Hồi 17
Huyết Án Xưa Bức Màn Hé Mở
Quần hùng toàn trường bấy giờ đã nhận ra nét kinh ngạc thất sắc trên mặt Chu Mộng Châu, tự nhiên ai cũng nghĩ thanh kiếm trên tay chàng đúng là thanh “Bích Long Kiếm Lệnh”.
Nhưng có một điều khiến người suy nghĩ tinh tế hơn thì nhận ra một điều mâu thuẫn, lẽ nào Chu Mộng Châu giữ thanh kiếm lệnh trong người mà lại không biết chút gì về nó?
Bấy giờ đã có nhiều người la lên hỏi:
- Đúng là kiếm lệnh ư?
- Có pho Bích Long kiếm phổ chứ?
Bao nhiêu cặp mắt đổ dồn vào thanh kiếm trong tay Chu Mộng Châu, ai nấy đều ngạc nhiên xen lẫn kinh động. Nhưng trong đó người có thể nói là kinh động nhất vẫn là Quy Hồn Bảo chủ Đằng Thận. Vì lão không thể ngờ rằng thanh kiếm lệnh lại nằm trên người Chu Mộng Châu.
Lúc này Chu Mộng Châu đã thuận tay vặn đốc kiếm ra, quả nhiên chuôi kiếm rỗng không, bên trong chứa một cuộn gì tròn tròn, chàng liền kéo nó ra. Chỉ thấy đó là một bó như con gì trơn nhẫn màu xanh rêu như đã có từ hằng trăm năm về trước.
- Ồ!
Nhiều người không kìm được kích động, đã reo ầm lên:
- Đúng là “Bích Long Kiếm Lệnh”!
- Đúng là thanh kiếm lệnh!
- Phải buộc tên tiểu tử nói ra hết sự thật!
Đến năm nhân vật đứng đầu ngũ kiếm phái cũng kinh hãi, qua một lúc sững sờ, bấy giờ Hư Không đạo nhân mới la lên:
- Rõ ràng là thanh “Bích Long Kiếm Lệnh”, ngươi phải nói cho rõ chuyện này mới được!
Phiêu Phong đạo trưởng ôn tồn hơn, giữ bình tĩnh nói:
- Thanh kiếm trên tay Chu thiếu hiệp đúng là thanh "Bích Long Kiếm Lệnh". Pho kiếm phổ được ghi tải lại trên một tấm da giao long màu xanh rêu, cho nên mới được mệnh danh là “Bích Long”, ngoài ra lão đạo thường nghe nói chiêu thức của pho kiếm phổ đều mang chữ “Long”, thế kiếm dựa theo “Long trượng”, lúc ẩn lúc hiện, biến hóa khôn lường mà thành chiêu.
Chu Mộng Châu sau phút sững người, giờ đã thâu kiếm lại trong bọc vải, chàng hôm nay không ngờ lại biết quá nhiều điều như vậy. Nhưng hiện tại trước mắt là làm sao đối phó được với tình thế này.
Bấy giờ còn trầm ngâm suy nghĩ chưa có chủ ý.
Thái Bạch Chân Nhân Trần Bất Nhiễm lên tiếng:
- Huyết án mười tám năm trước của Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm nay đã hé lộ ít nhiều chân tướng, tuy chưa thật sự được đưa ra ánh sáng công đạo, nhưng Chu thiếu hiệp là người chịu hết trọng trách và giải quyết huyết án, chúng ta tạm thời không nói. Có điều ...
Lão dừng lại chỉ tay vào thanh "Bích Long Kiếm Lệnh" trong tay Chu Mộng Châu nói tiếp:
- Thanh kiếm lệnh này là thuộc về toàn võ lâm, chỉ trao cho người đoạt danh hiệu Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm chấp thủ, vậy thiếu hiệp cần phải trao nó lại cho võ lâm!
Hư Không đạo nhân gật đầu họa vào ngay:
- Đúng! Đúng! Phải trao lại cho toàn võ lâm quyết định!
Chu Mộng Châu nghe câu này không khỏi tức giận, rõ ràng nó là vật riêng của chàng được trung niên nữ ni kia trao tặng, sao có thể gọi là bảo vật của toàn bộ võ lâm. Vả lại chàng là hậu nhân của vị tiền chấp Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm thì chuyện chàng giữ thanh kiếm lệnh cũng không phải là chuyện không thể.
Nghĩ vậy chàng nói:
- Tại hạ thân phận là hậu nhân của Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm, há cũng không đủ tư cách giữ thanh kiếm lệnh này sao? Vả lại, đại hội Thập niên luận kiếm chưa tổ chức để chọn người kế nhậm, vậy thì trao cho ai giữ bây giờ?
Bị hỏi vặn một câu đầy lý lẽ, cả năm vị đứng đầu ngũ kiếm phái nhất thời không đáp được, bởi vì kiếm thì một mà người dụng kiếm thì nhiều, thử hỏi ai chịu nhường cho ai chấp chưởng kiếm lệnh?
Bấy giờ người này nhìn người kia như dò xét lẫn nhau, chưa ai nói được một câu nào.
Mọi người thấy câu nói của Chu Mộng Châu là hoàn toàn có lý, vị tiền chấp chức vị Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm thất tích. Tuy rằng hậu nhân không được quyền kế nhiệm chấp chưởng, nhưng thử hỏi trong thời gian chưa chọn được người kế nhiệm thì ai nhường cho ai chấp chưởng "Bích Long Kiếm Lệnh" và chức vị Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm?
Cuối cùng thì Liễu Nguyên Sư Thái cũng lên tiếng đề nghị:
- Chuyện đã thế này, chúng ta tạm thời để kiếm lệnh cho Chu thiếu hiệp chấp chưởng, thế nhưng hiện tại cần bàn nghị quyết định tổ chức một lần Thập niên luận kiếm, để chọn ra người tài tuyệt, người đó mới đích thực kế nhiệm chức Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm và có quyền giữ thanh "Bích Long Kiếm Lệnh". Không biết ý các vị thế nào?
Đây đó trong quần hùng đã thấy nhiều lời xầm xì bàn tán, nhưng liền thấy Phó bảo chủ Quy Hồn Bảo là Khang Điền lên tiếng:
- Ngũ kiếm phái xưa nay vẫn được xưng là danh môn kiếm phái uy tín hơn người, tại hạ nhận thấy tốt nhất chọn ra một tiểu ban tổ chức đại hội “Thập niên luận kiếm”, vì chính tiểu ban này có quyền giữ thanh "Bích Long Kiếm Lệnh" cho đến khi đại hội thành công, chọn ra được người kế nhậm chấp chưởng Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm.
Hư Không đạo nhân liền lên tiếng họa theo:
- Đúng! Đúng! Lão đạo đồng ý với ý kiến của Phó bảo chủ!
Liễu Nguyên Sư Thái và cả Phiêu Phong đạo trưởng đưa mắt nhìn Chu Mộng Châu vẻ dè dặt như dò hỏi.
Chu Mộng Châu nhận thấy chuyện ngày hôm nay đa phần là có sắp đặt, mà chủ yếu là do một tay Quy Hồn Bảo chủ. Bên trong còn có người nào nữa thì không biết được.
Chuyện liên quan đến toàn thể võ lâm thế nào thì chưa nói, nhưng bản thân chàng thì chuyện chẳng những vừa liên quan đến huyết án của phụ thân mà còn liên quan hệ trọng đến ân sư, cho nên chàng không thể xử sự sơ xuất được. Khi ấy sau một hồi ngẫm nghĩ, chàng nói:
- Nếu quý vị hôm nay tín nhiệm một cao nhân nào đủ tư cách để giữ thanh "Bích Long Kiếm Lệnh" thì tại hạ tất sẽ hai tay dâng trao cho vị ấy. Thế nhưng tại hạ cũng cần có một điều kiện ...
Nói đến đó chàng cố dừng lại, đưa mắt quét nhìn toàn trường, hẳn là hôm nay chàng đơn thân độc mã phó hội quần hùng, không thể không tính toán kỹ lưỡng.
Liền thấy Hư Không đạo nhân lên tiếng:
- Điều kiện gì?
Chu Mộng Châu đanh giọng khẳng khái nói:
- Nội trong ba mươi chiêu, người đó phải thắng tại hạ!
Một câu này buông ra khiến toàn trường vừa chấn động vừa phẫn nộ, rõ ràng câu nói đầy tự tin và ngông cuồng khiến quần hùng không khỏi giật mình. Bởi vì ít nhiều thì ai cũng đã biết những chuyện thời gian vừa qua Chu Mộng Châu đã gây ra trên võ lâm. Nhưng đồng thời phẫn nộ vì câu nói đầy cuồng ngạo, tự nhiên hàm ý thách đấu với người được coi là cao thủ nhất ở đây rồi vậy!
Đừng nói gì đến những người không có hảo cảm với chàng, mà ngay cả những người đầy thiện ý như Liễu Nguyên Sư Thái và Phiêu Phong đạo trưởng, nghe một câu này cũng giật mình kinh ngạc.
Bọn họ thật không ngờ Chu Mộng Châu lại cuồng ngạo như vậy, nhưng bản thân chàng đã tự tuyên bố như vậy thì người khác còn có thể nói được điều gì? Khi ấy chỉ thấy không khí trầm lắng xuống, mỗi người đeo đuổi theo một dòng suy nghĩ riêng của mình.
Phó bảo chủ Khang Điền lóe nhanh trong đầu một suy nghĩ, chớp lấy cơ hội nói ngay:
- Ý kiến của Chu thiếu hiệp quả rất tuyệt, chúng ta lẽ nào không thành toàn cho một nhân vật trẻ tuổi hậu khởi?
Ngay lúc gã vừa nói xong, thì một người cao lớn, râu ria xồm xoàm vụt đứng lên, chỉ tay vào Chu Mộng Châu nói giọng cộc cằn:
- Tiểu tử ngông cuồng, cho nó biết lợi hại của các bậc tiền bối!
- Đúng! Đúng!
Tiếp đó liền có nhiều tiếng hò reo, hiển nhiên trong số họ đa phần là hùa theo hoặc là đơn giản chỉ muốn tận mắt chứng kiến một cuộc long tranh hổ đấu mà thôi.
Vô hình trung ai nấy đều quên mất vai trò của Quy Hồn Bảo chủ ngày hôm nay là mời đến dự cuộc tỷ đấu ấn chứng võ công.
Tuy vậy, nhưng giờ đây ai là người có thể đứng ra tỷ đấu với Chu Mộng Châu?
Những người thân phận không nhỏ tự nhiên nửa muốn ra mặt, nửa không muốn, vì rằng nếu đấu thắng thì có chút vinh dự, nhưng nếu thua một gã hậu sinh vô danh vô phận, há không bẽ mặt xấu danh lắm sao?
Chỉ nghĩ đến đó là có nhiều người do dự không quyết.
Chẳng biết lúc ấy Phiêu Phong đạo trưởng bàn gì với Hư Không đạo nhân và Thái Bạch chân nhân rồi quay sang nhìn Quy Hồn Bảo chủ, nói:
- Thật ra thì chuyện hôm nay tạm giữ thanh "Bích Long Kiếm Lệnh" không là quan trọng, thế nhưng cần nhất phải là uy tín, đúng lần đại hội tới đây mà chúng ta tổ chức phải có mặt và giữ thanh kiếm lệnh không thất lạc là được. Theo ý bần đạo thì lần này, Quy Hồn Bảo chủ đã có cuộc tỷ thí ấn chứng võ công với Chu thiếu hiệp, không bằng cứ để Bảo chủ ra mặt tỷ đấu với Chu thiếu hiệp, nếu thiếu hiệp hạnh vận thắng được Bảo chủ thì quyền giữ kiếm lệnh vẫn thuộc về Chu thiếu hiệp. Không biết chư vị bằng hữu nghĩ vậy có đúng không?
