-
Chương 40
VIÊN ĐẠN ĐƯỢC ĐÁNH DẤU
Trước khi đội tìm kiếm đuổi kịp người trinh sát, một sự kiện nhỏ đã xảy ra. Viên thiếu tá đưa người của mình không đi theo con đường rừng mà đi thẳng qua rừng. Con đường này được chọn không phải là tình cờ. Viên thiếu tá muốn tránh cho người cha khỏi những đau đớn không cần thiết, không để ông nhìn thấy máu – máu của con trai ông, như người dò dấu vết đã đoán. Nơi khủng khiếp đó được tránh sang một bên, không ai ngoài viên thiếu tá và người dò dấu vết biết được điều phát hiện đáng buồn đó, và đội ngũ lại tiến bước mà chẳng hay biết gì.
Họ đi theo những con đường mòn hẹp của thú rừng, cho nên các kỵ sĩ chỉ có thể đi sóng đôi hai người, đôi khi con đường mòn rộng ra thành một khoảng trống nhưng qua một vài acđơ nó lại thu hẹp và mất hút trong đám cây rậm rạp.
Ở một trong những khoảng trống trên đường đi của đội tìm kiếm, từ trong một khóm cây rậm rạp nhảy ra một con báo đốm đen. Đó là một con vật rất hiếm thấy, thậm chí đối với những rừng rậm nhiệt đới, bởi vẻ đẹp rực rỡ của nó. Thiên nhiên đã cầu kỳ vẽ lên bộ lông vàng của nó những hoa văn như chạm trổ, những vòng tròn, dấu chấm kết hợp uốn lượn với nhau. Con mèo lớn tha thướt, hùng mạnh nhảy một bước mềm mại ra khoảng trống ngay trước mắt tất cả các kỵ sĩ. Mặc dầu trong tình thế nghiêm trọng của cuộc tìm kiếm, có hai người đã bắn theo con vật đang chạy.
Đó là Kacxi Kôlhaun và một chủ đồn điền trẻ tuổi đi cùng hắn.
Con báo đốm đen chết ngay, viên đạn đi dọc theo sống lưng con thú.
Ai trong hai người có vinh dự bắn trúng? Cả hai, cả Kôlhaun và chàng chủ đồn điền kia đều nhận đó là mình. Họ bắn cùng một lúc, nhưng chỉ một người trúng mục tiêu.
- Tôi sẽ chứng minh cho ngài! – Viên đại úy giải ngũ vừa tuyên bố một cách tin tưởng, vừa leo khỏi ngựa.
Bước tới chỗ con báo trúng đạn, sau khi rút dao ra hắn quay lại nói với những người có mặt:
- Viên đạn nằm trong xác con vật, có phải thế không ạ, thưa các ngài? Nếu nó là của tôi, thì trên nó sẽ là hai chữ cái đầu họ tên của tôi – “K, K” với một nửa vành trăng. Những viên đạn của tôi được làm theo đơn đặt hàng đặc biệt, và tôi luôn luôn có thể biết được con thú bị giết có phải là của mình hay không.
Kôlhaun huênh hoang đưa mọi người xem viên đạn đã được lấy ra – không khó khăn gì cũng đoán được là hắn nói thật. Nhiều người tò mò đến xem: viên đạn quả thật được đánh dấu bằng những chữ cái đầu họ tên của Kôlhaun, và cuộc tranh luận kết thúc một cách không có lợi cho người chủ đồn điền.
Một lát sau đội ngũ đã tới chỗ người dò dấu vết đang đứng đợi, người đó lại đưa họ đi tiếp.
Ỡ đây không còn hai dấu vết của hai con ngựa thuần hóa. Chỉ còn dấu vết của một con ngựa, nhưng nó rất mờ, đến nỗi chỉ có người dò dấu vết mới nhìn thấy.
Dấu vết này xuyên qua các bụi cây, thỉnh thoảng nó đi ra khoảng trống và cuối cùng, sau khi vẽ nên một vòng tròn, nó dẫn họ tới cũng con đường rừng, chỉ có điều xa hơn về phía Tây.
Mặc dầu Xpengler không phải là người dò dấu vết hạng nhất, nhưng anh ta theo dấu vết này nhanh đến nỗi những người còn lại phải cố gắng lắm mới theo kịp.
Anh ta đã đoán ra con ngựa nào để lại dấu vết này. Anh ta biết đấy là con muxtang đã đứng dưới gốc cây bạch dương trong thời gian người kỵ sĩ của nó hút điếu xì gà, cũng là con muxtang, mà vết móng sau để lại trên đất nhuốm đầy máu.
Lúc người dò dấu vết đứng một mình, anh ta cũng đã lướt qua dấu vết của con ngựa Mỹ. Anh ta hiểu rằng, dấu vết này dẫn ngược về đồng cỏ, theo đó họ đã đi tới đây, và sau đó là về đồn điền trên sông Lêông.
Nhưng hình như dấu vết của con muxtang hứa hẹn nhiều hơn và Xpengler quay ra nghiên cứu nó, dấu vết này có thể dẫn tới câu giải đáp cho bí mật của vũng máu, và thậm chí sẽ tới nơi ẩn náu của kẻ giết người.
Nhưng nó cũng đánh đố người dò dấu vết không kém gì những dấu vết chồng chéo lên nhau của hai con ngựa.
Dấu vết không đi thẳng như thường lệ, khi con ngựa được người kỵ sĩ điều khiển: nó ngoằn nghèo, lúc đi vòng, lúc đi thẳng, lúc thì quay ngang, dường như con muxtang không có kỵ sĩ hay kỵ sĩ đã ngủ thiếp đi trên yên.
Có thể nào đó là dấu vết con ngựa của kẻ phạm tội vội vàng chạy trốn sau khi thực hiên xong tội ác.
Xpengler không cho là như vậy. Không biết giải thích thế nào, anh ta đâm ra hoàn toàn rối trí. Anh ta thẳng thắn nói điều đó với viên thiếu tá khi ông này hỏi về ý nghĩ của những dấu vết.
Song le cái sắp hiện ra trước mắt anh ta, và tất cả những người đồng hành của anh ta cùng chứng kiến vào chính lúc đó, không chỉ không giúp gì cho họ giải đáp ra điều bí mật mà ngược lại càng làm cho nó thêm khó hiểu.
Còn hơn nữa: những dự đoán và suy luận bỗng nhiên biến thành nỗi khiếp hãi tràn ngập tất cả. Và không ai có thể quả quyết được, nó là cái gì.
Không lẽ bạn không khiếp đảm, nếu bạn nhìn thấy một kỵ sĩ, ngồi vững vàng trên yên, với đôi chân lồng trong bàn đạp, tay giữ chặt dây cương, thoạt nhìn cũng như trăm nghìn kỵ sĩ khác, nhưng sau khi nhìn kỹ bạn thấy ở người kỵ sĩ đó có một cái gì rất kỳ dị: anh ta không có đầu.
Chính một cảnh tượng như vậy đã hiện lên trước mắt mọi người. Tất cả bọn họ đều giật ngựa lại đột ngột dường như trước mặt họ là một vực thẳm đang há toác miệng.
Mặt trời đang lăn, cái đĩa tròn rực lửa hầu như chạm vào những ngọn cỏ, những tia đỏ rực chiếu thẳng làm mắt mọi người mờ đi, không để cho họ nhìn rõ đó là cái gì. Tuy vậy họ vẫn nhìn rất rõ cái hình dạng kỳ dị đó, nó như hiện ra trước mắt họ: kỵ sĩ không đầu.
Nếu chỉ có một người trong số những người có mặt tuyên bố rằng anh ta nhìn thấy kỵ sĩ không đầu, mọi người sẽ cười và gọi anh ta là thằng điên. Thậm chí có hai người quả quyết điều này thì người ta cũng buộc tội họ là mất trí.
Nhưng vì tất cả cùng nhìn thấy một lúc, và điều đó lại quá hiển nhiên mà nếu trái lại, có ai đó nói ngược lại điều này thì mọi người lại cho anh ta là mất trí.
Không một ai nghi hoặc. Tất cả rướn người nhìn về một hướng - hướng có hoặc là kỵ sĩ không đầu, hoặc là một con bù nhìn được làm ra một cách cực khéo.
Đây là một con bù nhìn chăng? Mà nếu không phải thì nó là cái gì vậy?
Câu hỏi này nảy ra ở tất cả mọi người cùng một lúc. Và vì không có ai có thể tìm ra câu trả lời cho mình nên tất cả đều im lặng.
Các quân nhân và thường dân ngồi chết lặng đi trên yên, chờ đợi sự giải thích mà không ai có thể đưa ra.
Chỉ nghe thấy những tiếng ú ớ vì kinh ngạc và khiếp hãi. Nhưng chẳng ai thốt nổi một lời.
Kỵ sĩ không đầu – bóng ma hay hiện thực – ngay lúc cả bọn vừa nhìn thấy, nó đã đi ra tới con đường rừng, đối diện với đội ngũ và đứng lại. nếu như nó tiếp tục con đường của mình, thì nó sẽ đi thẳng tới chỗ bọn họ, tất nhiên nếu họ đủ can đảm chờ nó.
Nhưng nó dừng lại cùng một lúc với họ, dường như nó đang nhìn họ với một vẻ nghi ngờ, cũng như họ nhìn vào nó.
Bắt đầu một sự chết lặng, đến nỗi nghe được rõ cả tiếng mẩu xì gà rơi vào cỏ. Lúc bấy giờ những người can đảm có thể nhìn rõ người kỵ sĩ kỳ dị này, nhưng phần đông họ đã run lên vì khiếp đảm, mất hết khả năng nhận thức. Nhưng ai có gan nhìn vào hình dáng kỳ dị đó, cố gắng tìm hiểu xem đó là cái gì, thì họ cũng bị lóa mắt bởi những tia mặt trời đang lặn. Họ chỉ nhìn được hình dáng to lớn đẹp tuyệt vời của con ngựa với người kỵ sĩ trên lưng. Thân hình con người rất khó nhìn ra bởi nó được quấn trong một cái gì đó giống như chiếc áo choàng tỏa xuống từ vai.
Nhưng tất cả những cái đó thì có ý nghĩa gì, nếu người kỵ sĩ không có đầu? Con người không đầu kia, nó đang cưỡi ngựa, nó ngồi trên yên một cách trang nhã tự nhiên, những chiếc cựa giày lóng lánh trên gót chân, một tay xiết chặt dây cương, tay kia thả lỏng trên đùi.
Cái gì vậy? Một bóng ma ư? Không lẽ đây là một con người sống?
Những người đang nhìn nó là những con người không tin vào cả những bóng ma, không tin cả vào những ảo ảnh siêu tự nhiên. Rất nhiều người trong số họ không chỉ một lần phải chiến đấu với thiên nhiên thất thường và khắc nghiệt nhất trong chốn thâm sơn cùng cốc hoang dã. Những người như vậy không tin vào những bóng ma.
Nhưng khi nhìn vào một hiện tượng khác thường như vậy thì thậm chí những người có đầu óc sáng suốt nhất cũng trở nên nghi ngờ vào tính hiện thực của nó và thầm nhắc lại:
“Đây là một bóng ma. Tất nhiên, đây không thể là con người được!”
Kích thước của kỵ sĩ không đầu khẳng định điều dự đoán rằng trước mắt họ là một hiện thượng siêu tự nhiên. Nó dường như to gấp đôi người thường ngồi trên một con ngựa. Nó hơi giống một người khổng lồ ngồi trên lưng một con ngựa khổng lồ. Có thể đó là cảm giác không thực, được giải thích bằng sự khúc xạ của những tia mặt trời đi là là qua làn không khí đang giao động trên bình nguyên rực nóng.
Nhưng bấy giờ chẳng ai còn nghĩ tới chuyện suy luận, thậm chí cũng không thể nhìn cho kỹ bóng ma lạ lùng – cái mà tất cả những người có mặt vừa căng thẳng nhìn, vừa lấy tay che mắt khỏi những tia mặt trời chói lòa.
Không thể phân biệt được cả mầu quần áo của nó, cả đặc điểm con ngựa của nó. Chỉ nhìn rõ được những nét hình dáng của nó - một hình dáng màu đen trên nền trời vàng rực. Nhưng nó dù có xoay hướng nào về phía bọn họ, thì cũng vẫn là một hiện tượng không giải thích nổi: một kỵ sĩ không đầu.
Vậy là cái gì mới được? Không lẽ là bóng ma ư? Không lẽ đây là con người sống?
- Đây là một con quỉ ngồi trên ngựa! - Bỗng một người trong số những người dân vùng biên thùy từng trải, người mà không một cái gì làm cho sợ hãi kêu lên – Tôi thề, đó chỉ có thể là quỉ sứ!
Tiếng cười thô kệch của anh ta kèm theo lời chửi rủa làm cho người nhút nhát hơn trong số những người có mặt càng thêm sợ hãi, và dường như nó cũng làm cho kỵ sĩ không đầu xúc động. Kỵ sĩ quay ngoắt ngựa, con ngựa hý lên một cách man rợ và phi đi.
Kỵ sĩ không đầu lướt thẳng tới phía mặt trời và nhanh chóng biến mất, dường như nó đã đi vào cái đĩa tròn rực sáng đó.
-
Chương 41
NHÓM BỐN KỴ
Đội kỵ sĩ, do viên thiếu tá đứng đầu, không phải là những người độc nhất đi khỏi đồn biên Inđ trong buổi sáng đáng ghi nhớ này.
Còn sớm hơn rất nhiều, hầu như từ tờ mờ đất, cũng theo hướng đó - hướng đi tới sông Nuexet – có một nhóm bốn người ra đi.
Chắc gì những người đó đi tìm xác của Henri Pôinđekter. Trong khoảng thời gian rất sớm ấy, còn chưa ai nghi ngờ rằng chàng trai đã bị giết hoặc dù chỉ là bị mất tích. Con ngựa không người cưỡi còn chưa mang đến tin buồn. Cả khu cư dân còn đang ngủ, chưa ai biết rằng, một dòng máu vô tội đã đổ.
Mặc dầu hai đoàn người ra đi theo cùng một hướng và định đến cùng một chỗ, nhưng giữa các kỵ sĩ của hai đoàn không có gì chung. Những người đi sớm hơn là những người Tây Ban Nha, hay nói đúng hơn là trong huyết quản của họ dòng máu Tây Ban Nha hòa lẫn với dòng máu Aktek. Nói cách khác, đó là những người Mếchxich.
Để thấy được điều này không cần chi tới những hiểu biết đặc biệt. Người quan sát chỉ cần liếc nhìn họ là đủ. Chỉ cần nhìn kiểu cách của họ ngồi ngựa, những cặp đùi dài nhìn thấy đặc biệt rõ bởi yên ngựa rất cao, những chiếc xerap rực rỡ rủ trên vai, những chiếc quần nhung, những tua trên ủng và cuối cùng là chiếc mũ xambrêrô có vành rộng. Tất cả những điều này nói lên rằng họ là người Mếchxich hoặc là những người đã theo phong tục của dân Mếchxich. Nước da rám nâu, tóc đen cắt ngắn, cằm nhọn, khuôn mặt trái xoan cân đối - tất cả những đặc điểm rất điển hình của giống người Aktek – Tây Ban Nha hiện giờ đang sống trên vùng đất của Môntexum (thủ lĩnh tối cao của dân Aktek trong thời gian người Tây Ban Nha xâm chiếm Mếchxich.)
Một trong số các kỵ sĩ trông rắn chắc hơn những người bạn đường. Con ngựa của hắn tốt hơn những con khác, quần áo sang trọng hơn, vũ khí tinh xảo hơn, và những điều còn lại cho thấy hắn là người cầm đầu của nhóm.
Có thể thấy hắn là người rất đẹp nếu không có cái nhìn nặng nề, lạnh lẽo, vẻ mặt cau có, tất cả như nhằm tố cáo sự thô thiển và tàn nhẫn trong tính cách của hắn.
Thậm chí nụ cười đẹp đẽ của đôi môi rõ nét với hai hàm răng đều trắng bóng cũng không thể xóa đi cảm giác này. Trong nụ cười của hắn có cái gì đó ma quái.
Không phải do bề ngoài mà bạn bè gọi hắn bằng cái tên của loài thú, mà mọi người đều biết rõ ở vùng đồng bằng Tếchdát. Hắn có một biệt hiệu không đẹp – “Et-kôiôt – Sói đồng” – vì tính cách và những hành vi của mình.
