Trang 2/4 đầuđầu 1234 cuốicuối
kết quả từ 9 tới 16 trên 28

Ðề tài: [TD] Bá Tước Dracula - Ác Quỉ Dracula

  1. #9
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default




    Chương 8

    NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY



    Cùng ngày, 11 giờ đêm. - Ôi, tôi mệt quá! Nếu như mọi việc không đến nỗi nào thì tôi đã khỏi phải mở nhật ký ra như thường lệ nữa. Chúng tôi đã đi đạo rất vui. Lucy, sau một lúc, đã trở nên vui vẻ, tôi nghĩ chắc là do mấy con bò đáng yêu trên cánh đồng gần ngọn hải đăng đã tiến lại gần chúng tôi làm chúng tôi chết khiếp.
    Tôi tin rằng chúng tôi đã quên đi mọi thứ, tất nhiên là trừ nỗi lo sợ riêng tư, mây mù dường như đã xua ta và trả lại cho chúng tôi bầu trời trong sáng. Chúng tôi đã dùng một bữa trà đơn giản' làm bữa ăn chính lại một quá ăn nhỏ cổ kính đáng yêu ở Vịnh Robin Hood, với một cánh cửa sổ phía bên phải trông ra một mỏm đá phủ đầy rong biển bền bờ biển. Tôi tin rằng chúng tôi đã khiến cho "Người Phụ Nữ Mới" phải bàng hòang trước vẻ ngon miệng của mình. Mọi người trong có vẻ dễ chịu quá, Chúa phù hộ cho họ! Rồi chúng tôi đi bộ về nhà, nhiều lần phải dừng lại nghỉ vì quá sợ những con bò đực hoang dã kia.
    Lucy có vẻ rất mệt, và chúng tôi đã định leo ngay lên giường ngay tức khắc. Nhưng một ông cha xứ trẻ đến, và cái cô Westenra ấy đã mời ông ta ở lại dùng bữa tối. Lucy và tôi đều khốn khổ về sự khó chịu này.Tôi biết rằng đây là một việc khó khăn cho tôi, và tôi rất xứng làm một anh hùng. Chắc là một lúc nào đó các giám mục phải đào tạo ra các cha phó mới không biết ăn bữa tối dù có cảm thấy thôi thúc như thế nào nữa, và luôn luôn biết lúc nào thì các cô gái trẻ mỏi mệt.
    Lucy đã ngủ và thở nhè nhẹ. Đôi má bạn ấy trông lúc ngủ lại càng thêm gợi cảm. Nếu anh Holmwood đã yêu bạn ấy khi chỉ thấy bạn ấy trong phòng khách, thì không hiểu anh ấy sẽ nói gì khi thấy bạn ấy lúc này. Sẽ có một ngày nào đó các nhà văn của "Người Phụ Nữ Mới" sẽ nảy ra ý tưởng là rằng những người đàn ông và phụ nữ hãy cho phép người khác ngắm mình trong giấc ngủ trước khi tỏ tình và chấp thuận.
    Nhưng những "Người Phụ Nữ Mới" sẽ chẳng chiếu cố đến những ý tưởng này đâu. Họ sẽ tự mình tỏ tình. Và họ cũng sẽ tự mình tìm lấy những nghề nghiệp thích hợp. Những ý nghĩ đó làm tôi vui lêm. Và tối nay tôi thật là vui, vì bạn Lucy yêu quý đã trông khá hơn. Tôi thật sự tin rằng bạn ấy đã vượt qua thời kỳ khó khăn, và chúng tôi không còn phải bận tâm về những giấc mơ của bạn ấy nữa. Tôi sẽ hạnh phúc hơn nếu như tôi có thể biết tin về Jonathan... Chúa phù hộ và giữ gìn cho anh.
    Ngày 11 tháng 8. - Tôi lại viết nhật ký. Lúc này vẩn chưa buồn ngủ, và tôi vẩn có thể viết. Tôi quá xúc động đến nổi không thể ngủ được. Chúng tôi vừa trải một cuộc phiêu lưu, trải qua những biến cố kinh hòang. Tôi ngủ thiếp đi ngay khi tôi vừa đóng nhật ký lại. Thình lình tôi bừng tỉnh, ngồi dậy với một cảm giác kinh hòang khiến tôi kinh sợ, bao quanh tôi là một cảm giác trống vắng. Căn phòng tối đen, và tôi không thể nhìn thấy giường của Lucy. Tôi lẻn sang giường Lucy và sờ tìm bạn ấy.
    Chiếc giường trống rỗng. Tôi bật diêm và thấy bạn ấy chẳng có trong phòng. Cửa đóng nhưng không khóa, giống như trạng thái tôi đã làm hồi hôm. Tôi không dám đánh thức mẹ bạn ấy, vì gần đây bà ấy đau ốm luôn. Vì vậy tôi quàng vội quần áo và cuống cuồng đi kiếm bạn ấy. Khi tôi rời khỏi phòng, thình lình tôi nảy ra ý nghĩ là những quần áo bạn ấy mặc sẽ gợi ý cho tôi biết nơi bạn ấy định đi trong giấc mơ. Áo chòang và quần áo của bạn ấy vẩn y như cũ. "Lạy Chúa," tôi tự nhủ, "bạn ấy không thể đi xa khi mà chỉ mặc quần áo ngủ như vậy."
    Tôi chạy vội xuống thang và nhìn vào phòng khách. Chẳng có ai! Rồi tôi tìm trong tất cả các căn phòng khác của căn nhà, với một nỗi sợ hãi càng lúc càng tăng làm tim tôi như thắt lại. Cuối cùng tôi chạy ra cửa chính và thấy nó đã mở ra. Cửa không mở rộng, nhưng không cài then. Mọi người trông nhà luôn cẩn thận kiểm tra cửa nẻo hàng đêm, và tôi sợ rằng bạn Lucy đã làm như vậy để ra ngòai. Không còn thời gian để nghĩ xem chuyển gì xảy ra nữa.Mỗi nỗi sợ hãi khủng khiếp mơ hồ đang chập chờn trong tôi.
    Tôi lấy một cái khăn chòang lớn và chạy vội ra. Đồng hồ điểm một giờ khi tôi ở Crescent, và chẳng trông thấy ai. Tôi chạy lên Nền Đất Phía Bắc, và cũng chẳng hề thấy tăm hơi của cái bóng trắng mà tôi đang trông đợi.
    Đứng trên cạnh của Vách Đá Phía Tây trên bờ đê tôi nhìn xuyên qua hải cảng về phía Vách Đá Phía Đông, trông sự hy vọng hoặc sợ hãi mà chính tôi cũng không phân định rõ, là sẽ trông thấy Lucy tại chỗ ngồi quen thuộc của chúng tôi.
    Đó là một đêm trăng tròn, sáng rực, với những đám mây đen dày trôi lượn, ném tòan bộ phong cảnh chìm vào một bức tranh phối cảnh giữa áng sáng và bóng tối khi chúng lướt qua. Trong một thóang tôi chẳng nhìn thấy gì, khi bóng đen của những đám mây phủ chung quanh nhà thờ Saint Mary và bao chung quanh nó. Khi những đám mây trôi qua, tôi có thể thấy cái tu viện hoang tàn đó lần lượt hiện ra, và ánh sáng trải ra thành một luồng hẹp sắc bén như một lưỡi gươm chuyển động xuyên qua khung cảng, soi sáng dần dần khu nhà thờ và nghĩa trang.
    Điều mong chờ của tôi đã không trở nên vô dụng, bởi vì, ngay tại chỗ mà chúng tôi thường dùng, ánh sáng bạc của mặt trăng đã rọi qua một hình người đang ngồi tựa xuống, trắng như tuyết. Mây trôi quá nhanh nên tôi chẳng nhìn thấy gì nhiều, vì ngay sau đó bóng tối đã phủ lên vùng sáng ngay tức khắc, nhưng lúc mà ánh sáng chiếu qua tôi thấy hình như là một bóng đen đứng phía sau chỗ mà cái bóng trắng kia đang ngồi và đang chồm lên nó. Nó là cái gì, người hay thú, tôi không thể khẳng định được.
    Tôi không thể đợi đến khi ánh sáng có lại thêm một lần nữa, mà lao như bay xuống các bậc đê, băng qua chợ cá để đến cây cầu, đó là con đường duy nhất để đến Vách Đá Phía Tây. Thị trấn dường như đã chết lặng, chẳng hề có một bóng người. Điều này làm tôi vui mừng, vì tôi không muốn ai nhìn thấy tình cảnh hiện nay của bạn Lucy tội nghiệp. Thời gian và khỏang đường dài như vô tận, đầu gối tôi run lên, hơi thở trở nên nặng nhọc khi tôi cố gắng leo lên những bậc thang dài vô tận của tu viện. Tôi phải cố đi nhanh, và những bước chân leo lên của tôi trở nên vô cùng nặng nề, những khớp nối trên cơ thể tôi dường như muốn bung cả ra.
    Khi lên đến đỉnh tôi có thể nhìn thấy tại chỗ ngồi quen thuộc của mình một cái bóng trắng, và lúc này tôi đã đến đủ gần để có thể phân biệt mọi vật trong tấm màn của bóng đêm. Không còn nghi ngờ gì nữa, có một vật gì đó, cao và đen đang chồm qua cái bóng trắng đang ngồi dựa kia. Tôi kêu lên trong hỏang hốt, "Lucy!Lucy!", rồi cái vật kia ngẩng đầu lên, từ chỗ mình tôi có thể thấy một khuôn mặt trắng và đỏ, đôi mắt lờ đờ.
    Lucy không trả lời, và tôi chạy vội về lối đi chính của nghĩa địa. Khi tôi đi vào thì nhà thờ đã nằm giữa tôi và chỗ Lucy ngồi, nên trong một thoáng tôi không thể nhìn thấy bạn ấy. Khi tôi nhìn thấy được bạn ấy trở lại thì những đám mây đã bay đi, ánh trăng sáng rực giúp tôi có thể nhìn thấy đang ngồi dựa đầu vào phía sau chỗ ngồi. Bạn ấy chỉ có một mình, không có dấu hiệu nào về một sinh vật sống chung quanh bạn ấy.
    Khi tôi cúi xuống xem xét bạn ấy, bạn ấy vẩn còn ngủ. Đôi môi của bạn ấy hé mở, và bạn ấy không thở nhẹ nhàng như thường lệ, mà là những hơi thở dài, nặng nhọc như muốn hít đầy không khí vào phổi mình sau mỗi nhịp thở. Khi tôi đến gần, bạn ấy giơ tay lên trong giấc ngủ và kéo cổ áo ngủ lại như thể đang cảm thấy lạnh. Tôi tung cái khăn chòang lên phủ ấm,buộc kín lại quanh cổ bạn ấy. Tôi sợ rằng bạn ấy sẽ gặp phải những sự nguy hiểm chết người khi đi ra ngòai mà không mặc đủ ấm trong đêm trăng lạnh lẽo này.
    Tôi chưa dám đánh thức bạn ấy lại vào lúc này, vì muốn tay mình được rảnh để giúp đỡ bạn ấy. Tôi vội vã quàng cái khăn chòang quanh cổ họng bạn ấy và cài lại thành bằng một cái ghim băng lớn. Nhưng do quá bối rối, tôi trở nên vụng về nên hình như là quẹt phải hay đâm phải nó vào bạn ấy, và ngay lúc đó, khi hơi thở của bạn ấy đã trở nên dịu hơn, bạn ấy giơ tay lên họng mình một lần nữa và khẽ rên rỉ. Khi tôi đã cẩn thận phủ ấm đầy đủ cho bạn ấy, tôi đi đôi giầy của tôi vào chân bạn ấy rồi bắt đầu dịu dàng đánh thức bạn ấy dậy.
    Đầu tiên bạn ấy không trả lời, nhưng dần dần bạn ấy càng trở nên khó chịu hơn trong giấc ngủ, thỉnh thoảng lại rên rĩ và thở dài. Cuối cùng, do thời gian trôi nhanh cùng nhiều lý do khác, tôi lắc mạnh bạn ấy cho đến khi bạn ấy mở mắt và tỉnh dậy. Hình như bạn ấy không ngạc nhiên lắm khi thấy tôi, và tất nhiên bạn ấy chưa nhận ra được ngay là mình đang ở đâu.
    Lucy luôn luôn có những cử chỉ duyên dáng, và thậm chí ngay lúc bấy giờ, khi mà cơ thể bạn ấy vẩn còn run rẩy vì cái lạnh, tâm trí bạn ấy phần nào hoảng loạn khi nhận ra mình đang đi trên nghĩa địa trong đêm mà chỉ mặc đồ ngủ, bạn ấy vẩn không mất đi vẻ duyên dáng của mình. Bạn ấy thóang rùng mình, rồi ôm chặt lấy tôi. Khi tôi nói với bạn ấy phải trở về nhà ngay với tôi, bạn ấy đứng dậy mà không nói lời nào, ngoan ngõan như một đứa trẻ. Khi chúng tôi đi, sỏi cứa vào chân tôi, và Lucy nhận thấy tôi nhăn mặt.
    Bạn ấy dừng lại, khăng khăng đòi tôi phải đi lại giày của mình, nhưng đừng hòng tôi nghe theo. Tuy nhiên, khi chúng tôi đi ra khỏi khu nghĩa địa, có một vũng nước nhỏ còn lại sau cơn bão, tôi nhúng chân tôi vào bùn, chân này rồi chân kia, do vậy khi chúng tôi đi về nhà thì không có ai, nếu như chúng tôi có gặp ai đó, có thể nhận ra là tôi đang đi chân không.
    Vận may mỉm cười với chúng tôi, và chúng tôi về đến nhà mà chẳng gặp một ai cả. Có một lần chúng tôi thấy một người có vẻ như đang say rượu đi một mình trên đường phía trước chúng tôi. Nhưng chúng tôi trốn sau một cánh cửa cho đến khi anh ta biến mất trong một ngõ hẻm đâu đó, gần với chỗ vách đứng mà người Scotland gọi là "wynds". Tim tôi đập mạnh đến nỗi có những lúc tôi nghĩ mình sẽ quị mất. Tôi rất lo cho Lucy, không chỉ là chuyện sức khỏe của bạn ấy sẽ bị tổn hại như thế nào, mà còn làm sao cho chuyện này đừng để bị lộ, nếu không thì danh dự của bạn ấy sẽ gặp rắc rối với những kẻ ngồi lê đôi mách. Khi chúng tôi về đến nhà và đã rửa chân, chúng tôi cùng nhau cầu nguyện tạ ơn chúa, và tôi giục bạn ấy lên giường. Trước khi ngủ bạn ấy đã yêu cầu, thậm chí van nài tôi đừng nói một lời nào về chuyến phiêu lưu này với bất cứ ai, thậm chí với mẹ bạn ấy.
    Đầu tiên tôi do dự trước khi hứa, nhưng tôi nghĩ đến tình trạng ốm đau hiện nay của mẹ bạn ấy, và những câu chuyện như thế này sẽ làm bà rất phiền muộn, và ngòai ra câu chuyện này sẽ còn bị bóp méo bởi những lời xuyên tạc khi nó được đồn đại ra ngòai. Tôi nghĩ không để lộ nó ra là một hành động khôn ngoan. Tôi hy vọng tôi đã làm đúng. Tôi khóa cửa và buộc chìa khóa vào cổ tay mình, do đó có thể tôi sẽ không còn bị xáo trộn nữa. Lucy đã ngủ say. Ánh bình minh đã phản chiếu từ trên cao ở ngòai biển khơi xa thẳm.
    Cùng ngày, sáng sớm. - Mọi việc đều tốt đẹp. Lucy ngủ cho đến khi tôi đánh thức bạn ấy dậy và chẳng tỏ ra có gì khác lạ. Cuộc mạo hiểm đêm qua hình như chẳng có hại gì cho bạn ấy, ngược lại nó còn có lợi cho bạn ấy, vì vào sáng nay bạn ấy trông khá hơn cả tuần qua. Tôi rất tiếc khi nhận thấy sự vụng về của mình với cái cây ghim băng đã làm bạn ấy bị thương. Thật ra mọi việc có thể trở nên nghiêm trọng, vì làn da trên cổ họng bạn ấy bị trầy. Chắc là tôi đã chạm cây ghim băng vào một cùng da non và đâm xuyên qua nó, nên bây giờ có hai chấm đỏ giống như vết kim châm và trên dải băng áo ngủ của bạn ấy có vết một giọt máu. Khi tôi xin lỗi và lo lắng về điều này, bạn ấy cười phá lên và giả vờ giận dỗi tôi, nói rằng bạn ấy chẳng cảm thấy gì hết. Cũng may là vết thương này sẽ không để lại sẹo, vì nó nhỏ tí ti.
    Cùng ngày, ban đêm - Chúng tôi trải qua một ngày đầy vui vẻ. Không khí thóang đãng, mặt trời lên cao, và những cơn gió lạnh. Chúng tôi ăn trưa ở Rừng Mulgrave, bà Westenra đi bằng xe lửa, còn Lucy và tôi đi bộ qua lối đi ở vách đá và gặp bà ở ga. Tôi cảm thấy buồn cho mình, vì không có được cảm giác hạnh phúc tuyệt đối khi có anh Jonathan bên mình. Nhưng thôi nào! Tôi phải kiên nhẫn mới được. Đến buổi chiều chúng tôi đi dạo ở Lối Đi Sòng Bài, nghe một buổi hòa nhạc rất hay của Spohr và Mackenzie, rồi đi ngủ sớm. Lucy có vẻ mệt hơn thường lệ và bạn ấy ngủ ngay. Tôi khóa lại cửa và cẩn thận giữ lại chìa khóa như đêm trước, dù tôi cho rằng tối nay sẽ chẳng có rắc tối nào.
    Ngày 12 tháng 8. - Những điều tiên đóan của tôi đã sai lầm, vì hai lần tôi bị đánh thức trong đêm khi Lucy tìm cách ra ngòai. Mặc dù bạn ấy đang ngủ, bạn ấy thậm chí đã tỏ ra bực dọc khi phát hiện ra cửa bị khóa và trở về giường một cách vùng vằng. Tôi thức dậy vào lúc bình minh, lắng nghe tiếng chim hót ngòai cửa sổ. Lucy cũng thức dậy và tôi vui mừng khi thấy bạn ấy thậm chí trông còn khá hơn hôm qua. Tất cả những nét vui tươi quen thuộc đã trở lại với bạn ấy, bạn ấy đi qua và xích lại gần tôi, rồi nói với tôi mọi điều về Arthur. Tôi cũng nói với bạn ấy những điều phiền muộn của mình về chuyện anh Jonathan và bạn ấy tìm cách an ủi tôi. Trong một chừng mực nào đó thì bạn ấy cũng thành công, vì dù sự thông cảm không thể giải quyết được vấn đề, nó cũng làm cho con người thêm sức chịu đựng.
    Ngày 13 tháng 8. - Lại một ngày khác lặng lẽ trôi qua, và tôi đi ngủ với chiếc chìa khóa buộc chặt ở cổ tay như trước. Một lần nữa tôi lại thức dậy trong đêm, và thấy Lucy đang ngồi dậy trên giường, vẩn đang ngủ, hướng về phía cửa sổ. Tôi nhẹ nhàng ngồi dậy, kéo tấm màn qua một bên và nhìn ra. Trăng sáng rực rỡ, và ánh trăng dịu dàng trải rộng trên bầu trời và biển cả trộn lẩn cùng điều bí ẩn kỳ lạ đang diễn ra trong đêm khuya trong thanh vắng khiến cho cảnh vật trở nên tuyệt đẹp mà không lời nào có thể tả xiết.
    Giữa tôi và ánh trăng kia là một con dơi khổng lồ đang bay lượn tới lui thành những vòng tròn lớn. Một hoặc hai lần nó bay đến thật gần, và tôi có cảm giác là nó đang nhìn tôi với vẻ đe dọa, rồi nó bay đi xuyên qua bến cảng về hướng thung lũng. Khi tôi từ cửa sổ quay lại Lucy đã nằm xuống trở lại và ngủ với dáng vẻ rất thanh thản. Bạn ấy không gây nên chuyện lộn xộn nào khác trong cả đêm.
    Ngày 14 tháng 8. - Tôi đọc và viết trên Vách Đá Phía Tây suốt cả ngày. Lucy đã trở nên thích nơi này giống như tôi, và việc mang bạn ấy ra khỏi chỗ này khi đến giờ ăn trưa, dùng trà hay bữa chiều trở nên khó khăn.
    Khi chiều xuống thì bạn ấy thốt lên một ý tưởng rất buồn cười. Lúc này chúng tôi đang đi về nhà dùng bữa tối, và đang ở đỉnh Bến Tàu Phía Tây và dừng lại để nhìn ngắm cảnh vật như chúng tôi vẩn thường làm. Mặt trời đang lặn, chìm dần sau bầu trời Kettleness. Một thứ ánh sáng đỏ chiếu trên Vách Đá Phía Tây và cái tu viện cũ, và dường như nhúng tất cả mọi vật mà một ánh sáng hồng huyền ảo. Chúng tôi im lặng trong một thóang, rồi thình lình Lucy lẩm bẩm như đang nói với chính mình...
    "Lại những con mắt đỏ của ông ta! Chúng vẩn ở đấy!" Sự diễn đạt này rất lạ lùng, xem ra chẳng ăn nhập gì với chung quanh, và điều này làm tôi giật mình. Tôi quay người nhìn quanh, và thấy rõ là chẳng có ai đang nhìn Lucy cả. Bạn ấy đang bắt đầu trở nên nữa mê man và vẻ mặt của bạn ấy trông thật là khác lạ mà tôi không sao hiểu được, do đó tôi không nói gì mà nhìn theo mắt bạn ấy. Bạn ấy có vẻ như đang nhìn về phía chỗ ngồi của chúng tôi, nơi có một bóng áo đen đang ngồi đơn độc. Tôi cảm thấy giật bắn người, khi trong một thóang tôi nhìn thấy người lạ mặt kia có đôi mắt lớn đỏ rực như những ngọn lửa, nhưng cái nhìn tiếp theo đã xua đi những ảo giác này.
    Những tia sáng đỏ đang chiếu sáng trên những khung cửa sổ của nhà thờ Saint Mary đằng sau chỗ ngồi của chúng tôi, và khi mặt trời chìm sâu thì nó tạo ra những hiện tượng khúc xạ và phản xạ gây ra những hiệu ứng đặc biệt. Tôi nói Lucy chú ý đến hiện tượng kỳ lạ này, bạn ấy tỏ ra có quan tâm, nhưng vẩn buồn bã như cũ. Có thể bạn ấy đang nghĩ về cái đêm kinh khủng kia. Chúng tôi chẳng bao giờ nhắc đến nó, và vì tôi chẳng nói gì, chúng tôi trở về nhà dùng bữa tối. Lucy nhức đầu và đi ngủ sớm. Tôi thấy bạn ấy đã ngủ rồi, bèn đi ra ngoại và đi dạo một lát.
    Tôi đi bộ dọc theo những vách đá của bờ biển phía tây, và khi nghĩ đến Jonathan, lòng tôi lại tràn ngập một nỗi buồn man mác. Khi tôi về nhà, ánh trăng sáng rực, sáng đến nỗi tôi có thể nhìn thấy tường tận vùng Crescent trước mặt, dù nó đang chìm trong bóng đêm. Tôi liếc nhìn lên khung cửa sổ của chúng tôi, và thấy Lucy đang thò đầu ra. Tôi lấy khăn tay ra và vẫy bạn ấy. Bạn ấy dường như chẳng nhận ra và cũng chẳng làm một cử động gì. Lúc này ánh trăng tỏa quanh một góc tòa nhà, và ánh sáng chiếu thẳng vào cửa sổ.
    Lucy hiện ra rõ mồn một, đầu bạn ấy thò ra khỏi thành cửa sổ, mắt nhắm nghiền. Bạn ấy đang ngủ say, và tại chỗ bạn ấy ngồi cạnh cửa sổ có một cái gì đó giống như một con chim cỡ lớn. Tôi sợ bạn ấy lạnh, bèn chạy vội lên, nhưng khi tôi vào phòng thì bạn ấy đã trở về giường, ngủ say, thở một cách nặng nhọc. Bạn ấy giữ tay trên cổ họng, giống như đang bảo vệ nó khỏi giá lạnh.
    Tôi không đánh thức bạn ấy, mà đắp ấm cho bạn ấy. Tôi kiểm tra kỹ cửa nẻo và cài then cửa sổ cẩn thận.
    Bạn ấy trông thật là dễ thương trong lúc ngủ, nhưng bạn ấy trắng bệch hơn bình thường, và dưới mắt bạn ấy có một dáng vẻ buồn bã, bơ phờ mà tôi chẳng thích tí nào. Tôi sợ là bạn ấy gặp phải chuyện gì phiền muộn.
    Ước gì tôi biết được nó là cái gì.
    Ngày 15 tháng 8. - Dậy muộn hơn thường lệ. Lucy trông uể oải và mệt mõi, khi mà chúng tôi được gọi dậy.
    Chờ đón chúng tôi tại bàn ăn sáng là một bất ngờ thú vị. Cha Arthur đã khá hơn, và muốn tổ chức đám cưới sớm. Lucy tràn ngập mừng vui, còn mẹ bạn ấy nữa vui nữa buồn. Sau đó bà đã nói cho tôi nghe nguyên nhân.
    Bà ấy buồn khi mất đi Lucy của riêng bà, nhưng bà vui mừng là bạn ấy đã sớm có người bảo bọc cho bạn ấy.
    Người đàn bà dịu dàng, đáng mến và tội nghiệp! Bà thổ lộ cho tôi biết rằng bà đã cảm thấy trát gọi của thần chết. Bà không nói cho Lucy biết và bắt tôi phải hứa giữ bí mật. Bác sĩ của bà đã nói cho bà biết nhiều nhất vài tháng nữa bà sẽ chết, vì tim bà đã yếu lắm rồi. Trước tình thế này, một cú sốc thình lình vào lúc này rõ ràng sẽ giết chết bà. A, chúng tôi quả thật là khôn ngoan khi giấu bà về cái đêm mộng du hãi hùng của Lucy.
    Ngày 17 tháng 8. - Đã hai ngày nay tôi không đụng đến nhật ký. Tôi không còn tâm trí nào để viết nữa. Có vẻ như có một tấm màn u ám đang bao phủ lên hạnh phúc của chúng tôi. Không có tin tức gì từ Jonathan, còn Lucy thì càng yếu hơn, trong khi những giờ khắc còn lại của mẹ bạn ấy càng lúc càng cạn dần. Tôi không hiểu vì sao mà Lucy lại như vậy. Bạn ấy ăn tốt, ngủ ngon, hít thở không khí trong lành, nhưng theo thời gian vẻ hồng hào trên đôi má bạn ấy càng nhạt đi, bạn ấy yếu hơn và càng bơ phờ hơn ngày theo ngày. Đêm đêm tôi nghe bạn ấy thở hổn hển như cần không khí.
    Cửa phòng chúng tôi luôn đóng chặt, và khi ngủ chìa khóa luôn đeo ở cổ tay tôi, nhưng bạn ấy thức giấc và đi lòng vòng khắp phòng, rồi ngồi bên cánh cửa sổ hé mở. Đêm hôm qua khi tôi tỉnh giấc tôi thấy bạn ấy chồm người ra, và tôi không thể nào cố thử đánh thức bạn ấy dậy được.
    Bạn ất rất mệt mõi. Khi tôi cố làm bạn ấy thức giấc, bạn ấy yếu ớt như giọt nước, và hít thở những hơi khẽ, dài, đau khổ để tìm không khí. Khi tôi hỏi bạn ấy ngồi bên cửa sổ để làm gì, bạn ấy lắc đầu và quay đi.
    Tôi tin là căn bệnh của bạn ấy không thể từ vết trầy vô tình gây ra bởi cái ghim băng kia được. Tôi nhìn vào cổ họng bạn ấy trong khi bạn ấy nằm ngủ, và vết thương nhỏ kia vẩn chưa lành. Chúng vẩn tiến triển, lớn hơn lúc trước, và cạnh của nó hình như có màu trắng đầy bệnh hoạn. Chúng trông như những chấm trắng bao quanh một chấm đỏ ở giữa. Nếu một hai ngày nữa mà nó vẩn chưa lành, tôi nhất định phải gọi bác sĩ đến xem xét chúng.
    THƯ TỪ SAMUEL F.BILLINGTON VÀ CON TRAI, LUẬT SƯ WHITBY, GỬI CHO MESSRS.
    CARTER, PATERSON VÀ CÔNG TY, LONDON.
    Ngày 17 tháng 8
    " Kính thưa Quý Ngài,
    "Tôi xin vui mừng báo ngài rằng tôi đã nhận được những hóa đơn cho chuyến hàng gửi bởi Hãng Xe lửa Vĩ đại Phương Bắc. Chúng cũng được gửi đến Carfax, gần Purfleet, ngay theo hóa đơn tại trạm chuyển Chữ Thập Vua đáng tin cậy. Ngôi nhà lúc này đã trống rỗng, nhưng xin gửi kèm những chìa khóa đã được dán nhãn rõ ràng.
    "Quí ngài sẽ nhận được những cái hộp, mà số lượng ghi trên hóa đơn vận chuyển là mười lăm cái, nằm trong một phần bị hư hại của tòan nhà, được đánh dấu chữ A trong sơ đồ gửi kèm. Nhân viên của quí ngài sẽ dễ dàng tìm được nơi này, đó là một nhà thờ cổ trong lâu đài. Hàng hóa được chuyển đi bằng xe lửa lúc 9:30 tối nay, và sẽ đến Chữ Thập Vua lúc 4:30 sáng mai. Vì khách hàng của chúng ta muốn việc chuyển hàng diễn ra càng nhanh càng tốt, chúng ta bắt buộc phải sắp xếp sao cho người của quí ngài phải sẳn sàng tại Chữ Thập Vua theo giờ đã định và ngay lập tức mang hàng hóa đến đích.
    Để loại trừ mọi sự chậm trễ có thể xảy ra, xin quí ngài hãy hoãn lại những công việc đã định trước vào lúc đó, chúng tôi xin gửi kèm quí ngài tấm chi phiếu 10 bảng ngay lúc này, xin quí ngài vui lòng báo lại khi nhận được hóa đơn. Nếu công việc tốn kém ít hơn, xin quí ngài gửi trả số tiền thừa, còn nếu nhiều hơn, chúng tôi sẽ lập tức gửi tiếp tờ chi phiếu khác khi có tin của quí ngài. Xin quí ngài hãy để lại chìa khóa trên lối đi vào tiền sảnh của tòa nhà, chủ nhân của ngôi nhà này sẽ nhận lại nó khi ông ta vào nhà bằng chiếc chìa khóa thứ hai.
    "Xin đừng nghĩ là chúng tôi đã phóng đại tầm vóc của công việc khi yêu cầu quí ngài hãy khẩn trương đến mức tối đa bằng mọi cách có thể được. "Xin dừng bút, thưa Quý Ngài, "Trân trọng,"SAMUEL F.BILLINGTON & SON"
    THƯ CỦA MESSRS. CARTER, PATERSON & CÔNG TY, LONDON, GỬI CHO MESSRS.
    BILLINGTON & CON TRAI, WHITBY.
    Ngài 21 tháng 8.
    "Kính thưa Quí Ngài,
    "Chúng tôi xin được phản hồi là đã nhận được 10 bảng và gửi trả về chi phiếu 1 bảng 17s, 9d tiền thừa, được ghi rõ trong hóa đơn kèm theo. Hàng hóa đã được phân phối chính xác theo chỉ dẩn, và chìa khóa được để lại dưới tấm thảm trong phòng chính như quí ngài mong muốn. "Xin được dừng bút, thưa Quí Ngài," Trân trọng, "Pro CARTER, PATERSON & CÔNG TY."
    NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY.
    Ngày 18 tháng Tám. - Hôm nay tôi rất vui, và tôi đang ngồi viết tại chỗ ngồi quen thuộc của mình trên khu nghĩa địa. Lucy đã khỏe mạnh hơn bao giờ hết. Tối qua bạn ấy ngủ ngon suốt cả đêm và chẳng hề quấy rầy tôi.
    Vẻ hồng hào đã trở về trên đôi má của bạn ấy, dù bạn ấy vẩn còn tái xanh ốm yếu và trông rất vàng vọt. Nếu bạn ấy bị thiếu máu bởi một nguyên nhân nào đó thì tôi còn có thể hiểu được, đằng này bạn ấy đâu có sao.
    Bạn ấy đang lên tinh thần, rất yêu đời và vui sướng. Căn bệnh tiềm tàng hình như đã bắt đầu lánh xa bạn ấy, và nhìn bạn ấy lúc này chỉ còn gợi tôi nhớ lại, nếu như tôi còn chút gì để nhớ, về cái đêm hôm ấy, và tại nơi đây, chính tại nơi này, tôi thấy bạn ấy đang ngủ.
    Bạn ấy vừa cố rút một hòn đá trong giày đang đâm vào gót chân của bạn ấy vừa nói,
    "Cái chân tội nghiệp của mình làm phiền mình quá! Mình dám chắc là ông bạn già tội nghiệp Swales đang nói chuyện với mình vì mình không muốn quấy rầy Geordie."
    Thấy bạn ấy đang ở trong tâm trạng cởi mở, tôi hỏi bạn ấy xem đêm đêm bạn ấy mơ thấy những gì,
    Trước khi bạn ấy trả lời, trán bạn ấy nhăn lại theo một nét cau mày đáng yêu. Arthur, tôi gọi anh ấy là Arthur theo ý thích của Lucy, đã từng nói rằng anh ta đã yêu bạn ấy qua cử chỉ này, thực sự là điều này chẳng hề làm tôi ngạc nhiên. Đoạn bạn ấy trở nên nữa mơ mộng như thể đang cố phục hồi ký ức của mình.
    "Mình chẳng có mơ đâu, mà tất cả dường như đang diễn ra thật sự đấy. Mình chỉ muốn trở về nơi đây. Mình chẳng biết vì sao, dù mình lại đang sợ hãi một cái gì đó mà mình cũng không biết là cái gì. Mình còn nhớ, dù lúc đó mình còn đang ngủ, là mình đi ngang những con đường và đi qua cây cầu. Một con cá nhảy lên trên đường, và mình trườn người tới để ngắm nó, và mình nghe thấy rất nhiều tiếng chó tru. Cả thị trấn lúc ấy dường như phủ đầy tiếng chó tru, và mình lại tiếp tục đi lên.
    Rồi diễn ra mơ hồ trong ký ức mình là một cái gì đó cao và đen với đôi mắt đỏ rực như là khi chúng ta thấy trong hòang hôn, rồi một cái gì đó vừa ngọt ngào vừa cay đắng vờn quanh mình cùng lúc. Rồi mình cảm thấy như đang chìm vào một hồ nước xanh, rồi có những tiếng hát vang lên bên tai mình, mà mình cảm thấy là bài hát dành cho những người chết đuối, và mọi thứ đang dần rời xa mình. Linh hồn của mình dường như đã rời khỏi thể xác và bay lơ lững trên không trung. Mình nhớ là lúc đó Ngọn Hải Đăng phía Tây nằm ở ngay dưới mình, và lúc đó mình có một cảm giác đau đớn kỳ lạ, giống như là mình đang ở trong một cơn động đất, mình quay trở lại và nhìn thấy bạn đang lay cơ thể mình. Mình thấy bạn trước khi mình cảm thấy bạn."
    Bạn ấy bắt đầu cười. Tôi cảm thấy là có một cái gì đó rất là lạ, và tôi lắng nghe tiếng cười hổn hển của bạn ấy.
    Tôi không thích điều này chút nào, tốt hơn đừng để cho bạn ấy bận tâm về những chuyện như vậy nữa, và chúng tôi bắt đầu chuyển sang những chủ đề khác, và Lucy lại cảm thấy yêu đời hơn. Khi chúng tôi về nhà, khí trời đã khuyến khích bạn ấy, và đôi má trắng bệch của bạn ấy lại ửng hồng. Mẹ bạn ấy rất vui khi thấy bạn ấy, và chúng tôi đã trải qua một buổi tối vui vẻ cùng nhau.
    Ngày 19 tháng 8. - Vui, vui, thật là vui! Mặc dù không phải mọi chuyện đều đáng vui. Cuối cùng, đã có tin tức của anh Jonathan. Anh chàng tội nghiệp ấy đang bệnh, và đó là lý do vì sao anh ấy chẳng hề viết thư. Bây giờ thì tôi không còn lo lắng khi nghĩ hay nói về anh ấy. Ngài Hawkins đã gửi đến tôi một lá thư và còn tử tế viết thêm mấy dòng. Trong buổi sang nay tôi sẽ đi đến chỗ anh Jonathan, giúp đỡ chăm sóc cho anh ấy nếu có thể và mang anh ấy trở về. Ngài Hawkins nói rằng cũng chẳng có gì dở nếu chúng tôi cưới nhau luôn ở đấy.
    Tôi đã khóc suốt với bức thư mà một người nữ tu tốt bụng đã gửi đến cho tôi đến nỗi tôi cảm thấy ngực áo mình, nơi mà mình để lá thư vào, ướt đẩm. Nó là của anh Jonathan, và nó phải nằm gần trái tim tôi. Cuộc hành trình của tôi đã được họach định, hành lý đã sẳn sàng. Chỉ có lại quần áo của tôi mà thôi. Lucy sẽ mang hòm rương của tôi tới London và giữ nó đến khi tôi cần lại nó, có thể cho dịp... Tôi phải không được viết nữa. Tôi cần phải giữ nó để nói với anh Jonathan, người chồng của em. Lá thư mà anh ấy đã đọc và chạm lấy sẽ an ủi tôi cho đến khi chúng tôi gặp nhau.
    THƯ CỦA DÌ PHƯỚC AGATHA, BỆNH VIỆN THÁNH JOSEPH VÀ THÁNH NỮ MARY BUPA-PESH,
    GỬI CHO CÔ WILLHELMINA MURRAY.
    Ngày 12 tháng 8,
    "Kính thưa Cô.
    "Tôi viết lá thư này theo yêu cầu của ngài Jonathan Harker. Ông ấy đang ốm và không thể tự tay mình viết được, dù nhờ ơn Chúa, thánh Joseph và thánh nữ Mary, bệnh tình ông ấy đang tiến triển tốt đẹp. Ông ấy bị một cơn sốt não, và chúng tôi đã chăm sóc cho ông ấy được sáu tuần. Ông ấy nhờ tôi chuyển đến cô tình yêu của ông ấy, và cũng nhờ tôi chuyển hộ lời đến ngài Peter Hawkins, Exeter, với tất cả sự kính trọng, rằng ông ấy rất tiếc về sự chậm trễ này, nhưng tất cả công việc đã hòan tất. Ông ấy cần phải nghĩ ngơi vài tuần tại viện điều dưỡng trên đồi của chúng tôi, nhưng sẽ trở về ngay. Ông ấy cũng nhờ tôi nói hộ rằng ông ấy không có đủ tiền, và ông ấy muốn trả tiền cho những phí tổn của mình ở đây, ngõ hầu chúng tôi có thể cưu mang những người khác.
    Xin hãy tin tưởng tôi,
    Với tất cả niềm tin và lời chúc tốt lành, Sơ Agatha"
    "T.B - Bệnh nhân của tôi đã ngủ, và tôi lại mở lá thư này ra để thêm vào một đôi điều. Ông ấy nói với tôi tất cả về cô, và cô sẽ trở thành vợ ông ấy trong một thời gian ngắn nữa. Xin chúc mừng cả hai! Bác sĩ của chúng tôi nói rằng ông ấy đã trải qua một cú sốc kinh hòang, và trong cơn mê sảng ông ấy thường hay nói về những sự việc hãi hùng, bao gồm chó sói, chất độc và máu, gồm ma và ác quỷ, và tôi rất sợ khi nói về những điều này. Hãy luôn để mắt đến ông ấy và đừng để ông ấy bị khích động trong một thời gian dài. Những gốc rễ của căn bệnh này không thể loại trừ dễ dàng. Đáng lý chúng tôi viết thư sớm hơn, nhưng chúng tôi không biết gì về bạn bè của ông ấy, và ông ấy cũng không cho biết được điều gì, bất cứ điều gì mà một người nào đó có thể hiểu. Ông ấy đến trên chuyến xe lửa từ Klausenburg, và những người bảo vệ được trưởng ga ở đấy nói rằng ông ta lao vào ga và gào lên đòi một vé trở về. Qua dáng vẻ điên cuồng của ông ta, người ta nhận ra rằng ông ta là người Anh, và họ cho ông một vé đến nhà ga xa nhất mà chuyến xe đi đến.
    "Hãy tin chắc là ông ấy được chăm sóc tốt. Ông ấy đã chinh phục được trái tim của tất cả mọi người với vẻ dịu dàng và tao nhã của mình. Ông ấy thật sự đang khỏe dần, và tôi không hề nghi ngờ là ông ấy sẽ hồi phục hoàn toàn trong vài tuần tới. Nhưng hãy cẩn thận chăm sóc ông ấy để đảm bảo mọi sự. Và tôi xin cầu nguyện Chúa, thánh Joseph và thánh mẹ Mary cho hai bạn được nhiều, thật nhiều năm hạnh phúc."
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 19 tháng Tám. - Renfield vừa có một biểu hiện lạ lùng và đột ngột tối hôm qua. Vào khỏang tám giờ ông ta bắt đầu trở nên kích động và hít ngửi như một con chó. Những người phục vụ chú ý tới dáng vẻ của ông ta, và biết tôi đang rất quan tâm đến ông, nên khuyến khích ông nói chuyện. Ông ấy luôn tỏ ra kính trọng những người phục vụ và đôi khi cả những người nô lệ, nhưng tối nay, mọi người nói với tôi là ông ta tỏ ra rất kiêu kỳ. Ông ấy không thèm hạ mình nói chuyện với ai cả.
    Tất cả những gì ông ấy nói là, "Tôi không muốn nói chuyện với các người. Các người không xứng đáng. Chỉ có Ông Chủ mà thôi."
    Những người phục vụ nghĩ rằng ông ta đang bị xâm chiếm bởi một chứng cuồng tín tôn giáo nào đó. Nếu đúng vậy thì chúng tôi lại càng phải canh chừng mọi biến cố, vì một người đàn ông khỏe mạnh lại có chứng cuồng sát và cuồng tín tôn giáo thì vô cùng nguy hiểm. Sự kết hợp hai tính cách trên sẽ trở thành một thảm họa khôn lường.
    Đến chín giờ thì tôi đích thân đến thăm ông ta. Dưới mắt ông ta tôi cũng như những người phục vụ. Trong cảm giác đường bệ mà ông ta tự cảm thấy về mình thì sự khác nhau giữa tôi và những người phục vụ là hoàn toàn không có. Quả thật đó là một chứng cuồng tín tôn giáo, và ông ta đang sớm nghĩ mình chính là Chúa Trời.
    Sự khác nhau giữa cơ man người với người là không đáng lưu tâm đối với Đấng Tòan Năng. Đã có bao nhiêu người điên tự nhủ lòng như thế! Chúa Trời thật sự luôn cẩn thận lưu tâm để một con sẻ nhỏ cũng chẳng bị rơi.
    Còn Chúa Trời được tạo ra từ sự phù phiếm của lòai người thì không thấy sự khác nhau giữa đại bàng và chim sẻ. Ôi, phải chi chỉ cần con người biết được điều này!
    Đã nữa giờ trôi qua và Renfield càng lúc càng trở nên kích động. Tôi không giả vờ không chú ý đến ông ta, mà tôi giữ một cái nhìn nghiêm khắc trên tất cả mọi việc. Nhìn thẳng vào đôi mắt gian xảo của người điên, chúng ta luôn luôn biết được khi nào thì ông ta có một ý định nào đó, và những chuyển động lươn lẹo của cái đầu và lưng ông ta giúp những người phục vụ nắm bắt được điều đó. Ông ta bắt đầu trở nên trầm lặng hơn, rồi đi đến và ngồi bên cạnh giường với vẻ cam chịu, rồi nhìn vào khỏang không với một cặp mắt thiếu sinh khí.
    Tôi nghĩ là tôi cần tìm xem sự thờ ơ của ông ta là thật hay giả tạo, nên tôi thử bắt chuyện với ông ta về những con thú nuôi của ông ta, việc đề cập đến đề tài này không bao giờ thất bại trong việc kích động sự chú ý của ông ta.
    Đầu tiên ông ấy không trả lời, sau đó thì dài giọng với vẻ khó chịu, "Mặc xác chúng! Tôi không buồn quan tâm đến chúng nữa."
    "Sao" tôi nói. "Ông muốn nói với tôi rằng ông không thèm chú ý gì đến lũ nhện nữa à?" (Nhện lúc này đang là sở thích của ông ta và quyển sổ tay của ông ta viết đầy những cột số nhỏ."
    Ông ấy trả lời một cách khó hiểu. "Trong mắt những cô gái trẻ sắp lấy chồng lần đầu tràn ngập niềm vui sắp trở thành cô dâu. Nhưng khi ngày cưới đến gần, thì niềm vui không còn hoàn toàn sáng rực trong mắt họ nữa."
    Ông ấy không chịu giải thích gì, và bướng bĩnh ngồi tại chỗ của mình trong suốt thời gian tôi ngồi lại với ông ta.
    Tôi đang rất mệt mõi và xuống tinh thần. Tôi không thể không nghĩ về Lucy, và bao nhiêu biến cố khác nhau đã xảy ra. Nếu tôi không ngủ được ngay, tôi sẽ dùng đến các loại thuốc ngủ hiện đại và hiệu nghiệm nhất! Phải cẩn thận nếu không tôi sẽ trở nên nghiện mất. Không, tối nay tôi sẽ không dùng đến nó! Nếu tôi nghĩ về Lucy, thì điều đó cũng không thể làm hại cô ấy. Nếu cần, đêm nay không ngủ cũng được.
    Đêm khuya. - Sau khi đã có một quyết định dứt khóat, tôi cảm thấy trở nên thanh thản hơn. Tôi nằm trằn trọc cho đến khi nghe đồng hồ điểm hai tiếng, và người gác đêm chạy đến chỗ tôi, thò đầu lên từ phía tường, và nói rằng Renfield đã bỏ trốn. Tôi mặc quần áo và lao ra ngay. Người bệnh của tôi nếu để đi lang thang thì sẽ rất nguy hiểm. Những ý tưởng kỳ quặc của ông ta khi thi hành sẽ rất nguy hiểm cho những người lạ mặt.
    Người phục vụ đang đợi tôi. Anh ta nói anh ta còn thấy ông ta mười phút trước, có vẻ như đang ngủ trên giường khi anh ta nhìn qua cái cửa sập dùng để quan sát trên cửa. Sau đó thì anh ta chợt nghe thấy tiếng cánh cửa sổ bị vặn ra. Anh ta chạy lại và nhìn thấy những dấu vết của ông ấy biến mất ngòai cửa sổ và ngay lập tức cho gọi tôi. Ông ta chỉ đang mặc bộ đồ ngủ và không thể đi đâu xa.
    Người phục vụ đáng lý có lẽ hữu dụng hơn khi đuổi theo ông ta ngay thay vì chỉ đứng quan sát, nếu như anh ta có thể làm giảm trọng chính mình lúc cố len người qua sửa sổ. Anh ta là một người lực lưỡng, và không thể leo qua cửa sổ được.
    Tôi là một người mảnh dẻ, và với sự trợ giúp của anh ta, tôi leo ra ngoài cửa sổ, nhưng thòng chân xuống trước. Cửa sổ chỉ cao hơn mặt đất vài bộ và tôi nhảy xuống chẳng bị thương tích gì.
    Người phục vụ nói với tôi là bệnh nhân đã rẽ trái rồi chạy thẳng, và tôi cố hết sức chạy thật nhanh theo. Khi tôi rẽ trái qua đám cây, tôi thấy một bóng trắng trên bức tường ngăn cách vùng đất của tôi với ngôi nhà hoang.
    Tôi chạy trở về ngay, gọi người canh gác lấy thêm ba hoặc bốn người nữa ngay và đi theo tôi đến vùng đất Carfax, đề phòng trường hợp người bạn của chúng tôi có thể trở nên nguy hiểm. Tôi lấy một cái thang, leo qua tường, nhảy xuống phía bên kia. Tôi còn có thể thấy bóng Renfield biến mất sau một góc nhà, và tôi chạy đuổi theo anh ta. Ở góc xa của ngôi nhà tôi thấy ông ta đang cố đóng lại cái cửa bằng gỗ sồi có khung thép của nhà thờ.
    Ông ta có vẻ đang nói chuyện với ai đó, nhưng tôi sợ là nếu tôi đến gần để nghe ông ta nói, thì ông ta lại sợ hãi khi trông thấy tôi và lại chạy mất.
    Săn đuổi một bầy ong lang thang chả thấm thía gì so với việc đuổi theo một người mất trí không mặc quần áo, nhất là khi cơ hội trốn thóat nằm trong tay ông ta! Tuy nhiên, sau vài phút, tôi nhận thấy là ông ta hình như chẳng để ý gì đến mọi việc chung quanh mình, tôi bèn mạo hiểm áp sát lại ông ta, tôi tiến lại gần hơn nữa, băng ngang qua tường và tiến sát bên ông. Tôi nghe ông ta nói...
    "Tôi đến đây để van nài ngài, Ông Chủ. Tôi là đầy tớ của ngài, và ngài sẽ ban thưởng cho tôi, vì tôi đã rất trung thành. Tôi tôn thờ ngài đã từ lâu dù vô cùng cách biệt. Bây giờ ngài đã đến, và tôi đang đợi lệnh ngài, và ngài sẽ không bỏ rơi tôi, thưa ngài, Ông Chủ kính mến, với những ân sủng của ngài?"
    Ông ta là một người ăn mày già ích kỷ, trong một chừng mực nào đó. Ông ta đang nghĩ mình đang ở một buổi Thiết triều thật sự và đang nghĩ đến bánh mì và cá. Những cơn điên cuồng của ông ta đang hợp nhất lại. Khi chúng tôi đến gần ông, ông giống như một con hổ. Ông ta khỏe kinh hồn, trông ông giống như một con thú hoang hơn là một con người.
    Tôi chưa bao giờ thấy cơn giận dữ bộc phát của một người mất trí trước đây, và tôi hy vọng là sẽ không thấy nó lại lần nữa. Cũng may là chúng tôi đã lường trước đến sức mạnh và sự hung dữ của ông ta ta. Với sức mạnh và tính kiên nghị của ông ta, ông ta có thể làm nhiều chuyện tày trời trước khi bị tóm trở lại.
    Với bất kỳ giá nào, lúc này phải giữ ông ta ở một nơi an tòan.Ngay cả Jack Sheppard cũng không thể thóat khỏi cái áo trói kìm giữ ông, và ông ta bị xích vào tường trong một phòng cách ly.
    Đôi khi ông ta gào thét một cách rất kinh khiếp, nhưng sự im lặng tiếp theo đó còn đáng hãi hơn, vì hình như ông ta giống như một tên sát nhân trong mọi hành vi và cử chỉ.
    Ngay khi đó ông ta thốt lên một tràng. "Tôi sẽ kiên nhẫn, Ông Chủ. Nó đang đến, đang đến, đang đến.!"
    Bây giờ sẽ đưa ra một lời chú thích, rồi sẽ cũng đi. Tôi quá mệt rồi, tôi cần phải ngủ, nhưng quyển nhật ký này cứ làm rộn tôi, tôi cảm thấy tối nay nhất định tôi sẽ ngủ được một chút.





