-
Chương 32
ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI
Moric không phải đợi lâu dưới gốc cây bạch dương. Vào chính lúc chàng nhảy vào thuyền, một trong những cửa sổ của tòa dinh thự trong ra vườn khẽ hé ra và ngập ngừng một chút, dường như ai đó muốn ra nhưng còn do dự, không biết con đường đó có tự do hay không.
Một bàn tay trắng đeo những chiếc nhẫn đá quý giữ lấy khung cửa hé mở, được chiếu sáng bởi ánh trăng, một lúc sau hình dáng cân đối của cô gái hiện lên trên cầu thang, dẫn ra vườn.
Đó là Luiza Pôinđekter.
Nàng đứng lặng vài giây lo lắng. Có tiếng vỗ mái chèo chăng? Nàng có cảm thấy nó không? Tiếng kêu ve ve không mệt mỏi của những con ve sầu có thể làm nàng nhầm lẫn. Giờ hẹn đã đến và nàng không thể chờ đợi lâu hơn nữa.
Luiza chạy xuống những bậc thang bằng đá không tiếng động, đi vào vườn, nàng lướt qua những bụi cây, những bức tượng và cuối cùng lọt vào dưới vòm bạch dương. Nơi đây vòng tay của chàng Muxtangher chờ đón nàng.
Những giây phút hạnh phúc qua mau, giờ chia tay sắp tới.
- Ngày mai chúng ta lại gặp nhau chứ, anh thân yêu. Đêm mai phải không ạ?
- Nếu có thể, anh sẽ nói với em: đúng, ngày mai, ngày kia và lại lần nữa, em yêu của anh!
- Nhưng sao vậy? Anh lại không thể nói được như vậy?
- Sáng mai anh phải đi Alamô.
- Thế đấy! Không lẽ điều này cần đến thế?
Vô tình, câu hỏi như trách móc. Mỗi lần nghe nhắc đến ngôi nhà đơn độc trên Alamô, trong lòng nàng lại thức dậy một cảm giác gì có khó chịu. Nhưng vì sao? Chính nàng cũng không hiểu nổi.
- Quả thật là anh cần phải đi tới đó.
- Cần ư? Người ta chờ anh ở đó phải không?
- Chỉ có tên hầu Felim của anh. Anh hy vọng không có gì xảy ra với hắn. Anh bỏ hắn lại một mình đã được mười ngày, từ khi có những tin đồn về bọn da đỏ.
- Chỉ có Felim và không còn ai nữa phải không? Moric, anh nói thật chứ? Anh thân yêu, đừng dối em! Anh nói, chỉ mình hắn thôi chứ?
- Sao em lại hỏi vậy, hở Luiza?
- Em không thể nói vì sao được. Em sẽ chết vì xấu hổ, nếu phải thú nhận những ý nghĩ thỉnh thoảng lại nảy ra trong đầu em.
- Đừng sợ, hãy nói anh nghe tất cả những gì em suy nghĩ. Anh không thể giấu em được điều gì. Nói đi, niềm vui của anh!
- Anh muốn vậy ư, Moric?
- Tất nhiên, anh muốn. Anh biết, anh sẽ làm em ngỡ ngàng. Bởi nếu ai đó biết được những cuộc gặp gỡ của chúng ta, họ có thể giải thích một cách rất ngu xuẩn. Vì thế anh phải đi Alamô.
- Để ở lại đó ư?
- Chỉ vẻn vẹn có một hoặc hai ngày. Để thu dọn đồ đạc và nói lời từ biệt cuối cùng cuộc sống của anh ở đồng cỏ.
- Thật thế ư?
- Có lẽ em ngạc nhiên?
- Không! Chỉ có điều em không hiểu. Em không thể hiểu anh và có lẽ không bao giờ hiểu được anh.
- Phải, tất cả những điều này không phải là đơn giản. Anh đã có một quyết định quan trọng và anh biết rằng em sẽ tha thứ cho anh, khi nào anh giãi bày với em.
- Tha thứ cho anh ư, Moric! Vì cái gì mới được chứ?
- Vì anh đã không chia sẻ với em bí mật của mình. Anh không phải là con người mà em biết…
- Nhưng mà anh vẫn như vậy, vẫn là con người mà em biết: anh đẹp, hào hiệp, can đảm, anh thật phi thường. Ôi, Moric! Nếu anh biết được em yêu anh như thế nào, anh quí giá đối với em như thế nào!
- Con bồ câu nhỏ của anh, anh yêu em cũng chẳng kém gì, nhưng hãy vì hạnh phúc chung của chúng ta, hãy chia tay nhau em ạ.
- Chia tay ư?
- Đúng, em thân yêu. Nhưng chúng ta chia tay nhau không lâu đâu.
- Bao nhiêu lâu?
- Thời gian cần thiết cho con tàu vượt Đại Tây dương và quay trở lại.
- vĩnh viễn ư? Nhưng để làm gì?
- Anh cần phải trở về Tổ quốc - Về Iếclăng, về đất nước mà giờ đây người ta đang khinh bỉ, như em đã biết. Chỉ vừa hai mươi giờ trước đây anh nhận được từ đó một tin quan trọng. Anh phải vội tới đó và hy vọng khi quay lại sẽ chứng minh được cho người cha kiêu hãnh của em, rằng chàng Muxtangher nghèo khổ, người đã chiếm được trái tim của con gái ông ta… Anh đã chiếm được nó chưa hở Luiza?
- Anh hỏi điều này mà làm gì! Anh biết rằng anh đã chinh phục được trái tim tội nghiệp của em và em không bao giờ còn thoát ra khỏi sự ràng buộc này nữa. Đừng cười em, Moric ạ, em là nô lệ của anh mất rồi.
Lần nữa họ lại ôm nhau, rồi lại những cái hôn dịu ngọt và những lời thề thốt yêu đương.
Tiếng ri rỉ của những con dế mèn đã lặng đi trong cỏ, trong đám lá những con ve sầu cũng đã im tiếng, tiếng kêu của con chim chích nhỏ trên ngọn cây bạch dương cũng thôi vọng tới, con cú đêm bay cao hơn trong ánh trăng.
Nhưng những kẻ yêu nhau nào có nghe thấy gì. Họ cũng không nhìn thấy bóng đen của một người – hay có thể, đó là một tên ăn trộm. Bóng đen đó lúc thì trườn qua những khóm hoa lúc thì đứng lặng bên những bức tượng, lúc thì ẩn mình trong những bụi rậm, cuối cùng hắn dừng lại sau những gốc cây – cách nơi hai người hôn nhau chừng mươi bước. Trong giây phút hạnh phúc, khi xung quanh im ắng, họ hoàn toàn không ngờ rằng sự im lặng giúp cho tên kia nghe rõ mồn một những lời thú nhận yêu đương, và mặt trăng phản bội tố cáo mọi hành động của họ.
Con người, như cái bóng đen sau gốc cây đứng lắng nghe từng lời, thậm chí những tiếng thở dài, những lời thì thầm đắm đuối, trong ánh trăng như bạc hắn nhìn rõ từng cử chỉ của họ.
Có cần phải nói, tên gián điệp thô bỉ đó là ai không? Kacxi Kôlhaun đã tự làm lấy điều đó.
Phải, đấy chính là hắn.
-
Chương 33
SỰ PHÁT HIỆN ĐAU ĐỚN
Việc gì đã xảy ra khiến người anh họ của Luiza thao thức trong đêm hôm khuya khoắt hay đúng hơn là vào những giờ sáng tinh mơ như vậy? Hắn đã được báo trước về cuộc gặp gỡ này hay chỉ đơn giản là sự nghi ngờ bắt hắn phải ra khỏi phòng ngủ đi kiểm tra xem trong vườn mọi thứ đều đâu vào đấy hay chưa?
Nói cách khác, hắn tình cờ trông thấy những kẻ đang yêu nhau hay hắn đang tiến hành một kế hoạch ám muội có từ trước?
Điều đầu tiên là đúng. Chỉ là sự hoàn toàn tình cờ, đêm trăng đẹp đã giúp cho viên đại ýy giải ngũ khám phá ra bí mật, cái bí mật mà giờ đây đang thiêu đốt tâm hồn hắn như ngọn lửa độc.
Lúc nửa đêm hắn đứng trên sân thượng, không hiểu vì sao hắn lại leo lên đấy. Vừa đứng hắn vừa đầu độc bầu không khí ngát hương hoa xương rồng nến nở về đêm bằng khói thuốc xì gà, rõ ràng hắn không lo lắng gì đặc biệt. Những vết thương do chàng Muxtangher gây ra đã kín miệng. Sự thất bại, ý nghĩ về sự thất bại vẫn còn hành hạ hắn, nhưng cái nóng hổi về sự hồi tưởng đã yếu đi một phần bởi hy vọng trả thù.
Kôlhaun, cũng như cha của Luiza, rất hài lòng vì nàng đã từ bỏ những cuộc đi chơi bằng ngựa. Bởi chính theo lời khuyên của hắn mà Pôinđekter đã cấm nàng đi chơi một mình. Cũng như cha Luiza, hắn chẳng mảy may nghi ngờ nguyên nhân gây nên sự say mê của nàng đối với cung tên, hắn coi việc này là một trò ngộ nghĩnh vô hại. Thậm chí hắn đã bắt đầu tự lừa dối mình bằng hy vọng rằng, rốt cuộc sự lãnh đạm của Luiza chỉ là một sự vòi vĩnh về phía nàng hay chỉ là kết quả của sự tưởng tượng của hắn. Thời gian gần đây nàng đã bớt gay gắt và hắn đã bắt đầu sẵn sàng nghi ngờ những nhận định ghen tuông trước đây của mình.
Từ trước tới nay hắn chẳng có chứng cớ gì để chứng minh rằng nàng say mê chàng Iếclăng trẻ tuổi. Thêm nữa gần đây không có những sự việc gì gây nên những nghi ngờ mới, không có gì xảy ra, vậy là hắn đã khẳng định rằng những điều xảy ra chỉ là báo động giả.
Yên tâm bởi những ý nghĩ đó, Kôlhaun leo lên sân thượng hắn cẩu thả đốt điếu xì gà và hút với vẻ vô tâm. Rõ ràng hắn tới đây trong lúc khuya khoắt mà chẳng có việc gì cả. Có thể hắn muốn thoát khỏi căn phòng ngột ngạt để hít thở không khí trong lành hay có thể để chiêm ngưỡng mặt trăng tuyệt diệu, mặt dù những mong muốn lãng mạn như vậy không thích hợp với tính tình hắn cho lắm.
Vô tình thế nào, khi đốt xì gà, hắn dựa người vào lan can đứng quay mặt ra con sông.
Hắn không lo ngại gì khi nhìn thấy một kỵ sĩ trên bờ sông đối diện hiện ra khỏi đám cây cối và đang tiếp tục con đường của mình trên đồng bằng rộng mở. Con đường đó hắn biết rất rõ. Hắn cho rằng đó là một người lữ hành nào đó muốn tận dụng một đêm mát mẻ, những đêm như vậy thậm chí có thể gọi những người rất mệt mỏi lên đường. Rất có thể là một chủ đồn điền nào đó lân cận, trở về nhà từ khu cư dân, nơi trong những giờ nhàn rỗi anh ta bị níu chân ở bar của khách sạn. Ban ngày, có thể hắn nhận ra người kỵ sĩ, nhưng trong ánh trăng thì khó có thể.