Điều gì đã xảy ra khiến “Sói đồng” đi vào đồng cỏ sớm như vậy. Rõ ràng là hắn tỉnh táo, hơn nữa lại cầm đầu một nhóm người? Mà chỉ vẻn vẹn vài giờ trước đó hắn còn nằm trong lều của mình, say mèm đến nỗi không những không lịch thiệp mời khách mà thậm chí không hiểu được điều gì xảy ra với mình.
Sự thay đổi đột ngột đến mức lạ lùng không có gì khó giải thích. Chỉ cần kể lại những gì xảy ra từ lúc Kôlhaun đi khỏi nhà hắn cho đến cuộc gặp gỡ của Sói đồng với ba người đồng hương của hắn là đủ.
Đến sáng hắn tỉnh lại bởi cái lạnh và sự ẩm ướt. Chính vì vậy mà hắn tỉnh táo ra. Nhảy khỏi giường, hắn vừa lảo đảo đi lại trong căn lều vừa chửi rủa cánh cửa mở toang để cái lạnh tràn vào.
Có thể nghĩ rằng, hắn sẽ đóng ngay cửa lại. Nhưng hắn không. Cử là chỗ hở duy nhất để cho ánh sáng lọt vào, nếu không kể đến các khe trên những bức tường cũ kỹ. Mà ánh sáng là cần thiết để hoàn thành các dự định, mà vì nó mà hắn ngồi dậy!
Nhưng ánh sáng của buổi sáng sớm, xuyên qua cánh cửa mở toang chiếu mờ mờ trong lều “Sói đồng” lảo đảo quay vòng, vấp ngã và hắn cứ nguyền rủa cho đến khi hắn tìm ra cái hắn cần: đó là chiếc bình lớn làm bằng vỏ quả bầu có hai lỗ, ở giữa buộc bằng sợi dây chằng. Nó dùng để đựng nước uống nhưng thường hơn cả là dùng đựng rượu.
Tên Mếchxich cuối cùng đã mở được nút bình, nhưng cái mùi bốc ra nói lên rằng cách đây không lâu trong đó đã chẳng còn rượu nào nữa. Nhưng phải từ những lời nguyền rủa thậm tệ của chủ nó người ta mới biết là nó trống rỗng:
- Ma quỉ! - Hắn gào lên, để quả quyết chắc rằng không còn gì, hắn lắc lắc chiếc bình trong tay với vẻ thất vọng ghê gớm - Trời, không một giọt! Cạn đến đáy! Lưỡi ta dính chặt vào hàm rồi. Cổ ta cháy bỏng như nuốt phải than hồng vậy. Quỉ tha ma bắt! Ta không chịu được nữa rồi, làm sao bây giờ? Trời đã sáng. Phải đi vào khu cư dân mới được. Có thể xenhor Đôphê đã mở cái bẫy của mình để dụ những con chim sớm. Đã vậy Sói này sẽ xuất hiện ở chỗ hắn ta.
Sau khi quàng chiếc bình lên cổ, khoác xerap trên vai, Sói đồng lên đường, đến khu cư dân.
Quán rượu chỉ cách căn nhà của hắn vài trăm acđơ, cùng bờ bên này của con sông. Con đường này khá quen thuộc đối với hắn, đến nỗi có bị bịt mắt hắn cũng đi được đến nơi. Hai mươi phút sau hắn lảo đảo tiến tới gần tấm bảng treo: “Dừng chân”
Hắn gặp may: Ôbeđôphê đang lăng xăng trong bar phục vụ khách sớm. Một vài người lính lẻn ra khỏi doanh trại để nhấp giọng sau giấc ngủ.
- Lạy Chúa, ngài Điac! - Chủ quán vừa nói vừa chào người khách mới và bỏ mặc sáu người khách uống nợ để đón khách mới mà ông ta biết là sẽ trẻ khá hậu hĩnh - Lạy Chúa tôi! Ngài đi bộ sớm vậy? Tôi biết ngài ưa thứ gì rồi.Ngài muốn tôi rót đầy bình của ngài thứ vôtca Mếchxich ag… ag… ngài gọi như thế nào nhỉ?
- Agvadient! Ngài đoán đúng đấy, kabalerô ạ. Cái này chính là cái ta đang cần.
- Một đôla! Bình này giá một đôla.
- Mẹ kiếp! Ta vẫn nhớ giá. Đây, một đôla cho ngài, còn đây là bình. Rót đi, nhanh lên!
- Ngài vội ư, ngài Điac? Tôi không bắt ngài đợi đâu. Ngài định đi săn bọn muxtang trong đồng cỏ ngựa hoang ư? Tôi sợ rằng người Iếclăng kia đã đi trước ngài. Ông ta đi từ đêm kia. Ra khỏi nhà lúc nửa đêm, một giờ quá muộn để đi du hành. Tay săn ngựa này quả là một con người rất kỳ quặc nghĩa là tôi đang nói tới ngài Moric Giêran đấy ạ! Không ai và không bao giờ có thể đoán trước một điều gì về ông ta. Riêng tôi, tôi không có gì để chống lại ông ta. Ông ấy đã là một người khách trọ tốt, thanh toán phần lớn về phần mình, như một con người giàu có, và ông ta vẫn còn khá nhiều nữa, Chúa ơi, túi ông ta đầy những đôla!
Người Mếchxich tỉnh ra ngay khi nghe tin người Iếclăng đã đi vào đồng cỏ ngựa hoang như Ôbeđôphê diễn tả. Đầu tiên hắn bày tỏ sự quan tâm của mình bằng một tiếng kêu ngạc nhiên khe khẽ và sau đó không kìm được những cử chỉ nóng ruột trong khi đứng nghe những lời huyên thuyên của người Đức kia.
Mặc dầu vậy hắn vẫn cố gắng dấu nỗi hồi hộp của mình. Thay vì hỏi han Ôbeđôphê, hắn trả lời với vẻ bất cần.
- Điều này chẳng lên quan gì tới tôi, Kabalerô ạ. Trong đồng cỏ có đủ muxtang, đủ cho tất cả mọi người. Mau lên, xênhor, đưa rượu đây cho ta.
Hơi bực mình vì người ta không nghe tiếp những chuyện ngồi lê đôi mách của mình, gã người Đức nhanh chóng múc đầy bầu rượu, rồi trả bầu cho người Mếchxich, cầm lấy tiền nhét nó vào thùng và quay về phía những người lính chịu chuyện hơn, bởi vì họ phải uống chịu.
Mặc dầu đang khát, nhưng Điac đi ra khỏi bar mà không hề mở nút chai, dường như đã quên mất nó.
Một chuyện khác đang làm hắn nôn nóng hơn cả chuyện uống.
Hắn không về nhà ngay mà ghé lại ba căn lều ở rìa khu cư dân, nơi có những kẻ thích kiếm chác đang sống và sau đó hắn mới trở về căn lều của mình.
Trên con đường ngược lại “Sói đồng” để ý thấy có vết của con ngựa đã được đóng móng, hắn còn nhận ra dấu vết đó kéo đến một cái cây cạnh lều.
- Mẹ kiếp! Đúng là đại úy người Mỹ đã ở đây đêm hôm qua. Quỉ tha ma bắt! Ta lờ mờ nhớ tới một cái gì đó như ta đã nằm mơ. Ta đã đoán ra được vì sao ông ta tới đây. Ông ta đã biết cuộc ra đi của Đông Môrixiô. Hẳn là ông ta cáu lắm khi thấy ta đang ngủ. Ha ha! Tất cả sẽ được hoàn tất không cần đến ông ta. Ta chả cần ông ta chỉ dẫn tiếp nữa. Một nghìn đôla, một món tiền khá! Khi nào nhận được ta sẽ đi ngay tới Riô-Granđ và dàn xếp cụ thể với Ixiđôra.
Nói xong đoạn độc thoại này, “Sói đồng” đi vào nhà. Hắn ở lại trong đó một khoảng thời gian vừa đủ để kịp nuốt một vài miếng thịt rán, uống vài ngụm rượu agvadient. Sau đó hắn đóng yên cương con ngựa của mình, đeo chiếc cựa giày to đùng, buộc vào yên khẩu cacbin nhỏ, đút súng lục vào bao, buộc vào thắt lưng những chiếc bao chứa dao găm, nhảy lên yên và phóng vụt đi.
Trước khi tới đồng cỏ, hắn ghé vào khu cư dân một lần nữa và ở đó hắn đợi những kỵ sĩ khác mà hắn đã báo trước phải đi cùng hắn.
Ba người bạn của “Sói đồng”, như đã rõ kế hoạch của hắn. Hay ít nhất họ cũng biết nơi hành động sẽ là Alamô. Bắt đầu con đường, khi Điac đi chệch về một phía, họ la lên với hắn rằng không đúng con đường đó.
- Tôi biết rõ sông Alamô - Một người trong số họ, cũng là người săn ngựa, nói – Tôi không chỉ một lần đi săn tới đấy, chỗ đó nằm cách đây về hướng Tây Nam. Con đường gần nhất đi tới đó là con đường rừng này. Ngài đã đi quá về phía Tây, Đông Miguel ạ.
- Thế hử! – Điac nói có vẻ coi thường – Ngài có lẽ là người Mỹ chăng, Xenho Vinxent Barahô. Ngài quên rằng ngựa của chúng ta đóng cá sắt. Bọn da đỏ đâu có đi thẳng từ đồn biên Inđ đến Alamô, để… Tôi hy vọng rằng ngài hiểu tôi chứ ạ?
- Đúng quá! – Barahô trả lời – Xin lỗi Đông Miguel. Mẹ kiếp! Tôi không nhớ tới điều này.
Ba người đi theo không còn đôi co gì nữa với “Sói đồng”. Chúng đi im lặng, cho đến khi đến được cánh rừng cách con đường rừng vài dặm. Nơi mà Barahô đã nhắc tới.
Lọt vào dưới những tán rừng, cả bốn tên xuống ngựa và buộc ngựa vào những gốc cây. Sau đó chúng bắt tay vào công việc chỉ có thể so sánh với những gì diễn ra sau cánh gà của một nhà hát tỉnh lẻ trước buổi biểu diễn một vở nhạc kịch nói về đời sống của những người rừng.
-
Chương 42
CHIM KỀN KỀN BAY TỚI
Những con kền kền đen bay lượn trên đồng cỏ là bức tranh thường thấy ở vùng miền Nam Tếchdát, và nếu ai du hành nơi đó sẽ nhìn thấy cảnh tượng này.
Bay đến hàng trăm con, chúng vẽ ra trong không gian những vòng tròn và vòng xoáy ốc rộng, lúc thì chúng sà xuống gần như chạm vào cỏ, lúc thì đột ngột bay vụt lên trên đôi cánh sải rộng không hề động đậy. Những chiếc vuốt nhọn của chúng in rõ trên nền trời.
Lữ khách đầu tiên nhìn thấy cảnh này, bất giác dừng lại để quan sát bọn chim. Thậm chí đối với những người mà đàn kền kền không còn là điều gì mới lạ, cũng bất giác nghĩ ngợi: những con chim ăn thịt tụ tập ở đây làm gì nhỉ?
Bởi vì khi những con chim gớm ghiếc này bay lại là có chuyện.
Dù người lữ hành nhìn thấy hay không nhìn thấy, nhưng anh ta biết rằng, trên mặt đất, trên chính chỗ mà loài chim ăn thịt có lượn quanh thế nào cũng có một con vật chết hay có thể đó là một con người, một xác người chết.
-o0o-
Trong buổi sáng sau cái đêm ảm đạm đó, khi ba kỵ sĩ xuyên qua đồng bằng, cảnh tượng đó có thể quan sát sau những bụi cây, nơi họ đi đến. Đàn kền kền đen chao lượn trên những ngọn cây, nơi con đường rừng rẽ ngoặt.
Lúc mờ sáng, còn chưa nhìn thấy một con chim ăn thịt nào, nhưng không đến một tiếng đồng hồ sau khi mặt trời mọc, hàng trăm con kền kền đã bay lượn nơi đây trên những sải cánh dang rộng, những bóng đen của chúng trùm trên dải rừng xanh rực rỡ.
Nếu có một người Tếchdát nào lọt vào con đường rừng sẽ nhìn thấy ngay đàn chim dữ này, anh ta lập tức sẽ đoán rằng ở đây cái chết đang lơ lửng.
Sau khi đi tiếp anh ta sẽ thấy điều khẳng định cho giả thiết này: một vũng máu, bị vết móng ngựa giày xéo lên.
Những bọn chim dữ chao lượn không phải trên vũng máu. Tâm những vòng tròn mà chúng vẽ nên, hình như ở một chỗ nào đó lệch về một phía. Giữa những bụi cây, có lẽ, có một miếng mồi đang lôi cuốn chúng.
Nhưng trong những giờ sớm như vậy nơi đây không có một người lữ hành nào, cả người Tếchdát, cả người ngoại quốc để kiểm tra sự chính xác của giả định này, hơn thế nữa đó còn là sự thật.
Trong rừng, cách vũng máu một khoảng cách chừng bốn dặm có một người nằm trên mặt đất.
Anh ta chết rồi chăng?
Mới thoạt nhìn trông anh ta như đã chết, và những con chim đen kia, rõ ràng cũng cho anh ta là một xác chết. Sự bất động và tư thế không tự nhiên của anh ta làm cho chúng quả quyết như vậy.
Anh ta nằm ngửa bất động, đầu ngật ra sau ngửa mặt lên trời. Chân tay thẳng đờ trên mặt đất đầy đá sỏi. Dường như anh ta không còn khả năng điều khiển nơi chúng nữa.
Nằm gần một cây sồi già phủ đầy sương, nhưng chàng trai không được bóng cây che chở. Chàng nằm ngoài mép bóng tán lá và những tia mặt trời, mới bắt đầu xuyên qua khoảng rừnglướt trên khuôn mặt tái nhợt, mà dường như nó còn nhợt nhạt hơn màu trắng của chiếc mũ Panama phủ hờ trên vầng trán.
Anh ta đã chết rồi chăng? Hay đang hấp hối?
Theo cung cách của bọn kền kền, có thể nói rằng anh ta chết rồi. Nhưng lần này bản năng đã đánh lừa bọn chim ăn thịt.
Tia mặt trời, rơi trên mi mắt khép hờ hoặc là sự nghỉ ngơi để hồi phục lại sức lực đã đánh thức chàng trai, làm chàng động đậy và mở to cặp mắt.
Một lúc sau, chàng hơi nhỏm dậy, chống hai tay xuống đất và nhìn quanh.
Những con kền kền vụt bay lên và không hạ xuống nữa một lúc lâu.
- Ta chết rồi hay còn sống nhỉ? – Chàng trai thì thầm – Mơ hay thực đây? Cái gì thế này? Ta ở đâu đây?
Ánh mặt trời làm mờ mắt chàng. Chàng lấy tay che mắt lại, nhưng giờ đây chàng nhìn mọi vật như trong sương mờ.
- Cây trên đầu ta, quanh ta… đá dưới người ta, xương cốt ta đau như dần. Khoảng rừng… Ta rơi vào đâu thế này nhỉ?... Nhớ ra rồi! – Chàng nói sau một phút suy nghĩ – Ta bị đập đầu vào cây, vào chính cái mặt gỗ này đây nó hất ta ra khỏi yên ngựa. Chân trái đau. Đúng, nhớ ra rồi ta bị đập vào thân cây. Quỉ quái, có lẽ chân gãy rồi…
Chàng trai thử đứng lên, nhưng không đứng lên nổi. Chiếc chân đau từ chối không phục vụ chàng – Vì sây sát hay trẹo khớp mà nó sưng phồng lên ở đầu gối.
Con ngựa đâu nhỉ? Nó chạy mất rồi, tất nhiên. Giờ đây có lẽ nó đã ở trong chuồng của Kaxa-del-Korvô. Mà có nó cũng có gì khác đâu. Dù sao ta cũng không ngồi lên yên được, thậm chí nếu có nó đứng ngay bên cạnh… Còn nó? – Chàng nói thêm, sau khi dừng lại một chút - Trời ơi, cảnh tượng gì vậy! Con ô quá sợ cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên… Ta biết làm thế nào bây giờ? Chân, chắc là bị gãy rồi. Không có ai giúp đỡ thì ta không thể rời khỏi chỗ được. Không hy vọng gì có một người nào đó sẽ tới đây. Cùng lắm là đến sớm hơn lúc ta trở thành chiến phẩm của những bầy chim ghê tởm này… Hừ, đồ súc sinh ghê tởm; Chúng há mỏ như chuẩn bị ăn sống ta!... Ta nằm đây lâu chưa nhỉ? Mặt trời chưa cao lắm. Lúc mờ sáng ta còn ngồi trên yên. Có lẽ ta đã nằm bất tỉnh gần một giờ. Quỉ tha ma bắt, tai họa rồi đây… Chân, tất nhiên là đã gãy, có thể cho là như vậy bởi vì nó quá đau, mà bác sĩ thì không có. Chiếc giường đá trong rừng sâu Tếchdát… Rừng còn kéo dài nhiều dặm – Không có gì để tin rằng mình có thể ra khỏi nơi đây. Không có ai tới đây hết. Trên mặt đất: chó sói, trong không gian: bọn kền kền… Ta không còn bao giờ cầm dây cương được nữa ư? Có lẽ ta đã ngồi trên yên lần cuối cùng…
Khuôn mặt người trẻ tuổi tối sầm lại. Chàng vô cùng rầu rĩ, vì chàng đã nhận thức được phần nào tình thế nguy hiểm của mình.