Một giải pháp rất hay khiến mọi người đồng tình, nhưng Quy Hồn Bảo chủ thì bất ngờ hơi lúng túng. Lão ta chẳng ngờ chuyện cuối cùng lại là đổ vào mình.
Khi ấy lão chẳng thể thoái từ, bèn nói:
- Ấn chứng võ công thì tất nhiên, nhưng nếu lấy sự thắng phụ này để chịu trọng trách thủ giữ "Bích Long Kiếm Lệnh" thì Đằng mỗ thật không dám đảm đương. Bởi vì ...
Hư Không đạo nhân nghe đến đó liền chen vào cắt ngang:
- Bảo chủ không nên thoái thác, đằng nào cũng phải có một người thủ giữ kiếm lệnh, đợi đến trung thu năm tới chúng ta khai đại hội "Thập niên luận kiếm" vậy.
Lại một đề nghị của Hư Không đạo nhân, mọi người tự nhiên ai cũng muốn chóng đến lần tái đại hội "Thập niên luận kiếm", khi ấy liền có nhiều tiếng hô lên đồng tình.
Quy Hồn Bảo chủ không ngờ cuối cùng cũng chỉ một mình lão phải ra mặt đấu với Chu Mộng Châu. Ban đầu lão chỉ muốn mượn nhiều tay giang hồ võ lâm khống chế, ép bức Chu Mộng Châu, nhưng chẳng ngờ tình thế lại diễn biến ra như thế này. Khi ấy chẳng thể thoái thác, bèn chấp tay xá quanh một lượt, nói:
- Đa tạ thịnh ý chư vị bằng hữu, Đằng mỗ tự nhiên sẽ dốc hết sở học để không phụ lòng chư vị.
Một câu này cũng thấy lão cố tình lôi kéo và tìm nhiều sự ủng hộ của các cao thủ các phái.
Chu Mộng Châu thầm cười nhạt, với Quy Hồn Bảo chủ chỉ cần lần đầu diện kiến, nhưng chàng linh cảm đối phương là một con cáo già gian giảo và nguy hiểm vô cùng.
Bấy giờ Đằng Thận nói xong đã thấy bước lên hai bước, hẳn là sẵn sàng để tỷ thí.
Chu Mộng Châu liếc nhanh toàn trường, bỗng trong đầu nghĩ nhanh một ý, bèn hỏi lại:
- Đại hội "Thập niên luận kiếm" như ý của Đằng bảo chủ ấn định vào tiết Trung thu sang năm, không biết chư vị có nhất trí hay không?
Năm nhân vật đứng đầu ngũ kiếm phái nhìn nhau, rồi ai cũng gật đầu đáp chấp nhận, đồng thời địa điểm tổ chức sẽ được thông báo chính thức trong thiếp mời.
Chu Mộng Châu nghe xong, bước lên trước mặt Quy Hồn Bảo chủ, ôm quyền nói:
- Tại hạ sở học thiển bạc, xin Đằng bảo chủ chỉ giáo!
Đằng Thận đôi mắt giảo hoạt nhìn nhanh đối thủ, rồi cười lên kha khả:
- Chu thiếu hiệp chớ quá khách khí, đằng nào cuộc tỷ đấu ấn chứng võ học hôm nay ấn định trong ba mươi chiêu phân cao hạ! Chu thiếu hiệp xin cứ ra tay trước!
Chu Mộng Châu đơn thân độc thế đến đây, nhưng căn bản không có chút hoảng sợ trước thế lực của Quy Hồn Bảo, bấy giờ ngạo nghễ nói:
- “Cường long bất áp địa đầu xà”, tại hạ là khách lẽ nào lại ra tay trước chủ!
Quy Hồn Bảo chủ Đằng Thận nghe vậy thì mặt biến sắc, chẳng ngờ Chu Mộng Châu đơn thân độc mã vào tận đây mà dám buông một câu mục hạ vô nhân như vậy. Khi ấy chẳng cần khách khí nữa, liền hét lớn:
- Hảo! Tiểu tử cuồng ngạo. Xem chiêu!
Dứt lời một chiêu từ hữu thủ đánh ra nhắm ngực Chu Mộng Châu tấn công ngay.
Quy Hồn Bảo chủ Đằng Thận thành danh không nhỏ, tự nhiên võ công sở học phải đạt một trình độ phi thường. Một chưởng đánh ra thấy nhanh nhưng nhẹ nhàng, ngược lại bên trong hàm chứa một kình lực ghê gớm.
Chu Mộng Châu thầm hiểu đối phương không phải hạng tầm thường, vì chính lần trước chàng đã đấu mấy chưởng với đại hộ pháp Quy Hồn Bảo là Thiên Tâm pháp sư.
Hiển nhiên vị Quy Hồn Bảo chủ không thể công lực lại kém Thiên Tâm pháp sư được.
Vừa thấy đối phương ra chiêu, chàng liền giơ chưởng lên nghênh tiếp. Nhưng Quy Hồn Bảo chủ vốn ngoại danh Bách Thủ Thần Cơ, chẳng những thân thủ bất phàm mà ngược lại cơ trí hơn người, tuyệt chiêu chẳng khi nào dụng Hằng Sơn lực để cương đả ngạnh đấu với Chu Mộng Châu.
Chỉ thấy chưởng đến gần kề, lão khoát một vòng chưởng chỉ thâu nửa vời, rồi hóa trảo chộp lấy uyển mạch của Chu Mộng Châu.
Chưởng ra đã nhanh mà biến chiêu càng nhanh hơn, Chu Mộng Châu giật mình, nghĩ nếu không thoái bộ nhượng chiêu tất thất thủ, chí ít cũng để đối phương chiếm lấy tiên cơ.
Khi ấy liền nhún chân nhảy phắt lùi hai bộ, hữu chưởng thâu nhanh, tả chưởng lại phóng ra một chiêu nhắm Quy Hồn Bảo chủ công vào quyết tranh tiên cơ.
Quy Hồn Bảo chủ Đằng Thận nhìn thấy bộ pháp của chàng nhanh như vậy cũng phải thốt lên khen ngợi:
- Hảo thân pháp!
Vừa lúc ấy thì tả chưởng của Chu Mộng Châu cũng đã đến gần, lão không hốt hoảng, gia kình lực đến sáu bảy thành vào chưởng lực nghênh tiếp.
“Bình” một tiếng, dư phong tản ra tứ phía khiến không ít người ở gần phải giật mình bị đẩy lùi.
Đằng Thận và Chu Mộng Châu mỗi người đều thoái lùi hai bước, một chưởng đầu chưa phân được thắng bại. Nhưng cũng chỉ một chưởng này cũng đủ khiến quần hùng toàn trường cũng phải khiếp nể Chu Mộng Châu.
Bởi vì Quy Hồn Bảo chủ Đằng Thận trong võ lâm thuộc hạng cao thủ nhất lưu, tiếp được lão một chưởng với sáu bảy thành công lực này mà bình thủ, thì không phải nhiều người làm được. Huống gì đây chỉ là một trang thiếu niên vừa xuất đạo giang hồ, đồng thời cũng một chưởng này chứng thực cho mọi người hiểu những lời truyền ngôn trong thời gian vừa qua về Chu Mộng Châu là không giả tí nào.
Bấy giờ đã thấy Đằng Thận và Chu Mộng Châu quấn lấy nhau tạo thành một trận long tranh hổ đấu, quần hùng ngưng mắt theo dõi say mê đến mất hết thần tình.
Chu Mộng Châu sau ba chiêu đã hiểu đối phương bản lĩnh như thế nào rồi, xem ra còn hơn hẳn cả Thiên Tâm pháp sư, may mà từ nhiều tháng nay chàng điều nhiếp tu luyện lại sở học của mình đến chỗ tinh túy nhất. Cho nên lúc này càng đấu chàng càng thấy phấn chấn và dũng mãnh, qua đến chiêu thứ mười thì vẫn bình thủ, thậm chí chàng có phần lấn thế vì thân pháp mau lẹ nhẹ nhàng.
Quy Hồn Bảo chủ vốn vẫn đã được nghe chính phó bảo chủ Khang Điền và cả Thiên Tâm pháp sư nói về võ công của Chu Mộng Châu, nhưng lão ta vẫn không thể hình dung nổi như thế nào. Lúc này động thủ với chàng lão mới giật mình chấn động, lão thật không thể tin nổi đấu thủ trẻ tuổi trước mặt mình lại có võ công thâm hậu đến dường ấy.
Đồng thời có lẽ nỗi lo sợ len lén dấy lên, khiến lão trong lòng vừa đấu vừa bấm bụng nhẩm tính, là vì Chu Mộng Châu lại chính là hậu duệ của Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm.
Có lẽ do nhiều nguyên do, nhưng sức ép của quần hùng là lớn nhất, khiến Quy Hồn Bảo chủ cảm thấy hôm nay phải hạ gục Chu Mộng Châu, bằng không thì uy danh lão không còn, mà còn lưu lại một mối hậu họa rất lớn.
Đằng Thận vốn là đệ tử của Tây Thiên môn, võ nghệ hấp thụ từ Quy Hồn pháp môn, tất cả gồm có Quy Hồn đao pháp, Quy Hồn chưởng công, Quy Hồn chỉ pháp, Quy Hồn cước pháp, Quy Hồn tiêu pháp. Đây là một môn võ công được xem là tà công vì mỗi một chiêu thế trong từng vũ pháp đều bí hiểm thâm độc, nguyên được lưu nhập từ vùng Tây Cương về Trung Nguyên. Quy Hồn Bảo được sáng lập bởi A Nhĩ Lạp, lấy ngoại hiệu Tây Bá Tẩu.
Thành lập Quy Hồn Bảo mấy mươi năm đứng chân trong Trung Nguyên, Tây Bá Tẩu chỉ truyền võ nghệ cho hai đệ tử duy nhất là Đằng Thận và đại sư huynh là Bạch Vĩ Hồng. Sau khi Tây Bá Tẩu qua đời thì chức bảo chủ tự nhiên trao truyền cho Bạch Vĩ Hồng, nhưng không ngờ Bạch Vĩ Hồng nhậm chức chưa được mười năm thì đột nhiên mất tích một cách bí mật, đồng thời cả gia quyến cũng bị thảm sát cách đó không lâu. Nghi án thì nhiều, nhưng vẫn là chuyện riêng của Quy Hồn Bảo, cho nên võ lâm tuy dị nghị, vẫn không ai nhúng tay xen vào. Chuyện kể ra cũng đã gần hai mươi năm, mọi người tợ hồ như quên bẵng nghi án của nhà họ Bạch.
Trở lại Đằng Thận, lão ta hấp thụ võ nghệ tuyệt học của sư phụ gần như đạt đến tám chín thành hỏa hầu, nhất là độc môn ám khí, lại thêm tâm cơ linh lợi, nên lão đã chóng thành danh trong giang hồ là vậy.
Bấy giờ đấu với Chu Mộng Châu đã gần ba mươi chiêu, lão thầm hiểu chưởng pháp lão có cao cường đến mấy thì oai lực vẫn không qua được Phiên Thiên chưởng. Nên sau một chiêu hóa giải một chưởng công tới của Chu Mộng Châu, lão lách nhanh người, đảo bộ tung cước bằng một chiêu hiểm độc vào hạ bộ của Chu Mộng Châu.
