-
Chương 45
Gabrielle Ashe không biết nên làm gì với mớ tài liệu ngổn ngang trên bàn của Marjorie Tench. Nào là bản photocopy những bức thư, fax, những cuộc nói chuyện điện thoại, thảy đều chứng minh rằng Thượng nghị sĩ Sexton đang bí mật liên hệ với các công ty vũ trụ tư nhân. Tench đẩy về phía cô mấy tấm ảnh đen trắng:
“Việc này chắc cô chưa biết”.
Gabrielle xem ảnh. Bức đầu tiên chụp cảnh Thượng nghị sĩ Sexton từ taxi bước xuống bãi đỗ xe ngầm dưới lòng đất. Ông ấy có bao giờ đi taxi đâu. Gabrielle xem bức ảnh thứ hai - chụp từ xa cảnh Sexton đang leo lên cabin chiếc xe tải mini màu trắng; có một ông già đang ngồi đợi sẵn bên trong.
“Ai đây?” Gabrielle hỏi, ngờ rằng đây chỉ là ảnh ghép.
“Một nhân vật to đầu của SFF” (viết tắt của Space Frontier Foundation - ND)
Gabrielle không tin vào tai mình. “Hiệp hội vũ trụ ư?”
SFF là nghiệp đoàn của những công ty vũ trụ tư nhân. Nó đại diện cho các nhà thầu khoán, các doanh nghiệp, các nhà tư bản - tất cả những tổ chức thuộc khu vực tư nhân muốn kinh doanh trong vũ trụ. Họ rất hay chỉ trích NASA, cho rằng chương trình nghiên cứu vũ trụ của Mỹ sử dụng những biện pháp thương mại không bình đẳng để ngăn không cho các công ty tư nhân tham gia phóng vệ tinh lên quỹ đạo.
“SFF hiện nay đại diện cho khoảng một trăm công ty lớn”, Tench nói, “Một số có lượng vốn rất lớn, và đang háo hức đợi Dự luật Khuyến khích thương mại hóa vũ trụ được phê chuẩn”.
Gabrielle phân vân. Dĩ nhiên SFF có lý do để lớn tiếng ủng hộ Thượng nghị sĩ Sexton, mặc dù ông vẫn thận trọng không công khai ủng hộ họ, bởi những chiến thuật vận động hành lang của họ đang gây rất nhiều tranh cãi. Mới đây, SFF còn tung ra luận điệu rằng NASA thực ra là “công ty độc quyền bất hợp pháp”, bởi lẽ dù lỗ nó vẫn cứ được phép hoạt động tiếp, như thế là bất công đối với các công ty tư nhân. Theo SFFl mỗi khi AT&T muốn phóng vệ tinh viễn thông lên quỹ đạo, một số công ty tư nhân chào giá 50 triệu đô la, cái mức rất phải chăng. Tuy nhiên, NASA lần nào cũng chen ngang và đưa ra mức giá chỉ 25 triệu, mặc dù trên thực tế NASA tiêu tốn gấp năm lần số tiền ấy để đưa được vệ tinh lên quỹ đạo! Kinh doanh với mức giá thua lỗ vẫn là cách NASA thao túng thị trường vũ trụ, các luật sư của SFF cáo buộc. Và người đóng thuế phải nai lưng ra mà trả.
“Những bức ảnh này cho thấy rằng”, Tench lại nói “ngài ứng cử viên nhà cô đang bí mật liên hệ với một tổ chức đại diện cho các công ty vũ trụ tư nhân”. Bà ta chỉ mấy tập tài liệu trên bàn. “Chúng tôi cũng có cả những biên bản ghi nhớ nội bộ của SFF kêu gọi các công ty thành viên đóng tiền - những khoản tiền tỉ lệ thuận với lượng vốn khổng lồ của họ - và chuyển vào tài khoản của Thượng nghị sĩ Sexton. Như thế có nghĩa là các công ty vũ trụ tư nhân đang tìm cách đẩy ông ta vào chiếc ghế Tổng thống. Và ai cũng có thể suy ra rằng ông ta đã ngầm thỏa thuận với họ là sẽ tiến hành tư hữu hóa NASA nếu đắc cử”.
Gabrielle nhìn đống tài liệu trên bàn, bị thuyết phục hoàn toàn. “Liệu có phải bà đang muốn làm cho tôi tin rằng đối thủ của ngài Tổng thống đang dính líu đến chuyện tài chính bất hợp pháp hay không? Nếu thế thì sao các vị không cho công bố những tài liệu này đi?”
“Thế cô muốn tin vào điều nào hơn?”
Mắt Gabrielle tóe lửa: “Thẳng thắn mà nói thì tôi thán phục tài thuyết phục của bà, nhưng tôi thấy một cách suy luận khác thuyết phục hơn nhiều, đó là các nhân viên Nhà Trắng đã ngụy tạo những tài liệu này”.
“Điều đó có thể xảy ra, tôi thừa nhận. Nhưng sự thật không phải thế”.
“Thế ư? Thế thì làm sao mà các vị có được những tài liệu lưu hành nội bộ này? Việc ăn cắp tài liệu nội bộ của chừng này công ty chắc chắn không nằm trong khả năng của Nhà Trắng”.
“Cô nói đúng. Chúng tôi có được những thứ này vì có người tự nguyện hiến tặng”.
Gabrielle không hiểu.
“Thật đấy”, bà ta khẳng định, “chúng tôi nhận được rất nhiều tài liệu theo kiểu này. Rất nhiều đồng minh về chính trị của ông ấy không muốn để Tổng thống bị thất cử. Xin nhớ cho là ngài ứng cử viên nhà cô dự định cắt giảm chi phí ở mọi nơi - cả của những cơ quan ngay trong phạm vi Nhà Trắng. Chắc chắn ông ấy sẽ chẳng do dự gì cắt giảm ngay chi phí khổng lồ của FBI để giảm bớt chi phí của Chính phủ. Ông ấy còn nhắm đến cả IRS nữa. Rất có thể nhiều nhân viên của những cơ quan ấy cảm thấy bực mình”.
Gabrielle hiểu ngầm ý của bà ta. Những người đang làm ở IRS và FBI có thể tìm cách thu thập những thông tin này. Và rất có thể họ đã tự nguyện gửi những tài liệu này đến Nhà Trắng, như một hình thức trợ giúp cho ngài Tổng thống để bảo vệ chiếc ghế của mình. Nhưng điều mà cô không thể tin được là chuyện ngài Thượng nghị sĩ dính líu vào chuyện tài chính bất hợp pháp. “Nếu những con số này là chính xác”, Gabrielle chất vấn “mà nói thật tôi không tin là thế thì tại sao các vị không công khai cho cử tri được biết?”
“Theo cô thì tại sao?”
“Bởi vì chúng được thu thập bằng những biện pháp bất hợp pháp”.
“Thu thập được bằng cách nào mà chả như nhau”.
“Dĩ nhiên là khác chứ. Làm sao các vị dám thừa nhận những hành vi bất hợp pháp của mình cơ chứ?”
“Cần gì phải thế? Chúng tôi chỉ cần xì tin cho giới báo chí, thế là các báo sẽ tha hồ chạy những dòng tít lớn với đầy đủ cả hình ảnh đàng hoàng. Công chúng chỉ tin là ông ta vô tội khi nào ông ta tự chứng minh được điều đó. Cái cách ông ta ông ổng phản đối NASA là bằng chứng rành rành cho thấy ông ta ăn hối lộ”.
Gabrielle biết điều đó là đúng. “Được thôi”, cô lại căn vặn tiếp, “thế sao các vị chưa xì tin ra?”
“Bởi vì làm thế thì tiêu cực quá. Ngài Tổng thống đã cam kết sẽ không tranh cử bằng những biện pháp tiêu cực, ông ấy đã nói là làm”.
Phải lắm! “Bà vừa nói rằng vì cao thượng nên Tổng thống từ chối công khai hóa những thứ này. Phải chăng ông ấy sợ bị quy kết là tiêu cực?”
“Làm như thế sẽ có tác động tiêu cực đến cả nước. Chuyện này dính líu đến hàng chục công ty tư nhân, mà không ít trong số đó là do những con người đáng kính gây dựng nên. Bôi nhọ Thượng nghị viện thì sẽ làm ảnh hưởng đến lòng tin của người dân. Vài chính trị gia tha hóa sẽ khiến các chính khách khác cảm thấy bị xúc phạm. Không được làm cho người Mỹ mất niềm tin vào Nhà nước. Đây sẽ là cuộc điều tra bẩn thỉu, có thể khiến một Thượng nghị sĩ và nhiều Giám đốc điều hành bị tống giam”.
Mặc dù những lập luận của bà ta quả là có lý, Gabrielle vẫn cảm thấy nghi nghi hoặc hoặc. “Tất cả những chuyện này thì liên quan gì đến tôi?”
“Nói một cách đơn giản nhé, cô Ashe ạ, nếu chúng tôi tiết lộ những tài liệu này, ngài ứng cử viên của cô sẽ bị kết tội nhận tiền hiến tặng bất hợp pháp, mất ghế Thượng nghị sĩ, và rất có thể phải ngồi tù”. - Bà ta ngừng một lúc. “Trừ phi...”
Gabrielle thoáng thấy ánh nhìn nham hiểm sâu trong đôi mắt bà cố vấn. “Trừ phi làm sao?”
Bà ta rít thuốc. “Trừ phi cô giúp chúng tôi tránh tất cả những chuyện đó”.
Bầu không khí nặng nề bao trùm căn phòng.
Tench ho khan. “Cô Gabrielle, nghe cho kỹ đây, tôi quyết định chia sẻ với cô những thông tin này vì ba lý do. Thứ nhất, để cô thấy rằng Zach Herney là người tử tế, luôn đặt lợi ích quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân. Thứ hai, để thông báo cho cô biết rằng vị ứng cử viên mà cô đang phò tá không đáng tin cậy như cô tưởng. Và thứ ba, để thuyết phục cô lời đề nghị mà tôi sắp đưa ra”.
“Lời đề nghị đó là gì?”
“Tôi muốn cho cô một cơ hội để hành động đúng đắn, một hành động ái quốc. Có thể cô không biết, nhưng cô đang ở vị thế trọng yếu, có thể cứu Washington khỏi những vụ tai tiếng khó chịu. Nếu cô nhận làm những gì tôi sắp đề nghị, có lẽ cô còn có thể kiếm được một việc trong Nhà Trắng cơ đấy”.
Một việc làm trong Nhà Trắng ư? Gabrielle không tin vào tai mình. “Thưa bà, tôi không biết bà nghĩ thế nào, nhưng tôi không thích bị ép buộc, khống chế, hay bị người khác lên giọng dạy bảo. Tôi tham gia vào chiến dịch tranh cử rủa ngài Thượng nghị sĩ vì tôi tin tưởng đường lối chính trị của ông ấy. Và nếu thế này là cách Zach Herney vẫn thường sử dụng quyền lực chính trị của mình, thì tôi không muốn dính dáng gì đến ông ta nữa! Nếu bà thu thập được tin tức gì về Thượng nghị sĩ Sexton, thì xin mời bà cứ việc rỉ tai giới báo chí. Xin phép được nói thẳng, tôi cho rằng những thứ này đều là nguy tạo hết”.
Tench thở dài, trong thật đáng sợ. “Gabrielle này, chuyện tài chính bất hợp pháp của ông Thượng nghị sĩ là thật đấy. Rất tiếc, tôi biết cô rất tin ông ta”. Rồi bà ta hạ giọng: “Nghe kỹ nhé, vấn đề là thế này: Tôi và ngài Tổng thống sẽ công khai vấn đề này nếu cần, nhưng xét trên tầm vĩ mô thì điều đó chẳng hay ho gì. Vụ tai tiếng này liên quan đến nhiều công ty lớn của Mỹ. Nhiều người vô tội sẽ phải chịu hậu quả”. Bà ta rít hơi thuốc thật sâu, rồi nhả khói. “Tôi và ngài Tổng thống đều hy vọng rằng... sẽ có cách không gây hại đến thanh danh của ông Thượng nghị sĩ. Một cách mà... không người vô tội nào sẽ phải chịu hậu quả”. Bà ta đặt điếu thuốc lá xuống gạt tàn và khoanh tay trước ngực. “Nói một cách đơn giản là chúng tôi yêu cầu cô hãy công khai thừa nhận là đã dan díu với ngài Thượng nghị sĩ”.
Gabrielle thấy toàn thân đông cứng. Giọng bà ta nói nghe vô cùng chắc chắn. Không thể nào, cô biết thế. Không có bằng chứng. Họ chỉ ân ái với nhau một lần duy nhất, trong văn phòng ngài Thượng nghị sĩ, cửa thì khóa trái. Bà ta không có bằng chứng. Chỉ đoán mò thôi. Gabrielle cố giữ giọng nói điềm tĩnh. “Bà suy diễn hơi nhiều bà Tench ạ”.
“Chuyện gì? Chuyện hai người tằng tịu với nhau à? Hay chuyện cô sẽ cáo biệt ngài Thượng nghị sĩ?”
“Cả hai”.
Tench cười khẩy đứng dậy: “Được rồi, chúng ta cùng nói trắng hết ra nhé”. Bà ta đến bên cái két sắt chìm trong tường, lôi ra một phong bì màu đỏ, bên ngoài gắn xi niêm phong của Nhà Trắng. Bà ta mở phong bì rồi dốc tất cả những gì bên trong lên bàn trước mặt Gabrielle.
Hàng chục bức ảnh màu nằm ngổn ngang trên bàn, Gabrielle chợt thấy toàn bộ sự nghiệp tan tành ngay trước mắt.
Chương 46
Bên ngoài bán sinh quyển, gió Katabatic gầm rú, khác hẳn bất kỳ loại gió nào khác trên đại dương mà Tolland đã từng gặp. Trên biển sức năng của gió là tạo ra thủy triều và những dòng chảy. Tuy nhiên, gió katabatic chỉ có một tính năng vật lý duy nhất - là luồng khí lạnh rất nặng thổi dọc theo sông băng như một trận thủy triều. Tolland chưa bao giờ gặp phải loại gió nào mạnh đến thế này. Nếu thổi với tốc độ 20 hải lý, gió katabatic hẳn là giấc mơ của các thủy thủ, nhưng với tốc độ 80 hải lý như thế này, nó là cơn ác mộng với mọi người, kể cả khi ở trên đất liền. Tolland nhận thấy nếu ông dừng lại và ngả người về phía sau thì cơn gió hung dữ này sẽ lập tức đẩy ông trở về tư thế đứng thẳng.