Chàng thử cố đứng dậy một lần nữa. Với một sự nỗ lực lớn, chàng nhỏm dậy, nhưng chàng nhận thức ngay rằng, chỉ còn một chân thuần phục chàng thôi, còn chiếc chân kia thì không thể nhấc lên được.
Lại phải nằm.
Chàng lại nằm như thế thêm hai tiếng nữa, thỉnh thoảng lại nhỏm dậy kêu cứu.
Cuối cùng, sau khi khẳng định rằng không có ai nghe thấy, chàng thôi không gào thét nữa.
Sự kêu gào làm cho chàng khát nước hoặc nó làm cơn khát đến nhanh hơn. Trong tình trạng mà chàng đang lâm vào thì điều này là không thể tránh khỏi.
Cái khát tăng lên và cuối cùng nó át hẳn tất cả những cảm giác còn lại, thậm chí cả cái đau nơi chân.
- Ta sẽ chết vì khát nếu ở lại nơi đây – Người bị thương nói thầm - Cần phải thử đi kiếm nơi có nước. Như ta còn nhớ chút ít, gần đây có dòng suối. Ta phải đến đó, dù cho bò cũng được. Bò bằng đầu gối và tay. Đầu gối! Nhưng ta chỉ có thể tựa trên một đầu gối… Dù sao cũng phải thử. Ta càng ở đây lâu bao nhiêu tình thế càng xấu đi bấy nhiêu. Mặt trời bắt đầu thiêu đốt. Nó đã đốt cháy đầu ta. Ta có thể bị ngất đi. Và lúc bấy giờ - nào là chó sói, nào là chim kền kền…
Chàng rùng mình vì những ý nghĩ khủng khiếp và chết lặng…
Qua một lát người bị thương lại tiếp tục thầm thì:
- Nếu ta biết đường nhỉ! Ta nhớ rõ dòng suối đó. Nó chảy về hướng đồng cỏ đá phấn tại nơi nào đó về phía Đông Nam. Ta hãy thử trườn theo hướng này. May sao bây giờ ta có thể định hướng theo mặt trời. Nếu ta tới được nơi có nước, thì có thể tất cả sẽ qua đi. Chỉ cần ta đủ sức thôi!
Cùng với những lời này chàng bắt đầu trườn qua rừng cây, vừa kéo lê chiếc chân đau, chàng vừa bò trên mặt đất đầy đá sỏi, giống như một con thằn lằn khổng lồ bị gãy xương sống.
Chàng trườn đi và trườn đi…
Rất đau đớn, nhưng sự khiếp hãi trước những gì đang chờ đợi còn đáng sợ hơn và chúng như đẩy nhanh chàng về phía trước.
Chàng biết quá rõ rằng chàng sẽ chết vì khát nếu không tìm được nước. Ý nghĩ này bắt chàng trườn đi.
Chàng thường phải dừng lại để lấy hơi và thu thêm sức lực. Con người rất khó chuyển động trên tứ chi, đặc biệt là khi một chân không chịu theo ý mình.
Chàng trai cố gắng chịu đau, bò đi chậm chạp. Điều đặc biệt đau đớn là người bị thương còn nghi ngờ không biết con đường mình chọn có đúng hay không. Chỉ có nỗi sợ hãi cái chết bắt chàng tiếp tục lên đường.
Người bị thương trườn đi đã được gần bốn dặm, bỗng chàng thoáng nghĩ liệu chàng có thể thử chuyển động bằng cách khác được không.
“Ta có thể đứng dậy, nếu ta có một cái nạng… Ơn Chúa ta còn chưa làm mất con dao!... Đây là một cái cây thích hợp, một cây sồi non”
Chàng rút từ thắt lưng ra một con dao thợ săn, cắt lấy một cành sồi và làm thành một vật trông như chiếc nạng, có thể dựa vào chỗ chạc cây.
Với sự giúp đỡ của cây nạng, chàng trai đã đứng lên và tập tễnh đi tiếp.
Chàng biết rằng nguy hiểm hơn cả là thay đổi hướng đi nên chàng vẫn đi theo hướng đông nam.
Điều này không phải là đơn giản. Mặt trời là cái địa bàn duy nhất của chàng – đã đạt tới những điểm cao trên con đường đi của mình, và ở khoảng rộng của đồng cỏ miền Nam Tếchdát vào thời gian này trong năm, vào giữa trưa mặt trời hầu như đứng trên thiên đỉnh. Những bụi cây rừng thường làm chàng phải rời khỏi con đường để đi vòng qua, khi đi qua những vết xói mòn, một vài đặc điểm của địa hình nơi này làm chàng biết rằng nguồn nước chảy ở đâu đó ở nơi có mương xói.
Tiếp tục, cứ đi được một quãng, chàng lại dừng để nghỉ một chút. Chàng đi được trọn một dặm thì bắt gặp con đường của bọn thú rừng… Con đường đó chỉ trông thấy mờ mờ, nhưng thẳng và rõ ràng là dẫn đến nơi có nước - một vũng nước hay một dòng suối nào đó.
Bất cứ cái gì cũng làm chàng vui mừng. Không chú ý tới mặt trời, tốc độ dốc nữa, người bị thương đi theo vết thú rừng.
Thỉnh thoảng chàng lại quay về cách chuyển động ban đầu của mình: bò trên tứ chi và cũng như khi đi dựa trên chiếc nạng, điều này khó nhọc vô cùng.
Nhưng một lúc sau niềm vui lại thay thế bằng nỗi thất vọng: con đường mòn bị mất hút trong khoảng trống, bị bao bọc bởi những bức tường cây cối dày đặc. Chàng trai chán nản hiểu ra rằng nơi uống nước không phải ở đây mà ở đầu kia con đường mòn.
Điều này sao mà nặng nề, nhưng đành phải quay ngược lại, vì không còn con đường nào káhc. Ở lại khoảng trống trong rừng khác nào tự tử.
Theo con đường mòn chàng lộn trở lại, lê theo những chỗ chàng vừa qua. Bị xua đi bởi cái khát khủng khiếp, người bị thương cố thu hết tàn lực mỗi lúc càng thêm bị tiêu hao.
Rừng cây mà chàng đang đi qua phần lớn là keo, lẫn với xương rồng và cây thùa. Chúng hầu như không bảo vệ chàng khỏi những tia mặt trời giữa trưa, dễ dàng xuyên qua những tầng lá và đốt cháy chàng như ngọn lửa.
Người chàng đầm đìa mồ hôi, cái khát vẫn tiếp tục hành hạ khi còn chưa trở nên hết chịu đựng nổi.
Bao lần những trái đậu gai mọng nước đập vào mắt chàng, để hái được chúng chỉ cần giơ tay ra. Nhưng chàng trai biết rằng chúng ngọt gắt và không thể làm thỏa được cơn khát. Cả thứ nước chát xít của xương rồng hoặc cây thùa cũng không giúp gì được chàng.
Thêm vào tất cả những tai họa kia, người bất hạnh còn nhận thấy rằng chiếc chân đau hoàn toàn không thèm nghe lời chàng nữa. Nó sưng phồng lên. Mỗi bước làm chàng đau đến lộng óc. Nếu thậm chí chàng có đang đi trên con đường dẫn đến nguồn nước, thì liệu chàng có đủ sức đi đến nơi hay không. Nếu không, thì đó có nghĩa là một cái chết chắc chắn. Chỉ còn: nằm lại đây, giữa cây rừng và chết.
Cái chết không tới ngay. Mặc dầu chàng đau đớn vì vết thương, nhưng chàng biết rằng vì vết thương này không phải là chết người. Cái chết đau đớn và thảm khốc nhất trong mọi cái chết đang đe dọa chàng: chết vì khát.
Ý nghĩ này buộc người bị thương thu hết sức tàn còn lại, mặc dù cho chàng chuyển động rất chậm và đau đớn vô cùng chàng vẫn kiên trì lê đi, lê đi về phía trước.
Trong khi đó những con kền kền đen vẫn tiếp tục lượn lờ trên đầu, không lui không tiến. Chúng bay theo đã được hơn một dặm, nhưng không một con nào bỏ cuộc. Số lượng chúng thậm chí còn tăng lên. Sau khi nhận ra con mồi, những con chim ăn thịt mới bay đến nhập đàn. Và mặc dầu vật hy sinh còn đang chuyển động, bản năng mách với lũ chim rằng, cái chết của nó đang tới gần.
Những bóng đen của chúng cứ lần nữa, lần nữa lướt trên con đường mòn mà người bị thương đang lê đi. Tưởng như chính cái chết đang lượn lờ trên đầu chàng…
Xung quanh im ắng hoàn toàn, bọn kền kền bay không tiếng động. Thậm chí trước miếng mồi sắp được ăn chúng cũng không làm inh ỏi bầu không khí bằng những tiếng kêu. Mặt trời nóng rực làm im đi những tiếng giun dế, cóc nhái, thậm chí những con thằn lằn sừng gớm ghiếc cũng mơ màng trong bóng đá.
Những tiếng động duy nhất phá vỡ sự im ắng của rừng câm lặng là những tiếng rách xoạc của quần áo của con người là tuyệt vọng khi bị mắc vào gai nhọn, và thỉnh thoảng là tiếng kêu cứu vô vọng của chàng.
Gai xương rồng và gai thùy cào sướt mặt chàng, chân tay chàng, không chừa một chỗ nào mà máu không hòa lẫn mồ hôi.
Người bị thương đã gần tuyệt vọng - Đứng hơn là chàng đã tuyệt vọng rồi, không chịu đựng nổi nữa, chàng ngã sấp mặt xuống đất, không còn tin vào khả năng sống sót của mình nữa.
Nhưng chính điều này đã cứu chàng. Nằm dán tai xuống đất, chàng nghe thấy một tiếng động yếu ớt, chỉ thoáng nghe được thôi.
Và dù cho tiếng động đó mơ hồ như thế nào, nhưng người bị thương đã nghe được nó, bởi vì nó là tiếng động chàng đang căng thẳngchờ đợi – đó là tiếng reo của dòng nước.
Kêu lên vì vui mừng, chàng đứng dậy, dựa vào nạng và với một sức lực mới mẻ chàng chuyển động về hướng vọng đến tiếng reo, thậm chí chiếc chân đau cũng trở nên dễ bảo hơn. Sự sảng khoái và tình yêu cuộc sống chiến đấu với sự yếu đuối và nỗi sợ chết.
Tình yêu cuộc sống đã vượt lên.
Mười phút sau người bị thương đã nằm sóng xoài trên cỏ gần một dòng nước trong vắt và ngỡ ngàng không hiểu được vì sao một cái khát đơn giản lại có thể là nguyên nhân của một sự hành hạ đáng ghê sợ như vậy.
-
Chương 43
CÚP VÀ CHAI
Chúng ta lần nữa hãy vào thăm căn nhà của Muxtangher. Lại thấy tên hầu Felim của chàng ngồi trên chiếc ghế đẩu giữa phòng. Con chó lại nằm trước bếp lò, gí mũi vào tro ẩm.
Người và chó ngồi cách nhau một quãng y như lần trước, tư thế của họ hầu như cũng vậy, nhưng sự bố trí trong căn lều đã có những thay đổi lớn.
Tấm da ngựa căng trên cửa vẫn treo như cũ. Trên các bức tường vẫn rực rỡ những tấm da ngựa đủ màu. Cũng vẫn chiếc bàn đơn sơ, cũng vẫn những chăn nệm ấy, cũng hai chiếc ghế đó cũng vẫn tấm da trên đó Felim thường hay nằm ngủ.
Nhưng chẳng còn thấy khẩu súng săn trên tường, cũng không thấy chiếc cúp bạc, sừng hươu. Không còn yên cương, không dây, không xerap. Sách, mực, bút lông, giấy tờ cũng biến đâu mất.
Có thể nghĩ rằng, những người da đỏ đã cướp bóc căn lều.
Nhưng mà, không. Nếu thế thì Felim đã không còn ngồi bình an như vậy trên chiếc ghế đẩu và trên đầu hắn ta còn đâu những túm tóc màu hung.
Mặc dầu mọi thứ đều được tháo ra khỏi tường, nhưng tất cả những đồ vật khác vẫn còn lại trong lều, chỉ có điều chúng nằm ở những chỗ khác. Trên sàn nhà có một vài gói, bọc, được chằng lại bằng dây và giữa chúng là chiếc hòm da. Rõ ràng đồ đạc đã được đóng gói lại cho một chuyến đi đã dự định trước.
Mặc dầu có sự dịch chuyển như vậy, những chai uýtki lớn vẫn đứng trong góc nhà ở chỗ thường xuyên của nó trước đây. Felim vẫn thường nhìn nó nhiều hơn những đồ vật khác trong phòng. Bởi vì dù hắn có nhìn đi đâu chăng nữa thì mắt hắn vẫn trở về với cái chai quyến rũ nằm trong cái giỏ đan bằng cành liễu kia.
- A, kho báu của ta, mi lại ở đây! - Hắn nói, sau khi nhìn vào cái chai có lẽ phải đến hai chục lần – Đúng là cái bụng tuyệt diệu của mi chứa phải đến hơn hai kvart (đơn vị đo dung tích khoảng hơn 1 lít). Hẳn là không ai kiểm tra mi. Nếu chỉ một phần mười trong đó rơi vào dạ dày ta, thì điều này cũng chẳng hại gì cho sự tiêu hóa! Không phải thế ư, hở Tara. Mày nghĩ sao, bạn già của ta?
Nghe thấy tên mình, con chó ngẩng đầu lên, nhìn quanh dò hỏi, dường như nó muốn biết người ta cần gì tới nó.
Sau khi hình như hiểu ra, người hầu nói một mình, con chó lại nằm xuống.
- Có thế, mày không trả lời ta, bạn cũ ạ! Tự ta biết điều này. Giá được một ly thì hay! Nhưng tao không dám uống một giọt nào! Vì sau đó cậu chủ sẽ nói gì. Hôm nay ta đã khổ sở vì những trò dọn dẹp này. Lưỡi ta dính chặt vào cổ họng như nuốt phải cao dính vậy! Đáng buồn là cậu Moric đã bắt ta thề không động đến rượu! Thế thì cái chai kia cần cho ai mới được chứ? Cậu đã nói rằng khi cậu từ khu cư dân trở về, cậu chỉ ở đây thêm một đêm nữa thôi. Trong một buổi chiều cậu làm sao uống hết hơn hai kvart được! Có lẽ chỉ có ông già tội lỗi Xtump kia sẽ cùng đến với cậu chủ… Quỉ tha ma bắt lão say rượu đi! Sao mà ông ta uống lắm thế! Chỉ có một điều an ủi: sáng danh Chúa, cuối cùng thì chúng ta sẽ trở về Balibalax cũ của chúng ta! Và khi đó ta mới được uống thứ uýtky chính cống chứ không phải thứ đồ dởm của Mỹ này! Híp híp, hoan hô!
Quay chiếc mũ bông của mình dưới trần nhà, gã Iếclăng mơ mộng này “hoan hô” thêm mấy lần nữa. Sau đó, khi hơi bình tâm lại, hắn ngồi yên nghĩ ngợi một lúc, như đang lựa chọn trong óc những thứ tốt đẹp đang chờ đợi hắn ở Balibalax.
Nhưng ý nghĩ của hắn lại nhanh chóng trở lại căn lều và hướng tới chiếc chai trong góc nhà. Lần này hắn nhìn chiếc chai với vẻ thèm khát rõ rệt.