  2. #10
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default




    Chương 9

    THƯ CỦA MINA HARKER GỬI LUCY WESTENRA



    Buda-Pesh, ngày 24 tháng 8.
    "Bạn Lucy thân yêu,
    "Mình biết bạn đang rất khao khát được nghe những gì đã diễn ra từ khi chúng ta chia tay ở nhà ga xe lửa vùng Whitby.
    "Thế đấy, bạn thân yêu ạ, mình đến Hull và từ đó đáp tàu đi Hamburg, rồi từ đó tiếp tục đi xe lửa. Mình cảm thấy là mình khó mà nhớ lại được những gì diễn ra trong chuyến đi, chỉ trừ một điều là mình đang đến với anh Jonathan, và lúc đó mình sẽ chăm sóc cho anh ấy, tốt nhất là mình cố gắng ngủ vậy. Mình đã tìm thấy người yêu của mình, gầy gò, tái xanh và bệnh tật. Đôi mắt thân thương của anh ấy đã không còn sự kiên quyết, và có thể nói là anh ấy hầu như đã đánh mất mình. Anh ấy chỉ còn là cái bóng của chính mình, và anh ấy chẳng nhớ gì xảy ra cho anh ấy trong một khỏang thời gian dài. Cuối cùng, anh ấy muốn mình hãy tin như vậy, và mình không hỏi anh ấy thêm điều gì.
    "Anh ấy đã trải qua một cơn sốc hãi hùng, và mình sợ là nó có thể khiến cho bộ não tội nghiệp của anh ấy thêm nặng nề nếu anh ấy cố nhớ lại về nó. Sơ Agatha, người có thiên hướng nhân từ và tốt bụng bẩm sinh đã nói với mình là anh ấy muốn bà ấy kể lại cho mình nghe những gì họ đã trải qua, nhưng bà chỉ làm dấu thánh và nói rằng bà sẽ không bao giờ kể lại. Những lời nói trong cơn mê sảng là bí mật của Chúa, và một người y tá sẽ không làm tròn chức năng của mình nếu họ cố gắng nghe trộm những lời ấy.
    "Bà ấy có một tâm hồn chứa chan tình cảm và tốt bụng, và qua ngày hôm sau, thấy mình vẩn còn run sợ, bà ấy bèn hé mở những điều mà anh Jonathan thân yêu tội nghiệp đã mê sảng, và thêm vào, â��Ta có thể nói với con nhiều thứ, con yêu. Anh ấy chẳng làm điều gì lầm lỗi cả, và với tư cách là vợ anh ấy, con không có gì phải lo lắng cả. Anh ấy đã không quên con, về những gì anh ấy đã hứa với con. Nỗi sợ hãi của anh ấy có nguyên nhân từ những điều khủng khiếp ghê gớm mà không một con người nào có thể hiểu được.
    "Mình tin rằng sâu thẳm trong tâm hồn của mình vẩn còn sự ghen tuông khi cho rằng anh ấy có thể đã yêu một cô gái khác. Thật là kỳ khi mình lại có ý ghen về anh Jonathan! Và, nghe mình này, bạn thân yêu, mình nói nhỏ nhé, mình cảm thấy tràn ngập niềm vui khi biết rằng không phải một người phụ nữ nào khác gây ra những sự lo sợ này. Bây giờ mình đang ngồi cạnh anh ấy, và mình có thể vẻ mặt của anh ấy trong khi anh ấy ngủ. Anh ấy đang thức dậy!
    "Khi anh ấy đang thức dậy, anh nói mình mang cho anh ấy cái áo khoác của anh ấy, vì anh ấy muốn lấy cái gì đó trong túi ra. Mình hỏi sơ Agatha, và bà ấy mang đến tất cả những gì của anh ấy. Mình nhìn thấy quyển sổ ghi chép của anh ấy trong số chúng, và nói anh ấy cho mình xem qua nó vì mình biết là nó sẽ cho mình một số chỉ dẩn về nỗi kinh hãi của anh ấy. Mình tin rằng anh ấy đã trông thấy mong ước thiết tha trong mắt mình, nên anh ấy nói mình hãy ra cửa sổ, anh ấy muốn được ở một mình một lúc.
    "Rồi anh ấy gọi mình trở lại, và anh ấy nói với một vẻ rất trịnh trọng â��Wilhelmina', mình biết là anh ấy hoàn toàn nghiêm túc, bởi vì anh ấy chưa hề gọi mình như thế kể từ khi anh ấy cầu hôn mình, "Em thân yêu, em cũng biết là anh luôn cho rằng người chồng và người vợ phải luôn tin tưởng nhau, không có điều gì bí mật, không có gì phải che đậy. Anh đã trải qua một cú sốc hãi hùng, và khi anh cố gắng nghĩ xem điều đó là gì anh luôn cảm thấy đầu óc mình quay cuồng, và anh cũng không biết đấy là sự thật hay chỉ là giấc mộng của một người điên. Em cũng biết là anh trải qua một cơn sốt nặng, và rất có thể là anh trở nên điên mất. Điều bí mật đang nằm trong đây, và anh chẳng hề muốn biết nó.
    Anh muốn tiếp tục cuộc sống của mình với tình yêu của chúng ta.'Vì vậy, anh thân yêu, chúng ta sẽ cưới ngay khi mọi thủ tục đều hòan tất.'Em muốn chia xẻ những điều dại khờ của anh ư, Wilhemina? Đây, cuốn sách ấy đây. Em hãy cầm lấy và giữ nó, hãy đọc nó nếu em muốn, nhưng đừng bao giờ cho anh biết trừ khi thật sự có những nghĩa vụ bắt buộc nào đó khiến anh buộc phải quay lại những giây phút kinh hòang này, tất cả những điều xảy ra với anh, lúc anh đang thức hay ngủ, tỉnh hay điên, đều được ghi lại nơi đây.' Anh ấy kiệt sức trở lại, và mình nhét cuốn sổ vào dưới gối anh, rồi hôn anh ấy, sau đó mình nhờ xơ Agatha thỉnh cầu Ơn Trên cho phép chúng mình làm đám cưới ngay chiều nay, và mình đang chờ sự trả lời của bà ấy..."
    "Bà ấy đã quay lại và nói với mình rằng Giáo sĩ của nhà thờ truyền giáo Anh quốc đã trả lời. Chúng mình sẽ cưới trong một giờ nữa, hoặc là ngay khi Jonathan tỉnh giấc."
    "Lucy, thế là mọi việc đã diễn ra rồi. Mình cảm thấy rất là bối rối, nhưng rất, rất hạnh phúc. Anh Jonathan tỉnh lại sau hơn một giờ, và đã hoàn toàn sẳn sàng. Anh ấy ngồi trên giường, tựa vào gối. Anh ấy trả lời tôi đồng ý " một cách mạnh mẽ và cương quyết. Mình không thể nói gì. Trái tim mình ngập tràn cảm xúc đến nỗi mình sẽ bị nghẹn mất nếu thốt lên dù chỉ một lời.
    Những dì phước ở đây thật là tốt bụng. Xin Chúa hãy phù hộ cho mình không bao giờ, không bao giờ quên họ, hay quên đi những trách nhiệm ngọt ngào và dũng cảm mà mình đã tự đặt ra cho bản thân. Mình phải nói với bạn là đám cưới của mình đã cử hành. Khi giáo sĩ và những dì phước để mình ở lại một mình với chồng của mình - ôi Lucy bạn ơi, đây là lần đầu tiên mình viết từ chồng của mình" đấy nhé - để mình ở lại một mình với chồng của mình, mình lấy cuốn sổ dưới gối anh ấy ra, bọc nó bằng một tờ giấy trắng, dùng dãi ruy băng xanh nhạt mình đang đeo quanh cổ cột quanh nó thành một cái nơ, niêm phong lại bằng sáp ong, và con dấu niêm phong là chiếc nhẫn cưới của mình.
    Đoạn mình hôn nó và chỉ nó cho chồng mình. Mình nói rằng đấy sẽ là bằng chứng sống động và rõ ràng trong cuộc sống của chúng mình rằng chúng mình sẽ luôn tin tưởng lẫn nhau, và mình sẽ không bao giờ mở nó ra trừ phi nếu anh ấy thật sự cần, hay vì một yêu cầu khẩn thiết nào khác. Rồi anh ấy cầm lấy tay mình, và Lucy ơi, đấy là lần đầu tiên anh ấy cầm tay vợ anh ấy, nói rằng đó là điều thân thương nhất trên trái đất này, và anh ấy sẳn sàng chịu đựng lại tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ một lần nữa để có được nó, nếu cần. Con người đáng yêu tội nghiệp của mình có vẻ như đã cắt đứt hoàn toàn với quá khứ, và thậm chí anh ấy cũng chẳng nhớ nỗi đến ngày tháng, và mình sẽ chẳng ngạc nhiên đâu nếu như anh ấy nhầm lẫn không phải là hàng tháng mà là cả năm.
    "Thế đấy, bạn thân yêu, mình vừa nói gì nhỉ? Mình chỉ nói với bạn rằng mình là người phụ nữ tốt hạnh phúc nhất trên thế giới rộng lớn này, và mình chẳng có gì để dâng hiến cho anh ấy ngoại trừ cuộc sống của mình, niềm tin của mình và cùng với nó là tất cả tình yêu và bổn phận của mình trong tòan bộ những tháng ngày đằng đẵng của cuộc sống. Và, bạn thân yêu ơi, khi anh ấy hôn mình, khi anh ấy ôm lấy mình trong vòng tay yếu đuối đáng thương của anh ấy, thì điều đó dường như là lời đính ước trọng thể của hai đứa mình.
    "Lucy thân yêu, bạn có biết vì sao mà mình nói với bạn tất cả không? Không chỉ vì tất cả đã diễn ra quá ngọt ngào với mình, mà còn là vì bạn là người rất, rất thân thương với mình. Mình thật là quá được ưu đãi khi làm bạn của bạn và là người hướng dẩn cho bạn khi bạn đang chuẩn bị bước chân vào đời từ trường lớp. Mình muốn bạn được nhìn thấy mình lúc này, với đôi mắt vô cùng hạnh phúc của một người vợ, với những bổn phận đang ràng buộc mình, để cho bạn thấy rằng đến đám cưới của chính bạn, bạn cũng sẽ vô cùng hạnh phúc như mình.
    Bạn thân yêu ơi, xin Chúa Tòan Năng phù hộ, để cuộc đời bạn đầy những ước mơ, những tháng ngày ngập tràn ánh nắng, không có những cơn gió hung dữ, chẳng quên đi những bổn phận của mình, không còn những sự hòai nghi. Mình luôn ước ao sao cho bạn chẳng bao giờ phải đau khổ, và mình hy vọng bạn sẽ luôn hạnh phúc như mình lúc này. Tạm biệt, bạn thân yêu. Mình sẽ gửi lá thư này ngay, và có thể viết tiếp cho bạn liền đấy. Mình phải ngừng lại thôi, vì Jonathan đang tỉnh dậy kìa. Mình phải chăm sóc chồng mình chứ! "Bạn của bạn. "Mina Harker."
    THƯ CỦA LUCY WESTERA GỬI MINA HARKER.
    Whitby, ngày 30 tháng 8.
    "Bạn Mina thân yêu,
    "Hẳn là lúc này bạn và chồng bạn đang làm tràn ngập căn nhà của bạn trong đại dương tình ái với hàng triệu nụ hôn. Mình ước gì bạn có thể về đây kịp để chung vui với chúng mình. Không khí trong lành sẽ giúp anh Jonathan phục hồi. Nó đang giúp mình phục hồi đấy. Mình thèm ăn như một kẻ cuồng ăn, yêu đời và ngủ ngon lắm. Bạn chắc là sẽ rất vui khi biết rằng lúc này mình không còn mộng du nữa. Mình nghĩ là cả tuần nay mình chẳng rời khỏi giường kể từ lúc mình đặt mình xuống cho đến sáng.
    Arthur nói là mình đang mập ra đấy. Nhân tiện, mình quên nói với bạn rằng Arthur đang ở đây. Chúng mình cùng đi dạo, đi xe, cởi ngựa, và rồi bơi thuyền, đánh tennis, cùng nhau đánh cá, và mình yêu anh ấy hơn bao giờ hết. Anh ấy cũng nói là anh ấy cũng yêu mình hơn, nhưng mình nghi ngờ đấy, bởi vì ngày xưa anh ấy đã từng nói là chẳng bao giờ yêu mình hơn lúc này. Nhưng điều này xem ra vô lý quá. Anh ấy lại đang gọi mình kìa. Tình yêu của chúng mình chắc cũng chẳng thua gì bạn đâu, "Lucy.
    "T.B - Mẹ của mình gửi lời hỏi thăm bạn. Bà ấy trông khỏe hơn, tội nghiệp bà.
    "T.T.B - Chúng mình sẽ làm đám cưới vào ngày 28 tháng 9."
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 20 tháng 8 - Trường hợp của Renfield càng lúc càng thú vị. Ông ta bây giờ đã trở nên bình lặng, chấm dứt một thời kỳ bùng nổ của ông. Sau cuộc nổi loạn đầu tiên của mình, ông ta trở nên hung hăng không ngớt.
    Rồi đến một đêm nọ, khi mặt trăng lên cao, ông ta trở nên bình lặng, và liên tục lẩm bẩm với chính mình. "Bây giờ thì tôi có thể đợi. Bây giờ thì tôi đợi được."
    Những người phục vụ đi kêu tôi, và tôi chạy vội xuống gặp ông ta. Ông ấy vẩn mặc chiếc áo trói trong phòng cách ly, nhưng sắc mặt ông ấy đã có sự thay đổi, và trong mắt ông ta có điều gì đó giống như là sự cầu xin.
    Tôi gần như có thể nói một cách nhẹ nhàng là sự khúm núm. Tôi hài lòng với tình trạng hiện nay của ông ta, và cho phép ông ta được tự do. Những người phục vụ ngập ngừng, nhưng cuối cùng tuân theo lời tôi mà không phản kháng gì.
    Thật là lạ khi bệnh nhân cũng nhận ra sự nghi ngờ của họ, nên ông ta tới gần tôi, thì thầm trong khi lén lút quan sát bọn họ, "Họ nghĩ là tôi có thể làm ông bị thương! Tưởng tượng ra là tôi có thể làm ông bị thương! Lũ ngốc!"
    Ở một mức độ nào đó, tôi cảm thấy dễ chịu khi cảm thấy mình được người đàn ông điên tội nghiệp này đánh giá khác với mọi người, nhưng những điều tôi làm không hoàn toàn giống như những điều ông ấy nghĩ. Những điều tôi làm với ông ta thì cũng giống như những điều tôi sẽ làm với mọi bệnh nhân khác, và chúng tôi vẩn đang đứng cạnh nhau trước mặt ông ta. Hoặc là ông ta cảm thấy ở tôi có một sự khác lạ nào đó mà sự dễ chịu của tôi là cần thiết cho Ông Ta? Tôi sẽ tìm hiểu sau. Tối nay ông ta sẽ không nói. Thậm chí với việc đem một con mèo con và cả một con mèo trưởng thành ra làm mồi nhử cũng không quyến rũ được ông ấy.
    Ông ta sẽ chỉ nói, "Tôi không dự trữ mèo. Tôi còn nhiều điều để suy nghĩ lúc này, và tôi có thể đợi. Tôi có thể đợi."
    Sau đó tôi bỏ đi. Những người phục vụ nói lại với tôi rằng ông ta yên lặng cho đến ngay trước lúc rạng đông, và ông ta bắt đầu cảm thấy khó chịu, và trở nên hung hăng, cho đến khi một cơn giận dữ bộc phát làm ông ta kiệt sức và bất tỉnh nhân sự và hôn mê.
    ... Ba đêm liền mọi việc diễn ra theo cùng một cách thức như nhau, hung hăng suốt cả ngày và trầm tư từ lúc mặt trăng mọc đến lúc mặt trời mọc. Ước gì tôi có thể dò ra được một điều gì để giải thích cho việc này. Gần như là có một điều gì đó gây ảnh hưởng lên ông ta trong một thời gian rồi hết. A, tôi nghĩ ra một điều rất hay! Chúng ta sẽ sử dụng một mưu kế lành mạnh để đối phó với một người điên. Trước đây ông ta đã bỏ trốn mà chẳng có sự giúp đỡ của chúng tôi. Tối nay ông ta sẽ trốn thóat với nó. Chúng tôi sẽ cho ông ta một cơ hôi, và mọi người sẽ sẳn sàng khi cần thiết.
    Ngày 23 tháng Tám. - Những điều được mong đợi sẽ xảy ra." Disraeli đã nhận xét thật chí lý về cuộc sống. Con chim của chúng tôi đã không hề bay khi nhận thấy cửa lồng đã mở, khiến cho kế hoạch tinh vi của chúng tôi trở thành con số không.Dù sao thì chúng tôi cũng đã chứng minh được một điều là chu kỳ của sự trầm uất kia là phụ thuộc vào thời gian. Có lẽ trong tương lai chúng tôi sẽ để cho ông ta được tự do vài giờ mỗi ngày.
    Tôi vừa ra lệnh cho những người phục vụ chỉ nhốt ông ta vào phòng cách ly vào ban đêm, đến khi bình minh. Thân xác của con người tội nghiệp kia sẽ được hưởng tự do ngay cả khi tâm hồn của ông ta không ý thức được điều đó. Hark! Lại một điều không chờ đợi khác. Người ta gọi tôi. Bệnh nhân đã lại bỏ trốn.
    Đêm khuya. - Lại một chuyến mạo hiểm trong đêm khác. Refield đã khôn khéo đợi cho đến khi những người phục vụ đi vào phòng kiểm tra. Đoạn ông ta lẻn ra phía sau họ và lao xuống lối đi phía dưới. Tôi ra lệnh cho những người phục vụ đuổi theo. Một lần nữa ông ta đi vào vùng đất của ngôi nhà hoang, và chúng tôi tìm thấy ông ta ở đúng chỗ cũ, đang một lần nữa đẩy cửa tiến vào ngôi nhà thờ cổ. Khi ông ta thấy tôi thì ông ta trở nên rất giận dữ, và nếu những người phục vụ không giữ ông ta lại đúng lúc, thì hẳn là ông ta đã cố giết tôi. Khi chúng tôi tóm được ông ta thì một điều lạ lùng đã xảy ra.
    Ông ta cố gắng vùng vẫy gấp đôi, rồi thình lình trở nên bình tĩnh. Theo bản năng, tôi liếc nhìn chung quanh, nhưng chẳng thấy gì. Đoạn tôi quan sát mắt bệnh nhân và dõi theo tia nhìn của ông ta để nhìn vào bầu trời đầy ánh trăng, nhưng chẳng thấy gì, ngoại trừ một con dơi lớn, đang vỗ cánh trầm lặng và ma quái bay về phía tây. Dơi thì thường bay vòng, nhưng con này hình như cứ bay thẳng tiến, tuồng như nó có mục đích rõ ràng và biết rõ nơi mình đến.
    Bệnh nhân trở nên bình tĩnh hơn bao giờ hết, và lặng lẽ nói, "Các người không cần trói tôi. Tôi sẽ trở về không kháng cự.!" Và chúng tôi trở về nhà mà không gặp rắc rối gì hết. Cái vẻ bình tĩnh của ông ta có một cái gì đó khiến cho tôi trở nên bất an, và tôi sẽ không quên đêm nay.
    NHẬT KÝ CỦA LUCY WESTENRA
    Hillingham, ngày 24 tháng Tám. - Tôi phải bắt chước Mina, ghi lại mọi chuyện mới được. Để rồi khi chúng tôi gặp nhau, chúng tôi sẽ có nhiều chuyện mà nói với nhau. Không biết khi nào thì điều đó xảy ra nhỉ. Tôi ước gì bạn ấy lại đến với tôi lần nữa, vì tôi đang hạnh phúc lắm. Tối hôm qua hình như tôi lại có một giấc mơ giống như lần ở Whitby. Có thể do sự thay đổi không khí, hoặc do việc tôi lại trở về nhà. Nó thật là tối tăm và dễ sợ, dù tôi chẳng nhớ được gì cả. Nhưng tôi sợ lắm, tôi cảm thấy mình vô cùng yếu ớt và kiệt sức. Khi Arthur đến ăn trưa, anh ấy trông có vẻ buồn bã khi nhìn thấy tôi, nhưng tôi không còn tâm trạng nào để vui vẻ nữa. Chắc là tối nay tôi sẽ ngủ trong phòng mẹ thôi. Tôi sẽ xin lỗi mẹ về việc này.
    Ngày 25 tháng Tám. - Lại một đêm tồi tệ nữa. Mẹ không muốn tôi ngủ chung. Bà không khỏe, và rõ ràng là bà ấy sợ làm tôi lo. Tôi cố thức, và cũng thức được một lúc, nhưng không đồng hồ điểm mười hai tiếng thì tôi bắt đầu ngủ lơ mơ, và tôi bắt đầu ngủ thiếp đi. Hình như là có tiếng cào hay tiếng vỗ cánh gì đó ở bên cửa sổ, nhưng tôi không biết đó là cái gì, mà cũng chẳng nhớ gì hết. Đến sáng nay thì tôi yếu ớt khủng khiếp. Mặt tôi trắng bệch đi trông đến là kinh, và cổ họng tôi đau nhói. Rõ ràng là phổi tôi có vấn đề, bởi vì tôi cảm thấy mình không đủ không khí để thở. Tôi sẽ phải cố vui lên khi gặp anh Arthur mới được, bởi vì nếu thấy tôi trong tình trạng này anh ấy sẽ buồn lắm.
    THƯ CỦA ARTHUR GỬI CHO BÁC SĨ SEWARD
    "Khách sạn Albemarle, ngày 31 tháng Tám
    "Jack thân,
    "Tớ muốn cậu giúp tớ một việc. Luccy đang bệnh, dù nàng chẳng có bệnh gì rõ ràng, nhưng nàng trông rất tệ, và mỗi ngày mỗi yếu đi. Tớ hỏi xem nàng có biết nguyên nhân nào của tình trạng này hay không, vì tớ chẳng dám hỏi mẹ nàng, sợ sẽ khiến cho tâm hồn người đàn bà tội nghiệp ấy thêm lo âu về con gái trong khi bà ấy đang lâm vào một căn bệnh nan y. Bà Westenra có giãy bày với tớ là bà đã đi gần hết quãng đời của mình, tim bà đã rất yếu, dù Lucy tội nghiệp chẳng biết gì cả. Tớ chắc là có cái gì đó làm xáo trộn tâm hồn của nàng. Cứ nghĩ về nàng là tớ rối tung lên.
    Tớ cảm thấy đau nhói mỗi khi tớ trông thấy nàng. Tớ có nói với nàng là tớ sẽ kêu cậu đến gặp nàng, và dù lúc đầu nàng tỏ ra bẽn lẽn, ông bạn già, tớ chẳng hiểu vì sao đâu nhé, cuối cùng nàng cũng nhận lời. Tớ biết đây là một công chuyện có thể làm cậu thương tổn, nhưng tớ không ngần ngại chút nào khi khẩn khỏan yêu cầu cậu đến. Ngày mai cậu đến ăn trưa tại Hillingham, lúc hai giờ, và đừng có làm gì khiến bà Westenra nghi ngờ. Sau bữa ăn Lucy sẽ dàn xếp để gặp cậu một mình. Tớ lo lắm. và muốn gặp riêng cậu để xin ý kiến ngay khi tớ gặp cậu sau khi cậu gặp nàng. Đừng thất bại đấy!"
    Arthur."
    ĐIỆN TÍN, ARTHUR HOLMWOOD GỬI SEWARD
    Ngày 1 tháng 9
    "Tớ được gọi về vì cha tớ ốm. Tớ viết để báo cậu biết. Hãy viết cho tớ về mọi chuyện bằng chuyến thư tối nay đến Ring. Đánh điện gấp cho tớ nếu cần thiết."
    THƯ CỦA BÁC SĨ SEWARD GỦIW CHO ARTHUR HOLMWOOD
    Ngày 2 tháng Chín
    "Bạn già,
    "Với sự quan tâm sâu sắc đến sức khỏe của cô Westenra, tớ vội vã cho cậu biết ngay rằng, quan điểm của tớ trong vụ này là, chưa bao giờ tớ gặp một trường hợp bệnh lý hay xáo trộn tâm hồn như thế cả. Ngay khi gặp mặt nàng, tớ đã hoàn toàn không hài lòng vì sắc diện của nàng. Nàng có vẻ ốm yếu hơn nhiều kể từ lúc tớ gặp nàng lần cuối. Tất nhiên cậu phải chấp nhận một điều là tớ không có cơ hội để khám bệnh cho nàng một cách kỹ càng như ý mình.
    Tình bạn của chúng mình đã khiến cho lần chữa bệnh này trở thành một ca đặc biệt hơn bất kỳ công việc nghiên cứu y học hay cho bất kỳ khách hàng nào. Tớ sẽ kể với cậu thật chính xác những gì đã xảy ra, để chúng mình cùng bàn bạc và tìm ra cách xử lý thích hợp. Bây giờ tớ sẽ kể lại những gì tớ đã làm và tiếp theo là những đề xuất của tớ.
    "Tớ thấy rằng cô Westenra trông khá vui vẻ. Mẹ nàng cũng có mặt, và sau vài giây tớ nhận ra là nàng đang cố gắng đánh lạc hướng mẹ mình, không cho bà biết là nàng đang bất an. Tớ không hề nghi ngờ rằng nàng đã đóan được, nếu không muốn nói là đã biết được, nguyên nhân vì sao phải cẩn trọng như vậy.
    "Chúng tớ ăn trưa riêng với nhau, và khi chúng tớ cố hết sức mình để tỏ ra vui vẻ, thì chúng tớ cũng nhận được phần thưởng cho việc này, bởi vì sau đó tự bản thân chúng tớ cũng cảm thấy vui vẻ thật sự. Sau đó bà Westenra đi nằm, và chỉ còn lại Lucy với tớ. Bọn tớ đi vào phòng riêng của nàng, và khi những người phục vụ vẩn còn đi lại, thì Lucy vẩn còn cố tỏ ra vui vẻ.
    "Tuy nhiên, ngay khi cánh cửa phòng đóng lại, thì chiếc mặt nạ cải trang đã rơi ngay khỏi mặt nàng, nàng ngồi xuống ghế với một hơi thở dài nặng nề, rồi dấu mặt sau cánh tay. Khi tớ thấy sự cố gắng để tự nâng tinh thần mình của nàng đã chấm dứt, tớ bèn lợi dụng nó để thực hiện một cuộc chẩn bệnh.
    "Nàng nói với tớ một cách rất dịu dàng, Em không thể nói với anh rằng em khinh ghét việc tự nói về bản thân mình như thế nào.' Mình nhắc nàng nhớ rằng những lời giãi bày với bác sĩ luôn có một ý nghĩa thiêng liêng, và cậu đang hết sức lo lắng cho nàng như thế nào. Nàng hiểu ý mình ngay, và quả quyết nói. Hãy nói với Arthur những gì anh thấy cần thiết. Em không lo lắng cho mình, nhưng mà với anh ấy thì lại khác!' Và tớ cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm.
    "Tớ có thể thấy dễ dàng là nàng đang trong tình trạng thiếu máu, nhưng tớ không thể tìm thấy những dấu hiệu thiếu máu y học thông thường, và tớ tìm thấy cơ hội để có thể kiểm tra về chất lượng máu của nàng, đó là khi nàng mở cánh cửa sổ vốn bị buộc chặt bằng một đoạn dây thừng, tay nàng bị cứa bởi một mảnh kính vỡ. Nó chẳng có gì nghiêm trọng, nhưng nó cho tớ một cơ hội tốt, và tớ cẩn thận giữ lại vài giọt máu để phân tích chúng.
    "Kết quả phân tích cho thấy máu nàng ở trạng thái bình thường, và từ đó tớ có thể suy ra rằng chủ nó phải có tình trạng sức khỏe tốt. Về phương diện vật lý thì tớ có thể hài lòng rằng không có gì phải phàn nàn, nhưng vì phải có một nguyên nhân nào đó cho tình trạng bệnh lý của nàng, nên tớ đi đến kết luận rằng nó phải là một điều gì đó thuộc lãnh vực tinh thần.
    "Nàng phàn nàng với tớ rằng đôi khi hơi thở của nàng trở nên nặng nhọc, và giấc ngủ của nàng nặng nề, không ngon giấc, với những cơn mộng luôn làm nàng hỏang sợ, dù rằng nàng chẳng thể nhớ gì về nó. Nàng nói khi là một đứa trẻ, nàng thường bị mộng du, và khi ở Whitby thì nàng trở lại thói quen đó, có một lần nàng mộng du đi lang thang trong đêm và đi đến tận Vách Đá Phía Đông, cô Murray đã tìm thấy nàng ở đấy.
    Nhưng nàng đảm bảo là sau này nàng không còn thói quen đó.
    "Tớ cảm thấy nghi ngờ, và vì vậy tốt nhất tớ sẽ gửi thư cho người bạn cũ cũng là thầy tớ, Giáo sư Van Helsing, ở Amsterdam, người hiểu biết về những căn bệnh lạ hơn bất cứ ai trên thế giới này. Tớ yêu cầu ông ấy đến ngay, và vì cậu bảo tớ hãy làm mọi việc có thể nhân danh cậu, tớ cho ông ấy biết cậu là ai, mối quan hệ giữa cậu và cô Westenra. Anh bạn thân mến ạ, điều này có nghĩa là, vừa tuân theo triệt để những ý muốn của cậu, tớ cũng lấy làm tự hào và hạnh phúc khi làm mọi chuyện có thể được cho nàng.
    "Tớ biết là Van Helsing sẽ làm tất cả mọi thứ cần thiết cho tớ vì những lý do cá nhân, nên bất kể ông ta muốn làm gì, chúng mình phải tuân theo tuốt. Ông ấy là một con người độc đóan, bởi vì ông ta biết rõ rằng những gì ông ta nói luôn hay hơn tất cả những người khác. Ông ta là nhà triết học cũng đồng thời là nhà siêu hình học, một trong những khoa học gia cấp tiến nhất trong thời đại mình, và tớ tin chắc là ông ấy có một tinh hồn cực kỳ rộng mở.
    Ông ấy có một tinh thần thép, một tính khí lạnh băng, sự cương quyết không gì có thể khuất phục, khả năng tự chủ, một con người càng trở nên cao quý bởi tính hay làm phúc, là trái tim tử tế và trung thực nhất còn đang đập, đó là tất cả những gì mà ông ấy trang bị cho những công việc cao thượng mà ông ấy làm vì lợi ích của lòai người, trên cả hai phương diện lý thuyết và thực hành, và quan điểm của ông ấy cũng rộng mở như tấm lòng quảng đại bao dung của ông. Tớ phải nói với cậu tất cả những việc này để giải thích cho cậu biết vì sao mà tớ đặt niềm tin của mình vào ông ấy. Tớ đã yêu cầu ông ấy đến ngay. Tớ sẽ gặp lại cô Westenra vào sáng mai. Nàng gặp tớ tại Stores, vì tớ không muốn mẹ nàng chú ý khi tớ lại một lần nữa đến gặp nàng.
    "Cần cho nhau."
    John Seward.
    THƯ CỦA ABRAHAM VAN HELSING, MD, DPH, D.LIT,V.V...,V.V..., GỬI BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 2 tháng 9.
    "Bạn hữu,
    "Khi nhận được thư anh cũng là lúc tôi có thể đi đến chỗ anh được ngay. May mắn là lúc này tôi có thể đi ngay, chẳng gặp rắc rối gì với những tín đồ của tôi. Nói cách khác là chúng ta gặp may, bởi vì mọi chuyện sẽ rất tệ nếu như trong lúc tôi đang đi đến gặp bạn mình thì một tín đồ lại gọi tôi lại để biểu lộ tình thân ái. Nói với bạn của anh là nếu so sánh với trường hợp anh đã hút chất độc gây hoại tử từ vết thương của tôi, được gây ra từ con dao của một người bạn khác của chúng ta do quá căng thẳng đã trượt tay, thì lần này anh còn làm được nhiều hơn cho anh ta khi anh yêu cầu tôi giúp đỡ, đó là tất cả những gì tốt đẹp nhất mà anh ta có thể nhận được trong trường hợp này. Nhưng điều dễ chịu nhất cho anh ta cũng như cho anh chính là việc tôi sẽ đích thân đến.
    Để mọi việc thuận tiện, xin hãy sắp xếp để chúng ta có thể gặp người phụ nữ trẻ kia đừng quá trễ vào ngày mai, bởi vì tôi phải trở về ngay buổi tối. Nhưng nếu cần thì tôi có thể quay lại trong ba ngày tới, và có thể ở lại lâu hơn, nếu như cần phải thế. Hẹn gặp mặt, bạn John.
    "Van Helsing."
    THƯ CỦA BÁC SĨ SEWARD CHO HON. ARTHUR HOLMWOOD
    Ngày 3 tháng 9
    "Art thân,
    "Val Helsing đã đến rồi đi ngay. Ông ấy đã cùng tớ đến Hillingham, và với sự sắp xếp khôn ngoan của Lucy, mẹ nàng đã ăn trưa ở ngòai, và chỉ có chúng tớ với nhau.
    "Van Helsing đã có một cuộc khám nghiệm rất kỹ lưỡng bệnh nhân của mình. Ông ấy đã nói lại với tớ, và tớ chuyển lời đến cậu, vì tất nhiên là tớ không có mặt trong cuộc khám bệnh. Tớ sợ là ông ấy đã quá lo lắng, và nói rằng ông ấy còn phải suy nghĩ. Khi tớ nói với ông ấy về tình bạn của chúng ta, về vấn đề cậu đã tin tưởng tớ như thế nào trong công chuyện này, ông ta bảo, Anh có thể nói với bạn anh tất cả những gì anh nghĩ. Nói với anh ta là tôi còn phải suy nghĩ, và nếu anh thích thì anh có thể đóan xem nó là cái gì. Hừ, tôi không chế nhạo anh đâu. Đây không phải là sự chế nhạo, mà là vấn đề sống chết, có thể còn hơn nữa.' Ông ấy tỏ ra rất nghiêm trọng khi tớ hỏi xem như vậy là ông ấy muốn nói gì.
    Rồi chúng tớ quay về thị trấn, ông ta uống vài tách trà rồi quay về Amsterdam. Ông ấy chẳng cho tớ thêm một sự gợi ý nào cả. Cậu đừng có mà cáu với tớ đấy, Art, bởi vì cái sự trầm lặng của ông ấy chứng tỏ là ông ấy đang vận dụng tất cả trí não cho căn bệnh của nàng. Ông ấy sẽ nói hết khi nào đúng lúc. Tớ bèn nói với ông ấy là tớ chỉ đơn giản làm một bản kê khai về sự viếng thăm của chúng tớ, giống như tớ viết một bản kê khai mục báo đặc biệt cho tờ Điện tín Hàng ngày. Ông ấy không nói gì thêm , nhưng nhấn mạnh là tình hình an ninh ở London hiện nay không đến nỗi tệ như thời ông ta còn là sinh viên ở đấy. Nếu có thể được thì ngày mai tớ sẽ có bản báo cáo của ông ta. Trong trường hợp đó tớ sẽ viết cho cậu.
    "À, còn về cuộc viếng thăm của chúng tớ thì như thế này, Lucy có vẻ vui vẻ hơn ngày đầu tiên tôi gặp nàng, và rõ ràng là trông khá hơn. Nàng đã bớt đi cái vẻ nhợt nhạt từng làm cậu điên đầu, và hơi thở của nàng đã trở lại bình thường. Nàng có vẻ rất dịu dàng với Giáo sư (nàng vẩn luôn như vậy mà), và cố làm ông ấy yên lòng, dù tớ thấy rõ là cô gái tội nghiệp ấy phải cố lắm để làm điều đó.
    "Tớ tin là Van Helsing cũng nhận thấy điều ấy, bởi vì tớ thấy một cái liếc nhìn rất nhanh dưới đôi mày rậm của ông ấy, tớ thì tớ biết cái kiểu ấy lắm. Rồi ông ấy bắt đầu tán gẫu về mọi thứ ngoại trừ những chuyện về chúng tớ và những căn bệnh, với một sự vui vẻ tột độ và tớ có thể thấy là Lucy tội nghiệp cũng giả vờ hưởng ứng nồng nhiệt. Thế rồi, chẳng hề đổi giọng, ông ấy lịch thiệp chuyển hướng cuộc đối thoại thẳng vào mục đích cuộc thăm viếng của ông ấy, và nói thẳng,
    "Cô gái trẻ thân mến của tôi, phải nói là tôi rất dễ chịu khi thấy cô thật là đáng yêu đến thế. Cô bạn thân ạ, có lẽ là còn nhiều điều mà tôi còn chưa nhìn thấy. Họ nói với tôi là cô đang mất tinh thần, và cô xanh xao ghê lắm. Tôi nói với họ "Phì!" và ông ấy bật ngón tay với tôi rồi tiếp. Nhưng tôi và cô sẽ chỉ cho bọn họ thấy bọn họ đã sai lầm như thế nào. Hắn thì có thể làm được gì', ông ấy chỉ về phía tớ với giáng vẻ như ông ấy đã từng chỉ về phía tớ trong những lớp học của ông ấy, tớ không bao giờ quên được cái dáng điệu đặc biệt này, hắn thì biết gì về những cô gái trẻ? Hắn suốt ngày chơi đùa với những người điên, mang hạnh phúc đến cho họ, và điều đó khiến hắn yêu mến họ.
    Đó là công việc nặng nhọc, nhưng phần thưởng chúng tôi nhận được trong những công việc đại loại như vậy chính là việc chúng tôi có thể tìm thấy hạnh phúc cho mình. Nhưng còn với các cô gái trẻ! Hắn chẳng có vợ hay con gái, và những con người trẻ tuổi sẽ không nói về chính mình với những con người trẻ tuổi, nhưng với những người già, chẳng hạn như tôi, những người đã trải qua nhiều đau khổ do tuổi trẻ mang lại, thì khác. Vì vậy, cô bạn thân mến, chúng ta sẽ nói hắn đi ra ngòai hút xì gà trong vườn, trong khi đó tôi và cô sẽ nói chuyện về chính mình.' Tớ hiểu ý ngay, bèn bắt đầu đi dạo lòng vòng, một lúc sau giáo sư đến bên cửa sổ và gọi tớ đến. Ông ấy trong rất nghiêm trọng, và nói, Tôi đã khám kỹ lưỡng, nhưng chưa tìm thấy nguyên nhân nào. Tôi đồng ý với anh ra èng cô ấy đã bị mất máu, trước đây thì vậy nhưng lúc này thì không.
    Nhưng lúc này trên cơ thể cô ấy không có tình trạng bệnh lý nào. Tôi đã yêu cầu cô ấy cho tôi mượn người hầu gái, vì tôi cần hỏi thêm một hai câu nữa, để tôi không bỏ qua bất cứ cái gì. Tôi hiểu những gì cô ấy nói. Và chưa biết được nguyên nhân. Phải có nguyên nhân cho tất cả mọi sự. Tôi phải về nhà và suy nghĩ. Anh đánh điện cho tôi mỗi ngày, và nếu có gì đặc biệt thì tôi sẽ lại đây. Căn bệnh mà chưa hiểu là bệnh gì này hấp dẩn tôi, và cô gái trẻ dịu dàng đáng yêu này cũng hấp dẩn tôi luôn. Cô ấy mê hoặc tôi, và tôi sẽ quay lại, không phải vì anh hay vì căn bệnh đâu, mà vì chính cô ấy.'
    "Như tớ kể với cậu rồi đấy, ông ấy không nói thêm nữa lời, ngay cả khi chỉ còn hai chúng tớ. Và đến bây giờ thì cậu biết hết những gì tớ biết rồi, Art ạ. Tớ sẽ luôn chú ý theo dõi. Tớ tin là cha cậu đang phục hồi. Thật là kinh khủng cho cậu khi hai người thân yêu của cậu lại rơi vào tình cảnh như vậy, cậu bạn thân của tôi. Tớ biết quan điểm của cậu về bổn phận đối với cha mình, và cậu đúng khi ở bên ông ấy. Nếu cần, tớ sẽ nói cậu đến ngay với Lucy, và đừng quá lo lắng trừ khi cậu nhận tin từ tớ."
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 4 tháng Chín. - Kẻ bệnh nhân cuồng ăn thịt vẩn tiếp tục khiến chúng tôi phải chú ý đến ông ta. Ông ta chỉ bộc phát một lần vào một giờ giấc bất thường tối hôm qua. Ngay trước khi đồng hồ điểm giữa trưa, ông ta bắt đầu trở nên bồn chồn. Những người phục vụ biết triệu chứng này, bèn gọi mọi người sẳn sàng. May mắn là mọi người tập hợp lại đúng lúc, bởi vì ngay khi đúng giữa trưa ông ta trở nên điên dại khiến mọi người phải cố hết sức mới kiềm giữ ông ta lại được.
    Tuy nhiên, khỏang năm phút sau thì ông ta bình tĩnh hơn, và cuối cùng thì chìm vào trạng thái u sầu, và ông ta cứ giữ nguyên trạng thái đó cho đến giờ. Những người phục vụ nói tôi rằng tiếng gào thét trong cơn động kinh của ông ta rất man dại. Tôi bị vây kín bởi những bệnh nhân khác khiếp hãi bởi tiếng thét này khi tôi bước vào phòng. Điều này chẳng làm tôi ngạc nhiên, bởi vì chính tôi còn phải kinh động bởi tiếng gào này, dù tôi đứng ở một quãng xa. Bây giờ là đến giờ ăn trưa của viện điều dưỡng, nhưng người bệnh nhân của tôi vẩn ngồi ở góc phòng, mặt ông ta trông vô thức, ủ rũ và thiểu não, có vẻ như muốn nói lên một điều gì đấy. Tôi không thể hiểu nó là cái gì.
    Sau đó. - Lại một thay đổi khác nơi bệnh nhân của tôi. Đúng năm giờ tôi đến khóa cửa phòng ông ta, thì thấy ông ta tỏ ra hạnh phúc và hăng hái như thường lệ. Ông ta đang bắt ruồi và ăn chúng, rồi đánh dấu lại số lượng ruồi mà ông ta đã bắt bằng cách đánh dấu lên cạnh cánh cửa ngăn cách phòng cách ly. Khi thấy tôi, ông ta chạy đến và xin lỗi vì hạnh kiểm xấu của ông, rồi nói với tôi bằng một vẻ nhún nhường, khúm núm xin cho ông ấy trở về phòng để lấy lại cuốn sổ ghi chép.
    Tôi nghĩ rằng điều này có lẽ tốt cho ông ta, nên ông ta được trở về phòng mình, cửa sổ mở rộng. Ông ta lấy đường trong tách trà của mình trải ra cửa sổ, và lại bắt đầu vụ mùa thu hoạch ruồi. Bây giờ thì ông ta không ăn chúng, và bỏ vào hộp, và bắt đầu tìm kiếm nhện ở góc phòng như cũ. Tôi cố gợi ông ta nói về vài ngày qua, vì bất kỳ điều gợi ý nào trong ý nghĩa của ông ấy cũng là một sự giúp đỡ to lớn đối với tôi, nhưng ông ta không hưởng ứng. Một lát sau ông ta trở nên buồn bã, và nói bằng một giọng xa vắng, giống như nói với ông ta hơn là nói với tôi.
    "Hết cả! Hết cả rồi! Ông ấy đã bỏ rơi tôi. Không còn hy vọng gì nữa, trừ khi tôi tự làm lấy." Và rồi thình lình ông ấy quay sang tôi, nói bằng một giọng cương quyết, "Bác sĩ, liệu ngài có đủ lòng tốt để cho tôi xin thêm một ít đường được không ạ? Tôi nghĩ nó sẽ rất tốt cho tôi."
    "Và ruồi nữa chứ?" Tôi hỏi.
    "Vâng! Ruồi cũng rất thích nó, và tôi thích nó, chính vì vậy mà tôi thích nó." Và mọi người đều biết rằng không nên tranh cãi với người điên. Tôi cung cấp gấp đôi những gì ông ta yêu cầu, khiến cho ông ta trở nên hạnh phúc đến nỗi tôi nghĩ rằng không ai trên thế giới này có thể sung sướng hơn. Ước gì tôi hiểu được tâm hồn ông ta.
    Nữa đêm. - Lại một thay đổi khác nơi ông ta. Tôi đi thăm cô Westenra, nàng đã trông khá hơn nhiều, và chỉ vừa mới qua về, đang đứng ngay cổng nhà mình để ngắm cảnh hòang hôn, thì tôi nghe tiếng ông ta kêu thét lên. Tiếng kêu của ông ta ở góc này của ngôi nhà nghe còn rõ hơn lúc sáng. Tôi chợt bàng hòang khi thấy cảnh đẹp mờ ảo như khói sương của buổi hoàng hôn London bỗng nhiên chìm vào một luồng sáng xanh mét của một đám mây tối tăm phủ một màn đen như mực lên những sắc màu xinh tươi của cuộc sống giống như một cơn mưa nước màu đen đang dội xuống.
    Ngôi biệt thự bằng đá lạnh giá của tôi như chìm hẳn vào một màu u ám, hơi thở của nó trở nên đầy đau khổ, và trái tim tan nát của tôi đang sẳn sàng đón nhận tất cả. Tôi đi đến chỗ ông ta đúng vào lúc mặt trời lặn xuống, và nhìn cái dĩa đỏ ấy chìm hẳn xuống từ cửa sổ ông ta. Khi nó lặn thì ông ta càng lúc càng mất đi vẻ điên cuồng của mình, và cuối cùng ông ta trượt khỏi tay những người đang giữ mình, ngã quay đơ trên nền nhà. Những người mất trí lại có một nguồn năng lực tinh thần tuyệt vời, nên vài phút sau ông ta đứng dậy với một vẻ bình thản, và liếc nhìn chung quanh.
    Tôi ra hiệu cho những người phục vụ đừng giữ ông ta nữa, vì tôi nóng ruột muốn biết ông ta sẽ làm gì tiếp theo. Ông ta đi thẳng về phía cửa sổ và ném những mảnh đường vụn ra ngòai. Rồi ông ta lấy cái hộp ruồi, và thả sạch chúng ra, rồi ném cái hộp đi. Đoạn ông ta đóng cửa sổ, cài then, ngồi xuống bên giường. Tôi hết sức ngạc nhiên, hỏi ông ta, "Ông còn bắt ruồi nữa không?"
    "Không," ông ta nói. "Tôi chán ngấy cái thứ rác rưởi ấy rồi!" Ông ta rõ ràng là đã có một bài học thú vị. Ước gì tôi có thể hiểu sơ được tâm hồn của ông ta hoặc nguyên nhân đã khiến ông ta có hành động đột ngột này.
    Dừng lại. Cuối cùng thì hẳn phải có một chỉ dẩn nào đó, hôm nay rõ ràng chúng ta thấy những cơn động kinh của ông ta đến lúc giữa trưa đứng bóng và lúc hòang hôn. Có thể do một sự ảnh hưởng thâm hiểm nào đó từ chu kỳ của mặt trời khiến gợi nên những bản năng tự nhiên, và đôi khi mặt trăng gây ra những ảnh hưởng khác chăng? Chúng ta hãy xem.
    ĐIỆN TÍN, SEWARD, LONDON, GỬI VAN HELSING, AMSTERDAM
    "Ngày 4 tháng Chín. - Bệnh nhân hôm nay vẩn tiếp tục bình phục."
    ĐIỆN TÍN, SEWARD, LONDON, GỬI VAN HELSING, AMSTERDAM
    "Ngày 5 tháng Chín. - Bệnh nhân phục hồi rất tốt. Thèm ăn, ngủ ngon, lên tinh thần, và có vẻ hồng hào trở
    lại."
    ĐIỆN TÍN, SEWARD, LONDON, GỬI VAN HELSING, AMSTERDAM
    "Ngày 6 tháng Chín. - Mọi sự đã thay đổi một cách tồi tệ. Đến ngay. Đừng để mất một giờ nào. Tôi cũng gửi điện cho Holmwood đến để gặp ngài."