Chưa hết, bên cạnh gió katabatic là phiến băng dốc thoai thoải liên tục đến tận mép nước. Độ dốc không cao, nhưng liên tục cho đến khi băng và nước biển giao nhau, cách đó hai dặm. Dù đã đeo vào đế giầy bộ đinh đế hiệu Pitbull Rapido, ông vẫn cảm thấy không an lòng, dường như chỉ cần bước hụt một lần là sẽ bị gió cuốn dọc theo dốc băng thoai thoải dài vô tận này. Bài thuyết trình dài hai phút của Norah Mangor về các biện pháp an toàn trên băng giờ tỏ ra quá ít ỏi.
“Rìu đá Piranha”, Norah vừa nói vừa cài một dụng cụ có vẻ nhẹ có chữ Tolland vào thắt lưng của họ sau khi mọi người đã mặc xong bộ quần áo bảo hiểm. “Lưỡi dao quy chuẩn, lưỡi dao hình chuối, lưỡi dao hình cung tròn, búa đinh, rìu lưỡi vòm. Tất cả các vị phải nhớ rằng nếu có ai trượt chân hoặc bị gió cuốn đi thì phải một tay túm chặt lấy đầu rìu, tay kia bám vào băng, đâm mạnh lưỡi dao hình chuối xuống mặt băng, dồn trọng lượng cơ thể lên đó, rồi dận mạnh đinh đế giầy xuống”.
Nói xong, Norah Mangor đeo cho mỗi người trong bọn họ một bộ dụng cụ như thế, sau đó cả nhóm ra khỏi ngôi nhà mái vòm, tiến vào bóng tối. Lúc này, cả bốn người đi xuôi theo dòng sông băng, cả nhóm buộc người chung vào một sợi dây, người trước cách người sau mười mét. Norah dẫn đầu, sau đó đến Corky, rồi đến Rachel, Tolland đi sau cùng...
Càng đi xa, ông càng có cảm giác bất an. Dù đã có quần áo bảo hiểm, dù vẫn cảm thấy ấm, ông thấy mình giống như một phi hành gia cô độc một mình lang thang trên hành tinh xa xôi nào đó. Mây đen đang cuồn cuộn kéo đến, lấp kín Mặt trăng, cả phiến băng chìm trong bóng tối mịt mù. Gió katabatic mỗi lúc thối mạnh hơn, ép mạnh vào lưng ông. Ông căng mắt nhìn khoảng không bao la xung quanh, và bắt đầu nhận thức được hiểm họa thực sự đang rình rập. Dù mang theo rất nhiều thiết bị bảo hiểm của NASA, ông vẫn thấy ngạc nhiên là Giám đốc NASA sao có thể dễ dàng đến thế khi ném bốn sinh mạng vào nơi đầy hiểm nguy thế này, thay vì chỉ có hai; trong khi một người là con gái của một Thượng nghị sĩ, người kia là một nhà hải dương học nổi tiếng. Ông không ngạc nhiên khi nhận thấy mình đang lo lắng cho sự an toàn của Corky và Rachel. Là thuyền trưởng, ông có thói quen chịu trách nhiệm về những người xung quanh mình.
“Đừng vượt lên trước”. Norah hét lên thật to, nhưng không thể át được tiếng gió gào. “Cứ để cho xe trượt dẫn đầu đoàn nhé”.
Chiếc xe trượt bằng nhôm mà Norah chất lên đó toàn bộ dụng cụ cần thiết trông khá giống chiếc tàu bay đa năng. Trên xe đầy những dụng cụ để thử nghiệm và những thiết bị an toàn mà mấy năm nay cô thường dùng. Tất cả mọi dụng cụ - bao gồm cả một bình ắc qui, đèn pháo sáng, mấy cái đèn pha đều được gói kỹ trong mảnh vải dầu. Dù chất nặng, chiếc xe vẫn nhẹ nhàng trượt thẳng về phía trước. Dù độ dốc hầu như không đáng kể, chiếc xe tự trượt xuống và Norah phải liên tục kìm bớt lại, như thế cho phép chiếc xe dẫn đường.
Cảm thấy khoảng cách giữa họ và ngôi nhà lớn đang tăng dần lên, Tolland ngoái lại đằng sau. Cách họ năm mươi mét, mái vòm cong nhợt nhạt của ngôi nhà đã biến mất hẳn trong bóng đêm thăm thẳm.
“Cô có biết cách tìm đường về không đấy?” Ông hét to. “Gần như chẳng nhìn thấy gì nữa rồi”. Ông chưa kịp dứt lời, đã nghe có tiếng xuỵt rất to, Norah vừa châm ngòi quả pháo sáng. Luồng ánh sáng hai màu đỏ và trắng tạo nên một vùng sáng có bán kính khoảng mười mét xung quanh họ. Sau khi lấy gót chân khoét một vệt lõm trên mặt băng, cô vun băng vụn thành ụ cạnh miệng hố, ở phía đầu ngọn gió. Xong xuôi, cô nện mạnh chiếc đèn pháo sáng xuống vết lõm ấy.
“Đồ chơi kỹ thuật cao đấy”. Norah kêu to.
“Đồ chơi à?” Rachel hỏi, lấy tay che mắt trước luồng sáng bất ngờ.
“Của hãng Hansel và Gretel đấy”. Norah hét to. “Những cái đèn này sáng được một giờ liên tục - tha hồ thời gian cho chúng ta quay về”.
Nói xong, Norah lại quay lên phía trước, dẫn đầu cả nhóm đi tiếp dọc dòng sông băng - lại một lần nữa đi vào đêm đen.
-
Chương 47
Gabrielle Ashe từ văn phòng của Marjorie Tench lao vụt ra ngoài, đâm sầm vào một thư ký. Chết điếng, cô không còn nhìn thấy gì khác ngoài những bức ảnh - những thân thể - chân và tay quấn chặt vào nhau. Mặt đầy thỏa mãn.
Gabrielle không biết những bức ảnh đó được chụp bằng cách nào, nhưng cô biết rõ ràng chúng là những bức ảnh thật. Được chụp bên trong văn phòng của Thượng nghị sĩ Sexton, hình như từ trên cao, rất có thể từ một camera bí mật nào đó. Cầu Chúa phù hộ cho con. Trong một bức ảnh, Gabrielle và Sexton ăn nằm với nhau ngay trên bàn làm việc của ngài Thượng nghị sĩ, hai thân thể nằm loã lồ trên mặt bàn ngổn ngang tài liệu.
Đến phòng bản đồ thì Marjorie Tench đuổi kịp cô. Tay bà ta vẫn cầm chiếc phong bì màu đỏ đựng ảnh. “Cô phản ứng mạnh như thế có nghĩa là những bức ảnh này là ảnh thật”. Bà cố vấn cao cấp của Tổng thống có vẻ đầy mãn nguyện. “Tôi hy vọng chúng làm cho cô tin rằng những tài liệu khác cũng đều xác thực. Cùng từ một nguồn đấy”.
Lao sầm sập xuống cầu thang, Gabrielle đỏ bừng và nóng ran đến từng chân tóc. Lối ra ở chỗ quái nào không biết?
Chân dài, Tench dễ dàng theo kịp cô. “Thượng nghị sĩ Sexton đã thề với cả thế gian rằng mối quan hệ giữa cô và ông ta chỉ thuần tuý về mặt tinh thần. Lời ông ta phát biểu trên ti vi nghe thật lâm li”. Mặt bà ta vẻ đầy tự mãn. “Trong phòng tôi vẫn còn đoạn băng ghi lại buổi ấy đấy. Cô có cần xem lại cho khỏi quên không?”
Chẳng cần ai phải nhắc. Gabrielle nhớ quá rõ buổi họp báo ấy. Những lời phủ nhận của ngài Thượng nghị sĩ thật là sắt đá, cũng thật cảm động.
“Buồn thay”, bà ta nói tiếp, không hề tỏ ra thất vọng. “Thượng nghị sĩ Sexton đã nhìn thẳng vào mắt người dân Mỹ để nói dối một cách trắng trợn. Công chúng có quyền được biết. Và họ sẽ biết. Đích thân tôi sẽ làm việc này. Vấn đề bây giờ chỉ còn là bằng cách nào mà thôi. Tốt nhất là cô nên tự nói ra”.
Gabrielle kinh hãi. “Bà tưởng là tôi sẽ giúp bà làm nhục ngài Thượng nghị sĩ sao?”
Mặt Tench đanh lại. “Thế là tôi đã tử tế lắm rồi đấy, Gabrielle ạ. Tôi đã cho cô cơ hội để giữ lại chút thể diện bằng cách ngẩng cao đầu mà nói ra sự thận. Cô chỉ cần ký vào bản tuyên bố thừa nhận đã quan hệ tình ái”.
Gabrielle đứng phắt lại: “Cái gì?”
“Dĩ nhiên, nếu có bản tuyên bố có chữ ký thì chúng tôi có thể giải quyết việc này với ông Thượng nghị sỹ một cách nhẹ nhàng, và nước Mỹ sẽ tránh được một vụ tai tiếng bẩn thỉu. Đề nghị của tôi rất đơn giản: Cô hãy ký vào một bản thông cáo, và sẽ chẳng một ai nhìn thấy những bức ảnh này nữa”.
“Bà muốn có một bản thông cáo à?”
“Về mặt kỹ thuật thì tôi cần có một bản khai có tuyên thệ, nhưng ngay ở đây có sẵn một công chứng viên để...”
“Bà điên rồi”. Gabrielle lại đi tiếp.
Bà ta vẫn theo sát bước cô, lúc này có vẻ rất tức tối. “Bằng cách này hay cách khác thì Thượng nghị sỹ Sexton cũng sẽ bị đổ, Gabrielle ạ. Và tôi đang cho cô cơ hội tự cứu mình để khỏi bị phơi trên mặt báo! Tổng thống là người tử tế nên ông ấy không muốn công khai những bức ảnh này. Nếu cô cho tôi bản khai đó, tất cả chúng ta sẽ giữ lại được một chút thể diện”.
“Tôi không phải là một món hàng”.
“Nhưng mà ngài ứng cử viên nhà cô thì là thế đấy. Ông ấy là người nguy hiểm, đã thế lại còn vi phạm pháp luật”.
“Ông ấy vi phạm pháp luật ư? Chính các người đang giở trò đột nhập vào văn phòng của người khác và chụp ảnh lén đấy thôi? Bà đã nghe nói đến vụ Watergate chưa hả?”
“Chúng tôi đâu có trực tiếp liên quan đến việc thu thập những thứ bẩn thỉu này. Nguồn gốc của những bức ảnh này cũng giống như những thông tin về khoản hiến tặng của SFF. Có người đang theo dõi sát sao nhất cử nhất động của hai thầy trò nhà cô đấy”.
Gabrielle lao vụt qua quầy trực ban nơi cấp thẻ ra vào. Cô lột phăng cái thẻ, ném thẳng vào mặt người lính gác đang tròn mắt ngạc nhiên. Tench vẫn lẵng nhẵng đằng sau.
“Cô phải quyết định thật nhanh, cô Ashe ạ”, bà ta nói khi cả hai đã ra gần đến cổng chính “nếu cô không nộp cho tôi một bản khai trong đó thừa nhận đã ăn nằm với ông Thượng nghị sỹ, thì đúng tám giờ tối nay, Tổng thống sẽ công khai toàn bộ sự việc”.
Gabrielle nhìn thấy cánh cửa và lao vội ra ngoài.
“Trên bàn của tôi, chậm nhất là tám giờ tối, Gabrielle ạ. Tỉnh táo mà suy nghĩ”. Bà ta tung cho cô cái phong bì đầy ảnh. “Cô giữ những cái này đi, bé yêu. Chúng tôi còn nhiều lắm
-
Chương 48
Đi xuôi dòng sông băng, dấn mình vào bóng đêm thăm thẳm, Rachel Sexton thấy một luồng gió buốt giá đang thổi. Rất nhiều hình ảnh cứ ám ảnh tâm trí, làm cô phải băn khoăn suy nghĩ - tảng thiên thạch, loài phù du phát sáng, những hậu quả của sai lầm rất có thể xảy ra khi Norah Mangor khoan thăm dò phiến băng.
Một cái đệm đá nước ngọt đặc liền khối hoàn hảo, Norah đã khẳng định điều đó, đã nhắc cho họ nhớ rằng chị ta đã khoan thăm dò ngay bên trên và xung quanh vị trí của tảng thiên thạch. Nếu dòng sông băng này có lẫn những tua nước mặt chứa sinh vật phù du thì chị ta phải biết ngay. Chắc chắn thế. Tuy nhiên, linh tính mách bảo Rachel rằng giả thuyết đơn giản nhất là giả thuyết đúng.
Có những sinh vật phù du đông cứng trong lòng dòng sông băng.
Đi thêm mười phút nữa, cắm thêm bốn cái đèn pháo sáng nữa, Rachel và những người khác đã đi được khoảng hai trăm năm mươi mét. Bất thình lình. Norah dừng lại. “Chính là chỗ này”. Chị ta nói, giọng chắc nịch y như thầy phù thủy chuyên tìm nguồn nước, bằng những cách thức thần bí, đã chọn được địa điểm tuyệt vời để khoan giếng.
Rachel quay lại đằng sau và nhìn ngược lên con dốc. Bán sinh quyển từ lâu đã chìm vào trong ánh trăng đêm mờ ảo, nhưng ánh sáng phát ra từ những cây đèn cắm trên tuyết thì rất rõ, ngọn đèn xa nhất đang lấp lánh như một ngôi sao ở phía xa. Tất cả những cây đèn cùng nằm trên một đường thẳng tuyệt đối, như thể đã được tính toán cẩn thận từ trước. Rachel thực sự thán phục kỹ năng của Norah.
“Đó là một lý do nữa để không vượt lên trước xe trượt”. Norah nói khi thấy Rachel thán phục dãy đèn thẳng tắp. “Xe trượt luôn chạy theo đường thẳng. Nếu cứ để cho nó chịu tác động của lực hấp dẫn và tuyệt đối không can thiệp vào, chắc chắn chúng ta sẽ đi trên một đường thẳng”.
“Mẹo hay đấy”, Tolland từ phía sau nói lớn. “Ước gì chúng tôi cũng có nhiều mẹo nhỏ như thế để áp dụng mỗi khi ra khơi”.
Đây chính là ngoài khơi rồi còn gì, Rachel nghĩ, mường tượng trong đầu mặt biển tít sâu dưới chân họ. Trong một tích tắc sau đó, cô chợt để ý đến ánh đèn xa nhất. Tự nhiên nó biến mất, như thể ánh sáng vừa bị một vật lớn lướt qua che mất. Chỉ sau một tíc tắc, nó lại sáng. Rachel chợt cảm thấy lo lắng.
“Norah này”, cô gào thật to để át tiếng gió “ban nãy chị bảo là vùng này có gấu à?”
Nhà băng hà học đang chuẩn bị cắm cây đèn phát sáng cuối cùng lên - hoặc là không nghe thấy gì, hoặc là đã cố tình lờ đi.