Chu Mộng Châu thật hơi bất ngờ, đang đấu quyền chưởng, đối phương trở thế bằng một chiêu cước cực nhanh. Chàng chỉ kịp thốt lên:
- Tuyệt cước!
Rồi nhún mình vọt nhanh ra ngoài mới thoát hiểm, nhưng đúng lúc ấy chàng bỗng thấy tay Đằng Thận vung mạnh, ba vệt đen mảnh như khói xẹt nhanh đến trước mặt.
Chu Mộng Châu giật mình thầm kêu lên:
- Nguy rồi!
Nói thì chậm nhưng lúc ấy xảy ra cực nhanh, đến quần hùng dưới đài đấu cũng không kịp nhận thấy, là vì Đằng Thận bấy giờ lưng quay về hướng quần hùng, mặt quay vào trong, nên một chiêu ám khí này khó ai phát hiện nổi.
Chu Mộng Châu người đang lên đà rơi xuống đài sau khi thoát một cước hiểm, bấy giờ ba vệt đen lóe lên trước mắt chỉ là trong tích tắc, chàng chỉ còn biết đề khí bằng một chiêu thức Hư không nhiếp bộ, hoán khí tụ lực tung người vọt tiếp lùi sau. Nhưng “bộp” một tiếng rất nhẹ, chàng cảm thấy vai phải tê dại ngay tức thời. Chu Mộng Châu hiểu đây là một loại ám khí có tẩm kịch độc, bèn thốt lên:
- Đằng Thận, ngươi thật hiểm, Chu mỗ hẹn ngươi lần luận kiếm tới đây trả món nợ này!
Dứt lời, chàng không dám nấn ná tiếp, cả cánh tay đã nghe thấy buốt dại, nên tiếp tục đề khí tung người vụt đi nhanh như một làn khói xám.
Đến đám quần hùng chăm chú nhìn cũng không kịp cản chân chàng, có vài bóng người truy theo, nhưng chỉ sau vài cái nhún chân thì bóng Chu Mộng Châu đã khuất hẳn trong rừng cây mờ nhạt dưới ánh trăng ...
Quy Hồn Bảo chủ Đằng Thận thấy một chiêu hiểm đắc thủ thì mừng khấp khởi trong lòng, nghĩ:
- Họ Chu lần này nhất định tuyệt tự, xem ra ta đã diệt xong một họa căn!
Bấy giờ lão mới thở phào nhẹ nhõm, quay lại vái chào quần hùng nói:
- Đằng mỗ thực tài mọn trí hẹp mới không câu lưu được tiểu tử họ Chu, để hắn mang thanh "Bích Long Kiếm Lệnh" đi! Nhưng Đằng mỗ nhất định phái người truy lùng bằng được.
Phiêu Phong đạo trưởng nói:
- Xem ra bất tất phiền nhiều đến Bảo chủ như vậy, Chu Mộng Châu hẳn sẽ đến dự đại hội "Thập niên luận kiếm" như chúng ta đã định.
Đằng Thận hỏi:
- Căn cứ vào đâu đạo trưởng nói vẻ tin chắc như vậy chứ?
Phiêu Phong đạo trưởng nói:
- Chuyện can hệ đến vừa là cha của hắn vừa là sư phụ của hắn, mọi trách nhiệm đều một mình hắn gánh lấy, hắn lẽ nào không nhân cơ hội để giải quyết cho xong huyết án năm xưa. Vả lại nếu hắn không đến thì hắn vừa tự bôi nhục cha hắn lại vừa bôi nhục sư phụ hắn, đều là hai nhân vật thành danh không nhỏ năm xưa.
Thái Bạch chân nhân gật đầu tán đồng:
- Chí phải! Bần đạo cũng suy nghĩ như vậy!
Đằng Thận nghe thế hơi thót dạ, nhưng chợt nghĩ đến ngọn Quy Hồn tiêu trên vai Chu Mộng Châu thì lão yên tâm, cười thầm trong bụng với mấy lão đạo lẩm cẩm này. Khi ấy hắn mở nụ cười giả lả mời quần hùng nhập tiệc thưởng nguyệt.
oo Lại nói Chu Mộng Châu lúc ấy trên vai trúng một ngọn phi châm tẩm độc của Quy Hồn Bảo chủ Đằng Thận, chàng biết nếu lưu lại lâu hơn nữa thì khó lòng thoát nỗi Quy Hồn Bảo, vốn lúc này quần hùng tề tập như vậy dễ nào để cho chàng thoát, cho nên nhân lúc xuất kỳ bất ý, vừa trúng độc châm chàng liền thuận đà vọt người thi triển thân pháp kỳ diệu lao đi như làn sương đêm. Mấy tay thuộc hạ của Quy Hồn Bảo có truy theo, nhưng chỉ được một đoạn là đã mất dấu chàng, tuy vậy vẫn có một bóng người bám riết theo sau, nhưng Chu Mộng Châu chung quy không để ý đến, chỉ cắm đầu phóng chạy.
Chẳng biết chạy đã bao xa và theo phương hướng nào, nhưng Chu Mộng Châu chỉ thấy trước mắt lướt qua là những cánh rừng núi càng lúc càng thâm u, bên tai tiếng gió ào ào, chàng mặc kệ, chỉ nghĩ một điều chạy càng xa càng tốt. Nhưng chỉ sau một lúc nữa chàng đã thấy cơn tê dại lan tỏa nhanh dần, cuối cùng cũng dừng chân lại khi cảm thấy đã an toàn vì không có người của Quy Hồn Bảo truy theo.
Chu Mộng Châu ngồi xuống dưới một gốc cây bên rừng, trước tiên chàng ngồi xếp bằng vận khí điều tức, dồn chân lực theo kinh mạch đến khống chế độc tính đang phát tác ở tay trái, cứ vậy chàng không còn để ý tới ngoại giới nữa ...
Chẳng biết qua thêm bao nhiêu lâu, Chu Mộng Châu thấy độc tính đã tạm thời bị ngăn chặn, khi ấy chàng hít sâu một hơi rồi từ từ mở mắt ra. Nhưng chàng bỗng giật thót mình, đứng vụt dậy đánh ra một quyền theo bản năng tự vệ, người kia nhảy né tránh, đồng thời la lên:
- Ái! Chu công tử, là tôi đây mà?
Chu Mộng Châu nghe một giọng nữ cao mà rất quen, chàng định thần nhìn kỹ mới la lên đầy ngạc nhiên:
- Là cô!
Thì ra chàng đã nhận ra đó chính là Câu Hồn Diễm Sứ Đằng Anh.
Đằng Anh nói:
- Chu công tử thấy thương thế trong người như thế nào?
Chu Mộng Châu ngạc nhiên, vì lúc chàng đấu nhau với Đằng Thận thì không nhìn thấy mặt cô ta, sao cô ta có thể biết được chàng bị thương, mà lại còn tìm được đến nơi này?
Chu Mộng Châu còn ngập ngừng chưa đáp, Đằng Anh như đọc được suy nghĩ của chàng, bèn nói:
- Chu công tử hẳn rất ngạc nhiên tại sao tôi biết công tử thân trúng độc châm? Thật ra từ đầu đến giờ tôi luôn để mắt đến công tử, nhưng công tử không biết đó mà thôi. Ân cứu mạng của công tử năm xưa thoát khỏi tay con súc sinh cuồng viên kia, Đằng Anh này không bao giờ quên được.
Chu Mộng Châu xua tay nói:
- Giữa đường gặp người bị nạn ra tay cứu giúp là chuyện thường tình của người trong võ lâm chúng ta, nào phải chuyện ghê gớm gì mà cô nương bận tâm.
Đằng Anh nói vẻ trách móc:
- Tuy rằng vậy, nhưng lẽ nào công tử đi mà không nói với Đằng Anh này tới một câu, để tôi tiễn một bước cũng là mãn nguyện.
Nghe nhắc đến chuyện năm xưa khi chàng trốn Đằng Anh bỏ đi, tự nhiên chàng thấy đỏ mặt, lắp bắp không nói ra lời.
Đằng Anh khi ấy đỡ lời nói:
- Công tử không nên lúng túng, thật ra tôi không có ý trách gì công tử đâu, nhưng lần này công tử thân trúng kỳ độc, tôi không thể không cứu giúp công tử.
Chu Mộng Châu nghe nói đến ngọn độc châm của Đằng Thận thì bỗng tức giận nói:
- Tôn huynh của cô nương là người thân phận cao trọng trong võ lâm, vậy mà không ngờ ... Hừ, có thể ra tay một cách đê hèn như vậy!
Đằng Anh nghe nhiếc mắng ca ca của mình thì cũng thấy thẹn, nhưng chỉ thở dài nói:
- Có lẽ câu nói xưa nay “Bất độc bất trượng phu” cũng chẳng mấy sai, có vậy mà mãi đến hiện tại tôi mới biết được chuyện vô cùng hệ trọng đối với Chu công tử.
Chu Mộng Châu vừa nghe nói vậy thì giật mình hỏi gấp:
- Cô nương biết được chuyện gì?
Đằng Anh biết mình bị lỡ lời, trong lúc phấn kích xúc động nên mới buông một câu như vậy, khi ấy cứ ấp úng chưa đáp được.
Chu Mộng Châu hỏi dồn:
- Sao cô nương không nói?
Đằng Anh thở dài trong lòng rồi giả lả thay đổi câu chuyện:
- Đằng nào thì việc trị thương độc trên vai công tử là điều đầu tiên phải làm ...
Vừa nói cô ta vừa lấy trong người ra một bình tử ngọc sắc tím trao cho Chu Mộng Châu, nói tiếp:
- Công tử nhanh uống thuốc giải này vào!
Nhưng Chu Mộng Châu gạt tay bất mãn nói:
- Chu Mộng Châu này nhờ ân sư thân hôm nay có chút nghiệp nghệ, lẽ nào chỉ chút thương thế này mà đáng bận tâm!
Đằng Anh trố mắt la lên:
- Không đơn giản như vậy đâu. Chu công tử nên biết ngọn độc châm của ca ca tôi có tên gọi Quy Hồn châm, tẩm một loại kịch độc không thuốc giải của ngoại phái Tây Vực.
Xưa nay người trúng kịch độc này hễ hết giờ Tý, khi gà gáy canh đầu thì tắt thở.
Chu Mộng Châu vốn chuyện giang hồ không lịch duyệt lắm, cho nên đây là lần đầu tiên chàng nghe nói đến loại Quy Hồn châm này. Chàng tuy tin lời Đằng Anh là đúng, nhưng tự nhiên cảm thấy Đằng Anh biết một bí mật quan trọng nào đó mà không chịu nói thật ra cho mình biết, bất giác chàng thấy cô ta không phải là người thành thật đáng tin.
Chu Mộng Châu lắc đầu nói:
- Dù thế nào thì Chu Mộng Châu này cũng không dám nhận ân sủng của cô nương, vì tôi từ nay có lẽ đã trở thành kẻ thù của Quy Hồn Bảo rồi!
Đằng Anh cắn môi chẳng biết phải nên nói thế nào cho Chu Mộng Châu hiểu.