- Của quí của ta ơi! – Felim vừa nói vừa nhìn chiếc chai – Sao mà mi đẹp thế! Mà mi lại chẳng dành cho ta, nếu ta hôn mi một lần nhỉ? Chỉ một cái hôn thôi! Có gì xấu đâu nào? Thậm chí cậu chủ cũng chẳng nói gì, nếu cậu ấy có nhớ rằng cậu đã bắt ta thề. Ta nuốt đã bao nhiêu bụi rồi. Vả lại, tất nhiên, cậu ấy không cho rằng ta sẽ giữ được lời hứa. Mà ta lại sắp ra đi, không lẽ không làm trơn cổ họng trước khi lên đường? Thiếu điều này là không nên, sẽ không đi đâu được. Ta sẽ nói với cậu chủ như vậy: cậu ấy đã muộn mất mười tiếng đồng hồ. Ta sẽ nói rằng ta chỉ uống có một giọt, vì ta rất lo cho cậu. Có lẽ cậu sẽ chẳng nói gì đâu. Ta chỉ ngửi một chút thôi, mặc kệ, mặc cho số phận… Nằm xuống, Tara, ta không đi đâu cả.
Con chó nhổm dậy vừa nhìn Felim đi về phía cửa.
Nhưng Tara không hiểu ý định của Felim. Hắn ra cửa để nhìn xem, có xuất hiện cậu chủ trên con đường mòn dẫn tới căn lều hay không, liệu chàng có bắt gặp hắn đang thực hiện cái việc mà hắn vừa nghĩ ra không.
Sau khi quả quyết rằng không có ai, Felim vụt vào trong nhà, mở nút chai, nhấc lên môi và tu một hơi, còn xa mới là “một giọt”.
Đặt chai rượu vào chỗ cũ xong, gã Iếclăng lại ngồi lên chiếc ghế đẩu.
Hắn ngồi rất lâu, lòng đầy thỏa mãn sau đó lại nói một mình, lúc thì quay ra với con chó, lúc thì quay ra chiếc chai đựng trong chiếc giành liễu.
- Ta không hiểu sao cậu chủ lại vắng mặt lâu vậy! Cậu đã hứa trở về lúc tám giờ sáng, mà giờ đây phải đến sáu giờ chiều rồi, nếu như mặt trời Tếchdát không lừa dối ta. Không lẽ có cái gì đó giữ cậu chủ lại… Tara, mi nghĩ thế nào?
Lần này Tara quả quyết hắt hơi – Nó bị tro vào mũi.
- Thánh Patric quang vinh! Không xảy ra việc gì chứ? Chúng ta sẽ ra sao đây hở Tara? Ôi này, con chó già của ta! Bây giờ ta với mi sẽ còn rất lâu mới nhìn thấy Balibalax. Không lẽ chỉ có bán những đồ vật của cậu chủ thôi ư? Chiếc cúp bằng bạc ròng, nó là một thứ để trả tiền đi đường cho ta. Quỉ tha ma bắt, ta nghĩ ra gì nhỉ: ta chưa bao giờ uống trong cái bình xinh đẹp này! Chắc là uống như thế sẽ ngon hơn. Cần phải thử mới được – Bây giờ là thời gian thích hợp đây.
Nói điều này rồi hắn lôi chiếc cúp ra khỏi rương, mở chai rót ra nửa cốc rượu.
Sau khi tu liền một hơi, Felim liếm môi, như đang kiểm tra chất lượng của rượu.
- Quỉ mà biết được, như thế có ngon hơn không - Hắn vừa nói vừa giữ chiếc cúp nơi tay, còn tay kia thì cầm chiếc chai – Nói chứ uống thẳng từ chai ngon hơn, nếu như trí nhớ không đánh lừa ta. Cần phải uống thử từ cái này và từ cái kia một lần, chỉ có lúc bấy giờ ta mới có thể nói, từ cái gì ngon hơn.
Người Iếclăng lại đưa cái chai lên môi, sau vài ngụm hắn ta đặt nó về chỗ cũ. Sau đó hắn lại đăm chiêu tặc lưỡi như một người sành chính cống.
- Mà ta lại lầm lẫn mất rồi - Hắn nói, sau khi lắc đầu – Hoàn toàn không đúng. Dù sao từ cốc bạc cũng ngon hơn. Hay ta tưởng thế thôi? Cần phải kiểm tra, đến phải uống một lần nữa từ chiếc cúp, mà ta đã hai lần uống từ chai mà chỉ một lần uống bằng chiếc cốc bạc. Sự công bằng mới là quí giá hơn tất cả, trên đời này luật lệ là như vậy. Tại sao ta lại cư xử với chiếc cốc kỳ diệu này tệ hơn đối với chiếc chai to trong giành liễu kia chứ? Như thế là không được, quỉ tha ma bắt!
Chiếc cúp bạc lại xuất hiện trong màn đối thoại, và một phần nội dung chiếc chai lại được rót vào nó, để không một chút ngần ngại biến vào trong cái cổ họng không đáy của Felim.
Cuối cùng hắn quyết định thắng lợi về phía chiếc cúp hay chiếc chai – điều đó không ai biết được. Sau khi nếm xong lần thứ tư, gã Iếclăng dường như nhận thức được rằng như thế là đủ, hắn cất cả hai thứ đi.
Bấy giờ hắn bỗng nghĩ rằng, thay vì ngồi trên chiếc ghế đẩu, hắn cần quyết định đi ra khỏi nhà để ngóng xem chủ hắn về chưa.
- Đi nào, Tara! - Hắn vừa kêu chó vừa bước ra cửa – Đi nào, lên dốc với ta mi sẽ nhìn thấy rõ cậu chủ trên đồng bằng. Cậu chủ sẽ hài lòng khi thấy ta với mi lo lắng cho cậu.
Đi qua khoảng rừng cây mọc trong thung lũng con sông, gã Iếclăng cùng con chó trèo lên dốc và lọt vào ngay mép đồng cỏ.
Nó chạy dài về phía Đông trên một khoảng gần một dặm.
Mặt trời đang lặn chiếu vào lưng Felim. Trên đồng cỏ bằng phẳng đôi chỗ nhô lên những cây xương rồng hay cây ngọc giá đơn độc. Không có gì bị che khuất nơi xa. Thậm chí chó sói cũng không thể chạy qua đây mà không bị nhìn thấy.
Phía xa, tận chân trời nhìn rõ những dải rừng màu xanh thẫm.
Felim im lặng nhìn về hướng đó, chủ của hắn phải trở về từ nơi đó.
Hắn không phải đợi lâu. Từ trong rừng cây nơi chân trời xuất hiện một kỵ sĩ, hướng thẳng tới Alamô. Mặc dầu họ còn cách nhau đến cả dặm nhưng người hầu trung thành lập tức nhận ra đó là chủ mình. Chiếc xerap có vằn, may bằng vải dệt của những bộ lạc da đỏ, mà Moric luôn luôn mang theo khi đi đường, hắn không thể không nhận ra. Những dải màu rực rỡ - đỏ trắng, xanh nổi rõ trên nền đồng bằng.
Thật ra Felim cũng ngạc nhiên, tại sao chủ hắn lại quàng xerap trên vai trong gió nóng ngột ngạt như vậy, thay vì cuộn nó lại và buộc vào yên ngựa.
- Tara, chó nhỏ của ta! Sao lạ quá! Bây giờ đang nóng thế, nóng đến rán thịt trên đá được mà cậu chủ chẳng hề để ý. Cậu không bị cảm trong cái ổ của Ôbeđôphê chứ? Cái túp lều của ta – còn là lâu đài nếu đem so với nó. Đến lợn cũng không muốn sống ở đó.
Felim im lặng quan sát kỵ sĩ một lúc nữa. Người đó chỉ còn cách một đoạn nửa dặm.
- Lạy Chúa tôi! – Felim kêu lên - Cậu ấy nghĩ ra cái trò gì thế nhỉ? Cậu ấy kéo xerap lên đầu… Không, đây chính là cậu ấy, có lẽ đùa Tara ạ. Cậu ấy muốn làm ta với mi ngạc nhiên. Cậu ấy định trêu chọc chúng ta… Chúa ơi, cái gì thế này! Hình như cậu ấy không có đầu. Đúng rồi, không! Thế này là nghĩa thế nào? Lạy Thánh nữ! Nếu ta không biết trước đó là cậu chủ thì ta có thể chết vì sợ mất! Cậu chủ đó chăng? Cậu chủ ta hình như cao hơn ấy chứ. Còn cái đầu? Thánh Patric ôi, cứu với, đầu đâu rồi? Chắc gì đã ở dưới xerap. Không giống… Thế này nghĩa là thế nào Tara?
Trong giọng vủa gã Iếclăng thấy rõ sự khiếp hãi, đồng thời khuôn mặt hắn méo xệch đi. Con chó đứng trước Felim một đoạn cũng run lên. Nó hơi nhổm dậy như sẵn sàng lao ra phía trước. Cặp mắt sợ hãi của nó dán vào người kỵ sĩ, mà giờ đây chỉ còn cách họ khoảng năm mươi bước.
Khi Felim vừa nói dứt câu cuối, kết thúc bài độc thoại dài, Tara bỗng rú lên một cách thương tâm, dường như trả lời hắn.
Tiếp theo đó, con chó, hình như linh cảm thấy cái gì đó chẳng lành, nó vọt khỏi chỗ lao tới gặpcái hình dạng kỳ dị kia, cái hình dạng làm nó và Felim ngỡ ngàng.
Vừa chạy nó vừa tru lên từng hồi, tiếng sủa của nó bây giờ hoàn toàn không giống tiếng sủa mượt mà âu yếm mà nó thường làm khi đón chào chàng Muxtangher trở về nhà.
Không ngừng sủa, Tara chạy tới gần người kỵ sĩ. Con ngựa tía mà Felim từ lâu đã nhận ra là con ngựa của chủ mình bỗng quay phắt lại và phi đi.
Khi con ngựa quay đi, Felim nhìn thấy, hay hắn tưởng là hắn nhìn thấy, và vì thế mà máu hắn như đông lại trong huyết mạch, người hắn lạnh toát.
Hắn nhìn thấy cái đầu - chiếc đầu của người kỵ sĩ, nhưng không phải ở cái chỗ quen thuộc của nó – không phải trên vai, mà ở trong tay người kỵ sĩ, ở mỏ yên phía trước.
Khi thân người kỵ sĩ quay sườn về phía hắn, Felim nhìn thấy, hay là hắn tưởng là hắn nhìn thấy – khuôn mặt đẫm máu đáng sợ, một nửa khuất trong vành chiếc mũ xembrerô.
Hắn không còn nhìn thấy gì thêm nữa. Một giây sau Felim đã quay lưng lại bình nguyên, vắt chân lên cổ phóng hết tốc lực xuống dốc.
-
Chương 44
BỐN NGƯỜI KOMANTRI
Felim bỏ chạy, không hề ngoái lại, không dừng lại, mái tóc hung của hắn dựng đứng lên tí nữa thì làm hất mũ ra khỏi đầu. Lọt vào nhà, hắn đóng ngay cửa lại và chèn bằng những bọc, những gói nằm trên sàn nhà.
Nhưng hắn vẫn cảm thấy không an toàn. Lẽ nào có thể giữ được cửa, thậm chí cài bằng then mà chống lại được bóng ma.
Những gì mà hắn nhìn thấy dĩ nhiên là một bóng ma. Không lẽ một khi nào đó lại gặp được một thứ như vậy? Một người cưỡi ngựa và giữ trong tay chiếc đầu của mình! Lẽ nào có ai đó một khi nào đó lại nghe thấy điều này? Tất nhiên là không, và ít nhất không là Felim Onil.
Sợ đến mất trí, hắn đi tới đi lui trong nhà: lúc thì ngồi xuống ghế, lúc thì len lén nhảy tới gần cửa, cho dù hắn không dám mở, thậm chí không dám nhìn qua khe hở.
Chốc chốc hắn lại tự giật tóc mình, lấy hai tay bóp chặt thái dương và chùi mắt, như cố gắng khẳng định rằng hắn không nằm mê mà thật sự đã nhìn thấy cái hình bóng khủng khiếp kia.
Chỉ có một chi tiết làm Felim yên tâm đôi chút: lúc chạy xuống dốc, khi đầu hắn còn ló lên khỏi mép dốc, liếc lại hắn thấy người kỵ sĩ không đầu đã cách xa Alamô và đang phi nước đại vào rừng.
Nếu không có sự hồi tưởng này, gã Iếclăng đang quay cuồng trong căn lều kia chắc còn khiếp hãi hơn.
Một lúc sau Felim mới hơi hồi tỉnh lại, nếu không phải vậy thì ít nhất cũng là hồi phục khả năng suy nghĩ và nói. Bấy giờ hắn mới tuôn ra những lời ca thán và những câu hỏi vô tận. Lần này thì đúng là hắn nói một mình. Con Tara không còn ở cạnh hắn nữa, nên không thể tham gia vào câu chuyện.
Hắn thì thầm, dường như sợ ai đó nghe trộm sau bức tường của ngôi nhà.
- Lạy Chúa tôi! Không thể thế được! Không phải là cậu ấy! Lạy thánh Patric, hãy cứu lấy con? Nhưng đó là ai cơ chứ? Mà tất cả đều giống như cậu ấy! Nào ngựa, nào xerap vằn, ủng nơi chân và cả cái đầu nữa… nhưng chỉ có điều đó không phải là mặt cậu ấy. Ta đã nhìn thấy khuôn mặt ấy chỉ có điều là ta không nhớ ra. Ở đấy máu cả là máu! Chao ôi! Đó không thể là cậu Moric được! Không! Không! Đó là một giấc mơ. Ta đã ngủ và ta mơ thấy tất cả những cái này. Có thể uýtki có lỗi? Nhưng ta có say lắm đâu, để đến nỗi nhìn ra như vậy. Chỉ có thế thì chưa thể say được. Ta đã từng uống gấp đôi như vậy. Mà đâu có sao, thậm chí không líu lưỡi. Ôi, Chúa tôi! Mà nếu ta có say, sao bây giờ ta lại tỉnh được? Mà nó diễn ra chỉ trong khoảng nửa giờ, khi ta nhìn thấy tất cả những cái này, ta tỉnh táo như quan tòa vậy. Đúng vậy, bây giờ là lúc phải uống vài giọt. Nếu không như vậy thì ta sẽ trằn trọc cả đêm không nhắm được mắt mất. Cơn mê sảng này là cái gì vậy? Cậu chủ ở đâu nếu đấy không phải là cậu? Thánh Patric quang vinh, hãy cứu con, con người cô đơn đáng thương này, bởi xung quanh hắn ta chỉ toàn là ma quỉ thôi…
Sau khi cầu nguyện, gã Iếclăng kia hướng tới một ông chúa khác, được biết tiếng xưa nay dưới cái tên thần Băck (thần rượu, theo thần thoại Hy Lạp).
Vị thần sau này đã nghe lời cầu nguyện của hắn. Một giờ sau khi Felim quì gối trước bàn thờ của thần, được thể hiện trong hình tượng chiếc chai uýtki nguyên chất, hắn đã nằm thẳng cẳng trên sàn nhà, được giải thoát khỏi tất cả những nỗi sợ hãi, không chỉ quên đi cái cảnh tượng rùng rợn mà thậm chí không còn nhớ gì đến sự tồn tại của chính bản thân mình.
-o0o-
Trong căn lều của Moric-Muxtangher không còn nghe thấy một tiếng động nào - thậm chí chiếc đồng hồ cũng thôi dùng tiếng tích tắc của mình nhắc nhở rằng thời gian đã đi vào cõi vô cùng và một đêm nữa lại trùm xuống mặt đất.
Tiếng động chỉ nghe thấy được bên ngoài. Đó là những tiếng động quen thuộc - tiếng rừng ban đêm: dòng nước reo, những cành lá lo âu thì thầm, những con ve sầu kêu ri rỉ. Thỉnh thoảng vang lên tiếng gào của một con thú nào đó…
Đã tới nửa đêm, mặt trăng mọc lên chiếu rực rỡ, như trong một buổi sớm vậy. Những tia sáng vàng tỏa trên mặt đất, xuyên tận vào trong rừng và trải những dải sáng giữa những bóng cây đen thẫm.
Ngả những cái bóng của mình dưới ánh trăng, một vài kỵ sĩ đang đi.
Chúng không nhiều. Tất cả chỉ có bốn người, nhưng bộ dạng của chúng làm người ta dễ khiếp sợ. Những tấm thân trần màu đỏ, mặt vẽ ngoằn ngoèo, những túm lông như lửa nhô lên trên đầu, vũ khí sáng quắc trong tay. Tất cả biểu hiện cho một sức mạnh hoang dại và nguy hiểm.