“Gấu Bắc Cực ăn thịt hải cẩu cơ”. Tolland nói thật to. “Chúng chỉ tấn công người khi con người xâm phạm lãnh địa của chúng thôi”.
“Đây là nơi chúng vẫn ở có phải không?” Rachel không bao giờ phân biệt được địa cực nào có gấu, địa cực nào có chim cánh cụt.
“Đúng thế”, Tolland đáp. “Chính vì gấu nên người ta mới đặt tên đất này là Bắc Cực. Trong tiếng Hy Lạp, gấu có nghĩa là arktos”.
Kinh thật. Rachel sợ hãi cố nhìn sâu vào bóng tối mịt mùng xung quanh.
“Nam Cực không có gấu”. Tolland nói. “Nên được đặt tên là anti-arktos”.
“Cảm ơn Mike”. Rachel nói. “Nói về gấu thế là đủ rồi đấy”.
Ông cười lớn: “Phải rồi. Tôi xin lỗi”.
Norah đã cắm xong cây đèn pháo sáng cuối cùng. Như những lần trước, luồng ánh sáng đỏ rực lại ôm trùm lấy họ, người nào trông cũng béo phị ra vì bộ quần áo bảo hiểm. Bên ngoài vùng sáng của bóng đèn, cảnh vật hoàn toàn mù mịt, như tấm vải liệm lớn màu đen bao trùm lên tất cả.
Rachel và những người khác cùng ngước nhìn lên, Norah đứng choãi chân, tay kéo chiếc xe trượt lùi lại vài mét, đến sát chỗ họ đang đứng, thận trọng trong từng thao tác. Sau đó vẫn giữ dây kéo thật căng, chị ta cúi xuống và lấy tay đẩy lưỡi phanh hình móng nhọn - những chiếc đinh bơn chĩa găm xuống mặt băng, giữ chiếc xe đứng im tại chỗ. Xong việc, chị ta đứng thẳng dậy, phủi quần áo sợi dây thừng quanh người Norah chùng hẳn xuống.
“Xong rồi”. Norah kêu to. “Bắt đầu vào việc nào”.
Nhà tiến sĩ băng hà học đi vòng quanh chiếc xe trượt, đến cạnh mũi xe ở vị trí xuôi gió và bắt đầu tháo những chiếc khóa bướm cố định lớp vải bạt bảo vệ phủ kín dụng cụ. Cảm thấy từ đầu đến giờ mình hơi khắc nghiệt đối với Norah, Rachel tiến lên một bước, định giúp một tay bằng cách tháo những chiếc khóa ở đuôi xe.
“Chúa ơi, đừng!” Norah thét lớn, ngẩng phắt lên. “Đừng bao giờ làm như thế”.
Rachel rụt tay lại, ngỡ ngàng.
“Đừng bao giờ mở khóa ở ngay đầu ngọn gió!” Norah nói. “Gió thổi ập vào ngay đấy! Chiếc xe này sẽ bay lên trời như diều đấy!”
Rachel lùi lại. “Xin lỗi tôi chỉ...”
Norah lừ mắt. “Cả cô lẫn anh chàng cổ sinh vật kia đừng đi theo thì tốt!”
Chẳng ai nên đi cùng chị cả, Rachel nghĩ thầm.
Mấy con gà mờ, Norah bực tức, thầm rủa ông Giám đốc cứ khăng khăng bắt Corky và Sexton cùng đi theo. Những kẻ khờ này có khi lại làm người khác chết oan không chừng. Chị ta thậm ghét phải lăng xăng chăm sóc những kẻ khác.
“Mikel!” Norah nói “anh hãy giúp tôi nhấc GPR xuống cái nào”.
Tolland giúp Norah dỡ chiếc máy quét radar trong lòng đất (GPR) và đặt nó trên mặt băng. Chiếc máy này trông khá giống ba cái luỡi ủi tuyết nhỏ gắn song song trên khung nhôm. Toàn bộ chiếc máy dài không quá một mét, nó được nối với cái ổn áp và bình ắc quy để trên xe trượt.
“Radar đấy à?” Corky hỏi, cố hét to để át tiếng gió.
Norah lẳng lặng gật đầu. Máy quét radar trong lòng đất có độ phân giải cao hơn thiết bị PODS nhiều. Bộ phận phát của chiếc máy này sẽ truyền những làn sóng điện từ xuyên qua băng. Sóng này sẽ phản hồi với những tần số khác nhau khi gặp phải những chất liệu khác nhau. Nước tinh khiết khi đóng băng tạo thành những khối hình đá cuội. Tuy nhiên, nước biển đóng băng tạo thành những chùm tia vì nó có chứa natri. Đá nước muối làm cho sóng điện từ phản hồi không đều, và tần suất thấp hơn.
Norah khởi động máy. “Tôi sẽ chụp ảnh cắt ngang toàn bộ phần băng xung quanh vị trí trục vớt tảng đá”, chị ta nói to “phần mềm bên trong máy sẽ ghi lại hình ảnh và in ra. Đá nước biển sẽ là những đốm màu sẫm”.
“In à?” Tolland ngạc nhiên. “In được ngay tại đây à?”
Norah chỉ dây cáp nối từ máy GPR với chiếc máy khác được che phủ cẩn thận dưới vải tráng dầu. “Không còn cách nào khác. Màn hình vi tính tiêu thụ quá nhiều năng lượng điện, cho nên những người nghiên cứu băng hà học trên thực địa thường dùng máy in. Màu không được rõ lắm, vì mực màu laze thường vón cục ở âm hai mươi độ C. Thời tiết ở Alaska đã dậy chúng tôi điều đó”.
Norah yêu cầu mọi người đứng cạnh chiếc máy, nhưng xuôi theo hướng gió. Trong khi đó, chị ta chuẩn bị sắp xếp bộ phận phát để có thể quét chính xác vùng đã trục vớt tảng thiên thạch lên, cách xa khoảng ba sân vận động. Nhưng khi Norah nhìn về hướng mà họ vừa đi qua, chị ta không nhìn được gì. “Mike này, tôi phải để bộ phận phát của GPR xếp thẳng hàng với vị trí của tảng thiên thạch, nhưng mấy cái đèn này làm tôi lóa mắt. Tôi sẽ leo ngược lên dốc một chút và giơ tay thẳng một đường với những cây đèn thắp sáng, còn anh chỉnh máy nhé”.
Tolland gật đầu, quỳ xuống bên cạnh chiếc máy.
Norah dận mạnh đinh đế giầy xuống mặt băng, nhoài người về phía trước và di chuyển ngược hướng gió, ngược dốc, về phía bán sinh quyển. Gió katabatic hôm nay thổi mạnh không ngờ, và sắp có bão. Nhưng không sao. Vài phút là xong ngay. Rồi sẽ ổn ngay thôi. Norah leo ngược dốc khoảng 20 mét, và ra khỏi vùng sáng, chiếc dây buộc cả nhóm vào nhau bị kéo căng ra.
Từ phía trên, Norah nhìn xuống. Khi mắt đã quen với bóng tối, thì thấy những cây đèn chiếu sáng đã nằm lệch về bên trái vài độ. Chị ta điều chỉnh vị trí cho đến khi mình đứng trên cùng một đường thẳng với bóng đèn. Sau đó, chị ta dang hai tay ra như thể chúng là chiếc compa xoay người, nhìn thẳng về đúng hướng sáng. “Tôi đứng thẳng hàng rồi đấy!” Chị ta hét to.
Tolland chỉnh máy GPR, rồi vẫy tay. “Xong rồi!”
Norah nhìn lên đỉnh dốc lần cuối cùng, thấy yên tâm vì đường về đã được chiếu sáng. Tuy nhiên chị ta thoáng nhìn thấy cái gì đó rất kỳ quặc. Trong một tích tắc, cây đèn gần nhất hoàn toàn biến mất. Norah chưa kịp nghĩ đến khả năng chiếc đèn ấy bị tắt thì nó đã sáng trở lại. Nếu là người không biết gì, Norah hẳn đã nghĩ ngay đến chuyện có người vừa xuất hiện xen giữa chị và cây đèn. Chắc chắn chẳng có ai ngoài này cả... Trừ khi ông Giám đốc NASA cảm thấy ân hận và đã cử một đội nhân viên đi hộ tống họ. Nhưng không thể có chuyện đó. Chắc chẳng có gì cả, Norah nhủ thầm. Đó chỉ là vì gió quá mạnh nên đèn bị bạt sáng một lúc mà thôi.
Norah quay về bên chiếc máy GPR. “Để thật thẳng hàng rồi chứ?”
Tolland nhún vai. “Chắc là thẳng rồi”.
Norah đến bên bộ điều khiển gắn trên xe trượt và nhấn nút.
Chiếc máy phát ra tiếng rè rè khó chịu rồi thôi ngay. “Được rồi”, chị ta nói “xong rồi đấy”.
“Đã xong rồi cơ à?” Corky hỏi.
“Lâu ở khâu chuẩn bị thôi. Chụp ảnh thì một giây là xong”.
Trên xe trượt, máy in bắt đầu lạch xạch hoạt động. Từ sau một tấm mi ca để bảo vệ, nó nhả ra một tờ giấy dầy cuộn tròn. Norah đợi cho đến khi in xong hết, rồi lấy tờ giấy ra. Rồi mọi người sẽ thấy, chị ta nghĩ thầm, mang tờ giấy đến bên cây đèn để mọi người cùng nhìn cho rõ. Không thể lẫn nước biển vào đây được.
Norah đứng bên cây đèn, tay giữ mép tờ giấy, mọi người xúm xung quanh. Chị ta hít thật sâu rồi mở tờ giấy ra xem. Những gì thấy trên tờ giấy làm cho Norah kinh hãi nhẩy dựng lên.
“Lạy Chúa tôi!” Chị ta nhìn trừng trừng, như không tin vào chính mắt mình. Theo như dự kiến, bức ảnh chụp mặt cắt của cái hố sâu đầy nước còn lại sau khi trục vớt tảng thiên thạch. Nhưng Norah không thể ngờ rằng mình sẽ nhìn thấy mờ mờ hình một người lơ lửng trong hố. Máu trong huyết quản chị ta đông cứng lại. “Ôi Chúa ơi...! Có một xác chết trong hố nước”.
Những người khác cũng trân trối nhìn, kinh ngạc, im lặng.
Cái xác ấy nằm chúc đầu xuống trong cái hố hẹp, trông thật ma quái. Xung quanh cái xác dường như có một lớp vải liệm rất kỳ quặc. Giờ thì Norah nhận ra. Máy GPR đã ghi lại lờ mờ hình ảnh chiếc áo khoác dầy của nạn nhân, chiếc áo khoác dài bằng lông cừu trông rất quen.
“Đây chính là... ông Ming...” Norah thì thào. “Chắc ông ấy bị trượt chân..”
Norah Mangor không ngờ rằng cú sốc khi thấy xác ông Ming trong hố nước chẳng thấm vào đâu so với một cú sốc nữa mà bức ảnh gây ra. Tiếp tục nhìn sâu xuống đáy hố nước, còn thấy một thứ nữa.
Phần băng đá bên dướt cái hố...
Norah nhìn chằm chằm. Đầu tiên chị nghĩ đến khả năng máy bị hỏng. Nhưng rồi, xem lại thật kỹ, chị lờ mờ nhận thấy, rồi hiểu ra vấn đề. Trong khi gió vẫn quất mạnh khiến mép giấy đập phần phật, Norah chăm chú nhìn bức ảnh.
Nhưng mà... Không thể nào!
Đột nhiên Norah hiểu ra sự thật, cảm tưởng như sự thật hãi hùng ấy vừa đào mồ chôn chính chị. Norah quên phắt tiến sĩ Ming.
Bây giờ thì Norah hiểu. Nước biển lẫn trong hố nước! Chị quỳ xuống bên cạnh cây đèn. Gần như nghẹn thở. Norah run bắn, tay vẫn giữ chặt tờ giấy.
Lạy Chúa... tôi không thể ngờ.
Thế rồi, đột nhiên trở nên vô cùng giận dữ, chị ta lao thẳng về phía bán sinh quyển của NASA. “Lũ súc sinh!” Chị ta gào lên, át cả tiếng gió hú. “Lũ súc sinh đáng nguyền rủa!”
Trong bóng đêm, chỉ cách đó 50 mét, Delta-Một đưa thiết bị bộ đàm lên sát miệng và chỉ nói vào máy có ba từ. “Họ biết rồi”.
-
Chương 49
Đến khi Michael Tolland giật tờ giấy khỏi tay chị ta, Norah Mangor vẫn còn quỳ nguyên trên mặt băng. Vẫn còn run rẩy sau khi nhìn thấy xác tiến sĩ Ming trong hố nước. Tolland cố trấn tĩnh và nắm bắt tình hình.
Tolland thấy cái hố nước trong ảnh chạy từ mặt băng xuống độ sâu hai trăm foot. Rồi đến xác ông Ming. Ông đưa mắt nhìn xuống sâu hơn nữa, và thấy có cái gì đó rất bất thường. Thẳng cái hố xuống có một cột màu đen chạy suốt xuống đến tận mặt biển. Cột đá nước biển thẳng đứng đó rất to, to đúng bằng kích cỡ của tảng thiên thạch.
“Lạy Chúa”, Rachel nhìn qua vai ông và thốt lên “cảm tưởng như cái hố nước chạy thẳng một mạch xuống tận mặt biển!”
Tolland đứng lặng người, trí não ông vẫn phản kháng lại cách lý giải duy nhất hợp lý. Trông Corky cũng không kém phần kinh ngạc.
Norah thét lên: “Có người đã khoan thủng phiến băng từ dưới lên!” Mắt chị ta long lên sòng sọc. “Có kẻ đã cố tình đặt tảng đá vào đó!”
Với tính cách cầu toàn, Tolland không muốn tin những gì Norah vừa nói, nhưng là nhà khoa học, ông thừa hiểu rằng những lời đó có thể rất chính xác. Phiến băng Milne nổi bồng bềnh trên mặt nước, và có rất nhiều cách để tiếp cận bằng tàu ngầm. Vì trong môi trường nước, trọng lượng của mọi vật đều giảm đi đáng kể, chỉ cần một chiếc tàu ngầm không lớn hơn chiếc tàu nghiên cứu dành cho một người của ông cũng có thể di chuyển tảng đá. Con tàu có thể xuất phát từ đại dương, tiếp cận phiến băng từ bên dưới, rồi từ đó khoan ngược lên trên. Sau đó, con tàu có thể dùng cánh tay trọng lực hoặc khinh khí cầu đưa tảng đá lên vị trí đó. Khi tảng đá đã được đặt vào vị trí, nước biển sẽ tràn vào lấp kín lỗ hổng rồi bắt đầu đông cứng lại. Khi lỗ khoan đã đông cứng và có thể giữ được tảng đá ở nguyên vị trí, người ta sẽ rút cánh tay trọng lực ra, để mặc cho mẹ Thiên nhiên hàn gắn nốt lỗ hổng còn lại và che lấp hết mọi dấu vết của sự lừa dối.