Thật ra đêm ấy cô ta vô tình đi ngang mật thất của Đằng Thận, thấy đêm đã khuya mà trong phòng có ánh đèn, bèn đến xem ca ca làm gì. Không ngờ chân vừa đến bậc cửa thì nàng nghe tiếng Đằng Thận to nhỏ bàn bạc với Hồ Dã. Từ đó cô ta biết được bí mật một âm mưu khủng khiếp không những liên quan đến sự mất tích bí mật của Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm, mà còn liên quan đến cả vị tiềm nhiệm Quy Hồn Bảo chủ Bạch Vĩ Hồng. Đồng thời cả vụ kiếp nạn toàn gia họ Bạch. Thật tình Đằng Anh cũng là con người ngoại đạo, nhưng chỉ là tính dâm đãng lẳng lơ, chứ không đến nỗi ác độc bất nhân. Bạch Vĩ Hồng vừa là thân phận Bảo chủ vừa là sư phụ truyền võ nghệ cho Đằng Anh. Điều này khiến cô ta vừa đau lòng lại vừa cảm thấy sợ con người thâm hiểm của ca ca mình.
Lúc này nghe Chu Mộng Châu nói vậy, Đằng Anh nhất thời chưa biết phải nói thế nào, cứ tần ngần chưa quyết.
Chu Mộng Châu phát một cử chỉ bất cần nói:
- Cô nương đi đi, tại hạ tự lo được cho mình.
Đằng Anh mắt long lanh ngấn lệ, cắn chặt môi một hồi mới nói được:
- Chu công tử năm xưa ân cứu mạng tôi, lẽ nào không để tôi có lần báo đáp.
Chu Mộng Châu cười khổ sở nói:
- Chu mỗ xưa nay làm ân chưa hề mong báo trả, cô nương đã nói vậy thì Chu mỗ xin nhận lấy thịnh tình ghi khắc trong lòng, nhưng ...
Đằng Anh cướp lời nói ngay:
- Dẫu sao thì Chu công tử cũng phải nhận lấy thuốc giải này.
Chu Mộng Châu lặng người, bao nhiêu ý nghĩ cứ đan nhau trong đầu chàng, chàng linh cảm bí mật của Đằng Anh biết được liên quan đến chuyện của chàng đang lo nghĩ trong lòng.
Nhưng làm thế nào để cô ta tự nguyện nói ra đây?
Trầm ngâm nghĩ hồi lâu, chàng nói:
- Nếu như cô nương đã để mắt đến Chu Mộng Châu này từ đầu đến giờ, hẳn cô nương cũng biết hiện tại trong lòng tôi rối như thế nào về huyết án năm xưa của thân phụ Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm? Cha tôi chết không tiếc, nhưng chỉ thẹn là không rửa được sự thanh bạch cho sư phụ và rửa thù cho cha mình mà thôi. Thật đáng thẹn, đáng thẹn!
Nói đến câu cuối cùng chàng tự đấm vào ngực mình vô cùng đau khổ.
Đằng Anh thấy vậy cũng tự lấy làm thẹn vì không dám nói thẳng ra, nhưng rõ ràng chuyện liên quan rất lớn đến sinh tồn của ca ca mình, lẽ nào cô ta nguyện hy sinh người thân của mình? Thật là rơi vào tình thế khó xử!
Đột nhiên lúc ấy từ xa xa nghe vẳng lại tiếng gà rừng gáy đầu canh.
Chu Mộng Châu không để ý, nhưng Đằng Anh bỗng giật mình ngước mắt nhìn trời, thấy trăng đã chếch đầu Tây từ lúc nào, cô ta phát hoảng la lên:
- Có lẽ đã sang giờ Tý từ lâu, Chu công tử nhanh phục thuốc giải kẻo không thì muộn mất!
Chu Mộng Châu nghe vậy mới nhớ tiếng gà gáy vừa rồi, nhưng vết kim châm trên vai chừng như vẫn khu trú không phát triển, chàng hơi có chút ngờ vực, lắc đầu nói:
- Tại hạ nói là tự lo liệu được, Đằng cô nương không nên quá bận tâm!
Nhưng vừa nói đến đó, bỗng thấy vai trúng độc nhói lên một cái khiến chàng giật mình la “ối” lên một tiếng.
Tiếng gà lại vẳng lên, Đằng Anh không tự chủ được bước đến nắm lấy tay chàng, giục:
- Chu công tử! Nhanh uống thuốc giải!
Chu Mộng Châu vẫn lắc đầu cương quyết:
- Không, tại hạ đa tạ thịnh ý ...
Nói đến đó bỗng chàng lại rú lên một tiếng nữa, biết độc tính lại phát tác, mà xem ra còn nhanh mạnh hơn lúc đầu, chàng liền ngồi xuống xếp bằng, vận khí điều tức dụng chân lực đẩy dồn độc tính không cho xâm nhập vào tạng phủ. Thế nhưng, lần này thấy ít có công hiệu, độc tính như đã thẩm thấu vào từng gân cơ khí huyết, cứ lan dần xuống bất chấp chàng đã vận chân khí dồn đến.
Đằng Anh đứng bên chàng chỉ trố mắt chăm nhìn không nói được câu nào, một lúc đã thấy trên trán Chu Mộng Châu mồ hôi lạnh toát ra từng giọt lớn như hạt đậu. Đằng Anh biết chàng đã phí rất nhiều chân lực, chỉ e nếu chàng đẩy được độc tính khu trú lại bả vai thì tổn hao chân lực cũng không phải là nhỏ, khi ấy muốn điều dưỡng để phục hồi toàn bộ nguyên khí phải mất rất nhiều thời gian. Thế nhưng lúc này Chu Mộng Châu đang chuyên tâm vận khí, nếu cô ta kêu lên ngăn cản chàng thì cũng rất nguy hiểm cho chàng. Nên chỉ còn biết đứng lặng người, nước mắt từ đâu đã chảy tròn quanh mi.
Qua chừng một tuần trà, trên đỉnh đầu Chu Mộng Châu đã thấy một làn khói trắng mảnh, đây là biểu hiện chân khí vận hành dồn đến tuyệt đỉnh. Đằng Anh lại thêm phần lo lắng, cứ bứt rứt đi tới đi lui không yên.
Đột nhiên Chu Mộng Châu mặt tím tái, rồi ngã người gục trên đất, từ khóe miệng rỉ ra một dòng máu đen, chàng đã hôn mê bất tỉnh nhân sự.
Đằng Anh ngồi xuống đỡ dậy ôm chàng vào lòng, chỉ thấy người chàng lạnh toát, duy nhất vùng đầu là nóng hầm. Ả vội vàng mở bình ngọc lấy ra một viên giải dược màu đỏ tía như máu, nhét vội vào miệng chàng rồi dùng chân lực đẩy thuốc xuống.
Đằng Anh tính nhanh trong đầu, rồi đứng dậy vác Chu Mộng Châu lên vai phóng chạy ...
Khi Chu Mộng Châu tỉnh lại, đầu tiên chàng cảm thấy một bàn tay mềm mại ấm áp sờ sờ trên trán mình. Trong đầu chàng nhớ lại cũng một lần đâu đó, một bàn tay mềm mại ấm áp như thế này âu yếm đặt trên trán mình.
Bất giác chàng cảm thấy mủi lòng, thật sự từ nhỏ đến lớn chàng chưa cảm nhận được một bàn tay đầy tình cảm như thế của mẫu thân mình.
Khi chàng biết mọi chuyện thì mẫu thân chàng đã không còn ở bên, chỉ nghe Hồ đại thúc nói là bà thất lạc từ lâu, sau khi hay tin cha chàng gặp nạn.
Bấy giờ chàng còn nhỏ nên không hề suy nghĩ gì nhiều, nhưng hiện tại thì chàng đã hiểu biết, cảm thấy trong mọi chuyện chừng như đều có liên quan mật thiết với nhau.
Chu Mộng Châu từ từ mở mắt ra, mới hay chính là Đằng Anh đang ngồi bên cạnh, chàng lại nằm trên một chiếc giường, đưa mắt nhìn quanh mới phát hiện chừng như là một phòng trong khách điếm.
Đằng Anh thấy Chu Mộng Châu hồi tỉnh lại, vui mừng reo lên:
- A! Chu công tử đã tỉnh lại rồi!
Vừa nói cô ta vừa rút tay lại.
Chu Mộng Châu mấy máy đôi môi định hỏi gì, nhưng cảm thấy cổ họng đắng khát, chỉ thốt lên:
- Nước!
Đằng Anh liền lấy cho chàng chén nước, đỡ đầu chàng dậy cho chàng uống.
Từng ngụm nước vào cổ cảm thấy dễ chịu vô cùng, uống xong Chu Mộng Châu mới cố nhớ lại mọi chuyện xảy ra, đoạn hỏi:
- Đây là đâu?
Đằng Anh nói:
- Một khách điếm nhỏ trong sơn trấn vùng Thiểm Tây!
Chu Mộng Châu ngạc nhiên:
- Cách xa Quy Hồn Bảo vậy sao?
Đằng Anh gật đầu mỉm cười, rồi nói:
- Chu công tử vừa hồi tỉnh lại, nên nghỉ ngơi cho khỏe, hẳn trong người chân lực hao tổn không ít.
Chu Mộng Châu nhớ lại khi ấy chàng ngồi vận khí khống chế độc tính, nhưng rồi hôn mê lúc nào không biết.
Bấy giờ chàng không biết có phải chính vì chàng vận chân khí đẩy độc tính mới hồi phục hay là Đằng Anh cho chàng uống giải dược bèn nói:
- Cô nương có phải đã cứu tôi?
Đằng Anh cười nói:
- Thật khéo đúng như lần trước công tử đã cứu tôi, chúng ta quả là có duyên phận với nhau!
Nói đến câu cuối, cô ta ửng đỏ cả đôi má, tuy là đã tuổi ba mươi, nhưng Đằng Anh tỏ ra thanh thoát xung mãn tuổi xuân, khuôn mặt tròn đầy, mắt ngọc mày liễu, môi hạnh xinh tươi, chẳng thua kém gì thiếu nữ đôi mươi. Thật nam nhi gặp cô ta không ai không rung cảm, nhất là làn da trắng mịn nõn nà.
Chu Mộng Châu nghe câu ấy cũng phải chín cả mặt, vội hỏi lấp một câu:
- Là cô nương đã cho tôi uống giải dược?
Đằng Anh gật đầu với nụ cười trên môi.
Chu Mộng Châu không ngờ chuyện đến thế này, khi ấy chàng cảm thấy bực tức bèn nói:
- Tại hạ đã nói chỉ muốn tự mình lo liệu, sao ...
Đằng Anh cướp lời nói ngay:
- Giữa đường thấy người bị nạn lẽ nào không giúp? Chẳng phải Chu công tử đã nói câu này đó sao?
Chu Mộng Châu im bặt, không biết đáp thế nào mới phải.
Nhưng một hồi chàng nói:
- Đằng cô nương có thịnh tình với tại hạ như vậy, lẽ nào chỉ một vài bí mật liên quan đến tại hạ mà lại không thể nói cho nghe sao chứ?
Đằng Anh nhìn sâu vào trong đôi mắt chàng, cô ta thật sự rung cảm trước vẻ tú mỹ và tráng kiện của Chu Mộng Châu.
Đằng Anh nhấp nháy đôi mắt nửa như muốn nói nửa lại muốn không.
Chu Mộng Châu quay mặt vào tường bực tức nói:
- Đã thế thì cô nương nên đi đi, từ nay chúng ta coi như không nợ nần gì nhau, khỏi phải ai bận tâm đến ai!
