ta bằng một giọng vui vẻ nhất có thể được, cùng với nó là tất cả sự kính trọng mà tôi có thể tạo ra. Ông ta chẳng hề trả lời một tí gì. "Ngài có biết tôi không?" tôi hỏi. Câu trả lời của ông ta rất chắc nịch. Tôi biết ông rất rõ, ông là gã già Van Helsing đần độn. Ước gì ông cùng với bộ óc đầy những lý thuyết ngu xuẩn của ông biến đi một chỗ nào khác.
    Mẹ kiếp tất cả những bộ óc Hà Lan đần độn!' Và ông ta không nói thêm gì nữa, mà ngồi lặng với vẻ rầu rĩ kiên định đối với tôi như thể tôi chẳng hề có mặt trong phòng. Thời điểm bắt đầu cho cơ hội học hỏi của tôi đối với một người tâm thần thông minh là như vậy đó, nên tôi sẽ đi, nếu như tôi có thể, tự an ủi mình bằng một vài từ vui vẻ với tâm hồn hiền dịu của bà Mina. Bạn John, tôi có một niềm vui không thốt ra lời rằng bà ta sẽ không phải đau đớn thêm nữa, sẽ không cần lo lắng thêm với những điều khủng khiếp của chúng ta. Mặc dù chúng ta sẽ mất đi sự giúp đỡ của bà ấy, nhưng như vậy thì tốt hơn."
    "Tôi đồng ý với ông với tất cả tâm can mình," tôi trả lời nồng nhiệt, vì tôi muốn ông trở nên yết ớt hơn với vấn đề này. "Bà Harker tốt hơn là nên đứng ngòai mọi chuyện. Mọi việc đã đủ tồi tệ cho chúng ta, cho tất cả những người đàn ông trên thế giới này, và cho những ai đã gắn chặt với chúng ta, nhưng không có chỗ cho một người phụ nữ, và nếu bà ấy còn tiếp tục tiếp xúc với những công việc này, nó sẽ nhất định làm bà ấy sụp đổ theo thời gian."
    Rồi Van Helsing đi hội ý với bà Harker còn Harker, Quincey và Art cùng đi tìm kiếm dấu vết của những cái thùng đất. Tôi sẽ chấm dứt công việc của mình và chúng tôi sẽ gặp lại nhau tối nay.
    NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER
    Ngày 1 tháng Mười. - Thật là lạ đối với tôi khi giữ mình trong lặng lẽ như tôi đã làm hôm nay, sau khi có được lòng tin tuyệt đối của Jonathan sau ngần ấy năm trời, để thấy anh ấy rõ ràng là né tránh một vấn đề hiển nhiên, và đó chính là mấu chốt của tất cả. Sáng nay tôi đi ngủ trễ sau ngày hôm qua mỏi mệt, và dù Jonathan cũng đi ngủ trễ, anh ấy vẩn thức sớm hơn. Anh ấy có nói chuyện với tôi trước khi đi ra, chưa bao giờ anh ấy nói năng dịu ngọt và âu yếm đến như vậy, nhưng anh ấy chẳng hề nói một lời về những gì xảy ra trong chuyến thám hiểm ngôi nhà của bá tước.
    Và hẳn là anh ấy biết chuyện ấy thật làm khó chịu với tôi như thế nào. Anh chàng tội nghiệp! Tôi nghĩ rằng điều ấy thậm chí hẳn phải làm anh ấy buồn khổ hơn là tôi nữa. Tất cả bọn họ đều đồng ý rằng tốt nhất là tôi không tham dự thêm bất cứ điều gì trong cái công chuyện khủng khiếp này, và tôi đã bằng lòng. Nhưng cứ nghĩ rằng anh ấy lại giấu tôi một chuyện gì đó! Và bây giờ tôi đang gào khóc như một kẻ ngu khờ, khi tôi biết rằng điều đó xuất phát từ tình yêu vô bờ của chồng tôi và từ những ước nguyện thật, thật là cao đẹp của những người đàn ông khỏe mạnh khác.
    Điều đó làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Phải rồi, một ngày nào đó Jonathan sẽ nói với tôi tất cả. Và đừng để cho một lúc nào đó anh ấy nghĩ rằng tôi đã từng có lúc che giấu anh ấy một điều gì, tôi vẩn phải luôn giữ cuốn nhật ký này. Và nếu anh ấy nghi ngờ sự thật tôi sẽ cho anh ấy xem, cho đôi mắt thân yêu của anh ấy đọc mọi dòng suy nghĩ của tôi đã được ghi vào đây. Hôm nay tôi cảm thấy buồn và mất tinh thần đến kỳ lạ. Tôi nghĩ rằng đó là do tác động của những sự kiện khủng khiếp vừa qua.
    Tối hôm nay tôi đi ngủ khi những người đàn ông khởi hành, đơn giản chỉ vì họ bảo tôi làm thế. Tôi không cảm thấy buồn ngủ, mà chỉ thấy vô cùng khó chịu bứt rứt. Tôi nghĩ về những gì đã xảy ra từ khi Jonathan đến gặp tôi ở London, và tất cả mọi chuyện có vẻ giống như một bi kịch khủng khiếp, trong đó số phận đã tàn nhẫn ấn mọi chuyện vào kết cục định mệnh.
    Mọi điều đã mang lại một điều rằng, bất kể nó đúng với tôi như thế nào, cái nổi bật nhất trên những gì đã xảy ra là sự xót xa. Nếu tôi không đi đến Whitby, có thể Lucy tội nghiệp thân yêu bây giờ vẩn còn ở lại với chúng ta. Bạn ấy đã không đến khu nghĩa địa trước khi tôi đến, và nếu bạn ấy không đến đấy trong thời gian ở với tôi bạn ấy đã không mộng du. Và nếu bạn ấy không đến ngủ lại đấy vào ban đêm, thì con quái vật kia đã không thể tàn phá bạn ấy như hắn đã làm.
    Ôi, vì sao tôi lại bến Whitby nhỉ? Thôi nào, lại khóc nữa rồi! Hôm nay chuyện gì đã xảy ra cho mình thế nhỉ? Tôi phải giấu chuyện này với Jonathan mới được, kẻo anh ấy lại biết được rằng tôi đã khóc đến hai lần trong một buổi sáng... Tôi, người không bao giờ khóc vì chuyện của mình, và là người anh ấy không bao giờ để cho rơi một giọt lệ, con người thân yêu ấy sẽ bày ra trái tim cáu kỉnh của anh ta mất. Tôi sẽ phải giữ một vẻ mặt bình thản, và nếu tôi cảm thấy muốn rơi lệ, anh ấy sẽ không bao giờ nhìn thấy. Tôi cho rằng đó chỉ là một trong những bài học mà những người phụ nữ tội nghiệp chúng ta phải học lấy...
    Tôi không thể nhớ chắc được mình đã thiếp ngủ như thế nào vào tối hôm qua. Tôi chỉ nhớ là mình thình lình nghe thấy tiếng chó sủa loạn lên và rất nhiều tiếng động kỳ lạ, giống như tiếng cầu kinh đầy lộn xộn vẳng ra từ căn phòng của ông Renfield, ở đâu đó trong đấy. Và rồi sự im lặng đã bao trùm lên tất cả, sự im lặng thăm thẳm làm tôi giật mình, tôi thức dậy và nhìn ra ngòai cửa sổ. Tất cả đều tối tăm và tĩnh mịch, những bóng đen được rọi lên bởi ánh trăng hình như đều chứa đầy những sự im lặng bí ẩn của chính chúng.
    Không có gì có vẻ sinh khí, mà tất cả đều có vẻ mờ mịt và bất động như cái chết hoặc sự hủy diệt, từ đó một làn sương trắng mỏng manh, gần như không thể cảm thấy được đang chậm chạp trườn ngang qua bãi cỏ hướng đến căn nhà, nó hình như cũng có riêng cảm giác và sinh khí của mình. Tôi nghĩ rằng những suy nghĩ lan man của mình có thể khiến cho tôi cảm thấy dễ chịu, nên khi tôi trở về giường tôi cảm thấy mình được bao trùm bởi một cảm giác lơ mơ. Tôi nằm một lúc, nhưng không thể ngủ được, vì vậy tôi thức dậy và nhìn ra cửa sổ lần nữa. Sương mù đang lan rộng, và bây giờ bao phủ quanh căn nhà, đến nỗi tôi có thể nó đọng thành một lớp dày trên tường.
    Người đàn ông tội nghiệp kia vẩn tiếp tục la hét lớn ồn ào hơn bao giờ, và dù tôi không thể phân biệt từng lời ông ta nói, tôi vẩn có thể xác định tương đối trong âm giọng của ông cái vẻ van nài cuồng nhiệt của riêng ông. Sau đó là những âm thanh của sự vùng vẫy, và tôi biết rằng những người phục vụ đã đến coi sóc ông. Tôi sợ đến nỗi tôi vội tuồn về giường, kéo áo quần phủ lên đầu, đưa ngón tay lên bịt lỗ tai. Tôi không có một giấc ngủ sâu, như tôi nghĩ rằng cuối phải thế, mà tôi đã thiếp đi trong những giấc mơ. Tôi không nhớ gì cả đến khi trời sáng, khi Jonathan đánh thức tôi. Tôi nghĩ rằng tôi đã phải cố và mất một lúc để nhận ra mình đang ở đâu, và nhận ra Jonathan là người đang cúi xuống chỗ tôi. Giấc mộng của tôi thật là kỳ dị, và gần như rằng nó tiêu biểu cho cách mà các suy nghĩ của tôi trộn lẫn vào nhau, hoặc là tiếp tục trong những giấc mơ.
    Tôi nghĩ rằng tôi đang ngủ, và chờ đợi Jonathan trở về. Tôi rất khó chịu về anh ấy, và không còn sức lực để phản ứng, chân tôi, tay tôi, và óc tôi nặng trịch, và không có gì có thể hoạt động được một cách bình thường. Đoạn tôi tôi ngủ một cách khó khăn và lo lắng. Sau đó tôi bắt đầu nhận ra rằng bên trên tôi không khí trở nên nặng nề, ẩm ướt và lạnh lẽo. Tôi kéo quần áo xuống khỏi mặt, và trong sự ngạc nhiên của mình, tôi nhận thấy tất cả chung quanh đều mờ tối. Ngọn đèn khí mà tôi đã để chờ Jonathan đã được vặn xuống, chỉ còn giống như một vệt đỏ nhỏ trong màn đêm.
    Tôi nhận thức rằng mình đã đóng cửa sổ trước khi lên giường. Tôi muốn thức dậy để kiểm chứng điều này, nhưng cái cảm giác lơ mơ nặng nề giống như một sợi dây xích khóa chặt chân tay tôi và thậm chí ý chí của tôi nữa. Tôi vẩn nằm và chịu đựng, và đó là tất cả những gì có thể. Tôi nhắm mắt, nhưng vẩn có thể nhìn thấy qua mi. (Thật là tuyệt với những mưu mẹo mà những giấc mơ dùng với chúng ta, và thật là thuận tiện cho chúng ta tưởng tượng.) Sương mù càng lúc càng trở nên dày hơn, và tôi có thể nó lan đến như thế nào, bởi vì tôi thấy nó giống như làn khói, hoặc giống như hơi nước bốc lên trắng xóa, tỏa ra, không chỉ từ cửa sổ, mà còn từ các khớp nối trên cửa.
    Nó càng lúc càng dày, và có vẻ như đang tập trung lại thành một cột khói trong phòng, trên đinh tôi có thấy một luồng sáng như một con mắt đỏ. Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng như thể cái cột mây khói kia lúc này đang quay trong phòng, và vẳng đến những lời trong kinh thánh, "một cột mây khói vào ban ngày và lửa vào ban đêm." Thật sự đó là những lời chỉ dẩn tâm linh đang đến với tôi trong giấc ngủ? Nhưng cây cột bây giờ đang là sự kết nối của lời chỉ dẩn kia trong cả đêm và ngày, do ngọn lửa trong con mắt đỏ kia, khiến cho tôi như bị thôi miên, cho đến tận lúc tôi thấy nó phân chia ra, và hình như đang chiếu vào tôi trong sương khói kia là một đôi mắt đỏ rực, giống như Lucy đã nói với tôi trong chuyến du hành tâm thần ngắn ngủi kia trên vách đá, lúc tia nắng mặt trời lịm tắt đập vào khung cửa sổ của nhà thờ Thánh Mary.
    Thình lình sự kinh hỏang bùng lên trong tôi như là lúc Jonathan nhìn thấy những người phụ nữ khủng khiếp kia hiện ra trong thế giới thực qua đám bụi mù quay cuồng dưới ánh trăng, và trong giấc mơ tôi hẳn là đã ngất xỉu đi, vì tôi thấy tất cả trở nên tối đen. Nỗ lực giác quan cuối cùng mà trí tưởng tượng mang đến cho tôi là một khuôn mặt trắng tóat thâm tím đang cuối xuống chỗ tôi xuyên qua làn sương mù.
    Tôi phải cẩn thận với nhữngấcccc mơ mới được, bởi vì nếu nó sẽ thủ tiêu lý tính của con người nếu cứ diễn ra diễn lại nhiều lần. Tôi sẽ nói bác sĩ Van Helsing hoặc bác sĩ Seward cho tôi cái gì đó khiến tôi có thể ngủ được, nhưng tôi lại sợ đánh thức họ. Một cơn mơ lúc này sẽ biến thành những người phụ nữ kia mang đến sự khủng khiếp cho tôi. Tối nay tôi sẽ thật cố gắng để có thể ngủ một cách tự nhiên. Nếu không, ngày mai tôi sẽ nói họ cho tôi một liều chlorat, dùng một lần thì chắc không hại gì, và nó sẽ khiến tôi ngủ ngon. Tối nay tôi sẽ mệt hơn nếu như tôi chẳng ngủ được gì cả.
    Ngày 2 tháng Mười, 10 giờ sáng. - Tối hôm qua tôi đã ngủ, nhưng chẳng mộng mị gì. Hẳn là tôi đã ngủ rất say, vì tôi chẳng bị Jonathan đến giường đánh thức dậy, nhưng giấc ngủ không giúp tôi phục hồi, vì hôm nay tôi cảm thấy mệt và mất tinh thần kinh khủng. Cả ngày hôm qua tôi cố đọc sách, hoặc nằm ngủ lơ mơ. Đến chiều, ông Renfield muốn xin gặp tôi. Người đàn ông tội nghiệp này rất lịch thiệp, và khi tôi đến ông ấy hôn tay tôi và xin Chúa cầu phúc cho tôi.
    Nó làm cho tôi phần nào xao xuyến ghê gớm. Tôi khóc khi nghĩ đến ông ấy. Đó là một sự mềm yếu mới, và tôi phải cẩn thận về điều này mới được. Jonathan sẽ đau khổ lắm nếu anh ấy biết tôi khóc. Anh ấy và những người khác đi ra ngòai đến tận giờ cơm chiều, và tất cả bọn họ trở về trong mệt mỏi. Tôi làm tất cả những gì có thể để họ có thể vui vẻ lại, và tôi cho rằng những nỗ lực đó tốt choi tôi, nó khiến cho tôi quên đi sự mệt mỏi của mình.. Sau bữa ăn tối, họ lại bắt tôi đi nằm, và sau đó ra ngòai hút thuốc, họ nói thế, nhưng tôi biết họ đang muốn nói nói chuyện với nhau về những gì diễn ra trong ngày. Qua dáng điệu của Jonathan, tôi biết rằng anh ấy có một điều gì rất quan trọng phải truyền đạt.
    Tôi không đến nỗi quá buồn ngủ như tôi tưởng, nên trước khi họ đi tôi hỏi bác sĩ Seward cho tôi một ít thuốc ngủ, vì tôi không ngủ ngon vào đêm trước. Anh ta rất tử tế, cho tôi uống một ngụm thuốc ngủ, nói rằng nó không gây hại gì cả, nó rất nhẹ... Tôi uống và đợi giấc ngủ vẩn còn đang trốn tránh đến. Hy vọng rằng tôi không làm cái gì sai, bởi vì khi giấc ngủ bắt đầu ve vãn tôi, thì nỗi sợ hãi mới lại đến, và có thể là tôi đã rất ngu ngốc khi cướp đi của chính mình năng lực thức tĩnh. Có thể là tôi muốn vậy. Giấc ngủ đến rồi đây. Xin tạm biệt.