“Nhưng tại sao?” Rachel hỏi, giằng tờ giấy từ tay Tolland để xem cho kỹ. “Tại sao người ta lại phải làm như thế? Máy GPR có trục trặc gì không?”
“Đó là chuyện dĩ nhiên, tôi đảm bảo! Và bức ảnh này giải thích rất thoả đáng cho sự có mặt của sinh vật phù du và nước biển trong hố nước!”
Tolland buộc phải thừa nhận, buồn thay, logic của Norah hoàn toàn thuyết phục. Loài khủng trùng hình roi phát sáng đã theo bản năng bơi ngược lên trên lỗ khoan, bị mắc kẹt ngay bên dưới tảng đá, rồi bị đông cứng lại. Sau đó, khi Norah nung nóng tảng đá, lớp băng ngay bên dưới mặt đá cũng tan theo, giải phóng những loài sinh vật phù du đó. Lần này, chúng lại theo bản năng tiếp tục bơi lên trên, đến tận mặt nước bên trong bán sinh quyển, và chết vì thiếu nước mặn.
“Thật là điên rồ!” Corky kêu lên, “NASA có trong tay một tảng thiên thạch có hóa thạch động vật, còn tìm đâu ra tảng đá đó thì có gì quan trọng? Sao họ lại phải giở giói ra chôn nó vào giữa phiến băng để làm gì cơ chứ?”
“Ai mà biết được”, Norah đốp chát “nhưng thiết bị GPR không lừa dối đâu. Chúng ta đã bị lừa. Tảng thiên thạch đó không hề liên quan gì đến Jungersol Fall. Nó mới được ém vào đó gần đây thôi. Để lâu thì sinh vật phù du sẽ chết”. Chị ta đã xếp xong thiết bị GPR lên xe trượt và cài khoá. Phải quay lại và nói cho mọi người biết! Tổng thống sắp cung cấp cho công chúng những dữ liệu láo toét! NASA lừa dối Tổng thống!
“Đợi đã!” Rachel hét to. “Ít ra thì cũng phải chạy thử một lần nữa cho chắc đã. Thế này chưa kết luận ngay được. Ai sẽ tin chúng ta đây?”
“Ai cũng phải tin”, Norah vừa nói vừa sửa soạn “Khi về đến bán sinh quyển, tôi sẽ khoan thăm dò một mũi nữa đúng tại mặt đáy của hố nước. Nếu lấy lên được đá nước biển. tôi đảm bảo là mọi người đều phải tin!”
Norah nhả phanh trên bánh xe trượt, kéo xe về hướng bán sinh quyển, ngược lên dốc, dận mạnh đinh giầy xuống mặt băng và kéo xe nhẹ nhàng kỳ lạ. Chị ta quả là người rất sốt sắng với công việc.
“Đi thôi!” Norah thét lớn, kéo cả đội về phía trước, đi theo hướng có những cây đèn phát sáng. “Tôi không biết NASA định làm gì ở đây, nhưng tôi nhất định không để cho người ta lừa...” Cổ Norah Mangor đột nhiên ngửa gập về phía sau như thế bị cái gì đập rất mạnh vào trán. Chị ta thét lên đau đớn, loạng choạng, rồi ngã ngửa xuống băng. Hầu như tức thì, Corky cũng thét lên và loạng choạng như thể bị ai túm chặt lấy vai rồi đẩy mạnh về phía sau. Nhà cổ sinh vật học ngã vật xuống băng, quằn quại đau đớn.
Ngay lập tức, Rachel quên bức ảnh, tiến sĩ Ming, tảng thiên thạch và đường ngầm kỳ quặc bên dưới phiến băng. Cô cảm thấy một viên đạn vừa bay sượt qua tai, suýt nữa thì trúng vào thái dương. Theo bản năng, Rachel quỳ mọp xuống, Tolland cũng làm theo.
“Chuyện gì thế nhỉ?” Tolland thét lên.
Rachel nghĩ đây hẳn phải là một cơn bão tuyết - những cục băng bay vèo vèo từ trên đỉnh sông băng xuống - trông kiểu Corky và Norah bị hạ gục, Rachel biết rằng những cục băng này phải bay với tốc độ hàng trăm dặm một giờ. Kỳ lạ hơn nữa, một trận mưa rào rào những cục băng to bằng quả bóng lúc này chỉ tập trung vào Rachel và Tolland, rơi chi chít quanh họ, làm cho mặt băng bị cầy lên và bắn tung toé. Rachel cuộn người nằm sấp xuống, thúc đinh ở mũi giầy cắm chặt xuống băng, nhoài người tới lá chắn duy nhất trong tầm tay. Chiếc xe trượt. Một tích tắc sau, Tolland cũng bò đến núp bên cạnh cô.
Ông nhìn Norah và Corky nằm phơi mình trên băng. “Dùng dây kéo họ vào đây!” Miệng hét, tay ông túm sợi dây và bắt đầu kéo...
Nhưng sợi dây đã bị quấn chặt quanh chiếc xe kéo.
Rachel nhét bức ảnh vào túi bộ quần áo bảo hộ Mark IX, và trườn về phía chiếc xe kéo, cố gỡ sợi dây bị mắc vào gần xe Tolland theo sát đằng sau cô.
Trận mưa đá đột nhiên tập trung vào chiếc xe kéo, như thế mẹ Thiên nhiên đã bỏ qua Corky và Norah, chỉ nhằm thẳng vào Rachel và Tolland. Một viên đá đâm mạnh vào tấm vải trên nóc xe kéo, bị mắc vào đó rời nẩy lên, và rơi đúng vào lòng Rachel.
Nhìn viên đá, Rachel sợ cứng người. Chỉ trong chớp mắt, nỗi kinh ngạc đã nhường chỗ cho sự hãi hùng. Những hòn đá này là nhân tạo. Cục băng nằm trên lòng Rachel là một hình cầu tròn trịa to bằng quả dâu tây. Bề mặt mịn và bóng, chỉ có một đường viền chạy xung quanh chu vi của nó, giống như quả đạn đúc bằng chì kiểu cổ dùng cho súng hoả mai. Những cục băng tròn xoe này, không nghi ngờ gì nữa, là do con người làm ra.
Đạn băng...
Là người am hiểu quân sự, Rachel đã nghe nhiều về loại đạn mới được thử nghiệm - vũ khí ngẫu tác (IM) - những khẩu súng trường có thể nén tuyết thành đạn, súng trường sa mạc có thể nung chảy cát thành những viên đạn thủy tinh, súng bắn nước có thể phụt tia nước bắn ra với vận tốc có thể làm gẫy xương đối phương. Vũ khí ngẫu tác có những ưu điểm rất đáng kể so với vũ khí thông thường, bởi vì đạn được chế tạo ngay tại chỗ, cho phép binh lính tác chiến trong mọi địa hình mà không cần phải mang theo đạn. Những quả đạn băng đang bắn thẳng vào người họ lúc này, Rachel biết, được tạo ra “có chủ đích” bằng tuyết được tiếp vào báng súng.
Như chuyện thông thường trong giới tình báo, càng biết nhiều thì người ta càng dễ nhận thấy tình hình đáng sợ trước mắt. Đây không phải trường hợp ngoại lệ. Lúc ấy, Rachel đã thầm ước giá cô không hề biết gì, nhưng những hiểu biết về vũ khí ngẫu tác ngay lập tức dẫn cô đến một kết luận đáng sợ: Họ đang bị một đội lính tinh nhuệ nào đó tấn công, bởi họ là lực lượng duy nhất ở Hoa Kỳ được sử dụng loại vũ khí ngẫu tác thử nghiệm này trên thực địa.
Sự có mặt của một đơn vị vũ trang tinh nhuệ lại dẫn Rachel đến suy luận thứ hai, còn hãi hùng hơn thế nữa: Khả năng sống sót khi bị tấn công gần như không tồn tại.
Dòng suy nghĩ loạn xạ của Rachel bị cắt ngang khi một viên đạn băng bay trúng vào lỗ hổng trên xe trượt, sượt qua một loạt dụng cụ trên nóc xe, văng vào bụng Rachel. Bất chấp lớp đệm dầy của bộ quần áo bảo hộ, Rachel tưởng như mình vừa bị võ sĩ hạng nặng thụi vào bụng. Đau nổ đom đóm mắt, cô ngã ra sau, phải túm chặt đuôi xe để giữ thăng bằng. Michael Tolland vội bỏ sợi dây buộc vào người Norah mà ông đang kéo để đỡ Rachel, nhưng không kịp. Rachel ngã ngửa, kéo theo cả một đống dụng cụ. Cả cô lẫn Tolland nằm lẫn vào giữa đống thiết bị điện tử ngổn ngang.
“Đấy là, đạn đấy...” Cô hổn hển, nói không ra hơi. “Chạy đi!”
-
Chương 50
Đoàn tàu điện ngầm Washington Metrorail vừa rời ga Federal Triangie, Gabrielle thầm ước giá nó có thể chạy nhanh hơn nữa. Cô ngồi co cứng trong một góc, lơ đãng nhìn những bóng người lướt qua ngay sát bên. Chiếc phong bì lớn màu đỏ của Marjorie Tench nằm trên đùi cô, tưởng chừng nặng cả chục tấn.
Mình phải nói chuyện với ngài Sexton! Lúc này đoàn tàu đang dần tăng tốc, hướng tới văn phòng ngài Thượng nghị sĩ. Phải nói ngay lập tức!
Giờ đây, ngồi trong toa tầu mờ tối, nhìn những bóng sáng hắt qua cửa sổ tàu, Gabrielle tưởng như mình đang ngồi trên chuyễn tàu trong mơ. Những bóng sáng vụt qua rồi tắt lịm, hệt như những bóng đèn màu nhấp nháy trong sàn nhảy nào đó. Nhìn phía nào cũng thấy những đường hầm hun hút y như những hẻm núi sâu.
Ước gì tất cả những chuyện đó đều không có thật.
Thẫn thờ nhìn chiếc phong bì trong lòng, Gabrielle mở ra, rồi cầm một bức ảnh để xem. Trong một tích tắc, bóng đèn huỳnh quang trong toa chợt nhấp nháy, bức ảnh hiện lên như một ảo giác hãi hùng - Thượng nghị sĩ Sexton đang nằm trong văn phòng, trần như nhộng, hướng vẻ mặt đầy thỏa mãn về camera, bên cạnh ông là Gabrielle, cũng không một mảnh vải che thân.
Cô thở giốc, dúi ngay bức ảnh vào phong bì, tay lẩy bẩy đậy lại thật kỹ.
Thế là hết.
Khi đoàn tàu đã lên khỏi đường ray ngầm trong lòng đất và lăn bánh đến gần L Enfant Plaza, Gabrielle lục túi tìm điện thoại cầm tay và bấm số máy cá nhân của ngài Thượng nghị sĩ. Chỉ nghe thấy giọng thu sẵn trong hộp thư thoại của ông. Thất vọng, cô bấm số máy văn phòng của ông. Lần này thì cô thư ký nghe máy.
“Gabrielle đây mà. Thượng nghị sĩ có ở đó không?”
Người thư ký có vẻ bực bội. “Cô biến mất đi đằng nào thế? Ông ấy tìm cô mãi”.
“Tôi có cuộc họp, không ngờ lại lâu thế. Cho tôi nói chuyện với ông ấy ngay”.
“Cô phải đợi đến sáng mai thôi. Ông ấy về Westhrook rồi”.
Khu căn hộ cao cấp Westbrook là nơi ở của Thượng nghị sĩ tại thủ đô. “Tôi gọi về nhà nhưng không thấy ông ấy nghe máy”. Gabrielle nói.
“Ông ấy đã lên lịch cho tối nay là dành cho việc riêng rồi”. Cô thư ký nói. “Thượng nghị sĩ ra về rất sớm”.
Gabrielle cau có. Việc riêng. Quá bồn chồn lo lắng, cô quên mất ngài Sextơn đã dự định dành buổi tối nay để ở nhà một mình. Và Thượng nghị sĩ cương quyết không để bất kỳ ai làm phiền mình trong những buổi tối việc riêng như thế. Nếu tòa nhà đó bốc cháy thì hãy đập cửa nhà tôi, ông vẫn thường nói vậy, còn nếu là những việc khác thì hãy đợi đến sáng hôm sau. Gabrielle tự quyết định coi như nhà Thượng nghị sĩ đang cháy. “Chị hãy nối máy hộ tôi đi”.
“Không thể được”.
“Việc này nghiêm trọng lắm, tôi thực sự...”
“Không được mà, theo đúng nghĩa đen của từ đó đấy. Trước khi ra về, ông ấy còn để lại máy nhắn tin trên bàn và dặn kỹ là tối nay đừng làm phiền ông ấy. Giọng cương quyết lắm”. Cô ta hơi ngập ngừng. “Cứng rắn hơn lệ thường đấy”.
Khỉ thật. “Thôi được, cảm ơn cô!” Gabrielle gác máy.
“L Enfant Plaza”, tiếng loa thông báo “dừng tại tất cả các ga”.
Nhắm mắt lại, Gabrielle cố thư giãn đầu óc, nhưng những hình ảnh kinh hãi cứ ùa vào tâm trí... Những bức ảnh hãi hùng chụp cô và ngài Thượng nghị sĩ... Đống tài liệu buộc tội ngài Thượng nghị sĩ ăn hối lộ. Tai cô vẫn còn văng vẳng giọng nói rin rít của Tench. Cô hãy xử sự cho đúng đắn. Hãy ký vào bản khai đi. Thừa nhận vụ việc đi.
Đoàn tàu vào đến sân ga, phanh kêu ken két, và Gabrielle cố mường tượng xem ngài Thượng nghị sĩ sẽ làm gì nếu những bức ảnh này đến tay cánh nhà báo. Ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu khiến cô thực sự bị sốc và thất vọng.
Ngài Sexton sẽ nói dối.
Chẳng lẽ đây là trực cảm đầu tiên của cô về ứng cử viên mà cô đang phò tá ư?
Đúng thế. Ông ấy sẽ nói dối..., rất đạt:
Trong trường hợp Gabrielle không chịu thú nhận mà những bức ảnh này vẫn đến tay cánh nhà báo, ngài Thượng nghị sĩ chỉ cần tuyên bố đây là những bức ảnh giả mạo. Đây là thời đại kỹ thuật số, và bất kỳ ai đã từng vào mạng đều có thể dễ dàng nhìn thấy những bức ảnh giả được tút lại rất kỹ, trong đó khuôn mặt của các ngôi sao điện ảnh được ghép vào thân mình của người khác, thường là của những kẻ chuyên nghề khiêu dâm trong những cảnh quay dâm dật. Gabrielle từng chứng kiến khả năng nói dối của ngài Thượng nghị sĩ khi ông nhìn thẳng vào ống kính camera mà nói dối một cách ngon lành về mối quan hệ của họ; chắc chắn ông sẽ khiến cho cả thế giới phải tin rằng những bức ảnh đó chỉ là thủ đoạn nhằm làm hại sự nghiệp của ông. Thượng nghị sĩ sẽ tỏ ra rất phẫn nộ, và có thể còn bóng gió nói rằng chính Tổng thống đã lệnh cho tay chân bày trò giả mạo này.