Viên sĩ quan giải ngũ bất giác dõi theo người kỵ sĩ, đôi lúc, khi nghĩ ngợi điều gì đó, hắn nhìn theo những mảnh gỗ bị sóng mang đi về phía dưới dòng sông.
Chỉ khi người kỵ sĩ tiến lại gần khoảng rừng thưa và rẽ ngoặt vào đó, Kôlhaun mới bắt đầu quan tâm tới hành động của anh ta.
- Thế này là nghĩa lý gì nhỉ? Hắn lẩm bẩm sau khi vứt vội điếu xì gà - Quỉ tha ma bắt! Hắn ta nhanh thật! - Hắn nói tiếp khi người không quen kia không còn ở trên lưng ngựa nữa mà xuất hiện ở bìa rừng gần đấy, anh ta đang hướng thẳng tới chỗ khúc sông ngoặt… Đi xuống dốc rất nhanh, đến nỗi thấy rõ rằng anh ta là người rất rành đường – Không lẽ hắn ta định lẻn vào vườn! Nhưng làm thế nào?... Bơi ư? Sợ rằng trò chơi như vậy chẳng bõ công. Kẻ trộm ư?
Đó là điều phỏng đoán đầu tiên của Kôlhaun, nhưng hắn từ bỏ ngay ý nghĩ vừa nảy ra. Thật ra ở những vùng châu Mỹ Tây Ban Nha thậm chí những người nghèo khổ cũng đi ngựa, lại thêm một giả định để cho đây là kẻ trộm.
Nhưng tất cả những điều đó có vẻ không thực chút nào, người gì mà lại nửa đêm phi ngựa đến ăn trộm hoa quả hay rau mầu.
“Vậy hắn ta cần gì ở đây cơ chứ?”
Anh ta dừng ngựa lại trong rừng, tự đi bộ tới con sông – Và rất thận trọng, tới mức tối đa quan sát mọi vật xung quanh dưới ánh trăng. Hành động đó làm người ta phải nghi ngờ tính chất thành thực của những dự định của anh ta, và nói đúng hơn là anh ta như đang có một dự định nào đó ám muội.
Nhưng âm mưu đó là gì?
Người kia biến khỏi dốc và Kôlhaun không thể nhìn thấy anh ta từ sân thượng nữa. Cây cối bao quanh bờ đối diện đã che khuất người lạ mặt.
“Hắn dạo chơi ở đây với mục đích gì nhỉ?”
Viên đại úy giải ngũ hơn mười lần tự hỏi mình, càng ngày hắn càng thêm lo lắng, rồi bỗng nhiên hắn nghe thấy tiếng vỗ nước, dường như ai đó đang ngụp lặn dưới sông. Tiếng động không lớn, nhưng nghe rất rõ.
- Tiếng mái chèo… - Hắn lẩm bẩm – Ta thề với các thánh hắn đã kéo thuyền và đang bơi thẳng vào vườn! Vậy cuối cùng hắn cần gì ở đây cơ chứ?
Không muốn tiếp tục đứng trên mái nhà và vỡ đầu ra vì phỏng đoán. Kôlhaun quyết định xuống dưới để đánh thức những người đàn ông cùng nhau đi lùng bắt.
Hắn đã nhấc tay ra khỏi lan can thì một tiếng động mới bay đến chỗ hắn, buộc hắn lần nữa nghiêng người nhìn vào trong vườn. Tiếng động này hoàn toàn không phải là tiếng vỗ của mái chèo vọng từ phía con sông. Tiếng động không ra tiếng bản lề cửa, không ra tiếng mở cửa sổ? Tiếng động vang lên từ dưới cửa sổ, hầu như ngay dưới chỗ Kôlhaun đang đứng.
Sau khi nhảy qua lan can để xem có chuyện gì xảy ra, khuôn mặt hắn trở nên tái nhợt, y như ánh sáng nhợt nhạt đang tỏa rộng của mặt trăng, trái tim hắn thắt lại vì đau đớn.
Cửa sổ phòng cô em họ mở. Hắn biết rõ cửa sổ này. cô gái đã đứng trên cầu thang dẫn tới khu vườn, rõ ràng nàng sắp đi xuống.
Bận chiếc áo dài trắng toát có những nếp gấp buông xuống thoải mái, với chiếc khăn trong suốt đội trên đầu, nàng làm nhớ tới một nữ thần kiều diễm, hiện lên trong ánh bạc của vầng trăng.
Kôlhaun lập tức hiểu ngay ra sự xuất hiện của nàng có liên quan như thế nào với con người đang bơi qua sông.
Người đó có thể là ai? Có thể là ai nếu không phải là Moric-Muxtangher! Cuộc gặp gỡ bí mật! Không còn nghi ngờ gì nữa Chiếc áo dài trắng lướt đi trong vườn và biến mất sau những bóng cây mọc ven bờ.
Như bị sét đánh, Kôlhaun đứng đờ ra trên ban công. Sau khi chiếc áo trắng biến mất trong vườn, đã nghe thấy tiếng nói chuyện khe khẽ, bay đến từ sau những vòm cây, hắn trấn tĩnh lại và quyết định phải hành động ngay.
Hắn quyết định không đánh thức ai hết, ít nhất là trong lúc này. Hắn cần phải là người đầu tiên chứng kiến sự nhục nhã của cô em họ. Và lúc bấy giờ... Lúc bấy giờ.
Trong giây phút ấy hắn không đủ bình tĩnh để xác định một kế hoạch cụ thể nào, mù quáng theo cơn hứng khởi thô bỉ, hắn vội vàng xuống lầu vòng qua hết tòa nhà và bước vào vườn.
Một sự yếu đuối bất ngờ xâm chiếm hắn - thậm chí khi bước xuống thang hắn khuỵu chân xuống. Đôi chân hắn tiếp tục run cả khi hắn vội vàng chạy đến khu vườn, cả khi hắn đã lẻn ra được sau gốc cây, mà không bị ai để ý, hắn đứng đó theo dõi màn kịch làm hắn nhức nhối tới tận trái tim.
Hắn nghe thấy những lời thề thốt, những lời thú nhận yêu đương, quyết định ra đi của chàng Muxtangher ngày mai lúc trời vừa rạng, lời hứa của chàng sẽ nhanh chóng trở về và những ước mơ chưa được nói hết về tương lai. hắn cay đắng nghe Luiza van nài chàng đừng ra đi và cuối cùng Moric quả quyết với nàng sự cần thiết của chuyến đi này.
Là người chứng kiến những cái ôm dịu dàng cuối cùng của họ, hắn giận dữ dậm chân xuống đá sỏi làm những con ve sầu kinh hoàng im tiếng.
Tại sao trong phút đó hắn không lao tới để cắt ngang cuộc gặp gỡ đầy đau đớn đối với hắn, tại sao hắn không xỉa cho kẻ tình địch kia một nhát dao, lật cái xác không hồn của chàng dưới chân mình và chân người tình của chàng? Sao hắn lại không làm như vậy ngay từ đầu? Không lẽ hắn còn cần thêm những chứng cớ nào khác? Hắn không làm thế bởi trong ánh trăng hắn nhìn rõ sau thắt lưng của chàng Muxtangher lấp lánh khẩu Kol sáu viên đạn chăng?
Mặc dầu bị thiêu đốt bởi mong muốn trả thù, nhưng dù sao cũng có một cái gì đó giữ viên đại úy lại, bắt hắn rời xa cặp tình nhân đúng vào giây phút đau đớn nhất đối với hắn: giây phút họ ôm nhau lần cuối, hắn bỏ chạy về nhà, để lại những người đang yêu và những hành động tiếp theo của họ.
-
Chương 34
SỰ KÍCH ĐỘNG CỦA TÊN “HIỆP SĨ”
Kacxi Kôlhaun chạy đi đâu?
Tất nhiên hắn không về phòng ngủ của mình. Lẽ nào có thể ngủ, khi bị giằng xé bởi những tình cảm ê chề như vậy?
Hắn chạy vào phòng của người em họ Henri Pôinđekter.
Không để mất thời gian tìm nến, hắn bước như chạy theo hành lang ngoằn ngoèo.
Các cánh cửa không đóng, ánh trăng xuyên qua đủ chiếu sáng căn phòng.
Có thể nhìn thấy cách bài trí khiêm tốn của nó: chậu rửa mặt, chiếc bàn nhỏ, một vài chiếc ghế và chiếc giường có treo màn bằng sa chống muỗi.
Chàng trai đang ngủ ngon lành, giấc ngủ khoan khoái chỉ có ở những người lương tâm trong trắng. Cái đầu đẹp đẽ của chàng đặt yên lành, rũ những búp tóc dày rực rỡ trên gối. Kôlhaun nhấc chiếc màn lên, ánh trăng rơi trên khuôn mặt chàng thanh niên, soi rõ những nét can trường và nhân hậu của chàng.
- Dậy đi, Henri, dậy đi! – Người anh họ vừa gọi vừa lay vai chàng.
- Hả? Anh đấy ư, Kacxi? Cái gì vậy? Tôi hy vọng không phải là người da đỏ chứ?
- Còn tệ hơn, tệ hơn nhiều! Nhanh lên! Dậy đi mà nhìn kìa… Nhanh lên, không thì muộn mất! Dậy mà xem điều nhục nhã cho gia đình nhà cậu. Mau lên, không thì tên tuổi Pôinđekter sẽ trở thành trò cười cho cả Tếchdát này đây!
Sau lời cảnh cáo như vậy, tất nhiên ai trong gia đình Pôinđekter còn muốn ngủ nữa. Chàng trai lập tức chồm dậy, nhìn người anh họ ngỡ ngàng.
- Đừng mất thì giờ bận quần áo! – Kôlhaun hồi hộp tuyên bố - Với lại chỉ cần bận quần thôi, thế là đủ. Quần áo mà làm gì - giờ không phải lúc! Nhanh lên! Nhanh lên!
Qua một giây, Henri đã bận xong bộ quần áo đơn giản thường ngày bằng vải bông và vội chạy theo người anh họ vào vườn trong lúc vẫn chưa hiểu hắn đánh thức chàng một cách thô bạo như vậy để làm gì.
- Việc gì vậy, hở Kacxi? – Chàng hỏi, khi Kôlhaun ra dấu cho chàng dừng lại – Hãy nói xem, tất cả những cái này là nghĩa lý gì?
- Cậu tự nhìn kìa… Đứng lại gần tôi. Nhìn qua khoảng sáng giữa hai gốc cây kia kìa, nơi thường ngày vẫn có chiếc thuyền của cậu. Cậu có nhìn thấy cái gì đó không?
- Cái gì trăng trắng… Như chiếc áo dài phụ nữ… Đấy là một người phụ nữ?