  5. #21
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default



    Chương 20

    NHẬT KÝ CỦA JONATHAN HARKER



    Ngày 1 tháng Mười, buổi chiều. - Tôi đến nhà của Thomas Snelling tại Bethnal Green để tìm ông ta, nhưng không may ông ấy đang ở trong tình trạng chẳng nhớ được gì cả. Cái viễn cảnh bia bọt mà tôi vẽ ra hy vọng sẽ được việc lại khiến cho ông ta sớm rơi vào tình trạng trác táng. Tuy nhiên, từ vợ ông, một người xem ra khá tử tế, một tâm hồn đáng thương, tôi biết được rằng ông ta chỉ là phụ tá của Smollet, một trong hai người đồng nghiệp chịu trách nhiệm.
    Tôi đánh xe đến Walworth và thấy ông Joseph đang ở nhà, mặc áo sơ mi dài tay, đang rót trà ra khỏi một cái đĩa. Ông ta là một người tử tế, thông minh, rõ là một người tốt bụng, chắc chắn thuộc kiểu người yêu lao động, và rất có đầu óc. Ông ta nhớ tất cả mọi chuyện về những cái hộp, và từ một cuốn sổ ghi chép quăn góc tuyệt diệu, do ông lấy ra từ một chỗ bí ẩn nào đó trên quần áo, đầy những chữ tượng hình bằng viết chì đậm đã phai đi hơn nữa, ông ta cho tôi biết đích đến của những chiếc hộp. Ông nói rằng sáu cái đã được chất lên xe hàng mà ông lấy từ Carfax và mang đến 197 đường Chicksand, Thị trấn Tận Cùng Một Dặm Mới, và sáu hộp khác ông đặc cọc tại hồ Jamaica, Bermondsey.
    Nếu tay bá tước kia muốn phân bố những thứ khủng khiếp của hắn khắp Luân Đôn, thì những nơi trên sẽ là những lựa chọn đầu tiên để phân bổ, sau đó hắn có thể phân phối rộng rãi hơn. Ý nghĩa bộc lộc qua những động thái của các sự việc trên khiến tôi nghĩ rằng hắn có thể không chỉ giới hạn mình ở hai đầu London. Bây giờ hắn đang vươn xa tới phía đông của bờ biển phía bắc, về phía đông của bờ biển phía nam, và vươn xuống miền nam. Phía bắc và phía tây hẳn nhiên cũng không nằm ngòai những sự sắp xếp ma quái của hắn, chỉ để lại thành phố cô độc này ngay tại chính trái tim của London đô hội ở phía tây nam và phía tây. Tôi quay lại gặp Smollet, và hỏi xem ông ấy có biết gì thêm về bất kỳ những cái hộp nào khác được mang đi từ Carfax.
    Ông ta trả lời, "Thật tuyệt, ngài đã đối xử với tôi rất tốt", trước đó tôi đã đưa cho ông ta nữa đồng sovereign, " và tôi sẽ nói với ngài tất cả những gì tôi biết. Tôi nghe người đàn ông được gọi tên Bloxam nói vào bốn đêm trưóc tại "Are and Ounds, trong ngõ hẻm Pincher, khi ông ta cùng bạn vừa hòan thành xong một công việc vất vả tại căn nhà cổ ở Purfleet. Có không nhiều những công việc đại loại như vậy đâu, và tôi nghĩ rằng có thể Sam Bloxan nói với ngài được nhiều thứ lắm."
    Tôi hỏi ông ta xem có thể tìm được người kia ở đâu. Tôi nói rằng ông ta sẽ có nữa đồng sovereign nữa nếu ông nói được địa chỉ. Khi đó ông ta nuốt một ngụm trà và đứng dậy, nói rằng ông sẽ bắt đầu đi tìm kiếm loanh quanh đâu đó thử.
    Ngay tại cửa ông ta dừng lại và nói, "Xem này, thưa ngài, xem ra thật không phải khi tôi giữ ngài lại đây. Có thể tôi sẽ tìm thấy Sam sớm hoặc không, nhưng dù thế nào đi nữa ông ta cũng không thích nói gì nhiều với ngài tối nay đâu. Sam là một người rất đặc biệt khi ông ta bắt đầu say lúy túy. Nếu ngài có thể cho tôi một phong bì có dán tem cùng địa chỉ bên trên, tôi sẽ tìm ra chỗ của Sam và gửi đến cho ngài tối nay. Nhưng ngài nên gặp ông ta vào lúc sáng sớm, đừng bao giờ trước bữa nhậu ban đêm."
    Đó là tất cả những điều đã được làm, và một cô bé đã phóng đi với một penny để mua một cái phong bì cùng một xấp giấy để giữ lại số tiền lẻ. Khi cô ta trở về, tôi ghi địa chỉ lên phong bì và dán tem, và khi Smollet một lần nữa trung thực hứa hẹn rằng sẽ gửi cho tôi địa chỉ khi tìm thấy, tôi lên đường về nhà. Dù sao đi nữa chúng tôi cũng đang lần theo đúng dấu vết, Tối nay tôi rất mệt mỏi, và tôi muốn đi ngủ. Mina ngủ thiếp đi rất nhanh, và trông nàng khá xanh xao.Mắt nàng nhìn giống như nàng đã khóc.
    Em tội nghiệp thân yêu, anh không hề nghi ngờ rằng việc giữ kín mọi chuyện với em sẽ khiến em rất bứt rứt, và có thể sẽ khiến em khó chịu gấp đôi với anh và những người khác. Nhưng tốt nhất là phải như thế. Lúc này thất vọng và lo lắng hơn là để làm tan vỡ thần kinh của nàng. Bác sĩ đã đúng khi khẳng định rằng nàng phải tránh xa những câu chuyện khủng khiếp của chúng tôi. Tôi phải cứng rắn, bởi vì gánh nặng đặc biệt của sự im lặng trên tôi phải được giải tỏa. Tôi không bao giờ trở về chủ đề này với nàng dù ở bất kỳ tình huống nào.
    Thật sự ra, đó không phải là một chuyện khó khăn, bởi vì chính bản thân nàng cũng trở nên thật dè dặt với chủ đề này, và chẳng hề nói gì về bá tước hay những câu chuyện của ông ta kể từ khi chúng tôi nói cho nàng biết những quyết định của mình.
    Ngày 2 tháng Mười, buổi tối. - Một ngày dài bận rộn và vất vả. Trước tiên bưu điện chuyển trực tiếp đến tôi một phong bì với một giấy nhỏ đính kèm, trên đó được viết bằng viết chì gỗ với dòng chữ viết ngóay, "Sam Bloxam, Korkrans, 4 Phố cụt Poters, đường Bartel, Walworth. Hỏi thêm về depite."
    Tôi để bức thư trong giường và đứng dậy mà không làm đánh thức Mina. Nàng vẩn còn ngủ say trong nặng nề và xanh xao, trong không khỏe tí nào. Tôi quyết định không đánh thức nàng, và khi tôi trở về sau cuộc tìm kiếm mới này, tôi sẽ sắp xếp để đưa nàng về Exeter. Tôi nghĩ rằng nàng sẽ vui hơn khi ở trong ngôi nhà của chúng tôi, và những công chuyện thường nhật sẽ khiến nàng khuây khỏa hơn làm ở đây và chìm trong sự bỏ mặt của chúng tôi. Tôi chỉ gặp bác sĩ Seward một chốc, nói với anh ta nơi tôi đã đi, hứa sẽ trở về nói hết khi tôi tìm thấy cái gì đó. Tôi đánh xe đến Walworth và với đôi chút vất cả, cũng đã tìm thấy Phố cụt Poter chứ không phải Phố cụt Potter. Tiu nhiên, khi tới được khu phố cụt này, tôi lại chẳng khó khăn gì để tìm thấy ngôi nhà tranh của Corcoran.
    Khi tôi hỏi người đàn ông ra cửa về "depite", ông ta lắc đầu và nói, "Tôi không biết. Không có người như vậy ở đây. Tôi chẳng bao giờ nghe nói đến ông ta trong những ngày tươi đẹp này. Đừng tin vào bất kỳ ai trong những hạng người đang sống ở đây hoặc bất cứ nơi đâu."
    Tôi lấy bức thư của Smollet ra, và khi đọc nó thì có vẻ như những bài học về đánh vần đã dẩn hướng cho tôi.
    "Ông là cái gì chứ?" tôi hỏi.
    "Tôi là depity ," ông ta trả lời.
    Ngay tức khắc tôi thấy rằng mình đã đi đúng đường. Vấn đề đánh vần ngữ âm đã một lần nữa làm tôi lạc lối. Với một nữa crown gợi ý cho những kiến thức ủy quyền cho tôi sử dụng, tôi biết rằng ông Bloxam, người đã ngủ với phần bia còn lại của ông ta trong đêm trước tại Corcoran, đã rời bỏ công việc của mình tại Poplar vào năm giờ sáng nay. Ông ta không thể nói với tôi chỗ ấy ở đâu, nhưng ông ta cũng nêu lên được một ý mập mờ rằng đó là một cái "coi chừng những cú nanh", và với một lời gợi ý sáng sủa như thế tôi bắt đầu tìm Poplar. Khỏang mười hai giờ thì tôi tìm được một lời gợi ý về tòa nhà này, và tôi đến một tiệm cà phê, nơi một số công nhân đang ăn bữa chiều.
    Một trong số họ cho rằng có thể đó là tòa nhà "dự trữ lạnh" ở ngay đường Thiên Thần Chữ Thập, đó là nơi lý tưởng cho "coi chừ những cú nanh" tôi lập tức đánh xe đi. Một cuộc phỏng vấn với một gác cổng cáu gắt và người đốc công còn cáu gắt hơn, cả hai được an ủi bằng những đồng xu đầy uy lực, tôi đã có được dấu vết của Bloxam. Ông ta đề nghị với tôi hãy sẳn lòng trả tiền lương công nhật cho người đốc công của ông ta để có quyền hỏi ông ta về những vấn đề cá nhân.
    Ông ta là một gã có đủ trí thông minh, dù rất khó ưa với giọng nói và tác phong của mình. Khi tôi hứa với ông ta sẽ trả tiền để lấy những thông tin của ông ta và cho ông ta tiền đặt cọc, ông ta nói với tôi rằng ông ta đã làm hai cuộc viễn du giữa Carfax và ngôi nhà ở Piccadilly, và lấy ra khỏi ngôi nhà này đến nơi kia chín cái hộp lớn, "nặng ghê gớm," với một con ngựa và cỗ xe được ông ta thuê cho công chuyện này.
    Tôi hỏi ông ta có thể nói được số nhà của căn nhà ở Piccadilly hay không, thì ông ta trả lời, "Vâng, thưa ngài, tôi quên mất con số rồi, nhưng chỉ có vài cánh cửa từ một cái nhà thờ lớn hoặc đại loại thế mới được xây gần đây. Đó cũng là một ngôi nhà cũ kỹ bụi bậm, mặc dù những cái hộp đấy được mang đến từ một căn nhà lộng lẫy chẳng hề có tí bụi nào."
    "Hai căn nhà đều chẳng có ai thì làm sao ông vào nhà được?"
    "Có một ông già hẹn tôi đợi ở trong một căn nhà ở Purfleet. Ông ta giúp tôi nâng mấy cái hộp và bỏ nó lên xe bò. Mẹ kiếp, đó một ông già khỏe nhất mà tôi từng đụng phải, và ông ta là một ông già, ria trắng, một ông già gầy ốm mà ngài có thể cho rằng không thể ném nổi một con cá trích."
    Làm sao diễn tả được sự run rẩy đang xuyên vào tôi!
    "Thế đấy, ông ta nâng những cái hộp của ông ta như thể nó là những cốc trà, và tôi bị thổi tung đi khiến tôi không thể điều khiển nổi mình nữa, và tôi thì đâu có phải là một con gà con."
    "Làm sao mà ông vô được căn nhà ở Piccadilly?" tôi hỏi.
    "Ông ta cũng có ở đấy luôn. Ông ta hẳn là đã khởi hành và đến đó trước tôi, bởi vì khi tôi rung chuông thì ông ta tự mình ra mở cửa và giúp tôi mang những cái hộp vô tiền sảnh."
    "Cả chín cái?" tôi hỏi.
    "Phải, lần đầu năm và lần sau bốn. Đó là một công việc cực khổ, và chẳng thể nhớ nổi làm sao tôi về đến nhà."
    Tôi ngắt lời ông ta, "Vậy là những cái hộp để ở tiền sảnh"
    "Vâng, cả đống đó đều rất lớn, và chẳng có gì khác ở đó."
    Tôi cố thêm một nỗ lực nữa. "Ông có cái chìa khóa nào không?"
    "Chẳng lúc nào phải dùng chìa khóa hay cái gì khác cả. Ông già ấy được lắm, ông ta mở cửa tự mình và cũng tự đóng lại khi tôi xong việc. Tôi không nhớ cuối cùng là mấy giờ, nhưng đó là lúc đi uống bia."
    "Và ông không thể nhớ số nhà?"
    "Không, thưa ngài. Nhưng ngài sẽ không gặp khó khăn về việc này đâu. Đó là những bậc đá cao phía trước với mái vòm trên nó, sẽ dẩn ngài đi đến chỗ cánh cửa.Tôi biết những bậc thang này, vì đã cùng ba kẻ lang thang khác vừa đến khiêng những cái hộp trên nó để kiếm một đồng xu. Người đàn ông già kia đã cho họ những đồng xilinh, và khi họ thấy họ đã có nhiều như vậy, họ muốn thêm. Nhưng ông ta đã xử một tên trong bọn họ bằng vai như thể ném hắn bay xuống các bậc thang, nên bọn kia lập tức cút đi với những lời chửi rủa."
    Tôi nghĩ rằng với những lời chỉ dẩn đó tôi có thể tìm thấy ngôi nhà, do đó tôi trả công ông bạn mình cho những thông tin trên, tôi bắt đầu đi đến Piccadilly. Tôi đã thu được những kinh nghiệm đau thương. Sự thật rõ là bá tước có thể tự mình xoay xở những cái hộp đó. Nếu đúng như vậy thì thời gian bây giờ là rất quý giá, bởi vì lúc này hắn ta có thể phân phối xong một khối lượng lớn bằng cách chọn thời gian hoạt động của mình để hòan thành công việc kia mà không ai theo dõi được.
    Tại gánh xiếc Piccadilly tôi đổi xe, và bước đi về hướng tây. Ở sau Hiến Pháp Nhỏ Hơn, tôi đi qua ngôi nhà được mô tả và hài lòng khi nhận thấy đó là một hang ổ được sắp xếp tiếp theo của Dracula. Ngôi nhau trông như có vẻ đã khá lâu chẳng có bóng người. Cửa sổ đóng một lớp bụi cửa chớp đóng kín. Tất cả sườn nhà lúc nào cũng tối tăm, và lớp thép lộ ra khi những nước sơn gần như tróc đi sạch. Rõ ràng là chỉ mới gần đây nơi này đã có một tấm bảng thông báo để trước ban công.
    Tuy nhiên nếu như vậy thì nó đã được giật mạnh đi, cái trụ đứng dùng để treo nó vẩn còn lại. Đằng sau tay vịn ban công tôi thấy rất nhiều tấm bảng để lộn xộn, với những đường vạch trắng sáng lên. Tôi có được một tình thế lý tưởng để có thể trông thấy những tấm bảng thông báo kia chưa bị bôi xóa, và như thế có thể sẽ có được một số gợi ý về người chủ căn nhà. Tôi nhớ lại những kinh nghiệm của mình trong cuộc điều tra và mua bán ở Carfax, và tôi không thể làm gì ngòai cảm giác rằng tôi có thể tìm thấy người chủ trước ở đấy, đồng nghĩa với việc khám phá và thu thập các khả năng truy nhập căn nhà này.
    Lúc này chẳng có gì để tìm hiểu về phía Piccadilly, chẳng có thể làm gì hơn, tôi vòng ngược ra phía sau để tìm xem có cái gì đó có thể thu lượm từ hướng này hay không. Hang ổ này rất sống động, ngôi nhà Piccadelly gần như đang bị chiếm đóng. Tôi hỏi một hoặc hai người giữ ngựa và người giúp việc tôi bắt gặp xem họ có biết gì về ngôi nhà trống rỗng kia. Một trong số họ nói rằng gần đây anh ta có nghe thấy tiếng cái gì đó bị lấy đi, và rất gần đây thì có một tấm bảng thông báo "Để bán" được treo, nên có thể Mitchell, Các Con Trai và Candy, những nhân viên nhà đất có thể nói với tôi cái gì dó, bởi vì anh ta cho rằng anh nhớ đã trông thấy tên của công ty này trên tấm bảng.
    Tôi không mơ ước đến một cái gì đó đáng phấn khởi đến thế, hoặc là có được một người cung cấp tin có thể biết và đóan được nhiều chuyện như vậy, nên sau khi cám ơn anh ta với một dáng vẻ bình thường, tôi quay đi.
    Lúc này trời đã gần tối hơn, và khi đêm thu đang đến gần, tôi lại càng không để mất một chút thời gian nào.
    Lấy được địa chỉ của Mitchel, Sons & Candy từ sách chỉ dẩn của Berkeley, tôi nhanh chóng có mặt ở văn phòng của họ tại đường Sackville.
    Một người đàn ông quý phái với dáng vẻ đặc biệt tinh tế đón tiếp tôi, nhưng ông ta không có sự cởi mở tương xứng. Được một lần nói với tôi về ngôi nhà Piccadilly, mà trong suốt cuộc nói chuyện ông ta gọi là "lâu đài" đã bán, ông ta quan tâm đến chuyện làm ăn của tôi như là phần kết cục. Khi tôi hỏi ai là người mua nó, ông ta mở to mắt, ngừng lại vài giây trước khi trả lời, "Nó đã được bán, thưa ngài."
    "Xin lỗi," tôi nói , với sự lịch sự ngang bằng, "nhưng tôi có một lý do đặc biệt để mong mỏi biết được ai là người mua nó."
    Một lần nữa ông ta lại ngập ngừng lâu hơn, và càng nâng cặp lông mày của mình lên. "Nó đã được bán, thưa ngài," câu trả lời ngắn gọn của ông ta một lần nữa lại được lặp lại.
    "Hẳn thế rồi, " tôi nói, "nhưng hẳn là ngài không phiền để cho tôi biết nhiều hơn."
    "Nhưng tôi phiền đấy," ông ta trả lời. "Những câu chuyện làm ăn của khách hàng chúng tôi luôn được giữ an tòan trong những bàn tay của Mitchel, Các Con Trai và Candy."
    Ở ông ta hiện ra sự lạnh lẽo của lớp nước đầu tiên, và như thế thì đừng có tranh cãi với ông ta. Tôi nghĩ tốt nhất là nên gặp ông ta ở lãnh vực của riêng ông, nên tôi nói, "Khách hàng của ngài, thưa ngài, sẽ rất vui nếu có được một sự kiên quyết của người người bảo vệ được họ tin tưởng. Tôi là một người chuyên nghiệp."
    Và tôi đưa cho ông ta danh thiếp, "Trong trường hợp này tôi không bị thôi thúc bởi sự tò mò, tôi là người đại diện của huân tước Godalming, người mong mỏi muốn biết được rằng một phần tài sản của mình, ông ấy muốn nói rằng, sau này sẽ được an tòan."
    Những lời đó đã tạo nên một sự thay đổi đáng kể trong câu chuyện. Ông ta nói, "Tôi rất muốn được giúp đỡ ngài nếu như tôi có thể, ngài Harker, và đặc biệt một giúp đỡ chủ ngài. Chúng tôi đã một lần hân hạnh giải quyết một vấn đề nhỏ cho việc thuê một số căn buồng cho ông ấy khi ông ấy là ngài Arthur Holmwood đáng kính. Nếu ngài cho tôi biết địa chỉ của chủ ngài, tôi sẽ hỏi ý kiến người chủ nhà về vấn đề này, và sẽ ngay lập tức liên hệ với chủ nhân ấy bằng bưu điện tối nay. Kể ra cũng đáng nếu chúng ta có thể rời xa những luật lệ của mình để đưa những thông tin cần thiết cho người chủ nhân."
    Tôi muốn bảo vệ người bạn của mình, và không muốn tạo ra một kẻ thù, nên tôi cám ơn anh ta, cho anh ta địa chỉ của bác sĩ Seward và đi ra. Bây giờ trời đã tối, và tôi đang đói và mệt. Tôi uống một tách trà tại công ty Aeranted Bread và đi xuống Purfleet bằng chuyến xe lửa tiếp.
    Đến nhà thì tôi thấy mọi người đã có mặt. Mina trông mệt mõi và xanh xao, nhưng nàng đang có một nỗ lực dễ thương để tỏ ra tươi tỉnh và phấn khởi. Điều đó làm tim tôi thắt lại khi nghĩ rằng tôi đã che giấu nàng một số điều gì đó và khiến cho nàng không được bình yên. Tạ ơn Chúa, đây sẽ là đêm cuối cùng nàng quan sát cuộc họp của chúng tôi với cảm giác chua chát về sự không tin tưởng của chúng tôi.
    Điều đó làm tôi lấy lại được can đảm để giữ nguyên ý kiến sáng suốt về việc giữ nàng đứng ngòai những câu chuyện ảm đạm của chúng tôi. Có vẻ như nàng đã có phần chịu đựng được điều này, hoặc là chính cái mục đích đã trở thành đáng ghét cho nàng, hoặc một lời bóng gió ngẫu nhiên đã khiến nàng thực sự run rẩy. Tôi rất mừng là chúng tôi đã đưa ra một nghị quyết đúng lúc, vì với một cảm giác như vậy, thì càng kiến thức chúng tôi càng thu thập được sẽ càng là một sự tra tấn cho nàng.
    Tôi không thể nói với những người khác các khám phá trong ngày cho đến khi chúng tôi còn lại với nhau, nên sau bữa tối, với một chút âm nhạc để bảo vệ sự hiện diện thậm chí là giữa chúng tôi với nhau, tôi đưa Mina về phòng nàng để nàng ngủ. Cô gái thân yêu đó càng âu yếm với tôi hơn bao giờ hết, nàng bám lấy tôi như thể không muốn để tôi đi, nhưng chúng tôi chẳng có gì nhiều để nói và tôi đi ra. Tạ ơn Chúa, việc ngừng nói chuyện đã khiến chúng tôi chẳng còn gì khác biệt với nhau.
    Khi tôi đi xuống trở lại thì mọi người đã tề tựu quanh ngọn lửa trong phòng nghiên cứu. Trên xe lửa tôi đá viết lại mọi chuyện trong nhật ký, và bây giờ việc đơn giản đọc lại nó cho họ chính là cách tốt nhất để cho họ có được những thông tin của riêng tôi.
    Khi tôi chấm dứt, Van Helsing nói, "Thật là một ngày làm việc xuất sắc, bạn Jonathan. Không nghi ngờ gì nữa chúng ta đã theo đúng dấu vết của những cái hộp bị mất. Nếu chúng ta tìm thấy tất cả chúng ở trong căn nhà ấy, thì công việc của chúng ta đã gần đến đích. Nhưng nếu như có một số khác mất đi, chúng ta sẽ phải tìm kiếm cho đến khi chúng ta tìm thấy chúng. Đoạn chúng ta sẽ thực hiện công việc táo bạo sau cùng, săn đuổi con quái ấy đến cái chết thật sự của hắn."
    Chúng tôi ngồi im lặng một lúc và ngay khi đó ông Morris cất tiếng, "Hãy nói đi! Làm cách nào chúng ta có thể đi vào căn nhà đó?"
    " Chúng ta sẽ vào cái khác," Huân tước Godalming nhanh chóng trả lời.
    "Nhưng, Art, điều đó là khác nhau. Chúng ta đột nhập căn nhà ở Carfax, nhưng chúng ta có bóng đêm và những bức tường công viên bảo vệ. Điều đó sẽ rất khác khi dây vào một vụ trộm ở Piccadelly, bất kể là ngày hay đêm. Tớ phải thú nhận rằng tớ chẳng thấy được cách nào để chúng ta vào trừ khi cái thằng cha nhân viên thân mến ấy có thể tìm cho chúng ta một thứ chìa khóa nào dó."