Đằng Anh mỉm cười, cô ta hơn hẳn Chu Mộng Châu gần một giáp, tự nhiên phải lịch duyệt và rộng lượng hơn, bèn nói:
- Tôi nói cho công tử nghe cũng được, nhưng có một cầu xin nhỏ, không biết công tử có đồng ý chấp nhận hay không?
Chu Mộng Châu quay lại nhìn Đằng Anh, hồi lâu gật đầu nói:
- Lẽ nào tại hạ không chấp nhận, khi cô nương đã thật lòng với tại hạ như vậy?
Đằng Anh giọng hơi run nói:
- Thật ra tôi cũng không biết nội tình tỉ mỉ như thế nào, nhưng huyết án năm xưa của lệnh tôn Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm là một âm mưu được sắp đặt trước, mà Kim La Hán chỉ là người bị vu cáo giá họa!
Chu Mộng Châu nghe nói vậy thì giật nảy người, quả nhiên điều chàng thầm hoài nghi cuối cùng cũng đã có người nói ra, chàng vội hỏi:
- Căn cứ vào đâu mà Đằng cô nương nói vậy?
Đằng Anh lắc đầu ngập ngừng đáp:
- Tôi chỉ nghe lén được một cuộc nói chuyện bí mật giữa hai người, một người rất thân thiết với tôi, còn một người thì chẳng hề xa lạ với công tử ...
Chu Mộng Châu vừa nghe vậy đã liên tưởng ngay tới Quy Hồn Bảo chủ, nhưng người không xa lạ với chàng là ai?
Chàng cố nghĩ mãi không ra, một lúc mới nói:
- Một người có phải là lệnh huynh Quy Hồn Bảo chủ không?
Đằng Anh ngưng mắt nhìn chàng hồi lâu, cuối cùng đã gật đầu nói:
- Tôi chỉ mong công tử giữ kín chuyện này cho đến khi có đầy đủ chứng cứ nội tình, và điều thứ hai muốn cầu xin công tử oán nên giải không nên kết, đừng đối đầu với gia huynh.
Chu Mộng Châu giật mình nghĩ nhanh:
- Chỉ một câu này đủ thấy Đằng Thận nhất định có dính líu đến vụ án của cha ta, nhưng Đằng Anh đã cầu xin như vậy, ta biết phải làm sao đây?
Chàng nghĩ rất mông lung, nhưng vẫn chưa có chủ ý.
Đằng Anh thúc giục:
- Chu công tử đồng ý chứ?
Chu Mộng Châu không thể không đáp, vì cô ta còn chưa nói ra sự thật.
Khi ấy chàng thở dài nói:
- Tại hạ sẽ cố gắng hết sức để hậu chuyện không quá bi đát. Nhưng ân đền oán trả vẫn là thường tình xưa nay, huống gì chuyện vừa liên quan đến gia phụ lại vừa liên quan đến gia sư.
Đằng Anh nghẹn lời, quả thật thì Chu Mộng Châu không nói sai tí nào, nhưng cô ta không thể không lo lắng cho ca ca của mình, đành nói:
- Chỉ cầu mong Chu công tử nên giải quyết mọi chuyện nhẹ nhàng chừng nào hay chừng ấy mà thôi. Có vậy Đằng Anh mới không thẹn lòng mình.
Chu Mộng Châu hiển nhiên thầm hiểu cô ta nói vậy vì chuyện lại hệ trọng chẳng những một mình Đằng Thận mà có thể là cả Quy Hồn Bảo.
Chàng nói:
- Tại hạ nguyện nghe lời cô nương, xin cô nương cứ nói hết ra đi!
Đằng Anh gật đầu rồi nói:
- Người thứ hai chính là vị đại sư thúc của Chu công tử, Liên Vân Bảo chủ Hồ Dã.
- Hả?
Chu Mộng Châu không làm chủ được mình, giật thót người la lên đầy ngạc nhiên:
- Là Hồ đại thúc?
Đằng Anh gật đầu đáp:
- Không sai!
Bấy giờ cô ta kể những điều nghe nhặt được từ câu chuyện bí mật giữa Đằng Thận và Hồ Dã cho Chu Mộng Châu nghe, duy nhất chuyện liên quan đến Bạch Vĩ Hồng thì không nói ra.
Cuối cùng, cô ta nói:
- Tôi chỉ biết nội tình là một âm mưu sát hại Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm của Hồ Dã và ca ca tôi, nguyên nhân chính là vì mẫu thân của công tử.
Chu Mộng Châu khựng cả người, chưa nói được gì, chàng không biết bây giờ phải bắt đầu hành động như thế nào đây để rửa thanh bạch cho sư phụ mình và trả thù cho cha mình.
Bỗng nghe Đằng Anh cất tiếng hỏi:
- Thanh "Bích Long Kiếm Lệnh", Chu công tử do đâu mà có?
Chu Mộng Châu nghe nói giật mình, lúc ấy mới nhớ lại thanh kiếm lệnh mà chính vì nó chàng mới bị quần hùng bức vấn mấy hôm trước.
Khi ấy chàng với tay mò lấy chiếc túi vải, thanh kiếm vẫn nằm kỹ bên trong, chàng lấy ra ngắm nghía một hồi, miệng lẩm bẩm:
- Sao lại nằm trong tay bà ta? Sao lại vậy được? Chẳng lẽ ...
Đằng Anh giục hỏi:
- Công tử vừa nhắc đến một người nào vậy?
Chu Mộng Châu ngước mắt nhìn Đằng Anh, bây giờ mới cảm nhận được sự tin tưởng trong ánh mắt Đằng Anh, khi ấy nói:
- Một vị trung niên nữ ni đã tặng cho tôi sau lần tôi đả bại Hoa Nguyệt Đầu Đà trên đỉnh núi nằm ngoài Thiếc Ngõa Tự đến mấy mươi dặm. Nữ ni từng nói thanh kiếm này là của tiên phu bà ta, đã hơn mười mấy năm nay không hề dùng đến ...
Vừa nghe đến đó, Đằng Anh la lên:
- Á! Lẽ nào ...?
Nhưng cô ta chỉ thốt được đến đó thì dừng lại không nói tiếp được.
Chu Mộng Châu như cũng đã hiểu hết được câu nói:
- Lẽ nào lại vậy? Lẽ nào nữ ni lại là . ...
Đằng Anh gật đầu nói nhanh:
- Chu công tử còn nhớ đường đến thảo am đó chứ?
Chu Mộng Châu gật đầu hiểu ý, nói:
- Phải, tôi cần phải đến đó một chuyến!
Vừa nói chàng vừa định ngồi dậy, nhưng bỗng cảm thấy người rất yếu lại nằm vật xuống giường.
Đằng Anh đỡ lấy người chàng nói trìu mến:
- Công tử còn yếu lắm, cần phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một thời gian rồi mới lên đường.
Bấy giờ Chu Mộng Châu phải nằm lại khách điếm hơn một tuần mới hoàn toàn phục hồi.
Mọi việc đều được Đằng Anh chăm lo rất chu đáo.
Cuối cùng chàng chia tay với Đằng Anh, hẹn tái ngộ trong tiết trung thu tại đại hội "Thập niên luận kiếm".
Đằng Anh tiễn chân chàng, nhưng không quên dặn dò:
- Nhớ trên đường gặp khó khăn cứ liên lạc với người Quy Hồn Bảo báo cho tôi biết, nhất định tôi sẽ đến gặp Chu công tử.
- Đa tạ!
Nói câu cuối cùng, Chu Mộng Châu phóng người ra trấn ngược lên hướng bắc
Hồi 18
Trong Thảo Am Mẫu Tử Trùng Phùng
Đã qua sáu ngày nay Chu Mộng Châu đi ròng rã hầu như không nghỉ, chỉ khi nào vào một tiểu trấn, đại thành mà gặp phải giờ ăn uống, thì chàng mới tìm đến một phạn điếm bình dân để lót dạ. Trong lòng chàng chỉ nôn nóng muốn nhanh chóng tìm đến Hàn Đàm thảo am để gặp lại vị trung niên nữ ni kia.
Chàng cố vắt óc nhớ lại lần bị nạn trong Thiếc Ngõa Tự, rồi chạy thoát, cho đến khi ngất hẳn bên ngoài một thảo am. Chàng đã mường tượng ra khuôn mặt trung niên nữ ni khi thấy chàng tỉnh lại từ đôi mắt lộ ra một nét vừa u buồn vừa trìu mến sâu xa đến khó hiểu.
Cũng chính đôi bàn tay ấm áp ấy đặt trên trán chàng khiến chàng mủi lòng đến muốn khóc, chàng tự hỏi tại sao lại như vậy? Thật ra trung niên nữ ni kia là ai?
Suốt cả ngày hành trình năm sáu ngày đường, bao nhiêu câu hỏi đặt ra trong đầu chàng, nhưng không giải đáp. Chàng cứ ngờ ngợ một điều trung niên nữ ni kia chính là mẫu thân?
Lần ấy nữ ni chỉ buồn khổ nói là tiên phu của bà bị thất tích, bà lên đầu thân cửa Phật, nhưng không muốn học võ nghệ. Và thanh kiếm mà bà tặng cho chàng lại là thanh kiếm của tiên phu bà ta, sao lại có một sự trùng hợp như thế này? Vậy chồng bà ta là ai?
Nếu là chủ nhân của thanh “Bích Long Kiếm Lệnh” há chẳng phải chính là Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm hay sao? Hay là một người nào đó đã đoạt được thanh kiếm này sau khi cha chàng bị hại?
Nếu chồng bà ta không phải là Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm thì chẳng lẽ lại là người dính líu đến vụ án này?
Nghi vấn càng lúc càng dày đặc khiến chàng đau cả đầu vì vắt óc suy nghĩ, cuối cùng chàng lắc đầu thầm nói:
- Đằng nào cũng chờ đến lúc gặp được vị nữ ni kia mới sáng tỏ hết mọi chuyện.
Đến chiều hôm thứ sáu của hành trình chàng mới tìm đến được thảo am.
Khung cảnh vẫn không có gì thay đổi, nhưng lần này có một chú tiểu nhỏ đang quét sân chiều.
Chu Mộng Châu bước thẳng vào thảo am, chú tiểu liền chạy đến chấp tay hỏi:
- Đại thí chủ tìm ai?
Chu Mộng Châu nhã nhặn nói:
- Tôi là Chu Mộng Châu, muốn gặp ni cô Tuyệt Duyên, xin chú báo lại giúp!
Chú tiểu vội chấp tay nói:
- Sư phụ đã xuống núi hai hôm nay, không biết bao giờ mới về.
Chu Mộng Châu hơi thất vọng, chưa biết nên làm thế nào, nhưng nhất định phải gặp được Tuyệt Duyên nữ ni.
Có điều đây là thảo am ni, chàng không thể lưu lại nghỉ ngơi được. Đang còn tần ngần phân vân thì bên ngoài bỗng có tiếng người:
- Tịnh Hạnh! Tịnh Hạnh! Mau ra giúp sư phụ!
Chú tiểu vừa nghe tiếng người bỗng la lớn lên:
- A! Sư phụ đã về, đại thí chủ thật gặp may!
Vừa nói chú tiểu pháp danh Tịnh Hạnh vừa chạy nhanh ra hướng đại môn thảo am. Chu Mộng Châu cũng liền quay người nhìn theo. Chỉ thấy một vị nữ ni trung niên, khuôn mặt gầy gầy vẻ khắc khổ, nhưng đôi mắt sáng long lanh và hàng mày liễu đều đặn, không thể che dấu vẻ đẹp thiên phú.