  3. #11
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default




    Chương 10

    THƯ CỦA BÁC SĨ SEWARD GỬI HON ARTHUR HOLMWOOD



    Ngày 6 tháng 9
    "Art thân,
    "Hôm nay tin tức của tớ không được tốt lắm. Sáng nay Lucy lại ốm trở lại. Tuy nhiên, điều đó cũng mang lại một điều tốt. Bà Westenra tất nhiên là quan tâm đến bệnh tật của Lucy, đã yêu cầu tớ chăm sóc cho nàng trên tư cách nghề nghiệp. Tớ lợi dụng ngay cơ hội này, và nói với bà rằng thầy tớ, Van Helsing, là một chuyên gia tài ba, sẽ đến ở với tớ, và tớ sẽ nhờ ông ấy cùng giúp đỡ tớ trong việc này. Vì vậy chúng tớ có thể tự do đến và đi mà không làm cho bà ấy để ý đến những sự bất thường này, bởi vì một cú sốc là cũng có thể khiến bà ấy chết thình lình, và tình trạng ốm yếu trầm trọng của Lucy có thể khiến mang một hậu quả bi thảm cho bà.
    Chúng tớ phải làm việc trong điều kiện khó khăn thế đấy, cậu bạn tội nghiệp của tôi, nhưng cầu xin Chúa phù hộ cho chúng tớ giải quyết tốt đẹp được mọi chuyện. Nếu cần thiết tớ sẽ viết, vì vậy nếu cậu chẳng nhận tin của tớ, thì hãy cứ biết là tớ cũng đơn giản đang mong đợi tin tức, trong nôn nóng,
    "Mãi là bạn cậu,"
    John Seward
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 7 tháng Chín. - Điều đầu tiên Van Helssing nói với tôi khi chúng tôi gặp nhau tại đường Liverpool là, "Anh đã nói gì với người bạn trẻ của chúng ta, với người yêu của cô ta chưa?"
    "Không," tôi nói. "Tôi muốn đợi gặp ông, giống như tôi đã nói trong điện tín. Tôi chỉ đơn giản viết cho cậu ta biết là ông đang đến, cũng như cô Westenra thì không được khỏe, và tôi cho cậu ấy biết điều đó vì cần thiết."
    "Phải rồi, anh bạn," ông ta nói. "Rất đúng! Tốt hơn là anh ta chưa nên biết gì vội. Có thể anh ta sẽ không bao giờ biết. Tôi cầu nguyện cho điều đó, nhưng nếu cần thiết thì anh ấy sẽ biết tất cả. A, anh bạn tốt bụng John, tôi cũng cảnh báo trước cho anh nhé. Anh làm việc với những người điên. Tất cả mọi người đều điên theo một cách này hay cách khác, và bởi vì anh có một công việc gần gũi với những người điên của anh, thì anh cũng sẽ làm việc với những người điên của Chúa, đó là phần còn lại của thế giới này.
    Anh không nói với những người điên vì sao anh làm hay không làm việc này, việc kia. Anh không nói với họ là anh đang nghĩ gì. Anh sẽ giữ những hiểu biết của mình ở đúng chỗ của nó, nơi nó có thể được nghĩ ngơi, nó có thể được thu thập lại và được nuôi dưỡng. Anh và tôi sẽ giữ những điều mà chúng ta biết được ở đây, và ở đây nữa." Ông ấy chạm vào tim và trán tôi, rồi làm giống như vậy với ông ta. "Bây giờ thì tôi cần phải suy nghĩ một lúc. Tôi sẽ nói hết với anh sau."
    "Vì sao không phải lúc này?" tôi hỏi. "Có thể như thế thì tốt hơn. Chúng ta sẽ đi đến một số quyết định nào đó." Ông ta liếc nhìn tôi và nói, "Bạn John của tôi, khi mà những bắp ngô mọc lên, ngay trước khi nó chín, trong khi dòng nhựa sống của đất mẹ vẩn còn chảy trong nó, và ánh nắng mặt trời còn chưa phủ lên nó một màu vàng óng, thì những người nông dân đã cày xới và chà xát cùng nó giữa những đôi tay chai sạn của mình, sẽ bỏ ngòai tai những lời châm chọc của những kẻ thiếu kinh nghiệm, và nói với anh rằng, Xem kìa! Đây là những bắp ngô tốt, và chúng ta sẽ có một vụ mùa bội thu khi thu hoạch."
    Tôi chưa thể liên tưởng được những điều ông ta muốn nói và nói lại với ông ta. Để trả lời ông ta bước tới và véo lấy tai tôi, giống như khi xưa ông ta vẩn làm trong các bài giảng, đoạn nói, "Người nông dân giỏi sẽ nói cho anh biết những gì ông ta biết, nhưng chưa phải lúc này. Tất nhiên là chẳng có người nông dân giỏi nào đào xới cây bắp của mình lên để xem nó đang lớn lên như thế nào. Đó là cách bọn trẻ tập chơi nông trại, chứ không phải là cách của những con người làm những công việc vì cuộc sống của mình.
    Hiểu chưa, anh bạn John? Tôi đang gieo hạt, và Thiên Nhiên sẽ làm phần việc của mình khi khiến cho hạt đó nảy mầm, tất nhiên là nếu cái hạt đó có thể nảy mầm, và tôi đợi đến lúc tai mình có thể nghe thấy tiếng cái mầm ấy vạch đất chui lên." Ông ta dừng lại, bởi vì rõ ràng ông ta thấy tôi đã hiểu. Và ông ta nói tiếp, một cách mạnh mẽ, "Anh luôn là một sinh viên chịu khó, và những cuốn sổ ghi chép chuyên môn của anh luôn được ghi đầy trong những kỳ nghĩ. Hãy nhớ đấy, bạn thân, rằng kiến thức thì luôn mạnh hơn trí nhớ, và chúng ta sẽ không tin tưởng vào cái thứ yếu hơn này.
    Thậm chí nếu anh không thường xuyên thực hành, thì tôi nói với anh rằng rất có thể những gì anh biết được có thể sẽ mai một đi mất, tôi nói có thể, bởi vì không phải lúc nào sự nghỉ ngơi cũng khiến cho con người ta mai một, chúng ta và những người khác đều biết điều này, và bọn các anh cũng hay vin vào cái cớ đó lắm. Hãy ghi chép lại mọi thứ. Không có gì quá nhỏ đâu. Tôi thậm chí còn khuyên anh ghi chép hay thu âm lại những nghi ngờ và ước đóan của mình. Sau này có thể anh sẽ thích thú khi biết được rằng anh đã đóan đúng hay không. Chúng ta học tập từ những thất bại, không phải từ thành công!"
    Khi tôi mô tả lại những triệu chứng của Lucy, giống như trước, nhưng những biểu hiện bệnh trạng càng rõ rệt hơn và hầu như không giới hạn, ông ta có vẻ rất quan tâm, nhưng không nói gì. Ông ta lấy ra cái túi chứa những dụng cụ và dược phẩm của mình, "những đồ dùng kinh khiếp cho những công việc có ích của chúng ta," có lần ông ta gọi chúng như thế trong một trong những bài giảng của ông, khi nói về những dụng cụ của giáo sư chuyên dùng cho những công việc phục vụ sức khỏe con người.
    Khi chúng tôi đến, và Westenra tiếp chúng tôi. Bà ấy trông lo lắng, nhưng không nhiều như tôi lo sợ. Bản chất của bà ấy quá thuần hậu đến nỗi đối với bà thậm chí cái chết cũng chỉ là một điều an ủi cho những niềm đau khổ của chúng ta trên trần thế. Ở đây, trong khi mà bất kỳ một cú sốc nào cũng có thể gây ra một kết cục bi thảm, thì mọi sự đã được sắp xếp khiến cho chúng không còn tránh né những công việc riêng tư nữa, thì hình như bà vẩn chưa biết rõ sự thay đổi khủng khiếp nơi người con gái thân yêu của bà.
    Điều này giống như là việc bà mẹ Thiên Nhiên đã quàng cho những người ngoại quốc những vòng chuỗi vô tri để bảo vệ lại quỷ dữ khiến cho họ tránh được những tai họa. Nếu việc chúng tôi làm mang tính tư lợi, thì chúng tôi nên dừng lại, bởi vì chúng tôi kết án những công việc mang tính chất ích kỷ, chúng là nguyên nhân sâu xa cho những kết cục mà chúng ta đã biết.
    Với những kiến thức của mình về tình trạng bệnh lý tinh thần như thế này, tôi quyết định dứt khóat là bà không nên ở bên Lucy, vì chính tình trạng đau ốm của bà có giá trị hơn bất kỳ lời yêu cầu tuyệt đối nào. Bà ấy đồng ý một cách vui lòng, vui lòng đến mức tôi có thể thấy lại một lần nữa cuộc đấu tranh sinh tồn diễn ra trong Thiên Nhiên. Van Helsing và tôi đi lên phòng Lucy. Hôm qua tôi bị sốc khi tôi thấy nàng, hôm nay tôi cảm thấy kinh khủng khi nhìn thấy nàng.
    Nàng trông thật khủng khiếp, trắng bệch như phấn sáp. Sắc đỏ đã biến mất khỏi môi và lợi nàng, xương mặt nàng nhô hẳn lên. Hơi thở khó nhọc của nàng có thể nhìn thấy hay nghe thấy dễ dàng. Mặt Van Helsing vẩn lạnh lùng như đá hoa cương, và lông mày của ông ấy nhíu lại đến nỗi gần chạm vào mũi ông. Lucy nằm bất động, hầu như không còn đủ sức để nói nữa, còn chúng tôi im lặng trong một thóang. Rồi Van Helsing ra hiệu cho tôi, và chúng tôi nhẹ nhàng ra khỏi phòng. Ngay khi chúng tôi vừa đóng cửa thì ông nhanh nhẹn đi theo hành lang vào một cửa khác đang mở. Ông đẩy ập tôi vào cùng với ông và sập cửa lại. "Chúa ơi!" ông nói. "Thật là khủng khiếp. Không được để phí thời gian. Cô ta sẽ chết chỉ đơn giản là vì không còn đủ máu cho trái tim hoạt động như bình thường được. Cần phải truyền máu cho cô ta ngay. Anh hay tôi?"
    "Tôi trẻ hơn và khỏe hơn, Giáo sư. Phải là tôi."
    "Sẳn sàng đi. Tôi sẽ đi lấy cái túi của tôi. Tôi sẽ chuẩn bị."
    Tôi đi xuống cùng với ông ta, và khi chúng tôi đang đi thì có tiếng gõ cửa ở cửa chính. Khi chúng tôi đến tiền sảnh, người hầu gái cũng vừa mở cửa và Arthur lao vọt vào. Cậu ấy phóng thẳng đến chỗ tôi, nói bằng những tiếng thì thầm nóng nảy,
    "Jack, tớ lo quá. Tớ cảm thấy trong bức thư của cậu chứa đựng điều gì đó bất thường. Cha tớ đã khỏe hơn, và tớ chạy vội đến đây để được thấy mọi chuyện tận mắt. Đây có phải là ngài bác sĩ Van Helsing không ạ? Tôi rất cám ơn ngài đã đến đây, thưa ngài."
    Ngay khi mắt Giáo sư lướt qua cậu ấy, ông có vẻ giận dữ vì bị cắt ngang công việc, nhưng khi ông thấy thân hình vạm vỡ cân đối của cậu ấy, nhận ra vẻ nam tính của sức mạnh tuổi trẻ tóat ra từ cậu ấy, mắt ông sáng lên.
    Ông nói ngay khi tay ông bắt lấy tay cậu ta,
    "Thưa anh, anh đến đúng lúc lắm. Anh là người yêu của cô gái thân mến của chúng ta. Cô ấy bệnh nặng, rất, rất nặng. Nào, con trai, đừng như thế chứ." Ông ấy nói như vậy bởi thình lình cậu ta trắng bệch và gần như ngã ngất ra trên ghế. "Anh đến đây để giúp cô ta. Anh có thể làm nhiều hơn so với việc nằm ườn ra như thế, và sự can đảm của anh là sự giúp đỡ lớn nhất của anh."
    "Tôi có thể làm gì?" Arthur khàn giọng."Cứ nói, và tôi sẽ làm. Cuộc sống của tôi là của nàng, và tôi sẽ dốc cạn giọt máu cuối cùng của mình cho nàng."
    Giáo sư rất hóm hỉnh, và với kinh nghiệm của mình tôi có thể nhận ra được tính cách ấy trong câu trả lời của ông.
    "Anh bạn trẻ, tôi không đòi hỏi đến mức đó đâu, không cần phải đến giọt máu cuối cùng đâu!"
    "Tôi sẽ làm gì?" Mắt cậu ấy rực lửa, mũi cậu ấy mở rộng rung lên trong sự tập trung. Van Helsing vỗ vai cậu ta.
    "Đi nào!" ông ấy nói."Anh đúng là con người, con người chúng tôi cần. Anh tốt hơn tôi, tốt hơn anh bạn John thân mến này." Arthur có vẻ ngơ ngác, và giáo sư tiếp tục giải thích một cách dịu dàng.
    "Cô gái trẻ đang ốm, ốm nặng lắm. Cô ấy cần có máu, và cô ấy phải có máu hoặc là sẽ chết. Bạn John của tôi và tôi đã thảo luận, và chúng tôi quyết định thực hiện công việc mà chúng tôi gọi là truyền máu, để chuyển máu từ một mạch máu căng tràn vào mạch máu đã cạn của cô ấy. John đã quyết định cho máu, và anh ta trẻ và khỏe hơn tôi." - Nghe đến đây Arthur nắm lấy tay tôi và thầm lặng xiết chặt. - "Nhưng bây giờ thì anh đã đến, anh tốt hơn bọn tôi, cả người trẻ lẫn người già, những người đã phải vất vả trong thế giới của những công việc nghiên cứu. Thần kinh chúng tôi không bình lặng và máu chúng tôi không tươi sáng như anh!"
    Arthur quay sang ông ta nói, "Nếu ngài biết được tôi vui mừng như thế nào khi được chết vì nàng thì ngài sẽ hiểu..." Cậu ấy ngừng lại vì nghẹn lời.
    "Cậu bé được lắm!" Van Helsing nói, "Anh sẽ không có hạnh phúc nào hơn là việc anh làm tất cả cho người mình yêu. Đi đến đây và im lặng. Anh sẽ hôn cô ấy trước khi mọi việc bắt đầu, nhưng anh phải đi, phải theo sự hướng dẩn của tôi. Đừng nói gì với mẹ cô ấy. Anh hiểu điều đó có ý nghĩa như thế nào với bà ta. Không được gây ra cú sốc nào, điều đó phải được hiểu rõ. Đi!"
    Chúng tôi đi vào phòng Lucy. Arthur được hướng dẩn phải đứng ở ngòai. Lucy quay đầu lại và nhìn thấy chúng tôi, nhưng không nói gì. Nàng không ngủ, nhưng nàng chỉ đơn giản là không còn đủ sức để làm một việc gì khác. Mắt nàng nói chuyện với chúng tôi, và đó là tất cả.
    Van Helsing lấy ra khỏi túi của ông ta một số món gì đó và bày nó ra trên một chiếc bàn nhỏ nằm khuất đằng xa. Rồi ông ấy pha một thứ thuốc mê, mang đến bên giường, vui vẻ nói, "Nào, cô gái nhỏ, đây là thuốc của con. Uống đi, như một đứa trẻ ngoan nào. Xem nào, ta sẽ nâng con lên để con nuốt dễ hơn. Thế." Nàng đã làm được công việc này.
    Tôi ngạc nhiên khi thấy thuốc ngủ lại lâu có tác dụng đến thế. Điều này lại càng làm rõ thêm tình trạng yếu ớt của nàng. Thời gian gần như vô tận cho đến khi giấc ngủ bắt đầu chạm nhẹ vào mi mắt của nàng. Tuy nhiên, cuối cùng thuốc mê cũng bắt đầu bộc lộ công hiệu, và nàng chìm sâu vào giấc ngủ say. Khi đó thì giáo sư hài lòng, gọi Arthur vào phòng, và kêu anh ấy cởi áo khoác. Đoạn ông nói, "Anh có thể trao cho cô ấy một nụ hôn nhẹ nhàng, trong khi tôi chuẩn bị mọi thứ trên bàn. Anh bạn John, lại giúp tôi nào!" Chẳng có ai trong chúng tôi nhìn lại khi cậu ấy cúi người về phía nàng.
    Van Helsing quay sang phía tôi, nói, "Anh ta còn trẻ và khỏe, máu của anh ta tinh khiết đến nỗi không cần phải lọc tơ huyết làm gì."
    Rồi ông ta tiến hành cuộc phẫu thuật bằng những thủ pháp nhanh nhẹn, chính xác. Trong khi cuộc truyền máu diễn ra, có cái gì đó giống như sự sống đang đi ngược vào đôi má của Lucy đáng thương, và dù Arthur càng lúc càng trở nên xanh xao, niềm vui vẩn sáng rực trên mặt cậu ấy. Sau một lúc tôi trở nên lo ngại, vì dấu vết của sự mất máu đã hiện rõ nơi Arthur, dù cậu ấy mà một thanh niên cường tráng. Điều này khiến tôi càng hiểu rõ tình trạng yếu ớt của Lucy khiến cho Arthur phải mất bao nhiêu sức lực chỉ đến giúp nàng hồi phục một phần.
    Nhưng mặt của giáo sư đanh lại, ông ta đứng lên và quan sát, lúc này đôi mắt ông đảo liên tục từ bệnh nhân sang Arthur. Tôi có thể nghe thấy nhịp tim của chính mình. Ngay sau đó, ông ta nhẹ nhàng nói, "Đừng cố gắng thêm nữa. Đủ rồi. Anh chăm sóc anh ta, còn tôi thì lo cho cô gái."
    Khi tất cả đã xong, tôi có thấy Arthur yếu lả đi như thế nào. Tôi băng bó vết thương, mang cậu ấy đi trên tay mình, trong khi Van Helsing nói mà chẳng buồn quay lại, con người này tuồng như có mắt sau gáy, "Một người tình dũng cảm, tôi nghĩ là anh ấy xứng đáng với một nụ hôn khác mà cuối cùng anh ta sẽ được hưởng."
    Và khi ông ta kết thúc cuộc phẫu thuật, ông ta điều chỉnh lại chiếc gối trên đầu bệnh nhân. Và ông ta cũng làm như vậy bởi một dãi băng nhung đen hẹp mà nàng luôn đeo quanh cổ họng, được khóa bởi một cái khóa kim cương cũ mà người yêu của nàng đã tặng nàng, kéo nó lệch lên một chút, và nhìn thấy một dấu đỏ trên cổ họng nàng.
    Arthur không tỏ ra điều gì, nhưng tôi có thể nghe thấy một tiếng húyt sáo khẽ sâu trong hơi thở của Van Helsing biểu lộ sự xúc động của ông ấy. Ông không nói gì, nhưng quay sang tôi, bảo, "Nào, hãy mang người tình trẻ tuổi dũng cảm của chúng ta xuống, và cho anh ta nằm nghĩ một chút. Anh ta phải về nhà và nghĩ ngơi, ngủ và ăn cho nhiều vào, để anh ta có thể trở lại tiếp tục cống hiến cho tình yêu của mình. Anh ta không được nằm ở đây. Hãy bình tĩnh! Tôi phải làm thế, vì anh đang yếu lắm, anh bạn. Lần này anh đã cứu tính mạng cô ta, và anh có thể về nhà, nghỉ ngơi và chờ đợi mọi việc tiếp tục. Tôi sẽ nói lại với cô ấy tất cả khi cô ấy hồi tĩnh. Cô ấy sẽ yêu anh không kém một chút nào so với những gì anh đã làm đâu. Tạm biệt."
    Khi Arthur đi, tôi trở về phòng. Lucy đã ngủ ngon, nhưng hơi thở của nàng đã mạnh hơn. Tôi có thể thấy chiếc khăn trải giường rung động theo nhịp thở nặng nhọc của nàng. Van Helsing ngồi bên, nhìn nàng chăm chú. Tấm băng nhung đen đã được kéo lại che phủ vết trầy đỏ. Tôi thì thầm với giáo sư, "Ông đã gây ra vết trầy đó trên cổ nàng à?"
    "Anh đã gây ra nó à?"
    "Tôi chưa khám qua chỗ này," tôi trả lời, và tiến đến tháo dãi băng ra. Ngay trên tĩnh mạnh cổ của nàng là hai dấu thủng , không lớn, nhưng trông rất sâu. Không có triệu chứng của căn bệnh nào, nhưng cạnh của nó trắng và trông rất mệt mõi, giống như bị cái gì nghiền ra vậy.Ngay tức khắc tôi cho rằng, dù vết thương này là cái gì đi nữa, thì nó có thể giải thích cho việc thiếu máu trầm trọng của nàng. Nhưng tôi xua tan ý nghĩ này ngay khi nó vừa thành hình, bởi vì không thể như thế được. Nếu không thì cả chiếc giường này phải thấm đầy trong màu đỏ của máu cô gái vì nàng trông vô cùng xanh xao trước khi truyền máu.
    "Sao?" Van Helsing hỏi.
    "Hơ," tôi nói. "Tôi chẳng hề gây ra nó."
    Giáo sư đứng dậy. "Tôi phải trở về Amsterdam tối nay," ông ta nói "Tôi cần một số sách và đồ vật ở đó. Anh phải ở đây suốt đêm và không được rời cô ta lúc nào cả."
    "Tôi sẽ là y tá?" tôi hỏi.
    "Chúng ta là những y tá tốt nhất, tôi và anh. Anh phải thức trông suốt đêm nay. Hãy chăm sóc cô ta cho tốt, và đừng để việc gì làm xáo trộn cô ta. Anh không được ngủ đêm nay. Sau này chúng ta sẽ ngủ, cả anh và tôi. Tôi sẽ trở về càng sớm càng tốt. Và chúng ta có thể bắt đầu."
    "Có thể bắt đầu?" tôi nói. "Thật ra thì ông đang muốn nói cái quái gì thế?"
    "Chúng ta sẽ thấy!" ông ta trả lời, và nhanh chóng phóng đi. Lát sau ông ta trở lại , thò đầu vào cửa và vừa nói vừa giơ một ngón tay lên cảnh cáo, "Hãy nhớ, cô ta thuộc về trách nhiệm của anh. Nếu anh rời khỏi cô ta, và có điều khủng khiếp nào xảy ra, thì sau này chẳng bao giờ anh có thể ngủ ngon được nữa!"
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD - TIẾP THEO
    Ngày 8 tháng Chín. - Tôi đã ngồi suốt đêm với Lucy. Thuốc mê đã hết tác dụng vào lúc chạng vạng tối, và thế là nàng tỉnh giấc. Nàng trông khác với lúc trước khi thực hiện cuộc phẫu thuật. Trạng thái tinh thần của nàng rất tốt, và nàng trở nên hoạt bát vui vẻ, nhưng tôi vẩn có thể thấy rõ tình trạng kiệt sức cùng cực mà nàng phải chịu đựng.
    Khi tôi nói với bà Westenra rằng bác sĩ Van Helsing nói tôi phải ngồi ở đây với nàng, bà gần như bác bỏ hoàn toàn ý kiến này, chỉ ra rằng con gái bà đã phục hồi sức lực và và rất sảng khóai. Tuy nhiên tôi lại rất kiên quyết, và bắt đầu chuẩn bị cho cuộc thức đêm của mình. Khi người hầu gái của nàng đến chuẩn bị cho giấc ngủ của nàng, tôi cũng đi vào, trong khi chờ đợi thì dùng bữa khuya, và lấy một chỗ ngồi cạnh giường.
    Nàng không bày tỏ thái độ gì, nhưng nhìn tôi với vẻ biết ơn mỗi khi tôi gặp ánh mắt nàng. Một lúc lâu sau nàng vẫn chưa ngủ, nhưng nàng cố gắng lắm để xua tan cơn buồn ngủ đi. Rõ ràng là nàng không muốn ngủ, và tôi lập tức chặn ngay ý định này lại.
    "Em không muốn ngủ à?"
    "Không, em sợ lắm."
    "Sợ ngủ! Vì sao thế? Đó là điều mà cả hai chúng ta đều muốn."
    "A, nếu như anh ở vào tình cảnh như em, thì giấc ngủ nó như một điềm báo trước tai họa!"
    "Một điềm báo trước tai họa! Em đang nói đến cái quái quỷ gì thế?"
    "Em không biết. Ôi, em chẳng biết nữa. Đó là một cái gì đó khủng khiếp lắm. Tất cả bệnh tật đến với em trong giấc ngủ, đến nỗi em sợ phải nghĩ về nó."
    "Nhưng, cô gái thân yêu ạ, tối nay thì em cứ ngủ đi. Anh ở đây trông chừng cho em, và anh hứa là chẳng có gì xảy ra đâu."
    "A, em có thể tin tưởng anh mà!" nàng nói.
    Tôi bèn chộp lấy cơ hội, nói luôn, "Anh hứa là nếu anh thấy em có bất kỳ biểu hiện gì là đang gặp ác mộng, anh sẽ đánh thức em ngay."
    "Anh sẽ làm vậy chứ? Ôi, có thực là anh sẽ làm vậy không? Anh thật là tốt đối với em. Em ngủ đây!" Và gần như cùng lúc khi nói ra những lời đó, nàng thở phào nhẹ nhõm và chìm sâu trở lại vào giấc ngủ ngay.
    Vậy là tôi thức canh nàng ngủ suốt cả đêm dài. Nàng chẳng hề cựa mình, và ngủ thật là sâu, êm ả, giấc ngủ mang đến cho nàng cuộc sống và sức khỏe. Môi nàng khẽ hé mở, và ngực nàng phập phồng đều đặn. Một nụ cười hiện ra trên khuôn mặt nàng, rõ ràng là chẳng có cơn ác mộng nào đến khuấy động sự bình yên trong tâm hồn nàng.
    Đến sáng sớm thì người hầu gái của nàng đến, và tôi giao lại cho cô ta chăm sóc nàng, rồi trở về nhà mình, vì tôi còn nhiều chuyện phải giải quyết. Tôi đánh những bức điện tín ngắn cho Van Helsing và Arthur, nói với họ về kết quả tuyệt vời của cuộc phẫu thuật. Công việc của riêng tôi thì rất bề bộn, khiến tôi phải ngồi cả ngày để giải quyết. Khi đến đêm thì tôi yêu cầu bản báo cáo về người bệnh nhân cuồng ăn thịt của tôi. Bản báo cáo rất khả quan. Ông ta trầm lặng suốt cả ngày và đêm qua. Điện tín từ Van Helsing tại Amsterdam trong khi tôi đang ăn chiều, đề nghị tôi hãy ở Hillingham tối nay, nếu như có thể sắp xếp được, và nói rằng ông ấy sẽ đi bằng chuyến tàu chuyển thư đêm và gặp tôi vào sáng sớm.
    Ngày 9 tháng Chín. - Tôi rất mệt và kiệt sức khi tôi đến Hillingham. Đã hai đêm rồi tôi chẳng hề chợp mắt, và bộ não của tôi gần như tê liệt bởi hết năng lượng. Lucy đang thức và trông rất vui vẻ. Khi nàng bắt tay tôi, nàng nhìn dáng vẻ trên khuôn mặt tôi và nói,
    "Anh không có được ngồi canh tối nay đâu đấy nhé. Anh thì mệt lử và em khỏe lại rồi. Và nghe em nói này, nếu như anh mà có ý định ngồi canh, là em sẽ ngồi canh với anh luôn đó."
    Tôi chẳng buồn tranh cãi, đi ăn bữa khuya của tôi. Lucy đi với tôi, và với vẻ duyên dáng quyến rũ do sự sôi nổi của nàng, tôi ăn rất ngon miệng, và uống vài cốc rượu vang tuyệt hảo. Sau đó Lucy đi với tôi lên gác, và chỉ cho tôi thấy cái phòng bên cạnh phòng nàng, với một lò sưởi ấm cúng đang rực cháy.
    "Nào," nàng nói. "Anh sẽ ở đây. Em sẽ để cửa mở và anh cũng thế. Anh có thể nằm trên ghế xofa và khi người bác sĩ với người bệnh cùng nằm trên một đường ngang không có gì ngăn trở như vậy thì cũng coi như là anh đang coi chừng em. Nếu em muốn điều gì em sẽ gọi, và anh có thể chạy ngay đến chỗ em."
    Tôi không thể từ chối được nữa, vì tôi cũng mệt đứ đừ rồi, và không thể ngồi nữa trong trường hợp tôi cứ cố.Vì vậy, sau khi bắt nàng phải hứa lại lần nữa là sẽ gọi tôi nếu nàng cần bất kỳ thứ gì, tôi ngồi trên ghế xofa, và quên ngay tất cả mọi chuyện.
    NHẬT KÝ CỦA LUCY WESTENRA
    Ngày 9 tháng Chín. - Tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Tôi đã trải qua một căn bệnh khốn khổ, và đã có thể nghĩ ngợi và liên tưởng đến những cảm giác giống như ánh dương xua tan đi một thời kỳ dài của những cơn gió đông. Arthur đã trở nên rất, rất gần gũi với tôi. Tôi nghĩ hơi ích kỷ rằng chính tình trạng yếu đuối và đau ốm của tôi đã khiến chúng tôi chìm vào mắt nhau và trở nên thông cảm với nhau, trong khi sức khỏe và sự khỏe mạnh lại ghìm chế tình yêu của chúng tôi, vì khi đó thì anh ấy lại lang thang ở mãi tận đâu, ở những nơi nào mà anh ấy muốn đi.
    Tôi biết ý nghĩ của mình mà. Giá mà anh Arthur có thể biết nhỉ! Anh thân yêu ơi, chắc là lúc này tai anh ngứa ran ấy nhỉ, vì chúng ta đang gọi nhau mà. Ôi, giấc ngủ đêm qua thật là hạnh phúc làm sao! Tôi thì ngủ, và bác sĩ Seward tốt bụng thân thương trông chừng cho tôi. Tối nay tôi không sợ phải ngủ nữa, do anh ấy gần một bên và trong tầm gọi. Cảm ơn mọi người đã thật tốt với tôi. Cám ơn Chúa! Chúc ngủ ngon, Arthur.
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 10 tháng Chín. - Tôi bị đánh thức bởi giáo sư đặt tay lên đầu tôi, lắc thật mạnh làm tôi tỉnh ngay. Đấy là một điều chúng tôi đã được học trong viện điều dưỡng an thần, trong trường hợp khẩn cấp.
    "Bệnh nhân của chúng ta thế nào?"
    "Ôi, tôi đã rời khỏi cô ấy, đúng hơn là cô ấy rời khỏi tôi," tôi trả lời.
    "Đi, chúng ta đi xem," ông ta nói. Và chúng tôi cùng chạy vào phòng.
    Bức màn đã rơi xuống, và trong khi tôi nhẹ nhàng nâng nó lên, thì Van Helsing đi thẳng đến giường với những bước chân nhẹ nhàng như mèo.
    Khi tôi nâng bức màn lên, nắng sáng tràn vào phòng, tôi nghe thấy giáo sư húyt lên một tiếng nhỏ, và đây là một trong những lần hiếm hoi, tôi cảm thấy một nỗi sợ lan vào đến tận tim. Khi tôi bước qua, ông ấy lui lại, và ông ấy kêu lên khiếp hãi, "Gott in Himmel!", không cần phải giải thích gì thêm qua vẻ mặt kinh hoàng của mình. Ông ấy giơ tay và chỉ lên giường, khuôn mặt thép của ông ấy u ám và chuyển sang màu trắng xám. Tôi cảm thấy đầu gối của mình bắt đầu run lên.
    Nằm bất tỉnh trên giường là Lucy tội nghiệp, trông trắng bệch và vàng vọt một cách kinh khủng hơn bao giờ hết. Môi nàng trắng tóat, lợi co lại từ răng, giống như chúng ta đôi khi vẩn thường ở những thi hài sau những căn bệnh kéo dài.
    Van Helsing giơ mạnh chân lên để nện xuống giận dữ, nhưng bản năng của một cuộc sống nhiều năm đấu tranh đã giữ ông lại, và ông ta đặt chân xuống nhẹ nhàng.
    "Nhanh!" ông ta nói. "Mang rượu mạnh vào đây."
    Tôi lao vào phòng khách và mang vào một cái bình thon cổ. Ông ta đổ lên đôi môi trắng bệch đáng thương kia, và chúng tôi cùng nhau chà xát lòng bàn tay, cổ tay và tim nàng. Ông ấy nghe tim nàng, và sau một thoáng đau khổ dừng lại nói,
    "Không phải là quá trễ. Nó vẩn còn đập, nhưng yếu lắm. Những gì chúng ta đã làm như vậy là hỏng cả rồi. Cần phải bắt đầu lại từ đầu. Lúc này không có anh chàng Arthur trẻ tuổi ở đây. Buộc lòng tôi phải gọi đến anh lần này, bạn John." Trong khi ông ta nói, ông lục trong túi lấy ra những dụng cụ truyền máu. Tôi cởi áo khoác và xắn cao tay áo sơ mi. Chưa chuẩn bị để gây mê, nhưng có lẽ cũng không cần, vì vậy, sau một thóang chần chừ, chúng tôi bắt đầu ca phẫu thuật.
    Ông ta hơi ngần ngừ, dù đó chỉ một khỏang thời gian ngắn, bởi vì cái cảm giác hút máu của một con người, dù người ấy tự nguyện như thế nào, cũng là một cảm giác khủng khiếp.Van Helsing giơ một ngón tay cảnh cáo. "Không được cử động," ông ta nói. "Nhưng tôi sợ rằng khi sức khỏe khá hơn cô ấy có thể cử động, và tạo ra nguy hiểm, ồ, điều đó rất nguy hiểm. Nên tôi phải dự trù trước điều này. Tôi sẽ tiêm vào dưới da cô ấy một liều morphin." Ông ta tiến hành ngay việc này một cách nhanh nhẹn và khéo léo.
    Những sự chuẩn bị cho Lucy như vậy không thừa, cơn ngất trộn lẫn với thuốc mê đã tạo nên một giấc ngủ êm dịu. Một cảm giác tự hào rất nhân bản khi tôi thấy những sắc màu bị trộm đi trong cơn ngất trên đôi má và đôi môi vàng vọt kia đang dần trở lại. Cho đến khi nào tự mình tận tay làm, thì không người đàn ông nào có thể biết được cảm giác của mình khi thấy dòng máu của chính mình chạy trong huyết mạch của người phụ nữ mà mình yêu thương.
    Giáo sư nhìn tôi một cách cương quyết. "Đủ rồi," ông ta nói. "Thế ư?" tôi phản đối. "Ông đã cho Arthur truyền nhiều hơn." Để trả lời, ông ta nở một nụ cười buồn bã.
    "Anh ta là người yêu, là vị hôn phu của cô ấy. Anh còn phải làm việc, làm nhiều việc cho cô ta và còn cho nhiều người khác nữa. Như vậy là đủ rồi."
    Khi chúng tôi chấm dứt cuộc phẫu thuật, ông ta chăm sóc cho Lucy, trong khi đó tôi ép mạnh lên vết thương của mình. Tôi nằm xuống, chờ ông ấy khi rảnh tay sẽ chăm sóc cho tôi, vì tôi cảm thấy chóang và yếu đi nhiều. Bây giờ thì ông ta băng bó xong vết thương của tôi, đưa tôi xuống uống một cốc rượu mạnh. Khi tôi rời khỏi phòng, ông ta đi sau tôi, nhếch mép cười.
    "Không có từ ngữ nào diễn tả được tâm hồn con người. Nếu anh chàng si tình trẻ tuổi của chúng ta đột ngột xuất hiện như lần trước, thì đừng nói gì với anh ta. Nó sẽ khiến anh ta đau khổ và ghen tức đấy. Vì vậy, không nói một lời nào cả. Thế đấy!"
    Khi tôi trở về phòng, ông ta liếc nhìn tôi cẩn thận, và lên tiếng, "Anh không đến nổi yếu lắm. Đi vào phòng, nằm lên ghế xofa và nghỉ ngơi một lát, rồi ăn một bữa sáng thật nhiều và sau đó lên đây với tôi."
    Tôi tuân theo lệnh của ông ta, tôi biết đó là những quyết định chính xác và sáng suốt. Tôi đã làm xong phần mình, và bây giờ bổn phận tiếp theo của tôi là phải duy trì sức khỏe của mình. Tôi cảm thấy rất yếu, và trong sự yếu ớt đó là sự kinh ngạc trước những gì xảy ra. Tôi nằm ngủ trên ghế xofa, nhưng vẩn vẩn vơ tự hỏi lại không biết vì sao mà Lucy lại đến nông nổi ấy, làm sao mà nàng lại mất nhiều máu đến thế mà không có dấu hiệu gì chỉ dẩn xem số máu ấy đi đâu. Tôi nghĩ rằng hẳn là tôi lại tiếp tục nỗi băn khoăn của mình trong giấc ngủ, do đó, trong khi ngủ tôi lại thấy trở lại những lỗ nhỏ trên cổ họng nàng, với những đường cạnh yếu ớt, xù xì, dù cho chúng vô cùng nhỏ.
    Lucy ngủ ngon trong suốt cả ngày, và khi nàng tỉnh giấc nàng cảm thấy tỉnh táo và khỏe mạnh, dù không bằng được ngày hôm trước. Khi Van Helsing thấy nàng tỉnh dậy, ông ta ra ngòai đi dạo một lát, và giao nàng lại cho tôi, với lời huấn thị nghiêm khắc rằng không được để nàng một mình dù trong khỏanh khắc. Tôi có thể nghe giọng ông ta vang lên trong tiền sảnh, hỏi đường đến trạm điện tín nào gần nhất.
    Lucy nói chuyện với tôi về đủ mọi thứ, hình như nàng chẳng biết gì về những chuyện đã xảy ra. Tôi cố giữ cho nàng vui vẻ và sảng khóai. Khi mẹ nàng vào thăm nàng, bà không biết những sự thay đổi đã diễn ra, và nói với tôi với vẻ biết ơn.
    "Chúng tôi nợ ông nhiều lắm, bác sĩ Seward, vì tất cả những gì mà ông đã làm, nhưng ông nên thật sự lo cho chính mình. Ông trông cũng xanh xao lắm rồi đó. Ông nên có một người vợ để chăm sóc và trông nom cho ông, ông ạ!" Trong khi bà nói, Lucy đỏ bừng mặt, nhưng chỉ trong thóang chốc, vì những mạch máu khô cạn tội nghiệp của nàng không đủ máu để truyền nhiều lên đầu. Nàng càng trở nên quá mức xanh xao khi phản ứng bằng cách đưa đôi mắt cầu khẩn nhìn tôi. Tôi mỉm cười và gật đầu, đưa ngón tay lên môi. Nàng thở phào, nằm trở lại trên gối. Van Helsing trở lại vài giờ sau, và ngay lập tức nói với tôi. "Bây giờ thì anh đi về, ăn nhiều và uống cho thỏa thích. Hãy giữ cho mình khỏe mạnh. Tôi ở đây tối nay và đến phiên tôi sẽ ngồi trông chừng. Anh và tôi phải theo dõi trường hợp này, và chúng ta đừng để cho ai biết. Tôi có lý do chính đáng.
    Nào, đừng có hỏi gì cả. Muốn nghĩ gì thì nghĩ. Đừng sợ suy nghĩ dù cho đó là những giả thuyết phi lý nhất. Tạm biệt."
    Trong tiền sảnh có hai người hầu gái đến gặp tôi, và yêu cầu cho một trong số họ có thể ngồi trông cô Lucy.
    Họ van nài tôi cho phép họ, và khi tôi nói rằng bác sĩ Van Helsing chỉ muốn ông ấy hoặc tôi ngồi trông chừng thôi, thì họ nói tôi hãy cố năn nỉ quý ông ngoại quốc' đó. Tôi động lòng bởi lòng tốt của họ. Có thể bởi vì lúc này tôi rấy yếu, hoặc cũng có thể do sự tốt bụng của Lucy, khiến họ hết lòng tận tụy với nàng. Trong một thóang chốc tôi cảm thấy mình trở nên dễ xúc động như phụ nữ. Tôi trở lại đây vừa kịp ăn một bữa trưa hơi trễ, kiểm tra mọi việc, chúng đều tốt đẹp, và tôi kiểm tra lại mọi việc trong khi chờ đi ngủ. Bây giờ thì mọi việc đã xong.
    Ngày 11 tháng Chín. Trưa hôm nay tôi trở lại Hillingham. Tôi thấy Van Helsing đang rất cao hứng, còn Lucy trông khá hơn nhiều. Một lúc sau khi tôi đến, có một gói hàng chuyển đến cho giáo sư. Tất nhiên là ông ta dành ngay lấy phần mở nó và lấy ra một bó hoa trắng,
    "Cái này là cho cô, cô Lucy," ông ta nói.
    "Cho tôi? Ôi, bác sĩ Van Helsing."
    "Vâng, cô bạn, nhưng không phải để cô vui chơi với nó đâu. Chúng là thuốc đó." Lúc này Lucy bắt đầu có vẻ ngơ ngác."Nào, nó không phải để sắc thành thuốc hay biến thành một thứ gì đó tanh nồng đâu, vì vậy cô đừng có hếch cái mũi quyến rũ của cô lên như thế, hoặc là tôi sẽ chỉ cho anh bạn Arthur của tôi thấy sự đau khổ mà anh ta phải gánh chịu khi thấy cái sắc đẹp tuyệt vời mà hắn say đắm lại trở thành méo mó thế kia. Đây là thuốc, nhưng cô không cần biết. Tôi sẽ để nó lên cửa sổ, rồi tôi kết thành một vòng hoa xinh xinh chòang qua cổ cô như thế này, và cô sẽ ngủ ngon. A, vâng! Chúng giống như những đóa sen sẽ khiến cô quên đi những đau khổ của mình. Nó có mùi giống thứ nước lãng quên ở âm phủ, và giống như nguồn nước tuổi trẻ mà Conquistadores đã mang lại một cách muộn màng cho Florida."
    Trong khi ông ta nói, Lucy xem xét bó hoa và ngửi chúng. Rồi nàng ném chúng xuống và cất tiếng, nữa cười cợt, nữa ghê tởm,
    "Ôi, giáo sư, tôi tin là ngài chỉ định đùa với tôi. Xem này, những đóa hoa này chỉ đơn thuần là hoa tỏi mà thôi."
    Trước sự ngạc nhiên của tôi, Van Helsing đứng dậy và nói bằng một giọng nghiêm khắc, chiếc cằm thép của ông nhô lên và đôi lông mày rậm nhíu lại,
    "Đừng có coi thường tôi! Tôi bao giờ đùa nhạo cả! Đấy là một mục đích tột cùng mà tôi muốn đạt đến, và tôi cảnh cáo cô đừng có cản trở nó. Hãy cẩn thận, bởi vì tôi làm chuyện này còn cho những người khác chứ không phải chỉ cho cô." Đoạn thấy Lucy tội nghiệp tỏ ra sợ hãi, dưới tác dụng hiển nhiên của những lời nói này, ông ta tiếp tục dịu dàng hơn, "Ôi, cô gái nhỏ, cô bạn thân, đừng sợ tôi.Tôi chỉ làm điều tốt cho cô thôi, và những đóa hoa tầm thường này có lợi cho cô nhiều lắm.
    Xem này, tôi tự tay đem chúng vào phòng cô. Tôi cũng tự tay kết thành vòng hoa cho cô đeo. Nhưng phải im lặng nhé! Đừng có nói với ai để họ đâm ra tò mò. Chúng ta phải tuân lệnh, và im lặng chính là một phần của sự vâng lời, và sự vâng lời sẽ mang lại cho cô sức khỏe để cô có thể ngã mình vào những cánh tay âu yếm đang chờ đợi cô. Nào, ngồi đó một lát nhé. Còn bạn John, đi với tôi nào, anh sẽ giúp tôi trang hòang căn phòng bằng những cây tỏi này, chúng được mang đến từ Haarlem, nơi anh bạn Vanderpool của tôi trồng chúng trong những nhà kiếng quanh năm. Tôi đánh điện vào hôm qua để hôm nay chúng có ở đây."
    Chúng tôi đi vào phòng, mang hoa theo. Giáo sư bắt đầu tiến hành công việc theo một cách rất lạ lùng mà tôi chưa hề nghe thấy trong một trình dược thư nào. Đầu tiên ông ta đóng chặt cửa sổ và cài then cẩn thận. Rồi ông ta nắm đầy những bông hoa, chà xát chúng trên những khung cửa, cố làm sao cho tòan bộ không khí thổi vào đều tràn ngập mùi tỏi. Rồi với một bó tỏi khác ông ta chà xát trên tất cả các thanh cửa, trên, dưới, mỗi cạnh, rồi chà quanh lò sưỡi y như vậy.
    Mọi việc xem ra quá kỳ cục, và tôi liền lên tiếng, "Giáo sư à, tôi biết ông luôn có những lý do cho việc làm của mình, nhưng lần này xem ra khó hiểu quá. May là ở đây không có một anh chàng hay hòai nghi nào, nếu không hắn sẽ nói là ông đang làm một số bùa chú để xua đuổi những linh hồn ma quỷ."
    "Có thể là tôi đang làm như vậy đấy!" Ông ta lặng lẽ trả lời khi ông kết một chuỗi hoa để Lucy quàng qua cổ.
    Chúng tôi đợi cho Lucy chuẩn bị đi ngủ, và khi nàng lên giường, ông ta đến và tự tay quàng chuỗi hoa tỏi quanh cổ nàng. Những lời cuối cùng ông nói với nàng là,
    "Hãy cẩn thận, đừng làm nát chúng, và thậm chí nếu như căn buồng này có vẻ ngột ngạt như thế nào đi nữa, cũng đừng mở bất kỳ cửa sổ hay cửa chính.
    "Tôi xin hứa," Lucy nói. "Và ngàn lần cám ơn ngài vì lòng tốt của ngài! Ôi, tôi phải làm gì để đền đáp cho những người bạn như thế này nhỉ?"
    Khi chúng tôi trở về nhà, trong sự nôn nóng của tôi, Van Helsing nói, "Tối nay tôi có thể ngủ ngon, và đó là giấc ngủ tôi cần, sau hai đêm rong ruổi, một ngày giữa chúng thì dùng để đọc, ngày tiếp theo thì sống trong lo âu, đến đêm thì ngồi trông chừng, chẳng dám nháy cả mắt. Đến sáng sớm mai thì anh đánh thức tôi, chúng ta sẽ đến thăm cô gái nhỏ của chúng ta, để thấy những bùa chú " của tôi công hiệu đến mức nào. Hô hô!"
    Ông ta tỏ ra tự tin khiến tôi nhớ lại chính vẻ tự tin của mình hai đêm trước với một kết cục bi thảm sau cùng, tôi lo lắng và sợ hãi một cách mơ hồ. Có lẽ do sự yếu đuối của mình nên tôi ngần ngại không nói điều đó ra với bạn mình, nhưng càng lúc tôi càng cảm thấy rõ cảm giác này, nó long lanh như những giọt lệ thầm.