Chúng từ đâu đến?
Chúng bận trang phục chiến đấu của người Komantri. Hãy nhìn vào sự vũ trang của chúng, những chiếc mũ với những lông chim ưng dài, những cánh tay và bộ ngực trần, những chiếc quần bằng da hươu – và bạn nhận ra ngay chúng là những người da đỏ đang đi ăn cướp.
Đây có phải là những thành viên của Bộ tộc Komantri, mà nếu như vậy thì chúng phải tới từ hướng Tây.
Chúng đi đâu?
Câu hỏi này trả lời không có gì khó. Bọn kỵ sĩ hướng về phía căn lều, nơi Felim say mê mệt đang nằm trong đó. Rõ ràng mục tiêu tấn công của chúng: căn lều của Moric-Muxtangher.
Nếu không có ý định thù địch thì chúng bận chiến phục làm gì và tại sao chúng tiến tới căn lều một cách thận trọng như vậy.
Cách lều không xa, bọn kỵ sĩ xuống ngựa, buộc chúng vào những gốc cây và tiếp tục đi bộ.
Chúng chuyển động kín đáo, cố gắng không gây tiếng động trên lá rụng và ẩn mình vào bóng tối. Chốc chốc chúng dừng lại chăm chú quan sát, nghe ngóng, kẻ cầm đầu ra dấu cho cả bọn bằng cử chỉ. Rõ ràng chúng muốn lọt vào nhà sao cho những người bên trong không hay biết.
Dường như chúng đã thành công hoàn toàn. Chúng đã tới cạnh bức tường và nhìn chung, không ai nhìn thấy chúng hết.
Trong căn nhà im ắng hoàn toàn, cũng như cách chúng hành động vậy. Từ trong đó không vọng ra một tiếng động nào, thậm chí cả tiếng kêu của một con dế mèn.
Chỉ có một trong số những người cư trú trong ngôi nhà là có mặt ở nhà. Mặc dầu người đó đã uống đến mức không chỉ mất khả năng nói, ngáy, mà thậm chí còn không thể thở lớn được, Felim đã ở trong trạng thái như vậy.
Bốn người Komantri lên đến cửa và thận trọng xem xét.
Cửa đóng, nhưng còn các khe hở.
Chúng kề tai vào những khe hở và nín thở nghe ngóng.
Không nghe tiếng ngáy, cũng không có cả tiếng thở.
- Có thể… - Tên cầm đầu nói với một người trong số đồng bọn bằng một thứ tiếng Tây Bay Nha thuần khiết – Có thể hắn còn chưa quay về nhà. Mặc dầu xét cho đúng ra hắn phải có mặt ở đây từ lâu. Có thể hắn lại đi đâu đó chăng? Ta nhớ rằng, sau nhà phải có chái dành cho ngựa. Nếu tên Muxtangher có trong nhà, thì chúng ta phải thấy con ngựa tía ở đó. Hãy chờ ở đây, để tôi ra đấy xem.
Qua vài giây là đủ để quan sát cái chuồng ngựa thô sơ. Chuồng ngựa trống toang.
Cũng bằng ngần ấy thời gian để quan sát con đường dẫn tới chuồng ngựa. Ở đó không có những vết ngựa, ít nhất những vết còn mới.
Xác định xong điều này, tên cầm đầu quay lại với đồng bọn còn đứng cả ở cửa.
- Thật đáng nguyền rủa! - Hắn kêu lên, không còn hạ giọng nữa - Hắn không có ở đây ngày hôm nay.
- Cần phải vào lều và kiểm tra xem - Một tên trong số chiến binh đề nghị bằng giọng Tây Ban Nha - Chẳng có gì là ngu ngốc nếu ta thử xem tay Iếclăng này sắp xếp nơi ở của hắn như thế nào trong đồng cỏ.
- Thì ta vào – Tên thứ ba trả lời cũng bằng ngôn ngữ của Xecvăngtex – Nhìn vào kho của hắn thử xem nào. Tôi đói đến nỗi có khả năng xơi được cả thịt sống cơ đấy.
- Thề có Chúa! – Tên thứ tư thêm, và tên cuối cùng này cũng nói bằng thứ ngôn ngữ êm tai như vậy – Tôi nghe nói hắn cũng có hầm nhà. Nếu như vậy…
Tên cầm đầu không cho hắn nói hết câu. Việc nhắc tới hầm nhà gây nên phản ứng kỳ diệu nơi hắn, hắn lập tức bắt tay vào công việc.
Hắn dùng chân đạp vào cửa.
- Mẹ kiếp! Bị khóa từ phía trong. Để khi hắn đi vắng không có ai có thể vào được - cả sư tử, cả hổ, cả gấu, cả bò rừng, cả ha ha ha! Bọn da đỏ!
Một cú đạp mạnh bằng chân nữa vào cửa. Nhưng vẫn không kết quả.
- Bị chèn từ bên trong bằng một cái gì đó khá nặng. Không mở được. Được rồi, ta thử xem, cái gì trong đó.
Hắn rút dao găm ra khỏi bao. Trên tấm da ngựa hoang căn trên khung gỗ nhẹ hiện ngay ra một lỗ lớn.
Người da đỏ thò tay vào phía trong và cảm thấy ngay vật chướng ngại.
Những bọc và gói nhanh chóng bị hất ra khỏi chỗ và cánh cửa mở ra toang hoang.
Những người rừng bước vô. Ánh trăng tràn vào căn lều qua cánh cửa mở rộng.
Trong nhà một người nằm thẳng cẳng trên sàn.
- Mẹ kiếp!
- Hắn ngủ à?
- Hắn chết rồi, chắc vậy, nếu không thì đã nghe thấy tiếng chúng ta.
- Không! – Tên cầm đầu vừa nói, vừa cúi xuống người đang nằm - Chỉ say như chết thôi. Đây là tên hầu của Moric-Muxtangher. Ta biết nó. Nhìn hắn, ta thấy ngay rằng chủ hắn không có nhà. Ta hy vọng, con vật này còn chưa khoét rỗng hết kho, đế đến nỗi rơi vào tình trạng này. A-ha một chai! Thơm nức như hoa hồng. Đức mẹ quang vinh, có phần cho chúng ta rồi.
Chỉ vài giây sau, chỗ còn lại của uýtki đã bị nốc sạch. Mỗi người đủ một hơi, và phần của tên cầm đầu nhiều hơn. Mặc cho địa vị cao của mình, hắn không đủ lịch sự để phản đối sự chia chác không công bằng này.
Cái gì tiếp tục?
Sớm hay muộn gì người chủ cũng phải quay về.
Khách, rõ ràng là muốn gặp chủ nhà. Không thì họ đến đây trong một giờ khuya khoắt Như vậy để làm gì? Đặc biệt tên cầm đầu muốn chờ gặp chàng.
Bốn người da đỏ cần gì ở Moric-Muxtangher.
Điều này có thể biết được từ những câu chuyện của chúng. Chúng chẳng giấu nhau điều gì.
Chúng muốn giết chàng!
Điều này có ích cho tên cầm đầu. Bọn còn lại chỉ là đồng mưu và là những tên giúp việc.
Sự việc quả là nghiêm trọng. Đây không phải chuyện đùa. Hắn nhận việc này vì số tiền một nghìn đôla và thỏa mãn nỗi khao khát trả thù. Ba trên đồng bọn mỗi đứa sẽ nhận một trăm đôla.
Độc giả chắc đã rõ, những kẻ nào đang giấu mặt dưới các mặt nạ của dân da đỏ. Bọn Komantri này chính là những người Mếchxich, kẻ cầm đầu chúng – Miguel Điac, tay săn ngựa.
- Cần phải phục kích – “Sói đồng” nói. Bây giờ chắc hắn sắp quay về rồi. Barahô, lên dốc xem chừng khi nào hắn xuất hiện trên đồng cỏ. Những người còn lại ở đây với tôi. Hắn sẽ về đây từ phía sông Lêông. Chúng ta có thể đón hắn dưới gốc cây trắc bá lớn. Đấy là chỗ thích hợp nhất.
- Ta kết liễu tên này đi là tốt hơn chăng? – Tên Barahô khát máu vừa đề nghị vừa chỉ vào Felim – May thay hắn chẳng biết gì xảy ra xung quanh.
- Người chết không làm lộ bí mật! - Một tên khác nói tiếp.
- Ngược lại người chết cũng làm lộ bí mật – Điac phản đối – Và để làm gì? Hắn không tốt hơn là chết ấy à, cái thằng say bất hạnh. Để hắn sống, ta chỉ nhận giết chủ hắn thôi. Đi đi, Barahô, nhanh nhanh lên ra đầu dốc ấy. Đông Morixiô có thể xuất hiện vào bất cứ lúc nào. Cần phải hành động chính xác. Có thể chúng ta không bao giờ còn có cơ hội như thế này nữa. Lêo lên bờ dốc đi. Trong ánh sáng như thế này anh sẽ nhìn thấy rõ hắn từ xa. Hắn vừa xuất hiện, lập tức đến báo cho chúng ta ngay. Đừng trù trừ, làm sao ta phải kịp bố trí phục kích dưới cây trắc bá.
Barahô tuân lệnh, nhưng với vẻ không bằng lòng rõ rệt. Hắn không may trong đêm vừa qua - hắn thua bạc “Sói đồng” khá nặng và đang muốn gỡ lại. Hắn biết quá rõ rằng hắn đang là con nợ.
- Nhanh lên cho, xenho Vixent! – Khi nhận thấy vẻ do dự của tên đồng bọn, Điac lên giọng chỉ huy - Nếu chúng ta bị thất bại, ngài sẽ mất nhiều hơn khi ở chiếu bạc đấy. Đi đi! – “Sói đồng” nói tiếp bằng một giọng khích lệ - Nếu trong vòng một giờ hắn không xuất hiện, sẽ có người khác lên thay anh. Đi đi.
Baraho tuân lệnh, hắn ra khỏi lều, để đến cái chòi canh của mình trên đỉnh dốc.
Những tên còn lại nghỉ trong lều, nơi chúng đã thắp nến lên.
Trên chiếc bàn trước mặt chúng xuất hiện không phải là bữa ăn tối mà là bộ bài Tây Ban Nha, người bạn đường trung thành của những tay du đãng người Mếchxich.
Những con đầm, con bồi được rải ra trên bàn và ván bài bắt đầu. Trong cơn say cờ bạc thời gian qua nhanh không nhận thấy, một giờ đã trôi qua.
Sói đồng giữ cái.
Những tiếng kêu “Con đầm chết rồi!”, “Con bồi ăn” chốc chốc lại vang lên trong những bức tường căng bằng những tấmda ngựa hoang của căn lều. Những đồng đôla kêu xủng xoảng trên bàn. Những con bài kêu sột soạt khe khẽ.
Nhưng một tiếng rú thất thanh cắt ngang trò chơi.
Đó là người say rượu vừa tỉnh lại kêu lên, khi nhìn thấy một lũ người lạ lùng như vậy đang tập hợp dưới mái nhà mình.
Những con bạc liền nhảy ra khỏi bàn và cả ba tên đều tuốt dao găm ra. Sự sống của Felim chỉ còn treo trên sợi tóc.
Một sự tình cờ đã cứu sống người Iếclăng.
Trên cánh cửa bỗng xuất hiện Barahô thở hổn hển.
Phải nói rằng, không cần một lời giải thích nào, nhưng hắn vẫn khó nhọc thì thầm:
- Đến rồi! Đã gần đến bờ dốc… Nhanh lên, các bạn, nhanh lên!
Gã Iếclăng thoát vì chúng không còn thời gian để giết anh ta. Trước mắt chúng còn một cuộc giết người có lợi hơn.
Vài giây sau, bọn giả trang đã ở dưới chân dốc, nơi mà người kỵ sĩ phải theo đó đi xuống.
Chúng chuẩn bị trận phục kích dưới một cây trắc bá lớn, chờ vật hy sinh đang tiến lại gần.
Lúc sau tiếng vó ngựa vang lên. Nghe rõ tiếng cá sắt, nhưng tiếng động không đều đặn dường như con ngựa đang đi trên một bề mặt nhấp nhô, chắc là kỵ sĩ đang xuống dốc.
Nhưng còn chưa nhìn thấy kỵ sĩ. Dốc chìm trong bóng tối, bởi thung lũng con sông bị những bóng cây che khuất, chỉ có những chỗ gần nơi bọn giết người đang nấp có một dải ánh trăng hẹp. Nhưng con đường mòn không đi qua đó. Người kỵ sĩ phải đi qua cây trắc bá.
- Đừng giết hắn! – Miguel Điac thì thầm bằng một gịong ra lệnh – Ta cần hắn sống trong một hoặc hai giờ. Ta có những nguyên nhân riêng. Hãy túm lấy ngựa của hắn. Không nguy hiểm đâu! Bởi chúng ta tấn công bất ngờ hắn sẽ không kịp trở tay. Nếu hắn chống cự, chúng ta sẽ bắn. Nhưng tôi bắn đầu tiên!
Đồng bọn hứa sẽ thực hiện hiệu lệnh này.
Chúng sắp có khả năng chứng minh sự chân thành và lời hứa của chúng. Người mà chúng đang chờ đã xuống hết dốc và đang đi vào bóng của cây trắc bá.
- Đả đảo vũ khí! Xuống ngựa đi! – “Sói đồng” vừa thét lên vừa túm lấy cương ngựa, ba tên cùng xông vào người kỵ sĩ.
Người đó không biểu thị một chút kháng cự nào, không lùi lại, không giật lấy dao, không bắn và thậm chí cũng chẳng kêu lên vì ngạc nhiên.
Trước mặt chúng, người kỵ sĩ ngồi vững vàng trên yên chúng chạm vào tay anh ta, nhưng anh ta hầu như không hề cảm thấy.
Chỉ có con ngựa là chống lại. Nó sựng lại, giật lùi và kéo theo sau mình bọn người tấn công thẳng tới vệt sáng trăng.
Chúa lòng lành ôi! Cái gì vậy?
Bọn người Mếchxich, tất cả như một, nhảy lùi lại, cùng rú lên và bỏ chạy. Đó là những tiếng rú của nỗi khiếp hãi man rợ.
Không quá một giây sau chúng đã không còn dưới gốc cây trắc bá nữa – chúng đang chạy bán sống bán chết và rừng, nơi những con ngựa đang bị buộc.
Cuống cuồng, run lên bần bật, chúng thót lên yên và phi hết tốc lực.
Chúng đã nhìn thấy cái làm sửng sốt và khiếp hãi đến cả những trái tim còn can đảm hơn: chúng nhìn thấy kỵ sĩ không đầu.
-
Chương 45
DẤU VẾT RỜI RẠC
Đấy là một bóng ma chăng? Bởiđ ó không thể là con người được! “Sói đồng” và đồng bọn khiếp hãi của hắn tự hỏi mình như vậy. Felim quá sợ hãi cũng hỏi mình như vậy khi hắn còn chưa hoàn toàn lú lẫn đi. Nếu không có chiếc chai thì hắn còn chưa tạm quên đi nỗi khiếp hãi của mình.
Và những người đã nhìn thấy kỵ sĩ không đầu - những người cùng đi với ông thiếu tá – Cũng nghĩ như vậy.
Cái bóng ma kinh hoàng này hiện ra trước mắt họ vào những giờ sớm hơn cách năm dặm xa hơn về phía Đông.
Nó đã hiện ra từ phía Tây: Mặt trời làm mờ mắt họ: họ chỉ phân biệt được hình dáng của nó và không thấy được gì hơn, để làm cho nó giống như Moric-Muxtangher.
Felim đã nhìn thấy kỵ sĩ không đầu khi hắn quay lưng về phía mặt trời lặn, gã Iếclăng chú ý thấy nó giống chủ mình mặc dầu anh ta không chắc có thật là chủ mình không.
Bốn người Mếchxich, biết rõ Muxtangher, đã nhìn thấy người kỵ sĩ kỳ dị này trong ánh trăng cũng đi đến kết luận như vậy.
Felim và những người Mếchxich đã trải qua nỗi khiếp sợ rùng rợn khi nhìn thấy kỵ sĩ không đầu.
Mặc dầu những người tham gia tìm kiếm không đến nỗi quá khiếp sợ cái hiện tượng khủng khiếp này, nhưng họ cũng không biết giải thích như thế nào.
Trước lúc nó biến mất không một ai trong số họ thử tìm cách giải thích nếu không tính đến những nhận xét khôi hài của một cựu dân ở Tếchdát.