    Huân tước Godalming nhíu mày, rồi anh ta đứng dậy và đi về phía phòng. Ngay khi đó anh ta dừng lại và nói, quay lần lượt về từng người trong bọn tôi, "Cái đầu của Quincey thật tốt. Tiến hành một vụ trộm sẽ rất khó khăn. Chúng ta đành phải từ bỏ nó, nhưng chúng ta còn có một công việc khó khăn. Trừ phi chúng ta có thể tìm thấy được chùm chìa khóa của bá tước."
    Chúng tôi chẳng thể làm được gì tốt đẹp trước khi trời sáng, và cuối cùng cái khã dĩ được nhất là đợi đến khi huân tước Godalming có tin tức của Mitchell, chúng tôi quyết định sẽ không tiến hành thêm một bước nào nữa trước giờ ăn sáng. Chúng tôi có được một chút thỏai mái để ngồi và hút thuốc, tranh luận về các quan điểm tìm kiếm và chống đỡ khác nhau. Tôi có được cơ hội để để ghi vào nhật ký một lúc. Tôi rất buồn ngủ và sẽ đi ngủ...
    Chỉ một dòng thôi. Mina ngủ ngon và thở bình thường. Trán nàng hằn lên một vết nhăn nhỏ, chứng tỏ nàng vẩn suy nghĩ thậm chí khi đang ngủ. Nàng vẩn rất xanh xao, nhưng trông không đến nổi quá hốc hác như lúc sáng. Tôi hy vọng là đến ngày mai thì thì tất cả sẽ được cải thiện. Nàng sẽ là chính mình tại nhà ở Exeter. Ôi, nhưng mà tôi phải ngủ đây!
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 1 tháng Mười - Tôi một lần nữa nhức đầu vì Renfield. Tính khí của ông ta thay đổi nhanh đến nổi tôi khó mà hiểu được nó, và chúng luôn chứng tỏ một cái gì đó hơn là tình trạng khả quan của ông ta, chúng tạo thành một cái gì đó hơn là một trường hợp nghiên cứu thú vị. Sáng nay, khi tôi đến để gặp ông ta sau khi ông ta đẩy lùi Van Helsing, thái độ của ông ta ra vẻ là một người đàn ông đang ra lệnh cho số phận. Thật ra ông ta đang ra lệnh cho số phận, một cách chủ quan. Ông ta thật sự chẳng hề quan tâm đến bất cứ cái gì trên trái đất này, ông ta đang ở trên mây và nhìn xuống tất cả sự yếu đuối và muốn tất cả những con người khốn khổ như chúng tôi chết đi.
    Tôi nghĩ rằng tôi sẽ cải thiện được trường hợp này và biết được thêm cái gì đó, nên tôi hỏi ông ta, "Lần này thì những con ruồi đâu cả rồi?"
    Ông ta mỉm cười với tôi theo dáng điệu kẻ bề trên, một nụ cười như thế đã trở thành khuôn mặt của Malvolio, khi ông ta trả lời tôi, "Những con ruồi, thưa ngài thân mến, có một đặc điểm đáng chú ý. Những cái cánh của nó là biểu tượng cho sức mạnh siêu thực của khả năng tâm linh. Những người cổ xưa đã làm đúng khi họ ví tâm hồn như con bướm!"
    Tôi nghĩ rằng tôi đã đẩy được sự loại suy của ông ta lên đến mức logic tột đỉnh, nên tôi nói nhanh, "Bây giờ thì ông đang nghiên cứu tâm hồn, phải không?"
    Sự điên khùng của ông ta làm nền cho lý do của ông, rồi một cái nhìn khó hiểu trải ra khắp mặt ông ta khi ông ta lắc đầu với một vẻ quả quyết mà tôi rất hiếm khi thấy ở ông.
    Ông ta nói, "Ồ không, ồ không! Tôi không phải muốn những tâm hồn. Cuộc sống là tất cả những thứ tôi muốn." Nói đến đây ông ta tươi tỉnh hẳn. "Vào lúc này tôi chẳng khác nó mấy chút. Cuộc sống là tất cả những điều tốt đẹp. Tôi đã có tất cả những gì tôi muốn. Ông phải tìm một bệnh nhân mới thôi, bác sĩ, nếu ông muốn nghiên cứu về sự ăn thịt động vật!"
    Điều này làm tôi khá đau đầu , nên tôi thăm dò ông. "Vậy thì ông điều khiển sự sống. Tôi cho rằng, có lẽ ông là chúa trời chăng?"
    Ông ta mỉm cười với một vẻ ôn hòa bề trên không sao tả xiết. "Ồ không! Còn lâu tôi mới có thể láo xược tự cho mình những phẩm chất của thần thánh. Thậm chí tôi cồn không quan tâm đến những công việc tâm linh đặc biệt của Ông ấy nữa. Nếu tôi có thể vận dụng những khả năng trí óc của mình, thì đến nay tôi chỉ hoàn toàn tập trung vào những sự việc sống trên mặt đất, một phần nào đó ở những tình huống mà Enoch có thể thực hiện những năng lực tinh thần!"
    Vấn đề khá hóc đối với tôi. Tôi không thể ngay tức khắc nhớ ra được Enoch, nên tôi phải hỏi một câu hỏi đơn giản, dù rằng tôi cảm thấy nó sẽ khiến tôi tự hạ thấp chính mình trước đôi mắt của người tâm thần kia. "Và vì sao lại là Enoch?"
    "Bởi vì ông ta đi cùng với Chúa."
    Tôi vẩn chẳng hiểu ra mô tê gì cả, nhưng không muốn thú nhận nó, nên tôi quyết định quay về từ cái mà ông ta đã phủ nhận. "Vì sao mà ông không còn quan tâm đến sự sống mà không muốn linh hồn. Vì sao vậy?" Tôi đặt câu hỏi rất nhanh và có phần nào nghiêm nghị, với mục đích làm ông ta mất bình tĩnh.
    Nỗ lực này đã thành công, bởi vì trong một thóang ông ta vô giác rơi trở vào tình trạng nô lệ cũ, cúi người trước tôi, và thật sự là xun xoe trước tôi khi ông ta trả lời. "Tôi không muốn bất cứ linh hồn nào, thật sự là vậy, thật sự! Tôi không muốn. Tôi không thể dùng nó nếu tôi có nó. Nó sẽ có cái gì hữu dụng cho tôi. Tôi không thể ăn nó hoặc..."
    Ông ta thình lình ngừng lại và sự xảo nguyệt lại lan rộng trên khuôn mặt ông ta giống như một cơn gió quét trên bề mặt nước.
    "Và bác sĩ, giống như cuộc sống, cuối cùng là cái gì? Khi ngài có tất cả những gì ngài yêu cầu, và ngài biết rằng ngài sẽ không bao giờ muốn, đấy là tất cả. Tôi có bạn bè, những người bạn tốt, giống như ngài, bác sĩ Seward." Điều này được nói với một cái liếc mắt mang đậm vẻ xun xoe khó tả. "Tôi biết rằng tôi sẽ không bao giờ thiếu cuộc sống!"
    Tôi nghĩ rằng qua những câu nói điên rồ tối nghĩa ấy, ông ta thấy được những sự đối lập của tôi, bởi vì ngay tức khắc sau đó ông ta chui ngay vào nơi trốn tránh cuối cùng quen thuộc của ông ta, đó là sự im lặng lì lợm.
    Sau một khỏang thời gian ngắn, tôi thấy rằng lúc này không thể nói chuyện được với ông ta. Ông ta thật lầm lì, và vì vậy tôi bỏ đi.
    Sau đó cũng trong ngày ông ta lại gọi tôi. Thông thường thì tôi sẽ không đến mà chẳng có lý do gì đặc biệt, nhưng lúc này tôi đang rất thích thú với ông ta đến nỗi tôi vui mừng để thử. Harker đi ra ngòai, lần theo những tung tích, và Huân tước Godalming cùng Quincey cũng thế. Van Helsing ngồi trong phòng nghiên cứu của tôi, mãi mê với những hồ sơ được Harker chuẩn bị. Ông ta có vẻ nhưng đang nghĩ rằng bởi những kiến thức chính xác từ tất cả các chi tiết ông ta sẽ soi sáng được một số tung tích.
    Ông ta mong muốn không bị quấy rầy trong công việc, dù bất kỳ lý do nào. Tôi đã từng kêu ông ấy đi với tôi để thăm bệnh nhân, chỉ vì tôi nghĩ rằng sau sự cố gắng cuối cùng của ông ta, có thể ông ấy không còn quan tâm đến chuyện đó nữa. Còn có một lý do khác. Renfield có thể sẽ không nói chuyện thỏai mái trước một người thứ ba như khi chỉ có tôi và ông ấy.
    Tôi thấy ông ta đang ngồi giữa phòng trên chiếc ghế đẩu cảu ông ta, với một dáng điệu ngụ ý biểu lộ sức mạnh tinh thần của ông. Khi tôi đến, ông ta nói ngay, như thể câu hỏi đã chực sẳn trên môi ông. "Về những linh hồn thì thế nào?"
    Rõ ràng là sự ước đóan của tôi đã chính xác. Sự suy nghĩ vô thức đã làm công việc của nó, dù là với người tâm thần. Tôi quyết định làm rõ vấn đề.
    "Còn về của chính ông thì sao?" tôi hỏi.
    Ông ta không trả lời ngay mà nhìn chung quanh, nhìn lên và xuống, có vẻ như ông ta đang chờ đợi để tìm một ít cảm hứng để trả lời.
    "Tôi không muốn bất kỳ linh hồn nào!" Ông ta yếu ớt nói với vẻ biết lỗi. Vấn đề này có vẻ đã tác động tâm tưởng của ông ta, nên tôi quyết định sẽ dùng nó, vì "tỏ ra độc ác chỉ để tốt lành." Cho nên tôi nói, "Ông thích cuộc sống, và ông muốn cuộc sống?"
    "Ôi vâng! Chỉ là thế thôi. Ngài không cần phải bận tâm về điều đó!"
    "Nhưng," tôi hỏi, "làm sao chúng ta có thể có cuộc sống mà không có linh hồn?"
    Có vẻ như điều này làm ông ta khó nghĩ, và tôi tiếp tục, "Vào một thời điểm tốt đẹp nào đó ông sẽ có một ít thời gian khi ông rời khỏi đây, với tâm hồn của hàng ngàn ruồi, nhện, chim và mèo, chúng vo ve, líu lo, than van chung quanh ông. Ông đã có cuộc sống của chúng, ông cũng biết đấy, và ông phải giải quyết với linh hồn chúng!"
    Những điều này có vẻ như đã có tác động với trí tưởng tượng của ông, nên ông ta đưa tay lên bịt tai và đóng sập mắt lại, khép rịt mắt như một cậu bé nhỏ khi khuôn mặt cậu đầy xà bông. Cái vẻ cảm động trong dáng vẻ ấy đã tác động đến tôi. Nó cũng cho tôi một cái cảm giác rằng đứng trước mặt tôi là một đứa trẻ, chỉ là một đứa trẻ, dù nét mặt đã già cỗi, và những mớ râu lởm chởm nơi cằm đã bạc trắng. Rõ ràng là ông ta đang trải qua một sự xáo động lớn trong tâm hồn, và khi đã biết về những tính khí trong quá khứ của ông thì có thể suy luận ra rằng có vẻ như có một cái gì đó khác lạ đang lan tỏa trong ông, tôi nghĩ rằng đã có thể xâm nhập vào tâm trí của ông ở mức mà tôi có thể và lướt đi cùng ông.
    Bước đầu tiên là phải phục hồi niềm tin, nên tôi hỏi ông ta, nói thật lớn để ông ta có thể nghe được tôi dù ông đang bịt chặt tai, "Ông có muốn một chút đường để bắt những con ruồi quanh đây không?"
    Ông ta có vẻ như bật dậy ngay, và lắc đầu. Với một tiếng cười ông ta trả lời, "Không! Dù sao thì ruồi cũng chỉ là những sinh vật khốn khổ!" Ngừng lại một chút ông ta tiếp, "Nhưng tôi không muốn tâm hồn của chúng vo ve quanh tôi, dù thế nào đi nữa."
    "Hoặc là nhện?" tôi tiếp tục.
    "Những con nhện tai họa! Những con nhện thì dùng làm gì? Chẳng có gì trong nó để ăn hoặc..." Ông ta ngừng lời đột ngột như thể nhớ lại về một chủ đề bị ngăn cấm.
    "Chính thế, chính thế!" tôi nghĩ bụng, "đây là lần thứ hai ông ta thình lình ngừng lại khi gặp từ uống". Điều này có nghĩa là gì nhỉ?"
    Renfield có vẻ như đã tự thức tỉnh mình sau khi phạm một sai lầm, nên ông ta vội vã như muốn làm sao nhãng sự chú ý của tôi về chuyện này, "Tôi không tạo ra bất kỳ một kho dự trữ nào về những chuyện như thế này.
    Những con chuột cống và chuột nhắt và những con vật nhỏ nhặt như vậy' như Shakespeare đã nói trẻ con được nuôi trong tủ đựng thức ăn', chúng có thể được gọi như vậy. Tôi đã trảu qua tất cả những chuyện bậy bạ như vậy. Ngài cũng có thể yêu cầu một người ăn các phân tử bằng một đôi đũa, cũng như quan tâm đến tôi như một lòai ăn thịt bậc thấp, tôi biết những gì xảy ra trước tôi."
    "Tôi hiểu" tôi nói. "Ông muốn những thứ lớn hơn để có thể chạm răng vào? Ông có muốn một con voi cho bữa sáng không?"
    "Ngài đang nói những chuyện hoang đường phi lý nào vậy? "Ông ta đã quá tỉnh táo, dù tôi đã dồn ép ông khá nhiều.
    "Tôi tự hỏi" tôi trả lời theo phản xạ, "linh hồn một con voi thì như thế nào!"
    Nỗ lực của tôi đã được đón nhận như mơ ước, vì ngay lập tức ông ta rơi trở về trạng thái kích động và trở thành một đứa trẻ trở lại.
    "Tôi không muốn linh hồn một con voi, hoặc bất kỳ linh hồn nào khác!" ông ta nói. Sau một lúc ông ta ngồi xuống với vẻ chán nãn. Thình lình ông ta nhảy dựng lên, với đôi mắt sáng rực và với tất cả những dấu hiệu biểu lộ một sự kích động mãnh liệt trong não. "Quỷ tha ma bắt ngài và những linh hồn của ngài!" ông ta gào lên. "Vì sao ngài quấy rầy tôi về những cái linh hồn đó? Bộ tôi chưa đủ chuyện để lo lắng và đau khổ đủ làm tôi sao nhãng chẳng nghĩ về những cái tâm hồn đấy sao?"
    Ông ta trông thật thù địch đến nỗi tôi nghĩ rằng ông ta đang rơi vào một cảm giác muốn giết người khác, nên tôi húyt sáo.
    Tuy nhiên, trong chốc lát sau tôi lại thấy ông ta bình tĩnh trở lại, và nói với vẻ biết lỗi, "Xin tha lỗi cho tôi, bác sĩ. Tôi đã quên mất bản thân mình. Ngài không cần ai giúp đỡ đâu. Tôi đã quá lo lắng trong tâm tưởng và trở nên dễ nổi cáu. Nếu như ngài biết được vấn đề mà tôi phải đương đầu, những chuyện mà tôi phải giải quyết, ngài sẽ thương hại, sẽ khoan dung, sẽ tha lỗi cho tôi. Xin ngài đừng nhét tôi vào cái áo trói. Tôi muốn suy nghĩ và tôi không thể tự do nghĩ ngợi khi cơ thể tôi bị giam hãm. Tôi chắc rằng ngài sẽ hiểu được!"
    Ông ta rõ ràng đã tự chủ được, và khi những người phục vụ đến tôi nói họ đừng làm phiền, và họ rút lui. Renfield quan sát họ quay đi. Khi cánh cửa khép lại ông ta ngồi xuống với vẻ cân nhắc và duyên dáng, "Bác sĩ Seward, ngài đã rất quan tâm đến tôi. Hãy tin rằng tôi rất, rất biết ơn ngài!"
    Tôi nghĩ là rời ông ta trong tình trạng này thì thích hợp, nên tôi đi ra. Có một cái gì đó rõ ràng đang đọng trong tâm tưởng con người này. Có rất nhiều điểm có vẻ như tạo nên một cái gì đó mà những nhà báo Mỹ gọi là "một câu chuyện," chỉ khi chúng được sắp xếp theo một thứ tự thích hợp. Chúng là như thế này:
    Cương quyết không nói đến "uống."
    Sợ hãi khi nghĩ đến gánh nặng của "linh hồn" bất kỳ thứ gì.
    Chẳng hề ngần ngại mong muốn đến "cuộc sống" trong tương lai.
    Khinh thường đến sự tồn tại của những dạng cuộc sống nói chung, dù ông taếtttt khiếp sự săn đuổi từ linh hồn của chúng.
    Thật hợp lý là tất cả những điểm này chỉ ra một khả năng! Ông ta tin chắc vào một phương cách nào đó sẽ khiến ông ta có được một cuộc sống dạng cao.
    Ông ta rõ ràng khiếp sợ gánh nặng của những linh hồn. Và ông ta đã mong ước đến cuộc sống của một con người nào đó!
    Và sự bảo đảm ấy...?
    Chúa nhân từ! Bá tước đã đến gặp ông ta, và đây lại là một sự phối hợp mới trong những sự họat động khủng khiếp kia!
    Sau đó - Sau một lúc đi dạo, tôi đế chỗ Van Helsing và nói với ông ta sự nghi ngờ của tôi. Ông ấy nhanh chóng trở nên rất căng thẳng, và sau khi suy nghĩ về vấn đề này một lúc ông ta nói tôi dẩn ông đến chỗ Renfield. Tôi làm điều đó. Khi chúng tôi đi đến cửa chúng tôi nghe thấy người bệnh tâm thần này hát lên hoan hỉ, như thể ông ta đã từng làm điều đó trong một lúc nào đấy đã trôi xa.
    Khi đi vào chúng tôi kinh ngạc khi thấy ông ta đang rãi đường như thường lệ. Ruồi, vốn khá đờ đẩn trong mùa thu, đang bắt đầu vo ve trong phòng. Chúng tôi cố làm ông ta nói về chủ đề trong cuộc nói chuyện trước của chúng tôi, nhưng ông ta không quan tâm đến. Ông ta tiếp tục hát hỏng, như thể chúng tôi chẳng hề tồn tại.
    Ông ta gom những mảnh giấy nhỏ lại và cuộn nó thành một cuốn sổ ghi chép. Chúng tôi đi ra trong sự thờ ơ như lúc chúng tôi đi vào.
    Trường hợp này quả thật rất đáng tò mò. Chúng tôi sẽ phải theo dõi ông ta tối nay.
    THƯ CỦA MITCHEL, CÁC CON TRAI & CANDY GỬI CHO HUÂN TƯỚC GODALMING.
    "Ngài 1 tháng Mười." Thưa Ngài,
    "Chúng tôi đã dành tất cả thời gian chỉ để vui mừng thỏa mãn những yêu cầu của ngài. Chúng tôi tha thiết, với tất cả sự kính trọng với sự yêu cầu của ngài Huân tước, được truyền đạt bởi ông Harker nhân danh ngài, để cung cấp những thông tin sau đây về vấn đề mua và bán của căn nhà số 347, Piccadilly. Người cung cấp đầu tiên là người thi hành di chúc của ngài Archibald Winter - Sufield quá cố. Người mua là một nhà quý tộc nước ngòai, bá tước de Ville, người này đã tiến hành việc trả tiền mua bán nhà theo cách không cần đếm', xin ngài Huân tước tha lỗi cho chúng tôi đã dùng một cách diễn đạt thiếu thẩm mỹ như vậy. Sau đó chúng tôi không còn biết gì về ông ta nữa.
    "Chúng tôi luôn chờ đợi những yêu cầu của Ngài,
    "Những người phục vụ khiêm tốn của Huân tước,
    "Mitchell, Các Con Trai và Candy."
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 2 tháng Mười. - Tôi cắt đặt một người trông hành lang tối hôm qua, nói anh ta ghi chép thật chính xác bất kỳ âm thanh nào mà anh ta nghe được từ phòng của Renfielđ, chỉ thị cho anh ta rằng nếu có bấy kỳ chuyện gì lạ xảy ra thì phải gọi tôi ngay. Sau bữa ăn tối, khi tất cả chúng tôi đã tập trung bên lò sưỡi trong phòng nghiên cứu, bà Harker đã đi ngủ, chúng tôi thảo luận và những hoạt động và những sự khám phá đã đạt được trong ngày. Harker là người duy nhất có được một số kết quả, và chúng tôi đều vô cùng hy vọng rằng những manh mối của anh ta sẽ rất hữu dụng.
    Trước khi đi ngủ tôi đi quanh phòng bệnh nhân và nhìn qua ô cửa theo dõi. Ông ta đang ngủ ngon lành, ngực ông ta phập phồng với sự hô hấp bình thường.
    Đến sáng thì người được phân công đã báo cáo với tôi rằng quá nữa đêm một lúc ông ta thức giấc và liên tục cầu nguyện đầy ồn ào. Tôi hỏi anh ta xem có phải đó là tất cả hay không. Anh ta trả lời rằng đó là tất cả những gì anh ta nghe được. Dáng điệu của anh ta trông đầy nghi ngờ nên tôi hỏi thẳng anh ta có ngủ quên không. Anh ta chối là không ngủ, mà chỉ "gà gật" một chút. Thật là tệ, những con người loại này không thể tin tưởng trừ khi trông chừng họ.
    Hôm nay Harker lại lần theo những manh mối của anh ta, còn Art và Quincey đi trông chừng ngựa. Godalming nghĩ rằng nên để cho lũ ngựa luôn sẳn sàng, vì khi chúng tôi có được thông tin cần thiết thì chúng tôi sẽ không còn thời gian để mất nữa. Chúng tôi phải tuyệt diệt tất cả những hang ổ này vào khỏang giữa mặt trời mọc và mặt trời lặn. Chúng tôi sẽ tóm được bá tước vào thời điểm hắn yếu ớt nhất, và không để cho hắn một nơi trốn tránh nào để ẩn thân. Van Helsing đã đi đến Viện Bảo tàng Anh quốc để tìm một số tài liệu về một loại dược phẩm cổ. Những nhà vật lý già giữ sổ sách về chúng cùng những gì liên quan không đồng ý, và giáo sư tìm những phương thuốc chữa bệnh cổ của phù thủy và ma quỷ có thể sẽ hữu dụng cho chúng tôi sau này.
    Đôi khi tôi nghĩ rằng tất cả chúng tôi hẳn là đã điên và vì vậy chúng tôi sẽ trở về trạng thái minh mẫn trong những chiếc áo trói.
    Sau đó - Chúng tôi gặp lại nhau. Cuối cùng có lẽ chúng tôi cũng đã lần theo dấu vết, và công việc của chúng tôi vào tối mai có thể sẽ bắt đầu cho sự kết cục. Tôi tự hỏi không biết sự im lặng của Renfield có nói lên điều gì về chuyện này không. Tính khí của ông ta tuân theo những hoạt động của bá tước, đến nỗi tiến trình hủy diệt của tên ác quỷ kia có thể sẽ mang ông ta đi theo một cách thức khôn ngoan nào đó. Nếu chúng tôi có thể có được một vài chỉ dẩn về những gì đang diễn ra trong tâm tưởng ông ta, giữa khỏang thời gian tôi đưa ra cho ông ta những lý lẽ vào và sự quan tâm của ông ta về việc bắt ruồi trở lại, thì điều đó có thể mang đến cho chúng tôi những manh mối đáng giá. Bây giờ thì ông ta có vẻ như đang trong một đợt tĩnh lặng... Ông ta đấy ư? Hình như có một tiếng kêu theo vọng ra từ phòng ông ta..."
    Người phục vụ vội vã xông vào phòng tôi và nói rằng Renfield hình như vừa gặp phải một tai nạn. Anh ta nghe thấy tiếng ông ta kêu thét và khi anh ta vào phòng, anh ta thấy ông nằm úp mặt trên sàn nhà, phủ đầy máu. Tôi phải đi ngay..."