  4. #12
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default




    Chương 11

    NHẬT KÝ CỦA LUCY WESTENRA



    Ngày 12 tháng 9. - Mọi người bọn họ đều thật tốt với tôi. Tôi rất mến ông bác sĩ Van Helsing thân thương.
    Tôi tự hỏi vì sao ông ta lại tỏ ra lo âu về những đóa hoa này. Ông ta đã làm tôi hết hồn, trông ông hung hăng quá. Nhưng chắc là ông ấy phải đúng thôi, những bó hoa này sẽ làm cho tôi được yên ổn. Ở một chừng mực nào đó, tôi không còn sợ phải ở một mình tối nay nữa, và tôi có thể đi ngủ mà chẳng sợ gì. Tôi sẽ chẳng buồn quan tâm đến những tiếng sột sọat bên ngòai cửa sổ nữa.Ôi, dạo gần đây tôi phải đối mặt với những sự việc kinh khiếp làm sao, nỗi đau khổ về chứng mất ngủ, hay đúng hơn là sợ phải đi ngủ, và những nổi khủng khiếp bí ẩn nào đó cứ đe đọa tôi!
    Những người khác thật là hạnh phúc, họ sống mà chẳng có sợ hãi, chẳng kinh hòang, họ đi ngủ khi đêm đến, và trong giấc ngủ chẳng có gì quấy rầy họ ngòai những cơn mộng đẹp. Được rồi, tối nay tôi sẽ nằm đây, hy vọng là sẽ ngủ ngon lành, giống như Ophelia trong vở kịch, với những ước mơ và hy vọng của người trinh nữ.' Trước đây tôi chưa hề ưa tỏi, nhưng tối nay thì chúng trông thật tuyệt! Thật là một mùi vị êm ái. Tôi cảm thấy giấc ngủ đang đến đây. Tạm biệt, mọi người.
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 13 tháng 9. - Tôi được gọi đến Berkeley và thấy Van Helsing, như thường lệ, đã sẳn sàng. Một cỗ xe đã đợi sẳn từ khách sạn. Giáo sư mang theo cái túi, dạo gần đây lúc nào ông cũng có nó bên người.
    Nào, hãy ghi chép lại cho thật chính xác nào. Van Helsing và tôi đến Hillingham lúc tám giờ. Thật là một buổi sáng đáng yêu. Ánh mặt trời rực rỡ và không khí trong lành của một buổi sáng sớm mùa thu khiến mọi người cảm thấy thiên nhiên đang thực hiện công việc hàng năm của mình một cách hòan hảo. Những chiếc lá nhuộm mình trong những sắc màu xinh đẹp khác nhau, nhưng vẩn chưa chịu buông rơi khỏi cành. Khi đến nơi, chúng tôi gặp bà Westenra đi ra khỏi phòng khác. Bà luôn là người dậy sớm. Bà đón chúng tôi rất nồng ấm và nói,
    "Các ông chắc là sẽ vui lắm khi biết rằng Lucy đã khá hơn. Con bé đáng yêu ấy vẩn còn đang ngủ. Tôi đã nhìn vào phòng nó và thấy nó, nhưng sợ đánh thức nó nên không bước vào." Giáo sư mỉm cười, và trông có vẻ rất khóai trá. Ông xoa tay vào nhau, lên tiếng, "Aha! Tôi nghĩ là tôi có thể chẩn bệnh cho ca này. Cách chữa bệnh của tôi là làm việc mà."
    Bà ấy trả lời,"Ngài đừng có dành hết công lao đấy nhé. Sáng nay Lucy khỏe lại cũng có phần của tôi đấy nhé."
    "Bà muốn nói gì thưa bà?" giáo sư hỏi
    "À, tối hôm qua tôi rất lo cho con bé đáng yêu ấy, nên đã đi vào phòng nó. Nó đang ngủ say, nên những tiếng động của tôi không làm cho nó thức giấc. Nhưng trong phòng ngột ngạt quá. Nó đầy những bông hoa có cái mùi nặng nề, kinh tởm và con bé còn đeo một tràng khác quanh cổ nó nữa. Tôi sợ là bầu không khí nặng nề như vậy sẽ có hại cho thể trạng ốm yếu của con bé, nên tôi mang sạch chúng ra ngòai, rồi mở cửa sở ra để đón một ít không khí trong lành. Tôi chắc là sáng nay ông sẽ hài lòng khi thấy nó."
    Bà ta đi vào phòng riêng của mình. Bà thường dùng bữa sáng của mình ở đấy. Trong khi bà đang nói, tôi quan sát khuôn mặt của giáo sư, và thấy nó đang trở nên tái xám. Ông ta chỉ có thể giữ được sự quân bình khi người đàn bà tội nghiệp kia còn đang ở đó, bởi vì ông biết sự đau yếu của bà và một cú sốc có thể gây ra tác hại như thế nào. Ông ta còn cố mỉm cười với bà khi ông mở cửa cho bà vào phòng. Nhưng ngay khi bà ta vừa biến mất thì ông đột ngột và mạnh mẽ kéo tôi phăng phăng vào phòng ăn và đóng cửa lại.
    Và, lần đầu tiên trong đời mình, tôi thấy Van Helsing kiệt sức. Ông giơ tay lên ôm đầu trong nỗi đau khổ câm lặng, và đấm vào lòng bàn tay mình một cách tuyệt vọng. Cuối cùng ông ngồi xuống ghế, đưa hai tay che mặt, và bắt đầu khóc, với những tiếng nức nở khô, nặng như đang tóat ra từ trái tim tan vỡ của ông ấy.
    Rồi ông ta giơ hai tay lên, như thể đang khẩn cầu với tòan vũ trụ. "Chúa ơi! Chúa ơi! Chúa ơi!" ông ta nói.
    "Chúng con đã làm gì, những con người tội nghiệp này đã làm gì, để rồi chúng ta phải chìm vào khổ ải như thế này? Phải chăng cái định mệnh từ cái thế giới man rợ cổ xưa ấy vẩn dai dẳng bám theo chúng con, nó vẩn tiếp tục diễn ra, vẩn tiếp tục hòanh hành? Người mẹ tội nghiệp, chẳng hay biết gì, cứ nghĩ là mình đã làm những gì tốt nhất cho con gái mình, nhưng không biết là bà đã đánh mất đi cả thể xác lẩn linh hồn của con mình, và chúng ta không được nói cho bà biết, thậm chí không được cảnh báo bà, nếu không bà ấy sẽ chết, cả hai sẽ chết. Ôi, chúng ta cùng đường rồi! Cái thế lực ma quái đang đối chọi với chúng ta thật là ghê gớm!"
    Thình lình ông ta nhảy bật dậy. "Đi nào," ông ta nói, "chúng ta phải đến xem xét và hành động. Ma quỷ hay không ma quỷ, hay là cả lũ ma quỷ ấy đến đây cùng lúc, thì cũng kệ thây chúng. Chúng ta sẽ giao chiến với nó, dù thế nào đi nữa."
    Một lần nữa tôi lại trở nên hóa đá, trong khi Van Hensing đi thẳng đến giường. Lần này ông ta không nhìn ngay lên khuôn mặt xinh đẹp với cái vẻ xanh xao như sáp đầy khủng khiếp đó nữa. Ông ta nhìn với vẻ buồn bã sâu lắng và lòng thương cảm không giới hạn.
    "Như tôi đã đóan trước," ông ta lẩm bẩm, với tiếng húyt vào đặc trưng nhiều ý nghĩa của mình. Không nói thêm lời nào, ông đi khóa cửa lại, rồi bắt đầu bày ra trên cái bàn nhỏ những dụng cụ để bắt đầu một cuộc phẫu thuật truyền máu khác. Tôi đã thấy trước công việc bắt buộc này. bắt đầu cởi áo khoác, nhưng ông ta ngăn tôi bằng bàn tay nóng bỏng. "Không!" ông ta nói."Hôm nay anh tiến hành phẫu thuật. Tôi sẽ cho máu. Anh vẩn còn yếu lắm." Và ông ta bắt đầu cởi áo khoác và xăn tay áo.
    Lại một cuộc phẫu thuật nữa. Lại một lần đánh thuốc mê nữa. Một lần nữa những sắc màu được trả về trên đôi má xám tro, và hơi thở nàng trở lại bình thường trong giấc ngủ sâu. Lần này tôi trông nom nàng trong khi Van Helsing tự chăm sóc mình và nghỉ ngơi.
    Sau đó ông ta tìm cơ hội nói chuyện với bà Westenra, để nói cho bà biết là đừng có lấy đi bất kỳ thứ gì trong phòng Lucy mà không báo cho ông. Những bông hoa là thuốc chữa bệnh, và thở cái không khí nồng nặc mùi của chúng mà một phần trong phương pháp điều trị. Rồi ông ta tiếp tục tự chăm sóc mình, nói rằng đêm nay và đêm sau ông ta sẽ thức trông, và sẽ kêu tôi đến khi nào đúng lúc.
    Một lúc sau, Lucy tỉnh dậy, tươi tỉnh và sảng khóai, nàng hầu như chẳng hay biết chút gì về sự thử thách khủng khiếp của mình.
    Tất cả những cái này nghĩa là gì? Tôi sợ là việc tôi đã sống một thời gian dài giữa những người mất trí đã bắt đầu tác động lên trí não của chính mình.
    NHẬT KÝ CỦA LUCY WESTENRA
    Ngày 17 tháng Chín. - Đã bốn ngày đêm trôi qua bình yên. Tôi trở lại khỏe mạnh đến nỗi chính tôi cũng không nhận biết được những gì xảy ra với mình. Có vẻ như là tôi vừa trải qua một cơn ác mộng dài, và bây giờ vừa tỉnh dậy để đón những tia nắng sáng rực rỡ và hít thở bầu không khí trong lành bao quanh mình.Tôi chỉ còn nhớ lờ mờ về một thời gian dài phiền muộn trong đợi chờ và sợ hãi, đen tối đến nỗi những hy vọng chỉ càng làm cho nỗi đau khổ trong hiện tại càng thêm cay đắng. Đó là một thời kỳ dài đầy quên lãng, và bây giờ tôi nhảy trở vào cuộc sống như là nhảy vào một dòng nước lớn.Từ dạo đó, dù bác sĩ Van Helsing vẩn ở bên tôi, nhưng những cơn ác mộng dường như đã qua hẳn rồi.
    Những tiếng động vẩn thường làm tôi kinh sợ đã ra khỏi tâm trí tôi, những tiếng vỗ cánh sột soạt ở ngòai cửa sổ, những giọng nói xa vắng nhưng lại rất gần với tôi, những âm thanh kinh khiếp đến từ đâu tôi không biết và ra lệnh cho tôi làm những việc mà tôi cũng không ý thức được, tất cả đã chấm dứt. Tôi lên giường mà không còn sợ giấc ngủ. Thậm chí tôi không cần phải cố giữ mình cho tỉnh táo. Càng ngày tôi càng thích mùi tỏi, và mỗi ngày người ta lại gửi cho tôi một thùng đầy từ Haarlem. Tối nay bác sĩ Van Helsing có việc phải đi, và ông ta phải ở lại cả ngày ở Amtersdam. Nhưng tôi không cần phải trông chừng nữa. Tôi đã đủ khỏe mạnh để ở một mình rồi.
    Xin cám ơn tấm lòng của Mẹ, anh Arthur thân yêu, và cho tất cả những người bạn đã tỏ ra thật tốt với tôi! Thậm chí tôi không thấy có gì biến đổi, khi mà tối hôm qua bác sĩ Van Helsing ngủ suốt trên chiếc ghế của ông. Tôi thấy ông ngủ hai lần khi tôi tỉnh giấc. Nhưng tôi chẳng sợ gì mà cứ ngủ tiếp, dù có tiếng vỗ cánh của một con dơi hay một tiếng động sột soạt nào đó, đầy giận dữ bên ngòai cửa sổ.
    NHẬT BÁO PALL MALL, ngày 18 tháng Chín.
    CUỘC PHỎNG VẤN CỦA CHÚNG TÔI VỀ CHUYẾN MẠO HIỂM GÂY CẤN CỦA MỘT CON SÔI TRỐN CHẠY.
    PHỎNG VẤN VỚI NGƯỜI CANH GÁC VƯỜN THÚ.
    Sau nhiều lần yêu cầu và nhiều lần bị từ chối, thì cuối cùng tờ "Nhật báo Pall Mall" cũng tìm thấy vận may quen thuộc của mình, tôi đã cố tìm được người canh gác vùng đất Vườn Thú, và cả khu đất bên trong. Thomas Bilder sống trong một ngôi nhà tranh trong khu rào đằng sau chuồng voi, và đang ngồi uống trà khi tôi tìm đến. Thomas và vợ ông ta là những con người đứng tuổi, mến khách, và nếu lấy sự đón tiếp tôi làm mẫu cho cuộc đón khách của họ đối với những người khách vô thưởng vô phạt, thì cuộc sống của họ cũng khá đầy đủ. Người gác vườn nhất định chưa chịu bắt đầu cái mà ông ta gọi là công việc làm ăn đến khi bữa khuya đã xong, và chúng tôi đã no nê. Sau khi bàn đã dọn xong, ông ta đốt tẩu, và nói,
    "Nào, thưa ngài. bây giờ thì ngài có thể bắt đầu hỏi tôi những gì ngày muốn. Xin ngài thứ lỗi là tôi đã từ chối nói chuyện trước bữa ăn. Tôi sẽ cho bọn chó sói, chó rừng, linh cẩu trong vùng đất của chúng ta bữa trà của chúng trước khi tôi bắt đầu hỏi chuyện chúng."
    "Ông nói như thế nào ạ, hỏi chuyện chúng à?" tôi đối đáp, hy vọng sẽ khiến cho người đối thoại trở nên cởi mở.
    "Tất cả bọn chúng trên trái đất này, ở tận vùng cực đi nữa, đều như nhau thôi. Nói thẳng vào tai chúng chỉ là nước đổ lá khoai, giống như bọn trai trẻ khoe khoang hợm hĩnh trước lũ con gái của chúng. Nếu muốn nói chuyện với nó, thì trước tiên tôi phải quăng ra cho nó vài miếng ăn, đợi chúng chén và uống cà phê xong xuôi, rồi tôi mới bắt đầu thì thào vào tai chúng. Thưa ngài." ông ta thêm vào một cách triết lý, "bản năng tự nhiên của chúng ta cũng giống như lũ vật ấy thôi. Ngài đến đây và hỏi tôi về công việc của tôi, và tôi trả lời chỉ để làm vui lòng ngài. Thậm chí nói một cách châm biến là khi ngài hỏi tôi thì tôi muốn ngài hỏi cấp trên của tôi xem ngài có thể hỏi tôi vài câu hỏi hay không. Tôi nói như vậy có xúc phạm ngài không ạ?"
    "Không sao."
    "Và để trả lời cho bài báo của ngài thì tôi dùng cái thứ ngôn ngữ thô thiển đã đi với tôi suốt cả thế giới này. Nhưng bây giờ với tôi mọi chuyện đã ổn. Tôi không còn phải chiến đấu nữa, và tôi đợi thức ăn, đợi bữa ăn của mình giống như bọn chó sói và sư tử quanh đây. Và, tận hưởng những vui thú của cuộc đời, khi có một người đàn bà quen thuộc mang cho tôi bữa trà, làm tôi ấm lòng với ấm trà cũ kỹ, tôi đốt cái tẩu của mình, thì ngài có thể phun vào tai tôi tất cả những gì ngài muốn, mà thậm chí sẽ chẳng nhận tiếng gầm gừ nào từ tôi. Nào, hãy bắt đầu những câu hỏi của ngài. Tôi biết ngài muốn gì rồi, con chó sói trốn thóat phải không."
    "Đích thị. Tôi muốn biết quan điểm của ngài về vụ này. Hãy nói với tôi xem nó đã xảy ra như thế nào, và khi đã rõ các sự kiện tôi muốn ngài nói về những suy nghĩ của ngài về nguyên nhân vụ này, ngài nghĩ rằng tất cả những chuyện này sẽ kết thúc như thế nào."
    "Được rồi, thưa ngài. Đây là là một câu chuyện thú vị đấy. Đấy là một con sói mà chúng tôi gọi là Bersicker, một trong ba con xám được chuyển từ Nauy đến Jamrach, và chúng tôi mang về đây đã bốn năm. Nó là một con sói dễ thương, chẳng bao giờ gây rắc rối khi chúng tôi muốn nói chuyện. Tôi rất ngạc nhiên khi nó lại muốn bỏ trốn, chẳng như các con thú khác trên vùng đất này. Thế đấy, ngài không thể tin được chó sói và phụ nữ."
    "Đừng có nghe lời ông ta, thưa Ngài!" bà Tom ngắt lời, với một tràng cười ngặt nghẽo."Ông ta sống giữa lũ động vật hoang quá lâu rồi nên chính ông ta riết rồi cũng giống như một con sói thật thụ! Nhưng ông ta chẳng gây hại gì đâu."
    "Vâng, thưa ngài. lúc đó là khỏang hai giờ sau giờ cho thú ăn hôm qua, thì tôi gặp sự rắc rối đầu tiên. Tôi đang đi qua khỏi khu chuồng khỉ để thăm một con báo trẻ bị ốm. Nhưng ngay khi tôi nghe thấy tiếng gào và tiếng tru tôi liền chạy đến ngày. Con Bersicker đang gào rống như đang lên cơn điên, cào cấu thanh chắn như muốn thóat ra ngòai. Lúc đó chẳng có nhiều khách thăm, và chỉ có một người khách đứng sát bên, một thằng cha cao, gầy, mũi cao và cằm nhọn, với một hàm răng trắng tóat. Hắn có cái nhìn lạnh lùng, đăm đăm, và tôi không ưa hắn chút nào, có những loại người luôn làm người khác phát cáu như vậy đấy. Hắn mang một đôi găng tay trắng, và hắn chỉ vào con vật rồi nói với tôi. "Anh gác thú, những con sói kia có vẻ có vấn đề đấy."
    "'Có thể là do ông đấy', tôi nói, vì tôi không ưa cái không khí mà thằng cha này mang lại. Hắn chẳng hề tỏ ra giận dữ như tôi hy vọng, mà hắn mỉm cười một cách xấc láo, với một đôi hàm răng đầy đặn, trắng tóat và sắc bén. Ồ không, chúng có vẻ không thích tôi,' hắn bảo.
    "'Ồ vâng, chúng như thế đấy', tôi nói, bắt chước hắn. Chúng luôn thích một hoặc hai khúc xương để làm sạch răng vào buổi trà, mà hình như ông có một túi đầy thì phải.'
    "Ờ, cũng thật là lạ, khi mà chúng tôi nói chuyện, bọn thú vật cứ nằm mọp xuống, rồi tôi đến bên Bersicker để ve vuốt tai nó như thường lệ. Đoạn người đàn ông kia cũng đi đến, và Chúa ôi, ông ta cũng đưa tay vân vê tai con chó sói!"
    "'Cẩn thận,' tôi nói.Bersicker nó nhanh lắm đấy.'
    "'Chẳng sao,' ông ta nói.Tụi nó đều từng là của tôi mà!'
    "'Tự ngài kinh doanh chúng sao?" tôi nói, ngã mũ, bởi vì những người buôn bán chó sói đều là bạn tốt của người gác thú.
    "'Không' ông ta nói,'không chính xác là công việc kinh doanh, nhưng tôi có nhiều con thú nuôi như thế.' và ông ta nhấc mũ lên với một phong cách quý phái như một ông chủ, rồi bỏ đi. Con Bersicker nhìn chăm chăm theo ông ta cho đến khi ông ta đi khuất, đoạn nằm mọp xuống ở một góc và không buồn di chuyển trong suốt cả buổi chiều ấy. Rồi đến tối hôm qua, ngay khi mặt trăng vừa lên, những con sói bắt đầu tru lên. Chẳng có gì đáng cho chúng tru lên như vậy.
    Không có ai ở gần bên, ngoại trừ một thứ tiếng mà rõ ràng là lời kêu gọi của một con chó lởn vởn đâu đó ở con đường công viên phía sau khu vườn thú. Tôi có ra đó một hai lần để xem mọi thứ có ổn hay không, và đột ngột, những tiếng sói kia im bặt. Ngay trước mười hai giờ, tôi định đi ra xem lại một lần nữa xem sao, nhưng khi tôi đến chỗ chuồng con Bersicker già thì tôi thấy hàng rào bị bẻ gãy và cuộn xoắn lại, còn chuồng thì rỗng không. Đó là tất cả những gì tôi biết."
    "Có ai thấy được điều gì khác nữa không?"
    "Một trong những người thổi kèn đi gần chỗ vườn thú lúc đó nói rằng hắn ta thấy bóng một con chó xám lớn phóng ra khỏi cạnh vườn thú. Cuối cùng, dù hắn nói như thế, nhưng tôi không tin lắm, bởi vì hắn chẳng hề nói tiếng nào khi hắn về tới nhà, chỉ sau khi việc con sói trốn thóat được làm rầm lên, chúng tôi tổ chức tìm kiếm Bersicker suốt đêm trong công viên , thì hắn mới nhớ ra là có nhìn thấy cái gì đó. Tôi cho rằng chính tay khổi kèn đó đã tự nghĩ ra mọi thứ."
    "Nào, thưa ông Bilder, ông có thể nhận định như thế nào về việc con sói bỏ trốn này hay không?"
    "Thưa Ngài,"ông ta nói, với một vẻ khiêm tốn đáng nghi, "Tôi nghĩ là tôi có một giả thuyết, nhưng không biết là ngài có hài lòng với nó không."
    "Tất nhiên là tôi rất vui mừng được nghe. Nếu một người như ông, với bao nhiêu kinh nghiệm tích tụ được về thú vật, lại không đưa lên một sự phỏng đóan nào, thì còn ai có thể làm được."
    "Ờ, thưa Ngài, tôi nhận định như thế này. Đối với tôi, việc con sói bỏ trốn, chỉ đơn thuần là nó muốn đi ra ngòai."
    Sau câu đùa cợt này, cả Thomas và vợ ông cùng phá lên cười ầm ĩ, khiến tôi cảm thấy câu trả lời như vậy đã được chuẩn bị trước, và tòan bộ lời giải thích của ông ta chỉ là một sự chơi khăm công phu. Tất nhiên là tôi không thể giải thích mọi chuyện theo cái cách của ngài Thomas đáng kính, bởi vì tôi nghĩ chắc chắn là ông ta có thể nói một cái gì đó, nên tôi nói, "Nào, thưa ông Bilder, có một nữa xôrơven đang dự định rời khỏi túi tôi và nữa còn lại đang chờ đợi để được nêu lên những gì ngài nói với tôi những phỏng đóan của ngài về những sự việc đã xảy ra."
    "Vâng, thưa Ngài,"ông ta lanh lẹ trả lời. "Ngài thứ lỗi cho tôi về cái trò bỡn cợt này, nhưng có một phụ nữ già cứ nháy mắt với tôi, đó là một lời thúc giục tôi hãy cứ làm đi."
    "Ê, tôi chẳng bao giờ làm như vậy!" người phụ nữ già kêu lên.
    "Ý kiến của tôi là, con sói ấy đang trốn ở đâu đó. Người phụ trách việc truy tìm, cái tên không bao giờ nhớ được mình nói gì, đã nói rằng con sói ấy phi nước đại lên đến tận phương bắc, nhanh hơn bất kỳ con ngựa nào, nhưng tôi chẳng hề tin hắn. Ngài thấy đấy, thưa Ngài, sói hay chó chẳng bao giờ phi nước đại nhanh hơn ngựa trong một quãng đường dài như vậy được.Những con sói thông minh chỉ tìm thấy trong sách vở thôi, và tôi càng tin chắc hơn khi họ thu về từ cuộc săn đuổi một mớ những cái gì đó từ một con chó săn mà họ bảo là một con quái vật kinh khủng đã xé nát nó ra.
    Nhưng mà, Chúa phù hộ ngài, một con sói hoang dã chỉ là một động vật cấp thấp chẳng thể thông minh hay gan dạ bằng một nữa một con chó tốt, và chẳng bằng một phần tám nếu giao chiến với chó. Con sói ấy sẽ không dám chủ động giao tranh với chó, và chắc hẳn là đang lẩn trốn đâu đó trong công viên, run rẩy, đang đi tìm một nơi mà nó nghĩ là có thể có được một bữa sáng cho nó. Hoặc nó có thể chui tọt xuống một nơi nào đó, chẳng hạn một hầm rượu dưới mỏ than.
    Tôi sẽ chẳng nghi ngờ thị giác của mình khi thấy một đôi mắt xanh lấp lánh trong bóng tối khi xuống bếp chuẩn bị bữa ăn. Nếu nó không có thức ăn thì nó sẽ đi tìm, và có thể nó sẽ thấy ánh đèn trong một hàng thịt nào đó. Nếu nó không làm vậy, thì khi các chị giữ trẻ bỏ đi chơi với một chàng trai trẻ hay một anh lính nào đó, để em bé nằm lại trong xe đẩy, - hừ, tôi sẽ không ngạc nhiên khi tại cuộc điều tra dân số người ta báo rằng có một em bé mất tích. Thế đấy."
    Tôi đưa cho ông ta nữa đồng xôvơranh, và khi đó có tiếng gõ ở ngòai cửa sổ, và khuôn mặt của ông Bilder trở nên tự nhiên gấp đôi với sự kinh ngạc của mình.
    "Chúa phù hộ tôi!" ông ta nói."Hình như con Bersicker già đang tự trở về!"
    Ông ta đi ra mở cửa, trong khi tôi vô cùng kinh ngạc. Tôi luôn luôn nghĩ rằng một con thú hoang sẽ không bao giờ trở nên thật sự thân thiện với con người bởi những ngăn cách về bản năng đối với chúng ta. Một người có kinh nghiệm sống sẽ càng đồng ý hơn là phản đối ý kiến này.
    Tuy nhiên, sau đó, mọi việc càng trở nên đáng ngạc nhiên, khi và Bilder và vợ ông ta cư xử với con sói giống như tôi cư xử với chó. Con thú tỏ ra hiền lành và dễ thương như những con sói cổ xưa được vẽ trong các bức tranh, trước kia là bạn của Red Riding Hood, cho đến khi lòng tin của nó bị phản bội bởi sự giả dối của con người.
    Sau đó là một hoạt cảnh pha trộn giữa bi và hài mà tôi khó diễn tả nên lời. Con sói kinh khiếp từng làm tê liệt cả London suốt nữa ngày trời, khiến cho tất cả mọi đứa trẻ trong thị trấn phải kinh hoàng, nay đứng đó với vẻ hối lối, nhận những cái vuốt ve như một đứa con trai lêu lỗng trở về. Ông Bilder già kiểm tra khắp người nó với vẻ sốt ruột và âu yếm, và khi kết thúc thì ông ta với vẻ ăn năn,
    "Đấy, tôi biết là cái thằng cha già này sẽ vướng vào một câu chuyện rắc rối mà. Tôi đã từng nói thế còn gì.
    Xem này, đầu nó bị cắt và vướng đầy những mảnh kính vỡ. Rõ ràng là nó đã bị thương khi phóng qua một bức tường hay đại loại thế. Thật là đáng xấu hổ khi có một số người tự cho phép mình gắn lên đỉnh tường những mảnh chai vỡ. Đó là những gì đã xảy ra. Thôi đi nào, Bersicker."
    Ông ta dắt con sói vào chuồng và khóa lại, cho nó những mẫu thịt bê lớn làm nó thỏa mãn con đói, và chấm dứt cuộc nói chuyện.
    Tôi cũng ra đi, để báo cáo lại những thông tin đặc biệt mới thu thập được trong ngày hôm nay về cuộc chạy trốn lạ lùng ở sở thú.
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ DIARY
    Ngày 17 tháng Chín. - Tôi định là sau bữa ăn tối sẽ tiếp tục nghiên cứu cuốn sách của mình, công việc này gần đây bị trì hoãn nhiều lần bởi những chuyến thăm Lucy. Thình lình cửa phòng mở tung, bệnh nhân quen thuộc của tôi chạy ào vào, khuôn mặt ông ta nhìn méo xệch đi giận dữ. Tôi bàng hòang, bởi vì chuyện một bệnh nhân lọt vào phòng nghiên cứu của trưởng viện là chưa bao giờ có.
    Không hề nói gì, ông ta lao thẳng về phía tôi. Ông cầm một con dao trong tay, và vì vậy lúc này ông ta rất nguy hiểm đối với tôi. Tôi cố giữ cái bàn ngăn cách giữa hai người. Nhưng ông ta quá nhanh và quá mạnh với tôi, tôi còn chưa kịp lấy thăng bằng thi ông ta đã đâm tôi và cắt phải cổ tay trái của tôi một vết sâu.
    Tuy nhiên, trước khi ông ta kịp tấn công lại, tôi đã phản công trúng đích bằng tay phải, và ông ta ngã bổ chửng ra nền nhà. Máu chảy ròng ròng từ cổ tay của tôi, và nhỏ xuống thành vũng trên tấm thảm. Tôi thấy ông bạn của tôi không định tấn công nữa, nên quay sang chăm sóc vết thương của mình, tất nhiên là vẩn cảnh giác quan sát cái hình người đang phủ phục trước mặt. Khi những người phục vụ lao vào, chúng tôi tập trung quan sát ông ta, và cái việc ông ta đang làm thật là làm tôi phát ốm. Ông ta nằm dán bụng trên mặt đất, và liếm lấy liếm để vũng máu chảy ra từ vết thương trên cổ tay của tôi, trông chẳng khác gì một con chó. Thật đáng ngạc nhiên là ông ta không phản kháng gì khi những người phục vụ mang ông ta đi, mà chỉ đơn giản lặp đi lặp lại, "Máu là cuộc sống! Máu là cuộc sống!"
    Tôi không thể để mất máu lúc này. Gần đây cơ thể tôi đã mất khá nhiều máu, và việc kéo dài đầy tình trạng bệnh lý căng thẳng của Lucy đã khiến tôi kinh sợ. Tôi đã quá mệt và kiệt lực. Tôi cần phải nghỉ ngơi, nghỉ ngơi, nghỉ ngơi. May thay Van Helsing không triệu tập tôi, và không cần phải mất ngủ. Tối nay không được ngủ thì chắc tôi chết mất.
    ĐIỆN TÍCH, VAN HELSING, ANTWERP GỬI CHO SEWARD, CARFAX
    (Gửi đến Carfax, Sussex, do ở hạt không gửi ngay, nên đã đến chậm hai mươi bốn giờ)
    Ngày 17 tháng Chín. - Nhất định phải có mặt ở Hillingham tối nay. Nếu không thể ngồi trông suốt, thì cố thường xuyên vào theo dõi và chú ý xem những bông hoa có đặt đúng chỗ hay không. Rất quan trọng, đừng sơ xuất. Sẽ đến ngay chỗ anh ngày mai.
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 18 tháng Chín. - Vừa trượt chuyến tàu đi London. Bức điện tín của Van Helsing đã khiến tôi mất hết tinh thần. Tôi đã mất cả một đêm, và tôi không biết biết là có chuyện khủng khiếp nào đã xảy ra. Tất nhiên là có thể mọi việc đều êm đẹp, nhưng cái gì có thể xảy ra nhỉ? Chắc chắn là có một câu chuyện kinh dị ghê gớm nào đó đang treo lơ lửng trên đầu tôi khiến mọi tai nạn có thể xảy ra sẽ ngáng trở những nỗ lực của chúng tôi.
    Tôi sẽ đem theo một dĩa và có thể tiếp tục hòan thành nốt những điều ghi chép của tôi bằng máy quay dĩa của Lucy.
    NHỮNG BẲN GHI CÒN LẠI CỦA LUCY WESTENRA
    Ngày 17 tháng Chín, đêm khuya. - Tôi viết những dòng này và để nó lại, để đừng có thêm ai rơi vào những điều khủng khiếp như tôi. Nó ghi lại chính xác những gì xảy ra tối nay. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ chết vì bệnh tật, và chỉ còn đủ sức để viết lại, nhưng tôi phải làm xong việc này nếu như tôi chết trong khi đang làm nó.
    Tôi lên giường như thường lệ, chú ý để những bó hoa ở những vị trí mà bác sĩ Van Helsing đã chỉ dẩn, và nhanh chóng ngủ thiếp đi.
    Tôi bị đánh thức bởi những tiếng vỗ cánh ở cửa sổ, hiện tượng này bắt đầu xảy ra với tôi kể từ ngày tôi mộng du đến tận vách đá ở Whitby mà Mina đã cứu tôi, và bây giờ tôi cảm thấy điều đó một cách rõ ràng. Tôi không sợ, nhưng tôi ước sao có bác sĩ Seward ở phòng bên, bác sĩ Van Helsing nói là sẽ gọi anh ấy tới, để tôi có thể gọi anh ta khi cần thiết. Tôi cố ngủ, nhưng không thể. Cái cảm giác sợ hãi giấc ngủ khi trước lại trở về với tôi, và tôi quyết định sẽ thức. Nhưng giấc ngủ bướng bĩnh kia cứ nhất định đến khi tôi không muốn nó chút nào. Ôi, tôi sợ sự cô độc của mình, tôi mở cửa và gọi lên"Có ai ở đây không?" Không có tiếng trả lời.
    Tôi sợ đánh thức mẹ, nên đóng cửa lại. Ở bên ngòai, chỗ những bụi cây, có một tiếng gì đó giống như tiếng sói tru, nhưng hung dữ và bí ẩn hơn. Tôi đến cửa sổ và nhìn ra, nhưng không thấy gì, ngòai một con dơi lớn, đang hung hăng đập cánh vào cửa sổ. Tôi leo lên giường trở lại, và quyết định không ngủ nữa. Ngay lúc đó cửa mở ra, và mẹ nhìn vào. Qua cử động của tôi, biết tôi chưa ngủ, mẹ đến và ngồi bên tôi. Mẹ nói với tôi một cách dịu dàng và ngọt ngào hơn thường lệ,
    "Mẹ rất lo cho con, con yêu, và đến để xem con có sao không."
    Tôi sợ mẹ ngồi như vậy sẽ bị lạnh, nên nó mẹ đi vào ngủ với tôi. Mẹ lên giường, và nằm cạnh tôi. Mẹ không cởi áo dài, vì mẹ nói mẹ chỉ nằm với tôi một chút và sẽ trở về giường. Khi mẹ nằm cạnh tôi, tôi ôm mẹ và mẹ ôm tôi, thì tiếng vỗ và đập cánh từ cửa sổ lại tiếp tục vang lên. Mẹ giật mình, hỏang sợ và kêu lên, "Cái gì thế?"
    Tôi cố làm mẹ yên lòng, và cuối cùng cũng thành công, mẹ cũng nằm lại bình tĩnh hơn. Nhưng tôi vẩn nghe trái tim tội nghiệp của mẹ đập thình thịch một cách sợ hãi. Một lúc sau, lại có tiếng sói tru ở khu bụi cây, và liền sau đó là có tiếng va chạm ở cửa sổ, những mảnh kiếng vỡ rơi xuống nền nhà. Cửa sổ bị che khuất đi, cùng với một cơn gió thổi mạnh vào, và giữa khe hở của khung kiếng vỡ là cái đầu của một con chó sói xám lớn, hung dữ.
    Mẹ kêu lên kinh hòang, và cuống cuồng bật dậy, hỏang loạn vớ lấy bất kỳ cái gì trong tầm tay có thể giúp mẹ. Trong số đó, có cả chuỗi hoa mà bác sĩ Van Helsing đã khăng khăng đòi đeo qua cổ tôi, mẹ giật lấy nó và xé nó ra khỏi người tôi. Một hai giây sau mẹ ngồi lại, chỉ về phía con sói, từ họng bà thốt lên những âm thanh cuồn cuộn lạ lùng. Rồi bà ngã vật ra như bị sét đánh, đầu bà chạm vào trán tôi làm tôi nảy đom đóm.
    Cả căn phòng như quay cuồng. Tôi cố nhìn về phía cửa sổ, nhưng con sói đã rút đầu đi, và cả một đám bụi thổi ào vào khung cửa sổ vỡ, cuộn tròn thành một cột bụi di động giống như những cơn bão cát ở xa mạc. Tôi cố nhúc nhích, nhưng dường như là bị ai đó ám bùa, lại thêm cơ thể của mẹ hình như đã trở nên lạnh tóat vì tim mẹ đã ngừng đập, làm cho tôi không sao cử động, và tôi không còn nhớ gì thêm về những gì xảy ra sau đó.
    Khoảng thời gian này không dài, nhưng rất, rất khủng khiếp, cho đến khi tôi phục hồi được ý thức. Gần chung quanh tôi, nghe như có những tiếng chuông rung vang. Những con chó ở những nhà hàng xóm bên cạnh tru lên, và có vẻ như đâu đó trong những bụi cây bên ngòai, đêm đen đang cất lên bài ca của mình. Tôi gần như u mê và ngây dại với thương tích, với đau khổ và với bệnh tật, nhưng âm thanh của bóng đêm hình như giống như giọng của mẹ tôi vọng lại để an ủi tôi. Những âm thanh này cũng làm cho các người hầu gái thức giấc, và tôi có thể nghe tiếng chân trần của họ chạy vội đến bên cửa.
    Tôi gọi họ, họ đi vào, và khi họ thấy chuyện gì đã xảy ra, khi họ thấy ai đang nằm phía trên tôi, họ la hoảng lên. Gió thổi qua khung cửa sổ vỡ, và cửa đóng sầm lại. Họ nâng thi thể của mẹ lên, sau khi tôi ngồi dậy, họ đặt mẹ lên giường, đắp cho mẹ tấm chăn. Họ trông quá hoảng sợ và căng thẳng đến nỗi tôi ra lệnh cho họ vào phòng ăn và uống mỗi người một cốc rượu.
    Cánh cửa mở ra trong một thóang và lại đóng sầm lại. Những người hầu gái kêu thét lên, và lao vội vào phòng ăn. Tôi đặt những đóa hoa của tôi lên ngực mẹ. Khi làm điều này, tôi nhớ đến những điều bác sĩ Ven Helsing đã nói với tôi, nhưng tôi không muốn lấy lại nó, ngòai ra, còn có những người hầu sẽ ngồi lại với tôi. Tôi ngạc nhiên không thấy những người hầu không trở lại. Tôi gọi họ, nhưng không có tiếng trả lời, nên tôi đi vào phòng ăn để kiếm họ.
    Tim tôi dường như mềm nhũn ra khi tôi thấy chuyện gì xảy ra. Cả bốn người bọn họ nằm lăn bất lực trên sàn nhà, hơi thở nặng nề. Cái bình thon cổ đựng rượu vang trên bàn chỉ còn lại một nữa, nhưng có một mùi chua đáng ngờ tỏa ra từ nó. Tôi nghi ngại, liền xem lại cái bình. Nó có một cái mùi giống như thuốc phiện, và khi nhìn qua cạnh bàn bên kia, tôi thấy chai thuốc mà bác sĩ của mẹ đã cấp cho bà, chai thuốc đã được dùng cạn. Tôi làm gì bây giờ? Tôi làm gì bây giờ? Tôi trở về phòng với Mẹ. Tôi không thể bỏ mẹ lại, và tôi phải một mình bảo vệ cho những người hầu đã ngủ say vì bị ai đó đánh thuốc mê. Một mình còn lại với cái chết! Tôi không dám đi ra ngòai, vì tôi nghe thấy tiếng hú trầm trầm của một con sói bên ngòai khung kính vỡ.
    Không khí chung quanh đầy những bụi, di động và cuộn tròn quanh cái lỗ thông ở cửa sổ, sáng lên một thứ ánh sáng xanh lờ mờ. Tôi làm gì bây giờ? Chúa sẽ bảo vệ tôi khỏi những tai họa đêm nay! Tôi sẽ giấu những tờ giấy này vào ngực, để người ta có thể tìm thấy khi khâm liệm tôi. Mẹ đã đi rồi! Và bây giờ là lúc chính tôi cũng sẽ ra đi. Tạm biệt, anh Arthur thân yêu, nếu như em không còn sống qua nỗi đêm nay. Chúa sẽ gìn giữ cho anh, và Chúa sẽ giúp em!