- Các ngài nghĩ gì về điều này, thưa các ngài? Viên thiếu tá hướng về những người đồng hành của mình hỏi - phải công nhận rằng tôi không hiểu gì hết.
- Một thủ đoạn của bọn da đỏ chăng? Có ai đó giả định – Con mồi để dử chúng ta vào bẫy chăng?
- Một con mồi quá tệ, tôi có thể khẳng định như thế - Một người khác nhận xét – Tôi, ít nhất, một con mồi như vậy không nhử được tôi.
- Tôi cho rằng bọn da đỏ ở đây chẳng là gì hết – Viên thiếu tá nói – Anh nghĩ thế nào về điều này hở Xpengler?
Người dò vết chỉ lắc đầu.
- Không lẽ đây là người da đỏ giả trang? – Viên thiếu tá lại hỏi anh ta.
- Tôi không biết gì hơn ngài, thưa thiếu tá – Người dò vết trả lời – Có lẽ một cái gì đó na ná như thế. Một trong hai: hoặc là người, hoặc là hình nộm.
- Tất nhiên, đó là hình nộm - Một vài người kêu lên với một vẻ nhẹ nhõm trông thấy.
- Dù là ai đi chăng nữa, người, quỷ hay là hình nộm, một thành viên trong đội tuyên bố, người đầu tiên đưa ra ý kiến của mình – Tôi không hiểu sao, chúng ta lại không tìm hiểu xem, dấu vết của nó đi đến đâu, tất nhiên nếu như nó để lại những dấu vết.
- Chúng ta sẽ biết ngay thôi – Xpengler trả lời - Dấu vết mà chúng ta đang theo cũng hướng tới phía này, có thể lên đường tiếp được chưa, thưa thiếu tá?
- Tất nhiên, những thứ vớ vẩn như vậy không thể quấy rầy cuộc tìm kiếm của chúng ta. Tiến lên!
Các kỵ sĩ phi về phía trước. Một vài người trong số họ không phải là không dao động. Trong đội có những người quay lui, dường như họ được quyền bất tuân thượng lệnh. Kôlhaun thuộc vào số đó. Khi nhìn thấy kỵ sĩ không đầu, hắn đờ người đi vì sợ hãi, đôi mắt hắn trở nên trong suốt như thủy tinh, môi tái ngắt, hàm dưới trễ xuống, khó khăn lắm hắn mới giữ được khỏi run lên bần bật.
Khuôn mặt hắn biến dạng đi vì khiếp đảm, điều đó tất nhiên sẽ làm mọi người chú ý nếu không có nỗi kinh hoàng chung. Nhưng tất thảy mọi người đều không rời mắt nhìn kỵ sĩ không đầu cho đến khi bóng ma kỳ dị kia biến mất. Khi đội ngũ đã lên đường, viên đại úy đi hàng cuối cùng, và không ai để ý đến hắn.
Xpengler nói đúng: chỗ người kỵ sĩ bí ẩn hiện ra trong khoảnh khắc lại nằm đúng trên con đường đi của đội ngũ.
Nhưng ở đó chẳng thấy một dấu vết nào, dường như thật sự đó là một bóng ma.
Nhưng thêm vào đó, điều này lại được giải thích một cách đơn giản. Ở đó, nơi con ngựa quay đi, và còn nhiều dặm tiếp theo, mặt đất bị phủ đầy đá dăm trắng. Những người đi săn thường gọi chỗ này là “đồng cỏ đá phấn”. Đôi chỗ đá bị xê dịch hoặc bị xước – rõ ràng là bởi cá sắt. Tuy vậy chỉ có con mắt của người dò đường dày dạn mới có thể nhận ra những dấu vết như vậy.
Dấu vết mà họ tìm kiếm biến mất, dấu vết của con muxtang đã được thuần hóa. Đất còn lại bị đào bới rất nhiều bởi một đàn ngựa hoang đã đi qua đây không lâu, vậy cho nên tìm cho ra một dấu vết nào đó xác định là không thể được.
Họ có thể đi tiếp về hướng mà kỵ sĩ không đầu đã đi. Mặt trời cho hay những ngôi sao buổi chiều có thể chỉ đường cho họ. Nhưng họ quan tâm đến người kỵ sĩ trên con muxtang đóng móng hơn. Nửa giờ sau, khi ánh nắng ban ngày tắt, cuộc tìm kiếm uổng công kết thúc. Dấu vết biến vào đồng cỏ đá phấn.
Khi mặt trời lặn hẳn, Xpengler nói rằng, không thể làm được gì thêm nữa.
Đành phải quay trở lại và đóng trại ở bìa rừng.
Họ quyết định cuộc tìm kiếm sẽ lại bắt đầu vào lúc trời sáng.
Mặc dầu vậy, họ đã không làm được điều này, ít nhất là vào thời gian đã định. Một tình thế bất ngờ đã cản trở nó.
Họ chưa kịp hạ trại thì xuất hiện người đưa thư đem công văn hỏa tốc đến cho ngài thiếu tá. Giấy từ bộ tham mưu Xanh Antôniô de Bakhar thuộc bộ chỉ huy vùng. Nó được gửi tới đồn, và từ đồn được mang tới đây.
Thiếu tá ra lệnh đóng yên ngựa, và trước khi mồ hôi kịp khô đi trên những con ngựa mệt lả, các kỵ sĩ đã lại ngồi lên chúng.
Công văn hỏa tốc báo cho biết về sự xuất hiện của bộ lạc Komantri ở các vùng thuộc Xanh Antôniô, khoảng năm dặm về phía Bắc sông Lêông.
Bây giờ không còn là những cuộc đối thoại vô bổ nữa, mà đã bắt đầu những vụ đốt phá và giết chóc.
Viên thiếu tá nhận lệnh, không để mất thời gian, ông tập hợp đội ngũ và gửi ngay họ tới Xanh Antôniô. Điều này giải thích cho sự ra đi vội vã của đội kỵ binh.
Tất nhiên, các chủ đồn điền vẫn có thể tiếp tục cuộc tìm kiếm, nhưng tình bạn và thậm chí cả tình phụ tử phải nhường chỗ cho những nhu cầu bức thiết hơn. Họ lên đường chỉ mang theo vũ khí, bởi vì giờ đây cái đói đang đuổi họ trở về nhà.
Một vài người ở lại với Xpengler để đi theo vết của con ngựa Mỹ mà theo ý kiến của người dò vết phải dẫn đến phía bên kia con sông Lêông. Những người còn lại về đồn cùng với toán kỵ binh.
Trước khi chia tay với Pôinđekter và bạn bè của ông, viên thiếu tá đã kể cho ông nghe về những pháthiện đáng buồn của Xpengler. Tự bản thân ông không thể tham dự vào cuộc tìm kiếm nữa và ông cho rằng những ai tiếp tục nó, cần phải biết tình thế đáng quản ngại này.
Ông không lấy gì làm dễ chịu nêu lên những nghi ngờ chống lại chàng Iếclăng trẻ tuổi, người mà ông rất có cảm tình. Những nghĩa vụ phải cao hơn tất cả. Và mặc dù viên thiếu tá không tin vào những tội lỗi của Moric-Muxtangher, hay đúng hơn ông cho rằng nó có rất ít khả năng. Nhưng ông cũng phải công nhận rằng, những chứng cứ chống lại Moric là rất nghiêm trọng.
Nhưng ngài chủ đồn điền và bè bạn của ông thì không lúc nào là không tin vào tội lỗi của chàng Muxtangher. Giờ đây, khi đã rõ rằng bọn người da đỏ không có tội lỗi gì ở đây, thì mặc nhiên Moric Giêran bị coi là kẻ giết người.
Việc giết người đã được thực hiện như thế nào thì không còn ai nghi ngờ. Câu chuyện của Ôbeđôphê làm sáng tỏ đoạn đầu của tấn thảm kịch. Con ngựa của Henri Pôinđekter với chiếc yên đẫm máu là cái kết cục của nó. Những mắt xích đứt đoạn cũng không khó gì mà không dựng lại được từng phần dựa theo những chứng cớ tìm thấy của Xpengler kèm theo dự đoán.
Mặc dầu vậy, không ai suy nghĩ một cách nghiêm túc về những gì xô đẩy chàng Muxtangher đến tội ác này. Đối với mọi người, cuộc cãi lội với Kôlhaun dường như là một nguyên nhân đầy đủ. Rõ ràng Giêran đã mang sự căm thù đối với Kôlhaun đến cho tất cả gia đình Pôinđekter.
Điều này không được lôgic cho lắm, nhưng những con người đang tìm kiếm thủ phạm thường khó mà suy luận lôgic được. Họ chỉ nghĩ đến việc trừng phạt chàng.
Với ý nghĩ này những người tham gia tìm kiếm giải tán, họ cần phải gặp nhau vào sáng hôm sau để lại lần theo dấu vết. Phải tìm được người mất tích dù là còn sống hay đã chết.
-o0o-
Những người ở lại với Xpengler hạ trại trên một khoảng rừng đã được ngài thiếu tá chỉ định.
Họ có chừng mười người. Một đội quân mạnh hơn giờ đây không cần thiết nữa. Người ta không chờ đợi dân Komantri ở những chỗ này. Cũng chưa dự đoán được những mối đe dọa khác. Vì thế họ được lệnh phải đi thành nhóm hai hoặc ba người.
Một vài người ở lại vì tò mò, những người khác đơn giản vì bạn bè. Phần lớn họ là những chàng trai trẻ tuổi của các chủ đồn điền. Chính thức đứng đầu đội này là Kôlhaun, nhưng hiển nhiên , người chỉ huy cuộc tìm kiếm sẽ là người dò dấu vết Xpengler.
Sau khi chia tay với bè bạn, họ chưa đi ngủ ngay, mà ngồi cạnh bếp lửa đang cháy đỏ rực.
Thức ăn và rượu khá đủ vì những kỵ binh, khi quay về đồn, đã để lại thực phẩm dự trữ và những biđông đầy. Nhưng mặc cho ngọn lửa lách tách reo vui không khí cũng không sao sinh động lên được.
Tâm hồn mọi người đều nặng trĩu hòa lẫn với sự thỏa mãn bởi đồ ăn thức uống đầy đủ.
Giá như đó là bếp lửa gia đình thì niềm vui thầm lặng của họ trọn vẹn biết bao.
Đôi khi trong khoảng bao la của đồng cỏ người ta buồn vì thiếu nó. Khi quay lại phía sau và so sánh một cách công bằng cái nọ và cái kia, người ta không thể không thốt lên: “Hãy trả lại cho tôi đống lửa và những bạn bè đi săn, cho tôi ngồi đây một lần nữa cùng họ cạnh đống lửa cháy lách tách, và tôi sẽ hiến cho các người tất cả những của cải dành dụm được của tôi, tất cả những vinh quang vô ích của tôi! Tôi sẽ rất hạnh phúc là tặng lại các người tất cả những cái đò cùng với những lo toan và khó khăn cần thiết để giữ được chúng”.
Tâm trạng u ám của đám thanh niên dễ giải thích: tất cả còn chưa hồi lại sau cơn khủng khiếp mà kỵ sĩ không đầu gây ra cho họ.
Họ đến vỡ đầu vì cố giải thích sự viếc đã xảy ra, thậm chí đôi khi họ còn đùa cợt cái bóng ma bí mật đó nhưng không sao thoát khỏi cảm giác nặng trĩu, không một sự phỏng đoán nào của họ có thể giải thích được. Cả Xpengler và Kôlhaun cũng chia sẻ tâm trạng chung.
Người sau hình như là u ám hơn tất cả. Hắn ngồi trong một bóng cây, xa đống lửa, mặt nhăn nhúm. Rõ ràng, hắn không muốn đến gần những người đang ngồi sưởi cạnh đống lửa đỏ rực, hắn muốn một mình, dường như hắn sợ những cái nhìn tò mò.
Cái nhìn của hắn lơ láo, khuôn mặt hắn hằn lên dấu vết của nỗi kinh hoàng vừa trải qua.
- Nghe đây, ngài Kacxi Kôlhaun! - Một người trong đám trai tráng đã kêu lên với hắn - Đến đây, ông bạn cũ, hãy uống cùng chúng tôi. Tất cả chúng tôi rất thông cảm với nỗi cay đắng của ngài và sẽ quyết giúp ngài trả thù. Nhưng không cần thiết phải kéo dài sự đau khổ như vậy! Hãy lại đây và nhấp chút uýtki. Cái đó rất có lợi cho ngài, tôi thề đấy.
Hoặc là Kôlhaun thích cái nguyên nhân mà người ta giải thích sự cô đơn của hắn, hoặc đột nhiên hắn thích ngồi cùng bè bạn, hắn nhận lời mời và đi tới bên đống lửa, ngồi cạnh những người khác. Trước khi ngồi hắn uống một ngụm từ chiếc bi đông chìa ra phía hắn.
Từ phút đó hắn thay đổi như có phép màu. Tâm trạng u ám của hắn tan đi, hắn trở nên vui vẻ đến nỗi gây nên sự ngạc nhiên đối với những người xung quanh. Cái cung cách như vậy dường như không đúng lúc đối với một người mà chỉ vừa mới lúc rạng sáng, như mọi người đã giả thiết, có người em họ bị giết.
Đi tới lúc đầu như một người khách, bây giờ hắn nhanh chóng xử sự như một ông chủ. Chờ cho khi tất cả các biđông đã rỗng, viên đại úy bắt đầu rót rượu từ những biđông của mình, mà lượng dự trữ của chúng dường như vô tận. Từ chiếc bọc yên hiện ra liên tiếp những biđông, mà nhiều bạn bè để lại cho hắn, sau khi ra đi cùng viên thiếu tá.
Những tay chơi trẻ tuổi Tếchdát, sau khi tụ tập lại cạnh đống lửa được khích lệ bởi tấm gương của người cầm đầu, không từ chối sự chiêu đãi của hắn, họ tán chuyện, hát, nhảy nhót và cười hô hố. Sau đó sự mệt mỏi đã thắng: họ nằm la liệt trên cỏ và thiếp đi: một vài người trong số họ có thể đó là lần đầu tiên trong đời bị cái say kinh khủng hành hạ.
Viên đại úy giải ngũ đi nằm sau cùng.
Hắn nằm sau cùng nhưng lại dậy đầu tiên. Cuộc chơi bời kết thúc. Tiếng ngáy của những kẻ nhậu nhẹt cùng hắn vừa vang lên, chứng tỏ rằng bọn họ đã ngủ say, hắn liền ngồi dậy và len lén luồn đi giữa họ.
Cũng bằng những bước chân thận trọng như vậy hắn lần ra đến mép trại nơi mà hắn buộc con ngựa của mình vào một gốc cây.
Sau khi tháo dây cương và ném nó lên vai ngựa hắn nhảy lên yên và ra đi không một tiếng động.
Kế hoạch của hắn là gì?
Có thể hắn lên đường đi tìm xác người em đã chết vì tình thương chăng? Hay muốn tỏ cái nhiệt tình đặc biệt của mình, hắn ra đi một mình?
Nếu nghe được những lời lẽ buột ra khỏi miệng hắn có thể nghĩ rằng hắn hành động theo những ý định tương tự.
- Ơn Chúa, trăng sáng và ta còn được sử dụng được cả sáu tiếng đồng hồ. Khi bọn trẻ còn đang ngủ, đủ thời gian tìm kiếm mọi góc trong rừng trong khoảng hai dặm xung quanh đây, và nếu cái xác còn ở đó, thì ta nhất định sẽ tìm ra nó. Nhưng cái bóng này là nghĩa lý gì vậy? Nếu như chỉ mình ta nhìn thấy, thì ta đã nghĩ rằng ta điên. Nhưng tất cả đã nhìn thấy, tất cả cho đến từng người! Ôi, Đấng Toàn năng! Đó là cái gì mới được chứ?
Nhưng chưa kịp nói xong những lời này, từ miệng hắn đã bật ra một tiếng rú kinh ngạc và khiếp hãi. Hắn dừng phắt ngựa lại, dường như có một nguy cơ chết người đang đe dọa hắn.
Kôlhaun đi theo rìa con đường rừng đến khoảng trống mà chúng ta đã rõ. Khi đó bỗng dưng hắn nhìn thấy có ai đó nữa cũng đang đi trong rừng.
Một kỵ sĩ khác trên ngựa, rõ ràng như hắn đang đi trong khoảng trống mà không phải bằng những bước chậm rãi, mà bằng nước kiệu nhanh.
Còn lâu người kỵ sĩ vô danh kia mới tiến tới gần song Kôlhaun đã kịp nhận ra là nó không có đầu.