- Cậu nói đúng. Đấy là một người phụ nữ. Cậu nghĩ sao, cô ta là ai?
- Không biết. Nhưng là ai vậy?
- Cạnh cô ta là một cái bóng khác, đen.
- Hình như là một người đàn ông… Vâng, một người đàn ông.
- Cậu nghĩ xem, hắn là ai?
- Làm sao tôi biết được, Kacxi? Thế anh biết à?
- Đúng, tôi biết. Người đàn ông đó là Moric-Muxtangher.
- Còn người đàn bà?
- Luiza, chị cậu đó, trong vòng tay hắn ta.
Dường như bị thương trúng tim, chàng trai loạng choạng, ngay sau đó chàng xông ra phía trước.
- Đứng lại! – Kôlhaun vừa nói vừa níu lấy chàng - Cậu quên rằng cậu không có vũ khí, còn tay Muxtangher được vũ trang. Hãy cầm lấy cái này - Hắn vừa nói vừa đưa cho chàng con dao găm và khẩu súng lục – Tôi chỉ muốn tự mình hành động, nhưng tôi nghĩ, tốt hơn là cậu làm điều này như một người em trai bảo vệ chị gái mình! Hãy nhẹ nhàng tới gần khi họ rời nhau ra, hãy bắn vào bụng hắn, sau đó dùng dao đâm! Tôi ở ngay đây và sẽ tiếp tay cậu khi cần thiết. Đi đi! Hãy đến gần thằng đểu cáng này và gửi hắn về địa ngục.
Henri Pôinđekter chẳng cần tới nhữhg lời chỉ dẫn đê tiện đó. Quên hết mọi sự, chàng lao về phía trước và trong khoảnh khắc đã đứng ngay cạnh chị gái.
- Đồ vô lại hèn hạ! – Chàng quát lên, đứng ra ngay trước mặt chàng Muxtangher – Hãy thả ngay chị ta ra khỏi vòng tay bẩn thỉu của mi!... Luiza, đứng sang một bên để em giết hắn đi! Đứng sang bên, kìa chị, Luiza!
Nếu Luiza nghe lời, qua một khắc sau, chắc chắn Moric Giêran không còn sống nữa, chàng làm sao mà thoát chết, nếu tay chàng chỉ kịp nâng khẩu súng mà chàng sử dụng nó một cách nghệ thuật, thì Henri đã kịp bắn đầu tiên.
Thay vì rút khẩu súng lục ra khỏi bao, hay nói chung làm một cái gì đó để tự vệ. Moric-Muxtangher chỉ thả cô gái ra khỏi vòng tay, nhưng nàng vẫn tiếp tục đứng sát vào chàng Chàng chỉ lo cho tính mạng của nàng.
Henri biết rằng, nếu chàng bắn Muxtangher thì có khả năng chàng sẽ giết chị, vì sợ điều này nên chàng trai chưa bóp cò.
Sự chậm trễ đó đã cứu cả ba người. Nàng krêôl trẻ tuổi nhanh chóng nhận định tình hình, đột nhiên nàng buông tay người tình và túm chặt lấy hai tay em trai. Nàng biết rằng Moric sẽ không bắn,chỉ cần ngăn Henri lại.
- Chạy đi, chạy đi! – Nàng vừa hét lên với chàng Muxtangher vừa giữ chặt lấy hai tay của cậu em trai đang giận đến mất cả khôn. – Henri nhầm rồi, emsẽ giải thích sau. Chạy nhanh đi, Moric, trốn mau đi!
- Henri Pôinđekter! – Chàng Iếclăng trẻ tuổi nói, chàng đã sẵn sàng tuân theo ý nàng – Ngài cho tôi là kẻ vô lại, thật vô lý. Hãy cho tôi thời gian, và tôi sẽ chứng minh rằng, chị gái ngài hiểu rõ tôi hơn cả cha nàng, em trai hay anh họ nàng. Nếu sáu tháng nữa ngài không được tin chắc rằng, tôi xứng đáng với lòng tin của nàng, với tình yêu của nàng thì ngài có thể giết ngay tôi đi trong cuộc gặp gỡ đầu tiên, như bắn chết một con chó hèn nhát, gặp trên đường đi của ngài. Còn bây giờ thì tạm biệt.
Nghe chàng Muxtangher nói, Henri thôi không giật ra khỏi tay chị mình nữa, mà thật ra đôi tay đó còn mạnh hơn tay chàng.
Ý muốn vùng ra dần dần yếu đi và cuối cùng chàng trai đứng yên. Đúng lúc đó, từ phía bờ sông vọng đến tiếng vỗ nước, báo hiệu rằng con người khuấy động sự yên tĩnh của Kaxa-del-Korvô đã trở về đồng cỏ hoang vắng, nơi đã trở thành quê hương thứ hai của chàng.
Lần đầu tiên chàngmux trở về từ nơi hẹn hò bằng cách như vậy. Hai lần trước chàng bơi qua sông bằng thuyền, và bằng bàn tay dịu dàng của người phụ nữ với sự giúp đỡ của chiếc lắcxô nhỏ, mà người ta tặng nàng cùng với con muxtang, nàng kéo chiếc thuyền mảnh khảnh về chỗ thường xuyên của nó.
- Em ơi, em không công bằng với chàng rồi! Chị tin chắc là em đã không công bằng! – Luiza kêu lên, khi Moric vừa đi khỏi – Ôi, Henri yêu quí, nếu em biết được chàng hào hiệp như thế nào! Chàng không bao giờ có ý định làm chị đau khổ, chàng vừa nói với chị, rằng chàng định làm gì để ngăn chặn những lời đồn đại. Chị muốn nói, chàng định làm sao để cho chị được hạnh phúc. Em ơi, hãy tin chị, chàng là người tử tế. Nhưng cho dù có gì xảy ra, dù chàng là ai chăng nữa, thậm chí chàng có là người nghèo khó như em tưởng, thì chị cũng không thể không yêu chàng!
- Luiza, hãy nói thật với em. Hãy nói với em như chị tự nói với chị. Những gì mà em nhìn thấy ở đây, còn hơn cả những lời chị nói thì em hiểu rằng chị đã yêu hắn. Chị hãy nói, hắn có lợi dụng tình yêu đầy tin cậy của chị hay không?
- Không! Không! Không! Chị thề với em. Chàng hào hiệp vô cùng. Tại sao em lại làm nhục chàng như vậy hở Henri?
- Em làm nhục chàng?
- Đúng, Henri ạ, thế là thô bạo, không công bằng.
- Em sẵn sàng xin lỗi chàng. Em sẽ đuổi kịp chàng và xin chàng tha thứ vì sự không kiềm chế được của em. Chị ạ, nếu chị nói thật thì em phải làm điều này. Em phải đuổi nhanh theo chàng mới được. Chị cũng biết đấy, em thích chàng ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên. Và bây giờ, Luiza yêu quí, để em đưa chị vào nhà. Chị hãy về giường nằm đi. Còn em sẽ tới khách sạn, có thể, em sẽ gặp chàng tại đó. Em sẽ không tìm thấy sự yên tĩnh cho mình khi nào còn chưa xin lỗi chàng vì sự thô bạo của mình.
Henri thận trọng đỡ khuỷu tay chị đưa vào nhà. Chàng rất tiếc vì hành động của mình và sự giận dữ của chàng tan biến không còn lại dấu vết. Chàng trai vội trở về phòng, vừa tính toán xem liệu bây giờ có đuổi kịp chàng Muxtangher để xin lỗi chàng vì sự nóng giận của mình để chàng khỏi hiểu lầm hay không.
Khi hai chị em vừa đi khuất, con người thứ ba, trước lúc đó còn giấu mình, len qua những bụi cây, đứng thẳng người lên, theo sau họ đi lên những bậc thang đá. Đó là người anh họ của họ: Kacxi Kôlhaun.
Hắn cũng đang nghĩ cách đuổi theo chàng Muxtangher.
-
Chương 35
CHỦ NHÀ KHÔNG HIẾU KHÁCH
“Thằng hèn nhát đáng thương! Thằng ngu xuẩn! Chính ta cũng là đồ ngu, đã đặt tin tưởng nơi hắn. Ta phải biết trước rằng nàng sẽ biết cách nói với con chó con này và để cho thằng vô lại kia có khả năng chuồn mất. Ta có thể bắn vào hắn từ sau gốc cây, giết chết hắn như giết một con chuộc cống vậy, chẳng phải mạo hiểm gì, thậm chí công khai là đằng khác! Chú Vili chỉ có việc cám ơn ta, tất cả rồi sẽ tha thức cho hành động của ta. Cô em họ, con gái của một gia đình, tiếng tăm bị một thằng vô lại lừa dối. Một thằng bán ngựa! Ai có thể phán xét được ta cơ chứ? Một cơ hội như vậy! Quỉ tha ma bắt! Ta đã để tuột mất hắn như vậy ư? Bây giờ thì không biết đến bao giờ hắn mới xuất hiện lần nữa!”
Viên đại úy giải ngũ vừa đi theo sau Henri và Luiza một quãng, vừa tự lên án mình.
- Không lẽ con chim còn non nớt này nói nghiêm túc? - Hắn vừa lẩm bẩm vừa đi vào sân – Không lẽ hắn định xin lỗi kẻ đã bôi xấu chị hắn? Điều này thật nực cười, nếu như không nói là đáng buồn. Có tiếng động phía chuồng ngựa, đúng là hắn định đi xin lỗi thật… Đúng là hắn đang đóng yên cương con ngựa.
Cửa chuồng ngựa, như thường thấy ở các trang trại vùng Mếchxich, nhìn ra sân lát đá. Nó nửa khép nửa mở, lúc Kôlhaun nhìn vào, có ai đó đẩy từ phía trong và cánh cửa mở toang ra. Trên ngưỡng cửa hiện ra một người dắt một con ngựa đã đóng yên cương.
Người đó đội trên đầu một chiếc mũ Panama, trên vai là chiếc áo khoác. Kôlhaun nhận ra ngay người em họ của mình và con ngựa ô của chàng.
- Đồ ngu! Thế có nghĩa là cậu đã thả hắn ra! – Viên đại úy càu nhàu giận dữ khi chàng trai tiến gần lại - Trả lại cho ta con dao găm và khẩu súng. Những đồ chơi này không phải dành cho đôi tay mếm yếu của cậu. Tại sao cậu không hành động như đã bảo? Tại sao cậu ngu thế!
- Đúng, tôi thật ngu ngốc – Chàng chủ đồn điền trẻ tuổi bình tĩnh trả lời – Tôi biết, tôi đã thô bạo và vô cớ làm nhục một con người tử tế.
- “Làm nhục một con người tử tế”! Ha ha ha! Cậu điên rồi!
- Đúng là tôi đã điên, bởi tôi đã nghe theo lời khuyên của anh, Kacxi ạ. May sao tôi đã không đi quá xa. Nhưng dù sao tôi cũng kịp làm bao nhiêu điều ngu ngốc đến nỗi tôi thật xứng đáng được gọi là một thằng ngu, nhưng tôi tin rằng chàng sẽ hiểu và tha thứ cho tôi. Tốt hơn hết là tôi đi ngay bây giờ, không để chậm một phút nào.