  5. #13
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default








    Chương 12

    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD



    Ngày 18 tháng Chín. - Tôi thuê xe đến Hillingham ngay và đến nơi rất sớm. Để chiếc xe ngựa thuê ngòai cổng, tôi đi một mình vào lối đi. Tôi nhẹ nhàng gõ cửa và cố rung chuông thật khẽ, vì tôi sợ đánh thức Lucy hoặc mẹ nàng, và hy vọng rằng chỉ có người hầu ra mở cửa. Sau một lúc, vẩn không có ai trả lời, tôi gõ cửa và rung chuông lần nữa, vẩn không ai trả lời. Tôi chửi rủa thói lười biếng của những người hầu, lúc này đã mười giờ, vậy mà họ hình như vẩn còn nằm trên giường. Tôi gõ cửa và rung chuông lần nữa, sốt ruột hơn, nhưng vẩn không có ai trả lời. Đến lúc này, tôi không còn chỉ đổ lỗi cho người hầu nữa, mà bắt đầu cảm thấy có một nỗi sợ hãi xâm chiếm mình. Chẳng lẽ đây lại là một mắc xích nữa của chuỗi xích khủng khiếp đang bao quanh chúng tôi, xiết chặt chúng tôi vào sự đau khổ?
    Chẳng lẽ tôi đã đến quá trễ và đây chỉ còn là một ngôi nhà của cái chết? Lúc này tôi biết rằng chỉ một phút, thậm chí một giây chậm trễ cũng có nghĩa là làm cho tình cảnh của Lucy càng thêm nguy hiểm gấp bội, nếu như nàng đang ở trong một tình trạng khủng khiếp, nên tôi chạy vòng quanh ngôi nhà để tìm một ngõ đột nhập vào. Tôi không tìm thấy một lối đi nào cả. Các cửa chính và cửa sổ đều được khóa và cài then cẩn thận, và tôi trở về lại lối đi chính dưới vòm cửa. Ngay lúc đó, tôi nghe thấy một tiếng xe ngựa gấp gáp đang đến.
    Chúng dừng lại ngay cổng, và vài giây sau tôi gặp Van Helssing đang chạy đến trên lối đi. Khi ông thấy tôi, ông ta hổn hển, "Vậy là anh cũng vừa mới đến? Cô ta thế nào? Chúng ta đã trễ rồi sao? Anh có nhận được điện của tôi không?"
    Tôi cố trả lời thật nhanh và mạch lạc rằng tôi chỉ vừa nhận được nó sáng nay và ngay lập tức đến đây ngay, không bỏ qua một phút nào, nhưng không có ai trong nhà nghe thấy tiếng tôi. Ông dừng lại, nhấc mũ lên và trầm giọng nói, "Tôi sợ là chúng ta đã trễ, đó là ý Chúa!"
    Với khả năng phục hồi năng lực quen thuộc của mình, ông ta tiếp tục, "Đến đây. Nếu như không có một một con đường nào mở ra cho chúng ta đi vào, thì chúng ta phải tự tạo ra một lối. Thời gian là tất cả đối với chúng ta lúc này."
    Chúng tôi vòng xuống phía sau căn nhà, nơi có một cánh cửa sổ dưới bếp. Giáo sư lấy ra một dụng cụ phẫu thuật nhỏ trong va ly, và đưa nó cho tôi, chỉ về phía những thanh thép đã đang chắn ngang cửa sổ. Tôi cắt chúng ngay, và cắt được ba thanh rất nhanh. Sau đó chúng tôi dùng một con dao dài và mỏng đẩy bật được then cài của khung cửa và mở được nó. Tôi giúp giáo sư được vào, và đi theo ông. không có ai trong nhà bếp hay trong phòng của người hầu, các cửa phòng này đều đóng chặt. Chúng tôi thử đi tìm trong tất cả các phòng, và trong phòng khách, với thứ ánh sáng lờ mờ chiếu qua cửa chớp, chúng tôi thấy bốn người hầu gái đang nằm dài trên nền nhà. Họ chắc chắn là chưa chết, bởi vì họ đang thở mạnh, và không khí bốc lên mùi chua của thuốc phiện đã chỉ rõ lên tình cảnh của họ hiện giờ.
    Van Helsing và tôi nhìn nhau, và khi chúng tôi quay đi ông ta nói "Chúng ta có thể chăm sóc cho họ sau." Và chúng tôi đi vào phòng của Lucy. Chúng tôi ngừng lại một thóang ngay cửa để lắng nghe, nhưng không thể nghe thấy một âm thanh nào cả. Với những cánh tay run rẩy và khuôn mặt trắng bệch, chúng tôi mở cửa nhẹ nhàng và đi vào phòng.
    Tôi phải tả lại cảnh tượng mà chúng tôi thấy như thế nào? Nằm trên giường là hai người phụ nữ, Lucy và mẹ nàng. Người sau nằm xa hơn, được bao phủ bởi tấm vải trải giường trắng, cạnh bị thổi tung lên bởi cơn gió từ khung cửa sổ vỡ, lộ một khuôn mặt đau khổ, trắng bệch, mà vẻ hãi hùng còn đọng lại trên nó. Nằm cạnh bà là Lucy, mặt nàng cũng trắng bệch và trông còn đau khổ hơn.
    Những bông hoa bao quanh cổ nàng thì bây giờ được đặt trên ngực mẹ nàng, cổ họng nàng để trần, với hai vết thương nhỏ mà chúng tôi đã thấy trước đây, nhưng trông trắng và nham nhở một cách kinh khủng. Không nói một lời, giáo sư cúi xuống bên giường, đầu ông gần như chạm vào ngực của Lucy tội nghiệp. Rồi ông quay đầu lại rất nhanh, tuồng như vừa nghe thấy cái gì đó, và kêu lớn lên với tôi, "Chưa phải là quá trễ! Nhanh! Nhanh lên! Mang rượu mạnh tới đây!"
    Tôi lao xuống cầu thang và mang rượu lên ngay, tất nhiên là cẩn thận ngửi và nếm thử để bảo đảm là nó không bị tẩm thuốc mê giống như cái bình thon cổ trên bàn. Những người hầu vẩn còn thở, nhưng đã bắt đầu cửa động, và tôi đóan là thuốc mê đã gần như tan hết. Tôi không ở lại xem xét, mà chạy về ngay chỗ Van Helsing. Giống như những lần trước, ông chà rượu lên một và lợi nàng, rồi xoa cổ tay và bàn tay nàng. Ông nói với tôi, "Tôi có thể lo ở trên này được, còn những thứ khác phải sẳn sàng. Anh xuống đánh thức những người hầu dậy. Lau mặt họ bằng những khăn ướt, và lau mạnh lên. Nói họ chuẩn bị lửa, lò sưởi và một phòng tắm nóng. Linh hồn tội nghiệp này đã lạnh lẽo như sắp rời khỏi thể xác mình. Cô ta cần phải được sưởi ấm trước khi chúng ta làm những cái khác."
    Tôi đi ngay, và sau một hồi loay hoay đã đánh thức được ba người phụ nữ. Người thứ tư là một cô gái trẻ, và ảnh hưởng của thuốc mê lên cô ta mạnh hơn, nên tôi để cô lên xofa và cho cô ngủ tiếp.
    Những người khác đờ đẩn lúc đầu, nhưng khi trí nhớ đã trở lại, họ gào và khóc tóang lên một cách kích động. Tuy nhiên, tôi lạnh lùng bảo họ hãy ngừng lại.Tôi nói rằng hãy còn một sự sống đang chập chờn sắp tắt, và nếu họ chậm trễ tức là họ sẽ hy sinh cô Lucy. Do vậy, dù vẩn khóc và nấc, họ vội vã lao đi làm công việc của mình, mặc cho áo quần vẩn còn xộc xệch, chuẩn bị nước và lửa. May thay, nhà bếp và nồi đun vẩn còn nguyên, và nước nóng thì có sẳn. Chúng tôi chuẩn bị nhà tắm và đưa Lucy vào, đặt nàng vào nước nóng.
    Trong khi chúng tôi còn đang chà xát tay chân nàng thì có tiếng gõ cửa ở cửa chính. Một người hầu chạy ra, vội vã thay quần áo và mở cửa. Một lát sau cô ta quay vào thì thầm với chúng tôi rằng có một quý ngài đến với một thông điệp của ông Holmwood. Tôi nói cô ta ra nói với người đàn ông đấy rằng ông ta phải đợi, vì chúng tôi không thể tiếp ai lúc này. Cô ta chạy đi chuyển lời này, còn chúng tôi bận túi bụi với công việc của mình, tôi gần như quên bẵng anh ta.
    Trước đây tôi chưa bao giờ thấy giáo sư làm việc với sự tận lực như vậy. Cũng như ông, tôi biết là chúng tôi đang giao chiến trực diện với thần chết, và tôi nói ông hãy tạm nghĩ. Ông trả lời tôi theo một cách mà tôi không hiểu nỗi, nhưng với cái nhìn nghiêm khắc nhất đọng lại trên khuôn mặt ông.
    "Nếu như đấy là tất cả thì tôi có thể dừng ở đây và để cho cô ta ra đi trong an bình, bởi vì tôi không còn thấy một tia sáng nào của sự sống nào ở đường chân trời định mệnh của cô ta." Ông ta tiếp tục công việc, tiếp tục với những nỗ lực tột cùng không ngừng nghỉ.
    Cuối cùng thì dưới những nỗ lực của chúng tôi, cái nóng đã bắt đầu có tác dụng. Đã có thể nghe thấy nhịp tim yếu ớt của Lucy và phổi nàng bắt đầu cửa động. Khuôn mặt Van Helsing trở nên rạng rỡ, và khi chúng tôi mang nàng ra khỏi nhà tắm, cuộn nàng trong tấm chăn khô, ông nói với tôi, "Kết quả đầu tiên của chúng ta! Thần Chết đã bị chặn lại!"
    Chúng tôi mang Lucy vào một căn buồng khác đã chuẩn bị sẳn, để nàng nằm lên giường và nhỏ vài giọt rượu mạnh lên cổ họng nàng. Tôi chú ý rằng Van Helsing quấn một cái khăn tay mềm chung quanh cổ họng nàng.
    Nàng vẩn còn bất tỉnh, và trông rất yếu đến nỗi trước đây chưa bao giờ chúng tôi thấy nàng tệ hơn mức ấy.
    Van Helsing gọi một trong số những người hầu, nói cô ta ở đây với nàng và không rời mắt khỏi nàng cho đến khi chúng tôi quay lại, và ra hiệu cho tôi ra khỏi phòng.
    "Chúng ta phải bàn xem phải làm gì?" ông ta nói khi chúng tôi xuống cầu thang. Trong tiền sảnh, ông ta mở cửa phòng ăn, chúng tôi đi vào, và ông cẩn thận đóng cửa lại. Cửa chớp vẩn mở, nhưng bóng tối vẩn dày đặc, tuân theo nghi thức về cái chết của một phụ nữ Anh quốc mà những người hầu đã triệt để tuân theo. Vì vậy căn phòng trông tối lờ mờ. Tuy nhiên, vẩn đủ sáng để nói chuyện. Vẻ cương nghị của Van Helsing đã có phần giảm đi bởi sự bối rối. Ông rõ ràng đang lúng túng với một vấn đề nào đó, và sau khi tôi đợi một lúc, ông lên tiếng.
    "Chúng ta làm gì bây giờ? Chúng ta phải cầu cứu với ai đây? Chúng ta phải truyền máu ngay cho cô gái, và phải làm sớm, nếu không thì cuộc sống của cô gái tội nghiệp kia sẽ không còn quá một giờ nữa. Anh đã truyền hết số máu có thể cho cô ta. Tôi cũng vậy. Tôi không dám tin vào những người phụ nữ kia, ngay cả khi họ được khuyến khích để tự nguyện. Chúng ta làm gì được cho một người để bảo họ hãy mở rộng huyết mạch của mình cho cô ta?"
    "Thế còn tôi thì sao?"
    Giọng nói này vọng qua phòng từ chiếc ghế xofa, và âm sắc của nó khiến tôi trở nên an ủi và vui mừng, vì đó là giọng của Quincey Morris.
    Khi mới nghe giọng nói này, Van Helsing nổi giận, nhưng khuôn mặt ông trở nên dãn ra và mắt ông ánh lên vẻ vui mừng khi tôi kêu lên, "Quincey Morris!" và chạy vội đến chỗ cậu ấy với đôi tay dang rộng.
    "Cậu làm gì ở đây?" Tôi nói khi tay chúng tôi chạm nhau.
    "Chắc là do Art."
    Cậu ấy đưa tôi tờ điện tín. - Đã ba ngày nay chẳng nghe Seward nói gì cả, và tớ rất lo sợ. Tớ không đi được. Cha tớ vẩn chưa khá hơn. Hãy cho tớ biết Lucy ra sao. Đừng chậm trễ. - Holmwood.'
    "Tớ nghĩ là tớ đến đúng lúc đấy. Cậu chỉ cần bảo cho tớ biết tớ cần làm gì."
    Van Helsing bước đến, nắm lấy tay cậu ấy, nhìn thẳng vào mắt cậu ta và nói, "Máu của một người đàn ông can đảm là thứ mà người phụ nữ cần nhất khi gặp khó khăn. Anh là người đàn ông không có gì đáng phàn nàn. Tốt, bọn ma quỷ đang chống lại chúng ta với tất cả thế lực của chúng, nhưng Chúa đã gửi đến cho chúng ta người mà chúng ta cần."
    Một lần nữa chúng tôi lại thực hiện cuộc phẫu thuật ghê rợn kia. Tôi không tâm trí đâu để mô tả nó chi tiết. Lucy đã trải qua một cơn sốc kinh hoàng, và lần này tác dụng của nó mạnh hơn các lần trước, nên dù máu đã chạy tuôn vào huyết mạch nàng, nàng vẩn không có sự phản ứng tốt đẹp như những lần trước. Cuộc vật lộn để trở về cuộc sống của nàng là một cái gì đó rất ghê gớm để thấy và nghe. Tuy nhiên hoạt động của tim và phổi nàng đã được cải thiện, và Van Helsing lại tiêm dưới da nàng một liều thuốc mê, và nó lại có tác dụng tốt như lần trước. Cơn đau của nàng đã trở thành một giấc ngủ sâu. Giáo sư chăm sóc nàng trong khi tôi xuống cầu thang với Quincey Morris, và nói một người hầu gái ra trả tiền cho những người đánh xe ngựa vẩn còn đứng đợi.
    Tôi để Quincey nằm nghỉ sau khi uống một cốc rượu vang, và nói đầu bếp chuẩn bị một bữa sáng giàu dinh dưỡng. Rồi với những ý nghĩ thôi thúc, tôi đi trở lại căn phòng mà đêm trước Lucy đã nằm. Khi tôi nhẹ nhàng đi vào, tôi thấy Van Helsing đang cầm trong tay một hoặc hai tờ giấy ghi chép. Ông rõ ràng là đang đọc nó, và đang suy nghĩ về nó khi tay ông gác lên lông mày. Có một vẻ thỏa mãn dữ tợn trên khuôn mặt ông, như là khi một người tìm ra được một lời giải cho một vấn đề đáng nghi. Ông đưa cho tôi những tờ giấy và chỉ đơn giản nói, "Nó rơi ra khỏi ngực Lucy khi chúng ta mang cô ta vào nhà tắm."
    Khi tôi đọc nó xong, tôi đứng sững nhìn giáo sư, và sau một lúc, tôi hỏi ông, "Nhân danh Chúa, những cái này có nghĩa là gì? Hoặc là nàng đã, hay đang điên, hoặc những sự khủng khiếp nguy hiểm này là gì?" Tôi quá khích động đến nỗi không nói nên lời. Giáo sư đưa tay ra lấy những tờ giấy, nói,
    "Đừng làm rộn lên chuyện này lúc này. Bây giờ thì hãy quên nó đi. Anh sẽ biết và sẽ hiểu tất cả khi đúng lúc, nhưng sẽ là sau này. Bây giờ thì anh đến gặp tôi để nói về chuyện gì?" Câu hỏi này đem tôi trở về với thực tại, và tôi quay lại với chính mình.
    "Tôi đến để bàn với ông về giấy báo tử. Nếu chúng ta không tiến hành nó một cách khôn ngoan và khéo léo, thì sẽ khiến cho người ta mở cuộc điều tra, và sẽ gây ra những phiền tóai giấy tờ khác. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ không cần một cuộc điều tra nào cả, vì nếu chúng ta làm như vậy thì đó là một cách chắc chắn để chúng ta giết Lucy. Tôi biết, ngài biết và tất cả các bác sĩ khác đã chữa trị cho bà ấy đều biết rằng bà Westenra bị bệnh tim, và chúng ta có thể xác nhận rằng bà chết vì căn bệnh này. Vậy chúng ta hãy điền những mục cần thiết vào tờ giấy xác nhận này, và tôi sẽ mang nó đến phòng lục sư, và tiếp đó là dịch vụ mai táng."
    "Đúng lắm, anh bạn John! Những ý nghĩ đúng lắm! Cô Lucy trung thực, nếu như cô ta đau buồn bởi những điều khổ đau đang vây lấy cô, thì hẳn cô ta cũng hạnh phúc khi có được những người bạn yêu cô đến thế.
    Một, hai, ba, và tất cả đều mở rộng huyết mạch của mình vì cô, ngòai ra còn thêm một ông già vào số đó nữa. A, phải, tôi biết, anh bạn John ạ. Tôi đâu có mù đâu! Tôi yêu anh hơn tất cả vì đức tính này! Nào, tiến hành đi."
    Trong tiền sảnh tôi gặp Quincey Morris, với tờ điện tín cho Arthur để kể cho cậy ấy rằng bà Westenra đã chết, còn Lucy đang ốm nhưng bây giờ thì đã khá hơn, và hiện giờ Van Helsing và tôi đang chăm sóc cô ấy. Tôi nói với cậu ấy về mục đích chuyến đi của tôi, và cậu ấy vội vã đuổi theo, vì tôi vừa đi vừa nói, "Khi cậu trở lại, Jack, tớ có thể hỏi cậu một hai từ về tất cả mọi chuyện của chúng mình không?". Tôi gật đầu để trả lời và đi luôn. Tôi chẳng gặp rắc rối gì ở phòng lục sự, và sắp xếp với dịch vụ mai táng địa phương để họ đến đo áo quan vào buổi tối và chuẩn bị tang lễ.
    Khi trở về, tôi thấy Quincey đang đợi. Tôi nói với cậu ấy rằng tôi sẽ gặp cậu ta ngay sau khi tôi thăm Lucy, và đi vào phòng nàng. Nàng vẩn còn đang ngủ, và giáo sư đang ngồi bất động trên cái ghế cạnh giường nàng.
    Thấy ông đặt tay lên môi, tôi hiểu rằng ông đã chờ đợi nàng tỉnh dậy sau một lúc lâu và đang lo lắng về tình trạng mê man của nàng. Vì vậy tôi xuống chỗ Quincey và cùng với cậu ta đi vào phòng ăn sáng, nơi mà bóng bối không dày đặc, và nó trông vui vẻ hơn, hoặc đúng hơn là ít buồn bã hơn những phòng khác.
    Khi chỉ còn lại chúng tôi, cậu ấy nói với tôi, "Jack Seward, tớ không muốn đẩy mình vào những nơi mà đáng lẽ tớ không nên có mặt, nhưng đây là trường hợp đặc biệt. Cậu cũng biết là tớ yêu cô gái này và muốn lấy nàng làm vợ, mặc dù đấy chỉ là chuyện quá khứ và mọi chuyện đã qua, nhưng tớ vẩn không thể ngăn mình không cảm thấy lo lắng cho nàng trong lúc này.
    Điều tồi tệ nào đã xảy ra với nàng? Cái ông người Hà Lan ấy, theo tớ thì đấy là một ông già tốt bụng, đã nói khi cả hai người bọn cậu bước vào phòng rằng bọn cậu cần phải làm một đợt truyền máu tiếp cho nàng, và cả cậu lẩn ông ấy đều đã truyền tất cả số máu có thể được cho nàng, Bây giờ, tớ biết rằng trong cuộc sống cậu là một con người của y khoa, một con người mà người ta không nên chờ đợi sẽ nói ra về những gì thuộc phạm vi chuyên môn riêng tư. Nhưng trường hợp này không phải là một vấn đề chung chung, và dù nó là cái gì đi nữa, tớ cũng đã làm phần của tớ. Phải thế không?"
    "Đúng vậy." Tôi trả lời, và cậu ấy tiếp tục.
    "Tớ biết rằng cả cậu lẩn Van Helsing đều đã làm công việc mà tớ đã làm hôm nay, đúng không?"
    "Đúng vậy."
    "Và tớ đóan là Art cũng đã làm như vậy. Khi tớ thấy cậu ta bốn ngày trước ở chỗ cậu ấy trông cậu ta rất yếu.
    Tớ chưa bao giờ thấy một cái gì làm cho con người ta mau xuống sắc đến như vậy trừ cái lần tớ ở Pampas với một con ngựa cái đã cùng tớ chu du trên thảo nguyên suốt cả đêm. Có một con vật thuộc họ dơi khổng lồ mà người ta gọi là ma cà rồng đã hút máu nó trong đêm, đến nỗi sáng hôm sau con ngựa của tớ không còn sức để đứng vững nữa, và tớ phải cho nó một viên đạn khi nó ngã gục. Jack, nếu cậu có thể nói với tớ mà không ngại là tiết lộ những chuyện riêng tư, thì Arthur là người đầu tiên, có đúng không?"
    Trong khi nói, người đàn ông trẻ tội nghiệp trông đau khổ khủng khiếp. Cậu ấy hẳn là rất đau buồn khi chậm trễ hiến dâng cho người phụ nữ mà cậu ta yêu, và việc cậu ấy hoàn toàn không biết gì về những nỗi phiền muộn đang vây lấy nàng càng làm vết thương của cậu ta thêm đau xót. Trái tim cậu ấy rỏ máu, mang đi những nét nam tính của cậu ta, và chỉ có những nét vương giả tự nhiên của cậu ta mới giữ cho cậu ta không ngã quỵ.
    Tôi ngập ngừng trước khi trả lời, vì tôi cảm thấy tôi phải phản bội việc giáo sư yêu cầu tôi phải giữ kín, nhưng khi mà cậu ấy đã biết nhiều chuyện như vậy, khi mà cậu ấy đã đóan được nhiều chuyện như vậy, và vì không có lý do gì để không trả lời, tôi trả lời với cùng một giọng.
    "Đúng vậy."
    "Và chuyện đó đã xảy ra bao lâu rồi?"
    "Khỏang mười ngày."
    "'Mười ngày!Và tớ đóan rằng, Jack Seward ạ, rằng trong suốt thời gian ấy cái tạo vật dễ thương tội nghiệp mà tất cả chúng ta đều yêu dấu đã được truyền vào huyết quản máu của bốn người đàn ông khỏe mạnh. Cơ thể của nàng, của một người sống, không thể chứa hết chúng được." Và đến gần sát với tôi, cậu hạ giọng nhưng âm sắc đầy mãnh liệt. "Cái gì đã lấy nó đi?"
    Tôi lắc đầu. "Đấy là một điều nan giải" tôi nói" Van Helsing đã đau đầu với nó, và tớ cũng không thể giải quyết được. Tớ cũng không thể đóan một cách may rủi được. Có hàng loạt những sự kiện đã vượt ra ngòai sự tính tóan của chúng tớ khi trông chừng cho Lucy. Nhưng nó sẽ không xảy ra lần nữa. Chúng tớ sẽ ở đây cho đến khi mọi chuyện đều kết thúc, theo nghĩa này hoặc nghĩa khác."
    Quincey đưa tay ra. "Cho tớ tham gia với." cậu ta nói. "Cậu và ông Hà Lan kia sẽ nói tớ những việc cần phải làm, và tớ sẽ làm."
    Khi tỉnh dậy khá trễ vào buổi chiều, việc làm đầu tiên của Lucy là là tìm trong ngực mình, và lấy ra tờ giấy mà Van Helsing đã đưa cho tôi đọc, trước sự ngạc nhiên của tôi. Giáo sư đã chu đáo đặt nó lại và chỗ cũ, để nàng khỏi giật mình khi tỉnh dậy. Khi nàng nhìn thấy Van Helsing và thấy cả tôi, nàng lộ vẻ vui mừng. Đoạn nàng nhìn khắp phòng, và rùng mình khi nhận ra mình đang nằm ở đâu. Nàng thốt lên một tiếng kêu lớn, và đưa những bàn tay gầy guộc lên khuôn mặt trắng bệch của mình.
    Cả hai chúng tôi đều hiểu rằng nàng đã biết hết về cái chết của mẹ mình, vì vậy chúng tôi cố an ủi nàng. Dù rằng nàng nhận thấy dễ dàng sự cảm thông này, nhưng nàng vẩn rất đau buồn, nàng lặng lẽ và yếu ớt khóc một lúc lâu. Chúng tôi nói với nàng rằng một trong hai chúng tôi sẽ luôn ở bên nàng, và điều này làm nàng có phần vui lên. Đến chạng vạng thì nàng lơ mơ ngủ. Lúc này diễn ra một sự việc rất lạ lùng. Trong khi vẩn đang ngủ, nàng lấy tờ giấy ra khỏi ngực mình và xé làm đôi. Van Helsing bước đến và giật lấy những mẫu giấy này.Tuy nhiên, trong lúc đó nàng vẩn tiếp tục làm động tác xé, giống như những mẫu giấy vẩn còn trong tay nàng. Cuối cùng nàng giơ tay lên và mở rộng bàn tay giống như đang tung những mảnh vụn lên. Van Helsing trông khá ngạc nhiên, lông mày nhíu lại như đang suy nghĩ, nhưng ông ấy không nói gì cả.
    Ngày 19 tháng Chín. - Cả đêm nàng ngủ chập chờn, và luôn có vẻ rất sợ giấc ngủ, và nàng trở nên yếu hơn khi tỉnh dậy. Giáo sư và tôi thay phiên nhau thức canh, không lúc nào không có người chăm sóc nàng.
    Quincey Morris chẳng nói gì về mục đích của cậu ta, nhưng tôi biết cả đêm cậu tra đi tuần tra vòng vòng quanh ngôi nhà.
    Khi đến ban ngày, những tia nắng sáng đã soi rõ sự hủy hoại đối với sức khỏe của Lucy. Nàng rất khó cử động nổi đầu mình, và số thức ăn ít ỏi mà nàng cố ăn cũng chẳng làm nàng tốt hơn. Khi nàng ngủ, cả Van Helsing và tôi đều chú ý đến những sự khác nhau của nàng, giữa lúc thức và lúc ngủ.Trong khi ngủ, nàng trông khỏe mạnh hơn, dù hốc hác hơn, và hơi thở của nàng nhẹ nhàng hơn. Môi nàng mở rộng để lộ hàm lợi trắng dần lên từ răng, và hàm răng nàng rõ ràng là dài hơn và sắc nhọn hơn thường lệ. Khi thức giấc, nàng tự nhìn lại chính mình, như là đang hấp hối. Vào trưa nàng yêu cầu gọi Arthur, và chúng tôi đánh điện cho cậu ta. Quincey đi đón cậu ấy tại nhà ga.
    Khi cậu ấy đến thì đã gần sáu giờ, trời vẩn còn sáng và ấm áp, những tia sáng chiếu qua cửa sổ và mang lại một chút sinh khí trên đôi má trắng bệch. Khi nhìn thấy nàng, Arthur chỉ đơn giản là chết lặng đi, và không một ai trong số chúng tôi có thể nói lên lời. Hàng giờ trôi qua, và những giấc ngủ mê man cứ đến rồi đi với chu kỳ mỗi lúc một gần hơn, khiến cho những cuộc nói chuyện lại càng ngắn đi. Arthur ngồi đấy, nhưng cứ như là không còn lý trí nữa. Nàng trấn tĩnh được một lúc, và nói với cậu ấy rằng nàng rất vui mừng khi thấy chúng tôi đến. Cậu ấy cũng cố trấn tĩnh mình, và nói với tất cả sự vui mừng có thể tạo ra được rằng mọi điều tốt đẹp nhất sẽ đến.
    Lúc này đã gần một giờ, và cậu ấy cùng Van Helsing vẩn ngồi với nàng. Tôi cố an ủi họ khỏang mười lăm phút, rồi ghi lại những điều này bằng chiếc máy quay đĩa của Lucy. Đến sáu giờ thì họ cố nghĩ ngơi một lát. Tôi sợ rằng đến sáng mai thì cuộc họp mặt của chúng tôi sẽ chấm dứt, và cú sốc này thật là khủng khiếp biết bao. Linh hồn trẻ tội nghiệp ấy không thể bình phục được. Xin Chúa hãy giúp tất cả chúng con.
    THƯ CỦA MINA HARKER GỬI LUCY WESTENRA
    (Thư đã không được mở bởi người nhận)
    Ngày 17 tháng Chín
    Lucy thân,
    "Đã lâu rồi kể từ khi mình nhận được thư bạn, hay đúng ra là từ lần mình viết trước đây. Bạn hẳn sẽ tha lỗi cho mình, khi mình bắt bạn phải nghe đủ thứ chuyện linh tinh của mình. Thế đấy, mình và chồng mình đều khỏe cả. Khi chúng mình đến Exeter, đã có sẳn một chuyến xe ngựa đợi mình, và ngồi bên trong nó là ông Hawkins, dù ông ấy đang bệnh. Ông ấy đưa chúng mình về nhà ông ta, ở đấy chúng mình đã được dành sẳn những căn buồng xinh đẹp và tiện nghi, và chúng mình ăn tối với nhau. Sau bữa ăn, ông Hawkins nói,
    "Các bạn trẻ thân mến, tôi muốn mừng cho sức khỏe và sự thịnh vượng của các bạn, và chúc mừng cho sự có mặt của các bạn ở nơi đây. Tôi biết cả hai bạn từ khi các bạn còn nhỏ, và đã vui mừng cùng kiêu hãnh theo dõi các bạn lớn lên. Bây giờ tôi muốn các bạn hãy ở cùng một nhà với tôi. Tôi chẳng có con cháu gì cả. Tất cả đã được sắp đặt, và tôi sẽ để lại mọi thứ cho các bạn." Mình khóc đấy, Lucy ạ, khi Jonathan và người bạn già siết tay nhau. Đó là một buổi chiều rất, rất hạnh phúc đối với chúng mình.
    Thế là chúng mình ở đây, trong một ngôi nhà cổ xinh đẹp, và từ cả phòng ngủ lẩn phòng khách mình đều có thể nhìn thấy một cây du khổng lồ của một nhà thờ gần đó, với thân cây lớn đen vươn lên từ hướng đối diện với lớp đá vàng cổ kính của nhà thờ, mình có thể nghe thấy lũ quạ ngồi lê đôi mách phía trên cãi cọ nhặng xị suốt cả ngày, và tiếp theo bọn quạ ấy là đến con người. Không cần phải nói chắc cậu cũng biết là mình rất bận rộn với công việc nhà và nội trợ. Jonathan và ông Hawkins làm việc suốt ngày, vì bây giờ anh Jonathan đã trở thành người hùn vốn, ông Hawkins muốn nói cho anh ấy biết về những khách hàng.
    "Mẹ của bạn dạo này thế nào? Ước gì mình có thể phóng về thị trấn thăm bạn một hai ngày nhỉ, nhưng mình không dám, vì hiện giờ có quá nhiều công việc đang đổ xuống vai mình, và anh Jonathan vẩn trông còn yếu lắm. Anh ấy bắt đầu có da có thịt hơn, nhưng anh ấy trông vẩn còn xanh xao lắm sau một căn bệnh dài như vậy. Thậm chí đến bây giờ đôi khi anh ấy vẩn bật dậy đột ngột trong giấc ngủ và run bần bật cho đến khi mình có thể dỗ ngọt anh ấy quay về với sự tĩnh lặng bình thường. Tuy nhiên, tạ ơn Chúa, những chuyện như vậy xảy ra ngày càng ít đi, và ngày tháng dần qua, có vẻ như những chuyện khủng khiếp của quá khứ đã trôi qua hẳn rồi, mình tin là như vậy.
    Còn bây giờ sau khi mình đã kể cho bạn nghe về chuyện của mình, đến lượt mình hơi bạn. Khi nào bạn sẽ cưới, ở đâu, và ai sẽ thực hiện nghi lễ, bạn sẽ mặc cái gì, và bạn định làm đám cưới công khai hay riêng tư? Hãy kể với mình về chúng đi, bạn thân yêu, kể với mình về mọi thứ, bởi gì không có gì bạn thích mà mình lại không thích cả. Anh Jonathan nói mình gửi cho bạn sự tấm lòng kính trọng' của anh ấy, nhưng mình không nghĩ như thế là đủ đối với người hùn vốn trẻ tuổi của hãng Hawkins&Harker. Và bây giờ, khi mà bạn yêu mình, anh ấy yêu mình, và mình yêu bạn ở mọi cách và thì của động từ, mình chỉ đơn giản gửi cho bạn tình yêu' của anh ấy thay vào. Tạm biệt nhé, Lucy thân yêu, và chúc bạn mọi điều tốt lành." Bạn của bạn, Mina Harker
    BÁO CÁO CỦA PATRICK HENNESSEY, MD, MRCSLK, QCPI, ETC, ETC, CHO JOHN SEWARD, MD
    Ngày 20 tháng Chín,
    Kính thưa Ngài:
    "Theo yêu cầu của ngài, tôi ngài bản báo cáo về tình hình mọi chuyện xảy ra khi tôi coi sóc viện. Về phần bệnh nhân Renfield, thì vẩn còn có chuyện để nói. Ông ta lại có một đợt lên cơn nữa, và có thể dẩn đến một kết cục kinh khiếp, nhưng may thay cuối cùng không có một kết quả không vui nào. Đến trưa thì có một chuyến xe bò với hai người đàn ông đỗ lại tại căn nhà hoang nằm tiếp giáp với vùng đất của chúng ta, ngôi nhà mà ngài hẳn còn nhớ là bệnh nhân đã hai lần chạy đến đó. Những người đàn ông dừng lại tại cổng viện của chúng ta để hỏi đường, như vậy họ là những người lạ.
    "Tôi đang đứng nhìn từ cửa sổ của phòng nghiên cứu, đốt một điếu thuốc sau bữa chiều, thì thấy một người đàn ông trong số họ tiến lại gần căn nhà. Khi anh ta đi ngang cửa sổ phòng của Renfield, bệnh nhân bắt đầu tỏ ra hung hãn với anh ta, và gọi anh ta bằng những từ ngữ xấu xa nhất mà ông ta có thể tuôn ra trên đầu lưỡi. Người đàn ông kia, tỏ ra một người đàn ông được giáo dục tử tế, chỉ dừng lại ở việc nói bệnh nhân hãy câm cái miệng ăn mày hôi hám lại', trong khi người bệnh của chúng ta buộc tội anh ta đã ăn cướp của ông, muốn ám sát ông và nói rằng ông ta sẽ làm mọi chuyện để ngăn cản điều đó.
    Tôi mở cửa sổ và ra hiệu cho người đàn ông kia đừng chú ý, anh ta sau khi nhìn quanh để tự ước lượng vùng đất mà anh ta sẽ đi, an ta trả lời. Chúa sẽ phù hộ cho ngài, thưa ngài. Tôi không để bụng những lời được nói từ một nhà thương điên đâu. Tôi thông cảm cho ngài và những người khác phải sống trong một nhà với những con thú dại như vậy.'
    "Đoạn anh ta hỏi đường tôi một cách nhã nhặn vừa đủ, và tôi chỉ cho anh ta cổng của ngôi nhà hoang. Anh ta lên đường, và đuổi theo anh là những lời đe dọa, nguyền rủa cùng xỉ vả của ông bạn của chúng ta. Tôi đi xuống để thử tìm hiểu nguyên nhân của cơn giận dữ này, vì rằng ông ta là một người đàn ông dễ tính, trừ phi những cơn hung bạo bộc phát bất ngờ của ông nổi lên. Tôi khá là ngạc nhiên khi thấy ông ta đã trở nên bình tĩnh và có một dáng vẻ gần như là hoàn toàn thân ái.
    Tôi thử nói với ông ta về vụ rắc rối vừa qua, nhưng ông ta dịu dàng hỏi tôi rằng tôi đang nói về cái gì vậy, và làm ra vẻ rằng ông ta đã hoàn toàn quên biến hết những chuyện vừa rồi. Tuy nhiên, tôi xin được thứ lỗi phải nói rằng, đó chỉ một trong những trò xảo trá của ông ta, vì mới cách đây nữa giờ tôi còn nghe ông ta eo sèo. Ngay lúc đó ông ta phóng qua cửa sổ phòng mình, và chạy vội ra đường lớn. Tôi gọi những người phục vụ đi theo mình, và chạy theo ông ta, vì tôi sợ rằng ông ta lại định gây ra một trò phiền tóai khác. Sự lo sợ của tôi đã được xác nhận khi tôi thấy chiếc xe bò khi nãy đang đi xuống đường ở phía trước, chở theo một cái thùng gỗ lớn.
    Những người đàn ông đang chùi trán và lau mặt, như thể vừa làm xong một công việc nặng nhọc. Trước khi tôi bắt kịp bệnh nhân, ông ta đã lao đến chỗ họ, lôi một người đàn ông ra khỏi xe bò và bắt đầu nện đầu anh ta xuống đất. Nếu tôi không kịp tóm lấy ông ta ngay, tôi tin là có thể ông ta đã giết chết người kia. Những người khác nhảy xuống và đánh ông ta bằng cán của những cái roi ngựa lớn. Đó là những đòn nặng, nhưng ông ta dường như không cảm thấy gì, vẩn giữ chặt người đàn ông kia, và lắc lư giằng co với cả ba chúng tôi, đẩy chúng tôi văng lung tung như thể chúng tôi là những con mèo con. Ngài cũng biết rằng tôi đâu phải là người nhẹ ký, còn những người khác thì đều là những tay lực lưỡng cả.
    Thọat tiên ông ta chiến đấu một cách thầm lặng, nhưng khi chúng tôi bắt đầu khống chế được ông ta, và những người phục vụ bắt đầu quàng áo trói lên người ông, thì ông ta bắt đầu gào to lên, "Tôi sẽ chống lại họ! Họ không thể cướp của tôi! Họ sẽ không thể giết tôi từ từ như vậy được! Tôi sẽ chiến đấu vì Ông Chủ và Chúa Tể của tôi!" cùng với những lời gào thét khác không ra đầu ra đũa đại loại như vậy. Khó khăn lắm họ mới lôi ông ta về lại nhà và ném ông ta vào phòng cách ly. Một trong những người phục vụ, Hardy, bị gãy ngón tay. Tuy nhiên, tôi thì không sao, và ông ta thì ổn cả.
    "Hai người trên xe bò lúc đầu la lối, dọa là sẽ trả đũa những hư hại này, rằng sẽ buộc chúng tôi phải trả lời trước pháp luật về những sự việc vừa qua. Tuy nhiên, sự dọa nạt tức giận của họ cũng trộn lẩn với sự xấu hổ ngấm ngầm khi hai người như họ lại bị bại trận trước một người điên yếu ớt. Họ nói rằng nếu bữa nay họ không phải hao tốn sức khỏe để vận chuyển và nâng cái hộp nặng chình chịch kia lên xe, họ sẽ giải quyết ông ta nhanh chóng.
    Họ còn đưa thêm lý do cho sự bại trận của họ rằng họ bị khát cháy cổ trong những công việc nặng nhọc của mình, và phải di chuyển trên những quãng đường xa lắc để hòan thành những dịch vụ công cộng của mình ở bất kỳ hang hốc nào. Tôi hiểu được mục đích của họ, và sau khi đã nốc một cốc rượu Groc, và thêm vào đó mỗi anh được dúi vào tận tay một đồng xôvơranh, họ đã dịu đi, và họ thề rằng họ khi họ gặp lại cái thằng cha điên hung hăng kia ở bất kỳ chỗ nào, hắn cũng sẽ không thể khỏe mạnh như hôm nay được. Tôi ghi lại tên và địa chỉ của họ, phòng trường hợp có thể cần thiết. Họ là: Jack Smollet, Khu Dudding, Đường Vua George, Great Wlwarth, và Thomas Snelling, Phố Peter Farley, Hạt Guide, Bethnal Green. Cả hai người bọn họ là nhân viên của Công ty Vận chuyển và Chuyên chở Harris và Các con trai, Orange Master Yard, Soho.
    "Tôi sẽ gửi báo cáo cho ngài về bất kỳ những chuyện đặc biệt nào xảy ra ở đây, và sẽ đánh dây thép ngay cho ngài khi có chuyện gì đặc biệt quan trọng.
    "Xin hãy tin tưởng tôi, thưa Ngài,
    "Trân trọng,
    "Patrick Hennessey."
    THƯ CỦA MINA HARKER GỬI CHO LUCY WESTENRA
    (Thư không được mở bởi người nhận)
    Ngày 18 tháng Chín
    "Lucy thân,
    "Tai họa đã đột ngột đổ ập xuống đầu chúng mình. Ngài Hawkins đã qua đời bất ngờ. Điều này thật là quá đau buồn đối với chúng mình, bởi vì cả hai chúng mình đều rất yêu ông và thật sự cảm thấy như mình mất một người cha. Mình không hề biết mặt cha mẹ mình, và vì vậy cái chết của một người đàn ông già thân thương thật sự là một cú sốc với mình.
    Jonathan buồn ghê gớm. Anh ấy không chỉ cảm thấy đau buồn, đau buồn sâu sắc, vì người đàn ông đã làm bạn với anh ấy trong suốt cuộc đời anh ấy đến nay, mà còn đó là sự chấm hết việc anh ấy được xem như một con trai mà phải gánh hết gia tài, một việc mà những người trong thời đại chúng ta thường mơ ước về sự giàu có đằng sau những giấc mơ tham lam, nhưng Jonathan lại cảm thấy khác. Anh ấy nói rằng những trách nhiệm mà anh ấy đang phải gánh lấy khiến anh ấy căng thẳng.
    Anh ấy bắt đầu nghi ngờ chính mình. Mình cố làm anh ấy vui lên, và niềm tin của mình đối với anh ấy sẽ giúp anh ấy trở nên tự tin với chính mình. Nhưng đây là một cú sốc trầm trọng nhất mà anh ấy trải qua. Ôi, thật là khó để một con người dịu dàng, đơn giản, cao thượng và khỏe mạnh một cách tự nhiên như anh ấy, những bản chất tự nhiên đã khiến cho người bạn thân yêu của chúng mình nâng đỡ anh ấy từ một nhân viên trở thành một ông chủ chỉ trong vài năm, hồi phục lại khỏi những chấn thương khi mà những tính chất ấy mất đi.
    Bỏ qua cho mình nhé, bạn thân yêu, khi mà mình lại quấy rầy bạn trong khi bạn lại ngập tràn trong hạnh phúc, nhưng Lucy thân yêu ơi, mình phải có ai đó để tâm sự, trong khi phải căng thẳng giữ cho anh Jonathan trở lại can đảm và vui vẻ, và ở đây chẳng có ai mà mình tin tưởng. Mình đang phải gấp rút đến London, và chúng mình phải có mặt ở đó ngày mốt, vì ngài Hawkins tội nghiệp muốn được chôn cất chung một khu mả với cha ngài. Vì ngài chẳng còn thân nhân, anh Jonathan sẽ đứng ra chủ trì tang lễ. Mình sẽ cố đến thăm bạn, bạn thân yêu, nếu như có được dù chỉ dăm phút rảnh rỗi. Bỏ qua cho mình đã quấy rầy bạn nhé. Với những lời chúc tốt lành,
    Bạn thân
    Mina Harker
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 20 tháng Chín. - Chỉ có nghị lực và sở thích mới khiến tôi tiếp tục viết tiếp những dòng này. Tôi đã quá đau khổ, quá mất tinh thần, quá chán ngán với thế giới và những gì bên trong nó, bao gồm cuộc sống của chính tôi, và tôi chẳng buồn quan tâm nếu như trong lúc này tôi nghe thấp tiếp đập cánh của thần chết. Và hắn đang đang đập những cái cánh u ám của hắn rất trúng đích dạo gần đây, mẹ Lucy và cha Arthur, và bây giờ... Hãy để tôi tiếp tục công việc của mình.
    Tôi đến đổi canh với Van Helsing để trông chừng Lucy theo đúng lịch định. Chúng tôi muốn Arthur cũng đi nghỉ, nhưng cậu ấy từ chối. Chỉ đến khi tôi nói với cậu ấy rằng chúng tôi muốn cậu ấy giúp đỡ chúng tôi vào ban ngày, rằng chúng tôi không được để mình kiệt sức vì mất ngủ, để Lucy khỏi thêm đau lòng, cậu ấy mới chịu đi.
    Van Helsing rất thương cậu ấy. "Đến đây, con trai," ông nói. "Đi với ta. Anh đang đau ốm và yếu ớt, anh đang buồn bã và chấn động tâm thần, với tất cả những gánh nặng đang đổ xuống sức khỏe của anh mà chúng ta biết rõ. Anh không được đơn độc, bởi vì sự đơn độc sẽ càng khiến con người thêm sợ hãi và hỏang hốt. Hãy đi đến phòng khách, ở đó có một lò sưỡi lớn, và cũng có hai cái ghế xofa nữa. Anh sẽ ngủ trên một cái, và tôi ngủ trên cái còn lại, chúng ta sẽ cảm thông và an ủi cho nhau, ngay cả khi chúng ta không nói chuyện, ngay cả khi chúng ta đang ngủ."
    Arthur đi ra với ông ấy, ném một cái nhìn dài và thương cảm về khuôn mặt của Lucy, vẩn đang nằm trên gối, trắng hơn cả một tấm vải. Nàng nằm bất động, còn tôi nhìn quanh phòng để xem xét mọi thứ. Tôi nhận thấy giáo sư đã mang vào phòng này, giống như căn phòng khác, những sản phẩm của tỏi mà ông ấy đã dùng. Tòan bộ các khung cửa sổ đều được thoa tỏi, và chung quanh cổ Lucy, trên một cái khăn tay lụa mà Van Helsing đã bao quanh cổ nàng, là một bó lớn của loại hoa này.
    Lucy vẩn nằm thở hổn hển, và mặt nàng trông yếu hơn bao giờ hết, với đôi môi mở rộng phơi ra hàm lợi trắng. Răng nàng, trong bóng tối lờ mờ, sáng trắng lên, trông dài và bén nhọn hơn lúc sáng. Đặc biệt, chắc là do ảo giác của ánh sáng, răng nanh của nàng trông dài và sắc bén hơn những chiếc còn lại.
    Tôi ngồi cạnh nàng, và lúc đó nàng chuyển động với vẻ nặng nhọc. Cùng lúc đó có tiếng đập hay vỗ nhè nhẹ ở cửa sổ. Tôi đi đến thật nhẹ nhàng, và nhìn trộm qua góc màn. Đó là một đêm trăng rằm, và tôi có thể thấy những tiếng động ấy gây ra bởi một con dơi khổng lồ, đang lượn vòng vòng, rõ ràng là bị hấp dẩn bởi ánh sáng, dù là rất yếu, thỉnh thỏang lại đập vào cửa sổ bằng cánh của mình. Khi tôi trở về chỗ, tôi thấy Lucy đang cử động rất nhẹ nhàng, xé toạc vòng hoa tỏi trên cổ mình. Tôi thay thế nó với tất cả sự khéo léo của mình, và ngồi quan sát nàng.
    Ngay lúc đó nàng tỉnh dậy, tôi cho nàng ăn, như Van Helsing căn dặn. Nàng ăn một ít, với vẻ uẻ oải. Hình như đối với nàng lúc này đang diễn ra một cuộc đấu tranh trong giấc ngủ vì sự sống, mà những sức khỏe dành lại được đến lúc này chỉ càng xác nhận sự đau ốm của nàng. Có một điều làm tôi tò mò là khi nàng tỉnh giấc nàng lại kéo vòng hoa tỏi về sát cổ mình. Rất lạ lùng vì bất cứ lúc nào khi nàng mê man, với những hơi thở hổn hển, nàng đẩy những vòng hoa tỏi ra, nhưng khi tỉnh giấc thì nàng lại kéo chúng về. Rõ ràng là không thể sai lầm về việc này, vì vào những giờ dài đằng đẳng tiếp theo, nàng nhiều lần lặp lại chu kỳ thức ngủ với những cử động y như vậy.
    Đến sáu giờ sáng, Van Helsing đến thay tôi. Arthur vẩn còn chìm trong giấc ngủ lơ mơ, và ông già hiền từ ấy để cậu ta ngủ tiếp. Khi ông ấy nhìn thấy mặt Lucy tôi có thể nghe thấy một tiếng hít thở dồn nén yếu ớt, và ông thì thầm với tôi lanh lảnh. "Kéo tấm màn ra. Tôi muốn ánh sáng!" Đoạn ông cúi xuống, mặt ông gần như cạm vào mặt Lucy, xem xét nàng kỹ lưỡng. Ông lấy những bó hoa ra, và nâng chiếc khăn tay lụa trên cổ họng nàng lên. Vừa làm như vậy, ông nhảy ngược về phía sau và tôi nghe ông ấy thốt lên, "Mein Gott!" như thể nó đang được nén lại trong cổ họng ông. Tôi cũng cúi người và quan sát, và tôi đột ngột cảm thấy ớn lạnh khắp cơ thể. Vết thương trên cổ họng nàng đã biến mất.
    Có đến năm phút liền Van Helsing đứng nhìn nàng, với vẻ lạnh lùng nhất trên khuôn mặt ông. Đoạn ông quay sang tôi và nói một cách bình thản, "Cô ta đang chết. Việc này sẽ đến, không còn lâu nữa đâu. Với tôi, có một sự khác biệt rất quan trọng về việc cô ta chết trong lúc tỉnh táo hay trong lúc ngủ. Hãy đánh thức cậu bé tội nghiệp kia dậy, kêu anh ta đến đây để chứng kiến những giây phút cuối cùng. Anh ta đã tin tưởng chúng ta và chúng ta đã hứa với anh ta."
    Tôi đi vào phòng khác và đánh thức cậu ta. Cậu ta vẩn còn đờ đẩn, nhưng khi nhìn thấy những luồng sáng mặt trời xuyên qua cạnh của cánh cửa chớp, cậu ta nghĩ rằng đã quá trễ, và biểu lộ sự sợ hãi của mình. Tôi bảo đảm với cậu ta rằng Lucy vẩn còn ngủ, nhưng cố hết sức nhẹ nhàng để nói với cậu ta rằng cả Van Helsing và tôi đều sợ rằng phút tận cùng đã cận kề. Cậu ta giơ tay che mặt, quỵ gối xuống trên ghế xofa mà lúc này cậu vẩn nằm trên đó, có thể cả phút, đầu cúi thấp, cầu nguyện, trong khi vai cậu ấy run lên trong đau khổ. Tôi nắm tay cậu ta, nâng cậu ta dậy. "Đi nào," tôi nói, "anh bạn già thân yêu, hãy tập trung tất cả sự chịu đựng của mình lại. Đó là điều tốt nhất và dễ dàng nhất cho nàng."
    Khi chúng tôi đi vào phòng Lucy, tôi thấy Van Helsing đang ở trong đó, với sự chu đáo quen thuộc của mình, đang sắp đặt mọi việc cho chúng càng trông dễ chịu càng tốt. Ông thậm chí còn chải lại tóc cho Lucy, để chúng trải ra thành những gợn sóng trên gối một cách quen thuộc. Khi chúng tôi vào phòng, nàng mở mắt, và khi nhìn thấy Arthur, nàng thì thầm dịu dàng, "Arthur! Ôi, anh yêu, em mừng vì anh đã đến!"
    Cậu ấy muốn cúi xuống hôn nàng, thì Van Helsing kéo nàng lại. "Không," ông thì thầm, "chưa phải lúc! Nắm lấy tay cô ta, nó sẽ làm cô ta dễ chịu hơn."
    Khi Arthur nắm lấy tay và quỳ gối cạnh nàng, nàng trông đẹp hơn bao giờ hết, mắt nàng lóng lánh lên dịu dàng đẹp như một thiên thần. Rồi từ từ nàng nhắm mắt lại và chìm vào giấc ngủ. Một lúc nào hơi thở nàng trở nên nhẹ nhàng hổn hển, nàng hít vào và thở ra như một đứa trẻ mệt nhọc.
    Và rồi sự thay đổi mà tôi đã thấy trong đêm diễn ra một cách vô cảm. Hơi thở của nàng hổn hển hơn, đôi môi mở rộng, lợi trắng bệch, co về phía sau, khiến cho hàm răng trông dài hơn và sắc bén hơn bao giờ. Giống như một hiện tượng mộng du, nàng mở mắt một cách lờ đờ, vô thức, mắt nàng bây giờ trông mờ đục và cứng nhắc, rồi nàng cất tiếng, với một giọng nói khêu gợi mà trước đây chưa bao giờ tôi nghe trên môi nàng, "Arthur! Ôi, anh yêu, em mừng là anh đã đến! Hôn em đi nào!"
    Arthur vội vã bước tới, cúi xuống để hôn nàng, nhưng ngay lúc đó Van Helsing, cũng giật mình vì giọng nói của nàng như tôi, nhào tới chỗ cậu ta, siết lấy quanh cổ cậu ta bằng cả hai tay, kéo lê cậu ta về sau với một sức mạnh cuồng nộ mà tôi chưa bao giờ nghĩ là ông có được, thật sự ông đã ném cậu ấy văng ngược gần tới giữa phòng. "Không, vì cuộc sống của anh!" ông ta nói, "không, vì linh hồn đang còn sống của anh và của cô ta!" Và ông đứng giữa họ như một con sư tử giữa trận chiến.
    Arthur bị ngạc nhiên đến mức trong một thóang cậu ấy không thể biết nói hoặc làm gì, rồi trước khi cơn hung bạo bốc đồng của cậu ta dâng lên, cậu ấy kịp nhận thức được cậu ấy đang đứng ở đâu, trong hòan cảnh nào, và cậu ta đứng đợi, lặng yên.
    Tôi vẩn quan sát Lucy, và giống như Van Helsing, chúng tôi thấy một cơn giận dữ ập đến như một bóng đen phủ lên mặt nàng. Đôi răng sắc bén nghiến lại. Đoạn nàng nhắm mắt và thở một cách nặng nề.
    Một thóang sau đó nàng mở mắt với tất cả sự dịu dàng của mình, và đưa cánh tay gầy guộc, trắng bệch đáng thương của mình nắm lấy bàn tay to lớn rám nắng của Van Helsing, kéo lại gần nàng, và hôn nó. "Người bạn thật sự của tôi," nàng nói, với một giọng nói yếu ớt, nhưng ẩn chứa một sự xúc động khó có thể nói lên thành lời, "Người bạn thật sự của tôi, và của anh ấy nữa! Ôi, hãy bảo vệ anh ấy, và trả lại cho tôi sự bình yên!"
    "Tôi thề sẽ làm điều ấy!" ông ta nói một cách trịnh trọng, quỳ xuống cạnh nàng, giơ cao một tay, như cách người ta vẩn thường cất lời thề. Đoạn ông quay sang Arthur, và nói với anh ta, "Đến đây nào, con trai của ta, hãy nắm lấy tay cô ta, và hôn lên trán cô ấy, chỉ nơi đấy thôi."
    Mắt họ chạm nhau thay cho môi họ, rồi sau đó chúng rời xa. Mắt Lucy khép lại, và Van Helsing, người vẩn đang cẩn thận quan sát gần đó, nắm lấy tay Arthur, kéo cậu ấy ra sau.
    Rồi hơi thở của Lucy trở lại hổn hển, và ngay sau đó tất cả chấm dứt.
    "Tất cả đã xong," Van Helsing nói. "Cô ta đã chết!"
    Tôi nắm lấy tay Arthur, dẩn cậu ấy trở về phòng khách, để cậu ấy ngồi đấy, che mặt bằng hai tay. Tôi nhìn cậu ấy nấc lên mà cảm thấy tim mình tan nát.
    Tôi quay trở lại phòng, và thấy Van Helsing vẩn đứng nhìn Lucy tội nghiệp, mặt ông ta càng lạnh lùng hơn bao giờ hết. Đã có sự thay đổi trên cơ thể nàng. Cái chết đã đem trả lại cho nàng một phần vẻ đẹp, lông mày và má nàng phục hồi vẻ hồng hào thanh tú. Thậm chí môi nàng cũng đã mất đi vẻ nhợt nhạt chết chóc. Giống như thể những dòng máu, khi không cần phải phục vụ cho nhịp đập của con tim nữa, đã đồn lên mặt nàng để tạo một vẻ khiếm nhã cục cằn của cái chết với những cảnh tượng như thế này.
    "Chúng ta nghĩ rằng cô ta đã chết trong khi cô ta đang ngủ, và cô ta giống như đang ngủ khi cô ta đã chết."
    Tôi đứng bên cạnh Van Helsing, và nói, "A, thôi được, cô gái tội nghiệp, cuối cùng sự an bình đã đến với em. Đấy là sự chấm dứt."
    Ông ta quay sang tôi, và nói với vẻ trang nghiêm trịnh trọng, "Ôi, không, than ôi! Không phải thế. Nó chỉ là sự bắt đầu mà thôi!"
    Khi tôi hỏi ông xem ông muốn nói gì, ông ta chỉ lắc đầu và trả lời, "Chúng ta không còn gì để làm nữa. Hãy chờ đợi và quan sát."