  6. #22
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default


    Chương 21

    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD



    Ngày 3 tháng 10 - Hãy để tôi ghi lại với sự chính xác tất cả những gì đã xảy ra mà tôi còn nhớ đượckể từ lúc tôi viết lần cuối. Không được để một chi tiết nào mà tôi có thể nhớ được đi vào quên lãng. Tôi phải làm việc với tất cả sự bình tĩnh của mình.
    Khi tôi đi vào phòng Renfield tôi thấy ông ta đang nằm trên nền nhà, nghiêng về phía trái trong một vũng máu lóng lánh. Ngay khi tôi đến lay ông ta, tôi nhận ra có vẻ như ông ấy bị một vết thương rất nghiêm trọng.
    Không một dấu vết nào trên cơ thể nói lên thậm chí là một sự hôn mê của trí não. Khi khuôn mặt được lật lên tôi có thể thể thấy nó bị thâm tím một cách đáng sợ, giống như bị đập xuống nền nhà. Thật sự vết thương trên mặt chính là nguồn gốc của vũng máu.
    Người phục vụ đang quỳ bên cạnh cơ thể ông ta nói với tôi khi chúng tôi lật ông lại, "Thưa ngài, tôi nghĩ rằng lưng ông ta đã bị gãy. Xem này, cả tay và chân phải ông và tòan bộ một bên mặt ông ta đã tê liệt." Đằng sau sự đánh giá của người phục vụ này là cả một câu đố nan giải về những gì đã xảy ra.Anh ta có vẻ khá bối rối, lông mày ông ta nhíu lại khi nói tiếp, " Tôi không thể hiểu được hai điều. Ông ta có thể tạo nên khuôn mặt như vậy bằng cách đập đầu mình xuống nền nhà. Tôi đã thấy một người phụ nữ trẻ làm điều đó ở viện điều dưỡng Eversfield trước khi mọi người kịp chạm vào cô ta. Và tôi cũng giả sử rằng ông ta có thể bị gãy cổ khi ngã ra khỏi giường, nếu như ông ta bị sơ xuất một cách kỳ dị. Nếu lưng ông ta bị gãy, ông ta không thể tự đập đầu, và nếu khuôn mặt bị như vậy trước khi bị rơi ra khỏi giường thì phải có dấu vết về chuyện đó chứ."
    Tôi nói với anh ta, "Đến chỗ bác sĩ Van Helsing, mời ông ta quá bộ đến đây ngay. Tôi muốn ông ấy đến ngay, không chậm một phút nào."
    Người phục vụ chạy ra, và vài phút sau, giáo sư, trong chiếc áo dài và dép lê xuất hiện. Khi ông ta nhìn thấy Renfield trên nền nhà, ông quan sát cẩn thận ông ta một thoáng và quay sang tôi. Tôi nghĩ rằng ông ta đã nhận ra những ý nghĩ của tôi trong mắt tôi, bởi vì ông ấy nói rất khẽ, hiển nhiên là cho đôi tai của người phục vụ, "Ah, một tai nạn đáng buồn! Ông ấy cần được trông chừng cẩn thận, và phải thật tập trung vào. Tôi đích thân ở đây với anh, nhưng trước tiên tôi phải thay đồ đã. Nếu anh định ở lại thì vài phút sau tôi sẽ ở cùng anh."
    Người bệnh bây giờ đang thở rống lên và dễ dàng thấy rằng ông ta đang bị thương một cách trầm trọng.
    Van Helsing quay trở lại đặc biệt nhanh, mang theo cái va ly phẫu thuật. Chắc chắn ông đã suy nghĩ và đã có chủ kiến, vì ngay trước khi khi nhìn sang bệnh nhân, ông ta thì thầm với tôi, "Hãy đưa người phục vụ ra ngòai. Phải chỉ có chúng ta với ông ta khi ông ta tỉnh lại sau cuộc phẫu thuật."
    Tôi nói, "Tôi nghĩ là sẽ phải làm việc ngay, Simmons. Chúng ta sẽ làm tất cả những gì mà chúng ta có thể. Tốt hơn anh nên đi xem xét chung quanh, và bác sĩ Van Helsing sẽ tiến hành phẫu thuật. Hãy cho chúng tôi biết ngay nếu có gì bất thường xảy ra chung quanh."
    Người dàn ông lui ra, và chúng tôi dấn thân một bài thi khắc nghiệt với bệnh nhân. Vết thương trên mặt rất cạn. Vết thương thật sự là một vết gẫy sâu trên sọ, lan sang phía phải xuyên qua vùng dây thần kinh vận động.
    Giáo sư suy nghĩ một lúc và nói, "Chúng ta phải giảm huyết áp về trạng thái bình thường, càng nhanh càng tốt. Tốc độ của sự chảy máu chỉ ra một tình trạng kinh khiếp tự nhiên về vết thương của ông ta. Hình như tòan bộ vùng thần kinh vận động của ông ta đều bị ảnh hưởng cả. Tình trạng xuất huyết não sẽ diễn ra rất nhanh, nên chúng ta phải khoan nó ngay hoặc có thể là đã quá trễ."
    Khi ông ấy đang nói thì có tiếng gõ cửa nhẹ. Tôi đi ra mở cửa và thấy ở phía ngòai hành lang, Arthur và Quincey trong bộ đồ ngủ và dép lê, người đầu nói, "Tôi nghe thấy người của cậu gọi bác sĩ Van Helsing và nói với ông ấy về một tai nạn. Vì vậy tôi lay Quincey hay đúng hơn là gọi cậu ta khi mà cậu ấy chẳng hề ngủ. Mọi thứ chuyển biến quá nhanh và có những tiếng động rất lạ lùng đối với giấc ngủ cho bất kỳ ai trong số chúng ta lúc này. Tôi đã nghĩ rằng vào đêm mai sẽ không còn kịp thấy những gì đang xảy đến. Chúng ta phải nhìn sau và nhìn trước nhiều hơn chúng ta đã làm. Chúng tôi có thể vào chứ?"
    Tôi gật đầu, và đẩy rộng cửa để họ có thể đi vào, rồi tôi đóng cửa lại. Khi Quincey thấy điệu bộ và tình trạng của bệnh nhân, và nhận thấy đến vũng máu kinh khiếp trên sàn, cậu ấy nhẹ nhàng cất tiếng, "Chúa ơi! Chuyện gì xảy ra cho ông ta vậy? Ôi, kẻ khốn khổ tội nghiệp!"
    Tôi kể lại ngắn gọn với cậu ấy, thêm vào đó rằng chúng tôi đang chờ đợi ông ta sẽ phục hồi nhận thức sau cuộc phẫu thuật, trong một khoảng thời gian ngắn, với tất cả các biến cố. Cậu ta liền đi đến và ngồi trên cạnh giường, với Godalming bên cạnh cậu ta. Tất cả chúng tôi đều trông chừng bệnh nhân.
    "Chúng ta sẽ đợi," Van Helsing nói, " chỉ cần vừa đủ để đặt vết khoan, và chúng ta có thể đưa khối máu ra nhanh chóng và hòan hảo, dù sự thật là sự xuất huyết đang tăng nhanh."
    Những giây phút chờ đợi của chúng tôi trôi qua trong sự sợ hãi chậm chạp. Tôi cảm thấy như tim mình chìm đắm trong sự kinh khiếp, và từ khuôn mặt của Van Helssing tôi thấy rằng ông ta cảm thấy một sự sợ hãi hoặc nhận thức được việc gì đang đến. Tôi chết khiếp những gì mà Renfield có thể nói. Tôi thật sự sợ hãi khi nghĩ về chuyện này. Nhưng sức thuyết phục của những gì đang diễn ra đang tác động lên tôi, khi tôi nhận thấy người đàn ông đã nghe thấy cái nhìn của thần chết. Hơi thở của người đàn ông tội nghiệp đang trở nên hổn hển bất thường. Mỗi lúc ông ta có vẻ như sắp mở mắt ra và nói, thì ông ta lại thay thế bằng một vẻ mất cảm giác hơn lúc nào.
    Dù tôi đã quen với việc ngồi cạnh giường người bệnh và chết, thì sự hồi hộp càng lớn dần trong tôi. Tôi gần như có thể nghe thấy nhịp đập của tim mình, và máu dâng trào qua thái dương của tôi như những nhát búa đập. Sự im lặng cuối cùng đang trở thành tuyệt vọng. Tôi nhìn các bạn mình, hết người này đến người khác, và thấy từ khuôn mặt xúc động và hàng lông mày ẩm ướt của họ rằng họ cũng đang chịu đựng một áp lực tương đương. Một sự căng thẳng thần kinh bao trùm tất cả chúng tôi, mặc dù tiếng chuông thần chết ngân vang lại mang vẳng lên trong chúng tôi bao sinh lực khi chúng tôi cuối cùng đang chờ đợi nó.
    Cuối cùng, thời gian càng trôi, mọi việc càng rõ rằng bệnh nhân đang mê đi rất nhanh. Ông ta có thể chết bất kỳ lúc nào. Tôi nhìn giáo sư và thấy mắt ông đang nhìn về phía tôi. Khuôn mặt ông ấy rất nghiêm khắc khi ông nói, "Không còn thời gian để mất nữa. Những lời nói của ông ta lúc này đáng giá rất nhiều mạng sống. Tôi đã nghĩ như vậy, khi tôi đang đứng đây. Ở đây có một tâm hồn để đánh cược! Chúng ta sẽ phẫu thuật ngay phía trên tai."
    Không nói một lời, ông ta tiến hành phẫu thuật. Trong một lúc hơi thở vẩn tiếp tục hổn hển. Rồi tiếp đến là một hơi thở thật dài như thể xé toang lồng ngực. Thình lình mắt ông ta mở ra, và bắt đầu trở nê hoang dại, với cái nhìn chòng chọc không cảm xúc. Trạng thái này diễn ra thêm vài khỏanh khắc, rồi nó trở nên dịu lại trong một sự ngạc nhiên đáng mừng, và từ đôi môi của ông ấy đã có dấu hiệu của sự dễ chịu. Ông ta run lên, và khi ông ta làm điều đó, ông ta cất tiếng, "Tôi sẽ không manh động đâu, bác sĩ. Hãy nói với họ cởi chiếc áo trói ra. Tôi vừa có một giấc mơ kinh hãi, và nó làm cho tôi yếu đến nỗi tôi không thể cử động được. Có chuyện gì với khuôn mặt của tôi vậy? Hình như tất cả đều sưng phồng lên, và nó nhức nhối khủng khiếp."
    Ông ta cố quay đầu, nhưng thậmt chí với nỗ lực ấy, mắt ông ta dường như lại trở nên đờ đẩn trở lại nên tôi nhẹ nhàng chỉnh đầu ông lại. Đoạn Van Helsing nói với âm điệu nhẹ nhàng trang nghiêm, "Hãy nói với chúng tôi về giấc mơ của ông, ông Renfield."
    Khi nghe thấy giọng nói ấy, khuôn mặt của ông bừng sáng, dù nó có vẻ mô phỏng, và ông ta nói,"Chính là bác sĩ Van Helsing. Thật là tốt khi có ngài ở đây. Hãy cho tôi một chút nước, môi tôi đang khô, và tôi sẽ nói với ông. Tôi đã nằm mơ"...
    Ông ta dừng lại và có vẻ đau đớn. Tôi nhẹ nhàng gọi Quincey, "Rượu mạnh, ở trong phòng nghiên cứu của tớ ấy, nhanh lên!" Cậu ta chạy vội đi và trở lại với một chiếc bình thon cổ bằng thủy tinh và một bình nước.
    Chúng tôi dấp nước lên đôi môi khô nẻ, và người bệnh phục hồi lại nhanh chóng.
    Tuy nhiên, có vẻ như bộ não thương tích khốn khổ kia làm việc một cách ngắt quãng, nên ông ấy có vẻ đờ đẩn, ông ta nhìn tôi đầy nhức nhối với một vẻ đau đớn mơ hồ mà tôi sẽ không sao quên được, và nói, "Tôi không được đánh lừa mình. Đấy không phải là một giấc mơ, mà tất cả là một sự thật mờ ảo." Rồi mắt ông ta nhìn quanh phòng. Khi chúng nhìn thấy hai hình bóng kiên nhẫn ngồi bên giường, ông ta tiếp tục, "Nếu như tôi không lầm, thì hình như tôi không biết họ."
    Trong một lúc mắt ông ta nhắm lại, không phải do đau đớn hay ngủ mà chỉ do tự giác, như thể ông ta đang mang hết khả năng của mình ra để chịu đựng. Khi ông ta mở mắt, ông ta nói, vội vã, với một vẻ dồi dào năng lượng mà ông chưa bao giờ biểu lộ trước đây, "Nhanh lên, bác sĩ, nhanh lên, tôi đang chết đây! Tôi cảm thấy tôi chỉ còn vài phút nữa thôi, và như vậy tôi sẽ trở về với cái chết, hoặc còn tệ hơn nữa! Hãy thấm môi tôi bằng rượu một lần nữa. Tôi có chuyện phải nói trước khi chết.
    Hoặc trước đó bộ não khốn khổ của tôi sẽ bị nghiền nát đi. Cám ơn! Đấy là cái đêm sau khi ngài rời khỏi tôi, và tôi van nài ngài để cho tôi ra đi. Tôi không thể nói, bởi vì tôi cảm thấy lưỡi mình đã bị trói. Nhưng tôi rất tỉnh táo, ngoại trừ một số ngoại lệ, như tôi lúc này. Tôi đã có một sự đau đớn và tuyệt vọng kéo dài sau khi ngài rời bỏ tôi, nó kéo dài hàng giờ. Thế rồi có một sự êm dịu thình lình xảy đến cho tôi. Bộ não của tôi cảm thấy như lạnh lẽo trở lại, và tôi nhận ra tôi đang ở đâu. Tôi nghe thấy tiếng chó tru đằng sau ngôi nhà của chúng ta, nhưng không, chính là nơi Ông Ta ở!"
    Trong khi ông ta nói, mắt Van Helsing chẳng hề chớp, nhưng tay ông ta chạm lấy tay tôi và nắm chặt lấy. Tuy nhiên, ông ta không phản bội lại chính mình. Ông ta gật đầu nhẹ và nói, "Tiếp đi," bằng một giọng nhẹ nhàng.
    Renfield tiếp tục. "Ông ta tiến đến bên cửa sổ trong đám bụi mù, như tôi đã nhìn thấy ông ta trước đây, nhưng ông ta có vẻ rất cứng rắn, không phải là một bóng ma, và mắt ông ta rực lên như mắt một người trong cơn giận dữ. Ông ta cười với cái miệng đỏ rực, với hàm răng trắng phản chiếu ánh trăng khi ông ta quay nhìn về phía trên thân cây, nơi lũ chó vẩn tru. Tôi không hỏi ông ta trước, dù tôi biết ông ta muốn , như thể ông ta đã muốn tất cả. Và ông bắt đầu hứa với tôi, không phải bằng lời nói mà chỉ bằng cách làm chúng."
    Ông bị ngắt lời bởi một lời của giáo sư, "Như thế nào?"
    "Bằng cách làm cho nó diễn ra. Như là cách ông ta đã từng gửi những con ruồi đến khi mặt trời chiếu sáng. Những con ruồi béo mập với thép và xaphia trên cánh của chúng. Và những con bướm đêm to lớn, trong đêm, với sọ người và cặp xương bắt chéo trên lưng chúng."
    Van Helsing gật đầu khi ông ta nói với tôi một cách vô thức, "Lòai Cơ thắt Acherontia Atropos, mà anh hay gọi là loài " Bướm đêm Đầu Thần Chết " ấy phải không?"
    Bệnh nhân tiếp tục, không hề ngắt quãng, "Và ông ta bắt đầu thì thầm. Chuột, chuột, chuột! Hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu con, và mỗi con đều có một cuộc sống. Rồi chó ăn chúng, và mèo cũng thế. Tất cả đều còn sống! Tất cả đều có máu đỏ, với hàng trăm cuộc sống bên trong nó, không chỉ đơn thuần và những con ruồi vo ve!' Tôi cười với ông ta, vì tôi muốn thấy ông ta có thể làm những gì.
    Đoạn những con chó tru lên, vang xe sau những cây đen trong căn nhà của Ông ấy. Ông vẫy tôi ra cửa sổ. Tôi bước đến và nhìn ra xa, rồi Ông Ta vẫy tay, như thể kêu gọi mà chẳng dùng đến lời nào. Cả một khối đen phủ đầy lên cỏ, tiến đến như hình dạng một ngọn lửa. Rồi Ông Ta rẽ sương mù sang hai bên trái phải, nên tôi có thể thấy hàng ngàn con chuột với những đôi mắt rực đỏ, giống như của Ông Ta, chỉ có điều nhỏ hơn. Ông ta đưa tay lên, và tất cả chúng đều dừng lại, và tôi nghĩ rằng hình như ông ta đang nói, Tất cả sự sống này ta sẽ cho mi, ay, và còn nhiều hơn nữa và lớn hơn nữa, qua vô số thế hệ, nếu mi quỳ xuống và thờ phụng ta!' Và rồi một đám mây đỏ, giống màu của máu, phủ qua mắt tôi, và trước khi tôi biết tôi đang làm gì, tôi thấy mình mở rộng khung kính và nói với Ông Ta, Tâu vâng, thưa ngài Lãnh Chúa và Chúa Tể!' Tất cả lũ chuột đều đã đi, nhưng ông ta đi qua khung kính và tiến vào phòng, dù khung kính ấy chỉ mở rộng có vài inch, nhưng thể Mặt Trăng vẩn thường đi xuyên qua những khe nứt tí teo nhất, và ông ta đứng trước mặt tôi với tất cả dáng vẻ và sự lộng lẫy của nó."
    Giọng của ông ta yếu đi, nên tôi lại thấm ướt môi ông với rượu một lần nữa, và ông ta tiếp tục, nhưng như thể trí trớ của ông ta đã đi và làm việc ngắt quãng trong khi câu chuyện của ông ta vẩn tiếp tục gay cấn. Tôi muốn gọi ông ta thức tĩnh, nhưng Van Helsing thì thào với tôi, "Để ông ta tiếp tục. Đừng ngắt quãng ông. Ông ta không thể trở lại, và có thể không thể tiếp tục gì nữa nếu chỉ khi ông mất đi sự liền mạch trong suy nghĩ."
    Ông ta tiếp tục, "Suốt cả ngày tôi đợi tin ông ta, nhưng ông ấy chẳng gửi đến cho tôi cái gì cả, thậm chí một con ruồi xanh, và khi mặt trăng lên tôi đã khá giận ông ta. Khi ông ta lướt xuyên qua cửa sổ, mặt dù cửa đóng, mà không cần phải gõ cửa, tôi đã nổi điên với ông ta. Ông ta mỉm cười khinh bỉ với tôi, và khuôn mặt trắng tóat của ông nhìn qua đám sương mù với đôi mắt đỏ của ông ta sáng rực lên, và ông ta tiếp tục như thể ông ta là chủ của tòan bộ khu này, còn tôi chẳng là gì cả. Ông ta thậm chí còn không ngửi thấy là tôi đứng bên ông ta. Tôi không thể nắm lấy ông ta. Tôi nghĩ rằng, hình như bà Harker đã đi vào vào phòng."
    Hai người đàn ông đang ngồi trên giường đứng dậy và bước lên, đứng đăng sau ông khiến ông ta không thể trông thấy, nhưng đó chính là nơi họ có thể nghe tốt hơn. Cả hai đều im lặng, nhưng giáo sư giật mình và run lên. Tuy nhiên khuôn mặt ông ta trở nên u ám hơn và vẩn nghiêm trang. Renfield tiếp tục mà chẳng để ý đến điều gì cả, "Khi bà Harker đi vào để gặp tôi trong buổi chiều ấy bà ta không giống như thường lệ. Nó giống như trà sau khi bình trà đã được pha thêm nước." Đến đây thì tất cả chúng tôi đều cử động, nhưng chẳng ai nói một lời.
    Ông ta tiếp tục, "Tôi không biết rằng bà ta ở đấy đến khi bà ta cất tiếng, và bà ta trông không giống như cũ. Tôi không quan tâm đến những con người trắng bệch. Tôi chỉ thích những con người có nhiều máu trong cơ thể, còn máu của bà ta hình như đã chạy đi đâu hết cả. Tôi không nghĩ đến điều đó vào lúc này, nhưng khi bà ta đi ra tôi bắt đầu suy nghĩ, và điều đó làm cho tôi nổi điên vì tôi biết rằng Hắn đã lấy sự sống ra khỏi bà ấy." Tôi có thể cảm thấy tòan bộ những người còn lại đều run rẩy, giống như tôi.
    Những chúng tôi vẩn giữ mình im lặng. "Vì vậy khi Hắn đến vào tối nay tôi đã sẳn sàng chờ đón Hắn. Tôi thấy đám bụi thình lình đi vào, và tôi tóm nó thật chặt. Tôi đã từng nghe rằng những người điên thì có những sức mạnh phi thường. Và khi tôi biết tôi là một người điên, thì vào lúc này, dù thế nào đi nữa, tôi cũng quyết định dù đến sức mạnh của tôi. Ay, và Hắn cũng cảm thấy thế, nên hắn phải thóat ra khỏi đám bụi mù để vật lộn với tôi. Tôi giữ chặt, và tôi nghĩ rằng tôi sắp thắng, để cho Hắn không thể lấy thêm một chút sự sống nào ra khỏi người nàng, đến khi tôi thấy đôi mắt của Hắn.
    Chúng bùng cháy trong tôi, và sức mạnh của tôi tan ra như nước. Hắn ta trượt ra, và khi tôi cố bám lấy Hắn, Hắn nâng tôi lên và ném tôi xuống. Sau đó là một đám mây đỏ phủ trước tôi, và một tiếng động như là một tiếng sét, và đám bụi giống như thình lình biến đi dưới sàn nhà."
    Giọng ông ta trở nên đau đớn và hơi thở của ông hổn hển hơn. Van Helsing đứng dậy theo bản năng.
    "Bây giờ chúng ta đã biết điều tệ hại nhất, " ông ta nói. "Hắn đang ở đây, và chúng ta biết mục đích của hắn.
    Có thể vẩn chưa quá trễ. Hãy vũ trang, giống như chúng ta đã làm đêm trước, nhưng đừng mất thời gian, không được để lãng phí một khỏanh khắc nào."
    Không cần phải diễn tả bằng lời nỗi sợ hãi hay sự tự kết án của chúng tôi, chúng tôi cùng chia xẻ nó. Tất cả chúng tôi đều vội vã, và lấy từ trong phòng mình đúng những thứ mà chúng tôi đã dùng khi xông vào căn nhà của Bá tước. Giáo sư đã sẳn những dụng cụ của mình, và khi chúng tôi gặp nhau trong hành lang ông ta ra dấu về chúng một cách đầy ý nghĩa khi ông ta nói, "Chúng sẽ không bao giờ rời bỏ tôi, và chúng sẽ làm thế cho đến khi công việc đau khổ này chấm dứt.
    Và cũng phải khôn ngoan nữa, các bạn của tôi. Đấy là một kẻ thù đặc biệt mà chúng ta phải giải quyết nó với... Than ôi! Than ôi! Hẳn là bà Mina thân yêu đang chịu đau khổ!" Ông ta ngừng lời, giọng ông ngắt quãng, và tôi không biết tim tôi có chịu nỗi sự tức giận hay đau khổ của mình hay không.
    Chúng tôi dừng lại bên ngòai cửa phòng Harker. Art và Quincey lùi lại, và người sau nói, "Chúng ta có nên quấy rầy cô ấy không?"
    "Chúng ta phải," Van Helsing rầu rĩ nói. "Nếu cửa khóa, tôi sẽ phá nó."
    "Có thể điều đó sẽ làm cô ấy hoảng hốt? Thật là bất thường khi phá cửa phòng một phụ nữ!"
    Van Helsing nói trịnh trọng, "Anh luôn luôn đúng. Nhưng đây là cuộc sống và cái chết. Tất cả quan tòa đều giống như bác sĩ. Và thậm chí họ không như vậy thì họ cũng giống như tôi tối nay. Bạn John, khi tôi quay tay nắm, nếu cửa không mở, thì anh hãy kê vai xuống và đẩy mạnh. Và các anh cũng vậy, các bạn tôi. Nào!"
    Ông ta quay nắm cửa khi ông ta nói, nhưng cánh cửa không chịu tuân lệnh. Chúng tôi lao thân người vô nó.
    Với một tiếng va chạm mạnh lan ra, và chúng tôi gần như ngã lao đầu vào phòng. Giáo sư thật sự đã ngã lăn. và tôi nhìn len qua ông khi ông đang bò bằng tay và đầu gối. Những gì tôi thấy làm tôi thất kinh. Tôi cảm thấy tóc tôi dựng đựng lên như bàn chải sau gáy, và tim tôi như ngừng đập.