Chả trách Nhà Trắng chưa dám công bố những bức ảnh này. Gabrielle ngẫm thấy rằng những bức ảnh cũng có thể phản lại họ y như khổ nhục kế lần trước. Dù trông rất sinh động và tự nhiên chăng nữa thì rất có thể chúng sẽ chẳng đi đến đâu cả.
Gabrielle chợt thấy đầy hy vọng.
Nhà Trắng không thể chứng minh đó là những bức ảnh thật!
Đơn giản, nhưng đòn tấn công phủ đầu của bà Tench đối với cô quả là hiệu quả: Thừa nhận mối quan hệ của cô với ông ta đi, nếu không sẽ phải vào tù đấy. Nhà Trắng cần cô thừa nhận vụ việc đó, nếu không những bức ảnh sẽ chẳng có giá trị gì. Niềm tin chợt loé lên trong Gabrielle giữa những giờ khắc bấn loạn này.
Khi đoàn tàu dừng trên sân ga, những cánh cửa lên xuống đã mở sẵn, cũng là lúc một cánh cửa xa xăm chợt hé ra trong tâm trí Gabrielle, mở ra lối đi triển vọng.
Rất có thể tất cả những gì bà Tench nói với mình về vụ hối lộ đều là giả dối.
Suy cho cùng thì Gabrielle đã nhìn thấy những gì? Dù gì đi nữa thì cũng chẳng có gì xác thực cả - vài bản photocopy các chứng từ ngân hàng, một bức ảnh xám xịt chụp cảnh Thượng nghị sĩ trong một ga ra ô tô. Rất có thể bà ta đã xảo quyệt cho cô xem những chứng từ tài chính giả mạo đó cùng với những bức ảnh *** thật vì hy vọng rằng cô sẽ tin tất cả đều là sự thật. Mánh đó gọi là “xác thực bằng cách liên tưởng” mà các chính trị gia vẫn thường xuyên sử dụng cách này để khiến công chúng tin vào những ý tưởng không rõ ràng và dễ hiểu.
Ngài Thượng nghị sĩ vô tội, Gabrielle tự bảo mình, Nhà Trắng đã lâm vào tình thế tuyệt vọng, và họ bày đặt ra canh bạc này để dọa cho cô sợ, hòng công khai vụ việc đó. Họ muốn Gabrielle từ bỏ ngài Thượng nghị sĩ một cách ầm ỹ và tai tiếng. Hãy rút lui ngay khi vẫn cờn có cơ hội, bà Tench đã bảo cô thế. Cô có cơ hội đến muộn nhất là tám giờ tối nay. Trò lừa gạt bằng cách dùng tối hậu thư này quả là đáng sợ. Mọi tình tiết đều ăn khớp, cô thầm nghĩ.
Trừ một chi tiết...
Miếng ghép duy nhất không khít trong trò ghép hình này là những bức thư chống phá NASA mà Tench gửi cho cô. Từ đó có thể suy ra là NASA muốn Thượng nghị sĩ bộc lộ rõ quan điểm chống NASA của ông, để lợi dụng điều đó mà làm hại ông. Hay chính chi tiết này cũng trùng khớp nốt? Gabrielle vừa nhận ra rằng chính những bức thư điện tử đó cũng có thể được lý giải một cách rất logic.
Nhỡ những bức thư đó không phải do bà Tench gửi thì sao?
Rất có thể bà ta đã khui ra kẻ phản bội, sa thải người đó, rồi can thiệp bằng cách dùng địa chỉ đó để gửi thư cho cô, dàn xếp cuộc gặp này. Rất có thể bà ta giả vờ cố ý gửi những bức thư đó cho cô, để đẩy cô lên vị trí này.
Động cơ tàu đang phì hơi xì xì tại nhà ga L Enfant Plaza, cửa lên xuống sắp đóng.
Gabrielle đưa mắt nhìn sân ga, đầu óc quay cuồng. Cô không biết những suy luận của mình là đúng hay chỉ là những mơ tưởng hão huyền, nhưng dù có chuyện gì đi nữa thì cô cũng phải cho Thượng nghị sĩ biết chuyện này ngay - bất kể tối nay ông có việc nêng hay không cũng mặc.
Tay cầm chặt chiếc phong bì, Gabrielle vội bước xuống sân ga ngay trước khi cửa lên xuống đóng sập lại. Cô đã xác định được cái đích cần phải đến.
Khu căn hộ Westbrooke.
-
Chương 51
Hoặc phải chống trả, hoặc phải tháo chạy.
Là nhà sinh vật học, Tolland biết rằng khi một sinh vật cảm nhận được hiểm họa, sẽ có rất nhiều thay đổi về sinh lý. Adrenaline dâng tràn lên vỏ não, nhịp tim tăng mạnh, thúc đẩy bộ óc phải đưa ra những quyết định có tính bản năng nhất - hoặc là chống trả, hoặc là tháo chạy.
Bản năng trong Tolland bảo ông hãy tháo chạy, ấy thế nhưng lý trí nhắc nhở rằng ông và Norah Mangor cùng bị buộc vào một sợi dây. Và dù sao thì cũng chẳng biết chạy đi đường nào. Nơi trú ẩn duy nhất trong bán kính vài dặm chính là trong bán sinh quyển; và những kẻ tấn công này, bất kể chúng là ai, đã chiếm giữ vị trí trên đỉnh dốc băng, chặn mất lối thoát ấy. Phía sau ông, phiến băng nở rộng ra thành một dải đồng bằng dài hai dặm phủ lên trên mặt biển băng giá. Tháo chạy về hướng đó có nghĩa là đối mặt với cái chết. Tuy nhiên, cản trở chính lại là những người khác Tolland biết ông không thể bỏ mặc họ. Norah và Corky đang nằm phơi mình trên băng, được nối với Tolland và Rachel bằng một sợi dây.
Tolland cúi rạp bên cạnh Rachel khi những hòn đạn băng tiếp tục nã như mưa xuống chiếc xe trượt đã bị lật sấp ông chộp lấy vài thứ dụng cụ, cố tìm một thứ vũ khí nào đó, súng bắn pháo sáng, radio, hay bất kỳ cái gì.
“Chạy đi!” Rachel hét to, vẫn thở một cách khó nhọc.
Sau đó, làn mưa đạn ngưng đột ngột. Dù gió vẫn đang giật, đêm đột nhiên trở nên yên tĩnh, như thể cơn bão đã bất ngờ tan hẳn.
Lúc ấy, đang thận trọng nhòm qua khe xe trượt, Tolland chứng kiến cảnh tượng hãi hùng nhất trong đời.
Trượt ra chỗ sáng một cách nhẹ nhàng từ bóng tối, ba hình bóng ma quái xuất hiện, chân đeo ván trượt tuyết. Những người này mặc áo liền quần bảo hộ màu trắng. Họ không dùng sào trượt tuyết mà cầm trên tay những khẩu súng trường lớn mà ông chưa từng thấy. Ván trượt của họ trông cũng rất lạ lùng, ngắn và hiện đại trông giống giầy Rollerblades kéo dài ra.
Một cách điềm tĩnh như thể biết rằng đã nắm chắc phần thắng, những người này dừng lại bên nạn nhân gần nhất - Norah Mangor giờ đã bất tỉnh. Tolland run run nhổm người lên để nhòm cho rõ những người này. Họ quay những cặp kính bảo hộ điện tử kỳ lạ về phía ông, nhìn chằm chằm. Rõ ràng là chẳng quan tâm lắm.
Ít nhất là lúc này.
Delta-Một chăm chú nhìn người đàn bà nằm bất tỉnh trên băng, không chút ân hận. Anh đã được đào tạo để thi hành mệnh lệnh mà không cần biết lý do.
Người đàn bà này mặc bộ quần áo giữ nhiệt màu đen dầy, một bên mặt bị sưng to. Chị ta thở gấp, khó nhọc. Một viên đạn từ những khẩu súng trường của họ đã bắn trúng vào má, khiến chị ta bất tỉnh.
Giờ là lúc hoàn tất công việc.
Khi Delta-Một quỳ xuống bên người đàn bà không quen biết, hai đồng đội của anh chĩa súng về những mục tiêu còn lại - một người đàn ông bé nhỏ nằm bất động trên băng ngay gần họ, và hai nạn nhân khác đang nấp sau chiếc xe trượt lật úp. Mặc dù họ có thể dễ dàng tiến tới để kết liễu tất cả, nhưng những nạn nhân kia không có vũ khí và cũng chẳng thể chạy đi đâu. Cố giết tất cả bọn họ ngay lúc này là hành động bất cẩn. Đừng bao giờ chút nhỏ trọng tâm chú ý nếu không thực sự cần thiết. Hãy thanh toán từng đối thủ một. Theo đứng bài bản, Đội Delta sẽ kết liễu từng đối tượng một. Tuy nhiên, điều đặc biệt chính là không một dấu vết nào có thể hé lộ những lý do khiến những người này phải chết.
Cúi xuống bên người đàn bà, Delta-Một tháo găng tay giữ nhiệt và vốc một nắm tuyết. Anh ta gang miệng nạn nhân ra rồi nhét tuyết vào họng. Delta-Một nhét thật đầy, ấn tuyết xuống tận khí quản. Trong vòng ba phút chị ta sẽ chết.
Phương pháp này có tên là belaya smert - cái chết trắng, do mafia Nga nghĩ ra. Nạn nhân sẽ bị chết ngạt trước khi tuyết trong miệng tan ra. Nhưng sau khi chết rất lâu, cơ thể người vẫn còn đủ ấm để làm đám tuyết ấy tan hết. Dù người ta có thể nghi ngờ, nhưng không ai tìm thấy được bất kỳ hung khí hay bằng chứng nào để chứng minh cho hành động giết người. Cuối cùng thì người ta cũng có thể nghĩ ra nguyên nhân thực sự, nhưng lúc ấy thì chúng đã có đủ thời gian. Những viên đạn băng sẽ hòa lẫn vào băng tuyết xung quanh, và vết sưng phồng trên mặt người đàn bà này sẽ trông giống như hậu quả của cú ngã chí mạng - chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi gió thổi mạnh đến mức này.
Ba người còn lại cũng sẽ bị hạ sát theo kiểu này, sau đó Delta-Một sẽ chất họ lên xe, kéo đi xa vài trăm mét và lại buộc họ vào dây rồi bố trí hiện trường giả. Vài giờ nữa người ta sẽ tìm thấy những thi thể đã đông cứng, hiển nhiên giống hệt những nạn nhân của thời tiết xấu. Dĩ nhiên, những người đi tìm sẽ băn khoăn không hiểu những người này ra ngoài trời để làm gì Suy cho cùng thì những cây đèn báo sáng của họ đã tắt hết, thời tiết thì thật kinh khủng, bị lạc lối trên phiến băng Milne có nghĩa là cái chết sẽ ập đến tức thì.
Lúc này, Delta-Một đã nhồi xong tuyết vào cổ họng người đàn bà. Trước khi chuyển sang những nạn nhân khác, anh tháo cái móc nối vào sợi dây của nhóm trên thắt lưng chị ta. Sau này có thể móc vào lại nhưng lúc này anh không muốn những nạn nhân kia nghĩ đến chuyện kéo chị ta ra chỗ khác.
Hành động giết người này quả là dã man quá sức tưởng tượng của Tolland. Sau khi đã tháo sợi dây buộc vào Norah Mangor, cả ba bắt đầu quay sang Corky.
Cần phải tìm cái gì đó!
Corky lúc này đã tỉnh lại, đang rên rỉ, gắng sức ngồi dậy, nhưng một người lính ấn ông ta xuống, ngồi đè cả người lên rồi dùng tay và chân ghìm chặt chân tay Corky xuống tuyết. Corky kêu thét lên đau đớn, nhưng tiếng kêu lập tức bị cơn gió dữ át đi.
Kinh hãi đến phát điên, Tolland lục lọi những đống dụng cụ đổ xuống từ chiếc xe trượt. Chắc chắn phải có thứ gì đó! Một thứ vũ khí nào đó! Chắc chắn phải có! Nhưng ông chỉ tìm thấy những dụng cụ phân tích băng, thảy đều bị trận mưa đạn băng vừa nãy phá tan tành. Cạnh ông. Rachel đang chới với cố thu người ngồi dậy bằng cách dựa người vào cây rìu đá. “Phải chạy đi... Mike...”
Tolland nhìn chiếc rìu mắc ở cổ tay Rachel. Có thể dùng làm vũ khí được. Đại loại vậy. Ông mường tượng cảnh dùng chiếc rìu tí xíu đó để tấn công ba người lính được vũ trang đến tận chân răng kia.
Làm thế là tự sát.
Rachel vừa ngồi hẳn dậy, Tolland chợt nhìn thấy một vật sau lưng cô. Cái túi dù rất to. Thầm cầu Chúa trong túi đó có khẩu súng bắn pháo sáng hay chiếc radio, ông bò qua người Rachel, tay lần cái túi. Trong túi có một tấm vải Mylar rất to, được gấp cẩn thận. Chẳng ích gì. Trong túi dụng cụ nghiên cứu biển của Tolland cũng có một cái gần giống thế này. Đây là quả khinh khí cầu loại nhỏ được chế tạo để vận chuyển những dụng cụ quan trắc khí hậu có trọng lượng chỉ bằng chiếc máy tính cá nhân. Cái khinh khí cầu của Norah chẳng làm được nên trò trống gì trong hoàn cảnh này, nhất là khi không có bình khí helium để gắn kèm vào.
Nghe tiếng Corky đang vật vã, Tolland càng tuyệt vọng. Hoàn toàn tuyệt vọng. Thất bại thảm hại. Đúng như những gì ông thường nghe mọi người nói về chuyện người ta thường nhớ lại những khoảnh khắc quan trọng trong đời trước lúc lâm chung, những kỷ niệm ấu thơ chợt ùa về lấp đầy tâm trí Tolland. Trong vòng một tích tắc, ông nhớ lại thuở còn ở trên chiếc thuyền buồm tại cảng San Pedro, tập bay trên trục buồm lớn - một thú tiêu khiển ưa thích của các thủy thủ - bám tay vào dây tời, đu đưa ngay trên mặt biển, lúc như lao thẳng xuống mặt nước cuồn cuộn, lúc lại hả hê tung người lên cao hệt như một đứa trẻ đang đu trên xà đơn phó mặc sinh mạng cho sợi dây buồm và những ngẫu hứng của gió biển.