Đúng là Tuyệt Duyên nữ ni mà lần trước đã cứu chàng, nhưng có điều lần trước mặc dù ở lại trong chùa mấy ngày chàng không hề để ý quan sát, lúc này vì có chuyện nên mới để ý như vậy. Nữ ni ngược lại nhìn thấy Chu Mộng Châu thì mặt biến sắc, cố tình cúi thấp đầu lánh đôi mắt của chàng.
Bà lắp bắp hỏi chú tiểu:
- Chu thiếu hiệp đến tự bao giờ?
Chú tiểu trố mắt nhìn sư phụ, nói:
- Vừa mới đến, sư phụ biết người này ư?
Tuyệt Duyên vừa bước vừa nói:
- Hai năm trước vị thí chủ này đã bị nạn bên ngoài chùa, chính thầy đã mang vào dưỡng thương trong thảo am này mấy ngày.
Nói đến đó thì đã gần trước mặt Chu Mộng Châu, bà ta vẫn cố tình không nhìn thẳng vào mắt chàng, hỏi:
- Chu thiếu hiệp tìm đến tệ tự viếng thăm hay còn có chuyện gì?
Chu Mộng Châu cố tìm một nét gì thân quen trên khuôn mặt gầy, nhưng thật tình chàng không thể nhớ nổi, vì lúc mẫu thân chàng gửi chàng lại mà ra đi thì chàng chỉ vừa lên ba, mười bảy mười tám năm trôi qua, ai có thể hình dung ra nổi khuôn mặt mẹ mình như thế nào chứ? Nhưng trong đôi mắt nữ ni khiến chàng linh cảm có một mối quan hệ sâu sắc giữa bà ta và chàng.
Nghe hỏi vậy, chàng ngập ngừng giây lát mới nói:
- Thật ra tại hạ sang năm mới lên đây như đã hẹn trước, nhưng có chuyện muốn hỏi thăm ni sư, nên mới mạo muội đặt chân làm động thiền môn, xin ni sư bỏ qua cho.
Tuyệt Duyên xua tay nói:
- Sao Chu thiếu hiệp khách sáo như vậy? Ít nhiều thiếu hiệp và tệ tự cũng đã có duyên với nhau trước đây! Nào, mời vào trong dùng trà rồi thong thả nói chuyện.
Nói đến cuối câu Tuyệt Duyên vội bước đi trước ngay.
Chu Mộng Châu từ từ theo chân bà ta vào trong hậu viện.
Hàn Đàm thảo am trước đây lúc Chu Mộng Châu bị nạn được cứu, thì trong am chỉ có Huệ Tâm lão ni và Tuyệt Duyên ni sư. Nhưng từ sau khi Huệ Tâm lão ni viên tịch thì thấy có vài chú tiểu được nhận vào.
Lúc này Chu Mộng Châu được Tuyệt Duyên sư ni mời vào hậu viện, đã thấy một chú tiểu khác dâng trà lên.
Sau chén trà, Tuyệt Duyên ni sư hỏi:
- Chẳng hay Chu thiếu hiệp đến có việc gì?
Hỏi câu này, giọng Tuyệt Duyên ni sư vẻ hơi ngần ngại.
Chu Mộng Châu nhìn ni sư thăm dò, rồi mới lôi thanh “Bích Long Kiếm Lệnh” ra đặt lên bàn. Chỉ thấy ni sư vừa nhìn thanh kiếm mặt đã biến sắc, Chu Mộng Châu lòng càng thêm hoài nghi, hỏi:
- Tại hạ chỉ xin hỏi sư ni về lai lịch thanh kiếm này mà thôi!
Tuyệt Duyên trong ánh mắt tỏ ra lúng túng, bà nhìn đi nơi khác, hồi lâu vẫn chưa đáp gì.
Chu Mộng Châu hỏi tiếp:
- Hai năm trước, khi ni sư ban tặng thanh kiếm này cho tại hạ, ni sư từng bảo nó là vật của tiên phu sư ni, đúng thế chứ?
Tuyệt Duyên cúi thấp đầu, trên khuôn mặt bà ta hiện nét đau khổ im lặng không đáp.
Chu Mộng Châu trong lòng run lên, linh cảm điều mà ni sư sắp nói ra sẽ rất hệ trọng với chàng. Chàng cố gắng giữ bình tĩnh nói:
- Cha của tôi vốn là Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm, thanh kiếm này là của cha tôi được quyền thủ giữ khi người đoạt danh hiệu trên từ một lần đại hội Thập niên luận kiếm. Nhưng rồi cha tôi bị mất tích một cách bí hiểm, từ đó đến nay đã mười tám năm, thanh kiếm này cũng biến mất trên giang hồ. Chẳng ngờ lại do ni sư cất giữ, bởi vậy tại hạ mới tìm đến hỏi ni sư ...
Chàng nói đến đó chỉ thấy Tuyệt Duyên ni sư từ từ ngẩng đầu lên mặt đầy nước mắt, bà ta cứ nhìn chăm vào mặt Chu Mộng Châu, đôi môi run run một hồi, cuối cùng mới đủ can đảm bật ra thành tiếng:
- Châu nhi, con!
Chu Mộng Châu thật sự sửng sốt, chàng như không dám tin vào tai mình, nhưng quả thật là như vậy, chàng cứ ngưng mắt nhìn vào khuôn mặt hơi gầy nhưng phúc hậu của Tuyệt Duyên ni sư, hồi lâu chàng mới thốt lên:
- Ni sư là ... là ...
Chàng không hỏi được hết câu, nhưng đã thấy Tuyệt Duyên gật đầu hiền hòa đáp:
- Đúng vậy, là mẹ của con đây, Châu nhi!
Lần thứ hai chàng được nghe người gọi mình bằng hai chữ “Châu nhi” nghe mới ngọt ngào tình cảm làm sao. Nhưng chàng cố ghìm tình cảm trong lòng, khi chàng đến đây cũng từng nghĩ đến khả năng Tuyệt Duyên ni sư là mẫu thân của mình, nhưng không dám tin chắc như vậy.
Bấy giờ chàng giữ bình tĩnh, nói:
- Ni sư thật đúng là mẹ của tôi thật sao? Chẳng lẽ hai năm trước trong lần tôi bị thương chạy đến đây nương nhờ, ni sư đã nhận ra con?
Tuyệt Duyên ni sư gật đầu:
- Đúng vậy, lần ấy khi thấy con bị nạn nằm hôn mê ngoài thảm am, mẹ chưa biết là ai, nhưng khi mang vào trong, thấy con hôn mê bất tỉnh rất trầm trọng, chính mẹ đã tự tay cởi áo ra xem xét có bị thương ở đâu không, chẳng ngờ phát hiện được hai nốt ruồi sinh đôi nằm gần nách trái, mẹ đã ngờ ngợ lắm rồi. Vài hôm sau khi con tỉnh lại, hỏi ra tên họ thì mẹ đã tin chắc chính là con. Nhưng mẹ vốn không muốn con phải khổ sở nhiều về chuyện năm xưa, bởi vậy mẹ mãi vẫn không nói ra cho con biết.
Chu Mộng Châu xúc động vô cùng, bỗng quỳ sụp xuống lạy mẹ mình. Tuyệt Duyên ni sư vội đỡ chàng dậy, âu yếm nói:
- Châu nhi, mẹ thật có lỗi với con, vì từ nhỏ đến giờ mẹ đã bỏ con cho người khác, mà không nuôi dưỡng con. Nhưng, chính vì chuyện của cha con nên mẹ mới dứt áo đầu cửa Phật, con hãy tha thứ cho mẹ!
Chu Mộng Châu nhìn mẹ mình hồi lâu mới nói:
- Chẳng lẽ mẹ biết rất rõ về huyết án của cha con?
Tuyệt Duyên ni sư gật đầu trầm ngâm chưa nói.
Chu Mộng Châu vừa mừng vừa kinh ngạc:
- Châu nhi chính vì chuyện huyết án của cha năm xưa mà bị quần hùng bức dồn, may thương thế không trầm trọng, lần này tìm đến đây chính là muốn biết rõ về chuyện của cha, xin mẹ hãy kể hết cho con biết.
Tuyệt Duyên ni sư kinh ngạc la lên:
- Con bị quần hùng bức ư?
Chu Mộng Châu gật đầu nói:
- Đêm trung thu vừa rồi, Quy Hồn Bảo đã mời quần hùng đến tham dự cuộc ấn chứng võ công giữa Đằng Thận với con, đồng thời thưởng nguyệt uống rượu. Trong đó Đằng Thận đã phát thiếp mời năm vị đứng đầu Ngũ kiếm phái. Thì ra âm mưu của lão ta chính là muốn mượn tay Ngũ kiếm phái để đối phó với con, bởi vì lão ta biết con là đệ tử của Kim La Hán.
Mà Kim sư phụ thì năm xưa từng bị tình nghi là hung thủ thảm hại cha con là Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm, khiến hai lần đại hội Thập niên luận kiếm không thành.
Tuyệt Duyên ni sư chặc lưỡi:
- Thì ra là vậy! Đằng Thận thật hiểm độc.
Chu Mộng Châu ngước mắt nhìn mẹ nói như van cầu:
- Châu nhi vừa là rửa sạch thù cha và là lấy lại thanh danh cho Kim La Hán sư phụ, xin mẫu thân hãy giúp Châu nhi hoàn ước nguyện.
Tuyệt Duyên ni sư ngưng mắt nhìn ra ngoài xa, một hồi lâu bà thở dài, đoạn gật đầu nói:
- Mẹ sẽ kể cho con nghe. Chuyện vốn rất dài, bắt đầu là ...
... Liên Vân Bảo năm mươi năm về trước được sáng nghiệp bởi Nam Lĩnh Song Hiệp, một người gọi là Liên Sơn Phi Bằng và một người là Vân Sơn Ẩn Hiệp. Họ là một đôi kim bằng chí thân chí cốt, trong một lần tương hội tại tửu lâu đã tâm đầu ý hợp mà nguyện kết nghĩa huynh đệ, cùng nhau hành hiệp giang hồ.
Liên Vân Bảo chính là lấy từ hai chữ đầu ngoại hiệu của hai người mà thành.
Liên Sơn Phi Bằng chính là ngoại tổ của con, người chỉ có duy nhất một mình mẹ là nữ nhi, cho nên người đã xin một bé trai về làm con nuôi. Nam tử ấy tuổi bằng mẹ, chính là Hồ đại thúc, Hồ đại thúc vốn họ gì không biết, nhưng sau mới đổi thành họ Hồ, và chính thức trở thành nhi tử của Liên Sơn Phi Bằng Hồ bảo chủ.
Ngược lại, Vân Sơn Ẩn Hiệp tính tình phóng khoáng, thích tự do tự tại, nên người không lập thê thất. Vân Sơn Ẩn Hiệp có một người đệ tử tâm đắc nhất chính là cha con về sau này, Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm Chu Hiên.
Thời còn nhỏ, mẹ thường cùng Hồ đại thúc của con chơi với nhau rất thân thiết, đi đâu cũng có nhau, kể cả khi luyện kiếm múa quyền cũng cùng nhau.
Nhưng cha con tính tình trầm tĩnh ít nói, vừa thông minh vừa chịu khó, ngày đêm chỉ miệt mài học võ nghệ với Vân thế bá. Tổ ngoại của con rất thương yêu và mến phục tài trí của cha con, người vốn trong lòng đã để tâm đến tương lai của mẹ, nhưng thời ấy mẹ còn ngây thơ không hề hay nghĩ chuyện gì.