    Ánh trăng vẩn còn sáng và qua thứ ánh vàng nhợt nhạt đó căn phòng vẩn đủ sáng để nhìn. Nằm trên giường, cạnh cửa sổ là Jonathan Harker, khuôn mặt anh ta xúc động và hơi thở nặng nề như thể đang sững sở. Quỳ gần bên cạnh giường, mặt hướng ra ngòai là cái bóng trắng bệch của vợ anh ta. Đứng cạnh nàng là một đàn ông cao, gầy, mặc đồ đen. Khuôn mặt hắn quay khỏi phía chúng tôi, nhưng chỉ trong khỏanh khắc chúng tôi cảm thấy tất cả đều đã nhận ra Bá tước, bằng bất kỳ cách nào, thậm chí từ vết sẹo trên trán hắn. Hắn dùng tay trái để giữ cả hai tay của bà Harker, giữ tay nàng căng thẳng. Tay phải của hắn nắm chặt lấy gáy nàng, ép mặt nàng cúi xuống ngực hắn. .
    Chiếc áo ngủ màu trắng của nàng dính đầy vết máu, mà một dòng máu nhỏ chảy xuống trên bộ ngực trần của gã đàn ông nổi rõ qua chiếc áo được phanh ra. Tình cảnh của hai người giống một cách khủng khiếp đến cảnh một đứa trẻ dúi mũi con mèo con vào một đĩa sữa để bắt nó uống. Khi chúng tôi ào vào phòng, bá tước quay mặt lại, và cái nhìn địa ngục mà tôi đã từng nghe mô tả hình như đã nhảy vội lên hắn. Đôi mắt hắn cháy bừng lên đỏ rực với một vẻ ma quái.Những lổ mũi lớn của chiếc mũi chim ưng trắng tóat nở rộng và căng thẳng ở cạnh, còn đôi hàm răng trắng tóat, đằng sau đôi môi căng đầy máu, gắn lại với nhau để tạo thành một con quái vật hoang dại ghê gớm.
    Với một cái giật mạnh, hắn ném mạnh nạn nhân của mình lên giường như thể được ném từ trên cao xuống, hắn quay sang và bật mạnh về phía chúng tôi. Lúc này giáo sư đã nắm được chân hắn, và đưa về hướng hắn chiếc phong bì có chứa Bánh Thánh. Bá tước thình lình dừng phắt lại, giống như Lucy tội nghiệp khi ở bên ngòai ngôi mộ, và co rúm lại. Hắn càng lùi lại, thì chúng tôi, nâng cao cây thánh giá của mình, tiến lên. Ánh trăng thình lình tắt phụt, và một đám mây đen trôi ngang trên bầu trời. Khi Quincey bật công tắc đèn, chúng tôi không còn thấy gì ngòai làn hơi nước mờ nhạt. Như chúng tôi thấy, hơi ẩm này để lại thành vệt dưới cửa, đang hội tụ lại sau khi vỡ tung ra, và chập chờn về trạng thái cũ.
    Van Helsing, Art và tôi đi về phía bà Harker, người lúc này đang hít sâu vào ngực và kêu lên những tiếng gầm gừ hoang dại, xuyên thấu qua tai người, đầy tuyệt vọng đến nỗi có lẽ những tiếng kêu lúc này sẽ còn vang mãi trong tai tôi đến tận cuối cuộc đời. Nàng nằm vai giây, bất động và chẳng còn tư thế. Khuôn mặt nàng trắng bệch, với một vẻ xanh xao càng làm nổi bật bởi những đốm máu ở môi nàng, ở má và cằm nàng. Từ cổ họng của nàng chảy ra một dòng máu nhỏ.
    Mắt nàng điên dại đầy kinh sợ. Rồi nàng đưa đôi tay vần vò tội nghiệp trước mặt, đôi tay trắng muốt đầy vết đỏ do cái siết chặt ghê người của bá tước, và sau đó là những tiếng than van trầm đục nghẹn ngào tạo nên những tiếng rền rĩ kinh hãi như thể chỉ do một nỗi buồn đau vô tận đang lan tỏa thật nhanh. Van Helsing bước đến và dịu dàng đậy tấm khăn trải giường lên người nàng, trong khi Art, sau khi nhìn qua khuôn mặt nàng trong một thóang tuyệt vọng, chạy ào ra khỏi phòng.
    Van Helsing thì thầm với tôi, "Jonathan đang ở trong một trạng thái mê muội mà ma cà rồng có thể tạo ra như chúng ta đã biết. Chúng ta không thể làm điều gì hơn với bà Mina đáng thương trong lúc này cho đến khi bà ta tự phục hồi lại. Tôi phải đánh thức anh ta!"
    Ông ta nhúng khăn vào nước lạnh và bắt đầu vỗ nhẹ lên mặt anh ta, còn vợ anh ta lúc nào cũng giữ mặt trong tay nàng và khóc nức nở nghe tan nát con tim. Tôi nâng tấm mành lên, và nhìn qua khung cửa sổ. Có rất nhiều ánh trăng, và tôi có thể nhìn thấy Quincey Morris đang chạy bãi cỏ và nấp sau bóng một cây thủy tùng to rộng. Tôi không hiểu cậu ta đang định làm gì. Nhưng trong một thóang tôi nghe Harker rên lên giật cục khi anh đang dần phục hồi tri thức, và tôi quay đầu về phía giường. Trên khuôn mặt anh ta, trông đã khả quan hơn, là một cái nhìn kinh ngạc hoang dại. Anh ta nhìn trừng trừng vài giây, rồi có vẻ như ngay tức khắc bùng lên hòan tòan phục hồi tri giác, và anh ta bật dậy.
    Vợ anh ta nhanh nhẹn cử động, và quay về phía anh ta với đôi tay dang rộng, như muốn ôm lấy anh ta. Tuy nhiên, ngay tức khắc nàng rụt tay lại, và chụm khủyu tay với nhau, đưa tay lên trước mặt và rùng mình đến nỗi cả chiếc giường rung lên dưới sự dãy dụa của nàng.
    "Nhân danh Chúa, chuyện này có nghĩa là gì?" Harker la lên. "Bác sĩ Seward, bác sĩ Van Helsing, chuyện gì thế? Chuyện gì đã xảy ra? Chuyện tồi tệ gì vậy? Mina, chuyện gì với em? Những vũng máu này nghĩa là sao? Lạy Chúa, lạy Chúa tôi! Xin hãy để mắt đến chuyện này!" Và vươn người lên trên đầu gối, anh ta đập tay vào nhau đầy hoang dại. "Chúa nhân từ hãy giúp chúng con! Hãy giúp nàng! Ôi, hãy giúp nàng!"
    Với một cử động nhanh nhẹn, anh ta nhảy ra khỏi giường, bắt đầu mặc quần áo, tất cả con người trong anh ta đã thức dậy trong nỗ lực nhất thời. "Chuyện gì đã xảy ra? Hãy nói với tôi về chuyện này!" anh ta kêu lên không ngớt. "Bác sĩ Ven Helsung, ông yêu Mina, tôi biết điều này. Ôi, hãy làm gì đó để bảo vệ nàng. Mọi chuyện chưa thể đã đi quá xa. Hảy bảo vệ nàng trong lúc tôi tìm nó!"
    Vợ anh ta, dù trong cơn hỏang hốt, kinh sợ và tuyệt vọng, chắc chắn cũng nhận thấy sự nguy hiểm sẽ diễn đến cho anh ta. Ngay tức khắc quên đi nỗi đau khổ của chính mình, nàng nắm lấy anh ta và kêu lên.
    "Không! Không! Jonathan, anh không được bỏ em. Em đã chịu đủ đau khổ đêm nay rồi, Chúa chứng giám, và đừng để sự kinh khiếp của hắn làm hại anh. Anh phải ở đây với em. Hãy ở đây với những bạn bè này sẽ trông chừng anh!" Dáng vẻ nàng trở nên điên cuồng trong khi nói. Và, anh ta nghe theo lời nàng, nàng đẩy anh ta ngồi xuống bên giường, và ôm siết lấy anh thật chặt.
    Van Helsing và tôi cố gắng làm cho cả hai trấn tĩnh. Giáo sư giơ cao cái thánh giá vàng của ông ta, và nói với vẻ bình thản kinh người, "Đừng sợ, con yêu. Chúng ta ở đây, và trong một khỏang gần như thế thì có điều xấu xa nào có thể đến gần. Các bạn sẽ an toàn đêm nay, và chúng ta phải bình tĩnh để cùng bàn bạc với nhau."
    Nàng rùng mình và im lặng, cúi đầu xuống ngực chồng. Khi nàng ngẩng đầu lên, chiếc váy ngủ trắng của nàng lốm đốm máu nơi môi nàng chạm vào, và vết thương nhỏ nơi cổ lại nhỏ giọt. Trong khỏang cách nàng thấy nó nhỏ máu, nàng rên lên, và khóc thì thầm, nghèn nghẹn.
    "Thật là den tối, thật là bẩn thỉu! Tôi không được chạm vào hay hôn anh ấy nữa. Ôi thật ra thì tôi là ai lúc này, là kẻ thù đáng sợ nhất của anh ấy, và là người anh ấy có thể phải sợ hãi nhất."
    Người chồng trả lời ngay đầy kiên quyết, "Không đâu, Mina. Thật là đáng xấu hổ cho anh để nghe những lời như vậy. Anh không muốn nghe điều đó về em. Và anh sẽ không nghe nó từ em. Có thể Chúa đã phán xét anh những gì anh đáng nhận, và trừng phạt anh với những nỗi đau thống khổ thậm chí còn hơn lúc này nữa, nếu như trong tư tưởng hay hành động của anh còn gợi lại đến những chuyện này giữa chúng ta!"
    Anh ta đưa tay ra và ôm lấy nàng vào ngực mình. Và trong một lúc nàng khẽ nằm nức nở. Anh ta nhìn chúng tôi qua chiếc đầu cúi xuống của nàng, với đôi mắt ươn ướt trên những cánh mũi phập phồng. Miệng anh ta chắc như thép.
    Sau một lúc, tiếng nức nở của nàng trở nên đứt quãng và yếu dần, và lúc đó anh ta nói với tôi, nói với vẻ bình thản ghê gớm khiến tôi cảm thấy anh ta đang cố vận dụng hết năng lượng tinh thần của mình.
    "Và bây giờ, bác sĩ Seward, hãy nói với tôi. Tôi muốn biết mọi chuyện thật rõ ràng. Hãy nói với tôi tất cả những gì đã diễn ra."
    Tôi kể với anh ta thật chính xác những gì đã xảy ra, và anh ta lắng nghe với vẻ bình thản, nhưng cánh mũi anh giật giật, và mắt anh ta rực lửa khi tôi kể đến cánh tay tàn nhẫn của bá tước giữ vợ anh ta trong một tư thế khủng khiếp và kinh dị, để miệng nàng vào vết thương mở rộng trên ngực hắn. Điều làm tôi thích thủ, thậm chí ngay trong khỏanh khắc ấy, là trong khi khuôn mặt trắng bệch đi trong cơn giận dữ kinh khiếp, cánh tay vẩn dịu dàng và âu yếm vuốt ve những lọn tóc của vợ.
    Ngay khi tôi kết thúc, Quincey và Godalming gõ cửa. Họ đi vào theo lời gọi của chúng tôi. Van Helsing nhìn tôi có ý hỏi. Tôi hiểu ý ông muốn chúng tôi thử lợi dụng việc xuất hiện của họ để làm lệch đi những suy nghĩ u sầu của người chồng và người vợ với nhau và từ bản thân họ. Vì vậy khi tôi gật đầu bằng lòng với ông, ông hỏi họ xem họ đã thấy hay làm gì được. Huân tước Godalming trả lời.
    "Tôi chẳng thấy hắn ở đâu cả, trong các lối đi, hoặc trong bất kỳ căn phòng nào, Tôi nhìn vào phòng nghiên cứu, nhưng hắn không có ở đó, dù trước đó hắn đã vào đó, thì hắn cũng đã đi. Tuy nhiên, hắn đã..." Cậu ta thình lình dừng lời, nhìn những hình bóng tội nghiệp trên giường.
    Van Helsing can đảm cất tiếng, "Tiếp đi, bạn Arthur. Chúng tôi muốn không có gì che đậy ở đây cả. Hy vọng của chúng tôi là muốn biết tất cả. Hãy nói hết đi!"
    Và Art tiếp tục, "Hắn đã đến đó, và dù chỉ có thể ở đó vài giây thôi, hắn đã làm nơi đó lộn xộn lên hết cỡ. Tất cả các bản thảo đều bị đốt đi, và trong ánh lửa xanh vẩn còn lách tách những tàn tro giấy trắng.Những bản nhật ký ghi âm của cậu cũng bị ném vào trong lửa, và sáp ong phủ trên lửa đỏ."
    Đến đây thì tôi ngắt lời. "Tạ ơn Chúa là chúng ta vẩn còn những bản sao lại chúng ở những nơi an tòan!"
    Khuôn mặt cậu ta sáng lên trong phút chốc, nhưng sau đó lại xịu xuống khi cậu ấy tiếp tục. "Tôi liền chạy vội xuống cầu thang, nhưng không thể thấy dấu vết gì của hắn. Tôi nhìn vào phòng Renfield, nhưng không có dấu vết gì ở đây ngoại trừ... " Một lần nữa cậu ta ngừng lời.
    "Tiếp đi," Harker khàn giọng nói. Đoạn anh ta cúi đầu, lấy lưỡi liếm môi và nói tiếp , "trừ phi rằng người đàn ông tội nghiệp ấy đã chết."
    Bà Harker ngẩng đầu, nhìn chúng tôi từ người này qua người qua người khác, nàng nói trịnh trọng, "Chúa sẽ làm việc của mình!"
    Tôi chỉ có thể cảm thấy rằng Art đang giấu chúng tôi điều gì đó. Nhưng, khi tôi thấy rằng cậu ta làm điều đó là có mục đích, tôi không nói gì thêm.
    Van Helsing quay sang Morris và hỏi, "Còn anh, bạn Quincey, anh có gì để nói không?"
    "Một chút," cậu ta trả lời. "Điều này có thể là kết cục, nhưng lúc này tôi không thể nói chắc.Tôi nghĩ rằng rất hay để biết bá tước có thể đi đâu sau khi hắn rời khỏi nhà. Tôi không thấy hắn, nhưng tôi thấy một con dơi bay lên từ cửa sổ phòng Renfield, và vỗ cánh về hướng tây. Tôi tưởng hắn bay về Carfax, nhưng hắn cuối cùng lại đi tìm một số hang ổ mới. Hắn sẽ không quay về tối nay, vì trời đã rạng đỏ ở hướng đông rồi, và bình minh đã đến gần. Hôm nay chúng ta phải làm việc!"
    Cậu ta nói những lời sau cùng với hàm răng nghiến chặt. Không gian như tĩnh lặng đi vài phút, và tôi có thể tưởng tượng rằng tôi đang nghe nhịp tim đập của chúng tôi.
    Rồi Van Helsing nói, dịu dàng đặt tay lên đầu bà Harker, "Và bây giờ, bà Mina. Bà Mina tội nghiệp đáng yêu thân thương. Bà Mina, hãy kể với chúng tôi chính xác chuyện gì đã xảy. Chúa biết rằng tôi không muốn làm bà tổn thương, nhưng chúng tôi cần biết tất cả. Hơn lúc nào hết, lúc này mọi công việc phải được tiến hành thật nhanh chóng và sắn gọn, và với tinh thần chí mạng. Ngày đang đến với chúng ta và mọi chuyện phải chấm dứt, nếu có thể làm được điều này, và bây giờ đây là cơ hội để chúng ta có thể sống và tìm hiểu."
    Cô gái tội nghiệp rùng mình, và tôi có thể sự căng thẳng thần kinh khi nàng ôm siết lấy chồng mình rồi cúi đầu thấp và thấp hơn nữa vào ngực anh ta. Rồi nàng kiêu hãnh ngẩng đầu lên, dưa một tay ra và Van Helsing nắm lấy, sau đó ông cúi xuống và hôn nó đầy cung kính, rất nhanh. Bàn tay kia vẩn nắm chặt trong tay chồng mình, người đang dùng tay kia vòng qua người nàng che chở. Sau khi ngừng lại một thóang, cuối cùng nàng cũng điều khiển được suy nghĩ, nàng bắt đầu.
    "Tôi uống một ngụm thuốc ngủ mà ông đã tử tế cho tôi, nhưng nó không có tác dụng trong một thời gian dài. Tôi bắt đầu cảm thấy yếu hơn, và vô số những điều tưởng tượng bắt đầu ập đến trong tâm tưởng. Tất cả chúng đều dẩn đến cái chết, đến ma cà rồng, đến đau khổ, và phiền muộn." Chồng nàng khẽ gầm lên không kìm được khi nàng quay sang anh ta và nói dịu dàng, "Đừng bực bội, anh yêu. Anh phải thật can đảm và cứng rắn, để giúp em vượt qua chuyện khủng khiếp này.
    Nếu như anh biết rằng chỉ có việc kể lại những chuyện khủng khiếp này đối với em đã là một nỗ lực lớn như thế nào, thì anh sẽ hiểu rằng em cần đến sự giúp đỡ của anh như thế nào. Vâng, tôi thấy rằng tôi phải cố giúp thêm vào phương thuốc kia để khiến nó có công dụng bằng nỗ lực của tôi. Chắc hẳn rằng giấc ngủ đã đến với tôi khá sớm, vì tôi không còn nhớ gì nữa. Jonathan vào giường mà chẳng làm tôi thức giấc, vì tiếp theo tôi nhớ là anh ấy đã nằm cạnh tôi rồi. Rồi trong phòng lại có cùng một thứ bụi mờ trắng mà tôi đã chú ý trước đây. Nhưng tôi quên mất rằng đến lúc này các ông đã biết về nó chưa.
    Các ông sẽ thấy nó trong nhật ký của tôi khi sau này tôi đưa nó cho các ông. Tôi cảm thấy cùng một sự khiếp sợ mơ hồ đã đến với tôi trước đây và cùng một cảm giác về một cái gì đó đang hiện hữu. Tôi quay lại đánh thức Jonathan, nhưng anh ấy ngủ say như thể chính anh ấy mới là người uống thuốc ngủ chứ không phải tôi. Tôi cố, nhưng tôi không thể đánh thức anh ấy. Điều đó là tôi sợ khủng khiếp, và tôi hốt hỏang nhìn quanh. Thật sự, tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực. Bên cạnh giường, giống như hắn bước ra khỏi đám bụi, hoặc đúng như giống như đám bụi quyện lại thành hình dạng hắn, bởi vì tòan bộ thân hình hắn đã hiện ra, một người đàn ông cao gầy đang đứng, tòan mặc đồ đen.
    Tôi nhận ra hắn ngay qua những đặc điểm khác. Khuôn mặt sáp, chiếc mũi chim ưng. trong đó ánh đèn chiếu lên tạo thành một đường trắng, đôi môi đỏ tách ra, để lộ hàm răng trắng nhọn ở giữa, và đôi mắt đỏ khiến tôi cảm thấy như đã thấy nó trong buổi hòang hôn trong cửa sỏ của nhà thờ St.Mary tại Whitby. Tôi cũng nhận thấy vết sẹo đỏ trên trán hắn khi Jonathan đánh hắn. Trong một thoáng tim tôi như ngừng đập, và tôi đã không thể kêu lên, vì tôi như đã tê liệt. Ngừng một thóang rồi hắn nói bằng những lời thì thầm sắc buốt, trong khi nói hắn chỉ về phía Jonathan.
    "Im lặng! Nếu cô kêu lên thì tôi sẽ làm văng óc hắn ta ra ngay chính trước mắt cô đấy.' Tôi thất kinh và quá bối rối để có thể làm hay nói điều gì cả. Với một nụ cười ngạo nghễ, hắn ta đặt tay lên vai tôi, và nắm chặt lấy, hắn dùng tay kia xé toạc cổ áo của tôi, vừa làm hắn vừa nói, Trước tiên, hãy làm khuây khỏa một chút để thưởng cho sự cố gắng của ta. Cô có thể cứ im lặng như vậy. Đây không phải là lần đầu hay là lần thứ hai, và mạch máu của cô đã làm tôi thỏa mản lần thứ ba rồi!"
    Tôi kinh hòang và lạ lùng đến đổi tôi không muốn cản trở hắn. Tôi nghĩ rắng nó như là một phần của một thứ pháp thuật kinh hãi nào đó mà hắn gây ra khi chạm vào nạn nhân của hắn. Và than ôi, lạy Chúa, lạy Chúa tôi, xin hãy thương tôi! Hắn đặt đôi môi hôi thối của hắn trên cổ họng của tôi!" Chồng nàng lại gầm gừ. Nàng nắm chặt tay anh ta chặt hơn, và liếc nhìn anh ta đầy thương xót, như thể anh ta đang bị một vết thương, và tiếp tục.
    "Tôi cảm thấy sức lực của mình tàn lụi dần, và tôi cảm thấy mình đang ngất đi. Chuyện khủng khiếp này diễn ra bao lâu tôi cũng không biết, nhưng hình như một lúc lâu sau hắn mới đưa cái miệng kinh khiếp, bẩn thỉu đầy chế nhạo của hắn đi. Tôi thấy nó rỏ ra những dòng máu tươi!" Sự hồi tưởng hình như đã vượt quá sức chịu đựng của nàng, và nàng rũ ra và nằm gục xuống như rơi vào vòng tay ôm đỡ của chồng nàng. Với một nỗ lực khủng khiếp nàng tự phục hồi và tiếp tục.
    "Và hắn nói với tôi đầy chế nhạo, Và cô, giống như những tên kia, thử chơi một trò chơi cân não với ta. Cô đã giúp những tên đó săn đuổi ta và làm thất bại những kế hoạch của ta! Bây giờ cô đã biết, và bọn chúng đã biết một phần, và sẽ biết trong không lâu nữa, cách cắt ngang con đường của ta. Bọn chúng nên giữ gìn sức lực của mình khi tiến gần lại nhà. Trong khi chúng đang tính kế chống lại ta, chống lại ta, người ra lệnh cho thiên nhiên, và đang mưu đồ chống chúng, đang chiến đấu chống lại chúng, hàng trăm năm trước khi chúng ra đời, ta đã chống lại chúng.
    Và cô, kẻ đáng yêu nhất trong bọn chúng, bây giờ đã thuộc về ta, da thịt cô đã là da thịt ra, máu của cô đã là máu ta, dòng dõi cô là dòng dõi ta, sẽ cung ứng cạn kiệt nguồn lực cho ta, rồi sau đó sẽ là bạn ta và là người giúp đỡ ta. Cô sẽ lần lượt được báo thù, không phải là cho tên nào trong bọn chúng mà sẽ chỉ tuân theo những điều cô muốn. Nhưng đó là việc cô phải bị trừng phạt về những gì cô đã làm. Cô đã giúp đỡ chống phá ta. Bây giờ cô sẽ đến theo tiếng gọi của ta. Khi não ta nói "Đếân đây!" với cô, cô sẽ vượt qua, dù là đất liền hay biển khơi để làm những gì ta muốn. Và đấy là sẽ kết thúc!'
    Rồi hắn kéo tung chiếc áo sơ mi của hắn, với chiếc móng tay dài và sắc bén hắn xé tung mạch máu trên ngực. Khi máu bắt đầu bắn ra, hắn nắm tay tôi, siết chặt dùng tay kia tóm lấy cổ tôi và ép miệng tôi vào vết thương, để tôi hoặc phải chết ngạt, hoặc phải ... Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa tôi! Tôi đã làm gì? Tôi đã làm gì để phải nhận một định mệnh như vậy, tôi, người đã sống hiền lành và đạo đức trong suốt cuộc đời mình. Chúa hãy thương tôi! Hãy nhìn xuống linh hồn tội nghiệp này trong nỗi nguy hiểm sống còn của mình. Và trong sự nhân ái hãy xót thương cho những người mà cô ta yêu quý!" Và nàng bắt đầu lau xát đôi môi như muốn lau sạch nó khỏi sự ô uế.
    Khi nàng kể câu chuyện khủng khiếp của mình, bầu trời phía đông bắt đầu rực lên rất nhanh, và mọi thứ càng lúc càng rõ ràng. Harker vẩn im lặng. Nhưng trên khuôn mặt anh ta, câu chuyện kể khủng khiếp kia vẩn đang tiếp diễn, cái nhìn xám xịt vẩn lan sâu thật sâu trong nắng sáng, đến khi vệt đỏ đầu tiên chiếu xuống, da thịt vẩn tối đen đối nghịch với mái tóc trắng.
    Chúng tôi lần lượt từng người ngồi lại lay gọi đôi bạn bất hạnh kia đến khi chúng tôi có thể họp lại để sắp xếp kế hoạch hành động.
    Về chuyện này thì tôi quyết chắc. Hôm nay mặt trời đã lên và những chuỗi ngày kinh hoàng không còn bao quanh ngôi nhà đau khổ nữa.