  6. #14
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default






    Chương 13

    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD - TIẾP THEO



    Đám tang được tổ chức vào những ngày tiếp theo, và Lucy cùng với mẹ nàng được chôn cất cùng với nhau.
    Tôi đã chứng kiến tất cả những nghi thức buồn thảm này, và dịch vụ mai táng thành phố đã chứng tỏ rằng nhân viên của họ cũng rất đau buồn và mong muốn người chết được an nghỉ, với sự ngoan ngõan khéo léo của họ. Ngay cả người phụ nữ thực hiện công việc chuẩn bị cuối cùng cho người chết cũng nói với tôi với tư cách riêng tư đồng nghiệp với nhau, khi bà ta vừa đi ra khỏi nhà xác,
    "Cô ta đẹp tuyệt. Thật là hạnh phúc khi được chăm sóc cho cô ấy. Nói không có gì quá là cô ấy đã mang lại vẻ vang cho chúng tôi."
    Tôi để ý là Van Helsing chẳng quanh quẩn đâu xa. Điều này thật ra không khó với tình trạng lộn xộn trong nhà. Họ không còn thân nhân, và do Arthur đã trở về sau đó để lo đám tang cho cha cậu ấy, chúng tôi có thể thông báo về cuộc đấu giá cho bất kỳ ai tham gia. Để đưa ra quyết định này, Van Helsing và tôi tự mình xem xét các loại giấy tờ. Ông ta khăng khăng đòi tự mình xem xét các giấy tờ của Lucy. Tôi hỏi ông ta nguyên nhân, bởi vì tôi sợ rằng ông ấy là một người ngoại quốc, và có thể không rành lắm các yêu cầu pháp lý của Anh quốc, và sự hiểu lầm này có thể gây ra những rắc rối không cần thiết.
    Ông ta trả lời tôi, "Tôi biết, tôi biết. Anh quên rằng tôi làm một luật sư cũng giỏi không kém làm một bác sĩ. Nhưng đây không phải là vấn đề luật pháp. Anh cũng biết điều đó, khi anh cố né tránh các nhân viên công lực. Tôi còn cố tránh họ hơn nữa. Và những tờ giấy này, lại càng không để rơi vào tay họ, thế đấy."
    Trong khi ông ta nói, ông ta lấy ra khỏi túi những bản ghi còn lại trong ngực Lucy, nàng đã xé nó trong giấc ngủ.
    "Khi nào anh tìm thấy một cố vấn pháp luật nào đại diện cho bà Westenra quá cố, anh hãy niêm phong tất cả những giấy tờ của cô ấy và gửi cho anh ta. Còn tôi, suốt tối nay tôi sẽ xem xét trong căn phòng này và trong căn phòng cũ của cô Lucy. Sẽ không hay nếu như những tâm tư của cô ấy lại rơi vào tay người lạ."
    Tôi tiếp tục phần còn lại của công việc, và nữa giờ sau đã tìm thấy tên và địa chỉ cố vấn pháp luật của bà Westenra và viết thư cho ông ta. Tất cả giấy tờ của người đàn bà tội nghiệp đã được sắp xếp lại. Có sự chỉ dẩn rõ ràng về nơi bà được chôn cất. Tôi đang nặng nề niêm phong bức thư thì Van Helsing đi vào trước sự ngạc nhiên của tôi, cất tiếng,
    "Tôi có thể giúp anh được không, bạn John? Tôi đang rảnh đây, và nếu tôi có thể thì tôi sẳn sàng phục vụ anh."
    "Ông đang tìm cái gì đó thì phải?" tôi hỏi.
    Ông ta trả lời, "tôi không tìm kiếm một cái gì đặc biệt. Tôi chỉ hy vọng tìm thấy, và tôi đã tìm thấy, tất cả chúng đây, chỉ là một số bức thư, vài bản ghi còn lại, và một quyển nhật ký mới bắt đầu. Nhưng tôi có đem chúng theo đây và chúng ta sẽ không nói gì về nó lúc này. Tôi gặp cậu bé tội nghiệp tối nay, và với sự chấp nhận của anh ta, tôi sẽ sử dụng chúng."
    Khi chúng tôi chấm dứt công việc, ông ta nói với tôi, "Còn bây giờ, bạn John, tôi nghĩ là chúng ta có thể đi ngủ. Cả anh và tôi đều buồn ngủ rồi, và giấc ngủ sẽ giúp chúng ta hồi phục. Ngày mai chúng ta sẽ có nhiều việc để làm, nhưng tối nay thì không cần đến chúng ta. Than ôi!"
    Trước khi đi, chúng tôi quay lại thăm Lucy tội nghiệp. Những nhân viên lễ tang đã làm xong công việc của mình, và căn phòng bây giờ giống như một nhà thờ nhỏ lung linh. Có những bông hoa dại trắng rực rỡ, và cái chết lại càng bộc lộ vẻ kinh tởm của nó. Có một tấm vải mỏng phủ lên mặt người chết. Khi giáo sư cúi xuống và nhẹ nhàng kéo nó ra sau, chúng tôi đều giật mình trước vẻ đẹp đang hiện ra trước mình. Ngọn nếp sáp ong đủ sáng để quan sát. Tất cả vẻ yêu kiều của Lucy đã trở về với nàng trong cái chết, và hàng giờ đã trôi qua, thay vì diễn ra quá trình bắt đầu thối rửa', thì lại càng phục hồi vẻ đẹp cho nàng, đến nỗi tôi không thể tin vào mắt mình khi nhìn vào thi hài.
    Giáo sư trông rất lạnh lùng và bình tĩnh. Ông ta không yêu nàng như tôi, và vì vậy mắt ông không mờ đi bởi lệ. Ông ấy nói với tôi. "Ở lại đây đến khi tôi trở lại" và rời khỏi phòng. Ông ta trở lại với một nhúm tỏi dại trong chiếc hộp ở tiền sảnh đã mở sảnh, đặt những bó hoa tỏi giữa những thứ khác lẩn lộn trên và chung quanh giường. Rồi ông lấy từ trong cổ, bên trong cổ áo, một cái chữ thập nhỏ bằng vàng, đặt nó lên miệng Lucy. Ông lấy khăn che mặt nàng lại như cũ, và chúng tôi đi ra.
    Tôi đang thay quần áo ở phòng mình, thì với một tiếng gõ cửa báo trước, ông ta đi vào và lập tức nói ngay.
    "Tối mai tôi muốn anh đi với tôi, trước khi trời tối, với một số dao mổ."
    "Chúng ta phải thực hiện một cuộc mổ xác à?"
    "Đúng và sai. Tôi muốn thực hiện một cuộc phẫu thuật, nhưng không như anh nghĩ. Tôi sẽ nói với anh ngay bây giờ, nhưng không thêm một từ nào khác. Tôi muốn cắt rời đầu cô ta và lấy tim cô ta ra. A! Anh là một bác sĩ phẫu thuật, và đừng có sốc như thế! Anh, người mà tôi đã từng thấy chẳng hề run tay hay dao động tim mình, từng thực hiện những cuộc phẫu thuộc giữa sự sống và cái chết khiến cho mọi người phải rùng mình.
    Ôi, nhưng tôi không được quên rằng, anh bạn John thân yêu, rằng anh yêu cô ta, và tôi sẽ không quên điều đó nên tôi sẽ thực hiện cuộc phẫu thuật mà anh không được nhúng tay vào. Tôi muốn làm nó tối nay, nhưng tôi sẽ không làm vì Arthur. Anh ta sẽ được tự do sau đám tang của cha anh ta ngày mai, và anh sẽ đến để gặp cô ta, để gặp nó. Vậy thì, khi cô ta đã được chôn cất xong xuôi vào ngày mai, anh và tôi sẽ đến khi tất cả đã đi ngủ. Chúng ta sẽ gỡ nắp quan tài, sẽ thực hiện cuộc phẫu thuật của mình, và để tất cả lại như cũ, và sẽ không ai biết gì về việc chúng ta đã làm."
    "Nhưng tất cả những chuyện đó để làm gì? Cô gái đã chết. Vì sao phải cắt xén cơ thể tội nghiệp của nàng làm gì? Và có cần thiết không khi phải thực hiện cuộc phẫu thuật mà chẳng mang lại được gì, không lợi ích gì cho nàng, cho chúng ta, cho khoa học, cho kiến thức con người, vì sao phải làm thế? Nó là một việc quái gỡ."
    Để trả lời, ông ta đặt tay mình lên vai tôi, và nói với một vẻ rất dịu dàng, "Bạn John, tôi rất thông cảm với trái tim đau khổ đáng thương của anh, và tôi càng yêu anh hơn khi biết trái tim ấy đang đau khổ như thế nào. Nếu có thể được, tôi sẽ sẳn sàng gánh chịu thay anh những gì mà anh đang phải chịu đựng. Nhưng có những điều mà anh chưa biết, nhưng rồi anh sẽ biết, may mắn rằng tôi đã biết được những điều này, dù chúng chẳng phải là những chuyện dễ chịu. John, con trai, anh đã là bạn tôi nhiều năm nay, và anh có bao giờ thấy tôi làm chuyện gì mà không có mục đích tốt đẹp chưa? Có thể tôi sai lầm, tôi là con người mà, nhưng tôi tin vào tất cả những chuyện tôi làm.
    Đó phải chăng chính là lý do mà anh đã gọi tôi đến khi anh gặp phải một câu chuyện rắc rối lớn? Phải! Phải chăng anh đã không hỏang sợ, không kinh hoàng khi tôi không cho Arthur hôn người yêu của anh ấy, dù cô ta đang chết, và kéo anh ta lại bằng tất cả sức lực? Phải! Và phải chăng anh không thấy cô ta cám ơn tôi, với đôi mắt đẹp tuyệt vời đang sắp tàn lụi, với giọng nói cũng vô cùng yếu ớt, và cô ta hôn bàn tay già nua thô ráp của tôi và chúc phúc cho tôi? Phải! Và phải chăng anh không nghe tôi thế với cô ta, và cô ta đã nhắm mắt với vẻ biết ơn như thế nào! Phải!
    "Vâng, tôi có những lý do vững chắc cho những chuyện mà tôi muốn làm. Anh đã nhiều năm tin tưởng tôi. Anh đã tin tưởng tôi những tuần qua, khi mà có những chuyện lạ lùng khiến anh hết sức nghi ngờ. Hãy tin tôi thêm một chút nữa, bạn John. Nếu anh không tin tôi, thì tôi phải nói với anh tất cả những gì tôi nghĩ, nhưng không phải như thế là hay.
    Và nếu công việc tôi đã làm, cũng như công việc tôi sẽ làm, không có vấn đề tin tưởng hay không, mà là không có một người bạn tin tưởng mình, tôi sẽ làm với một trái tim nặng trĩu và tràn ngập cô đơn đến nỗi tôi cần đến tất cả những sự giúp đỡ và an ủi trên cõi đời này!" Ông ta ngừng lại một chút và nói tiếp rất nghiêm túc, "Bạn John, trước mặt chúng ta sẽ là những ngày kỳ lạ và kinh hòang. Đừng để chúng ta bị phân cách thành hai, mà hãy hòa nhập làm một, và chúng ta sẽ đi đến một kết cục tốt đẹp. Liệu anh có tin tưởng tôi không?"
    Tôi nắm lấy tay ông ta, và hứa với ông. Tôi để cửa mở khi ông đi, nhìn theo ông đi vào phòng mình và đóng cửa lại. Khi tôi đứng yên lặng nhìn như vậy, tôi thấy một người hầu gái nhẹ nhàng đi trên hành lang. Cô ta quay lưng về phía tôi, nên không thấy tôi, và đi vào phòng Lucy nằm. Điều này làm tôi xúc động. Sự tận tâm ngày nay đã trở nên hiếm hoi, và chúng ta rất biết ơn những con người đã thầm lặng bộc lộ điều này với những người mà chúng ta yêu mến. Đây là một cô gái tội nghiệp đang đến bên một nơi mà hẳn là cô sợ chết khiếp, để đơn độc ngồi canh bên đám tang của cô chủ mà cô yêu mến, để cho tấm thân tội nghiệp kia không còn đơn độc đến khi nằm ở nơi an nghỉ cuối cùng.
    Tôi đã ngủ ngon và lâu, đến khi Van Helsing đi vào phòng đánh thức tôi thì nắng đã chiếu rực rỡ khắp phòng.
    Ông ta đi đến bên giường tôi và nói, "Anh không cần phải lo về những con dao mổ. Chúng ta sẽ không phải dùng đến nó."
    "Vì sao?" Tôi hỏi. Vì vẻ nghiêm trọng của ông ta tối qua đã gây cho tôi ấn tượng rất mạnh.
    "Bởi vì," ông ta lạnh lùng trả lời, "nó đã quá trễ, hoặc quá sớm. Nhìn đây!" Đoạn ông ta giơ lên chiếc thập tự bằng vàng nhỏ.
    "Nó đã bị trộm đêm qua."
    "Trộm như thế nào," tôi hỏi trong kinh ngạc, "vì sao ông lại có nó lúc này?"
    "Bởi vì tôi đã lấy lại nó từ cái kẻ đáng khinh đã trộm nó, từ người đàn bà đã cướp khỏi người chết sự sống. Sự trừng phạt của ả là tất yếu, nhưng không phải do tôi. Ẳ không biết là ả đang làm cái gì, việc ả làm có ý nghĩa gì, ả chỉ lấy trộm nó thôi. Bây giờ thì chúng ta phải chờ đợi." Ông ta đi ra sau khi buông ra những lời này, để tôi lại với một điều bí ẩn để suy nghĩ, một bài tóan đố để vật lộn.
    Buổi sáng hôm ấy là một khoảng thời khắc ảm đạm, nhưng khi đứng bóng thì người cố vấn pháp luật đến, ông Marquand, của Wholeman, Các con trai, Marquand & Lidderdale. Ông ta rất cởi mở và đánh giá rất cao những gì chúng tôi đã làm, đảm nhận việc giải quyết chi tiết các công việc còn lại cho chúng tôi. Trong buổi trưa ông ta nói với tôi rằng bà Westenra đã có dự đóan trước về cái chết thình lình do bệnh tim của mình, và đã sắp đặt mọi chuyện rất chu đáo.
    Ông ấy báo cho chúng tôi biết rằng, trừ ra phần tài sản thuộc về cha Lucy được biết cho đến nay, sẽ được chuyển cho chi nhánh trong gia đình ông, còn lại tất cả tài sản động sản và bất động sản cũng như cá nhân, sẽ được để cho Arthur Holmwood. Và ông ta tiếp tục nói rất nhiều,
    "Thật sự là chúng tôi đã làm hết sức mình để ngăn cản một chúc thư như vậy, và chỉ ra một sự ngẫu nhiên có thể sẽ khiến cho con gái bà hoặc trở nên không một xu dính túi hoặc không còn tự do khi mà bà gắn chặt mọi sự vào một cuộc hôn nhân như vậy.
    Thật sự, chúng tôi nhấn mạnh vấn đề đến nỗi gần như đã đi đến xung đột, khi mà bà ta hỏi tôi xem chúng tôi có định chuẩn bị thảo lại những điều ước nguyện của bà hay không. Tất nhiên, chúng tôi không có sự thay đổi nào ngòai sự chấp thuận. Về căn bản thì chúng tôi đúng, bởi vì đến chín mươi chín trên một trăm lần, sự lôgic của sự kiện đã cho thấy sự tiên đoán của chúng tôi chính xác như thế nào.
    "Tuy nhiên, thật sự mà nói, tôi phải xác nhận rằng trong trường hợp này chỉ cần mọi chuyện diễn tiến khác đi một chút thôi thì những ước nguyện của bà ấy đã không thể thực hiện được. Do bà ta chết trước con gái mình, nên cô con gái sẽ được thừa kế tài sản, và dù thậm chí nếu cô ấy chỉ sống hơn mẹ mình năm phút thôi, thì trong trường hợp này xem như không có chúc thư, và chúc thư cũng sẽ không được thi hành trong trường hợp như vậy, và tài sản của bà sẽ được pháp luật xem như là không được phân phối lại bằng di chúc. Và những người thừa kế, dù có quan hệ rất xa, cũng sẽ không bỏ qua quyền lợi của mình, bởi những lý do rất nhạy cảm khi một người hoàn toàn xa lạ nhận lấy gia tài. Tôi quả quyết với các ngài, thưa các ngài, rằng tôi rất hài lòng với kết quả, hoàn toàn hài lòng."
    Ông ta là một người tốt, nhưng niềm vui của ông ta trong một câu chuyện rất bi thảm, mà xem ra ông ta thích thú một cách trịnh trọng, khiến cho sự thông cảm của người nghe bị hạn chế rất nhiều.
    Ông ta không ở lại lâu, mà nói rằng ông sẽ trở lại trong ngài và đi gặp huân tước Goldaming. Tuy nhiên, sự có mặt của ông ta dù sao vẩn làm chúng tôi tương đối dễ chịu, vì nó bảo đảm rằng chúng tôi sẽ không có những sự chống đối thù địch nguy hiểm với những việc làm của mình. Arthur sẽ đến lúc năm giờ, và trước đó một chút chúng tôi đi thăm lại phòng để xác. Thật vô cùng buồn thảm, vì lúc này cả hai mẹ con đều nằm trong đấy. Người phụ trách tang lễ, theo đúng nghề nghiệp của mình, đã cố gắng sắp đặt mọi thứ phù hợp nhất, và không khí tang lễ nơi đây đã làm tinh thần chúng tôi xuống rất thấp.
    Van Helsing cố thu xếp trước mọi thứ, ông ấy giải thích rằng, khi huân tước Godalming đến, ông ta sẽ bớt đau buồn hơn khi được ở lại một mình với người hôn thê của mình.
    Người phụ trách lễ tang có vẻ rất ngu xuẩn khi ông ta tỏ ra sốc và Van Helsing làm mọi cách để phục hồi lại nguyên trạng giống như hồi đêm qua, khi chúng tôi rời khỏi phòng, và vì vậy khi Arthur đến, cậu ấy sẽ có được những phút giây chìm đắm trong cảm xúc riêng tư mà chúng tôi đã cố thu xếp cho cậu ấy.
    Anh bạn tội nghiệp! Cậu ấy trông buồn tê tái và tan vỡ. Thậm chí cái vẻ lực lưỡng nam tính của cậu ta cũng như co lại dưới những cảm xúc đang dâng trào cuồn cuộn trong mình. Tôi biết rằng cậu ấy rất gắn bó và chân thành với cha cậu ta, và lúc này, chỉ mỗi việc mất đi người cha cũng đã là một một đòn mạnh vào cậu ấy. Cậu ta chân thành với tôi như mọi khi, và với Van Helsing cậu rất điềm đạm và nhã nhặn. Giáo sư cũng nhận thấy được mọi chuyện, và ra hiệu cho tôi dẩn cậu ấy lên gác. Tôi làm điều ấy, và để cậu lại bên cửa phòng, vì tôi cảm thấy rằng cậu ấy sẽ muốn ở một mình với nàng, nhưng cậu ta nắm lấy cánh tay tôi, và nói bằng một giọng khàn khàn,
    "Cậu cũng yêu nàng vậy, anh bạn tội nghiệp. Nàng đã đã nói với tớ tất cả, và không có một người bạn nào thân thiết với nàng hơn cậu. Tớ không biết phải cám ơn cậu như thế nào về tất cả những chuyện cậu đã làm cho nàng. Tớ không thể tưởng tượng được là..."
    Thình lình cậu ấy gục xuống, chòang tai qua vai tôi, gục đầu vào ngực tôi, kêu lên, "Oh, Jack! Jack! Tớ sẽ làm gì bây giờ? Tòan bộ cuộc sống đã đồng lọat từ bỏ tớ mà đi, và tớ chẳng còn gì để mà sống trên cái thế giới rộng lớn này."
    Tôi cố gắng an ủi cậu ta bằng mọi cách tôi có thể. Trong những trường hợp như thế này, giữa người với người cần chi phải có những sự biểu lộ. Một cái xiết tay, một động tác chòang tay lên vai thật chặt, một tiếng nức nở chung, để biểu lộ sự thông cảm thân thương giữa trái tim con người. Tôi đứng trong lặng lẽ cho đến khi những tiếng nức nở thầm của cậu ấy dần qua, và tôi nhẹ nhàng nói với cậu ta, "Nào, chúng ta đi thăm nàng."
    Chúng tôi cùng đi đến bên gường, và tôi nâng tấm khăn che mặt nàng. Chúa ơi! Nàng thật là đẹp. Hàng giờ trôi qua như càng làm gia tăng vẻ kiều diễm của nàng. Nó làm tôi cảm thấy hỏang sợ và kinh hãi. Còn đối với Arthur, cậu ta bắt đầu run rẩy, và sau hết thì run bần bật như trong cơn sốt rét với sự nghi ngờ. Cuối cùng, sau một lúc im lặng, cậu ta quay sang tôi, thì thầm yếu ớt, "Jack, nàng đã thật sự chết chưa?"
    Tôi buồn bã xác nhận với cậu ấy rằng điều đó đã xảy ra, và vì nghĩ rằng không nên để cho một sự sống mà tôi vẩn còn có thể giúp đỡ chìm đắm trong một sự nghi ngờ kinh hãi như thế, tôi giải thích tiếp rằng vẩn thường xảy ra trường hợp sau khi chết khuôn mặt người sẽ trở nên mềm mại và thậm chí trở lại vẻ đẹp trẻ trung của họ, đặc biệt khi cái chết diễn ra sau một chuyển biến cấp tính hay một cơn đau kéo dài. Hình như tôi đã xua tan được sự nghi ngờ, và sau khi quỳ bên trường kỷ một lúc, ngắm nhìn vẻ đẹp đáng yêu của nàng một lúc lâu, cậu ấy quay sang một bên.
    Tôi nói với cậu ấy rằng đã đến lúc phải tạm biệt, khi mà áo quan đã chuẩn bị xong. Cậu ấy bước lại, cầm lấy bàn tay chết lạnh của nàng trong tay mình, hôn nó, rồi cúi xuống và hôn lên trán nàng. Cậu ta đi ra, và cứ quay người lại nhìn nàng qua vai mình suốt trong khi đi.
    Tôi để cậu ta ngồi lại trong phòng khách, đến nói với Van Helsing rằng cậu ta đã nói lời tạm biệt, và giáo sư đi xuống bếp để nói những người phụ trách tang lễ tiến hành chuẩn bị công việc đóng nắp quan tài. Khi ông ra khỏi phòng, tôi nói lại với ông lần nữa câu hỏi của Arthur, và ông trả lời, "Tôi không ngạc nhiên. Chỉ từ lúc này tôi e rằng đã đến thời của chính tôi!"
    Chúng tôi ăn tối với nhau, và tôi có thể thấy rằng Art tội nghiệp cố gắng để để mọi việc được diễn ra tốt nhất. Van Helsing yên lặng suốt bữa ăn, và khi chúng tôi bắt đầu đốt xì gà, ông lên tiếng, "Huân tước..., nhưng Arthur đã cắt ngang ông.
    "Không, không, đừng như thế, vì Chúa! Đừng làm như thế dù bất kỳ giá nào. Hãy thứ lỗi cho tôi, thưa ngài. Tôi không muốn nói chuyện một cách khó chịu như vậy. Đó chỉ là vì những sự mất mát của tôi hãy còn nóng hổi."
    Giáo sư trả lời rất dịu dàng, "Tôi chỉ dùng cách nói ấy bởi vì tôi còn nghi ngờ. Tôi không phải gọi anh là thưa Ngài' và tôi càng yêu anh hơn, vâng, con trai tôi, yêu anh như là yêu một Arthur ngày nào."
    Arthur vươn tay ra và nồng nàn nắm lấy tay người đàn ông già. "Hãy gọi tôi bằng cách gì ngài thích," cậu ấy nói. " tôi hy vọng là tôi có thể luôn là bạn của ngài. Và tôi còn muốn nói rằng tôi có từ ngữ nào đủ để diễn tả lòng biết ơn của tôi đối với những gì mà ngài đã làm cho người con gái thân yêu của tôi." Cậu ấy ngừng lại một chút, rồi tiếp tục, "Tôi biết rằng nàng đánh giá được những việc làm của ngài chính xác hơn tôi. Và nếu tôi có làm điều gì khiếm nhã trong khi ngài cư xử như vậy, xin ngài hãy nhớ," - giáo sư gật đầu - "Ngài phải tha thứ cho tôi."
    Ông ta trả lời với một vẻ trịnh trọng, "Tôi biết là đòi hỏi nhiều ở anh khi yêu cầu anh phải tin tưởng tôi, tin để hiểu về một sự hung bạo như thế nào đang diễn ra, và đôi khi tôi làm những chuyện mà khi anh gần như là không thể tin tưởng khi mà anh không thể hiểu gì cả. Và sẽ còn nhiều lần nữa, tôi sẽ yêu cầu anh tin tưởng tôi trong khi anh không thể, và có thể là không được hiểu. Nhưng khi đúng lúc thì anh phải hoàn toàn và tuyệt đối tin tưởng nơi tôi, và rồi anh sẽ hiểu rõ mọi chuyện giống như ánh dương đang rọi sáng ánh sáng xua tan màn đêm. Và anh sẽ biết rằng mọi chuyện tôi làm đều chỉ vì lợi ích của anh, và vì lợi ích của những người khác, vì lợi ích của cô gái thân yêu mà tôi đã thề sẽ bảo vệ."
    "Vâng, đúng vậy, dúng vậy, thưa ngài," Arthur trả lời nồng nàn. "Tôi sẽ luôn luôn tin tưởng ngài. Tôi biết và tin rằng ngài có một trái tim rất cao quý, ngài là bạn của Jack, và ngài đang làm điều tốt cho nàng. Ngài hãy làm những gì ngài cần."
    Giáo sư xoa cổ họng vài lần, nhưng thể chuẩn bị nói, rồi cuối cùng lên tiếng, "Tôi có thể hỏi anh đôi điều được không?"
    "Tất nhiên."
    "Anh có biết là bà Westenra đã để lại cho anh tất cả gia tài của bà không?"
    "Không, tội nghiệp. Tôi chẳng bao giờ nghĩ về nó."
    "Và bây giờ tất cả đã thuộc về anh, anh muốn làm gì với nó thì làm. Tôi muốn anh cho phép tôi đọc tất cả giấy tờ và thư từ của cô Lucy. Hãy tin tôi, đây không phải là sự tò mò nhảm nhí đâu. Tôi có động cơ để làm việc này, và tôi tin chắc rằng cô ta sẽ chấp thuận điều này. Tôi có mang tất cả chúng theo đây. Tôi lấy chúng trước khi chúng tôi biết được rằng nó thuộc về anh, vì vậy chưa có một bàn tay lạ nào chạm đến nó, chưa có một con mắt lạ nào đọc được những ý nghĩ sâu thẳm trong tâm hồn cô gái. Tôi sẽ giữ nó, nếu như tôi có thể. Thậm chí khi anh có thể không cần đọc nó, thì tôi cũng sẽ bảo quản chúng cẩn thận. Sẽ không mất đi một từ nào, và đến lúc nào đó tôi sẽ trả lại nó cho anh. Tôi đang đòi hỏi một điều khó khăn đấy, nhưng anh có chấp nhận nó hay không, vì lợi ích của Lucy?"
    Arthur trả lời một cách nồng nhiệt, giống như con người xưa của cậu ấy, "Bác sĩ Van Helsing, ngài hãy làm tất cả những gì ngài thích. Tôi cảm thấy rằng cô gái thân yêu của tôi sẽ chấp nhận điều này. Tôi sẽ không quấy rầy ngài với những câu hỏi cho đến khi nào đúng lúc."
    Vị giáo sư già đứng dậy và nói trịnh trọng, "Và anh làm đúng đấy. Đây là một nỗi đau cho tất cả chúng ta, nhưng chưa phải là tất cả, , hoặc nó chưa phải là nỗi đau cuối cùng. Các anh cũng như tôi, mà phần chính là các anh, những chàng trai thân yêu, sẽ phải vượt qua bao nhiêu ghềnh thách hung dữ trước khi chúng ta về đến đích. Nhưng chúng ta phải có những trái tim can đảm và không ích kỷ để làm bổn phận của mình, và tất cả cuối cùng sẽ tốt đẹp!"
    Tôi ngủ trên ghế xofa trong phòng Arthur đêm đó. Van Helsing suốt đêm không ngủ. Ông ấy đi đi lại lại, như thể tuần tra quanh khu nhà, và không bao giờ rời mắt khỏi căn phòng nơi Lucy đang nằm trong chiếc quan tài của nàng, được rắc đầy đầy những bông hoa tỏi dại, tỏa lên một mùi vị nặng nề đánh dạt đi mùi hương thoang thỏang của hoa loa kèn và hoa hồng lan tỏa trong đêm khuya.
    NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER
    Ngày 22 tháng Chín. - Trên chuyến xe lửa đi Exeter. Jonathan đang ngủ. Hình như tất cả mọi chuyện chỉ mới diễn ra vào ngày hôm qua, và một lần nữa, mọi thứ ngăn cản giữa Whitby và phần còn lại của thế giới lại hiện ra trước tôi. Jonathan ra đi và chẳng còn tin tức gì về anh ấy, rồi lúc này, làm đám cưới với anh Jonathan, một Jonathan cố vấn pháp luật, một người góp vốn, một ông chủ kinh doanh giàu có, ngài Hawkins chết và được chôn cất, khiến cho Jonathan lại phải đương đầu với một nỗi đau mới. Đôi khi anh ấy có thể gợi lại tôi về chuyện này. Hãy lắng mọi chuyện xuống. Tôi cáu kỉnh ghi lại những dòng nhật ký về sự giàu sang bất ngờ đến với chúng tôi cũng như một lần nữa chúng tôi lại phải đương đầu với những thử thách mới.
    Những công việc của chúng tôi rất đơn giản theo nghi thức. Ở đây chỉ có chúng tôi và những người phục vụ, một hoặc hai người bạn của ông ta từ Exeter, những nhân viên từ London của ông, và một người đại diện cho ngài John Paxton, chủ tịch của Hội Luật gia. Jonathan và tôi đứng cạnh nhau, tay trong tay, chúng tôi cảm thấy một cách sâu sắc rằng người bạn thân thiết và tốt nhất của chúng tôi đã thật sự rời bỏ chúng tôi rồi.
    Chúng tôi lặng lẽ đi về thị trấn, đón chuyến xe đi đến Công viên Góc phố Hyde. Jonathan nghĩ rằng có lẽ xuống những hàng ghế ngồi chơi sẽ khiến tôi vui lên, và chúng tôi ngồi xuống. Nhưng có rất ít người ở đây, và những dãy ghế trống vắng càng khiến cảnh tượng thêm buồn bã và hiu quạnh. Nó làm chúng tôi nghĩ đến cái ghế trống ở nhà. Vì vậy chúng tôi đứng dậy và đi bộ xuống Piccadily. Jonathan nắm tay tôi, anh ấy vẩn thường làm như vậy trước khi tôi đến trường.
    Tôi cảm thấy hơi bối rối, vì khi mà bạn đã được dạy trong suốt bao nhiêu năm trời về phép xã giao, về sự đoan trang dành cho các cô gái thì tự nhiên bạn sẽ bị cái thói thông thái rởm ấy làm cho bạn có cái cảm giácnhư vậy. Nhưng đây là anh Jonathan, anh ấy là chồng tôi, và chúng tôi không biết có ai đang quan sát chúng tôi hay không, chúng tôi cũng không cần quan tâm đến điều đó, và chúng tôi cứ tiếp tục đi. Tôi đang quan sát một cô gái đẹp trong một cái nón cao bồi ngồi trên một chiếc xe ngựa mui trần ở ngòai Guiliano, thì chợt tôi cảm thấy đau vì Jonathan siết chặt tay tôi và anh ấy kêu lên thảng thốt, "Chúa ơi!"
    Tôi luôn lo cho anh Jonathan, vì tôi sợ rằng sự căng thẳng sẽ quay lại hành hạ anh ấy một lúc nào đấy. Vì vậy tôi nhanh chóng quay sang anh và hỏi xem có điều gì làm anh xúc động như vậy.
    Anh ấy trông trắng bệch đi, mắt anh lồi ra, nữa hỏang sợ nữa kinh ngạc, anh ấy nhìn chằm chằm về một người đàn ông cao gầy, với cái mũi cao, ria mép đen và râu cằm nhọn, người cũng đang chăm chú quan sát cô gái dễ thương kia. Ông ta chăm chú nhìn theo cô ta đến nỗi ông ấy không nhận thấy chúng tôi, và tôi có thể quan sát ông ta kỹ lưỡng. Khuôn mặt ông ấy không gợi lên sự tốt bụng.
    Đó là một khuôn mặt cứng rắn, độc ác, đầy nhục dục, với hàm răng to màu trắng, nhìn lại càng trắng hơn khi mà môi ông ta thật là đỏ, và chúng nhọn hoắt như răng thú. Jonathan vẩn nhìn ông ta chằm chằm, đến nỗi tôi sợ là ông ta có thể nhận ra. Tôi sợ rằng ông ta sẽ gây sự, vì ông ta trông thật là hung ác và thô tục.Tôi hỏi xem vì sao Jonathan xúc động như vậy, và anh ấy trả lời, rõ ràng là anh ấy nghĩ rằng tôi cũng biết mọi chuyện như anh ấy, "Em có thấy ai kia không?"
    "Không, anh yêu," tôi nói. "Em không biết ông ta, ai vậy anh?" Câu trả lời của anh ấy làm mình sốc và run lên, Mina ơi, bởi vì anh ấy nói với một người mà hình như anh ấy không biết đấy là mình. "Đấy chính là người đàn ông ấy!"
    Anh chàng tội nghiệp rõ ràng là đang sợ một cái gì đó, rất là kinh sợ. Tôi tin là nếu không có tôi một bên để anh ấy dựa vào thì anh ấy đã ngã lăn ra rồi. Anh ấy vẩn đang nhìn chằm chằm . Người đàn ông kia đi ra khỏi cửa hàng với một gói bưu kiện nhỏ, và đưa nó cho người phụ nữ, cô ta đánh xe đi. Người đàn ông mặc đồ đen vẩn nhìn theo cô ta, và khi chiếc xe ngựa đi về hướng Piccadilly ông ta vẩn đi theo cùng một hướng, và gọi một cỗ xe hai ngựa. Jonathan nhìn theo ông ta và nói như thể nói với chính mình,
    "Tôi tin rằng đó chính là bá tước, nhưng hắn đã trẻ lại. Chúa ơi, phải chăng là hắn! Ôi, lạy Chúa! Lạy Chúa! Nếu như chỉ có mình tôi biết được! Nếu chỉ có mình tôi biết được!" Anh ấy rõ ràng là hỏang loạn đến nỗi tôi sợ không dám quay lại chủ đề này bằng bất kỳ câu hỏi nào, và vì vậy tôi quyết định im lặng. Tôi dắt anh ấy lặng lẽ bỏ đi, và anh ấy, nắm chặt tay tôi, ngoan ngõan đi theo.
    Chúng tôi đi một đỗi xa, rồi đến ngồi một lúc ở công viên Xanh. Đó là một ngày mùa thu nóng bức, và có một chỗ ngồi lý tưởng trong bóng râm. Sau vài phút nhìn chằm chằm vào hư không, mắt Jonathan nhắm lại. rồi anh ấy nhanh chóng ngủ thiếp đi, đầu dựa vào vai tôi. Tôi nghĩ rằng đó là điều tốt nhất cho anh ấy, nên không quấy rầy anh. Chừng hai mươi phút sau anh ấy thức dậy, và nói với tôi với vẻ hoan hỉ,
    "Ôi, Mina, sao mà anh lại lăn ra ngủ thế này! Ôi, tha thứ cho anh về sự bất nhã này nhé. Đi nào, chúng ta đi uống một tách trà ở đâu đó nào."
    Anh ấy rõ ràng là đã quên đi tất cả về người đàn ông lạ mặt vận đồ đen kia, và với sự bệnh tật của mình, anh ấy quên đi tất cả những gì vừa xảy ra với mình. Tôi không thích hiện tượng quên lãng này. Nếu tiếp tục thì nó có thể gây hại cho não. Nhưng tôi không được hỏi anh ấy, vì tôi sợ việc này sẽ có hại nhiều hơn lợi, tuy nhiên tôi phải tìm cách để biết những gì xảy ra trong chuyến đi của anh ấy mới được. Tôi sợ đã đến lúc tôi phải mở cái gói kia ra, và đọc những gì viết trong đấy. Ôi, Jonathan, em biết là anh sẽ tha thứ cho em nếu như em có làm điều gì sai sót, nhưng tất cả cũng chỉ vì lợi ích của anh mà thôi.
    Đêm khuya - Nỗi buồn có mặt ở khắp nơi trong căn nhà, khi mà nó không còn một tâm hồn thân thiết đã rất tốt với chúng tôi. Jonathan chợt trắng bệch người và hoa mắt do một cú sốc đánh vào bệnh bật của anh ấy, khi mà anh ấy nhận được một bức điện tín của ông Van Helsing nào đó, ông ta là ai thế nhỉ. "Các bạn sẽ rất đau buồn khi biết được rằng bà Westenra đã mất năm ngày trước, và Lucy cũng vừa qua đời cách đây hai ngày.
    Cả hai cùng được chôn cất hôm nay."
    Ôi, những dòng chữ ngắn ngủi như vậy lại chứa đựng một sự đau khổ vô cùng! Bà Westenra đáng thương! Lucy đáng thương! Họ đã ra đi, đi mãi, không bao giờ quay về với chúng tôi nữa! Và anh Arthur tội nghiệp, thật tội nghiệp đã mất đi một người thật thân thiết dịu ngọt trong đời! Chúa hãy giúp chúng con chịu đựng những nỗi đau khổ của mình.
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD - TIẾP THEO
    Ngày 22 tháng Chín. - Tất cả đã qua. Arthur đã trở về Ring, và mang Quincey Morris đi cùng. Cái cậu Quincey tốt bụng ấy! Tôi tin chắc trong tim mình rằng cậu ta cũng đau khổ không kém bất kỳ ai trong chúng tôi về cái chết của Lucy, và cậu ta cố vượt qua nỗi đau của mình như là một thủy thủ Viking thời xưa. Nếu như nước Mỹ đã có thể dưỡng nuôi được những con người như vậy, nhất định nó sẽ trở thành một cường quốc trên thế giới. Van Helsinh đang nằm ngủ dưỡng sức cho cuộc hành trình của mình.
    Ông ta sẽ trở về Amsterdam tối nay, nhưng ông ta nói rằng tối mai sẽ quay lại, ông ta chỉ muốn giải quyết một số công việc riêng tư. Nếu được thì ông ta ghé tôi. Ông ta nói rằng ông ta có một số công việc ở London và có thể phải mất một số thời gian. Ông già tội nghiệp! Tôi sợ rằng những tuần lễ căng thẳng vừa qua đã đánh quỵ thậm chí với một sức mạnh thép như vậy. Trong suốt thời gian chôn cất tôi có thể thấy ông ta cố gắng kìm nén mình một cách đáng sợ.
    Khi tất cả đã xong, chúng tôi đứng cạnh Arthur, và chàng trai tội nghiệp nói về phần đóng góp của mình trong cuộc phẫu thuật máu cậu ta đã được truyền vào huyết mạch của Lucy. Tôi có thể thấy mặt Van Helsing trắng đi và chuyển sang màu tía. Arthur nói rằng cậu ấy cảm thấy cả hai đã thật sự cưới nhau, và nàng đã thật sự là vợ cậu ấy dưới sự chứng kiến của Chúa. Không một ai trong số chúng tôi nói về những cuộc phẫu thuật khác và sẽ chẳng bao giờ chúng tôi nói ra. Arthur và Quincey đã cùng nhau ra ga, còn Van Helsing và tôi đi về đây.
    Lúc mà chỉ còn hai chúng tôi trong xe ngựa, ông ấy chợt có biểu hiện giống như là lên cơn động kinh. Ông ấy không cho tôi khẳng định rằng đấy là một dạng động kinh, mà khăng khăng cho rằng đấy chỉ là một trong những phản ứng hài hước của cơ thể để lấy lại thăng bằng trong những tình huống tệ hại mà thôi. Ông ta cười phá lên cho đến khi ông quay sang khóc, và tôi phải kéo tấm màn xuống để không một ai thấy được chúng tôi rồi sinh ra hiểu nhầm.
    Đoạn ông ta khóc lóc, cho đến khi ông bật cười trở lại, sau đó thì quay ra vừa khóc vừa cười, giống như một người phụ nữ vậy. Tôi cố trấn tĩnh ông ta, giống như trấn tỉnh lại một người phụ nữ trong những tình huống tương tư, nhưng vô hiệu. Đàn ông và đàn bà khác hẳn nhau về bản chất khi thần kinh căng thẳng hoặc khi đau yếu! Cuối cùng thì vẻ mặt ông ta trở lại bình tĩnh và nghiêm trọng trở lại, tôi hỏi ông vì sao ông lại nô giỡn như vậy. Ông trả lời rằng đó là một trong những tính cách của ông, rằng điều đó hợp lý, mạnh mẽ và bí ẩn. Ông ta nói,
    "A, anh không hiểu đâu, anh bạn John. Anh nghĩ rằng chắc là tôi không buồn, vì tôi đang cười. Nhìn đây này, tôi đã khóc thậm chí đến khi cái cười làm tôi nghẹt thở. Nhưng khi tôi khóc, tôi cũng không thể buồn hơn thế, khi mà cái cười đến cùng lúc. Hãy tưởng khi mà có một tiếng cười vừa đến gõ cửa nhà anh và nói Tôi có thể vào được không?', thì nó không phải là một tiếng cười thật sự đâu. Không! Tiếng cười là một vị vua, nó đến khi nào nó thích. Nó không cần phải xin phép con người, nó không cần phải lựa chọn thời điểm thích hợp. Nó chỉ cần nói Ta đây.' Hãy quan sát đi, trong trường hợp này, con tim tôi đã vô cùng đau buồn cho cô gái dễ thương kia.
    Tôi đã cho cô ta máu của mình, dù tôi đã già yếu rồi. Tôi đã cho đi thời gian, năng lực và giấc ngủ của mình.
    Tôi còn sẳn sàng chịu đựng thêm nữa để cô ta được bình phục. Và một lần nữa tôi có thể cười với cô ta một cách lạnh lùng, cười khi mà lưỡi mai của người nhân viên nhà thờ phủ đất lên cái áo quan bao bọc cơ thể cô ta, và để nghe những tiếng "Thình thịch, thình thịch," vọng đến tận tim mình, đến khi nó trả về dòng máu trên má tôi. Trái tim tôi rỉ máu đau buồn vì cậu bé thân yêu tội nghiệp kia, vì cái tuổi trẻ của chính cậu ta mà tôi chúc cho cậu ta còn được sống, với mái tóc và đôi mắt của mình.
    "Thế đấy, anh biết là vì sao tôi yêu cậu ta đến như vậy. Và khi cậu ta nói lên những điều khiến trái - tim - người - chồng của tôi rung động, và làm cho trái - tim -người - cha của tôi càng thương mến anh ta hơn bất kỳ ai khác, hơn cả anh, bạn John, bởi vì chúng ta còn có những mối quan hệ còn hơn cha và con, thì ngay lúc đó Vua Cười đến với tôi, gào lên dưới tai tôi, "Ta đây! Ta đây!" đến khi máu trong người tôi nhộn nhạo trở lại, và nó mang lại ánh sáng lên đôi má của tôi. Ôi, bạn John, đây là một thế giới kỳ lạ, một thế giới buồn thảm, một thế giới đấy những đau khổ, tai ương và phiền muộn. Và khi Vua Cười đến, nó bắt mọi thứ phải nhảy múa theo điệu nhạc của nó.
    Những trái tim đang sầu thảm, những nắm xương khô trong nghĩa địa, những dòng lệ cháy bỏng khi tuôn rơi, tất cả đều nhảy múa theo điệu nhạc mà nó tạo ra từ đôi môi không biết đến nụ cười của nó. Hãy tin tôi đi, bạn John, nó là một người tốt bụng và tử tế đấy. A, tất cả chúng ta, đàn ông và đàn bà, đều giống như những xâu chuỗi được buộc chặt với những sự căng thẳng tác động chúng ta theo những nẻo khác nhau. Và những dòng lệ tuôn ra, rơi như mưa trên những xâu chuỗi đó, nối chúng lại với nhau, khiến cho sự căng thẳng càng trở nên mãnh liệt, và chúng ta ngã quỵ. Nhưng Vua Cười đã đến, nó giống những những tia nắng mặt trời, làm dịu đi sự căng thẳng, và chúng ta lại có thể tiếp tục công việc của mình, làm những gì mà chúng ta có thể làm được."
    Tôi không muốn làm ông phật ý, nên giả vờ như hiểu được ý ông, nhưng khi tôi không thể nỗi hiểu nguyên nhân cho cái tiếng cười của ông ta, tôi hỏi ông ta. Khi trả lời tôi, mặt ông ta trở nên nghiêm khắc, và ông ta đổi giọng khi nói,
    "Ôi, thật là một sự trớ trêu tàn nhẫn, khi mà người phụ nữ đáng yêu trang điểm bằng những vòng hoa, trông thật đẹp như là đang sống, đến nỗi ai trong chúng ta cũng đều tự hỏi xem cô ta đã thật sự chết chưa, khi mà cô ta đã nằm trong một ngôi nhà xinh xắn bằng đá cẩm thạch trong một khu nghĩa trang cô tịnh, nơi an nghỉ của nhiều người thân khác của cô ta, cô ta nằm đó với mẹ mình, người rất yêu cô ta và cô ta cũng rất yêu bà ấy, và rồi tiếng chuông thiêng liêng vang lên "Toong! Toong! Toong!", thật buồn thảm và nặng nề, rồi có những con người mộ đạo , với những bộ đồ trắng như những thiên thần, giả vờ đọc những cuốn sách, trong khi suốt lúc đó mắt họ đâu hề để trên những trang sách, và tất cả chúng ta cúi đầu. Và tất cả những điều đó để làm gì? Cô ta đang chết, hừ! Có đúng thế không?"
    "Vâng, nhưng với cả cuộc đời của tôi, thưa giáo sư," tôi nói, "tôi chẳng thấy cái gì đáng cười lúc này cả. Có thể là do những kinh nghiệm của ông khiến nó trở nên một bài tóan khó giải hơn lúc trước. Nhưng thậm chí khi mà những dịch vụ tang lễ cũng trở nên khôi hài, thì còn Arthur và nỗi đau buồn của anh ấy thì sao? Vì sao trái tim của anh ta tan vỡ?"
    "Cũng thế. Phải chăng anh ta đã nói rằng anh ta đã truyền máu cho cô ta và khiến cô ta trở thành vợ thực sự của mình?"
    "Vâng, điều đó là một điều an ủi êm dịu cho anh ta."
    "Có lẽ vậy. Nhưng chúng ta có khó khăn đấy, bạn John. Nếu mà như vậy, thì còn những người khác thì sao? Hô hô! Vậy thì cô thiếu nữ ấy là một cô gái nhiều chồng, và tôi, với người vợ tội nghiệp đã chết cho tôi, nhưng vẩn còn sống bởi những luật lệ của Giáo hội, dù chẳng cần mưu kế gì cả, với cái cách như vậy, thì thậm chí tôi, một người chồng chung thủy và lúc này không có vợ, cũng đã trở thành một kẻ hai vợ mất rồi."
    Tôi không thấy điều gì đáng để đùa cợt trong chuyện này cả!" tôi nói, và tôi cảm thấy rất không bằng lòng khi ông ta nói ra những điều như vậy. Ông ta đặt tay lên tay tôi, và nói,
    "Bạn John, xin lỗi nếu tôi làm anh giận. Tôi sẽ không bày tỏ những tình cảm của mình cho bất kỳ ai nếu điều đó làm anh ta tổn thương, nhưng chỉ làm với anh, người bạn cũ, người tôi có thể tin tưởng. Nếu anh có thể hiểu được trái tim tôi khi mà tôi muốn bật cười, nếu anh có thể làm được như vậy khi mà cơn cười đến, nếu anh có thể làm được như vậy lúc này, khi mà Vua Cười đã từ bỏ vương miện của nó, và tất cả những gì thuộc về nó đã đi xa, rất xa khỏi tôi, nó sẽ rời xa tôi một khỏang thời gian dài, rất dài, thì anh có thể thương hại cho tôi về tất cả."
    Tôi bị xúc động với giọng điệu xa vắng của ông, và hỏi lý do.
    "Bởi vì tôi biết mọi chuyện!"
    Và bây giờ chúng tôi đã mỗi người một nơi, để cho những ngày dài cô tịch lại phủ quanh mái nhà chúng tôi với những nỗi sầu thăm thẳm. Lucy đã yên nghỉ trong nhà mộ của dòng họ nàng, một ngôi nhà của cái chết nguy nga trong một nghĩa trang vắng lặng, cách xa khỏi London náo nhiệt, nơi có không khí trong lành, nơi có thể thấy mặt trời vươn lên trên đỉnh ngọn đồi Hampstead, nơi mà những đóa hoa dại tự do sống cuộc đời vô tư lự của mình.
    Vậy là tôi chấm dứt quyển nhật ký của mình ở đây, và chỉ có Chúa mới biết là tôi có còn viết thêm quyển nhật ký nào nữa hay không. Nếu tôi làm điều đó, hoặc thậm chí nếu tôi mở lại quyển nhật ký này, thì sẽ để kể về câu chuyện của những con người khác và những đề tài khác, còn với chuyện này thì đến đây là chấm dứt cho một câu chuyện lãng mạn đã diễn ra trong đời tôi, trước khi tôi quay lại để tiếp tục đếm từng trang trong quyển sách cuộc đời của mình, tôi cất tiếng một cách buồn bã và tuyệt vọng, "HẾT"
    NHẬT BÁO WESTMINSTER, NGÀY 25 THÁNG CHÍN, MỘT ĐIỀU BÍ ẨN Ở HAMPSTEAD
    Những cư dân ở vùng lân cận Hampstead lúc này đang rất kích động với một loạt các sự kiện diễn ra liên tục được biết đến với một số tựa báo như là "Điều kinh dị ở Kensington," hoặc "Người đàn bà bị đâm nát," hoặc "Người đàn bà vận đồ đen." Trong hai hoặc ba ngày gần đây đã xảy ra hiện tượng một số đưa trẻ bị lạc khỏi nhà hoặc bị sao nhãng mất khi chơi đùa ở Heath. Trong tất cả các trường hợp, những đứa bé này đều còn quá bé nên không thể đưa ra những lời giải thích rõ ràng cho trường hợp của mình, nhưng chúng đều đưa ra những lời bào chữa liên ứng nhau là chúng đã ở chơi với một "người phụ nữ máu."
    Chúng luôn bị mất tích vào lúc rất khuya trong đêm, và có hai trường hợp mãi đến sáng hôm sau mới tìm thấy được. Điều ghi nhận chung qua dư luận ở đây là, đứa bé đầu tiên mất tích đã nói lý do là nó đi chơi với một "người phụ nữ máu", cô ta đã đề nghị nó dạo chơi một lúc, và đứa kia thì vin luôn vào cớ ấy. Có lẽ tự nhiên hơn nếu ta cho rằng đây là một trò chơi cá nhân của một đứa trẻ nào đó khi muốn nhử những đứa khác ra ngòai chơi bằng những mẹo mực.
    Một phóng viên đã vẽ cho chúng tôi bức tranh một số đứa trẻ giả vờ làm "người phụ nữ máu" một cách ngộ nghĩnh cao độ. Anh ta nói rằng một số nhà biếm họa của chúng tôi có thể thuyết một bài về sự châm biếm tính kệch cỡm bằng cách so sánh giữa sự thực và tranh vẽ. Chỉ có điều là mọi người tuồng như đều thỏa thuận với nhau một cách bản năng khi "người phụ nữ máu" trở thành vô cùng quen thuộc trong những hoạt động hội họa ở đây. Anh chàng phóng viên ngây thơ của chúng tôi còn nói rằng thậm chí Ellen Terry cũng không thể chiến thắng sự hấp dẩn của những khuôn - mặt - bụi - bặm của những đứa trẻ đang giả vờ tạo nên, và sẽ cũng phải vẽ lại chúng thôi.
    Tuy nhiên, vấn đề có một khía cạnh nghiêm trọng là, tất cả những đứa trẻ bị mất tích trong đêm, đều có vết rách hoặc vết thương nhỏ ở cổ họng. Những vết thương giống như bị chuột hay một con chó nhỏ tấn công, và mặc dù không gây nên hậu quả đặc biệt nào, chúng cho thấy rằng đã có một con vật nào đó tấn công chúng một cách có hệ thống hoặc có phương pháp riêng. Cảnh sát đã chia nhau chỉ dẩn cho mọi người chú ý đề phòng trường hợp trẻ bị lạc, đặc biệt là với những đứa rất bé, và trông chừng những con chó đi lạc khắp chúng quanh Hampstead.
    NHẬT BÁO WESTMINSTER, NGÀY 25 THÁNG CHÍN, SỐ PHỤ TRƯƠNG ĐẶC BIỆT
    ĐIỀU KINH DỊ Ở HAMPSTEAD
    MỘT ĐỨA TRẺ KHÁC BỊ THƯƠNG
    CHUYỆN "NGƯỜI PHỤ NỮ MÁU"
    Chúng tôi vừa nhận được một tin cấp tốc về một đứa trẻ khác, vừa mất tích đêm qua, chỉ mới được tìm thấy rất trễ sáng nay dưới một bụi kim tước ở ngọn đồi Shooter nằm bên Hampstead Heath, có thể là do nơi này ít được lui đến hơn những vùng khác. Cũng những vết thương li ti nơi cổ họng như những trường hợp khác.
    Nhưng trường hợp này đứa trẻ trông yếu lả và hốc hác vô cùng. Khi đã bắt đầu hồi tỉnh, nó cũng nói về câu chuyện quen thuộc là một "người phụ nữ máu" đã quyến rũ nó.