- Cậu đi đâu?
- Đuổi theo Moric-Muxtangher, để xin lỗi chàng vì cách xử sự không xứng đáng của mình.
- “Xử sự không xứng đáng”! Ha ha ha! Có lẽ cậu đùa chăng?
- Không, tôi nói hoàn toàn nghiêm chỉnh. Chúng ta cùng đi và tự anh sẽ thấy điều đó.
- Nếu vậy thì tôi lại nói lần nữa, rằng đúng là cậu điên rồi. Và không chỉ là điên mà còn là một thằng ngốc thậm tệ!
- Anh không được lịch thiệp lắm đâu, ông anh họ Kacxi ạ, nhưng sau những điều mà tôi đã lỗ mãng thốt ra, tôi sẵn sàng tha thứ cho sự gay gắt đó của anh. Có thể một lúc nào đó anh sẽ noi gương tôi và xin lỗi vì sự thô bạo của mình.
Cùng với những lời này, chàng trai nhân hậu nhảy lên ngựa và nhanh chóng phi khỏi cổng dinh cơ.
Kôlhaun đứng ngẩn người, trong khi tiếng gõ móng của con ngựa xa dần và mất hút đằng xa.
Sau đó, dường như tỉnh mộng, bằng những bước chân quả quyết hắn đi nhanh qua hiên nhà về phòng mình, lát sau hắn bước ra trong chiếc áo khoác cũ, đi tới chuồng ngựa và đóng yên cương con ngựa của mình. Hắn thận trọng dắt ngựa đi qua sân lát đá như một thằng ăn trộm. Chỉ sau khi ra khỏi dinh cơ nơi bắt đầu có cỏ mềm, Kôlhaun mới nhảy lên yên và giục ngựa.
Hắn phi theo cùng một con đường với Henri Pôinđekter khoảng một hoặc hai dặm nhưng rõ ràng không định đuổi theo chàng. Tiếng vó ngựa của Henri từ lâu đã không còn nghe rõ còn Kôlhaun thì đi nước kiệu nhỏ.
Viên đại úy giải ngũ đi dọc theo con sông. Khoảng được nửa con đường tới đồn biên, hắn dừng ngựa, sau khi nhìn chăm chú đám cây cối, hắn rẽ ngoặt vào con đường mòn dẫn tới bờ sông.
- Chưa phải đã là mất hết, chỉ có điều bây giờ phải tốn tiền - Hắn lẩm bẩm một mình – Ta sẽ mất một nghìn đôla. Nhưng mặc kệ! Miễn là loại được thằng Iếclăng đáng nguyền rủa đã đầu độc cuộc sống của ta! Theolời hắn, sáng sớm ngày mai hắn sẽ lên đường về nhà. Vào giờ nào nhỉ, biết được thì thú vị lắm đấy. Đối với dân đồng cỏ, hình như dậy vào lúc mặt trời mọc đã là muộn lắm rồi. Không sao, chúng ta còn đủ thời gian! Sói sẽ đuổi kịp Moric. Đó là con đường mà chúng ta đã đi săn ngựa hoang. Hắn đã nói là ngôi nhà của hắn ở Alamô. Con sông được gọi như vậy, bên bờ con sông này chúng ta đã tổ chức cuộc pichnich. Túp lều của hắn, chắc là cách đó không xa “Sói đồng” chắc phải biết ngôi nhà đó, hay ít nhất cũng phải biết cách đi tới đó như thế nào. Đối với chúng ta thế là đủ. Biết nhà mà làm gì? Bởi đơn giản là chủ nó có tới được đó đâu: trên đường hắn có thể gặp người da đỏ - đúng hơn là người da đỏ đón hắn.
Lúc ấy viên đại úy đã tới căn nhà, nhưng không phải căn nhà mà hắn đang nghĩ tới mà là căn lều của tay săn ngựa người Mếchxich – đó là mục đích chuyến đi của hắn.
Nhảy khỏi yên, buộc ngựa vào cành cây, hắn bước tới cửa ra vào.
Căn nhà cửa mở toang. Từ trong đó vọng ra tiếng người mà người ta không khó gì đoán ra đó là tiếng người ngáy.
Nhưng đó không phải tiếng ngáy của một con người đang ngủ yên tĩnh, ngon lành. Người đó lúc thì im bặt, lúc thì khụt khịt, lúc chuyển thành tiếng kêu ú ớ, mà khó khăn lắm người ta mới đoán ra đó là tiếng chửi rủa. Không nghi ngờ gì chủ nhân căn lều đã uống khá nhiều.
- Địa ngục! Một nghìn con quỉ! – người ngủ lắp bắp, hắn bắt đầu gọi tên tất cả những nhân vật trên bàn thờ thiên chúa: - Ôi Giêsu! Thánh nữ! Ôi đức Mẹ! Lạy chúa Maria.
Kôlhaun dừng lại ở ngưỡng cửa và lắng nghe.
- Trời tru đất diệt! - Hắn nghe thấy – Tin tức tốt lành. Tôi thề có máu Krix! Vâng, thưa Xenho Amêrika! Tin tuyệt hảo đấy ạ! Bọn da đỏ… hầy… Komantri tuyên chiến. Thần da đỏ đã chúc phước!
- Thằng vô lại này lại say mèm rồi! – Kôlhaun nói thành tiếng.
- Ê, Xênho! – Người Mếchxich kêu lên, đã hơi tỉnh ra vì nghe thấy tiếng người – Phúc đức quá nhỉ?... Không, không phải! Tôi rất vui mừng được trông thấy ngài, tôi, Miguel Điac, Sói đồng, bọn lang thang gọi tôi như vậy đó. Ha ha ha. Sói! Hả, thế ngài tên là gì ạ? Quí danh? Xenho? Nghìn con quỉ, vậy ngài là ai?
Nhổm người lên khỏi ổ nằm được lát bằng cây sậy, Sói đồng ngồi một lúc ngây dại nhìn người khách bất ngờ đến làm dứt đoạn cơn say dúi dụi của hắn.
Nhưng điều này kéo dài không lâu đâu. Lẩm bẩm cái gì đó không ai hiểu nổi tên Mếchxich lại nằm sóng soài ra giường. Tiếng ngáy như sấm của hắn cho thấy rằng người chủ kia không còn biết gì đến sự có mặt của khách nữa.
- Thế là lại mất thêm một dịp! –Kôlhaun vừa chán nản quay ra vừa rít lên - thằng ngu lúc tỉnh và thằng vô lại lúc say, còn gì nữa đây, những tên giúp việc cho kế hoạch của ta! Lũ đáng nguyền rủa! Cả đêm xúi quẩy! Phải mất ít nhất ba tiếng đồng hồ để cho cái đồ lợn này tỉnh lại! Ba tiếng! Bấy giờ thì đã quá muộn, quá muộn…
Nói những lời này, Kôlhaun cầm lấy cương ngựa, dường như hắn đang phân vân.
- Ở lại đây thì chẳng nghĩa lý gì. Trời bắt đầu sáng khi hắn tỉnh lại. Như vậy thì ta chỉ còn kịp về nhà và đợi ở đấy, hay là…
Hắn không nói ra lời ý nghĩ vừa nảy ra trong óc hắn. Nhưng dù sao sự phân vân của hắn cũng chấm dứt. Với một cử động đột ngột, hắn tháo dây cương ra khỏi cành cây, nhảy vội lên yên, hắn phi ngược lại con đường đi tới căn lều của Sói đồng
-
Chương 36
BA NGƯỜI TRÊN MỘT CON ĐƯỜNG
Không ai phản đối rằng, đi ngựa trên đồng cỏ là một trong những thú vui dễ chịu nhất trên đời.
Nếu bạn có một con ngựa tốt, sau yên buộc chặt một bao thực phẩm đầy căng, ở mỏ yên lủng lẳng chiếc bi đông, từ trong bao súng nhô ra một cái bót hút thuốc cong, thì bạn có thể tin rằng cuộc phiêu lưu như vậy sẽ chẳng bao giờ làm bạn buồn.
Và nếu người bạn đường, đang phi kề bên bạn, cũng yêu thiên nhiên như bạn, thì cuộc du hành khó khăn sẽ biến thành một thú vui không sao quên được.
Nhưng nếu cùng bạn là một cô gái, mà bạn đã hiến dâng trái tim mình cho nàng, thì bạn sẽ trải qua niềm vui sướng mà nó được giữ gìn trong ký ức bạn suốt cuộc đời.
Ôi, nếu như những nhóm người nho nhỏ như vậy là số phận của tất cả những người du hành trên đồng cỏ, thì khoảng không gian bát ngát nơi đồng cỏ Tếchdát sẽ đầy những người đi du lịch! Bình nguyên hoang dại bao la sẽ đầy những con đường mòn và trong những trảng cỏ sẽ có vô số những tay công tử kiêu kỳ phi ngựa rầm rập.
Nhưng tốt hơn hết là cứ để nguyên đồng cỏ như nó vốn có. Trong đồng cỏ, khi bạn rời xa những dấu vết của khu cư dân, khi bạn rẽ ngoặt khỏi “con đường lớn” in dấu năm sáu con ngựa đã đi qua đấy trước bạn thì bạn sẽ đi hàng giờ, hàng tuần, hàng tháng, và có thể, cả năm tròn mà không hề gặp một người nào.
Chỉ có ai, đã tự mình du hành trên bình nguyên Tếchdát bát ngát, mới có thể đánh giá được sự mênh mông của nó.
Thậm chí đại dương cũng không tạo nên được những cảm xúc như vậy về sự vô tận của không gian. Khi bạn du hành trên đại dương, bạn không nhận thấy bạn đang chuyển động về phía trước. Cái bề mặt xanh ngắt bao la với vòm trời úp lên nó cũng một màu ngọc lam như vậy, nhưng hơi sáng màu hơn một chút, lúc nào cũng bao quanh bạn và ở trên đầu bạn, bạn không hề nhìn thấy sự thay đổi nào. Bạn có cảm giác đang đứng không chuyển động ở trong tâm một vòng tròn lớn dưới một vòm trời vĩ đại, bạn không có khả năng nhận thứcđược toàn bộ sự hùng vĩ của khoảng xa khơi bao la không bờ bến.
Trên đồng cỏ - lại là chuyện khác, những ốc đảo rừng, những gò đống, cây cối, như những cột mốc, kế tiếp nhau thay đổi nói với bạn rằng bạn đang vượt qua không gian bát ngát.
Người lữ hành trên đồng cỏ - đặc biệt là trên đồng cỏ Tây nam Tếchdát - rất ít khi chiêm ngưỡng vẻ quyến rũ hoang dại của đồng cỏ một mình, thường họ đi hai người, ba người, và nhất là họ đi thànhnhóm mười, hai mươi người.
Nhưng ở đây đôi khi có thể gặp những lữ khách cô đơn. Thì đây, thí dụ như đêm hôm ấy, đêm xảy ra tấn kịch ở khu vườn Kaxa-del-Korvô, ít nhất cũng có ba lữ khách xuyên qua bình nguyên, trải dài phía Tây nam bờ sông Lêông.