  7. #23
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default


    Chương 22

    NHẬT KÝ CỦA JONATHAN HARKER



    Ngày 3 tháng Mười - Tôi phải làm một điều gì đó nếu không thì sẽ hóa điên mất. Bây giờ là sáu giờ, và chúng tôi gặp mặt trong phòng nghiên cứu trong một giờ rưỡi để ăn cái gì đó, vì bác sĩ Van Helsing và bác sĩ Seward đã nhất trí rằng nếu chúng tôi không ăn thì chúng tôi sẽ không làm việc với khả năng tốt nhất được. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình. Chúa biết và yêu cầu rằng trong ngày hôm nay, tôi phải cố ghi lại ở bất kỳ cơ hội nào có được, vì tôi đang dám chấm dứt mọi suy nghĩ của mình. Tất cả mọi thứ, lớn hay nhỏ, đều phải được dẹp đi.
    Có thể kết cục sẽ dạy chúng ta điều tốt nhất. Điều dạy dỗ ấy, dù lớn hay nhỏ, cũng không thể đưa Mina hoặc tôi đến một tình trạng nào tồi tệ hơn hôm nay. Tuy nhiên, chúng tôi phải tin tưởng và hy vọng. Mina vừa mới nói chuyện với tôi, với những dòng lệ lăn dài trên đôi gò má thân thương, đó là lúc mà những điều đau khổ và thử thách đang kiểm tra sự tin cậy của chúng tôi. Chúng tôi phải tiếp tục có lòng tin, và Chúa sẽ giúp mọi việc đi đến kết cục. Kết cục! Ôi, Chúa tôi! Kết cục gì chứ?... Làm việc! Làm việc thôi!
    Khi bác sĩ Van Helsing và bác sĩ Seward trở lại để xem xét ông Renfield tội nghiệp, chúng tôi dũng cảm tiếp nhận những chuyện đã diễn ra. Trước tiên, bác sĩ Seward nói với chúng tôi rằng khi ông ta và bác sĩ Van Helsing đi xuống phòng dưới họ thấy Renfield nằm trên sàn, hoàn toàn bất động. Mặt ông ấy thâm tím và bị nghiền nát, còn xương cổ thì bị gãy.
    Bác sĩ Seward hỏi người hầu chịu trách nhiệm ở khu hành lang xem anh ta có nghe thấy gì không?Anh ta nói rằng anh ta đã ngồi xuống, anh ta thú nhận rằng mình đã bắt đầu nữa gà gật, thì anh ta nghe thấy những tiếng động lớn ở trong phòng, và sau đó thì Renfield cất tiếng gọi nhiều lần, "Chúa ơi! Chúa ơi! Chúa ơi!" Sau đó là tiếng của một cái gì đó rơi xuống, và khi anh ta đi vào phòng, anh ta thấy ông ta nằm trên sàn, úp mặt xuống, giống như lúc bác sĩ thấy ông ta. Van Helsing hỏi xem ông ta nghe thấy "nhiều loại tiếng động" hay chỉ "một loại tiếng," và anh ta nói rằng anh ta không thể chắc được. Thoạt tiên thì có vẻ như có hai loại tiếng, nhưng chẳng có ai trong phòng nên chắc là chỉ có một loại thôi. Anh ta sẳn sàng thề nếu cần, rằng tiếng "Chúa ơi" đó chỉ được nói bởi người bệnh thôi.
    Bác sĩ Seward nói với chúng tôi, khi chỉ còn chúng tôi còn lại, rằng anh ta không muốn đi sâu vào vấn đề này. Những cuộc thẩm vấn và điều tra đã được tiến hành, và chúng sẽ không bao giờ vươn tới được sự thật, và không có ai tin được vào cái sự thật đó. Như vậy, anh ta nghĩ rằng dựa trên những bằng chứng của người phục vụ cung cấp, có thể xác nhận rằng nguyên nhân cái chết là do một cú ngã rủi ro từ trên giường. Trong trường hợp những nhân viên chuyên điều tra những cái chết bất thường cần điều này, và tiến hành một cuộc điều tra hợp pháp, thì cũng sẽ dẩn đến cùng một kết quả.
    Khi bắt đầu thảo luận đến câu hỏi rằng sắp tới sẽ phải làm gì, thì chuyện trước nhất chúng tôi quyết định là Mina sẽ phải hoàn toàn phục hồi sự tự tin. Dù là bằng cách nào đi nữa, bất kể sự thương tổn như thế nào, cũng phải giữ cho nàng yên ổn. Nàng tự mình đồng ý với những lời khuyên từng trãi này, và thật là đáng thương xót khi thấy nàng thật là can đảm, và một lần nữa đầy đau buồn trong cái hố sâu thăm thẳm của tuyệt vọng như vậy.
    "Không được giấu diếm gì cả," nàng nói, "Than ôi! Chúng ta cũng phải thật là sẵn sàng. Và ngòai ra không còn điều gì trên thế giới này có thể khiến cho tôi đau khổ hơn những gì tôi vừa gánh chịu, hơn nỗi đau khổ của tôi lúc này! Bất kể cái gì diễn ra, thì nó phải là những niềm hy vọng mới hoặc những sự khuyến khích mới cho tôi!"
    Van Helsing nhìn nàng chăm chú trong khi nàng nói, và lên tiếng, thình lình như dịu dàng, "Nhưng thưa bà Mina thân yêu, bà không cần phải lo sợ. Không phải cho bản thân bà, mà cho cho những người khác bên bà, sau tất cả những gì đã diễn ra?"
    Khuôn mặt nàng như đanh hẳn lại, nhưng mắt nàng sáng lên với vẻ tận tâm của những kẻ tuẫn tiết khi nàng trả lời, "Ah không! Điều đó đã chắc trong tâm trí tôi rồi!"
    "Điều gì?" ông ấy lịch lãm hỏi, trong khi chúng tôi vẩn đứng lặng, mỗi người theo đuổi cách riêng của mình để hiểu ý nghĩa trong câu nói của nàng.
    Câu trả lời của nàng đến thẳng một cách đơn giản, như thể nàng chỉ giản đơn phát biểu một điều gì đó, "Bởi vì tôi đã thấy nó trong mình, và tôi sẽ quan sát nó thật rõ ràng, với một dấu hiệu nào đó gây hại cho bất kỳ ai tôi yêu mến, tôi sẽ chết!"
    "Bà sẽ không tự kết liễu chính mình chứ?" ông ta hỏi, khàn giọng.
    "Tôi sẽ. Nếu như không có một người bạn nào yêu thương tôi, bảo vệ tôi trước một nỗi đau khổ, trước một nỗ lực tuyệt vọng đến thế!" Nàng nhìn ông ta đầy ý nghĩa trong khi nói.
    Ông ta đang ngồi, nhưng bây giờ ông đứng dậy, tiến đến gần nàng, và đặt tay mình lên vai nàng khi ông nói một cách trịnh trọng. "Con ta, có một người như thế đang ở đây cho những điều tốt đẹp dành cho con. Cho chính mình ta có thể giữ những điều giao ước với Chúa để mang đến một cái chết không đau đớn như vậy cho con, thậm chí trong cái lúc mà điều đó là điều tốt nhất. Không, nó sẽ rất an tòan! Nhưng con tôi..."
    Trong một thóang ông như nghẹn lại, và một tiếng nức nở lớn cuộn lên trong cổ họng ông. Ông nuốt nó xuống và tiếp tục. "Ở đây có một số người đang đứng giữa con và cái chết. Con không được chết. Con không được chết bởi bất kỳ chuyện gì, tệ nhất là cho tất cả những gì của con. Cho đến khi cái tên kia, kẻ đã làm nhơ nhuốc cuộc sống êm dịu của con, có được một cái chết thật sự mà con sẽ không vướng phải.
    Còn nếu hắn vẩn là một kẻ Chưa Chết nhanh nhẹn, cái chết của con sẽ thậm chí làm cho con giống như hắn. Không, con phải sống! Con phải vật lộn và phấn đấu để được sống, dù rằng cái chết đã trở nên giống như một ân huệ không thể nói ra. Con phải chiến đấu với chính tên Thần Chết ấy, dù hắn đến với con trong đau khổ hay vui sướng. Dù ngày hay đêm, dù an tòan hay hiểm nguy! Cho linh hồn còn sống của con ta yêu cầu con không được chết. Không, không được nghĩ đến cái chết, cho đến khi tên quái vật ghê gớm kia chỉ còn là quá khứ."
    Cô gái tội nghiệp thân yêu trở nên trắng bệch như xác chết, run rẩy và rùng mình, như tôi thấy vũng cát lún run rẩy và trăn trở trong những đợt sóng thủy triều. Tất cả chúng tôi đều im lặng. Chúng tôi không thể làm được gì. Cuối cùng nàng trở nên bình tĩnh, và quay về phía ông ấy, nàng nói dịu dàng, nhưng thật đau khổ, khi nàng nắm lấy tay mình, "Tôi hứa với ông. người bạn thân của tôi, rằng nếu Chúa để tôi sống, tôi sẽ phấn đấu để làm điều đó. Cho đến khi, đến khi thời điểm của Hắn đến, những điều khủng khiếp này sẽ rời khỏi tôi."
    Nàng thật là tốt đẹp và can đảm đến nỗi tất cả chúng tôi đều cảm thấy con tim mình được tiếp thêm sức mạnh để làm việc và chịu đựng với nàng, và chúng tôi bắt đầu thảo luận xem mình sẽ làm gì tiếp. Tôi nói với nàng rằng tất cả những giấy tờ của nàng đều được an toàn, và tất cả các giấy tờ hay nhật ký và các cuộn băng thu có thể chúng tôi sẽ phải dùng đến sau này, và vẩn tiếp tục ghi lại các tài liệu như nàng đã làm trước đây. Nàng có vẻ hài lòng với những chuyện này, nếu như "hài lòng" có thể dùng để nối kết một sự buồn bã đến thế với một niềm vui.
    Như thường lệ Van Helsing lại nghĩ đến mọi chuyện trước những người khác, và đã chuẩn bị với thứ tự chính xác các công việc của chúng tôi.
    "Nó có thể tốt đấy," ông ta nói "với cuộc gặp gỡ của chúng ta sau khi viếng thăm Canfax chúng ta quyết định không làm gì với những chiếc hộp đất nằm ở đấy. Chúng ta đã làm như vậy, và bác tước hẳn phải đoán được mục đích của chúng ta, và không nghi ngờ gì nữa, đã lo liệu sớm để làm thất bại một cố gắng tương tự về những chuyện như vậy. Nhưng bây giờ hắn không biết mục đích của chúng ta. Không những thế, hoàn toàn rất có thể là hắn không biết là chúng ta đã có những năng lực để làm triệt tiêu hoàn toàn những nòi giống của hắn, và hắn không thể dùng đến chúng như trước đây.
    "Chúng ta bây giờ phải làm việc nhiều hơn nữa để sắp xếp các kiến thức của chúng ta. Khi chúng ta kiểm tra ngôi nhà ở Piccadilly, chúng ta có thể dõi theo các dấu vết của chúng. Hôm nay là của chúng ta, và là những hy vọng cuối cùng của chúng ta.Mặt trời đang mọc trên những nỗi đau buồn của chúng ta và sẽ bảo vệ chúng ta khi nó còn chiếu sáng. Đến khi mặt trời lặn vào tối nay, con quái vật sẽ có thể phục hồi những gì mà nó có thể làm lúc này. Hắn đang bị giam hãm trong lốt vỏ trần tục.
    Hắn không thể hòa tan và trong không khí hay không thể biến mất qua các vết nứt, khe hở hay các vết nẻ. Nếu hắn muốn đi qua cửa, hắn vẩn phải mở cửa như một người thường. Vậy tất cả những gì chúng ta phải làm là săn đuổi tất cả các hang ổ của hắn và làm tiệt nọc chúng. Vì vậy chúng ta sẽ làm, nếu như chúng ta chưa kịp bắt và tiêu diệt hắn, thì chúng ta sẽ đẩy hắn vào một cái vịnh nơi mà việc mà chúng ta bắt và tiêu diệt hắn chỉ còn là vấn đề thời gian."
    Đến đây thì tôi đứng dậy bởi vì tôi không thể chịu đựng được ý nghĩ rằng những giây phút đang trôi vùn vụt qua là vô cùng quý giá cho cuộc sống của Mina, trong khi đó chúng tôi chỉ toàn nói những chuyện không làm được. Nhưng Van Helsing đã giơ tay ông lên cảnh cáo,
    "Không, bạn Jonathan," ông ta nói, "trong lúc này, con đường nhanh nhất đến dích là con đường xa nhất, như cách ngôn của các anh đã nói. Chúng ta sẽ làm và làm mọi việc với một tốc độ kinh khiếp, khi mà thời điểm đến. Nhưng hãy nghĩ đi, tất cả những gì có thể là chìa khóa cho chuyện này chính là ngôi nhà ở Piccadilly. Bá tước có thể đã mua thêm nhiều ngôi nhà khác. Hắn ta có thể có các văn bản mua bán, chìa khóa và những thứ khác của chúng. Hắn ta sẽ có nhiều giấy tờ mà hắn đã viết lên. Hắn ta sẽ có nhiều cuốn séc. Phải có nhiều thứ thuộc về hắn đang tồn tại đâu đó.
    Vì sao không tập trung vào điểm này thật tập trung, thật lặng lẽ, vào nơi mà hắn đến và đi, vào mọi lúc mọi thời điểm, khi mà cả một vùng giao thông rộng lớn sẽ không thể có một sự chú ý nào. Chúng ta sẽ đến và kiểm tra ngôi nhà. Và khi chúng ta biết được rằng nó chứa gì, thì chúng ta sẽ làm điều mà bạn Arthur đã nói, săn đuổi đến tận cùng trái đất' như cách nói của anh ta và chúng ta sẽ hạ con cáo già này, phải không? Điều đó không đúng sao?"
    "Vậy thì chúng ta đi ngay," tôi kêu lên, "chúng ta đang lãng phí những thời gian rất rất quý giá!"
    Giáo sư vẩn bất động, mà chỉ đơn giản nói, "Và làm thế nào chúng ta có thể đi vào trong căn nhà ở Piccadilly?"
    "Bằng mọi cách!" tôi kêu lên. "Chúng ta sẽ bẻ khóa nếu cần."
    "Thế còn cảnh sát nước anh? Họ sẽ làm gì và họ sẽ nói gì?"
    Tôi khựng lại, nhưng tôi biết rằng nếu ông ta muốn chậm lại thì hẳn ông ta có lý do chính đáng. Vì vậy tôi nói, với tất cả sự bình thản mà tôi có thể có được. "Đừng chờ đợi nhiều hơn cần thiết. Tôi chắc rằng ông biết sự hành hạ mà tôi đang phải chịu đựng."
    "Và, con trai ta, cũng là cái mà ta đang chịu đựng. Và thật sự ra, tôi không muốn làm tăng thêm nỗi đau khổ của anh. Nhưng chỉ cần suy nghĩ những gì chúng ta có thể làm, đến khi tất cả mọi thứ đều sẳn sàng. Và đó là thời điểm cho chúng ta. Tôi đã nghĩ và nghĩ, và đối với tôi, có vẻ như cách đơn giản nhất lại tốt hơn hết. Nào chúng ta muốn vào nhà, nhưng chẳng có chìa khóa. Có phải thế không?" Tôi gật đầu.
    "Nào, hãy giả sử rằng, nếu như trong thực tế anh chính là người chủ của ngôi nhà và không thể đi vào nhà. Và vì anh không có lòng dạ nào để bẻ khóa, thì anh sẽ làm gì?"
    "Tôi sẽ gọi đến một người thợ sữa khóa và yêu cầu anh ta mở khóa cho tôi?"
    "Và cảnh sát có can thiệp hay không?"
    "Ồ không! Ông nếu họ biết rằng người kia đang được thuê làm."
    "Vậy thì" ông ta nhìn tôi thật dịu dàng khi cất tiếng, "tất cả còn lại để nghi ngờ chỉ còn là vấn đề lương tâm của người được thuê, và niềm tin của những nhân viên cảnh sát kia sẽ dựa trên việc người được thuê ấy có một lương tâm tốt hay xấu. Những nhân viên cảnh sát của các anh hẳn là những người nhiệt tình và thông minh, rất thông minh để đọc thấu tâm can người, và họ hẳn sẽ làm bối rối chính mình trước một vấn đề như vậy.
    Không, không, bạn Jonathan của tôi, bạn đã mở khóa hàng trăm căn nhà trống rỗng ở London, và ở bất kỳ thành phố nào trên thế giới, và nếu anh làm lại điều đó một cách thành thạo thì sẽ không ai can thiệp. Tôi có đọc về một người tử tế sở hữu một căn nhà tuyệt đẹp ở London, và khi anh ta đi nghỉ hè hàng tháng ở Thụy Sĩ và khóa cửa nhà, một tên trộm đã đột nhập và bẻ khóa cửa sổ phía sau rồi vào nhà. Sau đó hắn đi ra, mở cửa chớp phía trước và đi ra bằng cửa này, trước những đôi mắt chăm chú của cảnh sát. Đoạn hắn bắt đầu rao bán đấu giá căn nhà, quảng cáo nó, dán những thông báo lớn.
    Và đến ngày nọ hắn đã bán được bởi một tổ chức đấu giá lớn tất cả những đồ đạc của cái người chủ thực sự ngôi nhà kia. Sau đó hắn đến chỗ công ty xây dựng, bán căn nhà, tạo ra một bản thỏa thuận trong đó chính hắn ký tên vào và mang đi trong tất cả những lúc cần thiết. Còn cảnh sát của các anh và những người có trách nhiệm khác giúp đỡ hắn tất cả những gì hắn cần.
    Và đến khi người chủ căn nhà trở về sau kỳ nghỉ ở Thụy Sĩ thì anh ta chỉ thấy một cái lỗ lớn ở cái nơi mà trước đây căn nhà của anh ta ở đó. Tất cả đã được làm đúng luật, và công việc mà chúng ta sắp làm cũng sẽ đúng luật. Chúng ta sẽ không đi quá sớm để những người cảnh sát phải để ý, và sẽ lấy làm lạ. Mà chúng ta sẽ đi sau mươi giờ, khi mà đường phố đã đông người, và chúng ta sẽ làm những chuyện như thể chúng ta thực sự là chủ ngôi nhà."
    Tôi không thể không nhận thấy là ông ta nói đúng và nỗi sợ hãi khủng khiếp trên khuôn mặt của Mina đã nhanh chóng chuyển dần thành sự thư giãn trầm lặng. Hy vọng đã được thắp lên bởi con người dẩn đầu tài giỏi này.
    Van Helsing tiếp tục, "Khi đã vào nhà chúng ta có thể tìm thấy thêm các điều chỉ dẩn khác. Dù sao đi nữa thì một số trong chúng ta có thể ở lại đây trong khi những kẻ còn lại sẽ tìm ở những nơi khác nơi có thể có những cái thùng đất khác, ở Bermondsey và Mile End."
    Huân tước Godalming đứng dậy. "Tôi có những thứ có thể dùng được. Tôi sẽ đánh điện nói người của tôi chuẩn bị ngựa và mang đến những nơi thích hợp nhất."
    "Nghe đây, bạn già" Morris nói, "ý tưởng chính là làm cho tất cả đều sẳn sàng trong trường hợp muốn đi ngựa, nhưng cậu đừng nghĩ rằng những con ngựa lộng lẫy với những huy hiệu trang trí của cậu trên những con đường đến Walworth hay Mile End sẽ khiến cho chúng tớ cảm thấy hấp dẩn với những mục đích mà bọn ta đang theo đuổi. Theo tớ thì chúng ta nên đi xe trạm khi chúng ta đi xuống miền Nam hay miền Đông. Và thậm chí chúng ta có thể để họ lại nơi nào đó lân cận với nơi mà chúng ta sẽ đến."
    "Bạn Quincey nói đúng!" giáo sư nói. "Anh ta đã nhìn thấy được mọi việc. Chúng ta đang làm một việc khó khăn, và chúng ta không nên để người khác có nhiều cơ hội nhìn thấy chúng ta."
    Mina đã có một cái nhìn tươi tỉnh hơn đối với mọi vật và tôi hãnh diện khi nhận thấy tính khẩn cấp của sự việc đã giúp nàng quên đi khỏang thời gian khủng khiếp đã phải chịu đựng trong đêm. Nàng trông rất, rất xanh xao, gần như trắng bệch, và đôi môi nàng đã khô nứt ra, làm đôi hàm răng trắng của nàng như đang có vẻ nhô lên. Tôi không nói lên điều này, hầu tránh cho nàng những nỗi đau không cần thiết, nhưng nó khiến cho máu trong huyết quản của tôi như đông lại khi nghĩ đến những điều đã xảy ra cho Lucy tội nghiệp lúc bá tước hút máu nàng. Lúc này thì vẩn chưa có dấu hiệu nào cho thấy đôi hàm răng ấy trở nên sắc bén hơn, nhưng thời gian thì qua rất nhanh, và không có thời gian để sợ nữa.
    Khi chúng tôi đi thảo luận về trình tự những công việc cần làm, về việc sắp xếp những nỗ lực của mình, thì lại nảy sinh những điều tranh cãi mới. Cuối cùng thì mọi người đồng ý rằng trước khi bắt đầu ở Piccadilly, chúng tôi sẽ triệt phát cái hang ổ gần bên của bá tước bằng tay. Trong trường hợp hắn phát hiện ra điều đó sớm, chúng tôi vẩn vượt lên trước hắn bằng sự tàn phá của mình. Và khi đã làm giảm đi sự hiện diện vật chất của hắn, ở điểm yếu nhất của hắn, có thể sẽ cho chúng tôi thêm một số sự gợi ý mới.
    Để bắt đầu những nỗ lực của nhóm, giáo sư đề nghị rằng sau khi chúng tôi đến Carfax, cả bọn chúng tôi nên vào ngôi nhà ở Piccadilly. Tôi nên cắt hai bác sĩ đến đó, trong khi Huân tước Godalming và Quincey thì sẽ tìm những hang ổ ở Walwork và Mile End để tiêu diệt nó. Giáo sư nêu ra một vấn đề có thể xảy ra rằng bá tước có thể xuất hiện ở Piccadilly trong ngày hôm đó, và nếu vậy thì thì chúng tôi có sẽ phải bất chợt đương đầu với hắn.
    Đó là một vấn đề mà tôi tích cực chú ý, và đến lúc này tất cả sức lực của tôi đã tập trung lại, tôi nói rằng tôi muốn ở lại và bảo vệ Mina. Tôi nghĩ rằng ý nghĩ của tôi sẽ giải quyết được vấn đề, nhưng Mina không muốn nghe đến điều này. Nàng nói rằng có thể sẽ có một số vấn đề về luật pháp mà tôi có thể hữu dụng. Giữa những giấy tờ các loại của bá tước có thể có một số chỉ dẩn mà tôi có thể lần ra từ những kinh nghiệm của mình ở Transylvania. Và nếu mọi chuyện diễn ra như vậy, chúng tôi có thể tập trung tất cả sức mạnh của mình khi cần để đương đầu với năng lượng siêu nhiên của bá tước. Nàng nói rằng đó là hy vọng cuối cùng của nàng, và tất cả chúng tôi phải làm việc cùng nhau.
    "Đối với em," nàng nói, "em không sợ gì hết. Mọi thứ đã tệ đến mức có thể có rồi. Và dù bất kỳ cái gì có thể xảy ra phải chứa trong nó một chút gì để hy vọng hay an ủi. Hãy đi đi, chồng của em! Chúa có thể, nếu Người muốn, bảo vệ em trong lúc đơn độc cũng như lúc bên bất kỳ ai."
    Đến đây thì tôi bật khóc. "Vậy thì nhân danh Chúa, chúng ta hãy đi ngay, vì chúng ta đang làm mất thời gian. Bá tước có thể đến Piccadilly sớm hơn chúng ta nghĩ."
    "Không như vậy đâu!" Van Helsing nói, khoanh tay lại.
    "Nhưng vì sao?" tôi hỏi.
    "Anh quên rằng," ông nói, với một nụ cười tự tin, "rằng đêm qua hắn đã có một bữa tiệc no nê, và sẽ ngủ trễ à?"
    Tôi mà quên ư! Tôi sẽ không bao giờ... không bao giờ có thể! Làm sao mà bất kỳ ai trong chúng ta có thể quên được thảm cảnh khủng khiếp vừa qua! Mina rung lên trong cố gắng giữ vẻ can đảm, nhưng cơn đau xót đã chế ngự được nàng và nàng đưa tay lên trước mặt, và khẽ rùng mình khi nàng rên lên. Van Helsing không muốn gợi lại cho nàng những chuyện khủng khiếp này. Ông ta chỉ đơn giản là không chú ý đến nàng và phần của nàng trong việc này trong những nỗ lực trí óc của ông.
    Khi ông nhận thức được điều này sau khi nói, ông hỏang hốt vì sự bất cẩn của mình và cố an ủi nàng.
    "Ôi, bà Mina," ông ta nói, "bà Mina thân, thân yêu, than ôi! Tại tôi tất cả, kẻ đã rất sùng kính bà lại nói ra những điều đáng quên đi như vậy. Đôi môi già nua ngu ngốc này của tôi và cái đầu lão ngu xuẩn này không đáng được như vậy đâu, nhưng bà hãy quên nó đi, được không nào?" Ông ấy cúi xuống chỗ nàng khi ông nói.
    Nàng đua tay lên, nhìn ông qua những dòng lệ mờ, và nói khản đặc, "Không, tôi sẽ không quên, bởi vì nó vô cùng đáng cho tôi nhớ lấy. Với nó tâm khảm tôi sẽ luôn tràn ngập một điều rằng ông thật là đáng yêu, và đó là tất cả những gì tôi sẽ nhớ. Nào, mọi người phải đi nhanh lên. Bữa sáng đã sẳn sàng, và tất cả chúng ta phải ăn vì chúng phải khỏe mạnh."
    Bữa sáng thật là một bữa ăn lạ cho tất cả chúng tôi. Chúng tôi cố khuyến khích và động viên lẩn nhau, và Mina là người tươi tỉnh và vui vẻ nhất trong số chúng tôi. Khi tất cả đã xong, Van Helsing đứng dậy và nói, "Bây giờ, hỡi các bạn thân yêu của tôi, chúng ta phải tiến đến những khó khăn khủng khiếp phía trước. Tất cả chúng ta đều đã vũ trang trong cái đêm đầu tiên mà chúng ta đến thăm hang ổ của kẻ thù. Hãy vũ trang lần nữa để đương đầu về cả tinh thần lẩn thể xác chứ?"
    Chúng tôi đồng ý với ông ta.
    "Thế thì tốt lắm. Nào, bà Mina, dù thế nào bà cũng sẽ an tòan đến tận hòang hôn,. Và trước khi đó chúng tôi sẽ trở về... nếu... Chúng tôi sẽ trở về! Nhưng trước khi đi hãy để tôi được trông thấy bà đã được bảo vệ trước mọi cuộc tấn công. Tôi đã có cho riêng mình những thứ mà khi bà đi ngủ, bà nên chuẩn bị căn phòng mình bằng đặt chúng, những thứ mà ta đã biết để Hắn không thể vào. Bây giờ để tôi được bảo vệ đích thân bà. Tôi sẽ chạm vào trên trán bà một mẩu Bánh Thánh nhân danh Cha, Con và...
    Rồi một tiếng thét vang lên làm những trái tim của chúng tôi lần lượt như đông cứng cả lại. Khi ông ấy chạm Bánh vào trán Mina, nó đã héo quắt đi nó... cháy bùng vào da thịt như thể đó là một miếng kim loại nóng trắng. Bộ não yêu thương tội nghiệp của nàng nói cho nàng biết ý nghĩa của sự kiện ấy nhanh như khi thần kinh của nàng cảm nhận được sự đau đớn, và cả hai thứ đó đã đánh quỵ nàng, đã vượt trên bản năng tự nhiên khiến tiếng thét hãi hùng ấy bật lên.
    Nhưng lời nói trở về với tâm tưởng của nàng rất nhanh. Tiếng vọng của câu thét vẩn còn chưa dứt, nó vẩn còn reo vang trong không khí bởi những sự phản xạ âm thì nàng đã quỵ gối xuống trên sàn nhà với sự đau đớn trong tủi nhục. Phủ tóc xuống che kín mặt, như một người bệnh phong kéo áo chòang, nàng khóc thét lên.
    "Bẩn thỉu! Xấu xa! Thậm chí cả Đấng Tối Cao cũng xa lánh da thịt ô uế của tôi! Tôi phải chịu đựng cái dấu hiệu đáng hổ thẹn này trên trán mình cho đến tận Ngày Phán Xét."
    Tất cả đều khựng lại. Tôi buông mình xuống bên nàng trong nỗi đau khổ tuyệt vọng, và vòng tay siết chặt lấy nàng. Trong vài phút những trái tim tràn đầy đau khổ của chúng tôi cùng hòa nhịp đập, còn những người bạn đứng quanh chúng tôi quay đi khi những dòng lệ của họ lặng lẽ tuôn rơi. Rồi Van Helsing quay lại và nói thật dũng cảm. Dũng cảm đến mức tôi không thể cảm thấy rằng ông ta đang cố gắng truyền cảm hay nói bằng những gì không thuộc con người ông.
    "Rất có thể là bà sẽ phải chịu đựng dấu hiệu này đến tận cái ngày mà Chúa chính ngài thấy nó. Chắn chắn Ngài sẽ sữa chữa lại tất cả những lỗi lầm trên Trái Đất này mà các con cháu Ngài đã phạm phải trong Ngày Phán Xét. Và ồ, bà Mina, con thân yêu, con yêu, ở đây con có thể thấy là tất cả chúng ta những người yêu thương con đều có mặt ở đây để được nhìn thấy cái lúc mà cái dấu hiệu đỏ này, dấu hiệu ấn chứng những kiến thức của Chúa, sẽ tan biến đi, để lại vầng trán của con tinh khiết như chính trái tim của con mà chúng ta đều biết rõ.
    Chắc chắn khi chúng ta còn sống, cái dấu hiệu kia sẽ tan biến đi khi Chúa thấy phải nhấc đi cái gánh nặng đặt lên chúng ta. Đến khi nào chúng ta vẩn còn mang trên người Thánh Giá của chúng ta, khi mà Con Của Người vẩn tuân theo những Ý Nguyện Của Người. Có thể rằng chúng ta đã được lựa chọn làm những công cụ thực hiện những ý định tốt đẹp của Người, và chúng ta sẽ đi theo mệnh lệnh của Người, dù rằng phải vượt qua bao khổ đau và hổ thẹn. Vượt qua nước mắt và máu. Vượt qua nghi ngờ và sợ hãi và tất cả làm nên sự khác biệt giữa Chúa và con người."
    Trong lời nói của ông ấy có niềm hy vọng và sự an ủi. Và chúng tạo nên sự chịu đựng. Mina và tôi cùng cảm thấy thế, và đồng thời chúng tôi mỗi người đều cầm lấy tay người đàn ông già và cúi hôn lên đấy. Rồi không nói thêm một lời tất cả chúng tôi đều quỳ xuống, nắm lấy tay nhau, chúng tôi cũng thề sẽ trung thực với nhau. Chúng người đàn ông sẽ tự mình nâng tấm màn u ám đang bao phủ trong tim nàng, người mà tất cả chúng tôi đều yêu thương theo cách của mình.
    Và chúng tôi đều cầu nguyện để được giúp đỡ và che chở trong cái nhiệm vụ kinh khiếp đang đặt ra trước mặt mình. Đã đến lúc khởi hành. Và tôi nói lời chia tay với Mina, một cuộc chia ly mà không một ai trong chúng tôi có thể quên được cho đến tận cuối đời, và chúng tôi khởi hành.
    Có một điều mà tôi đã xác quyết trong tâm tưởng của mình. Nếu chúng tôi thấy Mina cuối cùng phải trở thành ma cà rồng, thì nàng sẽ không dấn thân vào vùng đất bí ẩn kinh khiếp ấy một mình. Tôi nghĩ đến điều đó vì trong thời cổ một ma cà rồng có nghĩa là nhiều. Chỉ khi mà thân xác kinh khiếp của chúng có thể yên nghỉ trong đất mẹ linh thiêng, thì chỉ có những tình yêu thần thánh nhất mới có thể phục hồi họ khỏi vị thứ hãi hùng đó.
    Chúng tôi đến Carfax mà chẳng gặp rắc rối gì mà bắt đầu tìm tất cả những gì trông giống như cơ hội đầu tiên.
    Thật khó mà tin rằng giữa tất cả những thứ chán ngắt được bao phủ bởi những lớp bụi hờ hững và đổ nát này lại là nguồn gốc cho cái điều khủng khiếp mà chúng tôi đã biết. Tâm trí chẳng gợi lại cho chúng tôi điều gì, và cũng chẳng có kỷ niệm kinh khiếp nào thúc đẩy chúng tôi, chúng tôi thật sự gặp khó khăn trong tiến hành công việc. Chúng tôi không tìm thấy một giấy tờ nào, hay là chẳng có dấu hiệu nào có thể dùng được trong nhà. Và trong ngôi nhà thờ cổ những cái hộp lớn vẩn giống như lần cuối chúng tôi nhìn thấy nó trước đây.
    Bác sĩ Van Helsing trịnh trọng nói với khi chúng tôi đứng trước mặt ông, "Và bây giờ, các bạn tôi, chúng ta có bổn phận phải làm ở đây. Chúng ta phải tẩy uế nơi này, phải làm linh thiêng lại chốn kỷ niệm thần thánh này, cái nơi mà hắn đã từ một nơi xa xôi đến làm cho xuống cấp như vậy. Hắn chọn vùng đất này bởi vì nó đã từng là một nơi linh thiêng. Vì thế chúng ta sẽ tiêu diệt hắn bằng chính vũ khí của hắn, chúng ta sẽ làm cho nơi này vẩn tiếp tục linh thiêng. Nó vốn đã được thần thánh hóa bởi bàn tay con người, giờ chúng ta sẽ làm cho nó được thần thánh hóa nhân danh Chúa."
    Khi ông nói, ông lấy từ trong túi ra một cái vit và vặn mạnh, rồi nắp của một cái hộp nhanh chóng bật lên. Đất trong hộp có mùi mốc và ngột ngạt, nhưng chúng tôi không thấy có gì đáng chú ý, nên tất cả sự chú ý của chúng tôi lại tập trung về phía giáo sư. Ông lấy từ trong hộp ra một mẫu Bánh Thánh và đặt nó cung kính lên dất, và rồi ông đóng nắp và bắt đầu đóng đinh, chúng tôi giúp ông làm.
    Chúng tôi lần lượt làm như vậy với mỗi cái hộp lớn, và rời đi khi thấy đã làm xong với tất cả các hộp. Nhưng mỗi cái hộp đó là để lại cho Chủ Nhà. Khi chúng tôi đóng cổng lại sau lưng, giáo sư nói trịnh trọng, "Chúng ta đã làm được nhiều việc. Nếu chúng ta có thể thành công như vậy với những nơi khác, thì ánh mặt trời của buổi hòang hôn hôm nay có thể rọi trên vầng tráng trắng như ngà của bà Mina mà chẳng thấy một vết nhơ nào."
    Khi chúng tôi băng qua bãi cỏ trên đường ra ga đón xe lửa thì chúng tôi thấy mặt trước của viện điều dưỡng.
    Tôi nhìn hăm hở và từ cửa sổ phòng mình tôi nhìn thấy Mina. Tôi vẫy tay với nàng, và gật đầu để nói rằng công việc của chúng tôi đã thành công tốt đẹp. Nàng gật đầu lại để nói rằng nàng đã hiểu. Lần cuối cùng tôi thấy nàng đang vẫy tay tạm biệt. Chúng tôi bước đến sân ga với trái tim trĩu nặng và chúng tôi bước lên sàn với nghị lực của mình. Tôi viết những dòng này trên xe lửa.
    Piccadilly, 12:30. Ngay trước khi chúng tôi đến đường Fenchurch, huân tước Godalming nói với tôi, "Quincey và tôi sẽ tìm thợ khóa. Tốt hơn ông đừng đi với chúng phòng khi có gì khó khăn. Dù như thế nào đi nữa sẽ không có gì quá tệ cho chúng tôi khi phải đột nhập vào ngôi nhà trống. Nhưng ông là luật sư và người ta có thể nói rằng ngài nên hiểu biết tốt hơn về Luật Đòan Thể Xã Hội."
    Tôi nghiêm trang nói rằng tôi không sợ chia xẻ nguy hiểm cũng như sự dè bĩu, nhưng ông ấy đã tiếp tục, "Ngòai ra, ít người thì sẽ ít gây chú ý hơn. Chức danh của tôi sẽ khiến mọi việc diễn ra ổn thỏa với người thợ khóa, và với bất kỳ người cảnh sát nào có thể chợt đến. Tốt hơn ngài nên đi với Jack và giáo sư để đợi ở Công Viên Xanh. Đâu đó trong phạm vi có thể theo dõi ngôi nhà, và khi ngài thấy cửa mở và người thợ khóa đi rồi, thì mọi người hãy đi vào. Chúng tôi sẽ để ngỏ cửa cho các bạn, và đợi các bạn vào."
    "Lời khuyên tốt!" Van Helsing nói, và chúng tôi không bàn thêm nữa. Godalming và Morris nhanh chóng lao đi bằng xe, và chúng tôi đi theo lối khác. Tại góc đường Arlington chúng tôi làm như tình cờ tản bộ vào Công Viên Xanh. Tim tôi đập mạnh khi tôi thấy ngôi nhà đang chứa đựng rất nhiều hy vọng của chúng tôi, lờ mờ và im lìm trong cái địa thế hoang vắng của nó giữa ngôi nhà hàng xóm trông sinh động và sạch sẽ hơn hẳn. Chúng tôi ngồi trên băng đá giữa một tầm nhìn thuận lợi, và bắt đầu hút xì gà, làm sao cho ít gây sự chú ý càng tốt. Những phút trôi qua nhưng những bước chân đeo chì khi chúng tôi chờ đợi những người còn lại đến.
    Cuối cùng chúng tôi thấy một xe bốn bánh đến. Ở bên ngòai, với dáng vẻ thong thả là Huân tước Godalming và Morris. Và đi xuống từ thân xe là một người đàn ông chắc nịch với chiếc túi dệt đựng đồ nghề. Morris trả tiền cho người đánh xe, anh ta đưa tay lên nón chào và đánh xe đi. Cả hai cùng bước xuống cầu thang và huân tước Godalming giải thích việc ông ta muốn làm. Người thợ khóa thong thả cởi áo khoác và treo nó lên một cái đinh trên lan can, nói điều gì đó với một người cảnh sát vừa tản bộ đến. Viên cảnh sát gầu ưng thuận, và người đàn ông cúi xuông đặt cái túi ra phía sau. Sau khi lục lọi, ông ta lựa chọn một số dụng cụ và đặt ra ngòai theo một thứ tự kiểu cách.
    Rồi ông đứng dậy, khi cái lỗ khóa, và thổi vào nó và quay sang người thuê ông ta, phác một ký hiệu. Huân tước Godalming mỉm cười, và người đàn ông lấy lên một chùm lớn những chìa khóa. Lựa chọn một trong số chúng, ông ta bắt đầu thăm dò cái khóa, và thử tìm cách xử lý nó. Sau khi dò dẫm một lúc ông thử sang cái thứ hai rồi đến cái thứ ba. Ngay tức khắc cánh cửa mở toang dưới cái đẩy nhẹ của ông ta, rồi ông cùng với hai người kia bước vào sảnh đường. Chúng tôi vẩn ngồi. Điếu xì gà của tôi được rít dữ dội, nhưng Van Helsinh vẩn lạnh như tiền. Chúng tôi kiên nhẫn ngồi đợi cho đến khi chúng tôi thấy người đàn ông kia đi ra và mang theo cái túi. Rồi ông ta giữ cánh cửa mở rộng, kềm chặt nó bằng đầu gối trong khi ông đặt khóa vào ổ. Cuối cùng ông đưa cho huân tước Godalming, ông này lấy ví ra và đưa cho ông ta cái gì đó. Người đàn ông đưa tay lên mũ, xách lấy túi bỏ vào trong áo khoác và bước đi. Chẳng có gì gây nên sự chú ý của tất cả chung quanh.
    Khi người đàn ông đã đi hẳn, cả ba chúng tôi băng qua đường và gõ cửa. Nó được mở ngay bởi Quincey Morris, đứng cạnh anh là huân tước Godalming đang đốt xì gà.
    "Nơi này trông có vẻ ghê tởm quá," huân tước nói khi chúng tôi bước vào. Thật sự trông nơi đây thật ghê tởm.
    Giống như cái nhà thờ cổ ở Carfax. Với kinh nghiệm trước đây chúng tôi dễ dàng nhận ra rằng bá tước tự do sử dụng chỗ này. Chúng tôi thám hiểm khắp ngôi nhà, và luôn giữ mình đề phòng mọi cuộc tấn công, vì chúng tôi biết mình đang đương đầu với một kẻ thù khỏe mạnh và hoang dại như thế nào, và chúng tôi không biết là bá tước đang có trong nhà hay không.
    Trong phòng ăn, nằm ở phía sau sảnh đường, chúng tôi thấy tám cái hộp đất. Chỉ có tám cái trong chín cái mà chúng tôi đang tìm kiếm. Công việc của chúng tôi chưa chấm dứt, và sẽ không bao giờ chấm dứt cho đến khi chúng tôi tìm thấy cái hộp bị mất.
    Trước tiên chúng tôi mở cửa chớp trên cửa sổ để nhìn xuyên qua khỏang đá hẹp ngay trước bề mặt trống trơn của trại ngựa, hướng đến một cái gì giống như phía trước của một ngôi nhà thu nhỏ. Không có cửa sổ trên nó và chúng tôi không sợ bị nhìn lén. Chúng tôi không để mất thời gian mà tìm kiếm lời giải cho câu đố ngay.
    Chúng tôi thấy rõ là bá tước không có trong nhà, và chúng tôi bắt đầu tìm kiếm mọi dấu vết của hắn.
    Sau khi liếc nhanh qua phần còn lại của căn phòng, từ nền móng đến gác mái, chúng tôi tiến đến kết luận rằng phòng ăn có thể chứa những dấu vết nào đó của bá tước. Và chúng tôi lập tức lục sóat nó. Chúng nằm trên chiếc bàn lớn trong phòng ăn theo một thứ tự lộn xộn.
    Ở đấy có các tiêu đề chứng thư về ngôi nhà ở Piccadilly xếp thành một đống lớn, chứng thư về việc mua bán các ngôi nhà ở Mile End và Bermondsey, các giấy tờ ghi chú, phong bì, bút và mực. Phủ trên tất cả chúng làm một tờ giấy bao giữ chúng khỏi bụi. Ở đây còn có bàn chải quần áo, bàn chải và lược, cái bình và cái chậu.
    Cái vật sau này chứa một vũng nước bẩn có màu thẩm đỏ như có pha máu. Cuối cùng của tất cả những thứ này là một đống nhỏ chìa khóa đủ loại, đủ kích cỡ, có thể thuộc về nhiều ngôi nhà khác nhau.
    Khi chúng tôi tìm thấy thứ sau cùng này, huân tước Godalming và Quincey Morris lấy những bản ghi chú chính xác về các địa chỉ của những ngôi nhà ở phía Đông và phía Nam, lấy những chìa khóa của chúng khỏi đống chìa khóa lớn, và bắt đầu đi triệt phá những cái hộp ở những nơi này. Những người còn lại trong chúng tôi ngồi lại, với tất cả sự kiên nhẫn mà chúng tôi có thể có, đợi họ quay về hoặc là sự xuất hiện của bá tước.