Tolland lập tức nhìn như muốn nuốt chửng chiếc khinh khí cầu Mylar trong tay, hóa ra tâm trí ông đâu đã chịu đầu hàng, ông vừa nảy ra một giải pháp! Bay trên trục buồm lớn.
Trong khi Corky vẫn đang đơn độc vật lộn với ba người lính kia, Tolland giật mạnh lớp vải bảo hộ bao quanh chiếc khinh khí cầu ông không ảo tưởng rằng đây là biện pháp hữu hiệu, nhưng ở lại đây có nghĩa là cả ba người sẽ phải chết. Ông lôi mạnh khinh khí cầu ra. Có một dòng chữ in trên móc gài hàng: CẨN TRỌNG: KHÔNG SỬ DỤNG KHI TỐC ĐỘ GIÓ QUÁ 10 HẢI LÝ.
Cẩn trọng cái con khỉ! Cố giữ tay thật chặt để khinh khí cầu không nở phồng ra, Tolland bò đến bên Rachel lúc này đang nằm nghiêng một bên. Ông đọc thấy vẻ ngỡ ngàng trong mắt cô khi quỳ xuống sát Rachel và hét lớn: “Giữ lấy cái này!”
Ông đưa cho Rachel khinh khí cầu được gấp cẩn thận rồi dùng tay kia móc cái móc gài vào thắt lưng mình, sau đó ông lăn người và kéo chiếc móc ấy để gài vào thắt lưng Rachel.
Lúc này hai người đã bị buộc làm một.
Bị buộc chặt vào nhau ngang thắt lưng.
Sợi dây buộc giữa hai người lòng thòng kéo dài trên tuyết đến chỗ Corky đang giãy giữa, rồi tiếp tục kéo dài thêm mười mét nữa đến tận chỗ cái móc nằm chỏng chơ bên cạnh Norah Mangor.
Norah thì không cứu được nữa rồi, Tolland tự nhủ, mình cũng có thể làm gì cho cô ấy nữa.
Ba kẻ kia đang xúm lại bên Corky, chúng đã vốc được một nắm tuyết sắp sửa nhồi vào cổ họng nhà cổ sinh vật. Tolland biết họ không còn thời gian để chần chừ nữa.
Tolland giật mạnh chiếc khinh khí cầu trên tay Rachel. Chất vải dù này nhẹ như giấy, và rất chắc chắn. Đây rồi. “Bám chắc nhé!”
“Mike?” Rachel lên tiếng. “Cái gì...”
Tolland huơ huơ tấm vải trên đầu. Cơn gió dữ lập tức ùa vào giật tung các nếp xếp, tấm vải căng rộng ra như cánh dù giữa gió xoáy. Không khí lùa đầy vào, quả khinh khí cầu căng phồng lên đánh phựt, trên tay ông, tất cả chỉ trong tích tắc.
Tolland cảm thấy bị kéo rất mạnh ở thắt lưng, và ngay tức thì.
Ông biết mình đã đánh giá không hết sức mạnh của loại gió katabatic này. Chỉ trong chớp mắt, ông và Rachel đã bị kéo gần như lơ lửng trong không khí, xuôi xuống dưới dốc băng. Sau một tích tắc, ông thấy thắt lưng bị giật mạnh lần nữa khi sợi dây nối với Corky Marlinson bị kéo căng ra. Cách ông hai mươi mét, ông bạn khốn khổ đang khiếp hãi của ông bị giật mạnh khỏi tay lũ sát thủ, làm cho một tên chới với ngã lộn nhào. Corky kêu lên thất thanh khi bị kéo lê trên băng với tốc độ kinh hoàng, suýt va vào chiếc xe trượt bị lật úp bên cạnh đống dụng cụ ngổn ngang. Một sợ dây khác cũng bị lôi lượt sượt bên Corky... Sợi dây đáng ra được móc vào Norah Mangor.
Mình đâu có thể làm được gì hơn, Tolland tự nhủ.
Cả ba bị kéo lê trên băng chẳng khác gì những con rối bị buộc vào nhau. Đạn băng vãi như mưa quanh họ, nhưng Tolland biết những hung thủ kia chẳng thể làm gì được nữa. Sau lưng ông, bóng ba người lính mặc quần áo trắng đứng trong quầng sáng toả ra từ những cây đèn đang mờ dần đi.
Lúc này, Tolland thấy băng tuyết đang sượt qua dưới bộ áo liền quần bảo hộ trên người ông với tốc độ mỗi lúc một cao hơn, và cảm giác nhẹ nhõm vì thoát chết nhanh chóng tan biến. Phía trước họ, ở khoảng cách không đầy hai dặm, điểm tận cùng dốc đứng như bờ vực của phiến băng Milne đang đợi sẵn, và tiếp đến..., cách mặt băng một trăm foot..., là những con sóng chết người của Biển Bắc
Chương 52
Tươi như hoa, Marjorie Tench xuống cầu thang, tiến về phòng thông tin của Nhà Trắng; căn phòng có gác xép với những thiết bị thu phát tự động được cài đặt sẵn. Cuộc gặp với Gabrielle đã diễn ra suôn sẻ. Bất kể Gabrielle có hoảng sợ đến nỗi phải, tự công khai vụ việc đó hay không thì thử một phen như thế chẳng phí công chút nào.
Gabrielle đủ thông minh để tránh xa ông ta, bà ta thầm nghĩ. Cô bé tội nghiệp đó không thể biết Sexton sắp rớt đài thảm hại đến thế nào.
Chỉ vài giờ đồng hồ nữa thôi, cuộc họp báo của Tổng thống về tảng thiên thạch sẽ khiến ông ta phải đổ gục. Chưa hết. Nếu Gabrielle chịu hợp tác thì ông ta sẽ bị giáng một đòn chí mạng và sẽ phải lê lết trong nhục nhã. Sáng sớm mai Tench sẽ tung ra bản khai của Gabrielle kèm theo cảnh Thượng nghị sĩ Sexton đang phủ định tin đồn về chuyện đó.
Đòn đúp.
Suy cho cùng, làm chính trị không có nghĩa là chỉ cần thắng cử mà phải là thắng một cách thuyết phục - phải có đủ thế lực để thực thi những dự định trong đầu. Xét trong lịch sử Hoa Kỳ, tất cả những vị Tổng thống đặt chân vào Nhà Trắng với một tỉ lệ phiếu bầu sít sao đều chẳng làm được gì đáng kể; thế của ông ta đã bị yếu đi nhiều ngay trước ngưỡng cửa Nhà Trắng, và Nghị viện sẽ không bao giờ quên chi tiết đó.
Nếu đúng như dự kiến, chiến dịch tranh cử của Thượng nghị sĩ Sexton sẽ bị phá sản toàn diện - đây sẽ là một đòn đúp giáng vào cả cương lĩnh chính trị lẫn tư cách đạo đức của ông ta. Chiến thuật này, vốn được chính giới Washington đặt tên là “trèo cao ngã đau”, bắt nguồn từ nghệ thuật quân sự. Ép đối phương phải chiến đấu trên cả hai mặt trận. Khi vớ được một nguồn tin về điểm yếu của đối thủ, đa số các ứng cử viên thường đợi thêm cho đến khi có thêm một tin thứ hai, rồi cùng lúc công khai cả hai. Một cú đánh đúp thường có hiệu lực hơn hẳn so với những đòn đơn lẻ thông thường, nhất là khi đòn đúp đó được chĩa vào hai mục tiêu khác nhau trong chiến dịch tranh cử của đối phương - một nhằm vào đường lối chính trị, một vào tư cách cá nhân của đối phương. Dùng lý trí để đánh vào cương lĩnh chính trị, và dùng tình cảm để đánh vào nhân cách, cùng lúc ra đòn từ hai hướng như thế sẽ khiến đối phương không tài nào chống đỡ nổi.
Đêm nay, Thượng nghị sĩ Sexton sẽ phải lê lết tìm cách thoát khỏi cơn ác mộng sau khi thắng lợi của NASA được công bố, và tình cảnh của ông ta sẽ cờn bi đát hơn nữa nếu phải bảo vệ quan điểm về NASA trong lúc bị chính nữ cộng sự thân cận của mình công khai buộc tội dối trá.
Đến cửa phòng thông tin, Tench cảm thấy vô cùng hào hứng với viễn cảnh về cuộc đấu. Chính trị nghĩa là tranh đấu. Bà ta hít thật sâu rồi giơ tay xem đồng hồ. 6 giờ 15 phút chiều. Phát đạn đầu tiên sắp được khai hỏa.
Tench bước vào bên trong.
Họ sẵn sàng cả rồi, bà ta đọc thấy điều đó trong ánh mắt chăm chú của những nhân viên phòng máy.
Căn phòng nhỏ tí xíu này lần nào cũng khiến Tench thấy kinh ngạc. Chỉ cần được báo trước hai giờ, các nhân viên này có thể kết nối với một nửa số người văn minh trên trái đất. Được kết nối điện tử với hàng ngàn nguồn cung cấp tin trên toàn cầu - từ những tập đoàn phát thanh - truyền hình lớn cho tới những tờ báo địa phương - chỉ cần bấm vài cái nút là Nhà Trắng có thể vươn cánh tay tới mọi nơi trên khắp địa cầu.
Máy tính có thể gửi nội dung các buổi họp báo đến thẳng các đài phát thanh, đài truyền hình, các tòa báo và các địa chỉ intemet trải khắp từ vùng Maine đến tận Moscow. Mọi điểm kết nối intemet đều được cài đặt sẵn những phần mềm cho phép tự động nhận những thông tin số hóa loại này. Thiết bị quay số tự động sẽ thực hiện hàng ngàn cuộc gọi đến các nhà cung cấp dịch vụ mạng và chuyển đến họ những đoạn băng được thu sẵn. Một trang web nóng sẽ liên tục cập nhật những thông tin “mới nhất cùng với những thông báo được soạn thảo sẵn”. Những hệ thống có khả năng “truyền tin tức thờ” – CNN, NBC, ABC, CBS và các tập đoàn truyền thông nước ngoài - sẽ bị được tiếp cận từ mọi hướng, và sẽ nhận được lời hứa hẹn về một nguồn tin nóng miễn phí. Tất cả các chương trình đang lên sóng của họ sẽ phải ngưng lại để nhường chỗ cho bản tin nóng phát đi từ phủ Tổng thống.
Một cuộc tấn công tổng lực.
Hệt một viên tướng đi duyệt quân, Tench sải bước đến bên bàn photocopy và cầm lên tay một bản in đã được đặt sẵn trên máy fax, y như viên đạn súng ngắn đã lên nòng.
Bà ta đọc, và khẽ cười một mình. Theo đúng thông lệ, lời lẽ của bản thông báo này khá “nặng đô” - nặng về quảng cáo hơn là thông báo - nhưng Tổng thống đã lệnh cho phòng thông tin phải lược hết các đấu chấm câu đi. Đây là kết quả họ có được.
Văn bản này thật hoàn hảo - nhiều từ mạnh. Ít nghĩa ẩn. Một sự kết hợp chết người. Ngay cả các địa chỉ dùng chương trình lọc tin tự động để phân loại thư đến cũng sẽ nhận được vô số từ khóa khiến họ phải chú ý:
Từ: Phòng thông tin Nhà Trắng
Nội dung: Thông báo khẩn của Tổng thống.
Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ sẽ tổ chức buổi họp báo khẩn lúc tám giờ tối nay, giờ chuẩn khu đông, tại phòng họp báo của Nhà Trắng. Nội dung buổi họp báo được xếp vào loại đặc biệt. Các nguồn cung cấp tin tức thời tại chỗ sẽ hoạt động như thường lệ.
Để tờ giấy trên bàn như cũ, Marjorie Tench nhìn khắp phòng thông tin một lần nữa rồi gật đầu tán thưởng với mấy nhân viên trực ban. Người nào cũng có vẻ háo hức muốn vào việc ngay.
Châm thuốc, bà ta rít một hơi, mơ màng với viễn cảnh tươi đẹp trước mắt. Cuối cùng, Tench cười rất tười: “Nào các vị, bấm máy bắt đầu thôi!”
-
Chương 53
Tất cả mọi lập luận logic đều đã biến mất khỏi tâm trí Rachel. Cô không hề nghĩ đến tảng thiên thạch, bức ảnh lạ lùng vừa nhét vào túi áo tiến sĩ Ming, hay vụ đụng độ sinh tử trên phiến băng mờ tối. Lúc này chỉ có một vấn đề thực sự có ý nghĩa.
Sống sót.
Mặt băng nhẵn lỳ như mặt đường cao tốc đang sượt qua dưới bộ áo liền quần của cô. Không biết vì cơ thể đã đờ ra do sợ hãi hay vì được bộ quần áo này che chở, Rachel không cảm thấy đau. Cô chẳng cảm thấy gì cả.
Ấy thế mà...
Nghiêng người, thắt lưng bị móc chặt vào thắt lưng của Tolland, cô nằm mặt-đối-mặt với ông trong một tư thế thật kỳ quặc. Đâu đó trên đầu họ, chiếc khinh khí cầu căng đầy gió y như chiếc dù buộc vào đuôi xe đua công thức một. Corky ở phía sau họ, bị lôi xềnh xệch chẳng khác gì cái rơ moóc bị hỏng phanh. Những vầng sáng đánh dấu địa điểm mà họ bị tấn công đã khuất dạng hẳn phía xa.
Âm thanh tạo ra do mặt vải phủ nhựa của bộ áo liền quần Mark IX sượt trên mặt băng nghe thanh hơn, do tốc độ trượt cũng đang tăng lên nhanh chóng. Cô không biết họ đang trượt với vận tốc bao nhiêu nhưng sức gió này ít nhất cũng phải 60 dặm một giờ, và mặt băng trơn nhẫy đang sượt qua bên dưới họ với một vận tốc đang tăng lên từng giây một. Quả khinh khí cầu siêu bền Mylar không có dấu hiệu nào cho thấy sẽ bị rách hay nhũn ra.
Phải nới lỏng cái dù ra, cô thầm nghĩ. Cả nhóm đang chạy thoát khỏi hiểm họa chết người để lao thẳng vào hiểm họa khác chẳng kém cạnh gì. Chỉ còn cách mặt biển khoảng gần một dặm nữa thôi! Hình ảnh mặt biển băng giá một lần nữa gợi lại trong cô những ký ức hãi hùng.
Gió tiếp tục giật mạnh hơn, tốc độ trượt của họ cũng tăng theo. Sau lưng họ. Corky vừa kêu thét lên kinh hãi. Rachel biết với tốc độ này thì chỉ vài phút nữa là họ sẽ bị văng ra khỏi mỏm băng và rơi xuống biển.