Đúng vào lúc Kôlhaun, buồn bực vì thất bại, rời khỏi căn lều của tay săn ngựa người Mếchxich, có thể nhìn thấy người lữ hành đầu tiên đi khỏi khu cư dân theo hướng sông Nuêxet hay là một trong những chi lưu của nó.
Chẳng cần nói thêm rằng người đó cưỡi ngựa, bởi vì ở Tếchdát người ta chỉ gặp người đi bộ ở các thành phố hay trong các đồn điền.
Kỵ sĩ ngồi trên một con ngựa tuyệt đẹp, những bước chân đều đăn, dẻo dai nói lên rằng, nó có khả năng chịu đựng những cuộc hành trình dài.
Họ có định làm một cuộc hành trình như vậy không, không thể nói được. Kỵ sĩ ăn vận như bất cứ một người Tếchdát nào, chuẩn bị đi thêm mười dặm nữa. Chắc hơn cả là chàng đang trở về nhà. Chắc gì trong đêm khuya như vậy chàng còn bỏ nhà ra đi. Chiếc xarap hờ hững trên vai, chỉ là để cho chàng tránh sương đêm.
Nhưng vì trong đêm đó không có sương, nên hẳn là kỵ sĩ đang định đi xa, hơn nữa về hướng chàng đang đi tới gần đó không có một khu cư dân nào.
Mặc dầu vậy, chàng hoàn toàn không vội vã, dường như đối với chàng thế nào cũng vậy thôi, khi nào chàng đạt được mục đích cuộc hành trình cũng được. Hình như chàng đang đắm mình trong những hồi tưởng tràn ngập lòng chàng đến nỗi chàng chẳng hề để ý gì đến xung quanh.
Dây cương thả lỏng, con ngựa được hoàn toàn tự do, nhưng nó không dừng lại mà bước những bước chắc chắn, dường như đang đi theo một con đường quen thuộc.
Người lữ hành đầu tiên cứ đi như vậy, không ra roi dục ngựa, không giật dây cương cho tới khi bóng chàng mờ dần trong màn sương được chị Hằng chiếu sáng nơi xa xa.
-o0o-
Hầu như ngay lúc người kỵ sĩ đầu tiên khuất dạng, ở ven khu cư dân xuất hiện kỵ sĩ thứ hai và chàng cũng đi theo con đường đó – như là họ có hẹn trước với nhau.
Nhìn cách ăn mặc của chàng, có lẽ chàng đang bắt đầu hành trình trên một conđường xa.
Chàng khoác một chiếc áo khoác rộng, màu tối, những nếp gấp phóng khoáng rũ xuống phía sau trên mông ngựa.
Khác với kỵ sĩ thứ nhất, kỵ sĩ này rõ ràng đang vội, chàng luôn ra roi và giật cương ngựa.
Hình như chàng muốn đuổi theo ai đó. Có thể chàng đang đuổi theo người kỵ sĩ thứ nhấ… Xét cung cách của chàng, điều này hoàntoàn có thể. Thỉnh thoảng chàng lại dướn người ra phía trước, chăm chú nhìn về phía xa, dường như chờ đợi một bóng người sẽ được vẽ lên cái phông của bầu trời.
Một lát sau, người kỵ sĩ thứ hai cũng biến mất, và cũng y như vậy, chàng biến đi đúng vào chỗ mà người thứ nhất khuất dạng. Nếu có một người nào quan sát từ đồn biên hay ku cư dân sẽ có cảm giác như vậy.
Và như một sự trùng hợp kỳ dị - nếu như đây đúng là sự trùng hợp – chính vào thời điểm đó, thời điểm người kỵ sĩ thứ hai vừa khuất dạng, thì từ rìa khu cư dân nhỏ bé vùng Tếchdát lại hiện ra người thứ ba, người đó cũng chuyển động theo hướng hai người đầu tiên.
Cũng như họ, người đó ăn mặc như người đi du hành. Anh ta bận chiếc áo khoác màu đỏ rực rỡ, thân mình hoàn toàn bị che kín. Dưới tà áo rộng chỉ nhìn thấy khẩu súng săn ngắn, đặt nằm ngang trên yên.
Như người kỵ sĩ thứ nhất, người đó đi rất chậm - thậm chí ngay đối với người định đi một con đường dài. Rõ ràng người đó đang lo lắng, điều này làm người ta nhớ tới kỵ sĩ vừa đi trước anh ta.
Mặc dầu trong hành động của hai người này có sự khác nhau xa. Trong khi người kỵ sĩ bận chiếc áo choàng sẫm màu dường như đang đuổi theo một người nào đó, thì ngược lại kỵ sĩ bận chiếc áo khoác đỏ lại luôn luôn ngoảnh lại phía sau, dường như anh ta chỉ quan tâm đến những gì xảy ra sau lưng.
Thỉnh thoảng người đó vừa đứng dựng trên bàn đạp vừa nhìn quanh, có khi còn quay hẳn ngựa chăm chú nhìn con đường vừa đi qua, và lúc nào cũng nghe ngóng như sợ có người đuổi theo…
Cứ tiếp tục vừa đi vừa quay lại như vậy, người kỵ sĩ thứ ba cũng mau chóng mờ dần ở phía xa, người đó không đuổi theo ai, mà cũng chẳng có ai đuổi theo người đó.
-o0o-
Bị chia cách ra bởi những khoảng cách hầu như bằng nhau, ba kỵ sĩ chuyển động trên đồng cỏ, không nhìn thấy nhau.
Nếu ai có thể nhìn bao quát một lúc cả ba người hay chỉ hai người, thì đó chỉ có thể là con cú mèo đậu trên đỉnh một cái gò cao nào đó hay con chim ăn đêm đang đi săn những con bướm ma trong bầu trời.
Một giờ sau, ba người lữ hành đã đi xa đồn biên khoảng mười dặm, vị trí tương đối của họ đã thay đổi một cách đáng kể.
Người kỵ sĩ thứ nhất đã đi tới khoảng trống trong rừng, nó như một con đường dài có cây cối mọc hai bên được vạch ra trong rừng rậm trải dài về bên phải, bên trái xa tới hút tầm mắt. Khoảng trống có thể so sánh với một eo biển rộng, bề mặt xanh rờn của nó được bao bọc bởi màu xanh đậm hơn của cây rừng, y như mặt nước được bao bọc bởi bờ đất. Mặt trăng đang lặn chiếu sáng nó khoảng nửa dặm. Tiếp theo con đường rừng rẽ ngoặt vào bóng tối những cây cổ thụ.
Trước khi bước vào khoảng trống, người đầu tiên trong số ba kỵ sĩ rõ ràng đang phân vân: chàng ghìm ngựa khoảng một hai giây chăm chú quan sát. Chàng không ngoái lại phía sau, cái nhìn của chàng tập trung vào con đường giữa những cây cối trong rừng. Nhưng chàng phân vân không lâu.
Sau khi quyết định, chàng giục ngựa đi về phía trước.
Đúng lúc ấy người kỵ sĩ bận áo khoác màu đen, cũng trên con đường đó đuổi theo người kỵ sĩ thứ nhất, trông thấy chàng, hai người cách nhau khoảng nửa dặm.
Nhìn thấy kỵ sĩ thứ nhất, kỵ sĩ áo đen khẽ kêu lên. Hình như chàng rất lấy làm hài lòng là cuối cùng chàng đã đuổi kịp con người mà chàng đã mất công phi đến mười dặm. Sau khi thúc ngựa đi nhanh hơn, chàng cũng đi vào khoảng trống trong rừng.
Nhưng người kỵ sĩ đầu tiên đã biến vào bóng tối của chỗ ngoặt.
Người kỵ sĩ thứ hai không chút ngần ngại rượt theo và cũng nhanh chóng biến mất.
Khi người kỵ sĩ thứ ba tới được chỗ đó thì một khoảng thời gian khá lâu đã trôi qua.
Người đó không tiến vào rừng như hai kỵ sĩ đầu tiên mà rẽ sang bên bìa khoảng trống, ở đây anh ta buộc ngựa lại rồi đi xéo qua một đám cây bước vào khoảng trống.
Đầu tiên người đó nhìn lại phía sau, dường như ở đó xảy ra những điều làm anh ta quan tâm hơn nhiều những gì xảy ra phía trước. Anh ta lẩn tới một nơi khuất bóng trong khoảng rừng và dấu mình vào bóng tối, giống như hai kỵ sĩ đầu.
Trong hơn một giờ, dàn đồng ca đêm không dứt của các sinh vật hai lần bị ngắt quãng bởi tiếng móng ngựa, một lần bởi bước chân người, lại tiếp tục vang lên.
Nhưng rồi tiếng rừng lại ngừng bặt một lần nữa, lần này chúng tắt đi và im ắng hồi lâu. Tiếng động làm chúng nín lặng không giống tiếng móng ngựa, không giống tiếng bước chân sột soạt của con người bước trên cỏ mềm Đấy là tiếng réo khô khan của khẩu súng săn.
Con mèo rừng thôi ngao lên trong đám cây rậm, không còn nghe thấy tiếng rú của con chó rừng, đương lang thang theo mép con đường và thậm chí con báo đen cũng thôi gầm gừ.
Nhưng sau phát súng không hề nghe thấy tiếng rên rỉ của người bị thương, không có tiếng gầm rít của con thú bị trúng đạn và con báo đốm đen kia đe dọa cư dân trong rừng bằng tiếng gầm gừ khàn đặc của mình.
Những người bạn và kẻ thù – chim chóc, thú rừng, côn trùng, bò sát – không hề chú ý tới tiếng gào thét vọng đến từ xa của nó, lại hát lên bản hòa tấu đinh tai nhức óc. Và chỉ lát sau trong những đám cây lại lặp lại sự huyên náo mà thậm chí người ta có đứng cạnh nhau, cũng phải hét lên mới nghe thấy được.
-
Chương 37
SỰ MẤT TÍCH ĐÁNG NGỜ
Tiếng chuông ở Kaxa-del-Korvô vang lên báo hiệu giờ ăn sáng, tiếng tù và vang lên còn sớm hơn, gọi dậy những người nô lệ từ những xó xỉnh xa nhất của đồn điền.
Những người làm việc ở gần, ở cạnh những ngôi nhà hay hàng rào đã bắt đầu đi ăn.
Gia đình ngài chủ đồn điền đã tụ tập trong phòng ăn, chuẩn bị ngồi vào bàn, nhưng hình như họ tập hợp chưa đủ.
Không thấy Henri đâu.
Lúc đầu mọi người không thấy gì lạ, tất cả chờ chàng xuất hiện.
Nhưng mấy phút trôi qua mà Henri vẫn không thấy. Ngài chủ đồn điền hơi ngạc nhiên nói rằng con trai ông không hề quen đến bàn ăn trễ.