  8. #24
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default


    Chương 22

    NHẬT KÝ CỦA JONATHAN HARKER



    Ngày 3 tháng Mười - Tôi phải làm một điều gì đó nếu không thì sẽ hóa điên mất. Bây giờ là sáu giờ, và chúng tôi gặp mặt trong phòng nghiên cứu trong một giờ rưỡi để ăn cái gì đó, vì bác sĩ Van Helsing và bác sĩ Seward đã nhất trí rằng nếu chúng tôi không ăn thì chúng tôi sẽ không làm việc với khả năng tốt nhất được. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình. Chúa biết và yêu cầu rằng trong ngày hôm nay, tôi phải cố ghi lại ở bất kỳ cơ hội nào có được, vì tôi đang dám chấm dứt mọi suy nghĩ của mình. Tất cả mọi thứ, lớn hay nhỏ, đều phải được dẹp đi.
    Có thể kết cục sẽ dạy chúng ta điều tốt nhất. Điều dạy dỗ ấy, dù lớn hay nhỏ, cũng không thể đưa Mina hoặc tôi đến một tình trạng nào tồi tệ hơn hôm nay. Tuy nhiên, chúng tôi phải tin tưởng và hy vọng. Mina vừa mới nói chuyện với tôi, với những dòng lệ lăn dài trên đôi gò má thân thương, đó là lúc mà những điều đau khổ và thử thách đang kiểm tra sự tin cậy của chúng tôi. Chúng tôi phải tiếp tục có lòng tin, và Chúa sẽ giúp mọi việc đi đến kết cục. Kết cục! Ôi, Chúa tôi! Kết cục gì chứ?... Làm việc! Làm việc thôi!
    Khi bác sĩ Van Helsing và bác sĩ Seward trở lại để xem xét ông Renfield tội nghiệp, chúng tôi dũng cảm tiếp nhận những chuyện đã diễn ra. Trước tiên, bác sĩ Seward nói với chúng tôi rằng khi ông ta và bác sĩ Van Helsing đi xuống phòng dưới họ thấy Renfield nằm trên sàn, hoàn toàn bất động. Mặt ông ấy thâm tím và bị nghiền nát, còn xương cổ thì bị gãy.
    Bác sĩ Seward hỏi người hầu chịu trách nhiệm ở khu hành lang xem anh ta có nghe thấy gì không?Anh ta nói rằng anh ta đã ngồi xuống, anh ta thú nhận rằng mình đã bắt đầu nữa gà gật, thì anh ta nghe thấy những tiếng động lớn ở trong phòng, và sau đó thì Renfield cất tiếng gọi nhiều lần, "Chúa ơi! Chúa ơi! Chúa ơi!" Sau đó là tiếng của một cái gì đó rơi xuống, và khi anh ta đi vào phòng, anh ta thấy ông ta nằm trên sàn, úp mặt xuống, giống như lúc bác sĩ thấy ông ta. Van Helsing hỏi xem ông ta nghe thấy "nhiều loại tiếng động" hay chỉ "một loại tiếng," và anh ta nói rằng anh ta không thể chắc được. Thoạt tiên thì có vẻ như có hai loại tiếng, nhưng chẳng có ai trong phòng nên chắc là chỉ có một loại thôi. Anh ta sẳn sàng thề nếu cần, rằng tiếng "Chúa ơi" đó chỉ được nói bởi người bệnh thôi.
    Bác sĩ Seward nói với chúng tôi, khi chỉ còn chúng tôi còn lại, rằng anh ta không muốn đi sâu vào vấn đề này. Những cuộc thẩm vấn và điều tra đã được tiến hành, và chúng sẽ không bao giờ vươn tới được sự thật, và không có ai tin được vào cái sự thật đó. Như vậy, anh ta nghĩ rằng dựa trên những bằng chứng của người phục vụ cung cấp, có thể xác nhận rằng nguyên nhân cái chết là do một cú ngã rủi ro từ trên giường. Trong trường hợp những nhân viên chuyên điều tra những cái chết bất thường cần điều này, và tiến hành một cuộc điều tra hợp pháp, thì cũng sẽ dẩn đến cùng một kết quả.
    Khi bắt đầu thảo luận đến câu hỏi rằng sắp tới sẽ phải làm gì, thì chuyện trước nhất chúng tôi quyết định là Mina sẽ phải hoàn toàn phục hồi sự tự tin. Dù là bằng cách nào đi nữa, bất kể sự thương tổn như thế nào, cũng phải giữ cho nàng yên ổn. Nàng tự mình đồng ý với những lời khuyên từng trãi này, và thật là đáng thương xót khi thấy nàng thật là can đảm, và một lần nữa đầy đau buồn trong cái hố sâu thăm thẳm của tuyệt vọng như vậy.
    "Không được giấu diếm gì cả," nàng nói, "Than ôi! Chúng ta cũng phải thật là sẵn sàng. Và ngòai ra không còn điều gì trên thế giới này có thể khiến cho tôi đau khổ hơn những gì tôi vừa gánh chịu, hơn nỗi đau khổ của tôi lúc này! Bất kể cái gì diễn ra, thì nó phải là những niềm hy vọng mới hoặc những sự khuyến khích mới cho tôi!"
    Van Helsing nhìn nàng chăm chú trong khi nàng nói, và lên tiếng, thình lình như dịu dàng, "Nhưng thưa bà Mina thân yêu, bà không cần phải lo sợ. Không phải cho bản thân bà, mà cho cho những người khác bên bà, sau tất cả những gì đã diễn ra?"
    Khuôn mặt nàng như đanh hẳn lại, nhưng mắt nàng sáng lên với vẻ tận tâm của những kẻ tuẫn tiết khi nàng trả lời, "Ah không! Điều đó đã chắc trong tâm trí tôi rồi!"
    "Điều gì?" ông ấy lịch lãm hỏi, trong khi chúng tôi vẩn đứng lặng, mỗi người theo đuổi cách riêng của mình để hiểu ý nghĩa trong câu nói của nàng.
    Câu trả lời của nàng đến thẳng một cách đơn giản, như thể nàng chỉ giản đơn phát biểu một điều gì đó, "Bởi vì tôi đã thấy nó trong mình, và tôi sẽ quan sát nó thật rõ ràng, với một dấu hiệu nào đó gây hại cho bất kỳ ai tôi yêu mến, tôi sẽ chết!"
    "Bà sẽ không tự kết liễu chính mình chứ?" ông ta hỏi, khàn giọng.
    "Tôi sẽ. Nếu như không có một người bạn nào yêu thương tôi, bảo vệ tôi trước một nỗi đau khổ, trước một nỗ lực tuyệt vọng đến thế!" Nàng nhìn ông ta đầy ý nghĩa trong khi nói.
    Ông ta đang ngồi, nhưng bây giờ ông đứng dậy, tiến đến gần nàng, và đặt tay mình lên vai nàng khi ông nói một cách trịnh trọng. "Con ta, có một người như thế đang ở đây cho những điều tốt đẹp dành cho con. Cho chính mình ta có thể giữ những điều giao ước với Chúa để mang đến một cái chết không đau đớn như vậy cho con, thậm chí trong cái lúc mà điều đó là điều tốt nhất. Không, nó sẽ rất an tòan! Nhưng con tôi..."
    Trong một thóang ông như nghẹn lại, và một tiếng nức nở lớn cuộn lên trong cổ họng ông. Ông nuốt nó xuống và tiếp tục. "Ở đây có một số người đang đứng giữa con và cái chết. Con không được chết. Con không được chết bởi bất kỳ chuyện gì, tệ nhất là cho tất cả những gì của con. Cho đến khi cái tên kia, kẻ đã làm nhơ nhuốc cuộc sống êm dịu của con, có được một cái chết thật sự mà con sẽ không vướng phải.
    Còn nếu hắn vẩn là một kẻ Chưa Chết nhanh nhẹn, cái chết của con sẽ thậm chí làm cho con giống như hắn. Không, con phải sống! Con phải vật lộn và phấn đấu để được sống, dù rằng cái chết đã trở nên giống như một ân huệ không thể nói ra. Con phải chiến đấu với chính tên Thần Chết ấy, dù hắn đến với con trong đau khổ hay vui sướng. Dù ngày hay đêm, dù an tòan hay hiểm nguy! Cho linh hồn còn sống của con ta yêu cầu con không được chết. Không, không được nghĩ đến cái chết, cho đến khi tên quái vật ghê gớm kia chỉ còn là quá khứ."
    Cô gái tội nghiệp thân yêu trở nên trắng bệch như xác chết, run rẩy và rùng mình, như tôi thấy vũng cát lún run rẩy và trăn trở trong những đợt sóng thủy triều. Tất cả chúng tôi đều im lặng. Chúng tôi không thể làm được gì. Cuối cùng nàng trở nên bình tĩnh, và quay về phía ông ấy, nàng nói dịu dàng, nhưng thật đau khổ, khi nàng nắm lấy tay mình, "Tôi hứa với ông. người bạn thân của tôi, rằng nếu Chúa để tôi sống, tôi sẽ phấn đấu để làm điều đó. Cho đến khi, đến khi thời điểm của Hắn đến, những điều khủng khiếp này sẽ rời khỏi tôi."
    Nàng thật là tốt đẹp và can đảm đến nỗi tất cả chúng tôi đều cảm thấy con tim mình được tiếp thêm sức mạnh để làm việc và chịu đựng với nàng, và chúng tôi bắt đầu thảo luận xem mình sẽ làm gì tiếp. Tôi nói với nàng rằng tất cả những giấy tờ của nàng đều được an toàn, và tất cả các giấy tờ hay nhật ký và các cuộn băng thu có thể chúng tôi sẽ phải dùng đến sau này, và vẩn tiếp tục ghi lại các tài liệu như nàng đã làm trước đây. Nàng có vẻ hài lòng với những chuyện này, nếu như "hài lòng" có thể dùng để nối kết một sự buồn bã đến thế với một niềm vui.
    Như thường lệ Van Helsing lại nghĩ đến mọi chuyện trước những người khác, và đã chuẩn bị với thứ tự chính xác các công việc của chúng tôi.
    "Nó có thể tốt đấy," ông ta nói "với cuộc gặp gỡ của chúng ta sau khi viếng thăm Canfax chúng ta quyết định không làm gì với những chiếc hộp đất nằm ở đấy. Chúng ta đã làm như vậy, và bác tước hẳn phải đoán được mục đích của chúng ta, và không nghi ngờ gì nữa, đã lo liệu sớm để làm thất bại một cố gắng tương tự về những chuyện như vậy. Nhưng bây giờ hắn không biết mục đích của chúng ta. Không những thế, hoàn toàn rất có thể là hắn không biết là chúng ta đã có những năng lực để làm triệt tiêu hoàn toàn những nòi giống của hắn, và hắn không thể dùng đến chúng như trước đây.
    "Chúng ta bây giờ phải làm việc nhiều hơn nữa để sắp xếp các kiến thức của chúng ta. Khi chúng ta kiểm tra ngôi nhà ở Piccadilly, chúng ta có thể dõi theo các dấu vết của chúng. Hôm nay là của chúng ta, và là những hy vọng cuối cùng của chúng ta.Mặt trời đang mọc trên những nỗi đau buồn của chúng ta và sẽ bảo vệ chúng ta khi nó còn chiếu sáng. Đến khi mặt trời lặn vào tối nay, con quái vật sẽ có thể phục hồi những gì mà nó có thể làm lúc này. Hắn đang bị giam hãm trong lốt vỏ trần tục.
    Hắn không thể hòa tan và trong không khí hay không thể biến mất qua các vết nứt, khe hở hay các vết nẻ. Nếu hắn muốn đi qua cửa, hắn vẩn phải mở cửa như một người thường. Vậy tất cả những gì chúng ta phải làm là săn đuổi tất cả các hang ổ của hắn và làm tiệt nọc chúng. Vì vậy chúng ta sẽ làm, nếu như chúng ta chưa kịp bắt và tiêu diệt hắn, thì chúng ta sẽ đẩy hắn vào một cái vịnh nơi mà việc mà chúng ta bắt và tiêu diệt hắn chỉ còn là vấn đề thời gian."
    Đến đây thì tôi đứng dậy bởi vì tôi không thể chịu đựng được ý nghĩ rằng những giây phút đang trôi vùn vụt qua là vô cùng quý giá cho cuộc sống của Mina, trong khi đó chúng tôi chỉ toàn nói những chuyện không làm được. Nhưng Van Helsing đã giơ tay ông lên cảnh cáo,
    "Không, bạn Jonathan," ông ta nói, "trong lúc này, con đường nhanh nhất đến dích là con đường xa nhất, như cách ngôn của các anh đã nói. Chúng ta sẽ làm và làm mọi việc với một tốc độ kinh khiếp, khi mà thời điểm đến. Nhưng hãy nghĩ đi, tất cả những gì có thể là chìa khóa cho chuyện này chính là ngôi nhà ở Piccadilly. Bá tước có thể đã mua thêm nhiều ngôi nhà khác. Hắn ta có thể có các văn bản mua bán, chìa khóa và những thứ khác của chúng. Hắn ta sẽ có nhiều giấy tờ mà hắn đã viết lên. Hắn ta sẽ có nhiều cuốn séc. Phải có nhiều thứ thuộc về hắn đang tồn tại đâu đó.
    Vì sao không tập trung vào điểm này thật tập trung, thật lặng lẽ, vào nơi mà hắn đến và đi, vào mọi lúc mọi thời điểm, khi mà cả một vùng giao thông rộng lớn sẽ không thể có một sự chú ý nào. Chúng ta sẽ đến và kiểm tra ngôi nhà. Và khi chúng ta biết được rằng nó chứa gì, thì chúng ta sẽ làm điều mà bạn Arthur đã nói, săn đuổi đến tận cùng trái đất' như cách nói của anh ta và chúng ta sẽ hạ con cáo già này, phải không? Điều đó không đúng sao?"
    "Vậy thì chúng ta đi ngay," tôi kêu lên, "chúng ta đang lãng phí những thời gian rất rất quý giá!"
    Giáo sư vẩn bất động, mà chỉ đơn giản nói, "Và làm thế nào chúng ta có thể đi vào trong căn nhà ở Piccadilly?"
    "Bằng mọi cách!" tôi kêu lên. "Chúng ta sẽ bẻ khóa nếu cần."
    "Thế còn cảnh sát nước anh? Họ sẽ làm gì và họ sẽ nói gì?"
    Tôi khựng lại, nhưng tôi biết rằng nếu ông ta muốn chậm lại thì hẳn ông ta có lý do chính đáng. Vì vậy tôi nói, với tất cả sự bình thản mà tôi có thể có được. "Đừng chờ đợi nhiều hơn cần thiết. Tôi chắc rằng ông biết sự hành hạ mà tôi đang phải chịu đựng."
    "Và, con trai ta, cũng là cái mà ta đang chịu đựng. Và thật sự ra, tôi không muốn làm tăng thêm nỗi đau khổ của anh. Nhưng chỉ cần suy nghĩ những gì chúng ta có thể làm, đến khi tất cả mọi thứ đều sẳn sàng. Và đó là thời điểm cho chúng ta. Tôi đã nghĩ và nghĩ, và đối với tôi, có vẻ như cách đơn giản nhất lại tốt hơn hết. Nào chúng ta muốn vào nhà, nhưng chẳng có chìa khóa. Có phải thế không?" Tôi gật đầu.
    "Nào, hãy giả sử rằng, nếu như trong thực tế anh chính là người chủ của ngôi nhà và không thể đi vào nhà. Và vì anh không có lòng dạ nào để bẻ khóa, thì anh sẽ làm gì?"
    "Tôi sẽ gọi đến một người thợ sữa khóa và yêu cầu anh ta mở khóa cho tôi?"
    "Và cảnh sát có can thiệp hay không?"
    "Ồ không! Ông nếu họ biết rằng người kia đang được thuê làm."
    "Vậy thì" ông ta nhìn tôi thật dịu dàng khi cất tiếng, "tất cả còn lại để nghi ngờ chỉ còn là vấn đề lương tâm của người được thuê, và niềm tin của những nhân viên cảnh sát kia sẽ dựa trên việc người được thuê ấy có một lương tâm tốt hay xấu. Những nhân viên cảnh sát của các anh hẳn là những người nhiệt tình và thông minh, rất thông minh để đọc thấu tâm can người, và họ hẳn sẽ làm bối rối chính mình trước một vấn đề như vậy.
    Không, không, bạn Jonathan của tôi, bạn đã mở khóa hàng trăm căn nhà trống rỗng ở London, và ở bất kỳ thành phố nào trên thế giới, và nếu anh làm lại điều đó một cách thành thạo thì sẽ không ai can thiệp. Tôi có đọc về một người tử tế sở hữu một căn nhà tuyệt đẹp ở London, và khi anh ta đi nghỉ hè hàng tháng ở Thụy Sĩ và khóa cửa nhà, một tên trộm đã đột nhập và bẻ khóa cửa sổ phía sau rồi vào nhà. Sau đó hắn đi ra, mở cửa chớp phía trước và đi ra bằng cửa này, trước những đôi mắt chăm chú của cảnh sát. Đoạn hắn bắt đầu rao bán đấu giá căn nhà, quảng cáo nó, dán những thông báo lớn.
    Và đến ngày nọ hắn đã bán được bởi một tổ chức đấu giá lớn tất cả những đồ đạc của cái người chủ thực sự ngôi nhà kia. Sau đó hắn đến chỗ công ty xây dựng, bán căn nhà, tạo ra một bản thỏa thuận trong đó chính hắn ký tên vào và mang đi trong tất cả những lúc cần thiết. Còn cảnh sát của các anh và những người có trách nhiệm khác giúp đỡ hắn tất cả những gì hắn cần.
    Và đến khi người chủ căn nhà trở về sau kỳ nghỉ ở Thụy Sĩ thì anh ta chỉ thấy một cái lỗ lớn ở cái nơi mà trước đây căn nhà của anh ta ở đó. Tất cả đã được làm đúng luật, và công việc mà chúng ta sắp làm cũng sẽ đúng luật. Chúng ta sẽ không đi quá sớm để những người cảnh sát phải để ý, và sẽ lấy làm lạ. Mà chúng ta sẽ đi sau mươi giờ, khi mà đường phố đã đông người, và chúng ta sẽ làm những chuyện như thể chúng ta thực sự là chủ ngôi nhà."
    Tôi không thể không nhận thấy là ông ta nói đúng và nỗi sợ hãi khủng khiếp trên khuôn mặt của Mina đã nhanh chóng chuyển dần thành sự thư giãn trầm lặng. Hy vọng đã được thắp lên bởi con người dẩn đầu tài giỏi này.
    Van Helsing tiếp tục, "Khi đã vào nhà chúng ta có thể tìm thấy thêm các điều chỉ dẩn khác. Dù sao đi nữa thì một số trong chúng ta có thể ở lại đây trong khi những kẻ còn lại sẽ tìm ở những nơi khác nơi có thể có những cái thùng đất khác, ở Bermondsey và Mile End."
    Huân tước Godalming đứng dậy. "Tôi có những thứ có thể dùng được. Tôi sẽ đánh điện nói người của tôi chuẩn bị ngựa và mang đến những nơi thích hợp nhất."
    "Nghe đây, bạn già" Morris nói, "ý tưởng chính là làm cho tất cả đều sẳn sàng trong trường hợp muốn đi ngựa, nhưng cậu đừng nghĩ rằng những con ngựa lộng lẫy với những huy hiệu trang trí của cậu trên những con đường đến Walworth hay Mile End sẽ khiến cho chúng tớ cảm thấy hấp dẩn với những mục đích mà bọn ta đang theo đuổi. Theo tớ thì chúng ta nên đi xe trạm khi chúng ta đi xuống miền Nam hay miền Đông. Và thậm chí chúng ta có thể để họ lại nơi nào đó lân cận với nơi mà chúng ta sẽ đến."
    "Bạn Quincey nói đúng!" giáo sư nói. "Anh ta đã nhìn thấy được mọi việc. Chúng ta đang làm một việc khó khăn, và chúng ta không nên để người khác có nhiều cơ hội nhìn thấy chúng ta."
    Mina đã có một cái nhìn tươi tỉnh hơn đối với mọi vật và tôi hãnh diện khi nhận thấy tính khẩn cấp của sự việc đã giúp nàng quên đi khỏang thời gian khủng khiếp đã phải chịu đựng trong đêm. Nàng trông rất, rất xanh xao, gần như trắng bệch, và đôi môi nàng đã khô nứt ra, làm đôi hàm răng trắng của nàng như đang có vẻ nhô lên. Tôi không nói lên điều này, hầu tránh cho nàng những nỗi đau không cần thiết, nhưng nó khiến cho máu trong huyết quản của tôi như đông lại khi nghĩ đến những điều đã xảy ra cho Lucy tội nghiệp lúc bá tước hút máu nàng. Lúc này thì vẩn chưa có dấu hiệu nào cho thấy đôi hàm răng ấy trở nên sắc bén hơn, nhưng thời gian thì qua rất nhanh, và không có thời gian để sợ nữa.
    Khi chúng tôi đi thảo luận về trình tự những công việc cần làm, về việc sắp xếp những nỗ lực của mình, thì lại nảy sinh những điều tranh cãi mới. Cuối cùng thì mọi người đồng ý rằng trước khi bắt đầu ở Piccadilly, chúng tôi sẽ triệt phát cái hang ổ gần bên của bá tước bằng tay. Trong trường hợp hắn phát hiện ra điều đó sớm, chúng tôi vẩn vượt lên trước hắn bằng sự tàn phá của mình. Và khi đã làm giảm đi sự hiện diện vật chất của hắn, ở điểm yếu nhất của hắn, có thể sẽ cho chúng tôi thêm một số sự gợi ý mới.