Về sau, khi ngoại tổ và Vân thế bá đều cao tuổi, tính tình có thay đổi, Vân thế bá quyết định rời Liên Vân Bảo về quy ẩn ở cố hương. Trước khi đi, người chỉ có ước nguyện gửi gắm cha con lại cho ngoại tổ chăm lo dìu dắt. Thật ra lúc ấy thì cha con cũng đã mười sáu mười bảy, nghiệp nghệ sở học cũng đã thành tựu.
Sáu bảy năm sau, ngoại tổ đã quyết định thành hôn cho cha con với mẹ, thật tình trong lòng mẹ cũng cảm mến cha con, nhưng không phải là yêu thương lắm như Hồ đại thúc.
Tuy thế, mẹ và Hồ đại thúc dẫu sao danh nghĩa cũng đã là người cùng một nhà, cho nên không thể cãi được quyết định của ngoại tổ.
Ngoại tổ ngày càng già, điều quan tâm suy nghĩ duy nhất của người chính là sẽ nhường lại chức Bảo chủ cho người nào đây? Hồ đại thúc dù là con nuôi nhưng cũng là con, cha con tuy là rể nhưng lại là đệ tử truyền y bát của Vân Sơn Ẩn Hiệp, người có công cùng cha con lập nên Liên Vân Bảo, hiển nhiên cha con cũng có quyền thừa chấp vị Bảo chủ.
Trăn trở hoài, cuối cùng ngoại tổ quyết định trao quyền Bảo chủ cho cha con trước lúc người qua đời.
Hồ đại thúc là người vui tươi thành thật, vốn không hề ghen tức với cha con, duy nhất chỉ một điều là không còn được gần gũi bên mẹ mà thôi. Chính điều này làm cho Hồ đại thúc trở nên thầm lặng ưu sầu, mặc dù Hồ đại thúc sau đó cũng nên gia thất với Đinh thẩm thẩm.
Chuyện cứ nghĩ rồi cũng êm xuôi phẳng lặng, nào ngờ ...
Kể đến đây Tuyệt Duyên ni sư thở dài im lặng một lúc.
Chu Mộng Châu ngưng mắt nhìn mẫu thân của mình chờ đợi, chàng không ngờ câu chuyện lại có nguyên nhân từ sự xấu xa như vậy. Tuyệt Duyên ni sư khép mắt lại không dám nhìn thẳng vào mặt con trai của mình rồi kể tiếp:
- Trong một lần quá hồ đồ, mẹ đã vụng trộm quan hệ với Hồ đại thúc, thực sự là đã không kiềm chế được lòng mình. Ài ... Khổ hải, khổ hải! Đây chính là mầm họa cho tất cả mọi chuyện về sau. Cha con không hề nghi ngờ gì cả, thế nhưng Thiên Cang Thủ Lạc Đại Xuân thì phát hiện được chuyện giữa mẹ và Hồ đại thúc. Hắn là con người gian hiểm, vốn từng bị cha con quở trách những khi hắn có hành động sai trái. Hắn đã ngấm ngầm xúi giục Hồ đại thúc mưu hại cha con. Hồ đại thúc đã bị hắn nắm mũi, đồng thời cũng là quá si yêu mẹ, cho nên một âm mưu hãm hại cha con đã xảy ra, mẹ tuyệt nhiên không hề hay biết gì đến chuyện này. Lạc Đại Xuân tâm địa chỉ muốn sát hại cha con để Hồ đại thúc lên nắm quyền Bảo chủ, khi ấy hắn đã nắm mũi cha con, tất nhiên mặc sức tung hoành. Khi mẹ hay tin cha con bị sát hại trong khuôn viên Thiền Quang Tự thì mẹ đã hốt hoảng cùng Hồ đại thúc và nhiều người nữa đến đó, thi thể cha con bị cháy rữa ra không còn nguyên vẹn ... Hu ...
hu . ...
Kể đến đó bà không cầm được nước mắt khóc òa lên. Chu Mộng Châu thì sửng sốt lẫn căm hận nghiến răng lên trèo trẹo:
- Cha chết thật thảm! Con nhất định băm xác hung thủ ra trăm nghìn mảnh mới hả dạ và cha cũng yên tâm nhắm mắt nơi chín suối.
Tuyệt Duyên ni sư khóc sướt mướt rõ ràng bà cũng đang đau khổ vô cùng.
Hồi lâu Chu Mộng Châu trấn an nói:
- Mẫu thân xin tĩnh tâm mà kể tiếp cho con nghe, dù hung thủ là ai, con nhất định cũng trả thù cho cha!
Tuyệt Duyên ni sư lắc đầu thở dài nói:
- Hung thủ là ai thì mẹ thật không dám biết chắc, thế nhưng sau khi lo hậu sự cho cha con, mặc dù nhiều lời loan truyền đồn đại hung thủ bị tình nghi là Kim La Hán đại sư. Vì chính sau khi cha con bị hại thì Kim La Hán đại sư cũng tự nhiên biệt tăm biệt tích, không ai hay biết ông ta đi đâu. Người ta hoài nghi Kim La Hán thật ra cũng chỉ vì nguyên nhân thứ nhất là án mạng xảy ra trong khuôn viên Thiền Quang Tự mà Kim La Hán đang trụ trì. Thứ hai là vì năm xưa khi Kim La Hán còn hành cước giang hồ từng thua kiếm cha con. Biết rằng chưa thể bằng vào mấy điểm đó để kết án Kim La Hán là hung thủ, thế nhưng võ lâm đã quyết định để cho năm vị đứng đầu Ngũ kiếm phái điều tra vụ án này. Và họ đã chú tâm truy lung tung tích của Kim La Hán ...
Chu Mộng Châu chen ngang nói:
- Nhưng rồi làm sao mẫu thân biết được nội tình âm mưu này?
Tuyệt Duyên ni sư than dài, kể tiếp:
- Sau khi hậu sự của cha con hoàn tất, mẹ bình tâm tĩnh trí nghĩ lại thì hồ nghi chuyện do Hồ đại thúc gây ra, nên đã tìm cách bức vấn ông ta. Hồ đại thúc đã ba lần vẫn chối quanh và bài bác, nhưng một lần mẹ đã lẻn vào mật thất của Hồ đại thúc lục soát tìm thấy được thanh “Bích Long Kiếm Lệnh” chính là thanh kiếm đang ở trong người con mà hai năm trước mẹ đã từng tặng cho con. Với bằng chứng này thì Hồ đại thúc không còn chối cãi được với mẹ, nhưng chuyện cũng chỉ gói gọn giữa mẹ và Hồ đại thúc, mẹ cũng nhận ra nguyên nhân xấu xa là vì mẹ mà ra tất cả. Mọi tội lỗi tự nhiên lương tâm mẹ trừng phạt mẹ, và mẹ đã quyết định đầu thân cửa Phật sám hối tội lỗi, đồng thời cầu kiếm cho cha con giải nỗi hàm khuất nơi chín suối, chóng siêu sanh cực lạc. Trước khi rời Liên Vân Bảo, mẹ chỉ trộm lấy thanh “Bích Long Kiếm Lênh” mang theo, và để lại cho Hồ bảo chủ một mảnh giấy với vài dòng gửi gắm con cho ông ta.
Chu Mộng Châu vừa kích động vừa kinh ngạc la lên:
- Mẹ trao con cho kẻ thù của cha con, chẳng lẽ không thấy trao trứng cho ác hay sao?
Tuyệt Duyên ni sư lắc đầu, rơi nước mắt nói:
- Có lẽ không ai hiểu Hồ đại thúc hơn mẹ, con người Hồ đại thúc vốn phúc hậu trung thực, từ nhỏ đến lớn ở cùng với mẹ tuyệt đối chưa từng nghe nói dối lấy nửa câu. Bản tính rất tốt, nhưng âm mưu kia tất cả đều là bị Lạc Đại Xuân giật dây nắm đầu mà thôi. Chính vì mẹ tin tưởng như vậy, cho nên mới yên tâm gửi con cho Hồ đại thúc.
Nói đến đó, bà ngưng mắt nhìn Chu Mộng Châu trìu mến hỏi:
- Châu nhi, mẹ hỏi con phải nói thật lòng, thời gian con còn ở trong Liên Vân Bảo, Hồ đại thúc đối đãi với con không tệ chứ?
Chu Mộng Châu trầm mặc, nhớ lại thời thơ ấu ở trong Liên Vân Bảo quả thật người duy nhất chăm sóc để mắt đến chàng là Hồ đại thúc, ông ta đối với chàng như một người cha với đứa con rơi của mình.
Mỗi lần chàng bị Lạc Đại Xuân đánh đập hành hạ, chỉ cầu mong Hồ đại thúc đến giải cứu. Chỉ khi ấy có mặt Hồ đại thúc thì chàng mới cảm thấy yên tâm nhất.
Khi ấy chàng nhìn mẹ hỏi tiếp:
- Nhưng Hồ đại thúc không ra tay hại cha con thì ai có thể làm chuyện này?
Tuyệt Duyên ni sư lại thở dài thườn thượt, nói:
- Sau khi Hồ đại thúc bất đắc dĩ thuận ý Lạc Đại Xuân là hãm hại cha con, thì chính Lạc Đại Xuân sắp đặt hết mọi âm mưu, và đã nhờ đến tay Quy Hồn Bảo chủ Đằng Thận dụng một loại kịch độc thuộc ngoại phái Tây Vực để giết cha con.
Chu Mộng Châu rít lên:
- Đằng Thận! Đằng Thận! Chính là ngươi, Chu Mộng Châu ta nhất định báo thù này!
Tuyệt Duyên ni sư nói tiếp:
- Đằng Thận vì sao nhận lời giúp Hồ đại thúc giết hại cha con, thì mẹ không tường tận lắm, nhưng nghe phong phanh giữa bọn họ hai người vốn có quan hệ mật thiết với nhau, và hình như còn dính líu đến vụ án Bạch Vĩ Hồng. Sau này khi mẹ đã đầu thân cửa Phật, ẩn tu ở thảo am này với Huệ tâm ni sư, từng có nghe đến chuyện kiếp nạn của cả nhà họ Bạch.
Lúc ấy mẹ đã liên tưởng đến chính tay Đằng Thận làm, mẹ càng thấy khiếp sợ hơn chuyện giang hồ hiểm độc. Chỉ vì chút danh lợi, chỉ vì chút tình cảm riêng tư, mà bao nhiêu chuyện huynh đệ tương tàn, sư đồ đoạn tuyệt, ân oán dằng dặc mãi không cùng tận. Ài! Mẹ đầu thân cửa Phật nhiều năm, mặc dù có lẽ đến hết kiếp này cũng không rửa gột được tội lỗi của mình, nhưng trong lòng cũng có phần nào an ủi nhẹ nhàng hơn. Chỉ cầu nguyện Phật tổ từ bi, sớm siêu độ cho cha con về miền tiên cảnh.
Chu Mộng Châu nghe xong câu chuyện, chàng chết lặng người. Thật ra giờ chàng trong lòng bao nhiêu tâm sự hỗn tạp quyện lại vói nhau thành một khối uất kết nặng nề, chàng chỉ muốn chạy ra một vùng trời bao la, gào thét thật lớn, gào thét đến vỡ ngực, đến khi khối uất trong lòng tiêu tan. Chàng ngồi bất động, mắt ngầu đỏ lên cay xè, trước mắt chàng hình ảnh mẫu thân trong chiếc áo cà sa nhòe đi theo làn nước mắt, chàng muốn khóc ...