Ở vùng Tây nam nước Mỹ này người ta quy định rằng tất cả thành viên trong gia đình phải tụ tập ăn sáng vào một giờ nhất định để cùng ngồi vào bàn. Sự ra đời của phong tục này có liên quan đến một vài đặc điểm của thực đơn: bánh bích quy Viêcghin, bánh kem, bánh cam - tất cả những thứ ngon lành này ra lò đúng vào lúc mọi người ngồi vào bàn – là giờ vất vả nhất đối với những người làm bên bếp lò nóng rực.
Kẻ lười nào thích ngủ nướng và đến bàn ăn chậm có thể phải ăn bánh cam nguội, hoặc không còn bánh kem nữa – chính vì vậy mà ở các đồn điền miền Nam những kẻ lười như vậy rất hiếm.
Cho nên mọi người thực sự lấy làm lạ, tại sao Henri Pôinđekter vẫn chưa tới ngồi vào bàn.
- Thằng bé biến đi đâu nhỉ? – Như chẳng nói với ai, người cha hỏi tới lần thứ tư.
Cả Kôlhaun, cả Luiza đều không ai trả lời. Luiza cũng tự hỏi như vậy. Mặc dầu trong cái nhìn và trong giọng nói của nàng có cái gì đó khác lạ, nhưng điều này phải nhìn thật kỹ vào mặt nàng mới thấy được.
Điều gì có thể giải thích sự vắng mặt của em nàng trong bữa sáng. Chẳng lẽ điều vớ vẩn như vậy lại khiến mọi người lo lắng. Nhưng Luiza lúc này đang rất lo sợ.
Sao vậy? Không ai hỏi gì nàng. Cha nàng không để ý thấy điều kỳ lạ trong mắt nàng và càng không chú ý tới người anh họ của nàng, người cũng đang tự cố gắng che dấu một ý nghĩ nào đó không mấy dễ chịu dưới cái mặt nạ bình tĩnh giả tạo.
Từ lúc bước vào phòng ăn, Kôlhaun không nói một lời, bất chấp cả thói quen, hắn không nhìn Luiza một lần nào.
Ngồi sau bàn ăn hắn có vẻ sốt ruột rõ rệt, thậm chí lúc người hầu xuất hiện, hắn rùng mình đến hai lần.
Rõ ràng hắn cũng đang rất lo lắng vì một cái gì đó.
- Lạ thật, Henri mà đi ăn trễ - Phải đến lần thứ mười ngài chủ đồn điền nhắc – Không lẽ nó còn ngủ?... Không, Henri không bao giờ dậy muộn. mà nếu nó đã đi đâu thì cũng phải nghe tiếng tù và chứ… Có thể nó còn đang ở trong phòng… Plutôn!
- Cháu ở đây, thưa ông Vili! Ông gọi cháu ạ?
Ngoài nhiệm vụ xà ích, người ta còn giao cho Plutôn làm nài ngựa, phục vụ bàn ăn.
- Đến ngay phòng ngủ của cậu Henri, nếu có cậu ở đó, nói với cậu rằng chúng ta sắp ăn sáng xong.
- Không có cậu ở đó, thưa ông Vili.
- Anh đã đến phòng nó rồi ư?
- Dạ, không ạ, cháu muốn nói là không. Cháu không đến phòng cậu, nhưng cháu ở chuồng ngựa, cháu muốn cho ngựa ăn, thưa ông Vili. Suốt buổi sáng nay không có nó ở đấy. Cháu dậy từ tờ mờ đất. Cả yên cương cũng không có nốt. Cậu đã ra đi khi tất cả còn đang ngủ.
- Anh tin chắc điều này chứ? – Ngài chủ đồn điền nói, ông càng thêm lo lắng bởi một cái tin như vậy.
- Đúng thế, thưa ông Vili! Trong chuồn chỉ có con ngựa của ông Kôlhaun. Con đốm sao được thả ở sân quần, còn con ô của cậu Henri thì không thấy đâu cả.
- Điều này chưa có nghĩa là Henri không có trong phòng. Hãy đi ngay xem xem.
- Cháu đi ngay đây, thưa ông! Ông sẽ thấy, Plutôn này nói đúng sự thật. Cậu chủ trẻ tuổi không có ở đó đâu. Cậu ở chỗ con ngựa của cậu ấy.
- Ta không thể hiểu được – Ngài chủ đồn điền thốt lên khi Plutôn bước ra khỏi phòng – Henri đi khỏi nhà, mà lại đi trong đêm. Nó đi đâu nhỉ? Ta không thể hiểu được, nó có thể đến nhà ai trong đêm khuya như vậy. Theo lời tên da đen, như vậy là nó vắng mặt suốt đêm. Chắc là nó đến đồn biên với đám thanh niên. Ta hy vọng nó đừng ở quán rượu…
- Ồ không, tất nhiên là cậu ấy không tới đó – Kôlhaun nói xen vào, dường như cũng phân vân không kém gì ngài chủ đồn điền. Mặc dù hắn không nói một câu nào, một lời nào về màn kịch diễn ra trong vườn.
“Ta hy vong Kacxi không biết gì về điều này – Luiza nghĩ - Nếu vậy tất cả chỉ có thể là bí mật giữa ta và em ta. Ta lúc nào cũng biết cách nói với Henri… Nhưng tại sao nó lại vắng mặt tới lúc này nhỉ? Ta không ngủ, suốt đêm chờ nó. Có lẽ nó đã đuổi kịp Moric và hai người đã làm lành với nhau. Ta hy vọng như vậy, mặc dầu nơi họ làm lành với nhau có thể là ở bar. Henri rất điều độ, nhưng dưới ảnh hưởng của những xúc động như vậy, nó có thể thay đổi thói quen của mình. Mà cũng chẳng nên xét nét nó làm gì, hơn nữa đối với một người bạn như vậy thì không thể xảy ra điều gì không hay cả.”
Thật khó nói được những ý nghĩ của Luiza sẽ đi xa tới đâu, nếu như nó không bị ngắt quãng bởi sự xuất hiện của Plutôn.
Bộ dạng của anh ta trông căng thẳng như thể đang chuẩn bị báo một tin gì đó rất quan trọng.
- Nào, thế nào – Ngài chủ đồn điền quát lên, không kịp cho anh ta mở miệng – Nó có ở đó chứ?
- Không, thưa ông Vili! – Người da đen khép nép trả lời – Không có cậu chủ ở đó. Nhưng… anh ta nói tiếp vẻ lo sợ - Plutôn rất buồn phải nói điều này… con ngựa của cậu chủ đang ở đằng kia.
- Con ngựa của cậu chủ ở đằng kia? Ta hy vọng không phải nó ở trong phòng ngủ chứ?
- Không, thưa ông. Cũng không ở trong chuồng ngựa. Nó đứng cạnh cổng.
- Con ngựa của nó đứng cạnh cổng? Nhưng sao anh lại lo buồn khi nói điều này?
- Bởi vì, thưa ông Vili, bởi vì… Ngựa… con ngựa này của cậu Henri… bởi vì con ngựa ô…
- Nói đi xem nào, líu lưỡi rồi à! “Bởi vì” cái gì? Ta hy vọng cái đầu nó vẫn còn nguyên chứ? Hay có lẽ nó đánh mất đuôi rồi chăng?
- Ô, ông Vili, người da đen không sợ điều này! Ngựa cứ việc mất đầu mất đuôi cũng được. Plutôn chỉ sợ nó đánh mất người kỵ sĩ của mình.
- Cái gì? Con ngựa bỏ Henri? Mi nói gì vậy, Plutôn! Không thể con ngựa lại bỏ rơi một kỵ sĩ như vậy, một kỵ sĩ như con trai ta. Không thể!
- Cháu không nói rằng con ngựa hất cậu Henri. Cháu sợ rằng tai họa còn tệ hơn: ông chủ quí mến, cháu sẽ không nói gì nữa đâu ạ! Xin ông hãy tự ra cổng nhìn xem.
Những lời của Plutôn và đặc biệt là giọng nói và điệu bộ của anh ta làm tất cả hoảng sợ: không chỉ ngài chủ đồn điền mà cả con gái và người cháu họ lập tức cùng đứng dậy, vội vàng chạy tới cổng dinh cơ.
Những gì mà họ nhìn thấy chỉ có thể gợi lên những dự đoán thảm đạm nhất.
Một người nô lệ da đen đang đứng giữ cương con ngựa đã được đóng yên. Mình con ngựa còn ướt đẫm sương đêm, và rõ ràng tay người nài ngựa còn chưa chạm tới nó. Nó đập móng và hý lên, dường như nó vừa thoát ra khỏi một mối nguy hiểm đáng sợ nào đó. Nó bị dây một thứ nước gì đó màu sẫm - sẫm hơn sương, hơn cả bộ lông của nó: vai, chân trước, yên bị vấy những vết máu đã khô lại.
Con ngựa từ đâu phi về đây vậy?
Từ đồng cỏ. Người da đen tìm thấy nó trên bình nguyên, với dây cương kéo lê giữa những đôi chân, được hướng dẫn bởi bản năng, nó chạy về nhà - về dinh cơ.
Con ngựa này của ai?
Không ai đưa ra câu hỏi này. Tất cả đều biết đó là con ngựa của Henri Pôinđekter.
Không ai hỏi, máu của ai vấy đầy lên con ngựa. Ca ba người chỉ nghĩ về một con người: về con trai, về em trai, về em họ.
Những vết màu nâu, những vết mà họ nhìn với vẻ đầy kinh hoàng, tuyệt vọng kia, chính là vết máu của Henri Pôinđekter. Không còn nghi ngờ gì nữa.
-
Chương 38
TÌM KIẾM
Bị choáng váng bởi cái chứng cớ khủng khiếp kia, mất trí vì đau đớn, nhanh như cắt người cha nhảy ngay lên con ngựa vấy máu phi tới đồn biên.
Kôlhaun phi nối theo ông.
Tin tức về những điều vừa xảy ra loang đi khắp vùng. Những kỵ sĩ nhanh nhẹn mang tin tới thượng lưu, hạ lưu con sông và tới những đồn điền xa nhất.
Người da đỏ đã tuyên chiến – chúng cắt da đầu, mọi việc đã xảy ra – Henri Pôinđekter đã trở thành vật hy sinh đầu tiên cho chúng.
Henri Pôinđekter, một chàng trai hào hiệp và rộng lượng, một người không hề có một kẻ thù ở Tếchdát. Còn ai nữa, nếu không phải là bọn da đỏ có thể làm chảy dòng máu vô tội đó? Chỉ có thể bọn da đỏ Komantri mới độc ác như vậy.
Không ai trong số các kỵ sĩ, tụ tập ở sân đồn biên Ind nghi ngờ rằng tội ác này gây nên bởi bọn Komantri. Chỉ có điều họ chưa biết - sự việc xảy ra như thế nào, lúc nào và ở đâu.
Những giọt máu rõ ràng đã trả lời câu hỏi đầu tiên. Người chủ con ngựa đã bị trúng tên hay bị phóng lao. Về phía sườn phải máu nhiều hơn, trông như là bị phết lên vậy, máu rất nhiều trên vai ngựa và trên sườn yên cho thấy rằng đó là vết mà thân người kỵ sĩ trượt xuống đất để lại.