    Để bắt đầu những nỗ lực của nhóm, giáo sư đề nghị rằng sau khi chúng tôi đến Carfax, cả bọn chúng tôi nên vào ngôi nhà ở Piccadilly. Tôi nên cắt hai bác sĩ đến đó, trong khi Huân tước Godalming và Quincey thì sẽ tìm những hang ổ ở Walwork và Mile End để tiêu diệt nó. Giáo sư nêu ra một vấn đề có thể xảy ra rằng bá tước có thể xuất hiện ở Piccadilly trong ngày hôm đó, và nếu vậy thì thì chúng tôi có sẽ phải bất chợt đương đầu với hắn.
    Đó là một vấn đề mà tôi tích cực chú ý, và đến lúc này tất cả sức lực của tôi đã tập trung lại, tôi nói rằng tôi muốn ở lại và bảo vệ Mina. Tôi nghĩ rằng ý nghĩ của tôi sẽ giải quyết được vấn đề, nhưng Mina không muốn nghe đến điều này. Nàng nói rằng có thể sẽ có một số vấn đề về luật pháp mà tôi có thể hữu dụng. Giữa những giấy tờ các loại của bá tước có thể có một số chỉ dẩn mà tôi có thể lần ra từ những kinh nghiệm của mình ở Transylvania. Và nếu mọi chuyện diễn ra như vậy, chúng tôi có thể tập trung tất cả sức mạnh của mình khi cần để đương đầu với năng lượng siêu nhiên của bá tước. Nàng nói rằng đó là hy vọng cuối cùng của nàng, và tất cả chúng tôi phải làm việc cùng nhau.
    "Đối với em," nàng nói, "em không sợ gì hết. Mọi thứ đã tệ đến mức có thể có rồi. Và dù bất kỳ cái gì có thể xảy ra phải chứa trong nó một chút gì để hy vọng hay an ủi. Hãy đi đi, chồng của em! Chúa có thể, nếu Người muốn, bảo vệ em trong lúc đơn độc cũng như lúc bên bất kỳ ai."
    Đến đây thì tôi bật khóc. "Vậy thì nhân danh Chúa, chúng ta hãy đi ngay, vì chúng ta đang làm mất thời gian. Bá tước có thể đến Piccadilly sớm hơn chúng ta nghĩ."
    "Không như vậy đâu!" Van Helsing nói, khoanh tay lại.
    "Nhưng vì sao?" tôi hỏi.
    "Anh quên rằng," ông nói, với một nụ cười tự tin, "rằng đêm qua hắn đã có một bữa tiệc no nê, và sẽ ngủ trễ à?"
    Tôi mà quên ư! Tôi sẽ không bao giờ... không bao giờ có thể! Làm sao mà bất kỳ ai trong chúng ta có thể quên được thảm cảnh khủng khiếp vừa qua! Mina rung lên trong cố gắng giữ vẻ can đảm, nhưng cơn đau xót đã chế ngự được nàng và nàng đưa tay lên trước mặt, và khẽ rùng mình khi nàng rên lên. Van Helsing không muốn gợi lại cho nàng những chuyện khủng khiếp này. Ông ta chỉ đơn giản là không chú ý đến nàng và phần của nàng trong việc này trong những nỗ lực trí óc của ông.
    Khi ông nhận thức được điều này sau khi nói, ông hỏang hốt vì sự bất cẩn của mình và cố an ủi nàng.
    "Ôi, bà Mina," ông ta nói, "bà Mina thân, thân yêu, than ôi! Tại tôi tất cả, kẻ đã rất sùng kính bà lại nói ra những điều đáng quên đi như vậy. Đôi môi già nua ngu ngốc này của tôi và cái đầu lão ngu xuẩn này không đáng được như vậy đâu, nhưng bà hãy quên nó đi, được không nào?" Ông ấy cúi xuống chỗ nàng khi ông nói.
    Nàng đua tay lên, nhìn ông qua những dòng lệ mờ, và nói khản đặc, "Không, tôi sẽ không quên, bởi vì nó vô cùng đáng cho tôi nhớ lấy. Với nó tâm khảm tôi sẽ luôn tràn ngập một điều rằng ông thật là đáng yêu, và đó là tất cả những gì tôi sẽ nhớ. Nào, mọi người phải đi nhanh lên. Bữa sáng đã sẳn sàng, và tất cả chúng ta phải ăn vì chúng phải khỏe mạnh."
    Bữa sáng thật là một bữa ăn lạ cho tất cả chúng tôi. Chúng tôi cố khuyến khích và động viên lẩn nhau, và Mina là người tươi tỉnh và vui vẻ nhất trong số chúng tôi. Khi tất cả đã xong, Van Helsing đứng dậy và nói, "Bây giờ, hỡi các bạn thân yêu của tôi, chúng ta phải tiến đến những khó khăn khủng khiếp phía trước. Tất cả chúng ta đều đã vũ trang trong cái đêm đầu tiên mà chúng ta đến thăm hang ổ của kẻ thù. Hãy vũ trang lần nữa để đương đầu về cả tinh thần lẩn thể xác chứ?"
    Chúng tôi đồng ý với ông ta.
    "Thế thì tốt lắm. Nào, bà Mina, dù thế nào bà cũng sẽ an tòan đến tận hòang hôn,. Và trước khi đó chúng tôi sẽ trở về... nếu... Chúng tôi sẽ trở về! Nhưng trước khi đi hãy để tôi được trông thấy bà đã được bảo vệ trước mọi cuộc tấn công. Tôi đã có cho riêng mình những thứ mà khi bà đi ngủ, bà nên chuẩn bị căn phòng mình bằng đặt chúng, những thứ mà ta đã biết để Hắn không thể vào. Bây giờ để tôi được bảo vệ đích thân bà. Tôi sẽ chạm vào trên trán bà một mẩu Bánh Thánh nhân danh Cha, Con và...
    Rồi một tiếng thét vang lên làm những trái tim của chúng tôi lần lượt như đông cứng cả lại. Khi ông ấy chạm Bánh vào trán Mina, nó đã héo quắt đi nó... cháy bùng vào da thịt như thể đó là một miếng kim loại nóng trắng. Bộ não yêu thương tội nghiệp của nàng nói cho nàng biết ý nghĩa của sự kiện ấy nhanh như khi thần kinh của nàng cảm nhận được sự đau đớn, và cả hai thứ đó đã đánh quỵ nàng, đã vượt trên bản năng tự nhiên khiến tiếng thét hãi hùng ấy bật lên.
    Nhưng lời nói trở về với tâm tưởng của nàng rất nhanh. Tiếng vọng của câu thét vẩn còn chưa dứt, nó vẩn còn reo vang trong không khí bởi những sự phản xạ âm thì nàng đã quỵ gối xuống trên sàn nhà với sự đau đớn trong tủi nhục. Phủ tóc xuống che kín mặt, như một người bệnh phong kéo áo chòang, nàng khóc thét lên.
    "Bẩn thỉu! Xấu xa! Thậm chí cả Đấng Tối Cao cũng xa lánh da thịt ô uế của tôi! Tôi phải chịu đựng cái dấu hiệu đáng hổ thẹn này trên trán mình cho đến tận Ngày Phán Xét."
    Tất cả đều khựng lại. Tôi buông mình xuống bên nàng trong nỗi đau khổ tuyệt vọng, và vòng tay siết chặt lấy nàng. Trong vài phút những trái tim tràn đầy đau khổ của chúng tôi cùng hòa nhịp đập, còn những người bạn đứng quanh chúng tôi quay đi khi những dòng lệ của họ lặng lẽ tuôn rơi. Rồi Van Helsing quay lại và nói thật dũng cảm. Dũng cảm đến mức tôi không thể cảm thấy rằng ông ta đang cố gắng truyền cảm hay nói bằng những gì không thuộc con người ông.
    "Rất có thể là bà sẽ phải chịu đựng dấu hiệu này đến tận cái ngày mà Chúa chính ngài thấy nó. Chắn chắn Ngài sẽ sữa chữa lại tất cả những lỗi lầm trên Trái Đất này mà các con cháu Ngài đã phạm phải trong Ngày Phán Xét. Và ồ, bà Mina, con thân yêu, con yêu, ở đây con có thể thấy là tất cả chúng ta những người yêu thương con đều có mặt ở đây để được nhìn thấy cái lúc mà cái dấu hiệu đỏ này, dấu hiệu ấn chứng những kiến thức của Chúa, sẽ tan biến đi, để lại vầng trán của con tinh khiết như chính trái tim của con mà chúng ta đều biết rõ.
    Chắc chắn khi chúng ta còn sống, cái dấu hiệu kia sẽ tan biến đi khi Chúa thấy phải nhấc đi cái gánh nặng đặt lên chúng ta. Đến khi nào chúng ta vẩn còn mang trên người Thánh Giá của chúng ta, khi mà Con Của Người vẩn tuân theo những Ý Nguyện Của Người. Có thể rằng chúng ta đã được lựa chọn làm những công cụ thực hiện những ý định tốt đẹp của Người, và chúng ta sẽ đi theo mệnh lệnh của Người, dù rằng phải vượt qua bao khổ đau và hổ thẹn. Vượt qua nước mắt và máu. Vượt qua nghi ngờ và sợ hãi và tất cả làm nên sự khác biệt giữa Chúa và con người."
    Trong lời nói của ông ấy có niềm hy vọng và sự an ủi. Và chúng tạo nên sự chịu đựng. Mina và tôi cùng cảm thấy thế, và đồng thời chúng tôi mỗi người đều cầm lấy tay người đàn ông già và cúi hôn lên đấy. Rồi không nói thêm một lời tất cả chúng tôi đều quỳ xuống, nắm lấy tay nhau, chúng tôi cũng thề sẽ trung thực với nhau. Chúng người đàn ông sẽ tự mình nâng tấm màn u ám đang bao phủ trong tim nàng, người mà tất cả chúng tôi đều yêu thương theo cách của mình.
    Và chúng tôi đều cầu nguyện để được giúp đỡ và che chở trong cái nhiệm vụ kinh khiếp đang đặt ra trước mặt mình. Đã đến lúc khởi hành. Và tôi nói lời chia tay với Mina, một cuộc chia ly mà không một ai trong chúng tôi có thể quên được cho đến tận cuối đời, và chúng tôi khởi hành.
    Có một điều mà tôi đã xác quyết trong tâm tưởng của mình. Nếu chúng tôi thấy Mina cuối cùng phải trở thành ma cà rồng, thì nàng sẽ không dấn thân vào vùng đất bí ẩn kinh khiếp ấy một mình. Tôi nghĩ đến điều đó vì trong thời cổ một ma cà rồng có nghĩa là nhiều. Chỉ khi mà thân xác kinh khiếp của chúng có thể yên nghỉ trong đất mẹ linh thiêng, thì chỉ có những tình yêu thần thánh nhất mới có thể phục hồi họ khỏi vị thứ hãi hùng đó.
    Chúng tôi đến Carfax mà chẳng gặp rắc rối gì mà bắt đầu tìm tất cả những gì trông giống như cơ hội đầu tiên.
    Thật khó mà tin rằng giữa tất cả những thứ chán ngắt được bao phủ bởi những lớp bụi hờ hững và đổ nát này lại là nguồn gốc cho cái điều khủng khiếp mà chúng tôi đã biết. Tâm trí chẳng gợi lại cho chúng tôi điều gì, và cũng chẳng có kỷ niệm kinh khiếp nào thúc đẩy chúng tôi, chúng tôi thật sự gặp khó khăn trong tiến hành công việc. Chúng tôi không tìm thấy một giấy tờ nào, hay là chẳng có dấu hiệu nào có thể dùng được trong nhà. Và trong ngôi nhà thờ cổ những cái hộp lớn vẩn giống như lần cuối chúng tôi nhìn thấy nó trước đây.
    Bác sĩ Van Helsing trịnh trọng nói với khi chúng tôi đứng trước mặt ông, "Và bây giờ, các bạn tôi, chúng ta có bổn phận phải làm ở đây. Chúng ta phải tẩy uế nơi này, phải làm linh thiêng lại chốn kỷ niệm thần thánh này, cái nơi mà hắn đã từ một nơi xa xôi đến làm cho xuống cấp như vậy. Hắn chọn vùng đất này bởi vì nó đã từng là một nơi linh thiêng. Vì thế chúng ta sẽ tiêu diệt hắn bằng chính vũ khí của hắn, chúng ta sẽ làm cho nơi này vẩn tiếp tục linh thiêng. Nó vốn đã được thần thánh hóa bởi bàn tay con người, giờ chúng ta sẽ làm cho nó được thần thánh hóa nhân danh Chúa."
    Khi ông nói, ông lấy từ trong túi ra một cái vit và vặn mạnh, rồi nắp của một cái hộp nhanh chóng bật lên. Đất trong hộp có mùi mốc và ngột ngạt, nhưng chúng tôi không thấy có gì đáng chú ý, nên tất cả sự chú ý của chúng tôi lại tập trung về phía giáo sư. Ông lấy từ trong hộp ra một mẫu Bánh Thánh và đặt nó cung kính lên dất, và rồi ông đóng nắp và bắt đầu đóng đinh, chúng tôi giúp ông làm.
    Chúng tôi lần lượt làm như vậy với mỗi cái hộp lớn, và rời đi khi thấy đã làm xong với tất cả các hộp. Nhưng mỗi cái hộp đó là để lại cho Chủ Nhà. Khi chúng tôi đóng cổng lại sau lưng, giáo sư nói trịnh trọng, "Chúng ta đã làm được nhiều việc. Nếu chúng ta có thể thành công như vậy với những nơi khác, thì ánh mặt trời của buổi hòang hôn hôm nay có thể rọi trên vầng tráng trắng như ngà của bà Mina mà chẳng thấy một vết nhơ nào."
    Khi chúng tôi băng qua bãi cỏ trên đường ra ga đón xe lửa thì chúng tôi thấy mặt trước của viện điều dưỡng.
    Tôi nhìn hăm hở và từ cửa sổ phòng mình tôi nhìn thấy Mina. Tôi vẫy tay với nàng, và gật đầu để nói rằng công việc của chúng tôi đã thành công tốt đẹp. Nàng gật đầu lại để nói rằng nàng đã hiểu. Lần cuối cùng tôi thấy nàng đang vẫy tay tạm biệt. Chúng tôi bước đến sân ga với trái tim trĩu nặng và chúng tôi bước lên sàn với nghị lực của mình. Tôi viết những dòng này trên xe lửa.
    Piccadilly, 12:30. Ngay trước khi chúng tôi đến đường Fenchurch, huân tước Godalming nói với tôi, "Quincey và tôi sẽ tìm thợ khóa. Tốt hơn ông đừng đi với chúng phòng khi có gì khó khăn. Dù như thế nào đi nữa sẽ không có gì quá tệ cho chúng tôi khi phải đột nhập vào ngôi nhà trống. Nhưng ông là luật sư và người ta có thể nói rằng ngài nên hiểu biết tốt hơn về Luật Đòan Thể Xã Hội."
    Tôi nghiêm trang nói rằng tôi không sợ chia xẻ nguy hiểm cũng như sự dè bĩu, nhưng ông ấy đã tiếp tục, "Ngòai ra, ít người thì sẽ ít gây chú ý hơn. Chức danh của tôi sẽ khiến mọi việc diễn ra ổn thỏa với người thợ khóa, và với bất kỳ người cảnh sát nào có thể chợt đến. Tốt hơn ngài nên đi với Jack và giáo sư để đợi ở Công Viên Xanh. Đâu đó trong phạm vi có thể theo dõi ngôi nhà, và khi ngài thấy cửa mở và người thợ khóa đi rồi, thì mọi người hãy đi vào. Chúng tôi sẽ để ngỏ cửa cho các bạn, và đợi các bạn vào."
    "Lời khuyên tốt!" Van Helsing nói, và chúng tôi không bàn thêm nữa. Godalming và Morris nhanh chóng lao đi bằng xe, và chúng tôi đi theo lối khác. Tại góc đường Arlington chúng tôi làm như tình cờ tản bộ vào Công Viên Xanh. Tim tôi đập mạnh khi tôi thấy ngôi nhà đang chứa đựng rất nhiều hy vọng của chúng tôi, lờ mờ và im lìm trong cái địa thế hoang vắng của nó giữa ngôi nhà hàng xóm trông sinh động và sạch sẽ hơn hẳn. Chúng tôi ngồi trên băng đá giữa một tầm nhìn thuận lợi, và bắt đầu hút xì gà, làm sao cho ít gây sự chú ý càng tốt. Những phút trôi qua nhưng những bước chân đeo chì khi chúng tôi chờ đợi những người còn lại đến.
    Cuối cùng chúng tôi thấy một xe bốn bánh đến. Ở bên ngòai, với dáng vẻ thong thả là Huân tước Godalming và Morris. Và đi xuống từ thân xe là một người đàn ông chắc nịch với chiếc túi dệt đựng đồ nghề. Morris trả tiền cho người đánh xe, anh ta đưa tay lên nón chào và đánh xe đi. Cả hai cùng bước xuống cầu thang và huân tước Godalming giải thích việc ông ta muốn làm. Người thợ khóa thong thả cởi áo khoác và treo nó lên một cái đinh trên lan can, nói điều gì đó với một người cảnh sát vừa tản bộ đến. Viên cảnh sát gầu ưng thuận, và người đàn ông cúi xuông đặt cái túi ra phía sau. Sau khi lục lọi, ông ta lựa chọn một số dụng cụ và đặt ra ngòai theo một thứ tự kiểu cách.
    Rồi ông đứng dậy, khi cái lỗ khóa, và thổi vào nó và quay sang người thuê ông ta, phác một ký hiệu. Huân tước Godalming mỉm cười, và người đàn ông lấy lên một chùm lớn những chìa khóa. Lựa chọn một trong số chúng, ông ta bắt đầu thăm dò cái khóa, và thử tìm cách xử lý nó. Sau khi dò dẫm một lúc ông thử sang cái thứ hai rồi đến cái thứ ba. Ngay tức khắc cánh cửa mở toang dưới cái đẩy nhẹ của ông ta, rồi ông cùng với hai người kia bước vào sảnh đường. Chúng tôi vẩn ngồi. Điếu xì gà của tôi được rít dữ dội, nhưng Van Helsinh vẩn lạnh như tiền. Chúng tôi kiên nhẫn ngồi đợi cho đến khi chúng tôi thấy người đàn ông kia đi ra và mang theo cái túi. Rồi ông ta giữ cánh cửa mở rộng, kềm chặt nó bằng đầu gối trong khi ông đặt khóa vào ổ. Cuối cùng ông đưa cho huân tước Godalming, ông này lấy ví ra và đưa cho ông ta cái gì đó. Người đàn ông đưa tay lên mũ, xách lấy túi bỏ vào trong áo khoác và bước đi. Chẳng có gì gây nên sự chú ý của tất cả chung quanh.
    Khi người đàn ông đã đi hẳn, cả ba chúng tôi băng qua đường và gõ cửa. Nó được mở ngay bởi Quincey Morris, đứng cạnh anh là huân tước Godalming đang đốt xì gà.
    "Nơi này trông có vẻ ghê tởm quá," huân tước nói khi chúng tôi bước vào. Thật sự trông nơi đây thật ghê tởm.
    Giống như cái nhà thờ cổ ở Carfax. Với kinh nghiệm trước đây chúng tôi dễ dàng nhận ra rằng bá tước tự do sử dụng chỗ này. Chúng tôi thám hiểm khắp ngôi nhà, và luôn giữ mình đề phòng mọi cuộc tấn công, vì chúng tôi biết mình đang đương đầu với một kẻ thù khỏe mạnh và hoang dại như thế nào, và chúng tôi không biết là bá tước đang có trong nhà hay không.
    Trong phòng ăn, nằm ở phía sau sảnh đường, chúng tôi thấy tám cái hộp đất. Chỉ có tám cái trong chín cái mà chúng tôi đang tìm kiếm. Công việc của chúng tôi chưa chấm dứt, và sẽ không bao giờ chấm dứt cho đến khi chúng tôi tìm thấy cái hộp bị mất.
    Trước tiên chúng tôi mở cửa chớp trên cửa sổ để nhìn xuyên qua khỏang đá hẹp ngay trước bề mặt trống trơn của trại ngựa, hướng đến một cái gì giống như phía trước của một ngôi nhà thu nhỏ. Không có cửa sổ trên nó và chúng tôi không sợ bị nhìn lén. Chúng tôi không để mất thời gian mà tìm kiếm lời giải cho câu đố ngay.
    Chúng tôi thấy rõ là bá tước không có trong nhà, và chúng tôi bắt đầu tìm kiếm mọi dấu vết của hắn.
    Sau khi liếc nhanh qua phần còn lại của căn phòng, từ nền móng đến gác mái, chúng tôi tiến đến kết luận rằng phòng ăn có thể chứa những dấu vết nào đó của bá tước. Và chúng tôi lập tức lục sóat nó. Chúng nằm trên chiếc bàn lớn trong phòng ăn theo một thứ tự lộn xộn.
    Ở đấy có các tiêu đề chứng thư về ngôi nhà ở Piccadilly xếp thành một đống lớn, chứng thư về việc mua bán các ngôi nhà ở Mile End và Bermondsey, các giấy tờ ghi chú, phong bì, bút và mực. Phủ trên tất cả chúng làm một tờ giấy bao giữ chúng khỏi bụi. Ở đây còn có bàn chải quần áo, bàn chải và lược, cái bình và cái chậu.
    Cái vật sau này chứa một vũng nước bẩn có màu thẩm đỏ như có pha máu. Cuối cùng của tất cả những thứ này là một đống nhỏ chìa khóa đủ loại, đủ kích cỡ, có thể thuộc về nhiều ngôi nhà khác nhau.
    Khi chúng tôi tìm thấy thứ sau cùng này, huân tước Godalming và Quincey Morris lấy những bản ghi chú chính xác về các địa chỉ của những ngôi nhà ở phía Đông và phía Nam, lấy những chìa khóa của chúng khỏi đống chìa khóa lớn, và bắt đầu đi triệt phá những cái hộp ở những nơi này. Những người còn lại trong chúng tôi ngồi lại, với tất cả sự kiên nhẫn mà chúng tôi có thể có, đợi họ quay về hoặc là sự xuất hiện của bá tước.





Trang 3/4 đầuđầu 1234 cuốicuối

Thread Information

Users Browsing this Thread

Hiện đang có 1 tv xem bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • Bạn không được quyền đăng bài
  • Bạn không được quyền trả lời bài viết
  • Bạn không được quyền kèm dữ liệu trong bài viết
  • Bạn không được quyền sửa bài
  •