  7. #15
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default





    Chương 14

    NHẬT KÝ CỦA NINA HARKER



    Ngày 23 tháng Chín. - Jonathan đã đỡ hơn sau cái đêm tồi tệ đó. Tôi mừng khi thấy anh ấy có nhiều công việc phải làm, và điều đó khiến anh không còn phải bận tâm về những điều khủng khiếp khác, và ôi, tôi còn hãnh diện là anh ấy không bị những trách nhiệm trên cương vị mới mẻ của mình làm ngã quỵ. Tôi biết rằng bấy giờ anh ấy đã thật sự trở thành chính mình, và bây giờ tôi tự ào biết khi khi thấy Jonathan đang vươn mình lên trong sự thành đạt của anh ấy và cuốn mình vào sự nhộn nhịp của công việc đang vây quanh anh. Anh ấy luôn luôn đi làm đến tận khuya, và anh ấy nói rằng không thể ăn trưa ở nhà. Công việc nội trợ của tôi thế là xong, và tôi sẽ lấy một cuốn nhật ký về chuyến đi nước ngòai của anh ấy, khóa mình trong phòng và đọc nó.
    Ngày 24 tháng Chín. - Tối hôm qua tôi không còn tâm trí để viết nữa, những điều ghi chép khủng khiếp của Jonathan đã làm tôi kinh hòang. Tội nghiệp anh thân yêu! Anh ấy đã đau khổ như thế nào, và đó là sự thực hay chỉ là sự tưởng tượng. Tôi không biết rằng trong tất cả những chuyện đó có chuyện nào là thực hay không. Anh ấy đã bị một cơn sốt não, và viết lên những điều khủng khiếp này, hay là anh ấy có những nguyên nhân thật sự để viết nên chúng? Tôi nghĩ là mình sẽ chẳng bao giờ biết, vì tôi không dám nói với anh ấy về chủ đề này. Còn người đàn ông mà chúng tôi đã thấy hôm qua nữa! Ông ấy rõ ràng là tác động đến anh, anh chàng tội nghiệp! Tôi nghĩ rằng đám tang đã làm anh ấy phiền muộn và gửi anh ấy về với những sự kiện trong tiềm thức.
    Anh ấy rõ ràng là tin vào tất cả những chuyện này. Tôi còn nhớ rõ trong ngày cưới của chúng tôi anh ấy đã nói, "Trừ khi thật sự có những nghĩa vụ bắt buộc nào đó khiến anh buộc phải quay lại những giây phút kinh hòang này, lúc anh đang thức hay ngủ, tỉnh hay điên..." Và có vẻ những tất cả những chuyện này vẩn tiếp tục.
    Cái tên bá tước kinh khủng kia đã đến London, và nếu như hắn đã đến London, thì nó sẽ tạo ra hàng triệu...
    Đấy có thể là một nghĩa vụ bắt buộc, và nếu nó đến thì chúng tôi không được phép lùi bước. Tôi sẽ chuẩn bị. Tôi sẽ lấy cái máy chữ của tôi ngay và bắt đầu sao chép lại. Và chúng tôi sẽ sẳn sàng cho những cặp mắt khác muốn được đọc nó. Và nếu cần, thì có thể là, nếu như tôi sẳn sàng, còn anh Jonathan có thể sẽ không phiền, thì có thể tôi sẽ nói với anh mà không bao giờ làm anh ấy phải bối rối hay lo lắng về chúng. Nếu thậm chí Jonathan có thể vượt qua sự căng thẳng, anh ấy có thể muốn nói chuyện với tôi về tất cả, tôi có thể hỏi anh và tìm hiểu mọi chuyện để an ủi phần nào cho anh ấy.
    THƯ VAN HELSING GỬI BÀ HARKER
    Ngày 24 tháng Chín
    (Tâm sự riêng)
    "Thưa bà,
    "Tôi mong bà tha thứ cho lá thư mà tôi đã tỏ ra quá thân mật khi gửi đến bà tin buồn về cái chết của cô Lucy Westenra. Với sự tử tế của huân tước Godalming, tôi được phép đọc như thư từ và giấy tờ của cô, vì tôi đang phải giải quyết một vấn đề quan trọng cấp bách. Trong số chúng tôi có thấy những lá thư của bà, cho thấy bà là một người bạn cao quý và bà rất yêu cô ta.Ôi, thưa bà Mina, với sự yêu quý đó, tôi mong bà hãy giúp tôi.
    Cho một mục đích tốt đẹp khác, tôi cần phải sữa chữa lại một sai làm tai hại, để chấm dứt những điều rắc rối kinh khiếp và to lớn, có thể nó còn lớn hơn bà biết nhiều.Tôi có thể gặp bà được không ạ? Bà có thể tin tôi. Tôi là bạn của bác sĩ John Seward và huân tước Goldaming (đó chính là anh Arthur của cô Lucy). Tôi phải giữ kín cho mình mọi chuyện lúc này.
    Tôi sẽ đến Exeter và gặp bà ngay khi bà cho tôi đặc ân được gặp bà, cũng như thời gian và địa điểm. Tôi mong bà tha lỗi, thưa bà. Tôi đã đọc những lá thư bà gửi cho cô Lucy tội nghiệp, được biết là bà tốt như thế nào cũng như chồng bà đau ốm như thế nào. Vì vậy tôi mong bà, nếu có thể, đừng cho ông ấy biết mọi chuyện vào lúc này, có thể điều đó sẽ làm hại anh ấy. Một lần nữa mong bà thứ lỗi và bỏ qua mọi chuyện cho tôi.
    "Van Helsing"
    ĐIỆN TÍN CỦA BÀ HARKER CHO VAN HELSING
    Ngày 25 tháng Chín. - Hãy đến hôm nay bằng chuyến tàu mười giờ mười lăm nếu kịp. Có thể gặp ngài bất cứ lúc nào ngài muốn.
    "WILHELMINA HARKER"
    NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER
    Ngày 25 tháng Chín. - Tôi không thể không cảm thấy vô cùng xúc động khi gần đến giờ hẹn đến của bác sĩ Van Helsing, và tôi cũng mong muốn là nó sẽ phần nào rọi chút ánh sáng lên một quãng quá khứ buồn thảm của anh Jonathan, và vì ông ấy có mặt bên Lucy tội nghiệp thân thương ở những khỏanh khắc ốm đau cuối cùng của bạn ấy, ông ấy có thể nói với tôi tất cả về bạn ấy. Và thật ra lý do chuyến đến thăm của ông ấy là thế này đây.
    Ông ấy quan tâm đến Lucy và chứng mộng du của bạn ấy, chứ không phải là về Jonathan. Và lúc này thì tôi chưa có cách nào biết được sự thật là thế nào! Tôi thật là ngu ngốc. Cuộc hành trình kinh khủng kia đã chiếm hết mọi suy nghĩ của tôi và đối với tôi lúc này bất cứ việc gì hình như cũng mang theo màu sắc của nó. Tất nhiên là ông ấy đến vì Lucy. Tật mộng du kia lại quay trở về với cô bạn thân thương tội nghiệp của tôi, và chính cái đêm kinh khiếp trên vách đá kia đã khiến bạn ấy ốm. Tôi đã gần như quên bẵng đi mất rằng bạn ấy đã trở nên đau yếu như thế nào sau việc ấy.
    Bạn ấy chắc đã nói với ông ấy về cuộc du hành trong cơn mộng du trên vách đá, và đó là tất cả là những điều tôi biết, và lúc này ông ấy muốn tôi nói với ông ấy những điều tôi biết, để ông ấy có thể hiểu được vấn đề. Tôi hy vọng là tôi đã làm đúng khi không nói gì với bà Westenra. Tôi không bao giờ tha thứ cho mình nếu có bất kỳ hành động nào của mình, dù không phải chủ định, mang đến tai họa cho Lucy tội nghiệp. Tôi cũng hy vọng rằng bác sĩ Van Helsing sẽ không trách cứ tôi. Tôi trở nên quá bối rối và kinh hoảng đến nôi tôi cảm thấy không sao chịu đựng thêm nữa vào lúc đó.
    Tôi nghĩ rằng khóc một chút sẽ có lợi cho tôi hơn và lúc này, nó sẽ giống như một cơn mưa sẽ làm cho khí trời quang đãng hơn. Có thể là cuốn nhật ký hành trình kia đã khiến tôi bối rối sau khi đọc nó, và khi Jonathan lên đường vào sáng nay, anh ấy sẽ xa tôi cả suốt cả ngày và đêm, đó là lần đầu tiên chúng tôi chia cắt sau ngày cưới của mình.
    Tôi hy vọng rằng anh chàng đáng yêu đó biết cách tự chăm sóc mình, và không có điều gì phiền muộn xảy đến cho anh. Đã hai giờ rồi, và bác sĩ sẽ sắp đến bây giờ đấy. Tôi sẽ không nói gì về cuộc hành trình của anh Jonathan trừ khi ông ấy hỏi đến tôi. Tôi lấy làm hài lòng là đã đánh máy lại cuốn nhật ký của chính mình, và vì thế trong trường hợp ông ấy hỏi về Lucy, tôi có thể đưa nó cho ông. Nó sẽ thay thế cho nhiều câu hỏi.
    Đêm khuya. - Ông ta đã đến và lại đi. Ôi, thật là một cuộc gặp gỡ kỳ lạ, và nó làm đầu óc tôi quay mòng mòng. Tôi cảm thấy nó là một giấc mộng. Chuyện ấy có thể xảy ra được sao, hoặc thậm chí chỉ một phần câu chuyện cũng được? Nếu tôi không đọc cuốn nhật ký của Jonathan rồi, tôi sẽ thông bao giờ chấp nhận là có những chuyện như vậy. Ôi, anh Jonathan tội nghiệp, thật tội nghiệp! Anh ấy hẳn đã phải vô cùng đau khổ. Xin Chúa nhân từ phù hộ, để những điều phiền muộn ấy đừng quấy rầy anh ấy nữa.
    Tôi sẽ bảo vệ anh ấy chống lại chúng. Nhưng dù sao cũng có điều an ủi và nâng đỡ anh ấy rằng, là mặc dù những chuyện như vậy thật là khủng khiếp, thì cuối cùng mắt, tai và khối óc đã không đánh lừa anh ấy. Có thể là sự nghi ngờ vẩn làm anh ấy dằn vặt, và bây giờ, khi mà sự nghi ngờ đã bị loại bỏ, không còn vấn đề rằng mọi chuyện là thực hay mộng nữa, mà có thể chứng minh rằng đấy chính là sự thật, thì anh ấy sẽ dễ chịu hơn và có thể chịu đựng cú sốc tốt hơn. Bác sĩ Van Helsing đúng là một con người tốt bụng, một người bạn thông minh của anh Arthur và bác sĩ Seward, đúng là con người mà họ đã nhờ cậy từ Hà Lan đến để chăm sóc Lucy. Khi gặp ông tôi cảm thấy rằng ông ấy thật là tốt và có bản chất cao thượng bẩm sinh.
    Ngày mai khi ông đến tôi sẽ hỏi ông về Jonathan. Và, xin Chúa phù hộ cho tất cả những câu chuyện bi thảm và phiền muộn này có một kết cục tốt đẹp. Tôi đã từng mơ rằng tôi sẽ thực hiện một cuộc phỏng vấn. Bạn của anh Jonathan ở tờ "Tin tức Exeter" nói với anh ấy rằng trí nhớ là điều chủ yếu trong công việc này, rằng bạn phải có khả năng ghi lại chính xác mọi lời nói đã được nói ra, thậm chí sau này bạn phải điều chỉnh lại chúng.
    Đây là một cuộc phỏng hiếm hoi. Tôi sẽ cố ghi chép lại chúng thật chính xác.
    Tiếng gõ cửa vang lên lúc hai giờ rưỡi. Tôi lấy hết can đảm chờ đợi. Vài phút sau Mary mở cửa, và thông báo "Bác sĩ Van Helsing".
    Tôi đứng dậy và cúi chào, và ông ta đi thẳng về phía tôi, đó là một người tầm thước, vai ông ấy nhô rộng về phía sau biểu lộ một thể lực khỏe mạnh, ngực sâu, cổ trông rất hợp để đỡ lấy cái đầu phía trên. Tư thế đĩnh đạc của đầu ông khiến tôi ngay tức khắc cảm thấy đây là một con người thâm trầm và mạnh mẽ. Đầu ông trông quý phái, cân đối, rộng, và nở lớn ra phía sau tai.
    Khuôn mặt được cạo nhẵn nhụi, đưa ra một chiếc cằm rộng, nghiêm nghị, một sự cương quyết cao độ, đôi môi linh hoạt, một cái mũi cân đối, rất thẳng, nhưng với những lỗ mũi linh hoạt, nhạy cảm, có vẻ rộng hơn khi đôi lông mày dày rậm rũ xuống và đôi môi mím chặt. Trán rộng và đẹp, phần dưới vươn lên thật thẳng rồi chảy ngược ra phía sau chia cắt thành hai phần với phần chóp, với một cái trán như vậy thì mái tóc đỏ của ông ta không thể tìm thấy chỗ dung thân trên đó, nhưng nó rẽ một cách tự nhiên về phía sau và sang hai bên. Đôi mắt to, xanh đậm mở rộng, trông nhanh nhẹn và trông nhạy cảm hoặc nghiêm khắc đầy nam tính. Ông ta nói với tôi,
    "Bà Harker, có phải không ạ?" Tôi nhún người đồng ý.
    "Trước đây là cô Mina Murray, phải không ạ?" Tôi lại một lần nữa xác nhận.
    "Mina Murray, người mà tôi đã đến gặp chính là bạn của cô bé tội nghiệp thân yêu Lucy Westenra. Thưa bà Mina, tôi đến vì một vấn đề sinh tử."
    "Thưa ông," tôi nói, "có lẽ ông không cần phải nói với tôi rằng ông chính là bạn và người cứu giúp Lucy Westenra." Và tôi chìa tay ra. Ông ta nắm lấy và nói bằng một giọng xúc động,
    "Ôi, thưa bà Mina, tôi biết rằng bạn của cô gái bé nhỏ đáng thương ấy tất nhiên phải là người tốt, nhưng tôi vẩn chưa thể lường hết được..." Ông ta chấm dứt câu nói với một cái cúi chào nhã nhặn. Tôi hỏi ông ấy xem ông ấy muốn gặp tôi về chuyện gì, và ông ta bắt đầu ngay.
    "Tôi đã đọc thư của bà gửi cho cô Lucy. Xin hãy thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi phải bắt đầu câu chuyện tại một nơi khác, bởi vì ở đây không có gì để nói cả. Tôi biết rằng bà đã ở với cô ta ở Whitby. Cô ta đôi khi cũng ghi nhật ký, nên bà không cần phải trông đầy kinh ngạc thế đâu, bà Mina. Cô ấy bắt đầu ghi chép lại sau khi bà đi, cô ấy bắt chước bà ấy mà, và trong nhật ký đó cô ấy đã suy luận lại rõ ràng là cô ta đã có một cơn mộng du mà bà đã cứu cô ta. Đó là một vấn đề rất phức tạp, và tôi đến gặp bà cũng chính vì chuyện đó. Mong bà hãy hết sức vui lòng kể lại cho tôi tất cả những gì mà bà có thể nhớ được."
    "Tôi nghĩ là tôi có thể kể lại với ông, thưa bác sĩ Van Helsing, tất cả mọi chuyện."
    "A, tức là là bà có một trí nhớ tốt đủ để nhớ chi tiết từng sự kiện? Điều này không thường thấy ở những người phụ nữ trẻ đâu."
    "Không, thưa bác sĩ, nhưng tôi ghi lại mọi chuyện ngay lúc đó. Tôi có thể đưa cho ông xem nếu ông muốn."
    "Ôi, thưa bà Mina, tôi rất biết ơn bà. Bà đã cho tôi thật nhiều ân huệ."
    Tôi không thể nào cưỡng lại sự quyến rủ bởi sự bí ẩn mà ông tỏ ra, tôi cảm thấy như trên đôi môi của chúng tôi vẩn còn đọng lại hương vị của những quả táo đầu mùa, và tôi đưa cho ông ấy quyển nhật ký được ghi tốc ký. Ông ta cầm lấy nó với một cái nhún người cám ơn, và nói, "Tôi có thể đọc nó chứ ạ?"
    "Nếu ngài muốn," tôi trả lời với tất cả sự từ tốn của mình. Ông ta mở nó ra, và ngay sau đó khuôn mặt ông ấy dãn ra. Đoạn ông đứng dậy và cúi người.
    "Ôi, bà thật là một người phụ nữ thông minh!" ông ta nói. "Tôi biết rằng ngài Jonahan là một người đàn ông với những phẩm chất tốt đẹp, nhưng tôi thấy rằng vợ ông ta cũng có những đức tính đó. Liệu bà có thể ban ơn và giúp đỡ cho tôi bằng cách đọc lại cuốn sách này cho tôi được không ạ? Than ôi! Tôi không biết cách đọc những ký hiệu tốc ký."
    Lúc này trò đùa của tôi đã quá lố, và tôi cảm thấy rất xấu hổ. Vì vậy lấy bản sao được đánh máy lại từ rổ làm việc của tôi và đưa nó cho ông.
    "Xin thứ lỗi cho tôi," tôi nói. "Tôi không thể làm được điều đó, nhưng tôi đã nghĩ rằng vì Lucy thân yêu, nhất định ông sẽ yêu cầu tôi điều đó, và vì ông không có thời gian để chờ đợi, đây không phải là chuyện của tôi, nhưng tôi biết là thời gian của ông thì rất quý giá, nên tôi đã đánh máy lại chúng cho ông."
    Ông ta cầm lấy nó và mắt ông sáng rực lên. "Bà thật là quá tốt," ông ta nói. "Và tôi có thể đọc nó ngay được không ạ? Tôi muốn hỏi bà một số điều khi tôi đọc xong."
    "Xin tự nhiên," tôi nói. "ông hãy đọc nó trong khi tôi chuẩn bị bữa trưa, và ông sẽ hỏi tôi trong khi chúng ta ăn."
    Ông ta cúi người và buông người xuống chiếc ghế, quay lưng về phía ánh sáng, và bắt đầu ngốn ngấu những tờ giấy, trong khi tôi đi xem xét bữa trưa, chủ yếu là để ông ta không bị quấy rầy. Khi tôi trở lại, tôi thấy ông ta đang hăm hở đi đi lại trong phòng, khuôn mặt ông sáng rực lên đầy kích động. Ông ta chạy vù đến chỗ tôi và nắm lấy tôi bằng cả hai tay.
    "Ôi, thưa bà Mina," ông ta, "làm sao tôi nói được tôi nợ bà như thế nào? Những tờ giấy này là ánh sáng. Nó mở ra một cánh cổng trước mặt tôi. Tôi đã bị chói mắt, bị lóa mắt với những ánh nắng rực rỡ chiếu xuống khi mà mây mù đã bị xua tan trước những ánh dương chói lọi. Nhưng bà không, không thể hiểu hết được. Ôi, nhưng tôi rất biết ơn bà, bà là một người phụ nữ thật thông minh. Thưa bà," ông ta nói rất trịnh trọng, "nếu như Abraham Van Helsing có thể làm được bất kỳ điều gì cho bà hoặc những bạn bè của bà, xin bà hãy cho tôi biết.
    Tôi vô cùng hài lòng và vui sướng nếu như tôi có thể phục vụ bà như một người bạn, như một người bạn, nhưng tất cả những gì tôi đã nghiên cứu, tất cả những gì tôi có thể làm, sẽ dành cho bà và những người bà thương yêu. Một bên là những phần tối tăm của cuộc sống, và một bên là ánh sáng. Bà là một trong những ánh sáng ấy. Bà sẽ có một cuộc sống hạnh phúc và một cuộc sống tốt đẹp, và chồng bà cùng hạnh phúc với bà."
    "Nhưng, thưa bác sĩ, ông đã ca tụng tôi quá lời, và ông chẳng cho tôi biết gì cả."
    "Không, thưa bà, tôi sẽ không cho bà biết đâu, tôi, một lão già, một người đã học suốt cả đời mình về đàn ông và đàn bà, tôi là người đã làm cho bộ não mình trở nên đặ c biệt, phụ thuộc hoàn toàn vào nó và đi theo sự chỉ dẩn của nó! Và tôi đã đọc cuốn nhật ký mà bà đã tốt bụng trao cho tôi, trong đó mỗi dòng chữ đều làm sáng tỏ thêm sự thật. Tôi, người đã đọc những bức thư êm đềm của Lucy tội nghiệp về đám cưới của bà và lòng trung thực của bà, sẽ không cho bà biết đâu! Ôi, thưa bà Mina, những người phụ nữ tốt bụng đã kể lại trong suốt cuộc đời mình, hàng ngày, hàng giờ và hàng phút, những điều mà những thiên thần có thể đọc được.
    Và chúng tôi, những người đàn ông, chúng tôi ước ao biết được là chúng tôi có được những gì trong những đôi mắt thiên thần ấy. Chồng bà là một người cao quý bẩm sinh, và bà cũng là một người cao quý, vì lòng trung thực của bà, lòng trung thực không thể xuất hiện ở đâu ngòai bản tính tự nhiên của con người. Và còn về chồng bà nữa, hãy kể cho tôi nghe về ông ấy. Ông ấy có khỏe không. Ông ấy đã khỏi những cơn sốt chưa, và ông ấy đã khỏe mạnh và cường tráng trở lại chưa?"
    Tôi đang ngồi đây để tìm cách hỏi ông ta về Jonathan, và vì thế tôi nói, "Anh ấy gần như đã bình phục hoàn toàn, nhưng anh ấy rất phiền muộn vì cái chết của ông Hawkins."
    Ông ta ngắt lời, "Ồ, vâng. Tôi biết. Tôi biết. Tôi có đọc hai lá thư cuối cùng của bà."
    Tôi tiếp tục, "Tôi cho rằng điều đó khiến anh ấy đau buồn, và vào thứ năm mới đây khi chúng tôi vào thị trấn, anh ấy đã bị một cơn sốc."
    "Một cơn sốc, ngay sau một cơn sốt não! Điều này không tốt đâu. Cơn sốc ấy là như thế nào?"
    "Anh ấy nghĩ là anh ấy đã gặp một người gợi anh ấy nhớ về một cái gì rất khủng khiếp, một cái gì đó khiến cho não anh ấy lên cơn sốt." Đến đây thì có một cái gì đó làm tòan thân tôi run lên. Tình thương với anh Jonathan, câu chuyện khủng khiếp mà anh ấy đã trải qua, cả quyển nhật ký bí ẩn kinh hãi của anh ấy, và nỗi sợ hãi tiềm ẩn trong tôi từ bấy nay, bây giờ ập đến cuồng loạn. Hình như tôi quá kích động, nên tôi quỳ gối xuống và đưa tay về phía ông ta, van xin ông ta hãy làm chồng tôi khỏe trở lại. Ông ta nắm lấy tay tôi và nâng tôi lên, để tôi ngồi trên ghế xofa, rồi ngồi bên tôi. Ông ta cầm tay tôi, và nói với tôi với, ôi, với một giọng dịu dàng vô bờ bến,
    "Cuộc sống của tôi là những chuỗi ngày cằn cỗi và cô đơn, nó tràn ngập những công việc đến nỗi tôi không có nhiều thời gian để dành cho bạn bè, nhưng tôi đã được gọi đến đây bởi anh bạn John Seward, và tôi đã được biết nhiều người tốt và những tình cảm cao thượng mà tôi chưa bao giờ cảm thấy trong suốt những năm dài đằng đẳng trong cuộc đời đơn độc của mình.
    Hãy tin tôi, tôi đến đây với sự ngưỡng mộ bà, và bà đã cho tôi sự hy vọng, sự hy vọng, không phải là cái tôi đang tìm kiếm, nhưng hãy còn một con người phụ nữ tốt bụng để làm cho cuộc sống trở nên hạnh phúc, một người phụ nữ mà cuộc sống và lòng trung thực của người ấy đã trở thành một bài học tốt cho những đứa trẻ sau này. Tôi rất, rất vui, khi tôi có thể hữu dụng cho bà ở đây. Về căn bệnh của chồng bà, căn bệnh của ông ấy thuộc về một lãnh vực tôi nghiên cứu và có kinh nghiệm. Tôi hứa là tôi sẽ rất vui lòng được làm tất cả cho anh ấy những gì mà tôi có thể, làm tất cả để anh ấy trở nên khỏe mạnh và vững vàng, và cuộc sống của bà trở nên hạnh phúc.
    Bây giờ thì bà phải ăn đi đã. Bà đã làm việc quá sức và có thể là đã âu lo quá sức nữa. Người chồng Jonathan sẽ không bằng lòng khi thấy bà xanh xao như vậy, khi mà cái ông ta thích lại không có trên chỗ mà ông ta yêu, điều đó sẽ không tốt cho ông ấy. Vì lợi ích của ông ấy, bà phải ăn và cười lên. Bà đã nói với tôi về Lucy, và bây giờ chúng ta sẽ không nói về chuyện đó nữa, hãy để câu chuyện buồn ấy lắng đọng đi. Tôi sẽ ở Exeter tối nay, vì tôi muốn suy nghĩ nhiều về những gì bà đã nói với tôi, và khi tôi nghĩ xong tôi sẽ hỏi bà một số câu hỏi, nếu tôi có thể. Và cũng là lúc, bà sẽ nói với tôi về những nỗi phiền muộn của ông Jonathan chồng bà, nhưng lúc này thì chưa. Lúc này bà phải ăn đã, sau đó thì bà sẽ nói với tôi tất cả."
    Sau bữa ăn trưa, khi chúng tôi trở về phòng khách, ông ta nói với tôi, "Và bây giờ hãy nói với tôi tất cả về chồng bà."
    Khi nói chuyện với một con người học thức như vây, tôi bắt đầu sợ rằng ông ta sẽ nghĩ tôi là một kẻ ngốc nghếch bệnh hoạn, còn anh Jonathan thì là một người điên, vì cuộc hành trình quá lạ lùng như vậy, nên tôi ngần ngừ một thóang. Nhưng ông ta thật dịu dàng và tốt bụng, và ông ta hứa sẽ giúp đỡ, và tôi tin ông ta, nên tôi nói,
    "Bác sĩ Van Helsing, những gì tôi nói với ông sẽ rất lạ lùng nên ông không được cười nhạo tôi hoặc chồng tôi. Từ ngày hôm qua tôi đã tràn ngập nghi ngờ. Ông phải tin tưởng tôi, đừng nghĩ rằng tôi là một con ngốc khi tôi thậm chí mới nữa tin nữa ngờ những chuyện kỳ lạ như vậy."
    Ông ta lại trấn an tôi bởi cái cách mà ông ấy nói ra như thế này, "Ôi, người bạn thân, nếu bà chỉ cần biết rằng chính vì những câu chuyện kỳ quặc như vậy mang tôi đến đây, thì chính bà mới là người cười nhạo. Tôi đã được biết rằng không bao giờ nghi ngờ đức tin của bất cứ ai, dù rằng nó lạ lùng như thế nào đi nữa. Tôi luôn giữ một tâm hồn rộng mở, mà những câu chuyện bình thường trong cuộc sống không đóng nó lại, mà chính là những điều lạ lùng, những câu chuyện kỳ lạ, những điều khiến mọi người, dù tỉnh hay điên đều nghi ngờ, sẽ đi vào tâm hồn tôi."
    "Cám ơn ông, ngàn lần cám ơn ông! Ông đã làm tâm hồn tôi nhẹ nhõm. Nếu ông cho phép, tôi sẽ trao cho ông một số tài liệu khác để đọc. Nó rất dài, nhưng tôi đã đánh máy lại. Nó sẽ kể lại cho ông những nỗi phiền muộn của tôi và anh Jonathan. Tôi không dám nói gì về nó cả. Ông hãy đọc và tự suy nghĩ lấy. Và khi tôi gặp lại ông, có thể ông sẽ rất tốt để nói cho tôi biết ông nghĩ gì về nó."
    "Tôi xin hứa," ông ta nói khi tôi đưa cho ông tập tài liệu. "Tôi sẽ cố đến vào buổi sáng, vào lúc sớm nhất có thể, để gặp bà và chồng bà."
    "Jonathan sẽ có mặt ở nhà lúc mười một giờ rưỡi, và ông phải đến ăn trưa với chúng tôi để gặp anh ấy nhé.
    Ông có thể đón chuyến xe nhanh vào lúc 3:34, nó sẽ đưa ông đến Paddington trước tám giờ." Ông ta tỏ ra ngạc nhiên trước kiến thức của tôi về giờ giấc xe lửa, nhưng ông ấy không biết là tôi đã thuộc hết giờ giấc tất cả các chuyến tàu đến và đi Exeter, để tôi có thể giúp Jonathan trong trường hợp anh ấy vôi.
    Cuối cùng ông ta lấy xấp tài liệu và đi ra, còn tôi ngồi suy nghĩ, mà chính tôi cũng không biết mình đang nghĩ gì.
    THƯ (chuyển tay), VAN HELSING GỬI CHO BÀ HARKER
    Ngày 25 tháng Chín, 6 giờ tối
    "Thưa bà Mina,
    "Tôi vừa đọc xong cuốn nhật ký tuyệt diệu của chồng bà. Bà có thể yên tâm mà ngủ ngon chẳng cần nghi ngờ gì nữa. Những điều kỳ lạ và kinh khiếp được viết lại trong đó, chính là sự thật! Tôi sẵn sàng đánh cược cả đời mình về chuyện này. Có thể là nó rất tệ đối với những người khác, nhưng đối với ông và bà thì không có gì đáng kinh sợ đâu.
    Ông ấy là một người cao thượng, và cho phép tôi được nói với bà với những kinh nghiệm của con người rằng, người nào đã làm được những công chuyện như ông ấy đã từng làm, tuột xuống từ những bức tường như vậy và từ căn phòng như vậy, ối dà, lại còn làm lại lần thứ hai nữa, thì sẽ thể bị tác dụng vĩnh cửu của một cú sốc.
    Bộ não và trái tim của ông ấy hoàn toàn khỏe mạnh, tôi xin thề điều đó, trước khi tôi đến gặp ông ấy, hãy để nó nghỉ ngơi. Tôi sẽ hỏi ông ấy về nhiều vấn đề khác. Tôi ước sao hôm nay tôi có thể đến gặp bà, bởi vì tôi vừa được biết thêm nhiều điều khiến một lần nữa tôi bừng sáng, bừng sáng hơn bao giờ, và tôi phải suy nghĩ.
    "Người bạn chân thành,
    "Abraham Van Helsing."
    THƯ, BÀ HARKER GỬI VAN HELSING
    Ngày 25 tháng Chín, 6:30 chiều.
    "Bác sĩ Van Helsing thân mến,
    "Ngàn lần cám ơn lá thư tuyệt vời của ông, nó đã trút đi trong tôi cả một sức nặng ngàn cân đang đè trĩu tâm hồn. Và, nếu như đó là sự thật, những điều khủng khiếp ấy tồn tại trên thế giới, thì thật là kinh khủng khi con người ấy, con quái vật ấy, đang thực sự có mặt ở London! Tôi sợ không dám nghĩ đến nữa. Trong lúc tôi viết thư này, thì Jonathan có đánh điện về, nói rằng anh ấy vừa đón chuyến tàu lúc 6:25 tối nay từ Launceston và sẽ đến nơi lúc 10:18, vì vậy tôi sẽ không phải run sợ đêm nay. Do đó, thay vì ăn trưa với chúng tôi, liệu ông có thể đến ăn sáng với chúng tôi vào lúc tám giờ không ạ, nếu như lúc đó không quá sớm với ông? Ông có đi ngay, nếu ông đang vội, ông có thể đi bằng chuyến tàu 10:30, nó sẽ mang ông đến Paddington lúc 2:35. Đừng trả lời thư này, vì nếu như tôi không nhận được hồi âm thì tôi hiểu rằng ông sẽ đến ăn sáng."
    "Hãy tin tôi,
    "Người bạn trung thực và rất biết ơn ông,
    "Mina Harker."
    NHẬT KÝ CỦA JONATHAN HARKER
    Ngày 26 tháng Chín. - Tôi đã nghĩ là không bao giờ mình lại viết nhật ký nữa, nhưng đã đến lúc rồi. Khi tôi về đến nhà tối hôm qua Mina đã chuẩn bị sẳn bữa ăn khuya, và trong khi chúng tôi ăn thì nàng nói với tôi về chuyến thăm của Van Helsing, rằng nàng đã đưa cho ông ấy hai bản sao của hai quyển nhật ký, và về việc nàng đã lo lắng cho tôi như thế nào. Nàng cho tôi xem bức thư của bác sĩ nói rằng tất cả những gì tôi ghi lại đều là sự thật cả. Điều này khiến tôi dường như đã trở thành một con người khác. Những điều nghi ngờ về tính xác thực của tòan bộ câu chuyện đã đánh quỵ tôi.
    Tôi đã cảm thấy yếu ớt, và trong bóng tối thì cảm thấy bất an. Nhưng, bây giờ thì tôi biết, và tôi sẽ không lo sợ, ngay cả gã bá tước ấy. Hắn đã thực thi thành công kế hoạch, và hiện nay đang ở London, tôi đã nhìn thấy hắn. Hắn đã trẻ lại, bằng cách nào? Van Helsing là người đã lột mặt nạ hắn và săn đuổi hắn, nếu ông ta là người như Mina đã nói. Chúng tôi ngồi lại rất trễ và nói về mọi chuyện. Mina đi thay quần áo, tôi gọi đến khách sạn và vài phút sau họ đã mang ông ta đến.
    Tôi nghĩ là ông ta đã khá ngạc nhiên khi thấy tôi. Khi tôi đi vào phòng nơi ông ngồi sẳn, giới thiệu mình, ông ta nắm lấy vai tôi, quay mặt tôi ra chỗ sáng, và nói sau khi đã chăm chú quan sát kỹ lưỡng,
    "Nhưng bà Mina nói với tôi là ông đang bệnh mà, rằng ông đang bị sốc."
    Thật là buồn cười khi nghe thấy vợ tôi được gọi là Bà Mina bởi một người đàn ông già tốt bụng và quắc thước như vậy. Tôi mỉm cười, và nói, "Tôi đã ốm, tôi đã bị sốc, nhưng ông đã vừa chữa trị cho tôi xong."
    "Bằng cách nào?"
    "Bởi bức thư ông gửi cho Mina tối hôm qua. Tôi đã rất nghi ngờ, mọi thứ của tôi mang đầy sắc hoang đường, và tôi không biết sự thật là như thế nào, thậm chí không vững tin vào các giác quan của mình. Không biết được sự thật như thế nào, tôi không biết phải làm gì, và chỉ có cách cắm đầu làm việc, cho đến nay đã trở thành một thói quen trong cuộc sống của tôi. Khi tập quán dó không còn có lợi cho tôi, tôi không tin vào chính mình. Bác sĩ ạ, ông không thể biết cái cảm giác nghi ngờ mọi việc, thậm chí cả chính mình, nó như thế nào đâu. À không, ông không biết được đâu, đôi lông mày của ông đã cho tôi biết điều đó."
    Ông ta có vẻ dễ chịu, và phá lên cười khi cất tiếng, "Thế đấy! Thì ra ông là một thầy tướng. Mỗi giờ ở đây đều giúp tôi biết thêm một cái gì đó mới. Tôi rất mừng khi đến ăn sáng với ông, và ôi, thưa ông, xin ông vui lòng nghe một lời tán tụng từ một ông già rằng ông thật là hạnh phúc vì có một người vợ như thế."
    Tôi sẳn sàng nghe ông ấy tán tụng Mina cả ngày, vì vậy tôi chỉ đơn giản gật đầu và tiếp tục đứng yên.
    "Bà ta là một người phụ nữ của Chúa, một cái cách mà Người đưa tay cho ta, cho những người đàn ông và đàn bà khác thấy cái thiên đường mà chúng ta có thể vươn tới, cho chúng ta thấy ánh sáng chói lọi trên quả đất này. Thật là trung thực, thật là dịu dàng, thật là cao thượng, không hề ích kỷ, trong khi mà, cho phép tôi nói với ông rằng, có rất nhiều người ngày nay họ rất hòai nghi và tư lợi.
    Và ông, thưa ông... tôi đã đọc tất cả những bức thư gửi đến cho cô Lucy tội nghiệp, và chúng đã nói về ông khá nhiều, tôi biết ông từ lâu qua những người khác, và tối nay tôi đã được thấy con người thật của ông. Liệu ông có thể đưa tay mình cho tôi không, thưa ông? Và chúng ta sẽ là bạn suốt đời của nhau."
    Chúng tôi xiết tay nhau, ông ấy thật hăm hở và thật tốt bụng khiến tôi gần như ngạt thở.
    "và bây giờ," ông ta nói, "liệu ông có thể giúp đỡ tôi một chút được không? Tôi có một câu chuyện lớn phải làm, và bắt đầu bằng cách tìm hiểu mọi chuyện. Ông có thể giúp tôi chuyện này. Liệu ông có thể cho tôi biết những chuyện xảy ra trước khi ông đi Transylvania không? Sau này tôi có thể yêu cầu ông giúp đỡ chuyện khác, và bằng cách khác, nhưng hãy cứ bắt đầu như thế."
    "Hãy nhìn đây, thưa ông," tôi nói," có thật là ông đang quan tâm đến bá tước phải không ạ?"
    "Đúng vậy," ông ta trả lời trịnh trọng."
    "Vậy thì tôi sẽ giúp ông bằng tất cả trái tim và tâm hồn. Vì ông sẽ đi chuyến tàu 10:30, ông sẽ không có nhiều thời gian để đọc chúng, tôi sẽ đóng gói những giấy tờ này lại cho ông. Ông có thể mang nó đi và đọc nó trên xe lửa."
    Sau bữa sáng chúng tôi đi ra ga. Khi chúng tôi chia tay ông ta nói, "Ông có thể đến thị trấn khi tôi gửi thư cho ông không, và đem cả bà Mina theo cùng."
    "Chúng tôi sẽ cùng đến khi ông yêu cầu," tôi nói.
    Tôi đưa cho ông ấy báo buổi sáng và những tờ báo London tối qua, trong khi chúng tôi đứng nói chuyện qua cửa sổ toa tàu, chờ khi xe lửa khởi hành, ông ta liếc qua chúng. Mắt ông ta thình lình chú ý ngay đến một cái tựa trong số chúng, "Tờ Nhật báo Westminster", tôi biết qua sắc mặt, vì ông ta thình lình trắng bệch đi. Ông ta đọc chăm chú, gầm gừ với chính mình, "Mein Gott! Mein Gott! Sớm quá! Sớm quá!" Tôi không nghĩ là lúc đó ông ta còn nhớ gì đến tôi nữa. Đoạn còi tàu cất lên, và đòan tàu chuyển bánh. Điều đó làm ông thức tỉnh, ông trườn qua cửa sổ và vẫy tay, gọi to "Hãy chuyển lời chào thân ái đến bà Mina. Tôi sẽ viết cho các bạn ngay khi có thể."
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 26 tháng Chín. - Sự thật thì mọi chuyện chưa phải đã kết thúc. Chưa đầy một tuần sau khi tôi cất lên từ "Hết," và tại nơi đây tôi đang bắt đầu lại một lần nữa, hoặc đúng hơn là tiếp tục với các tài liệu của mình. Đến tận trưa nay tôi vẩn chưa có lý do để cho rằng sẽ diễn ra một cái gì đặc biệt. Renfield, với tất cả sự chú ý của mình, đã trở nên tỉnh táo hơn bao giờ. Ông ta lại tiếp tục bắt ruồi, và cũng tiếp tục thu thập nhện, và không gây rắc rối gì cho tôi cả.
    Tôi nhận được thư của Arthur, được viết vào thứ bảy, và nó giúp cho tôi biết là cậu ấy đã chịu đựng rất tuyệt vời. Quincey Morris ở cùng với cậu ấy, điều này đã giúp đỡ cậu ta rất nhiều, bởi vì bản thân Morris có khả năng vực dậy tinh thần rất tốt. Quincey cũng viết cho tôi vài dòng, và cậu ta cho tôi biết là Arthur bắt đầu phục hồi lại tinh thần hăng hái quen thuộc vốn có của cậu ấy, và tất cả những chuyện này làm tâm hồn tôi thư thái. Về bản thân mình, tôi cũng đã ổn định công việc của mình với sự hăm hở trước trước đây, và tôi đã có thể nói một cách thẳng thắn rằng vết thương mà Lucy tội nghiệp gây ra cho tôi đã bắt đầu liền sẹo.
    Tuy nhiên mọi chuyện đã lại bắt đầu, và chỉ có Chúa mới biết nó sẽ chấm dứt như thế nào. Theo tôi thì Van Helsing nghĩ rằng ông ta cũng biết mọi chuyện, nhưng ông ta đã để thời gian đẩy đưa khiến chúng tôi càng thêm tò mò. Ông ta đã đến Exeter hôm qua, và ở đó suốt đêm. Hôm nay ông ta trở về, và lao vào phòng tôi lúc năm giờ rưỡi, nhét vào tay tôi tờ "Nhật báo Westminster" ra tối hôm qua.
    "Anh nghĩ gì về chuyện này?" ông ta hỏi trong khi vẩn đứng và khoanh tay lại.
    Tôi đọc tờ báo, nhưng tôi thật sự chưa hiểu ông ta muốn nói về chuyện gì, nhưng ông ta cầm lại tờ báo từ tôi và chỉ ra một đoạn nói về những đứa bé bị dụ dỗ ra ngòai ở Hampstead. Nó vẩn chưa lại cho tôi được gì nhiều, cho đến khi đọc đến đoạn mô tả những vết thương nhỏ thủng trên cổ họng chúng. Một ý nghĩ đập ngay vào tôi, và tôi nhìn lên.
    "Sao?" ông ta nói.
    "Nó giống như Lucy đáng thương."
    "Và anh suy ra được điều gì?"
    "Đơn giản là chúng phải có cùng nguyên nhân. Cái gì đã làm nàng bị thương cũng làm chúng bị thương." Và tôi không hiểu lắm câu trả lời của ông ta.
    "Điều đó đúng một cách gián tiếp, nhưng không đúng trực tiếp."
    "Ông muốn nói điều gì vậy, Giáo sư?" tôi hỏi. Tôi có ý muốn làm cho cho sự căng thẳng của ông ấy nhẹ đi, vì, sau bốn ngày nghỉ ngơi và tách rời khỏi những điều phiền muộn, đau khổ và mãnh liệt ấy sẽ giúp cho con người phục hồi tinh thần, nhưng khi tôi nhìn vao mặt ông, tôi cảm thấy tỉnh cả người. Chưa bao giờ, thậm chí trong lúc chúng tôi chìm ngập trong đau khổ về Lucy đáng thương, ông ấy lại trông lạnh lùng như vậy.
    "Hãy nói cho tôi biết!" tôi nói. "Tôi không thể mạo hiểu đưa ra ý kiến nào. Tôi không biết phải suy nghĩ về cái gì, và tôi không có dữ liệu để đưa ra lời phỏng đóan."
    "Anh muốn nói với tôi rằng, anh bạn John, rằng anh không nghi ngờ gì về cái chết của Lucy tội nghiệp, sau khi tôi đã cung cấp những điều gợi ý, chứ không đơn thuần ở những sự kiện, là do nguyên nhân gì ư?"
    "Về tình trạng kiệt sức sau khi đã mất hoặc cạn đi một khối lượng máu lớn."
    "Và số máu đó đã mất hoặc cạn đi như thế nào?" Tôi lắc đầu.
    Ông ta bước đến và ngồi bên tôi, và nói tiếp, "Anh là một người thông minh, anh bạn John. Anh có lý trí tốt, và trí thông minh của anh thì rất tuyệt, nhưng anh quá định kiến. Anh không cho phép mắt mình nhìn hoặc tai mình nghe những điều vượt ra ngòai những gì diễn ra ngòai cuộc sống sống thường ngày. Anh không nghĩ rằng vẩn còn những điều mà anh không thể hiểu, và đó là những điều một số người nhìn thấy mà một số người không? Nhưng vẩn có những điều, mới và cũ vượt ra ngòai tầm kiểm sóat của mắt người, bởi vì họ biết, hoặc nghĩ rằng họ biết những gì mà người khác nói với họ.
    A, một điều sai lầm của giới khoa học chúng ta là muốn giải thích tất cả mọi chuyện, và khi không giải thích được, thì nói rằng ở đây không có gì để giải thích. Nhưng chúng ta cũng thấy là quanh chúng ta mỗi ngày mỗi mọc lên những tín ngưỡng mới, tự cho rằng mình là mới mẻ, nhưng thực chất chúng đã già cỗi rồi, mà vẩn cố giả vờ là trẻ trung, giống nhưng những quý bà ở nhà hát vậy. Tôi nghĩ rằng lúc này anh không tin vào sự chuyển hóa vật chất. Không? Hoặc sự vật chất hóa. Không? Hoặc về các thiên thể. Không? hoặc về khả năng đọc các ý nghĩa. Không? Hoặc về thuật thôi miên..."
    "Có," tôi nói "Charcot đã chứng minh điều này rất chặt chẽ."
    Ông ta mỉm cười khi nói tiếp, "Và anh thỏa mản với chúng ư. Vâng? Tất nhiên vì anh hiểu được các hoạt động diễn ra, và có thể theo được tư tưởng của Charcot vĩ đại, than ôi ông ta lại không có gì hơn để đi sâu vào tâm hồn của những bệnh nhân chịu tác dụng của ông. Không? Thế đấy, bạn John, tôi cho rằng anh chỉ đơn giản chấp nhận sự kiện, và sự thỏa mãn sẽ dẩn những lý thuyết được thảo luận đến con số không? Không?
    Vậy hãy nói với tôi, vì tôi là một nhà nghiên cứu não bộ, làm cách nào mà anh có thể chịu sự thôi miên loại bỏ những suy nghĩ của mình. Để tôi nói cho anh biết nhé, anh bạn, hãy xem những điều mà người ta ngày nay đã được hưởng thụ với nghành khoa học điện trong khi ngày xưa con người vĩ đại phát minh ra điện lại được coi là vô cùng xấu xa, không lâu trước đây chính họ đã thiêu sống người ấy vì coi là phù thủy. Luôn luôn có những điều bí ẩn trong cuộc sống.
    Vì sao mà Methuselah lại sống được chín trăm năm, và có con "cá hồi già" sống được một trăm sáu mươi chín năm, trong khi Lucy đáng thương, với số máu của bốn người đàn ông chảy trong huyết mạch, lại không thể sống thêm dù chỉ một ngày? Bởi vì, nếu cô ta sống thêm được một ngày, chúng ta đã có thể cứu cô ta. Anh đã biết tất cả những điều bí ẩn của sự sống và cái chết chưa? Anh đã biết về sự tương đối của giải phẫu học và từ đó đó có thể áp dụng một số tính chất giải phẫu của động vật lên người, vậy còn những chuyện khác? Liệu anh có thể nói cho tôi biết vì sao, khi mà có những con nhện nhỏ và chết sớm, thì lại có một con nhện khổng lồ sống đến hàng thế kỷ trên tháp canh của một nhà thờ Tây Ban Nha cổ kính và mỗi lúc một lớn thêm, đến nỗi khi nó tuột xuống, nó có thể uống cạn dầu trong tất cả những ngọn đèn ở nhà thờ?
    Liệu anh có thể nói cho tôi biết vì sao trong những thảo nguyên, đâu đó trên thế giới, những những con dơi trong đêm đi khai thông những mạch máu của gia súc và ngựa, và hút cạn huyết mạch của chúng, trên một số hòn đảo ở bờ biển phía Tây có những loại dơi treo mình trên cây suốt cả ngày, và chúng được mô tả giống như những hạt dẻ hoặc quả đậu khổng lồ, rồi đến khi những người thủy thủ nằm ngủ trên boong tàu, chúng trở nên nóng rực, sà nhẹ nhàng xuống chỗ họ, và đến sáng thì người ta chỉ còn những người chết, trắng bệch như cô Lucy đã từng bị?"
    "Chúa nhân từ, giáo sư!" tôi nói, bật dậy. "Ông muốn nói với tôi rằng Lucy đã bị cắn bởi một con dơi như vậy, và một con vật như vậy lại có thể sống ở London trong thế kỷ mười chín à?"
    Ông ta đưa tay ra hiệu im lặng, và tiếp tục, "Liệu anh có thể nói cho tôi biết vì sao có những con rùa sống lâu hơn cả sự có mặt của lòai người, vì sao có những con voi có thể sống để chứng kiến sự tồn tại của biết bao triều đại, vì sao có những con vẹt không bị chết nếu như không chó, mèo cắn hay những căn bệnh khác? Liệu anh có thể nói cho tôi biết vì sao con người dù ở thời đại nào và ở mọi nơi đều tin rằng có những người đàn ông và đàn bà không bao giờ chết?
    Chúng ta biết những điều này vì khoa học đã xác nhận bằng những sự kiện, người ta đã tìm thấy những con cóc sống khép kín trên những vách đá hàng ngàn năm, trong những cái hốc đã che chở cho nó từ lúc thế giới hãy còn hoang sơ. Liệu anh có thể nói cho tôi biết vì sao những tu sĩ Indian có thể tự làm cho mình chết và được đem chôn, mộ của ông ta được niêm kín, sau đó người ta gieo bắp trên đó, đến khi bắp chín được thu hoạch về, lại được gieo và thu hoạch thêm lần nữa, sau đó người ta đến, bẻ dấu niêm đi, và bên trong là tu sĩ Indian nọ, không chết, vẩn đứng dậy và đi lại bình thường giữa mọi người như trước?"
    Đến đây thì tôi ngắt lời ông ta. Tôi đã quá hoang mang. Ông ta đã đã ấn vào suy nghĩ của tôi hàng tràng những sự kiện kỳ dị trong tự nhiên, và những điều không thể lại có thể đó khiến trí tưởng tượng của tôi hừng hực như lửa đốt. Tôi lờ mờ nhận ra rằng ông ấy một dạy tôi một số bài học, theo cái cách ông ấy ngày xưa vẩn làm tại Amsterdam. Nhưng ông ấy dùng nó để nói với tôi các sự kiện, để tôi có một đối tượng mà tập trung suy nghĩ suốt. Nhưng bây giờ tôi không thể không có sự giúp đỡ của ông, tôi muốn theo kịp ông, nên tôi nói,
    "Giáo sư, hãy để tôi làm học trò cưng của ông lần nữa. Hãy cho tôi biết luận điểm, để tôi có thể hiểu được những kiến thức mà ông tiếp tục nói ra. Lúc này trong tâm trí của tôi, tôi theo dõi ý tưởng của ông từ điểm này qua điểm khác như một người điên chứ không phải như một người tỉnh. Tôi cảm thấy giống như một người phụ việc đang lần mò trong một vũng lầy đầy sương mù, nhảy từ bụi cỏ này sang bụi khác trong khi hoàn toàn mù tịt về việc xác định xem mình đang ở đâu và định đi đâu."
    "Đó là một sự liên tưởng tốt," ông ta nói. "Được, tôi sẽ nói cho anh biết. Luận điểm của tôi là như thế này, và tôi muốn anh phải tin."
    "Tin vào cái gì cơ?"
    "Để tin vào cái mà anh không thể tin. Hãy để tôi minh họa. Có một lần tôi nghe một người Mỹ đã định nghĩa niềm tin như thế này, đó là cái cho phép chúng ta tin vào một cái gì mà chúng ta biết là nó sai.' Trong trường hợp này, tôi sẽ làm như người đàn ông đó. Ông ta muốn chúng ta phải mở rộng lòng mình, và đừng dùng một sự mẩu sự thật nhỏ để tìm kiếm một sự thật lớn hơn, giống như một viên đá nhỏ có thể làm lật đòan xe lửa.
    Trước tiên thì chúng ta có cái sự thật bé nhỏ ấy. Tốt! Chúng ta đã có nó, chúng ta định giá nó, nhưng chỉ vậy thôi, chúng ta không dùng nó để để nghĩ đến sự thật trong vũ trụ."
    "Ông muốn tôi đừng dùng những sự nhận thức quen thuộc trước đây của tâm hồn để hấp thu những thứ mà sự kiện lạ lùng này đem lại. Tôi hiểu bài học của ông đã đúng chưa?"
    "A, anh vẩn tiếp tục là một người học trò xuất sắc của tôi. Thật là đáng công dạy dỗ anh. Nào, bây giờ khi anh đã sẳn sàng để hiểu, anh có thể tiến hành bước đầu tiên để hiểu. Anh nghĩ là những lỗ nhỏ trên cổ họng lũ trẻ được gây ra bởi chính cái thứ đã gây ra những lỗ thủng ấy trên cổ cô Lucy?"
    "Tôi nghĩ là vậy."
    Ông ta đứng dậy và trịnh trọng nói, "Vậy thì anh lầm rồi. Ôi, đúng là như vậy! Như than ôi! Không. Nó rất là tệ, tệ hơn nhiều, nhiều lắm."
    "Nhân danh Chúa, giáo sư Van Helsing, ông muốn nói gì thế?" tôi kêu lên.
    Ông ta buông mình trong một dáng điệu tuyệt vọng lên ghế, đặt khủyu tay lên bàn, lấy tay che mặt khi ông ta cất tiếng.
    "Chúng được gây ra bởi cô Lucy!"