Một vài người trong số những kẻ có mặt, khôn ngoan do kinh nghiệm sống nơi biên thùy, thậm chí phỏng đoán một cách khá tin tưởng thời gian xảy ra tội ác.
Theo lời họ, máu chảy không quá mươi tiếng đồng hồ.
Bấy giờ đã giữa trưa. Có nghĩa là án mạng xảy ra lúc hai giờ đêm.
Câu hỏi thứ ba là câu hỏiquan trọng nhất, cho dù giờ đây tội ác đã xảy ra rồi.
Tội ác xảy ra ở đâu? Tìm xác chết ở đâu?
Và cuối cùng, tìm kẻ giết người ở đâu?
Hội đồng các quân nhân và các chủ đồn biên được nhanh chóng triệu tập tại đồn để thảo luận những vấn đề này. Chủ tịch là ông đồn trưởng. Người cha chết lặng vì đau đớn đứng cạnh ông.
Tìm đâu cho ra thủ phạm và nơi xảy ra tội ác?
Trên đồng cỏ, cũng như trên địa bàn của những người đi biển chia ra ba mươi hai hướng cho nên đoàn thám hiểm được cử đi tìm đoàn chiến binh của bộ lạc Komantri sẽ có được ba mươi hai khả năng, mà chỉ một hướng trong chúng là đúng thôi.
Tất cả đều biết rằng bộ lạc Komantri sống ở miền Tây. Nhưng điều này quả là khó xác định, bởi vì họ du mục trong khoảng không gian hàng trăm dặm.
Ngoài ra, khi những người da đỏ tuyên chiến, đối với những khu cư dân tách biệt như khu cư dân trên sông Lêông chúng có thể tấn công từ phía Đông: đấy là chiến lược ranh mãnh thường thấy của bộ lạc Komantri - những chiến binh dày dạn.
Đi hú họa thì thật ngu xuẩn, nhưng làm sao biết được hướng nàolà đúng trong số ba mươi hai hướng có thể đi.
Đề nghị chia ra những nhóm nhỏ đi về những hướng khác nhau không được hoan nghênh và ngài thiếu tá từ chối phương án đó.
Người da đỏ có thể có hàng nghìn, chống lại chỉ có thể là một đội chừng một trăm người – không thể hơn được, năm mươi kỵ binh của đồn biên và thêm khoảng chừng đó những kỵ sĩ từ các đồn điền. Nhất thiết phải tập trung họ lại, nếu khác đi, trong trường hợp bị tấn công, đội ngũ sẽ dễ dàng bị tiêu diệt từng phần.
Luận chứng có cơ sở. Thậm chí người cha chết điếng vì đau khổ và người anh họ, dường như không kém phần đau buồn cũng đồng ý tuân theo sự khôn ngoan của đa số, được ông thiếu tá ủng hộ.
Và thế là đã quyết định, cần phải phái một đội quân mạnh đi tìm.
Nhưng theo hướng nào? Về điều này tất cả còn đang tiếp tục bàn cãi.
Viên đại úy Xlôumen khôn ngoan đề nghị thẩm tra xem, con người mà người ta cho rằng đã chết lần cuối cùng đi về hướng nào. Ai là người cuối cùng trông thấy Henri Pôinđekter?
Trước hết người ta hỏi cha và người anh họ của chàng trai.
Ngài chủ đồn điền trông thấy con trai lần cuối cùng trong bữa ăn tối và ông cho rằng sau đó chàng đi ngủ.
Câu trả lời của Kôlhaun quanh co hơn. Hắn đã chuyện trò với người em họ của mình muộn hơn một chút và sau đó họ chia tay nhau, chàng trai về phòng mình.
Tại sao Kôlhaun giấu những gì đã thực sự xảy ra? Tại sao hắn lại im lặng về màn kịch trong vườn, mà hắn là người chứng kiến.
Có phải vì hắn sợ bị nhìn nhận trong một tình thế nhục nhã, nếu hắn nói về vai trò hắn đã đóng trong màn kịch đó chăng?
Dù sao đi nữa, hắn cũng đã giấu giếm sự thật, và câu trả lời mà hắn đưa ra gợi cho những người có mặt sự nghi ngờ.
Sự giả dối sẽ trở nên rõ rệt hơn nếu như họ có cơ sở hay nếu như họ có thời gian để suy ngẫm. Nhưng bất ngờ mọi việc lại xoay ra một bước ngoặt hoàn toàn mới. Người chủ tiệm rượu, Ôbêđôphê, không đợi mời, đã đi tới hội nghị. Đi qua đám đông, ông ta thông báo rằng, ông ta muốn báo một tin quan trọng, mà có lẽ sẽ giúp trả lời câu hỏi, người ta nhìn thấy Henri Pôinđekter lần cuối cùng khi nào và chàng đi về hướng nào.
Bằng một thứ tiếng Anh trọ trẹ, người Đức kể như sau: Moric-Muxtangher, người đã sốn ở khách sạn của ông ta sau cuộc đấu súng với đại úy Kôlhaun trong buổi tối hôm ấy bỏ đi đâu đó, và đó không phải là lần đầu tiên trong thời gian gần đây.
Chàng quay trở về rất muộn. Người chủ còn chưa di ngủ, bởi trong quán bọn thanh niên đang chè chén. Chàng Muxtangher đề nghị thanh toán, điều từ lâu chàng chưa làm và với sự ngạc nhiên của chủ quán, chàng trả hết mọi khoản.
Chàng kiếm đâu ra số tiền này và tại sao lại vội vàng ra đi như vậy thì chỉ có Chúa biết. Anh ta, Ôbêđôphê, chỉ biết rằng Moric Giêran khi rời khách sạn mang theo mình tất cả vũ khí, dường như chuẩn bị đi săn ngựa vậy.
Cho nên người chủ khách sạn cho rằng chàng Muxtangher đi săn.
Nhưng tất cả những điều đó liên quan gì tới việc này? Có ý nghĩa rất lớn. Mặc dầu để giải thích được điều này phải nghe đến đoạn cuối của những lời kể lể, khi nhân chứng nói tới một sự kiện đáng kể: chàng Muxtangher đi khỏi khoảng hai mươi phút thì Henri Pôinđekter đập cửa - chàngmuốn gặp Moric Giêran. Khi người ta nói với chàng rằng Moric đã ra đi và chỉ hướng thì chàng Pôinđekter trẻ tuổi vội phi nhanh theo lối được chỉ, dường như muốn đuổi kịp chàng Muxtangher.
Đó là tất cả những gì mà Ôbêđôphê biết và tất cả những gì anh ta muốn nói.
Mặc dầu những tin mới nhận được có vài điều chưa được rõ ràng nhưng từ chúng có thể tìm ra lối thoát để bắt đầu cuộc tìm kiếm. Nếu Henri Pôinđekter ra đi cùng Moric-Muxtangher hoặc đi theo chàng thì có nghĩa là cần phải tìm Henri theo con đường mà chàng Muxtangher phải đi.
Có ai biết nhà Moric-Muxtangher ở đâu không?
Không ai biết chính xác điều này: một vài người giả định rằng nhà chàng phải ở đâu đấy trong vùng sông Nuêxet trên chi lưu Alamô của nó.
Và thế là để tìm chàng trai mất tích hay xác chàng, người ta quyết định đi theo hướng Alamô. Có thể ở đó người ta sẽ tìm được cả xác của Moric-Muxtangher. Và lúc bấy giờ phải báo thù sự giết hại thảm khốc cho cả hai chứ không phải một người.
-
Chương 39
VŨNG MÁU
Mặc dầu đội ngũ là quá nhiều so với những đội vũ trang của dân vùng biên giới đi tìm kiếm những người láng giềng mất tích, nhưng nó vẫn ra đi với sự thận trọng quá đáng.
Cơ sở nghiêm trọng của điều này là: người da đỏ đã tuyên chiến.
Họ cử những trinh sát và những người dò đường đi trước. Nghĩa vụ của họ là tìm những dấu vết và giải thích ý nghĩa của chúng.
Trên đồng cỏ, trải dài gần mười dặm về phía Tây sông Lêông họ không tìm thấy một dấu vết nào. Đất ở đó cứng và khô đến nỗi trên đất chỉ in được vết cá sắt của những con ngựa phi nước đại. Nhưng những dấu vết như vậy ở đó cũng chẳng có.
Cách đồn biên chừng mười dặm có những dải rừng cắt ngang đồng bằng, chúng kéo dài về phía Tây Bắc và Đông Nam – đó là những cánh rừng nhiệt đới chính cống, nơi có những cây lớn bị dây leo quấn chằng chịt làm cho những khu rừng này hầu như không thể đi qua được.
Qua khoảng rừng tới, tới thẳng đồn biên có một con đường rừng – con đường ngắn nhất đi tới sông Nuexet. Được viền bởi những hàng cây đều đặn, con đường rừng làm người ta có cảm giác là con đường có trồng cây hai bên. Có thể đó là con đường chiến trận cũ của bộ lạc Komantri, được làm ra trong thời gian những cuộc hành quân của họ tới Tamanulipax, Koauili và Nuêvô Lêông (những bang của Mếchxich)
Những người dẫn đường biết rằng, con đường đó dẫn ra sông Alamô và họ đưa đội quân đi theo hướng đó.
Một lát sau các kỵ sĩ nhận thấy một trong những người dò đường đi bộ phía trước dừng lại ở bìa rừng chờ họ.
- Có việc gì thế? – Viên thiếu tá hỏi khi đuổi kịp những người khác và tiến đến gần anh ta - Dấu vết hả?
- Vâng, thưa thiếu tá, và rất nhiều. Ngài hãy nhìn đây! Đây này, ở đây đất mềm, ngài thấy chứ ạ?
- Những vết ngựa.
- Hai con ngựa, thưa thiếu tá – Người dò đường vừa trả lời vừa kính cẩn chỉ dẫn cho viên thiếu tá!
- Đúng, hai con.
- Tiếp theo có bốn dấu vết, nhưng cũng do hai con ngựa này để lại. Đầu tiên chúng đi về hướng kia theo con đường rừng, sau đó chúng quay lại.
- Tốt, Xpengler. Anh nói gì về điều này?
- Tôi còn chưa đi xa theo con đường rừng, và còn nhiều cái chưa đoán được – Xpengler trả lời, anh ta làm lính trinh sát ở đồn biên – Nhưng có điều không kém rõ ràng rằng người ta giết người ở đây.
- Anh chứng minh điều đó như thế nào? Không lẽ anh đã tìm ra xác chết?
- Không.
- Thế thì anh tìm ra cái gì?
- Máu, cả một vũng máu, y như là tuôn ra từ mạch máu của một con bò rừng. Ngài hãy tới đây và tự xem xét. Nhưng – anh ta thì thầm nói tiếp - Nếu ngài muốn tôi xem xét các dấu vết đâu vào đấy, hãy ra lệnh cho những người còn lại đừng tới gần. Đặc biệt là những người đi phía trước.