Không thể nào lầm lẫn được: những tia sáng nhợt nhạt của mặt trăng chỉ chiếu sáng đôi vai của người kỵ sĩ. Đầu không có. Đây không thể là ảo ảnh sinh ra bởi ánh trăng. Kôlhaun đã nhìn thấy hình dáng này trong ánh sáng mặt trời rực rỡ.
Nhưng giờ đây Kôlhaun nhìn thấy nhiều hơn - hắn đã nhìn thấy chiếc đầu: nó treo ở trên đùi của người kỵ sĩ, một nửa che khuất trong vành mũ, bê bết máu me, trông vô cùng dễ sợ… Hắn nhận ra con ngựa, chiếc xerap có vằn trên vai kỵ sĩ, đôi ghệt bằng da báo. Toàn bộ trang phục là của Moric-Muxtangher.
Kôlhaun có đủ thời gian để nhìn một cách chi tiết. Hắn đứng ở rìa con đường mòn, chết lặng đi vì sợ hãi, không còn hơi sức nào để rời khỏi chỗ. Con ngựa, dường như cũng chia sẻ nỗi sợ hãi của chủ. Nó run toàn thân, không làm nổi một cử động nào để chạy đi, thậm chí cả khi kỵ sĩ không đầu bỗng nhiên dừng lại trước mặt họ và con ngựa tía vừa hý vang vừa nhảy dựng lên.
Chỉ sau khi con ngựa tía với tiếng hý man rợ, được hồi âm lại bằng tiếng sủa của một con chó chạy ngay sau nó, con ngựa tía mới quay ra phi tiếp trên con đường rừng. Lúc bấy giờ Kôlhaun mới lại hồn và lắp bắp được.
- Lạy Chúa! - Hắn kêu lên bằng một giọng run lập cập - Thế này là nghĩa lý gì! Cái này, người hay ma quỉ? Hay là cả ngày hôm nay là một giấc mơ khủng khiếp? Hay ta điên? Ta điên mất rồi, ta điên mất rồi!
Sau những câu rời rạc này, Kôlhaun quả quyết kéo cương và quay ngoắt ngựa lại. Hắn phi ngược lại, chỉ có điều là nhanh hơn nhiều. Rõ ràng là hắn đã từ bỏ ý định. Hắn còn chưa dừng lại chừng nào còn chưa đến được nơi hạ trại.
Tớinơi, hắn rón rén tới bên đống lửa, nằm xuống cạnh những người bạn rượu của mình. Nhưng hắn không tài nào ngủ được. Hắn không hề chợp mắt được một phút, hắn run bần bật như lên cơn sốt rét. Buổi tờ mờ sáng chiếu lên khuôn mặt tái mét chết cứng và cặp mắt hoảng loạn như người mất trí của hắn.
-
Chương 46
SỰ THÚ NHẬN BÍ MẬT
Một buổi sáng náo động và xôn xao ngự trị ở dinh cơ Kaxa-del-Korvô và những người quanh nó.
Trong sân đầy những người có vũ trang. Ở một số người này là những khẩu súng săn dài hoặc những khẩu súng hai nòng, ở những người khác là súng lục, súng ngắn, ở những người thứ ba: dao găm lớn hoặc thậm chí chỉ là những ngọn lao.
Quần áo của họ cũng không kém phần phong phú: những chiếc áo sơ mi đỏ bằng vải Flanen, những chiếc áo khoác bằng vải bông hay bằng vải Keltucki, những chiếc quần nâu bằng thứ vải dệt ở nhà và những chiếc mũ vải bông xanh da trời, những chiếc cátket da, những đôi ủng cao cổ da kép hoặc những đôi ghệt bằng da hươu. Sự tập trung của những con người đầy sức mạnh, có vũ trang chỉ có thể thấy được ở những vùng cư dân biên cương Tếchdát.
Cả sự sặc sỡ trong trang phục, cả vũ khí cũng không nói lên mục đích tụ tập của họ. Cho dù ý định của họ là hòa bình nhất thì họ vẫn vũ trang và ăn mặc như vậy mà đến.
Nhưng chúng ta đã biết họ tụ tập ở đây để làm gì.
Phần đông trong số họ là những người hôm qua đã đi cùng các kỵ binh, giờ đây cả những người khác cũng nhập bọn: những người sống ở những đồn điền xa hơn, những người thợ săn mà hôm qua không có mặt ở nhà.
Số lượng người tập trung vào sáng hôm nay còn nhiều hơn hôm qua, mặc dầu hôm qua còn có binh lính tham gia vào cuộc tìm kiếm.
Hoàn toàn không có các quân nhân trong đám đông, nhưng trong đó có các thành viên trong đội dân binh tình nguyện đã tụ tập lại, những người được gọi là “quân chủ lực”
Họ ăn mặc và vũ trang không khác gì những người khác. Những đội dân binh như vậy thường được tự tổ chức ở những vùng dân cư mới để giúp đỡ quân đội chống lại tội ác. Thành viên của đội dân binh này đôi khi thi hành nhiệm vụ của người đao phủ.
Tất cả đều nói về vụ giết người: vụ giết Henri Pôinđekter, đôi khi nghe thấy tên Moric-Muxtangher.
Nguyên nhân của không khí xôn xao cũng gây nên bởi sự xuất hiện của Kỵ sĩ không đầu trong đồng cỏ. Những người hôm qua nhìn thấy nó kể lại cho những người không có ở đó nghe.
Một vài người lúc đầu còn chưa tin, họ cho rằng đó là chuyện đùa. Nhưng rồi họ cũng nhanh chóng nhận thấy sự nhất trí của các nhân chứng, và sự tồn tại của Kỵ sĩ không đầu được tất cả công nhận.
Tất nhiên mọi người bắt đầu thử phỏng đoán về hiện tượng đáng ngạc nhiên này và đã đưa ra những giả định khác nhau nhất. Nhưng chỉ một trong số đó dường như tỏ ra gần đúng với sự thật – đó là giả định mà chúng ta đã rõ của người cựu dân sống ở biên giới, rằng con ngựa là có thật, còn người kỵ sĩ là hình nộm.
Ai làm ra nó và làm như vậy để làm gì thì không người nào giải thích được.
Việc tập hợp mọi người lại không đòi hỏi sự chuẩn bị gì đặc biệt. Mọi việc đã sẵn sàng.
Những con ngựa của những người đi tìm kiếm đã đứng trước dinh cơ, những người hầu của ngài chủ đồn điền giữ cương một vài con, nhưng phần đông thì đụng đâu buộc đấy.
Tất cả đều hiểu rõ họ tụ tập ở đây để làm gì. Họ chờ đợi Vili Pôinđekter, người chỉ huy đội ra dấu lên đường.
Ngài chủ đồn điền nán lại vì hy vọng tìm được người dẫn đường, người có thể chỉ đường tới Alamô và đưa đội ngũ tới thẳng nhà Moric-Muxtangher.
Không có một người nào như vậy trong số những người có mặt. Các chủ đồn điền, các chủ quán, các luật sư, những người thợ săn, những tay buôn ngựa và các nô lệ, tất cả đều không biết rõ thung lũng Alamô.
Chỉ có một người trong khu cư dân có thể nhận lấy trách nhiệm của người dẫn đường – già Zep Xtump. Nhưng không tìm đâu ra người thợ săn già, ông đã đi săn, những người được cử đi tìm ông, người nọ tiếp người kia đều trở về không kết quả.
Thật ra có một người trong dinh cơ có thể đưa đội ngũ tới căn nhà của người bị nghi là thủ phạm. Nhưng Vili Pôinđekter không hay biết điều này.
Và rất tốt là ông đã không biết điều này. Nếu người chủ đồn điền chỉ trong một giây nghi ngờ rằng con gái ông có thể dẫn đường tới ngôi nhà cô đơn trên sông Alamô thì ông không những cay đắng vì cái chết của đứa con trai mà còn vì cả hành động điên rồ của cô con gái.
Người cuối cùng được phái đi tìm Zep Xtump đã trở về cho biết không có ông. Người ta không chờ đợi nữa. Khát vọng báo thù đang trỗi dậy. Đội ngũ lên đường.
Họ chưa kịp đi xa Kaxa-del-Korvô thì hai người có thể chỉ cho họ con đường đi tới Alamô đã gặp nhau trong những bức tường của dinh cơ.
Cuộc gặp gỡ này không phải là bí mật, nó không định trước. Nó là sự tình cờ. Zep Xtump vừa đi săn về và mang đến dinh cơ những con thú săn được nhờ sự giúp sức của khẩu súng không hề biết bắn trượt của ông.
Đối với Zep Xtump, Luiza Pôinđekter tất nhiên là có nhà, nàng rất muốn nói chuyện với ông, nàng muốn đến nỗi suốt ngày hôm qua từ sáng sớm cho đến lúc mặt trời lặn nàng không rời mắt khỏi con đường bên kia dòng sông.
Đội quân ồn ào chỉ vừa khuất dạng, thì Luiza đã leo lên sân thượng và trông thấy người thợ săn già đang chậm chạp tiến lại gần trên con ngựa già của ông, chất đầy những thứ săn được. Zep Xtump, không còn nghi ngờ gì nữa, đang đi tới dinh cơ.
Luiza rất vui mừng khi nhìn thấy thân hình cao lớn thẳng đờ ra của ông. Nàng biết rằng đó là người bạn đáng tin cậy, người mà nàng có thể thổ lộ những bí mật quí giá nhất, mà nàng lại đang có những bí mật muốn thổ lộ cùng ông, bí mật đã hành hạ nàng suốt cả một ngày.
Zep Xtump còn lâu mới xuất hiện trong sân, vậy mà cô gái đã xuống hiên chờ ông.
Vui vẻ và vô tư, người thợ săn già tiến lại gần dinh cơ. Rõ ràng ông chẳng ngờ tới nỗi bất hạnh làm gia đình ngài chủ đồn điền đang phải chịu đựng.
Khi ông nhận ra là cổng bị đóng lại bằng then, trên khuôn mặt ông xuất hiện sự ngỡ ngàng.
Đây là một điều không bình thường, ít nhất là ở những người chủ mới của dinh cơ.
Khuôn mặt cau có của người da đen ra đón Zep Xtump ở cổng còn làm ông ngạc nhiên hơn.
- Việc gì đã xảy ra với anh vậy, Plutôn? Sao anh nhìn ta như nhìn con gấu bị chặt cụt đuôi vậy. Mà tại sao giữa ban ngày ban mặt lại khóa cổng lại? Ta hy vọng không có chuyện gì xảy ra chứ?
- Ôi, ngài Xtump, đã xảy ra rồi ạ! Chính nó đã xảy ra rồi! Nói ra thật đau lòng. Bất hạnh vô cùng!
- Bất hạnh ư? – Người thợ săn kêu lên - Bất hạnh ra sao hả anh chàng da đen? Nói mau lên, thật không có gì đáng sợ hơn những gì lộ ra trên mặt anh! Không có gì xảy ra với cô chủ trẻ tuổi của anh chứ? Tiểu thư Luiza…
- Chẳng có gì xảy ra với tiểu thư Luiza cả. Nhưng hình như cô chủ trẻ có ở nhà. Hãy vào đi, ngài Xtump. Cô chủ sẽ tự nói với ngài điều bất hạnh.
- Còn ông chủ của anh? Ông ta có nhà không?
- Không – Không! Ông ta bây giờ không có. Ông chủ bây giờ cách xa nhà rồi. Ông ta đã đi mười lăm phút trước. Ông không có nhà, ông ta đi vào đồng cỏ, nơi có những con ngựa hoang. Đến nơi có cuộc săn tháng trước đấy. Mà ngài đã biết rồi phải không, ngài Zep?
- Vào đồng cỏ, nơi có những con ngựa hoang? Cái gì khiến ông ta tới đó? Ai đi cùng với ông ta vậy?
- Đi với ông có ngài Kôlhaun và rất nhiều ngài da trắng khác. Bao nhiêu người đi cùng với ông chủ ấy chứ.
- Thế còn cậu chủ trẻ Henri. Cậu có lẽ cũng ra đi cùng họ.
- Ôi, ngài Xtump, đó mới là nỗi đau đớn! Tai họa của chúng tôi. Cậu Henri cũng đã đi rồi. Và không bao giờ còn quay lại nữa. Con ngựa chạy về nhà, khắp mình nó toàn máu. Người ta nói rằng cậu chủ Henri đã chết rồi.
- Chết rồi? Chắc là anh đùa? Anh nói thật đấy à?
- Ôi, ngài Xtump! Chỉ nói ra điều này cũng cay cực lắm rồi, nhưng mà thật thế đấy ạ. Tất cả đã đi tìm xem cậu ấy đang nằm ở đâu.
- Nào, mang cái này vào bếp. Đây là gà tây và gà rừng. Tiểu thư Luiza đâu?
- Cháu đây, bác Xtump. Bác lại đây đi! - Một giọng trong như bạc, rất quen thuộc với người đi săn trả lời ông, nhưng lần này giọng nói đó vang lên buồn thảm đến nỗi Zep Xtump khó lòng nhận ra – Than ôi! Những gì mà Plutôn nói với bác, tất cả đều đúng sự thật. Em cháu đã mất tích. Không ai nhìn thấy nó kể từ chiều hôm kia. Con ngựa của nó quay về với những vết máu trên yên. Ôi, bác Zep chỉ nghĩ đến điều này cũng đủ sợ rồi!
- Tất nhiên! Cậu ấy đi đâu đó vào đồng cỏ, còn con ngựa của cậu ấy quay lại một mình… Tôi không muốn làm tiểu thư đau khổ, tiểu thư Luiza ạ, nhưng nếu tiếp tục tìm, có lẽ tôi sẽ giúp đỡ được, mà muốn vậy tôi phải biết chi tiết.
Luiza kể lại cho Zep nghe tất cả những gì nàng biết. Nàng chỉ giấu có màn kịch trong vườn và những gì xảy ra với nàng. Nàng quả quyết rằng Henri chắc chắn đi theo chàng Muxtangher, nàng dẫn ra lời kể của Ôbeđôphê.
Giọng nàng đứt quãng vì nỗi đau không thể kiềm chế được, nàng nấc lên nghẹn ngào khi nói ra rằng mọi người buộc tội Moric đã giết em nàng.
- Đấy là điều giả dối! – Người thợ săn quát lên, chia sẻ sự xúc động với nàng – Vu khống! Kẻ dối trá nào đã bịa ra điều này! Đến thế cơ đấy! Chàng Muxtangher không phải là kẻ có thể hành động như vậy? Nếu như giữa họ có sự ác cảm, nhưng chắc điều đó không có. Tôi chịu trách nhiệm về chàng – chàng không chỉ một lần ca ngợi cậu em của tiểu thư với tôi. Đúng thật là chàng không thể chịu đựng nổi người anh họ của tiểu thư. Nhưng tôi muốn biết được có ai yêu hắn? Hãy tha lỗi vì tôi đã nói với tiểu thư như vậy. Nếu như giữa em trai của tiểu thư và chàng Muxtangher có cãi cọ thì…
- Không không! – Nàng krêôl kêu lên sau khi nức nở vì cay đắng - Tất cả đã được thu xếp. Henri muốn xin lỗi, nó đã tự nhận rằng nó đã không đúng, còn Moric…
Cái nhìn kinh ngạc của người đối thoại khiến nàng im bặt. Tay bưng lấy mặt, nàng nức lên.
- Ấy, ấy! – Zep lẩm bẩm – Có nghĩa là giữa họ dù sao cũng có chuyện gì đó… Tiểu thư nói rằng, thưa tiểu thư Luiza, rằng đã có… sự bất hòa giữa em trai của tiểu thư và…
- Bác ơi, bác Zep yêu quí ơi! – Nàng vừa kêu lên vừa bỏ hai tay ra khỏi mặt và nhìn thẳng vào mắt người đi săn cao lớn – Bác hứa với cháu là sẽ giữ bí mật đi! Bác hãy hứa với cháu như một người bạn, như một người tử tế và trọng danh dự. Bác sẽ hứa, phải không bác?
Người thợ săn thay vì thề thốt, ông nhấc bàn tay to tướng của mình lên và sau đó đấm vào ngực trái của mình một cách đầy biểu cảm.
Năm phút sau, ông đã rõ cái bí mật mà một người đàn bà rất hiếm khi phó thác nơi người đàn ông trừ phi người đó thật sự xứng đáng với lòng tin cậy sâu sắc nhất.
Zep Xtump không ngạc nhiên lắm vì lời thú nhận này. Ông chỉ lẩm bẩm một mình: “Ta đã biết mà, ta đã biết cái gì sẽ tiếp theo!”