Rõ ràng là Tolland cũng nghĩ như vậy nên ông đang vật lộn với mớ khóa móc trên thắt lưng của họ.
“Tôi không tháo được móc, dây căng quá?”
Rachel hy vọng gió sẽ dịu đi trong chốc lát để sợi dây chùng lại một chút, nhưng gió katabatic vẫn đều đều thồi không thương xót. Để giúp Tolland, Rachel vặn người rồi dúi mạnh đinh mũi giày xuống mặt băng, làm vụn băng bay tung tóe. Tốc độ trượt chỉ giảm chút xíu.
“Nào!” Vừa nhấc chân lên, Rachel vừa hét lớn.
Trong chốc lát, sợi dây néo của khinh khí cầu chùng lại đôi chút. Tolland cố hết sức tận dụng độ chùng của sợi dây để tháo những cái khóa móc trên lưng họ. Vẫn chưa được.
“Lần nữa đi!” Ông hét lên.
Lần này cả hai cùng rướn người lên và dận mạnh mũi giày xuống băng, khiến bụi băng văng lên thành hai hình cung như hai cái đuôi công.
“Nào!”
Cả hai cùng căng hết sức. Trong khi quả khinh khí cầu lại đang tăng tốc trở lại, Tolland ấn mạnh ngón tay cái vào khóa và cố tháo móc gài. Lần này thì gần được. Nhưng sợi dây vẫn phải chùng hơn nữa mới được. Norah đã tuyên bố một cách đầy tự hào rằng những cái móc cài này thuộc loại thượng hạng, chúng được gia cố thêm những rãnh xoắn trên bề mặt để giữ sợi dây thật chặt một khi vẫn còn dù chỉ chút ít sức kéo.
Chết vì những cái móc an toàn, Rachel thầm nghĩ, cô chẳng thấy tình cảnh này có gì hài hước cả.
“Lần nữa nào!” Tolland hét lớn.
Thu hết sức bình sinh và hi vọng, Rachel uốn cong lưng lên, dận mạnh cả hai mũi giày xuống băng. Cong người, Rachel cố dồn hết trọng lượng vào hai bàn chân. Tolland cũng làm theo cô cho đến khi cả hai gần như đã gập đôi người ra sau, sợi dây buộc giữa thắt lưng của họ căng lên. Tolland dận chân xuống thật mạnh trong khi Rachel tiếp tục rướn người lên hết mức. Hai cẳng chân Rachel căng ra, như bị giằng rất mạnh. Cảm tưởng như mắt cá chân sắp vỡ tung ra đến nơi.
“Cố lên..., cố lên...” Tolland vặn mạnh người, cố tháo chiếc móc gài ra trong khi tốc độ trượt giảm đi đáng kể “Gần được...”
Bộ đinh đế giày của Rachel gãy đánh rầm. Bàn đinh đế giày bằng sắt văng ra, nảy về phía sau, sượt qua người Corky. Ngay lập tức quả khinh khí cầu lại tăng tốc, kéo theo cả Tolland lẫn Rachel trong tư thế nằm nghiêng. Chiếc khóa gài tuột khỏi tay Tolland.
“Khỉ thật!”
Quả khinh khí cầu Mylar như thể đã nổi giận vì bị kéo chậm lại lúc này chồm lên, kéo mạnh ra phía biển. Rachel biết họ đang trượt đến rất gần mép phiến băng, và trước cửa tử cách mặt biển một trăm foot đó, họ còn phải đối mặt với một hiểm họa nữa. Những con mương tuyết khổng lồ nằm trên đường trượt của họ. Dù được bảo vệ bởi lớp đệm bằng gel của bộ quần áo, Rachel vẫn thấy kinh hãi khi tưởng tượng cảnh bị hất tung lên cao rồi rơi thẳng xuống mặt băng rắn chắc.
Rachel vật lộn một cách tuyệt vọng với mớ khóa gài và móc ở thắt lưng, cố thoát khỏi quả khinh khí cầu. Đúng lúc ấy, cô chợt nghe thấy tiếng lách cách đều đều trên băng - tiếng một thứ kim loại nhẹ đang cọ mạnh vào mặt băng cứng.
Cái rìu.
Trong cơn hoảng loạn, Rachel đã quên hẳn chiếc rìu móc vào sợi dây thun được gài vào thắt lưng mình. Thứ dụng cụ bằng nhôm rất nhẹ ấy lúc này đang nẩy qua nẩy lại quanh chân Rachel. Cô ngước lên nhìn sợi dây néo của quả khinh khí cầu. Dây dù ni lông dầy và chắc. Nhổm người lên, cô quờ quạng với lấy chiếc rìu. Túm được cái cán, Rachel kéo rìu lên. Vẫn ở tư thế nằm nghiêng, cô giơ tay lên thật cao, hướng cạnh sắc răng cưa của nó về phía sợi dây dù. Một cách vụng về, cô bắt đầu cứa sợi dây.
“Đúng đấy!” Tolland hét lớn, tay cũng quờ với lấy chiếc rìu của mình...
Nghiêng người, Rachel hết sức vươn vai lên cao, cứa sợi dây. Sợi dây dù được bện rất chặt, từng lớp ni lông mỏng bị cứa đứt một cách chậm chạp. Tolland cầm chắc cái rìu của mình, vặn người, giơ tay lên cao quá đầu, gắng sức cứa cắt sợi dây ở đúng vị trí ấy nhưng ngược từ dưới lên. Hai lưỡi rìu hình quả chuối được kéo qua kéo lại như hai lưỡi cưa của những người thợ gỗ. Sợi dây dù bị cứa đứt dần từ cả hai phía.
Sắp được rồi, Rachel thầm nghĩ. Sợi dây sắp đứt rồi!
Đột nhiên quả khinh khí cầu Mylar màu bạc trên đầu họ nẩy dựng lên như thế nó vừa đâm vào một sườn dốc dựng đứng nào đó Rachel kinh hãi nhận ra rằng đó chính là do đặc điểm bề mặt của phiến băng.
Họ đã đến đó.
Những cái mương lớn.
Bức tường trắng hiện ra trước mắt, và chỉ sau một giây họ đã ở trên đỉnh. Mạng sườn bị đập mạnh vào dốc băng dựng đứng, Rachel hụt hơi, chiếc rìu nhỏ văng mất. Như vận động viên trượt sóng vừa mất thăng bằng, ngã lộn nhào, bị sóng lớn kéo đi, Rachel thấy mình bị kéo ngược lên đỉnh ụ băng lớn rồi bị tung thẳng lên cao. Cô và Tolland bất thần bị phóng mạnh lên không trung với tốc độ chóng mặt. Con mương lớn chạy giữa hai ụ tuyết dài lấp loáng tít bên dưới, sợi dây néo vẫn giữ chặt lấy họ nhấc bổng họ lên, lôi cả hai người ngang qua con mương thứ nhất. Trong một tích tắc, Rachel thoáng thấy quang cảnh trước mặt. Hai ụ tuyết nữa - một dải băng phẳng hẹp - rồi đến vực sâu, bên dưới là biển.
Như thể muốn giúp Rachel bộc lộ cảm giác kinh sợ tột độ trong lòng, Corky Marlinson thét lên thất thanh. Sau lưng họ, ông ta vừa bị hất lên từ ụ tuyết thứ nhất. Lúc này, cả ba đều lơ lửng trên không trung, trong khi quả khinh khí cầu vẫn tiếp tục rướn lên cao hơn nữa như một mãnh thú đang cố vùng vẫy để rứt tung những xiềng xích quanh chân nó.
Đột nhiên, nghe như tiếng súng nổ giữa đêm đen, có một tiếng phựt trên đầu họ. Sợi dây dù bị đứt, đầu dây lởm chởm quật vào mặt Rachel. Ngay tức thì, cả ba bắt đầu rơi xuống. Đâu đó trên đầu họ, quả khinh khí cầu Mylar căng đầy gió lao thẳng ra biển khơi.
Bị buộc vào những cái đai và móc sắt nhằng nhịt, Rachel và Tolland ngã xoài trên mặt đất. Khi ụ tuyết lớn thứ hai hiện ra trước mặt, Rachel cố căng người bám vào mặt băng. Trượt qua đỉnh, họ bị ném xuống mặt dốc bên kia, may mắn được che chở bởi lớp đệm dầy bơm giữa hai lớp vải của bộ quần áo và bởi độ thoải của sườn dốc. Cảnh vật xung quanh chốc lát bị thay bằng một mớ hỗn độn những chân, tay và băng tuyet, rồi Rachel thấy mình đang lao như tên bắn về ụ tuyết giữa. Theo bản năng, cô giang rộng cả hai chân hai tay để giảm tốc độ trước khi lên đến ụ tuyết thứ hai. Tốc độ có giảm đi, nhưng không đáng kể, và chỉ vài giây sau họ đã bắt đầu trượt lên dốc tuyết thứ hai. Lên đến đỉnh, có một tích tắc không trọng lượng trước khi bắt đầu trượt xuống. Tiếp đó, cô kinh hãi nhận thấy họ đang trượt nhanh xuống con dốc thứ hai và lao xuống dải băng phẳng hẹp... Những mét cuối cùng của phiến băng Milne.
Trên đà trượt đến mép băng dựng đứng, Rachel cảm nhận được sức nặng của Corky đang bị kéo lệt sệt sau họ, và biết rằng tốc độ đang giảm dần. Nhưng cô biết quá muộn mất rồi. Bờ mép của sông băng đang lao thẳng về phía họ, Rachel kêu thét lên.
Và rồi điều đó đã xảy đến.
Mép phiến băng sượt qua dưới mạng sườn của họ. Sự kiện cuối cùng cô còn nhớ được là họ đang rơi tự do.
-
Chương 54
Khu căn hộ Westbrooke tọa lạc ở số 2201 phố Đông, bắc Washington. Đây là một trong số hiếm hoi những địa chỉ không ai có thể nhầm được ở thủ đô. Gabrielle hối hả sải bước qua cánh cửa quay mạ kim loại và bước vào hành lang lát đá cẩm thạch có tiếng nước chảy róc rách.
Người gác cổng ngồi bên bàn có vẻ ngạc nhiên khi trông thấy cô. “Cô Ashe đấy à? Tôi tưởng tối nay cô không tới”.
“Tôi bị muộn một chút”. Gabrielle nhanh chóng ký tên vào sổ ra vào. Đồng hồ treo tường chỉ đúng 6 giờ 22 phút.
Người gác cổng gãi đầu: “Ngài Thượng nghị sĩ đưa cho tôi một danh sách, nhưng không thấy tên cô”.
“Những người được việc nhất lại thường bị bỏ quên như thế đấy”. Cô vội mỉm cười nhìn anh ta và sải bước đến thang máy.
Lúc này, người gác cổng có vẻ rất băn khoăn. “Để tôi gọi lên trên đó”.
“Cảm ơn anh”. Gabrielle nói, chân bước vào buồng thang máy và bấm nút. Hôm nay ngài Thượng nghị sĩ ngắt điện thoại rồi còn đâu.
Lên đến tầng chín, Gabrielle ra khỏi thang máy và bước dọc hành lang lát đá sang trọng. Cuối hành lang, bên cánh cửa căn hộ của Sexton, cô trông thấy anh chàng vệ sĩ cao lớn đang ngồi trong sảnh. Có vẻ đang buồn chán. Gabrielle ngạc nhiên thấy anh chàng này hôm nay không được nghỉ, và anh ta còn ngạc nhiên hơn nhiều khi nhìn thấy cô. Thấy Gabrielle tiến lại, anh ta đứng phắt dậy.
“Tôi biết rồi”. Chưa đến nơi cô đã lên tiếng. “Tối hôm nay được dành cho việc riêng. Thượng nghị sĩ không muốn bị ai quấy rầy cả”.
Anh chàng vệ sĩ gật đầu. “Ông ấy đã lệnh cho tôi là không cho phép ai...”
“Trường hợp này khẩn cấp lắm”.
Anh ta đứng chắn cửa ra vào. “Ông ấy đang có cuộc họp riêng”.
“Thế à?” Gabrielle rút phong bì màu đỏ kẹp bên mạng sườn ra. “Tôi vừa từ phòng bầu dục về. Và phải chuyển những thông tin này đến tận tay Thượng nghị sĩ. Bạn cũ thân đến mấy thì cũng có thể nói chuyện với nhau mà không có người ta vài phút. Nào, cho tôi vào”.
Anh chàng vệ sĩ tỏ vẻ khuất phục khi nhìn thấy biểu tượng của Nhà Trắng in trên phong bì...
Đừng để tôi phải mở phong bì ra đấy, Gabrielle thầm nghĩ.
“Để phong bì đó lại, tôi sẽ chuyển vào cho ông ấy”.
“Không thể được. Tôi được chỉ thị của Nhà Trắng là phải trực tiếp giao tận tay ông ấy. Nếu anh nhất định không chịu thì để ngày mai cả tôi và anh sẽ phải đi tìm việc ở chỗ khác đấy. Anh có hiểu không, hả?”
Anh chàng vệ sĩ có vẻ đang cân nhắc tình hình một cách khó nhọc, và Gabrielle cảm giác hôm nay Thượng nghị sĩ chắc đã tỏ ra dứt khoát hơn hẳn mọi ngày về chuyện không tiếp khách. Cô quyết định tung ngón đòn cuối cùng. Chìa phong bì ra ngay trước mũi anh ta, cô hạ giọng gần như thì thào những từ mà cánh vệ sĩ ở thủ đô ghét nhất.
“Anh không hiểu tình hình đâu”.
Vệ sĩ của các chính trị gia không bao giờ nắm bắt được tình hình, và họ ghét điều đó. Họ là những tên lính đánh thuê, đứng trong bóng tối, không bao giờ biết chắc nên nghiêm túc thi hành mệnh lệnh hay đánh liều mất việc khi phớt lờ những vấn đề sờ sờ trước mắt.
Người vệ sĩ nuốt khan, đưa mắt nhìn chiếc phong bì lần nữa. “Thôi được nhưng tôi sẽ báo với ngài Thượng nghị sĩ là cô nằng nặc đòi vào”.
Anh ta mở khóa, Gabrielle vào ngay đề phòng anh chàng đổi ý. Cô bước vào trong căn hộ, khẽ khàng khép cửa rồi khóa lại.
Giờ đây, đứng trong sảnh, Gabrielle có thể loáng thoáng nghe thấy tiếng người nói trong phòng của Thượng nghị sĩ - toàn giọng đàn ông. Buổi tối dành cho việc riêng hôm nay rõ ràng không giống với những buổi tối khác được đánh dấu tương tự trong lịch làm việc của ngài nghị sĩ.