Rõ ràng, điều lưu ý này liên quan tới ngài chủ đồn điền và người cháu của ông ta, bởi người dò đường nhìn trộm họ.
- Được! – Viên thiếu tá trả lời – Anh đừng lo, Xpengler, không ai quấy rầy anh đâu… Thưa quí ngài! Tôi đề nghị quý ngài không rời khỏi chỗ trong vài phút. Không nên đi nữa, bởi Xpengler cần phải xem xét các dấu vết. Anh ta chỉ có thể đưa một mình tôi theo thôi.
Lệnh của viên thiếu tá đã được ngụy trang dưới một hình thức đề nghị lịch sự, bởi vì ông nói với những người không trực tiếp dưới quyền ông. Nhưng tất cả đều phục tùng không điều kiện mệnh lệnh này và họ dừng ngay tại chỗ của mình, trong lúc đó viên thiếu tá đi theo người dò đường.
Sau khi được khoảng mười bước, Xpengler dừng lại:
- Ngài nhìn thấy chứ, ngài thiếu tá? – Anh ta vừa hỏi vừa chỉ xuống đất.
- Ở đây thì đến người mù cũng thấy – Viên sĩ quan trả lời – Vũng máu và anh nói đúng – Nó lớn đến nỗi có thể nghĩ rằng hình như ở đây người ta đã cắt cổ một con bò. Nếu đây là máu người, thì có thể không nghi ngờ rằng anh ta không thể còn sống nữa.
- Anh ta chết trước khi vũng máu này đen lại – Người dò dấu vết nói.
- Anh nghĩ sao, Xpengler, máu của ai vậy?
- Đây là máu của người chúng ta đi tìm, con trai ông chủ đồn điền. Vì thế tôi không muốn người cha đi theo chúng ta.
- Ta cho rằng, chẳng nên giấu ông ta sự thật. Trước sau rồi ông ta cũng biết thôi.
- Đúng vậy, thưa thiếu tá. Nhưng trước tiên chúng ta cần rõ, người ta giết chàng trai như thế nào, mà về điều này tôi chưa thể lần ra được.
- Anh chưa thể tìm ra được ư? Chàng ta bị bọn da đỏ giết, tất nhiên! Bọn Komantri giết chàng ta mà?
- Không phải là họ - Người dò dấu vết trả lời.
- Tại sao anh nghĩ vậy hở, Xpengler?
- Nếu bọn da đỏ đã ở đây, thì chúng ta đã tìm ra không phải là hai dấu vết, mà phải là bốn chục dấu ngựa.
- Điều này đúng. Nếu bọn Komantri liều mạng tấn công một mình thì đáng ngờ lắm.
- Không có một tên nào của bộ lạc Komantri, thưa thiếu tá, và nói chung, không ai trong số những người da đỏ thực hiện tội ác này. Trên đường chỉ thấy rõ dấu vết của hai con ngựa. Ngài nhìn đây, đây là những vết cá sắt… Những dấu này dẫn ngược lại. Những người Komantri không đi ngựa đóng cá sắt, nếu có thì chỉ là ngựa đánh cắp. Và trên hai con ngựa là những kỵ sĩ da trắng, chứ không phải da đỏ. Một hàng dấu vết để lại bởi một con muxtang lớn, còn đầu kia là một con ngựa Mỹ. Khi họ đi về phía Tây, con muxtang đi trước, điều này có thể xác định được, bởi dấu vết của nó bị đè lên. Trên con đường ngược lại con ngựa Mỹ đi trước còn con muxtang đi theo sau nó, nhưng nói rằng kỵ sĩ này đi theo người kia ở khoảng cách bao nhiêu thì còn rất khó. Có lẽ, sẽ đoán được dễ dàng hơn nếu chúng ta đến chỗ cả hai rẽ ngoặt lại. Chỗ ấy chắc cách đây không xa.
- Được, chúng ta sẽ đến đó – Viên thiếu tá nói – Ta sẽ ra lệnh ngay để không có ai đi theo chúng ta.
Sau khi lớn tiếng ra lệnh để mọi người đều nghe thấy, viên thiếu tá đi theo Xpengler.
Dấu vết còn nhận thấy trên một đoạn khoảng bốn trăm acđơ, viên thiếu tá có thể phân biệt được chúng trên đất nền, trong bóng cây. Người dò dấu vết nói rằng, giả thiết của anh ta đã được khẳng định. Về hướng Tây con muxtang đi trước, còn trên con đường ngược lại, nó đi sau con ngựa Mỹ.
Tiếp theo không còn dấu vết nữa, ở đây hai con ngựa đã quay lại.
Trước khi quay trở lại, họ đã đứng dưới một cây bạch dương lớn hồi lâu. Tất cả đất xung quanh đều bị những vết cá sắt in lên, đã hùng hồn nói lên điều này.
Xpengler xuống ngựa và bắt đầu chăm chú ngắm các dấu vết.
- Họ đã ở đây cùng với nhau – Anh ta nói sau vài phút trong khi vẫn tiếp tục nhìn xuống đất – Và khá lâu. Nhưng cả hai người ngồi trên ngựa và bình tĩnh nói chuyện. Điều này làm cho sự việc càng rắc rối thêm. Đáng lẽ họ phải cãi nhau sau khi…
- Nếu anh nói đúng sự thật, Xpengler, thì anh quả là một tay phù thủy chính cống! Hãy nói xem, làm sao anh biết được tất cả điều này.
- Theo dấu vết, thưa thiếu tá, theo dấu vết thôi! Điều này rất đơn giản. Tôi đã thấy những dấu vết chỗ nọ chỗ kia đè lên nhau. Có nghĩa là những con ngựa đã ở đây cùng một lúc, nhưng chúng không đứng yên, chúng đổi chân. Các kỵ sĩ dừng lại ở đây khá lâu - kịp để hút hết một điếu xì gà. Những đầu xì gà đây. Đây là những gì họ để lại. Họ không nhồi thuốc vào tẩu.
Người dò dấu vết cúi xuống nhặt mẩu xì gà đưa cho viên thiếu tá.
- Cho nên – Người dò đường tiếp tục – Tôi cho rằng các kỵ sĩ không thể có thái độ thù địch nhau. Người ta không hút cùng nhau, nếu như họ định cắt cổ nhau hay choảng vào đầu nhau một phút sau. Sự bất hòa chỉ có thể xảy ra sau khi những điếu xì gà được hút hết. Những gì xảy ra, tôi không hề nghi ngờ. Một người trong số họ đã kiết liễu người kia - Điều này cũng rõ như ngài đang ngồi trên yên ngựa vậy. Ai chết – Không khó gì đoán ra. Ông già Pôinđekter tội nghiệp sẽ không bao giờ được nhìn thấy con trai nữa!
- Tất cả những điều này còn rất mờ mịt – Viên thiếu tá nhận xét.
- Vâng, quỉ tha ma bắt!
- Nhưng cái xác – Nó có thể ở đâu cơ chứ?
- Tôi đang vỡ đầu ra vì câu hỏi này. Nếu là bọn da đỏ giết thì cái xác biến đi chẳng làm tôi ngạc nhiên chút nào, chúng có thể mang xác theo. Nhưng đây không phải là người da đỏ. Hãy tin tôi, ngài thiếu tá, rằng một trong hai kỵ sĩ đã hại người kia. Nhưng hắn làm gì với cái xác, tôi chịu không hiểu được! Và có lẽ chỉ có hắn mới nói được điều này.
- Lạ lùng quá đỗi! – Viên thiếu tá kêu lên – Quá bí ẩn!
- Có thể chúng ta còn chưa giải đáp được bí mật này – Xpengler tiếp - Cần phải tiếp tục tìm những dấu ngựa sau khi chúng ta đi khỏi nơi đây, nơi xảy ra tội ác. Có thể, chúng ta sẽ biết được thêm gì chăng… Ở đây chẳng còn việc gì để làm nữa. Hãy quay lại, thưa thiếu tá. Cần phải nói với ông ta không ạ?
- Ngài Pôinđekter ư?
- Vâng.
- Anh quả quyết người bị giết là con trai ông ta à?
- Không, điều này tôi không thể quyết được. Tôi chỉ có thể quả quyết rằng, ông già Pôinđekter đang cưỡi con ngựa Mỹ, con ngựa này đã chứng kiến tội ác ở đây. Tôi đã so sánh hai dấu vết. Và nếu chỉ có chàng Pôinđekter cưỡi con ngựa này, thì tôi sợ rằng có rất ít hy vọng nhìn thấy chàng còn sống. Tôi ngờ rằng có người thứ hai đi theo chàng.
- Xpengler, có phải anh còn những giả thiết nữa phải không, ai là người thứ hai?
- Không ai cả. Nếu như không có câu chuyện của thằng cha Đôphê. Tôi chưa bao giờ ghi nhớ gì về Moric-Muxtangher. Mặc dầu đây là dấu vết của con muxtang đã được thuần hóa nhưng tôi không thể bảo đảm rằng đây chính là con muxtang của anh ta. Chắc gì… người Iếclăng trẻ tuổi kia đâu phải là kẻ hay đánh trộm.
- Ta nghĩ rằng anh nói đúng.
- Thế đấy, nếu ngài Pôinđekter trẻ tuổi đã bị giết và Moric Giêran giết chàng, thì giữa họ chắc đã có cuộc đấu tay đôi trong danh dự và con trai ngài chủ đồn điền đã thất bại. Tôi hiểu như thế đấy. Nhưng sự biến mất của cái xác mà sau khi mất đến hơn bốn lít máu, không người nào còn sống nổi, làm tôi bí. Cần phải xem xét thêm nữa các dấu vết. Có thể chúng sẽ đưa ta tới lời giải đáp… Có nên nói những điều tôi nghĩ cho ông già không ạ?
- Không, chưa nên. Ông ta đã biết đủ nhiều. Ông ta sẽ nhẹ nhõm hơn nếu đi tới sự thật khủng khiếp này một cách từ từ. Đừng nói với ông ta những gì mà chúng ta nhìn thấy. Hãy quay trở lại chỗ vũng máu và tìm theo những dấu vết ngược lại, còn ta, ta cố gắng dẫn đội ngũ theo sau để không ai để ý.
- Được, thưa thiếu tá – Người dò dấu vết nói – Tôi có cảm giác, những dấu vết ngược lại đưa tôi tới đâu. Cho tôi mười phút để suy nghĩ về điều này và hãy xuất phát theo hiệu lệnh của tôi.
Nói xong Xpengler đi ngược lại chỗ vũng máu. Ở đó khi xem xét thoáng qua, anh ta quay ra phía rìa con đường rừng.
Đúng thời gian qui định, tiếng súng của anh ta vang lên. Xét theo tiếng nổ, người dò dấu vết đã đi xa khoảng một dặm và giờ đây đang cách xa địa điểm xảy ra tội ác đáng sợ.
Nghe thấy hiệu lệnh, viên thiếu tá đã kịp trở về đội ngũ, ra lệnh lên đường. Ông đi cạnh ngài Pôinđekter và một vài điền chủ giàu có, nhưng những phát hiện bí hiểm của người dò đường thì ông không để lộ ra.