- Thì đã sao nào, tiểu thư Luiza! – Ông nói tiếp đầy vẻ thông cảm - Chẳng có gì đáng xấu hổ cả, tôi xin nói như vậy với tiểu thư. Phụ nữ bao giờ chẳng là phụ nữ, trên đồng cỏ, cĩng như trên khắp thế gian này. Và nếu tiểu thư đã trao trái tim mình cho chàng Muxtangher thì đâu có phải tiểu thư đã không đắn đo lựa chọn. Chàng là người Iếclăng và chàng không phải là người tầm thường. Tiểu thư hãy tin ở tôi! Còn tất cả những gì mà tiểu thư đã kể làm tôi càng quả quyết rằng chàng không gây ra tội ác này, nếu như có tội ác như vậy thật. Chứng cứ đâu nào? Chỉ có con ngựa quay về với những vết máu trên ư?
- Chao ôi, họ còn tìm được những chứng cớ khác nữa. Người ta tìm chàng suốt ngày hôm qua. Họ đã đi rất lâu theo các dấu vết và còn tìm được một cái gì đó nữa, nhưng họ không nói là tìm được cái gì. Theo cháu, cha cháu không muốn cho cháu biết điều này, còn cháu thì không dám hỏi những người khác. Họ đã ra đi ngày hôm nay, trước khi cháu nhìn thấy bác trên con đường.
- Còn chàng Muxtangher? Chàng nói gì để bào chữa cho mình?
- Ô, cháu nghĩ là bác biết chứ ạ! Bởi vì người ta cũng chưa tìm ra chàng. Lạy Chúa tôi, lạy Chúa! Có thể chàng cũng đã bị giết bởi tay kẻ đã giết em cháu!
- Thế đấy, có nghĩ là họ đang đi theo dấu vết chăng? Chắc là dấu vết của chàng Muxtangher? Nếu chàng còn sống thì chàng ở trong căn nhà của mình trên sông Alamô. Sao họ không đi tới đấy nhỉ? À phải, nhớ ra rồi! Bởi vì ngoài ta ra không ai biết chỗ ấy. Mà nếu là tay Xpengler non nớt này dẫn đường thì anh ta, tất nhiên là sẽ để mất dấu vết trong đồng cỏ đá phấn. Có phải là họ lại đi về hướng ấy không?
- Vâng. Cháu đã nghe thấy một người nào đó trong số họ nhắc đến điều này.
- Phải, nếu họ đi tìm chàng Muxtangher thì ta cũng đi. Ta sợ rằng, ta còn tìm ra chàng sớm hơn bọn ấy chứ!
- Vì thế nên cháu muốn gặp bác. Hiện nay đi với cha cháu có rất nhiều kẻ phiêu lưu. Cháu đã nghe họ chửi rủa lúc ra đi. Họ còn nói về kiểu hành tội Linsơ. Một vài người trong bọn họ còn thề trả thù không thương tiếc. Chúa ơi! Ra sao nếu họ thấy chàng và Moric không thể chứng minh được sự vô tội của mình. Trong cơn giận dữ không kiềm chế được – mà trong bọn họ còn có Kacxi Kôlhaun – bác tưởng tượng xem, họ sẽ làm gì với chàng? Bác Zep yêu quí, hãy vì cháu, vì anh ấy - bởi anh ấy là bạn của bác! Bác hãy đi mau tới Alamô! Phải đến trước họ và báo cho Moric biết. Ngựa của bác đi không nhanh. Hãy lấy ngựa của cháu, bác hãy chọn bất cứ con ngựa nào trong chuồng ngựa nhà cháu.
- Tiểu thư nói phải – Người thợ săn vừa ngắt lời nàng vừa chuẩn bị lên đường - Thực ra sự việc có thể kết thúc rất xấu cho chàng trai. Ta sẽ làm tất cả những gì sức ta có thể làm để giúp đỡ chàng. Đừng sợ, tiểu thư Luiza. Đủ thời gian. Họ còn luẩn quẩn chán trong đồng cỏ thì tôi đã tìm được đến căn nhà rồi. Ta sẽ tới kịp trên con nghẽo già của ta, tôi không hợpvới con đốm sao của tiểu thư. Con ngựa của tôi còn đóng yên cương, nếu Plutôn còn chưa tháo yên cương ra. Đừng buồn. Có thể không có gì xấu xảy ra với em trai tiểu thư đâu. Moric-Muxtangher vô tội, điều này đối với ta rõ như ban ngày vậy.
Nói xong, người thợ săn già vụng về cúi chào và lên đường, còn cô gái thì chạy về phòng mình để trấn tĩnh lại trái tim lo âu bằng những lời cầu nguyện cho người mình yêu.
-
Chương 47
BỨC THƯ LẤY ĐƯỢC
Cuống cuồng chạy thục mạng vì sợ hãi, “Sói đồng” cùng ba tên đồng bọn đâm bổ tới những con ngựa, ba chớp bảy nhoáng leo lên yên.
Chúng chẳng còn kịp nghĩ tới chuyện quay lại căn lều của chàng Muxtangher. Ngược lại chúng chỉ muốn làm sao chạy thật xa ngôi nhà đơn độc và người chủ của nó, kẻ vừa hiện ra trước mắt chúng trong hình thù kỳ dị như vậy.
Không ai trong số chúng nghi ngờ đây chính là “Đông Morixiô”. Cả bốn tên đều biết chàng, Điac biết rõ nhất. Mỗi tên trong số chúng đều nhận ra chàng Iếclăng qua người kỵ sĩ không đầu. Chúng nhận ra con ngựa, đội ghệt, chiếc xerap bằng vải dệt của người da đỏ khác với những chiếc xerap màu đỏ những người Mếchxich bởi những hình vẽ rực rỡ của chúng và cuối cùng là cái đầu của chàng.
Chúng không dừng lại để nhìn kỹ khuôn mặt. Nhưng trên đầu vẫn còn chiếc mũ: chiếc xômbrerô màu đen bóng loáng khi đi vào giải ánh sáng mặt trăng.
Ngoài ra chúng còn nhìn thấy con chó lớn, mà Điac lập tức nhận ra đó là con chó của chàng Iếclăng. Với tiếng sủa ăng ẳng, con chó đâm nhào tới bọn chúng. Thật ra chẳng cần tới điều này thì chúng cũng đã chạy bán sống bán chết.
Bốn kỵ sĩ lao hết tốc lực từ dưới dốc đầy cây cối lên đồng cỏ, chúng lao qua cả nơi mà người ta giả định là nơi án mạng đã xảy ra.
Nhưng ở đó chúng không dừng lại mà vẫn tiếp tục phi nước đại, cho đến khi lọt vào khoảng rừng, nơi trước đó không lâu chúng đã cải trang thành những người Komantri.
Cuộc biến hình ngược lại hoàn thành nhanh và kém thận trọng hơn nhiều. Chúng vội vã rửa những màu sắc chiến trận bằng nước trong các biđông, với sự vội vã không kém, chúng thay đổi quần áo và lên ngựa phi về phía sông Lêông.
Trên đường trở về, chúng chỉ bàn tán đến kỵ sĩ không đầu. Bị nỗi khiếp sợ xâm chiếm, chúng không sao giải thích được hiện tượng siêu tự nhiên này. Thế là không quyết định được gì, chúng chia tay nhau ở ven khu cư dân và giải tán ai về nhà nấy.
- Mẹ kiếp! – Sói đồng kêu lên, sau khi về đến căn lều của mình và nằm lăn ra trên cái giường làm bằng những cây sậy - Thế này thì làm sao mà ngủ được cơ chứ. Chúa ơi, con ngáo ộp ấy là cái gì vậy! Lạnh cả gáy! Mà chẳng có một chút gì để sưởi ấm, bi đông rỗng tuếch. Bar thì đóng cửa mất rồi. Tất cả đều đã đi ngủ. Lạy Đức Mẹ! Đó là cái gì mới được chứ? Bóng ma ư? Không phải, chính ta đã sờ vào nó. Vinxent cũng đã túm lấy nó từ sườn bên kia. Chúng ta không thể nhầm được! Nếu nó là một con bù nhìn thì để làm gì và ai cần tới nó cơ chứ? Ai ngoài ta và đồng bọn ra cần sử dụng mặt nạ trong đồng cỏ này? Quỉ sứ! Hóa trang như vậy thì khủng khiếp thật!... Khoan đã nào, họ đã đi trước ta rồi ư? Có thể có một kẻ nào khác đã làm vì một nghìn đôla chăng? Có thể nào đó là tên Iếclăng bị giết với cái đầu trong tay? Không, không thể thế được. Kỳ dị quá, không đúng, khó có khả năng! Vậy thì nó là cái gì… A ha ta hiểu rồi! Có thể người ta đã báo cho hắn biết trước về cuộc viếng thăm của bọn ta hoặc ít nhất hắn cũng ngờ vực điều gì đó. Và hắn đã đóng cái màn hài kịch này để dọa chúng ta. Chắc hẳn hắn là người chứng kiến cảnh chạy trốn nhục nhã của chúng ta. Mẹ kiếp! Đứa nào có thể bán rẻ bọn ta nhỉ? Không có ai. Mà không ai biết được kế hoạch của ta cơ mà. Mà sao bấy giờ hắn có đủ thời gian để chuẩn bị một trò đùa ma quái như vậy chứ?... À, phải rồi, ta quên mất! Bởi chúng ta đã đi trong đồng cỏ ban ngày. Họ có thể nhìn thấy và đoán được ý định của chúng ta. Tất nhiên là như vậy! Và sau đó, khi chúng ta thay đồ trong rừng, hắn có đủ thời gian để chuẩn bị. Không còn cách giải thích nào khác. Thật ngu xuẩn! Sợ đến cả con bù nhìn! Mẹ kiếp! Cái này chẳng giúp được hắn đâu. Ngày mai ta lại đến Alamô. Ta sẽ làm vì một nghìn đôla, dù có phải mất một năm để làm điều này! Hơn nữa, sự việc không phải ở tiền bạc, chỉ riêng chuyện ta mất Ixiđôra là đủ. Có thể không phải là như thế, nhưng thậm chí sự nghi ngờ cũng làm ta không chịu đựng nổi. Nếu ta biết chắc là nàng yêu hắn và họ đã gặp nhau sau khi… Ôi Chúa tôi! Ta điên lên mất! Trong cơn điên ta không chỉ giết chết kẻ ta căm thù mà cả con đàn bà mà ta yêu! Ôi Ixiđôra Kôvarubiô đơ Lox-Lianôx! Nàng là hiện thân của sắc đẹp và sự quỉ quyệt. Ta có thể bóp chết em trong vòng tay hay đâm dao vào ngực em! Số phận của em chỉ hoặc như thế này hoặc như thế kia và chính ta sẽ chọn nó cho em!
Lời đe dọa và sự tự lý giải về hiện tượng bí mật kia khiến hắn yên tâm một chút và làm hắn nhanh chóng ngủ thiếp đi.
Hắn tỉnh lại khi ánh nắng ban mai chiếu vào cửa cùng với một người khách tới thăm.
- Hôxê! – Sói đồng kêu lên với một giọng ngạc nhiên và vui mừng rõ rệt – Anh đấy à?
- Vâng, thưa xenhor, tôi đây.
- Ta rất mừng được thấy anh, anh bạn Hôxê ạ. Đônha Ixiđôra cũng ở đây chứ? Ta muốn nói ở Lêông này?
- Vâng, thưa xenhor.
- Nhanh thật? Mà chưa đầy hai tuần lễ từ khi nàng đi khỏi nơi đây. Không phải thế ư? Ta không ở trong khu cư dân nhưng ta nghe nói điều này. Ta chờ tin ở anh. Tại sao anh không viết thư cho ta?
- Chỉ vì, thưa Xenhor đông Miguel, không có ai đưa thư. Tôi phải báo cho ngài những gì mà người khác không được biết đến. Thật đáng tiếc là ngài không cảm tạ tôi vì những gì mà tôi sẽ kể cho ngài. Nhưng cuộc sống của tôi thuộc về ngài, tôi đã hứa rằng ngài sẽ được rõ tất cả.
Sói đồng nhảy lên như bị ong đốt:
- Về hắn và về nàng! Ta thấy rõ điều này trên mặt anh. Cô chủ của anh đã gặp hắn ư?
- Không, Xenhor. Ít nhất là theo chỗ tôi biết, họ chưa gặp nhau sau lần gặp gỡ đầu tiên.
- Thế thì sao? – Điac hỏi với vẻ nhẹ nhõm rõ rệt – Nàng đã ở đây lúc hắn sống trong khách sạn, phải không? Có điều gì xảy ra chăng?
- Vâng, thưa ông Miguel. Ba lần tôi mang đến cho hắn làn đồ ăn của đônha Ixiđôra. Lần cuối cùng có kèm theo một bức thư.
- Thư! Anh biết nội dung chứ, anh đã đọc nó?
- Nhờ ơn ngài, nhờ ơn lòng tốt của ngài đối với đứa trẻ tội nghiệp này, tôi có thể làm điều này và thậm chí có thể chép lại nó.
- Anh mang theo nó chứ?
- Vâng, ngài nhìn đây, đông Miguel, ngài đã không uổng công cho tôi đi học! Đây là những gì Ixiđôra viết cho hắn.
Điac nóng nảy giật tờ giấy ở Hôxê và bắt đầu hối hả đọc. Nhưng hình như bức thư lại làm hắn yên tâm.
- Mẹ kiếp! - Hắn vừa nói vẻ thờ ơ, vừa đặt bức thư xuống – Trong này chẳng có gì đặc biệt, anh bạn Hôxê ạ. Nàng chỉ cám ơn hắn giúp đỡ lúc nguy hiểm. Nếu tất cả chỉ có vậy…
- Không, chưa phải là tất cả, xenhor đông Miguel. Chính vì điều này mà tôi tới chỗ ngài! Tôi được lệnh phải đi vào khu cư dân. Ngài hãy đọc xem.
- A! Một bức thư khác à?
- Vâng, thưa xenhor. Lần này làm một bức thư thật sự chứ không phải những dòng chữ như gà bới của tôi.
Bằng bàn tay run run Điac cầm lấy tời giấy chìa ra, hắn mở thư ravà bắt đầu đọc.
Xenhor đông Môrixiô Giêran.
Bạn thân yêu, em lại đến đây, đến làm khách nhà bác Xibviô. Cuộc sống thiếu tin tức về ông làm em không chịu đựng nổi. Sự không rõ về ông sẽ giết chết em. Hãy báo cho em, ông đã bình phục sau khi bị thương chưa? Ôi chao, nếu được như vậy! Sao mà em muốn nhìn vào tận cặp mắt ông – cặp mắt đẹp, đầy tình cảm của ông, để quả quyết rằng ông đã hoàn toàn khỏe mạnh! Em van ông, hãy tặng em niềm vui này. Nửa giờ sau, em sẽ ở trên đỉnh ngọn đồi sau nhà bác em.
Hãy đến, em chờ ông!
Ixiđôra Kôvarubiô đơ Lox-Lianôx.
- Mẹ kiếp! Hẹn hò yêu đương! – Điac kêu lên căm hờn - Thật hết chỗ nói. Mà chính nàng lại hẹn gặp hắn cơ chứ. Hà! Lời mời của nàng sẽ được chấp thuận, chỉ có điều không phải người mà nàng tha thiết mời. Ta phải trả thù, không chậm trễ một phút… Nghe đây, Hôxê! Tờ giấy này chẳng để làm gì. Kẻ mà nàng gửi thư cho đã không còn trong khu cư dân nữa, hắn cũng chẳng có ở những nơi quanh đây. Có trời biết bây giờ hắn ở đâu. Chuyện này còn là bí mật. Nhưng không sao. Hãy cứ đến khách sạn và cứ hỏi xem hắn có ở đó không. Anh phải hoàn thành công việc. Đừng mang thư theo. Để nó lại cho ta. Ta sẽ trả lại cho anh khi anh trở về ghé qua đây, rồi anh sẽ trả nó lại cho chủ của nó. Này, một đôla cho anh. Hãy vào bar mà uống. Ở chỗ lão Đôphê có thứ agvarđient tuyệt diệu. Tạm biệt.
Hôxê không hỏi gì thêm, sau khi cầm một đôla, hắn lặng lẽ đi ra khỏi lều.
Anh ta còn chưa kịp đi khuất, Điac cũng rời căn nhà. Sau khi vội vã đóng yên cương con ngựa, hắn nhảy lên và phi theo hướng ngược lại.