  8. #16
    Tiểu học - Đại học chữ to
    Tham gia ngày
    Aug 2014
    Nơi Cư Ngụ
    nhà
    Bài gởi
    349

    Default




    Chương 15

    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD - TIẾP THEO



    Trong một thóang một cơn giận dữ tuyệt đối bao trùm lấy tôi. Như thể là ông ấy đã xúc phạm đến cuộc sống của Lucy một cách nặng nề. Tôi vỗ mạnh bàn, đứng dậy và nói với ông ấy, "Bác sĩ Van Helsing, ông điên rồi chăng?"
    Ông ta ngẩng đầu lên và nhìn vào tôi, và ngay lập tức vẻ dịu dàng trên mặt ông đã khiến tôi trấn tĩnh lại phần nào. "Ước sao tôi như vậy!" ông ta nói. "Trở nên điên dại sẽ khiến người dễ dàng chịu đựng hơn một sự thật như thế này. Ôi, bạn tôi, có lúc nào, anh thử nghĩ đi, tôi đã đi đi lại lại như thế nào, vì sao tôi phải chờ một thời gian dài như vậy để chỉ nói với anh một điều đơn giản như thế? Chẳng lẽ vì tôi ghét bỏ anh và tôi đã ghét bỏ anh trong suốt cuộc đời? Chẳng lẽ vì tôi muốn anh bị tổn thương? Cái điều mà tôi muốn, đến lúc này vẩn chưa phải là quá trễ, chẳng phải là để đáp lại cái lần mà anh đã cứu cuộc sống của tôi không một cái chết kinh khủng? A, không!"
    "Hãy tha thứ cho tôi," tôi nói.
    Ông ta tiếp tuc, "Bạn tôi, tại vì tôi muốn cho anh tiếp nhận một sự thật như thế một cách dễ chịu nhất có thể, bởi vì tôi biết anh đã yêu cô tiểu thư dịu dàng ấy như thế nào. Nhưng thậm chí tôi vẩn không buộc anh phải tin. Thật khó mà chấp nhận ngay bất kỳ một sự thật mơ hồ nào, và chúng ta có thể sẽ nghi ngờ suốt một điều mà chúng ta luôn tin rằng nó "không" phải như vậy. Thật khó mà chấp nhận một sự thật cụ thể buồn thảm như vậy, và với một người như cô Lucy. Tối nay tôi sẽ đi chứng minh nó. Anh có dám đi với tôi không?"
    Điều này làm tôi do dự. Byron đã loại một người không thích chứng minh sự thật ra khỏi phạm trù ghen tỵ.
    "Và ông ta rất ghét việc chứng minh đến tận cùng một sự thật."
    Ông ta nhận thấy vẻ chần chừ của tôi, bèn nói, "Logic rất đơn giản, lúc này thì không phải là lúc áp dụng cái logic của người điên, nhảy từ bụi cỏ này sang bụi cỏ khác trong một vũng lầy mơ hồ. Nếu nó không đúng, thì công việc chứng minh sẽ mang lại niềm an ủi. Ít nhất nó cũng không làm hại gì cả. Còn nếu như nó đúng! Ah, đó chính là điều khủng khiếp. Mọi điều khủng khiếp nữa đều làm rõ mục đích của tôi, và nó cần đến niềm tin.
    Để tôi nói với anh điều tôi đề nghị.Trước tiên chúng ta sẽ đi đến thăm đứa bé trong bệnh viện. Bác sĩ Vincent, ở Bệnh Viện Miền Bắc, nơi mà báo chí nói đứa bé đang được điều trị ở đó, là bạn của tôi, và tôi nghĩ rằng đó là bạn của anh khi anh học ở Amsterdam. Anh ta sẽ chấp nhận hai nhà khoa học quan sát công việc của anh ta, nếu như anh ta không chấp nhận hai người bạn. Chúng ta sẽ không nói với anh ta điều gì, ngoại trừ rằng chúng ta muốn biết thêm. Và rồi..."
    "Và rồi?"
    Ông ta lấy ra một cái chìa khóa và đưa nó lên. "Và rồi chúng ta, tôi và anh, sẽ qua đêm trong nghĩa địa nơi chôn cất Lucy. Đây là chìa khóa hầm mộ. Tôi lấy nó từ người làm áo quan để đưa cho Arthur."
    Tim tôi đập thình thịch, và tôi cảm thấy rằng chúng tôi sắp phải đương đầu với một thử thách khủng khiếp.
    Tôi không thể làm gì, nhưng tôi lấy hết can đảm tôi có thể có và nói rằng chúng tôi nên gấp lên, vì đã quá trưa rồi.
    Chúng tôi thấy đứa trẻ đã tỉnh. Sau khi ngủ dậy và ăn một chút, thì mọi việc có vẻ đã tiến triển tốt. Bác sĩ Vincent lấy băng ra khỏi cổ đứa trẻ và chỉ cho chúng tôi những lỗ thủng. Không nghi ngờ gì nữa, nó giống như những lổ thủng trên cổ họng Lucy. Chúng nhỏ hơn, và có cạnh sắc nét hơn, thế thôi. Chúng tôi hỏi Vincent xem anh ta nghĩ gì về điều này, anh ta trả lời chúng hẳn là gây ra từ vết cắn của một lòai thú nào đó, có thể là chuột, nhưng về phần mình, anh ta giả định rằng có thể là từ một lòai dơi có rất nhiều ở vùng bắc London."Trừ ra một số lòai vô hại," anh ta nói, "có một số lòai hoang dại đến từ miền Nam thì rất độc.
    Một số thủy thủ có thể đã mang nó về nhà, và nó tìm cách trốn thóat, hoặc thậm chí có thể một con còn trẻ đã thóat khỏi Vườn Thú, hoặc là nó đã được nuôi bởi một con ma cà rồng. Những chuyện này có thể xảy ra, các ông đã biết rồi đấy. Chỉ mới mười ngày trước một con sói đã trốn thóat, và tôi tin là nó đã lần theo hướng này.
    Sau một tuần, những đứa trẻ vẩn còn chơi đùa vô sự tại Red Riding Hood, tại Health và tại mọi lối mòn khác cho đến khi người phụ nữ máu' cô độc đáng sợ kia xuất hiện, đến khi nó bắt đầu vui đùa cùng đám trẻ. Thậm chí đứa bé đáng thương này, khi sáng nay tỉnh dậy, còn hỏi y tá xem nó có thể ra ngòai được không. Khi cô ta hỏi nó để làm gì, nó nó nói muốn chơi đùa với người phụ nữ máu.'"
    "Tôi hy vọng là," Van Helsing nói, "khi anh gửi đứa trẻ này về nhà anh phải khuyến cáo cha mẹ nó phải đặc biệt trông chừng nó. Những chuyện vui đùa rồi lạc mất này nguy hiểm vô cùng, và nếu đứa trẻ này lại bị lạc ra ngòai thêm một đêm nữa, thì đó sẽ là một kết cục bi thảm. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào tôi nghĩ rằng anh cũng không cho nó ra ngòai trong vài ngày nữa chứ?"
    "Tất nhiên là không rồi, ít nhất là một tuần nữa, lâu hơn nếu vết thương kia không lành lại."
    Cuộc viếng thăm của chúng tôi tại bệnh viên lâu hơn là chúng tôi dự kiến, và khi chúng tôi đi ra thì mặt trời đã lặn rồi. Khi Van Helsing thấy trời đã tối, ông ta nói,
    "Không cần phải vội đâu. Tôi nghĩ là đã quá trễ rồi. Đi nào, chúng ta hãy tìm một chỗ nào đó để ăn, và rồi chúng ta sẽ đi tiếp."
    Chúng tôi ăn tối tại Lâu đài Jack Straw' với một đám đông những người đi xe đạp và những người khác cười nói ồn ào. Khỏang mười giờ chúng tôi bắt đầu đi ra từ quán ăn. Lúc này trời rất tối, và những ánh đèn rải rác càng làm bóng tối thêm dày đặc khi chúng tôi di ra khỏi vùng tỏa sáng giới hạn của nó. Giáo sư rõ ràng đã rất chú ý đến con đường mà chúng tôi đã đi, vì ông ấy đi không hề ngập ngừng, còn tôi, tôi hơi bị lẩn lộn về vị trí. Khi chúng tôi đi xa hơn, chúng tôi càng gặp ít người hơn, cuối cùng chúng tôi hơn ngạc nhiên khi gặp phải những đội cảnh sát đi ngựa đang tuần tra quanh khu đất của mình.
    Sau hết chúng tôi đến những bức tường bao quanh nghĩa địa và leo qua. Hơi khó khăn một chút, vì chung quanh rất tối, và chúng tôi không quen với cảnh vật ở đây, nhưng chúng tôi cũng tìm thấy khu mộ của Westenra. Giáo sư lấy chìa khóa, mở cánh cửa kêu cót két, và đứng lùi lại một cách lịch sự nhưng có phần vô thức, khiến tôi đi lên phía trước ông. Có một mùi hương thoang thỏang một cách trớ trêu ở một nơi ghê rợn như thế này. Người bạn đồng hành của tôi nhanh chóng bám theo tôi, và cẩn thận khép cửa lại, sau khi cẩn thận bảo đảm là khóa đã được cài và không có ai chung quanh.
    Nếu trường hợp sau, thì chúng tôi sẽ rơi vào một tình cảnh rất tồi tệ. Đoạn ông ấy lục lọi trong túi của mình và lấy ra một hộp diêm cùng với một mẫu nến và thắp sáng lên. Ngôi mộ này ngày ấy, khi được bao phủ bởi hoa tươi, trông chỉ sầu thảm và ghê rợn phần nào, nhưng nay, sau khi ngày tháng đã dần trôi, khi những cánh hoa đã héo tàn và chết rũ, khi mà sắc trắng của nó đã chuyển sang màu gỉ sắt, khi mà sắc xanh của chúng đã chuyển sang màu nâu, khi mà nhện và gián đã phục hồi sự thống trị quen thuộc của chúng, khi mà thời gian đã làm phai màu đá, và phủ lên tất cả một lớp vữa đầy bụi, khi thép đã han rỉ và nhám nhúa, khi mà đồng thau đã mờ xỉn đi, những cái đĩa bạc lờ mờ phản chiếu lại ánh sáng lập lòe của ánh nến, thì càng khiến cho cảnh vật trở nên sầu thảm và bẩn thỉu hơn sự tưởng tượng nhiều. Nó mang đến một ý nghĩ không thể cưỡng lại được là cuộc sống, cuộc sống của xác thịt không chỉ là một thứ có thể ra đi.
    Van Helssing làm việc rất có phương pháp. Ông ấy giữ cây nến sát lại để có thể đọc được tấm biển quan tài, dầu sáp rơi xuống đọng thành một vũng trắng khi nó chạm vào kim loại, ông ta muốn bảo đảm rằng đó là quan tài của Lucy. Rồi ông ấy lại tìm trong túi và lấy ra một cái nậy đinh.
    "Ông định làm gì vậy?" tôi hỏi.
    "Để mở nắp quan tài. Anh sẽ được làm cho tin tưởng."
    Rồi ông ta nạy những cây đinh lên, sau đó nâng cái nắp lên, để nhìn thấy cái hộp chì phía dưới. Chuyện này đã quá sức chịu đựng của tôi. Nó là một sự lăng nhục người quá cố giống như khi ta cởi quần áo cô gái trong khi nàng đang ngủ lúc còn sống. Tôi giật mạnh tay ông ta để ngăn ông ta lại.
    Ông ta chỉ nói, "Rồi anh sẽ thấy," và một lần nữa lấy từ cái túi của mình ra một cái cưa nhỏ đã bị mòn. Ông ta lấy cái nạy đinh đánh mạnh trên tấm chì tạo thành một đường nứt mạnh xuống, việc này khiến tôi nhăn mặt, ông ta tại ra một cái lỗ nhỏ, tuy nhiên dủ lớn để có thể nhìn. Tôi chờ đợi một luồng hơi ga bốc lên từ một xác chết đã chết cả tuần. Chúng tôi là bác sĩ, những người đã trải qua nhiều nguy hiểm, đã bắt đầu quen thuộc với những cảnh này, và tôi bước lui một bước. Nhưng giáo sư không hề ngừng lại một khỏanh khắc nào. Ông ta cưa xuống một chút dọc theo cạnh của cái quan tài chì, rồi cưa ngang, và cưa xuống ở cạnh bên kia. Nắm lấy cái cạnh đã được cưa rời ra, ông ta đẩy mạnh nó vào trong quan tài, rồi giơ nến về phía lổ hổng, để tôi có thể nhìn.
    Tôi bước đến và nhìn vào. Quan tài trống rỗng. Điều này làm tôi rất ngạc nhiên, và khiến tôi vô cùng sốc, nhưng Van Helsing vẩn bất động. Ông ta bây giờ đã chắc chắn hơn lúc nào về những giả thuyết của mình, và vì thế càng có động lực để tiến hành công việc. "Anh đã thỏa mãn chưa, bạn John?" ông ta hỏi.
    Tôi cảm thấy mình đang tranh cãi một cách bướng bĩnh theo bản năng khi tôi trả lời ông ta, "Tôi thỏa mãn rằng xác Lucy không nằm trong quan tài, nhưng nó chỉ chứng minh một điều."
    "Điều đó là gì, bạn John?"
    "Rằng nó không nằm ở đây."
    "Rất logic," ông ta nói,"đến lúc này thì nó đã đi mất. Nhưng anh đánh giá như thế nào, anh có thể đánh giá như thế nào, về việc nó không ở đây?"
    "Có thể là có ai đã lấy nó," tôi nói."Có thể một trong số những người làm dịch vụ tang lễ đã lấy nó." Tôi cảm thấy là tôi đang nói những điều ngu ngốc, nhưng đó là là nguyên do gần với sự thật duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra.
    Giáo sư thở dài. "Thôi được!" ông ta nói, "chúng ta phải có những sự chứng minh khác. Đi với tôi."
    Ông ta đậy nắp quan tài trở lại, thu nhập những dụng cụ của mình và để chúng vào túi, thổi tắt nến, và cũng để nến vào túi trở lại. Chúng tôi mở cửa và đi ra. Sau khi đi ra ông ta đóng cửa và khóa nó. Ông ta đưa tôi chìa khóa và nói, "Anh giữ nó chứ? Tốt hơn là anh nên đảm bảo việc này."
    Tôi cười, nhưng không phải là tiếng cười vui vẻ. Tôi nhất định muốn ông ta giữ nó và nói. "Một chiếc chìa khóa chẳng là gì cả," tôi nói, "nó có thể có nhiều bản sao, và mặt khác không khó để để nạy một cái khóa như thế này."
    Ông ta không nói gì, và nhét chìa khóa vào túi. Rồi ông ta nói tôi quan sát một bên nghĩa địa trong khi ông ta quan sát một bên khác.
    Tôi đứng đằng sau một cây thủy tùng, và tôi thấy cái bóng đen của ông ấy chuyển động đến khi những bia và cây cối che khuất ông. Bây giờ tôi đang cô đơn trong đêm vắng. Sau khi đứng được một lúc tôi nghe thấy xa xa vẳng về tiếng chuông đồng hồ điểm mười hai tiếng, và lúc này đã quá khuya. Tôi cảm thấy ớn lạnh và run rẩy, và tôi giận rằng giáo sư đã giao cho tôi một chuyện như thế và để tôi tự mình thực hiện. Tôi đã quá lạnh và và quá buồn ngủ để có thể quan sát được rõ ràng, nhưng sự buồn ngủ lại không giúp tôi tự đánh lừa mình về sự thật , nên tôi đứng đó với sự sợ hãi và đau khổ.
    Thình lình tôi quay phắt lại, vì tôi cảm thấy tôi vừa nhìn thấy một cái gì giống như một cái vệt trắng di chuyển giữa hai cây thủy tùng tối tăm ở góc xa nhất của nghĩa địa nếu nhìn từ ngôi mộ. Đúng lúc đó đó có một bóng đen di chuyển từ chỗ giáo sư đứng và nhanh nhẹn đi về phía nó. Đoạn tôi cũng đi, nhưng tôi phải đi quanh những bia mộ và những tay vịn của những ngôi mộ và tôi ngã nhào vào một cái mả. Bầu trời đã bắt đầu rạng và đã nghe thấy những tiếng gà gáy sớm.
    Ở con đường nhỏ phía xa, sau những hàng cây bách xù rải rác, tạo thành một con đường đến nhà thớ, cái bóng trắng thấp thóang đang tiến thẳng về phía ngôi mộ. Bản thân ngôi mộ lại khuất sau những hàng cây, nên tôi không thể thấy cái bóng ấy biến mất như thế nào.Tôi nghe thấy tiếng chuyển động sột soạt tại chỗ mà tôi nhìn thấy bóng trắng lần đầu, bèn chạy vội đến, thì thấy giáo sư đang ẳm trên tay mình một em bé nhỏ. Khi thấy tôi, ông ấy giơ đứa bé ra và hỏi, "Bây giờ anh đã thỏa mản chưa?"
    "Chưa," tôi nói, nói một cách mà tôi cảm thấy là khá hung hăng.
    "Anh có nhìn thấy đứa bé không?"
    "Vâng, đây là một đứa trẻ, nhưng ai mang nó đến đây?Và nó có bị thương không?"
    "Chúng ta sẽ thấy," giáo sư nói, và chúng tôi rời khỏi khu nghĩa địa với một sự thôi thúc, ông ta mang theo đứa bé.
    Khi chúng tôi đã đi được một đoạn xa, chúng tôi rẽ vào một bụi cây, đánh diêm và nhìn vào cổ họng đứa bé.
    Chẳng có một vết thương hoặc một dấu hiệu đáng sợ nào cả.
    "Tôi đã đúng phải không?" tôi hỏi, đắc thắng.
    "Chúng ta đã đến kịp lúc," giáo sư nói một cách bình thản.
    Bây giờ thì chúng tôi phải quyết định xem phải làm gì với đứa trẻ, và đó là một vấn đề đáng suy nghĩ. Nếu chúng tôi mang nó đến trạm cảnh sát thì chúng tôi sẽ phải có lời giải thích cho việc lang thang trong đêm của mình. Ít nhất, chúng tôi cũng phải giải thích xem làm cách nào chúng tôi tìm thấy đứa trẻ. Cuối cùng chúng tôi quyết định rằng chúng tôi sẽ mang nó đến Heath, và khi thấy bóng dáng một viên cảnh sát, chúng tôi sẽ để nó ở một nơi mà anh ta không thể không tìm thấy. Ngay sau đó chúng tôi sẽ về nhà.
    Mọi việc đã diễn ra tốt đẹp. Tại ranh giới của Hampstead Heath chúng tôi nghe tiếng chân nặng nề của một viên cảnh sát, và để đứa trẻ trên lối đi, chúng tôi đợi và quan sát đến khi anh ta trông thấy đứa trẻ khi anh ta khua đèn lên xuống trên đường. Chúng tôi nghe thấy tiếng kêu ngạc nhiên của anh ta, và sau đó chúng tôi nhẹ nhàng bỏ đi. Chúng tôi đã may mắn tìm thấy một chuyến xe gần Spainiard', và đi về thị trấn.
    Tôi không thể ngủ, nên tôi ngồi ghi lại đoạn này. Nhưng tôi phải cố mà ngủ vài tiếng trước khi Van Helsing đến gọi tôi lúc giữa trưa. Ông ấy khăng khăng muốn tôi phải đi với ông ta trong một chuyến thám hiểm khác.
    Ngày 27 tháng Chín. - Bấy giờ là lúc gần hai giờ,và chúng tôi đã có một cơ hội tốt để hành động. Đám tang được tổ chức lúc giữa trưa đã hòan tất, và người than khóc cuối cùng đã buồn bã lìa xa, khi mà, sau khi cẩn thận quan sát từ phía sau những bụi cây tổng quán sủi, chúng tôi thấy người coi nghĩa trang đã khóa cửa lại phía sau anh ta. Chúng tôi đã có thể an toàn làm những gì mình muốn cho đến tận sáng, nhưng giáo sư nói với tôi rằng chúng tôi không nên làm gì lâu hơn một giờ. Một lần nữa tôi cảm thấy lo sợ những thực tế của sự việc, và với một chút động não để tưởng tượng ra hòan cảnh của chúng tôi, tôi thật sự nhận thức được sự nguy hiểm của việc vi phạm luật pháp trong công việc báng bổ của mình.
    Ngòai ra, tôi thấy thật là vô ích. Thật là vô nhân đạo khi mở nắp quan tài để xem một người phụ nữ quá cố đã thật sự chết hay chưa, và bây giờ thì thật là nực cười khi lại mở nắp mộ một lần nữa, khi mà chúng tôi đã được biết rõ khi nhìn tận mắt rằng quan tài đã trống rỗng. Tôi nhún vai, nhưng vẩn im lặng, vì rằng khi Van Helsing đã quyết định làm gì thì ông ta sẽ làm đến cùng, không quan tâm đến sự phản đối của bất kỳ ai. Ông ta lấy chìa khóa, mở cửa hầm mộ, và một lần nữa nhã nhặn yêu cầu tôi đi theo. Quang cảnh không đến nỗi quá u ám như đêm qua, nhưng ôi, có một dáng vẻ gì đó không sao diễn tả được khi có luồng sáng mặt trời chiếu vào.
    Van Helsing đi đến chỗ quan tài của Lucy, và tôi đi theo. Ông ta lại bẻ vào trong một cạnh cái hộp chì nặng nề, và một cơn sốc kinh ngạc xuyên qua tôi khiến tôi chấn động tâm thần.
    Lucy nằm đó, giống như lần chúng tôi nhìn thấy nàng tại đêm trước đám tang của nàng. Nàng thậm chí còn đẹp rực rỡ hơn bao giờ hết và tôi không thể tin rằng nàng đã chết. Đôi môi vốn đã đỏ, nay càng đỏ hơn bao giờ, và đôi má ửng hồng mơn mởn.
    "Phải chăng đây là một trò bịp?" tôi hỏi ông ta.
    "Bây giờ anh đã tin chưa?" giáo sư nói, để trả lời, và trong khi nói ông ta đưa tay đến, với một cách thức làm tôi rùng mình, ông vạch môi người chết, để nhìn vào đôi hàm răng trắng. "Nhìn xem," ông tiếp tục, "chúng thậm chí còn sắc bén hơn trước. Với đây và đây," và ông chạm vào từng chiếc răng nanh và phía dưới, "những đứa trẻ đã bị nó cắn. Anh đã tin chưa, bạn John?"
    Một sự bướng bĩnh ngoan cố khác bùng dậy trong tôi. Tôi không thể chấp nhận cho cái ý tưởng mà ông ấy đưa ra thuyết phục mình. Vì vậy, với một cố gắng để tranh cải mà chính tôi ngay lúc ấy cũng cảm thấy xấu hổ, tôi nói, "Nàng có thể đã nằm đây từ đêm qua."
    "Thật thế à? Nếu như vậy thì ai đã mang vào?"
    "Tôi không biết. Một ai đó đã làm điều đó."
    "Nhưng cô ta đã chết cả tuần rồi. Không ai lại có dáng vẻ như vậy khi đã chết một tuần rồi."
    Tôi không trả lời điều này, và im lặng. Van Helsing hình như không chú ý đến sự im lặng của tôi. Dù sao đi nữa, ông ta cũng tỏ ra chán nản hay hài lòng. Ông nhìn chăm chú vào khuôn mặt người chết, vạch mi mắt và nhìn vào đôi mắt, một lần nữa vạch đôi môi và kiểm tra hàm răng. Cuối cùng ông quay sang tôi và nói,
    "Đây là một trường hợp khác với tất cả những gì đã được ghi chép. Ở đây là một cuộc sống kép không giống với thường lệ. Cô ta đã bị một con ma cà rồng cắn khi cô ta bị thôi miên, mộng du, ôi, anh lại bắt đầu rồi. Anh không biết điều này, bạn John, nhưng anh sẽ biết sau này, là trong khi thôi miên hắn có được cách thức tốt nhất để hút máu. Cô ta chết trong khi bị thôi miên, và trong khi thôi miên cô ta cũng Chưa Chết. Do đó trông cô ta không giống những người khác.
    Thông thường thì một kẻ Chưa Chết ngủ ở hang ổ" trong khi ông ta nói ông vung tay để diễn tả cái được gọi là hang ổ'của ma cà rồng, "khuôn mặt của họ diễn tả họ đang ở tình trạng nào, nhưng thật là dễ chịu khi cô ta không còn là một kẻ Chưa Chết, cô ta sẽ trở về hư vô của một cái chết bình thường. Đây không phải là một việc làm độc ác, anh thấy đấy, và hãy cứng rắn lên khi tôi buộc phải giết cô ta khi cô ta đang ngủ."
    Máu trong người tôi đông lại và nó làm tôi bắt đầu quỵ xuống khi tôi chấp nhận lý thuyết của Van Helsing. Nhưng nếu nàng chưa thật sự chết, thì cái ý kiến giết nàng lại thật là khủng khiếp làm sao?
    Ông ấy nhìn tôi, và hẳn là đã nhìn thấy sự thay đổi trên khuôn mặt ôi, nên ông ấy nói một cách vui mừng, "A, bây giờ thì anh đã tin chưa?"
    Tôi trả lời, "Đừng ép buộc tôi quá vào lúc này. Tôi đã thật sự chấp nhận. Nhưng ông sẽ tiến hành cái công việc đẫm máu này như thế nào?"
    "Tôi sẽ cắt đầu cô ta ra nhét đầy tỏi vào miệng cô ta, và tôi sẽ đóng cọc xuyên qua người cô ta."
    Tôi rùng mình khi nghĩ đến việc cắt rời thi thể của người đàn bà mà tôi yêu. Nhưng cảm xúc ấy không mạnh như tôi tưởng. Thật sư, tôi đã bắt đầu cảm thấy kinh hãi trước tình trạng này, tình trạng mà Van Helsing gọi là Chưa Chết, và căm ghét nó. Phải chăng đó là tình yêu với tất cả sự chủ quan, hay với tất cả sự khách quan.
    Tôi chờ đợi đến lúc Van Helsing bắt đầu, nhưng ông ấy đứng lặng như thể đang chìm đắm trong suy nghĩ. Sau đó ông đóng cái túi của mình thật nhanh, và nói,
    "Tôi đã suy nghĩ, và theo tôi thì như thế này là tốt nhất. Nếu như tôi chỉ đơn giản làm theo ý của mình, thì tôi đã làm nó ngay lúc này, và thế là mọi chuyện đã xong. Nhưng vẩn còn như việc khác có liên quan, và chúng sẽ làm làm cho mọi chuyện khó khăn lên gấp hàng ngàn lần mà chúng ta không lường trước được. Thật đơn giản. Sự sống vẩn chưa hoàn toàn rời khỏi cô ta, ít ra là trong lúc này, và khi chúng ta hành động cô ta sẽ không bao giờ còn gặp nguy hiểm nữa.
    Nhưng khi chúng ta gặp Arthur, chúng ta sẽ nói với anh ta thế nào? Nếu chính anh, người đã nhìn thấy vết thương trên cổ họng Lucy, và nhìn thấy những vết thương tương tự trên cổ họng đứa bé ở bệnh viện, nếu anh, người đã nhìn thấy cái quan tài trống rỗng tối hôm qua và hôm nay thì xuất hiện trở lại người phụ nữ vẩn không hề thay đổi mà chỉ ngày càng đẹp thêm với cả tuần lễ sau khi chết, nếu anh đã biết những điều đó và biết về cái bóng trắng tối hôm qua đã mang đứa bé vào nghĩa địa, và với các giác quan của mình anh vẩn không tin vào nó, thì làm thế nào tôi có thể khiến cho Arthur, người không biết gì về những chuyện này, tin tưởng được?
    "Anh ta đã nghi ngờ tôi khi tôi ngăn không cho anh ấy hôn cô ta khi cô ta chết. Tôi biết anh ta tha thứ cho tôi bởi vì anh ta hiểu lầm khi cho rằng tôi đã ngăn chặn anh ta nói lời từ giã khi mà đáng lý anh ta nên làm, và anh ta sẽ lại càng hiểu lầm hơn nữa là người phụ nữ kia đã bị chôn sống, và hiểu lầm hơn hết khi anh ta cho rằng tất cả chúng ta đã giết cô ta, và điều đó sẽ làm cho anh ta luôn đau khổ.
    Anh ta sẽ không bao giờ biết rõ được,và đó là điều tệ hại nhất. Rồi đôi khi anh ta lại nghĩ rằng người phụ nữ mà anh ta yêu đã bị chôn sống, và điều này sẽ khiến anh ta có những cơn ác mộng về những điều đau khổ mà cô ta phải chịu đựng, và một lần nữa, anh ta sẽ nghĩ rằng có thể chúng ta đã đúng, người mà anh ta yêu, sau cùng đã trở thành một kẻ Chưa Chết. Không! Tôi đã nói với anh ta một lần, và do đó tôi đã rút ra được nhiều thứ.
    Bây giờ, do tôi đã biết được sự thật, tôi biết rằng anh ta sẽ phải trải qua hàng trăm ngàn đau khổ khác cho đến khi đạt được sự bình yên. Cái anh chàng tội nghiệp phải có một giờ để tận mắt thấy một thiên đường trở thành bóng tối như thế nào, rồi chúng ta sẽ làm mọi thứ để trả lại sự bình yên cho anh ta. Tôi đã quyết định như thế. Và chúng ta đi nào. Tối nay anh sẽ trở về nhà tại viện điều dưỡng của anh, để trông nom tất cả. Còn tôi, tôi sẽ qua đêm tại nghĩa địa để làm một số việc của mình. Tối mai anh sẽ đến chỗ tôi tại khách sạn Berkeley lúc mười giờ. Tôi cũng sẽ gọi điện kêu Arthur tới, và cũng sẽ gọi anh chàng trẻ tuổi tốt bụng người Mỹ đã cho máu của mình.Sau đó chúng ta sẽ tiến hành công việc. Từ đây đến đó thì tôi sẽ ăn chiều với anh ở Piccadilly, vì tôi phải trở lại đây trước khi mặt trời lặn."
    Đoạn chúng tôi khóa cửa mộ và đi ra, trèo qua những bức tường của nhà thờ, chuyện này chẳng có gì quá khó, và kêu xe trở về Piccadilly.
    THƯ CỦA VAN HELSING ĐƯỢC NGƯỜI CHUYỂN THƯ CỦA ÔNG TA TỪ KHÁCH SẠN
    BERKELEY CHUYỂN TRỰC TIẾP CHO JOHN SEWARD, M.D (Chưa chuyển)
    Ngày 27 tháng Chín
    "Bạn John,
    "Tôi viết sẳn những dòng này phòng khi có chuyện gì đó xảy ra. Tôi đã đi một mình quan sát khu nghĩa địa.
    Tôi hài lòng rằng kẻ Chưa Chết, cô Lucy, sẽ không đi ra ngòai tối nay, và vì vậy tối mai cô ta sẽ càng hăm hở hơn. Bởi vì tôi đã đặt một số thứ mà cô ta không thích, tỏi và thánh giá để niêm phong cửa mộ lại. Cô ta là một kẻ Chưa Chết trẻ, nên cô ta sẽ để ý đến. Hơn nữa, nó sẽ chỉ ngăn cản cô ta đi ra. Nó sẽ không đủ sức cản trở khi cô ta muốn đi vào, bởi khi một kẻ Chưa Chết đã tuyệt vọng, thì phải tìm mọi cách để sinh tồn, bất chấp mọi thứ.
    Tôi sẽ có mặt suốt đêm từ khi mặt trời lặn đến khi mặt trời mọc, và nếu có chuyện gì xảy ra tôi sẽ nắm được hết. Về phía cô Lucy hoặc để làm cái gì đó cho tô ta, tôi không lo sợ, nhưng còn một kẻ nữa, kẻ đã khiến cô ta bây giờ là một kẻ Chưa Chết, hắn cũng sẽ không đủ sức để đi vào ngôi mộ của cô ta để tìm một chỗ trú. Hắn ta là một kẻ xảo nguyệt, tôi biết điều này qua ông Jonathan và từ những cách hắn đã đánh lừa chúng ta khi chúng ta cùng hắn tiến hành một cuộc chơi vì cuộc sống của cô Lucy, và chúng ta đã thất bại, bởi vì đó là một kẻ Chưa Chết rất mạnh trên nhiều phương diện.
    Hắn luôn có trong mình một sức mạnh bằng hai mươi người, nên thậm chí khi cả bốn chúng ta đã dâng hiến sức mạnh của mình cho cô Lucy thì cũng là dâng hết cho hắn. Ngòai ra, hắn còn có thể gọi chó sói và tôi không biết hết về hắn. Vì vậy nếu hắn đến đây đêm nay thì hắn sẽ tìm tôi. Nhưng sẽ không có gì khác xảy ra nữa, đến khi mọi chuyện đã quá trễ. Nhưng cũng có thể hắn không cố công đến đây làm gì. Chả có lý do nào để hắn làm thế. Những vùng đất mà hắn săn đuổi sẽ có nhiều trò chơi sôi động hơn là một cái nghĩa địa nơi có một một phụ nữ Chưa Chết đang ngủ và một ông già canh chừng.
    "Vì vậy tôi viết sẳn những dòng này phòng trường hợp... Hãy cầm lấy những giấy tờ gửi cùng với thư này, nhật ký của Harker và phần tiếp theo, đọc nó, và hãy tìm kẻ Chưa Chết vĩ đại này, cắt đầu hắn ra và đốt tim của hắn hoặc đóng cọc xuyên qua nó, để cho thế giới này không còn phải phiền nhiễu vì hắn nữa."
    "Và nếu chuyện đó xảy ra, xin tạm biệt.
    "VAN HELSING."
    NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
    Ngày 28 tháng Chín - Thật là tuyệt vời khi có được một giấc ngủ ngon cho những chuyện này. Tối hôm qua tôi gần như đã bị thuyết phục chấp nhận cái ý kiến kỳ quái của Van Helsing, nhưng bây giờ nó đã bắt đầu hiện ra trước mặt tôi với một vẻ gớm ghiếc trong cảm giác đầy ghê tởm. Tôi không nghi ngờ là ông ta tin vào tất cả những chuyện này. Và tôi bắt đầu tự hỏi xem liệu ông ta có thể là đã bắt đầu mất thăng bằng trong thần kinh không. Phải có một lời giải thích hợp lý cho tất cả các chuyện này. Có thể là giáo sư đã tự mình làm hết mọi việc?
    Ông ta là một kẻ thông minh dị thường nên khi ông ta bắt đầu mất trí thì thì ông ta sẽ sắp xếp mọi việc thoe ý mình một cách tuyệt hảo. Tôi bị xâm chiếm bởi ý nghĩa này, và thật sự là một điều ngạc nhiên lớn khi nhận ra là có thể là Van Helsing bị điên, nhưng dù sao thì tôi cũng sẽ theo dõi ông ta kỹ lưỡng. Tôi có thể tìm thấy một chút ánh sáng trong câu chuyện bí ẩn này.
    Ngày 29 tháng Chín- Tối hôm qua, trước mười giờ một chút, Arthur và Quincey đi vào phòng Van Helsing.
    Ông ta nói với chúng tôi tất cả những gì ông ta muốn chúng tôi làm, và đặc biệt chú ý đến Arthur, như thể cậu ta là trung tâm của cả bọn chúng tôi. Ông ta bắt đầu nói rằng ông hy vọng chúng tôi sẽ cùng đi cả bọn với ông ta, "bởi vì," ông ta nói, "chúng ta hãy còn một trách nhiệm quan trọng phải hòan thành ở đó. Anh chắc là ngạc nhiên lắm khi nhận được thư?" Câu hỏi này rõ ràng là dành cho Huân tước Godalming. "Đúng vậy. Tôi hơi phiền đôi chút. Đã có nhiều điều đau khổ xảy ra quanh ngôi nhà của tôi dạo gần đây khiến tôi chẳng thể làm gì được. Tôi cũng rất tò mò, khi muốn biết ngài muốn gì.
    "Quincey và tôi đã nói với nhau về chuyện này, nhưng càng nói thì chúng tôi lại càng rối tinh lên, đến bây giờ tôi đã có thể nói rằng chính mình đang lạc vào một mớ bòng bong về ý nghĩa của mọi sự việc."
    "Tôi cũng vậy," Quincey Morris nói gọn gàng.
    "Ồ," giáo sư nói, "vậy thì các anh đang sắp sửa biết mọi chuyện rồi đó, cả hai anh, và cả anh bạn John đây nữa, người đã đi ngược trở về một đoạn đường dài trước khi anh ta thậm chí có thể bắt đầu từ lúc này."
    Rõ ràng là ông ấy đã nhận ra rằng ngọn lửa nghi ngờ đã bùng lên gấp đôi trong lòng tôi dù tôi chẳng nói lời nào. Đoạn, quay sang hai bạn tôi, ông ta nói với một vẻ nghiêm trang đặc biệt,
    "Tôi muốn các anh cho phép tôi thực hiện một số công việc mà tôi cho là tốt trong đêm nay. Tôi biết rằng đó là những điều gây thắc mắc, và khi các anh biết tôi đề nghị các anh làm gì thì các ánh sẽ chỉ biết như thế thôi.
    Bởi vậy tôi muốn yêu cầu các anh hứa với tôi là sẽ đứng trong bóng tôi, cho đến khi mọi việc xong xuôi, cho dù các anh có thể rất giận dữ với tôi trong lúc nào đó, tôi không tự đánh lừa mình là điều đó sẽ không xảy ra, để các anh không phải tự buộc tội chính mình về mọi việc."
    "Điều này có vẻ hay đấy," Quincey ngắt lời. "Tôi sẽ trả lời giáo sư. Tôi chưa thấy rõ lắm mục đích của ông ấy, nhưng tôi thề rằng ông ta là người trung thực, và như thế là đủ với tôi rồi."
    "Xin cám ơn, thưa Ngài," Van Helsing nói một cách hãnh diện. "Tôi đã từng nói với mình trong danh dự rằng anh là một người bạn trung thực, và sự xác nhận này thật là thân thương với tôi." Và ông ta giơ tay ra, Quincey nắm lấy.
    Đoạn Arthur lên tiếng, "Bác sĩ Van Helsing, tôi không thích cái kiểu mua lợn trong chuồng' như là cái cách người Scotland hay nói, và nếu như có điều gì liên quan đến danh dự quý tộc hoặc sự ngoan đạo của tôi, thì tôi không thể hứa chắc được. Nếu ông đảm bảo với tôi rằng những điều ông định làm không phạm phải hai điều trên, thì tôi sẽ đồng ý, dù điều đó đáng giá cả sinh mạng của tôi, nhưng tôi không thể hiểu ông đang muốn lái câu chuyện đến đâu."
    "Tôi đồng ý với những giới hạn của anh," Van Helsing nói, "và tất cả những gì tôi đòi hỏi ở anh là nếu anh cảm thấy có điều đáng kết án trong những hành động của tôi, anh sẽ là người đầu tiên làm điều đó để hài lòng rằng nó không xâm phạm vào những điều kiện của anh."
    "Đồng ý!" Arthur nói. "Đây chỉ là vấn đề trung thực. Và bây giờ sau khi đàm phán xong, tôi có thể hỏi là chúng ta sẽ làm gì không?"
    "Tôi muốn anh đi với tôi, và đi một cách bí mật, đến nghĩa địa Kingstead."
    Khuôn mặt Arthur cúi xuống khi cậu ấy nói một cách xúc động,
    "Nơi chôn cất Lucy tội nghiệp?"
    Giáo sư nhún mình.
    Arthur tiếp tục, "Và làm gì ở đó?"
    "Đi vào ngôi mộ!"
    Arthur đứng phắt dậy. "Giáo sư, ông thật sự nghiêm chỉnh đấy chứ, hay đây chỉ là một trò đùa kỳ quái? Xin lỗi, tôi thấy rằng ông đang rất nghiêm chỉnh." Cậu ấy ngồi xuống trở lại, nhưng tôi có thể thấy cậu ta ngỗi vững vàng và kiêu hãnh, như một người biết rõ phẩm giá của mình. Sau một thóang im lặng cậu ấy lại hỏi. "Và khi đã vào trong mộ?"
    "Mở nắp quan tài."
    "Đủ rồi!"cậu ta nói, giận dữ đứng dậy trở lại. "Tôi sẳn sàng kiên nhẫn khi mọi chuyện còn có thể chấp nhận, nhưng lần này, khi xúc phạm một ngôi mộ, của một người mà..." Cậu ấy nghẹn lời trong phẫn nộ.
    Giáo sư nhìn cậu ấy một cách thương hại. "Nếu như tôi có thể chia xẻ sự đau khổ của anh, anh bạn tội nghiệp," ông ta nói, "Chúa biết là tôi sẽ làm điều đó. Nhưng đêm nay những bước chân của chúng ta phải đi qua trên những con đường gai góc, và sau này, mãi mãi, những bước chân yêu đương của anh phải đi trên những con đường rực lửa."
    Arthur trông trắng nhợt cả mặt, và nói, "Cẩn thận, thưa ngài, hãy cẩn thận."
    "Chẳng lẽ tốt hơn là nên nghe xem tôi nói gì hay sao?" Van Helsing nói. "Và ít nhất các anh cũng biết được giới hạn của mục đích của tôi. Tôi sẽ tiếp tục chứ?"
    "Hãy thẳng thắn," Morris ngắt lời.
    Sau một lúc Van Helsing tiếp tục, rõ ràng là với một sự cố gắng, "Cô Lucy đã chết, đúng thế không? Vâng! Không có sự sai lầm nào với cô ta. Nhưng nếu cô ta không chết..."
    Arthur nhảy dựng lên, "Chúa ơi!" cậu ta kêu lên. "Ông muốn nói gì? Đã có sự lầm lẩn, và nàng đã bị chôn sống?" Cậu ấy rên lên đau khổ mà không có thứ gì có thể làm dịu được.
    "Tôi không nói là cô ta còn sống, con trai. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi chỉ muốn nói tiếp rằng cô ta có thể đã trở thành một kẻ Chưa Chết."
    "Chưa Chết! Không còn sống! Ông muốn nói gì? Phải chăng tất cả chỉ là một cơn ác mộng?"
    "Đó là một điều bí ẩn mà con người chỉ mới có thể phỏng đóan, nhưng với thời gian họ có thể giải quyết từng phần. Hãy tin tôi đi, chúng ta đang tiến gần sát nó. Nhưng tôi chưa nói xong đâu. Tôi có thể cắt rời đầu của cô Lucy quá cố không ạ?"
    "Thiên địa ơi, không!" Arthur gào lên một cách điên cuồng. "Không dù cho người ta có đem cả thế giới này để đánh đổi cho tôi việc cắt xén thi thể của nàng. Bác sĩ Van Helsing, ngài thử thách tôi nhiều quá rồi đó. Tôi đã làm gì khiến ngài phải tra khảo tôi như vậy? Cô gái tội nghiệp, dịu dàng kia đã làm gì khiến ngài muốn làm một việc mất danh dự như vậy nơi mộ nàng. Ngài đang điên, khi nói ra những điều như vậy, hoặc tôi đang điên khi đang nghe chúng? Tôi thậm chí còn không dám nghĩ đến một điều báng bổ như vậy. Tôi sẽ không chấp nhận bất kỳ cái gì ngài làm. Tôi có trách nhiệm phải bảo vệ mộ nàng trước mọi sự xúc phạm, và thề có Chúa, tôi sẽ làm điều đó."
    Van Helsing cũng đứng bật dậy từ cái chỗ mà ông vẩn ngồi nãy giờ, rồi nói, nghiêm trang và và kiên quyết, "Huân tước Godalming của tôi, tôi cũng có một trách nhiệm phải làm, trách nhiệm với những người khác, trách nhiệm với ngài , trách nhiệm với người quá cố, và với Chúa. Tôi sẽ làm điều đó! Tất cả những điều tôi muốn ngài làm lúc này là đi với tôi, ngài sẽ nhìn và nghe, và rồi sau đó tôi cũng sẽ đưa ra cùng một lời yêu cầu là ngài đừng có hăm hở tham gia vào việc này hơn chính cả tôi, rồi tôi sẽ thực hiện trách nhiệm của mình, dù nó gây cho tôi những chuyện gì đi nữa. Sau đó, theo yêu cầu của một Lãnh chúa như ngài, tôi sẽ đặt mình dưới sự phán xét của ngài và nhận hết những gì ngài muốn làm với tôi, bất kỳ ở đâu và nơi nào ngài muốn." Giọng nói của ông ta hơi ngắt quãng, nhưng ông ta tiếp tục một giọng nói đầy trách nhiệm.
    "Nhưng tôi van nài anh, xin đừng bộc lộ sự giận dữ với tôi. Trong suốt quãng đời dài của mình, tôi đã thường làm nhiều chuyện không theo ý mình,và chúng đã xiết lấy tim tôi, nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy không khăn như lần này. Hãy tin tôi là sẽ đến lúc anh thay đổi thái độ với tôi, và tôi chính là người đã cứu anh khỏi đau khổ. Hãy nghĩ đi. Tôi đã buông mình làm việc cực nhọc và đón nhận nhiều phiền muộn như vậy để làm gì? Tôi đã đi đến đây từ quê nhà của mình, trước tiên là theo ý anh bạn John, để giúp đỡ một tiểu thư trẻ tuổi dịu dàng, người mà tôi đã yêu thương.
    Vì cô ta, tôi xấu hổ phải nói ra điều này, nhưng đây là sự thật, tôi đã cho cô ta cái mà anh đã cho, những dòng máu trong huyết quản của tôi. Tôi đã dâng hiến nó, tôi, người không giống như anh, là người yêu của cô ta, mà chỉ là bác sĩ và bạn của cô ta. Tôi đã cho cô ta ngày và đêm của tôi, trước cái chết, sau cái chết, và thậm chí nếu như cái chết của tôi có thể đem lại lợi ích cho cô ta vào lúc này, khi cô ta là một kẻ Chưa Chết, thì cô ta sẽ tự do có nó." Ông ta nói một cách rất nghiêm trang, dịu dàng kiêu hãnh, và Arthur đã bị ảnh hưởng mạnh bởi những lời nói này.
    Cậu ta nắm lấy tay người đàn ông già và nói bằng một giọng đứt quãng, "Ôi, thật là khó để suy nghĩ, và tôi không thể hiểu gì cả, nhưng ít nhất tôi sẽ đi và chờ đợi với ông."





Trang 2/4 đầuđầu 1234 cuốicuối

Thread Information

Users Browsing this Thread

Hiện đang có 1 tv xem bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn

  • Bạn không được quyền đăng bài
  • Bạn không được quyền trả lời bài viết
  • Bạn không được quyền kèm dữ liệu trong bài viết
  • Bạn không được quyền sửa bài
  •