Chậm rãi tiến về phía cuối sảnh, Gabrielle đi ngang qua một ngăn tủ không có nắp và trông thấy khoảng năm sáu chiếc áo khoác ngoài của đàn ông treo bên trong - toàn loại vải len và tuýt. Trên sàn nhà có mấy cái ca táp. Rõ ràng là hôm nay ông ấy đang làm việc. Gabrielle suýt nữa đã bước thẳng qua nếu không bị một chiếc ca táp thu hút sự chú ý. Tấm biển đề tên gắn trên đó in nổi bật lô gô của một công ty: quả tên lửa màu đỏ tươi.
Cô dừng bước, quỳ xuống để đọc cho rõ:
TẬP ĐOÀN VŨ TRỤ MỸ.
Bối rối, cô xem những chiếc cặp khác.
CÔNG TY VŨ TRỤ BEAL, CÔNG TY VĨ MÔ, CÔNG TY TÊN LỬA ROTARY, CÔNG TY VŨ TRỤ CHÂU ÂU KISTLER.
Chất giọng thế thé của Marjorie Tench vẳng lại trong tâm trí Gabrielle. Cô có biết là ông Thượng nghị sĩ đang nhận những khoản hối lộ bất hợp pháp của các công ty vũ trụ tư nhân không?
Mạch Gabrielle đập liên hồi khi cô nhìn xuống cuối hành lang mờ tối dẫn vào phòng riêng của Thượng nghị sĩ. Trí não mách bảo cô nên lên tiếng để mọi người biết rằng cô đã ở đây, nhưng không hiểu sao đôi chân cứ lặng lẽ nhích lên từng bước một. Cô đến bên cánh cửa tối sẫm và im lìm đứng trong bóng tối, lắng nghe tiếng nói chuyện từ bên trong vọng ra.
Chương 55
Trong khi Delta-Ba còn đang dừng lại để nhặt xác của Norah Mangor và gom chiếc xe trượt, hai người lính còn lại liền tăng tốc trượt xuôi dốc băng nhằm bám theo con mồi.
Chân họ đi giày trượt hiệu Elektro Tread. Được chế tạo theo mô hình thanh trượt có động cơ Fast Trax, đây là loại giày trượt đặc dụng cho vùng băng tuyết có gắn xích loại nhỏ - loại xích của những chiếc xe chạy vùng băng tuyết vẫn được lắp bao quanh bánh xe. Tốc độ được điều chỉnh bằng cách ép ngón tay trỏ và tay cái vào nhau, tác động lên hai đĩa tốc độ được gắn trong găng tay bên phải. Một loại pin bằng gel lỏng được đúc trong giày, bao quanh chân, vừa làm tăng độ cách ly lại vừa cho phép người sử dụng có thể trượt cách rất êm. Đặc biệt là lượng điện sản ra bởi trọng lực của chân và bởi tốc độ quay của chiếc xích khi người trượt di chuyển xuôi dốc sẽ được tích lại trong pin để dùng cho lần leo dốc tiếp theo.
Khom người, giữ thẳng hướng với gió katabatic, Delta-Một vừa di chuyển vừa quan sát địa thế sông băng. Cặp kính nhìn xuyên bóng tối mà anh đang đeo khác rất xa loại kính dùng ban đêm Patriot của cánh lính thủy quân lục chiến. Anh đang quan sát địa vật bằng chiếc kính không gọng có những thấu kính sáu phần tử cỡ 40 x 90 mm, thấu kính phóng đại ba phần tử Doubler. Cảnh vật bên ngoài hiện lên với tông màu lam đục lạnh lẽo thay vì màu xanh lá cây như thường lệ - tông màu này đã được chọn lựa kỹ càng cho những địa hình có độ phản chiếu ánh sáng cao như vùng Bắc Cực này.
Đến gần ụ tuyết thứ nhất, kính xuyên đêm của Delta-Một cho thấy hình ảnh vài vệt xước mới nguyên trên mặt băng chạy dọc lên đỉnh ụ tuyết như những mũi tên bằng nê ông trong bóng đêm. Rõ ràng là ba kẻ trốn chạy kia đã không nghĩ đến chuyện tháo bỏ chiếc dù tạm thời của họ, hoặc là đã không thể làm được việc đó. Nếu vượt qua ụ tuyết thứ ba mà họ vẫn chưa tháo được dù ra thì chắc chắn lúc này họ đã ở đâu đó ngoài đại dương rồi. Delta-Một biết những bộ quần áo bảo hộ họ mặc trên người có thể kéo dài cuộc sống của họ trong môi trường nước, nhưng dòng hải lưu chảy xiết sẽ cuốn họ ra ngoài đại dương. Chết đuối là không thể tránh khỏi.
Dù rất tự tin, Delta-Một đã được huấn luyện thói quen không dựa vào suy đoán của mình. Anh phải nhìn thấy xác chết. Cúi thấp người xuống, anh ấn chặt ngón trỏ và ngón cái phải vào nhau, trượt lên con dốc đầu tiên.
Michael Tolland nằm im không nhúc nhích, mình mẩy đau ê ẩm. Dù bị quật lên quật xuống, ông tin là mình chưa bị gãy cái xương nào. Dĩ nhiên là nhờ có bộ quần áo Mark IX này ông mới tránh được những vết thương chí tử. Mở to mắt, phải mất một lúc ông mới tập trung được suy nghĩ của mình. Mọi thứ ở chỗ này có vẻ êm đềm hơn... yên tĩnh hơn. Gió vẫn hú, nhưng mãnh lực thì kém hơn nhiều.
Chẳng phải cả nhóm đã lao xuống vực rồi hay sao?
Cố thu hết tinh lực, ông nhận thấy mình đang nằm trên mặt băng, mình vắt ngang qua người Rachel, gần như tạo thành một góc vuông, những chiếc khóa móc ở thắt lưng của cả hai người đều bị vặn xoắn. Cảm nhận được hơi thở của Rachel ngay bên dưới, nhưng ông không thể nhìn thấy mặt cô. Ông lăn người sang một bên, nhưng các cơ bắp không chịu nhúc nhích.
“Rachel này...” Ông không biết chắc mình có nói được thành tiếng hay không nữa.
Tolland nhớ lại những giây phút cuối cùng trong cuộc trượt băng chí tử của nhóm - quả khinh khí cầu kéo họ lên dốc, rồi dây néo đứt, cả ba rơi thẳng xuống con dốc thoải bên kia ụ tuyết, rồi trượt qua ụ tuyết cuối cùng, trượt tiếp đến mép sông băng - rồi không còn thấy mép băng đâu nữa. Rachel và Tolland rơi tự do, nhưng cú ngã của họ ngắn lạ thường. Thay vì rơi thẳng xuống biển, họ chỉ rơi xuống khoảng ba mét và ngã xuống một phiến băng thấp hơn, rồi do có trọng lượng của Corky làm lực cản nên mới dừng lại được.
Lúc này, Tolland cố ngóc cổ lên để nhìn mặt biển. Cách đó không xa là một vách băng dựng đứng - điểm tận cùng của phiến băng, ông nghe thấy tiếng ào ạt của biển từ dưới vọng lên. Quay lại sau lưng, ông căng mắt nhìn trong bóng đêm, cố thu nhận vào đồng tử hình ảnh cửa dòng sông băng. Mắt ông bắt gặp hình ảnh một bức tường băng dựng đứng cách họ khoảng sáu, bảy mét. Đến lúc này thì Tolland nhận thức được những gì vừa xảy ra. Họ vừa trượt từ phiến băng chính xuống một mặt băng thấp hơn. Tảng băng này rất phẳng, to bằng sân chơi hockey, đã sụp một phần - và có thể trượt xuống biển khơi bất cứ lúc nào.
Sự ra đời của những núi băng trôi, Tolland thầm nghĩ và quan sát mặt băng chênh vênh trước mắt. Đó là một phiến băng lớn và bằng phẳng hình tứ giác gắn vào sông băng như cái ban công khổng lồ, ba bề giáp với biển. Sau lưng họ, một cạnh của tảng băng gắn với sông băng, và Tolland thấy sự gắn kết này không hề bền vững chút nào. Ranh giới giữa tảng băng này với phiến băng Milne là một vết nứt rộng hoác với bề ngang khoảng hơn một mét. Trọng lực sắp sửa chiến thắng trong cuộc chơi này.
Nhưng vết nứt kinh hãi đó vẫn chẳng là gì so với cảm giác hãi hùng khi thấy thân thể của Corky Marlinson bất động nằm co quắp trên băng. Corky nằm cách ông mười mét, vẫn được nối với ông bằng sợi dây như ban nãy.
Tolland gượng đứng dậy, nhưng người ông vẫn còn bị buộc chặt vào Rachel. Xoay người, ông gắng sức tháo những chiếc móc gài đang buộc chặt thắt lưng của họ vào nhau.
Rachel nhỏm người, cố ngồi dậy, trông rất yếu, giọng ngơ ngác: “Chúng ta không rơi xuống à?”
“Chúng ta ngã xuống một khối băng thấp hơn. - Tolland nói, cuối cùng thì cũng tháo được những cái móc gài ra. - Phải xem xem Corky thế nào”.
Nhức nhối khắp mình mẩy, Tolland cố đứng dậy, nhưng đôi chân quá yếu ớt ông túm sợi dây và ra sức kéo. Corky bắt đầu trượt về phía họ. Kéo được khoảng mươi nhịp thì Corky đã nằm trên băng, cách họ khoảng một mét.
Trông Corky Marlinson thật thảm hại. Kính bảo hộ, đã văng mất, má rách toạc, mũi bê bết máu. Tolland sợ rằng nhà cổ sinh vật này đã chết, nhưng ngay lập tức ông thấy yên dạ khi ông ta lăn người và trợn ừng mắt giận dữ.
“Lạy Chúa tôi”. Corky lắp bắp. “Thế này là thế nào?”
Tolland thấy nhẹ cả người.
Lúc này Rachel đã ngồi được dậy, mặt nhăn nhó vì đau. Cô nhìn quanh. “Chúng ta phải thoát ra khỏi chỗ này. Trông khối băng này như sắp rơi xuống đến nơi...”
Tolland hoàn toàn đồng ý. Nhưng vấn để là bằng cách nào.
Họ chẳng có thời gian mà lựa chọn giải pháp: Trên đầu họ, trên phiến băng cao, nghe có tiếng vo vo. Tolland ngẩng phắt lên, nhìn thấy hai bóng áo trắng nhẹ nhàng trượt đến sát mép băng rồi cùng dừng lại. Họ đứng đó một lúc, nhìn ba con mồi thảm bại bên dưới với ánh mắt của những đấu thủ cờ vua hau háu nhìn đối phương trước khi tung đòn tối hậu.
Delta-Một ngạc nhiên thấy ba kẻ trốn chạy kia vẫn còn sống. Tuy nhiên, anh biết rằng đây chỉ là trong điều kiện tạm thời. Họ đã ngã xuống một khối băng sắp sửa tách ra rồi rơi xuống biển. Đội của anh có thể khống chế và giết những người này theo cùng một kiểu với người đàn bà kia, nhưng một giải pháp sạch sẽ hơn nhiều vừa nảy ra trong óc anh. Bằng cách đó thì xác của họ sẽ không bao giờ được tìm thấy.
Quan sát khối băng thấp đó, Delta-Một nhận thấy một vết nứt rộng đang há ra như một cái nêm lớn được chêm vào giữa phiến băng chính và khối băng thấp. Tảng băng lớn mà ba kẻ kia vừa rơi xuống trông rất nguy hiểm... Nó có thể rơi xuống đại dương bất kỳ lúc nào.
Thế thì sao không rơi luôn lúc này...
Trên phiến băng vĩnh cửu Milne, chốc chốc lại có tiếng nổ đinh tai nhức óc xé tan màn đêm thanh vắng - tiếng những khối băng lớn nứt tách ra khỏi sông băng và rơi xuống biển. Ai mà để ý đến những tiếng nổ này cơ chứ?
Cảm thấy lượng adrelanine trong máu lại tăng mạnh như những lần chuẩn bị ra tay hạ sát con mồi, Delta-Một thò tay vào túi dụng cụ và lấy ra một vật nặng hình quả chanh. Được chế tạo riêng cho các đội đặc nhiệm, vật này có tên là “Vụ nổ sáng lòa” - loại lựu đạn gây chấn động mạnh “không sát thương” nhằm tạm thời đánh lạc hướng đối phương bằng cách tạo ra một luồng sáng chói lòa đi kèm với những sóng chấn động đinh tai nhức óc. Tuy nhiên, đêm nay, Delta-Một biết chắc rằng “Vụ nổ chói lòa” sẽ giết chết đối phương.
Anh đứng sát mép vực và băn khoăn không hiểu vết nứt kia sâu đến đâu. Bảy mét ư? Điều đó không quan trọng. Vết nứt nông hay sâu thì kế hoạch của anh vẫn cứ thành công.
Với sự điềm tĩnh có được sau vô số lần ra tay hạ sát đối tượng, Delta-Một chỉnh kim đồng hồ hẹn giờ đến mốc mười giây trên quả lựu đạn kéo chốt, rồi ném vào trong khe nứt. Quả lựu đạn rơi vào khe nứt tối sẫm rồi biến mất.
Sau đó, Delta-Một và đồng đội của anh lui về tận ụ tuyết và đợi. Sắp có một cảnh rất đáng xem. Dù tâm trí rối bời, Rachel Sexton biết rất rõ hai kẻ kia vừa ném vật gì xuống khe nứt. Không biết Tolland cũng biết vật đó hay chỉ nhìn thấy ánh mắt sợ hãi của cô mà ông tái mặt, hoảng hốt nhìn tảng băng lớn dưới chân họ, rõ ràng đã nhận ra tình thế tuyệt vọng của cả nhóm.
Giống như ánh chớp lóe lên từ giữa đám mây trong đêm giông bão, một luồng sáng chới lóe lên từ sâu trong lớp băng dưới chân Rachel. Những tia sáng trắng kỳ lạ tỏa ra tứ phía. Trong phạm vi một trăm mét quanh họ, con sông băng chợt sáng loà. Tiếp đến là cơn chấn động. Không phải thứ tiếng nổ ì ầm của động đất mà là luồng sức mạnh khiến người ta váng óc, buốt ruột. Đợt sóng chấn động từ sâu trong tảng băng ấy lan truyền khắp thân thể Rachel.
Ngay lập tức, như thể có ai vừa chêm một cái nêm lớn vào giữa sơng băng và tảng băng lớn nơi họ đang ngồi, những tiếng nứt gãy hãi hùng vang lên. Rachel và Tolland nhìn nhau khiếp sợ. Corky kêu thét lên.
Đáy khối băng vỡ toác ra.
Trong một tích tắc, phiến băng nặng ngàn cân rơi xuống, Rachel thấy mình trong trạng thái không trọng lượng. Rồi sau đó, cả ba người rơi tõm xuống mặt biển lạnh giá cùng với khối băng.