Nhưng lúc bên tai lại tiếp tục nghe văng vẳng tiếng Tuyệt Duyên ni sư:
- Châu nhi, mẹ biết con vô cùng xúc động, nhưng con cần hết sức bình tĩnh minh mẫn hơn bao giờ hết để phân định rạch ròi mọi chuyện. Trong huyết án của cha con, tội nhân đầu tiên đã ăn năn sám hối là mẹ. Nhưng cái nhân mẹ đã gieo đi rồi, giờ nghiệp quả tất đến, mẹ không thể ngăn cản con phục thù rửa hận cho cha và lấy lại sự thanh bạch cho Kim La Hán thiền sư. Nhưng mẹ chỉ cầu xin con nương tay đến mức có thể được, nếu có thể tha được kẻ thù cũng nên tha, chỉ làm sao cho đối phương nhận ra lỗi lầm của mình mà cải tà quy chánh, ăn năn hối cải. Chỉ có cách đó là sự trả thù cao cả nhất, và con cũng không phải hổ thẹn là đệ tử truyền y bát của vị cao tăng Kim La Hán.
Những lời mẹ rót vào tai Chu Mộng Châu như ngây như dại, chàng như rơi vào một khoảng không vô định, chưa biết phải bám víu vào đâu.
Tuyệt Duyên ni sư cứ ngồi nhìn vào mặt Chu Mộng Châu im lặng, một lúc sau bà gọi khẽ:
- Châu nhi, Châu nhi, con làm sao thế?
Chu Mộng Châu giật mình sực tỉnh, lúng túng không nói được tiếng nào.
Tuyệt Duyên ni sư nói tiếp:
- Theo như con nói là thanh “Bích Long Kiếm Lệnh” này đã lộ ra trước mắt quần hùng võ lâm đúng vậy chứ?
Chu Mộng Châu gật đầu đáp:
- Đúng vậy!
Tuyệt Duyên ni sư trầm ngâm suy nghĩ rồi nói:
- Như vậy là Đằng Thận và Hồ đại thúc cũng biết chuyện mẹ con ta đã gặp nhau, nhất định bọn họ sẽ có đối phó. Cho nên con cần phải hết sức cẩn thận mới được. Từ đây đến tiết trung thu sang năm còn rất lâu, trước hết con nên khổ công luyện thành Bích Long kiếm phổ chứa trong thanh kiếm này. Mẹ chỉ mong sau này con tiếp tục dương danh Thiên Hạ Đệ Nhất Kiếm của cha con, và hào hiệp hành cước cứu nguy phò nhược mà thôi.
Chu Mộng Châu cúi đầu cảm tạ mẫu thân.
Từ đó chàng lưu lại trong thảo am ngày đêm khổ luyện pho Bích Long kiếm phổ.
Bích Long kiếm phổ vốn là pho tuyệt kiếm, nhưng xưa nay ít người luyện thành.
Chu Mộng Châu trẻ tuổi lại có thiên bẩm hơn người, công lực đã vững căn cơ, thêm nữa trước đây chàng từng luyện pho Đạt Ma kiếm pháp và pho kiếm hộ thân mà Thiên Lãng Tử đã truyền thụ, cho nên khi đưa vào luyện Bích Long kiếm phổ khá thuận lợi. Đã vậy lại nhờ mẫu thân của chàng giúp đỡ, năm xưa chính bà đã từng cùng chồng giải mã các thế kiếm trong pho kiếm này, cho nên ít nhiều nắm được mấu chốt cơ bản. Tất cả những điều kiện đã giúp cho Chu Mộng Châu luyện thành pho kiếm rất nhanh.
Tuyệt Duyên ni sư thật không ngờ nhi tử của mình lại thông minh đĩnh ngộ, hấp thụ kiếm pháp cực nhanh như vậy. Trong lòng vui mừng, tự cảm thấy mình đã làm được một điều gì đó để tạ lỗi với tiên phu của mình.
oo Những tháng đông trôi qua.
Khi ánh mặt trời lấp lánh trên những chồi non báo hiệu mùa xuân đang đến, cũng là lúc mà Chu Mộng Châu đã luyện xong pho Bích Long kiếm pháp. Mấy tháng qua từ sau lần phó hội với Quy Hồn Bảo, chàng lưu lại trong thảo am khổ luyện pho kiếm pháp với một ý chí kiên định. Trong lòng chàng nung nấu một tinh thần phục thù và hưng danh cho cha mình, đồng thời rửa sạch danh dự cho sư phụ.
Một sáng đầu năm, Chu Mộng Châu thức dậy sớm chuẩn bị lên đường.
Chàng quyết định trở lại Trường An, việc đầu tiên là tìm gặp sư phụ của mình hỏi cho ra mọi vấn đề, rồi sau đó mới quyết định hành động.
Mẫu thân chàng, Tuyệt Duyên ni sư tiễn chân chàng xuống hết núi, trước khi chia tay bà trao cho Chu Mộng Châu một vật gì đó gói trong lần vải đỏ, nói:
- Đây là một kỷ vật năm xưa khi mẹ chưa thành gia thất với cha con, chính Hồ đại thúc đã tặng mẹ. Con nên cất giữ, lúc gặp cần thiết thì cứ dùng đến.
Chu Mộng Châu bái tạ mẫu thân, chàng nói:
- Sau khi mọi chuyện đã giải quyết xong, con sẽ lên thăm mẹ!
Tuyệt Duyên ni sư lắc đầu nói:
- Mẹ đã muốn dứt cảnh hồng trần, đầu thân cửa Phật là để sám hối tội lỗi, từ nay con tốt nhất đừng bao giờ đến thăm mẹ nữa. Tình mẫu tử chúng ta chỉ nên ghi khắc trong lòng vì quá đủ rồi. Bởi vì mỗi lần nhìn thấy con, mẹ lại phải soi chiếu bản thân mình những ngày tháng xưa, như vậy chỉ thêm đau khổ, trở ngại đường tu.
Chu Mộng Châu nghe mẹ nói thế thì cũng chỉ đành nuốt nước mắt vào lòng, khấu đầu tạ mẹ lần nữa rồi lên đường.
Gió xuân nhẹ thổi đưa những cành lá non là đà trên dòng Thủy êm đềm.
Cổ thành Trường An vẫn y nhiên nằm lặng lẽ in mình xuống dòng nước trong xanh, vẻ cổ kính mãi vẫn còn theo thời gian.
Liên Vân Bảo nguy nga tráng lệ nằm ở ngoại thành Trường An về phía đông bắc chễm chệ, nghiễm nhiên như một hộ sĩ bảo vệ cổ thành, khiến người ta lần đầu đặt chân đến đây nhìn thấy không khỏi chặc lưỡi tán thán.
Liên Vân Bảo cảnh sắc vẫn như cũ, chỉ có điều hôm nay bỗng nhiên người ra vào tấp nập, bộ dạng đều khẩn trương nhưng nét mặt thì hớn hở.
Nội bảo trang tráng lệ, tợ như một ngày hội vui đang chuẩn bị diễn ra ở đây.
Chủ nhân Liên Vân Bảo là Cương Kiếm Đoạt Hồn Hồ Dã, ông lúc ở bên này lúc ở bên kia hạ lệnh cho thuộc hạ trong nhà treo đèn kết hoa chuẩn bị cho ngày hội, thần thái ông tỏ ra rất sung sướng tự đắc.
Trời ngã dần về chiều rồi tối nhanh, bên ngoài tường thành hậu bảo một bóng đen lướt qua rất nhanh rồi biến mất vào rừng táo bạt ngàn.
Chỉ sau chừng mấy giây, một bóng người khác vọt lên đầu tiếng, dừng chân lại đưa mắt nhìn vào khu rừng táo vẻ ngần ngại, mặt hiện vẻ hồ nghi lẩm bẩm một mình:
- Ái, thật đúng là người, thì người này công lực thân pháp nhất định đạt đến cảnh giới siêu thần nhập hóa!
Vừa dứt lời, bỗng lại thêm một bóng người mảnh mai vọt lên đầu tường đưa mắt ngóng nhìn vào rừng táo, rồi quay đầu chớp mắt nhìn người kia lộ chân tình, giọng nhẹ nhàng nói:
- Liêu ca, huynh vừa nhìn thấy gì vậy?
Người được gọi là Liêu ca mắt vẫn còn nghi hoặc nhìn rừng táo, nói vẻ hồ nghi:
- Ta nhìn thấy một bóng người vượt ngang qua đây liền truy đuổi theo, nào ngờ vừa vọt lên đầu tường này thì bóng người kia nhanh như chớp mất hút trong rừng táo. Chỉ trước sau một cái chớp mắt, đối phương bỏ xa như vậy, Thường muội thử nghĩ ...
Thì ra thiếu nữ mảnh mai thon thả kia chính là thiên kim ái nữ của Liên Vân Bảo chủ, ngoại hiệu Liễu Kiếm Tiên Cơ.
Gã hán tử kia lại là đại đệ tử ưu ái nhất của Liên Vân Bảo chủ, ngoại hiệu Ngọc Diện thư sinh Liêu Thứ.
Vừa rồi đang nói chuyện với nhau sau hậu viện, Liêu Thứ phát hiện thấy bóng người lạ, liền vọt đuổi theo không kịp gọi Vân Thường, nàng cũng liền chạy theo chàng xem sự thể thế nào.
Bấy giờ Vân Thường nghe nói vậy chừng như còn hoài nghi, bèn nói:
- Liêu ca, trời chỉ vừa tối huynh chớ nghi thần nghi quỷ? Muội thấy huynh hôm nay hơi hốt hoảng làm sao ấy. Ngày mai là tết Nguyên Tiêu rồi, huynh nếu như để người khác đả bại, thì tiểu muội chỉ e ... thuộc về người khác.
Nói đoạn cuối câu nàng hơi thẹn mặt, cúi đầu lặng im. Liêu Thứ nắm lấy tay Vân Thường, giọng đầy hào khí nói:
- Thường muội, nàng yên tâm, Liêu Thứ ta tuy không hoài công kỳ học, thế nhưng cũng không dễ gì để người khác đả bại đâu. Có điều sư phụ từ trung thu năm trước sau khi đến phó hội ở Quy Hồn Bảo trở lại chừng như có tâm sự gì rất lớn, mấy gian tĩnh thất của sư phụ tuyệt đối không cho phép một người nào đặt chân đến, đồng thời thỉnh thoảng sư phụ bí mật ra ngoài mấy ngày mới quay trở về. Ngu huynh lượng định như sắp xảy ra một chuyện gì vô cùng hệ trọng, nhưng mãi vẫn không dám hỏi.
Hồ Vân Thường cũng như nhớ lại, nói:
- Có lẽ muội quên mất, huynh còn nhớ tên tiểu tử họ Châu bỏ đi từ bảy năm trước chứ?
Chẳng ngờ sau mấy năm không gặp, hắn trở thành nhân vật thân hoài tuyệt học, bản lĩnh cao cường, mấy lần đả bại những tay cự phách giang hồ, nếu như không phải Quy Hồn Bảo chủ Đằng Thận đánh hắn một chưởng, huynh dám nói rằng ngày mai hắn không đến chứ? Đã vậy gần đây trên giang hồ còn xuất hiện một số nhân vật anh hùng trẻ tuổi có võ nghệ cao cường, huynh nghĩ bọn họ bỏ qua cơ hội dương danh lần này sao?
Liêu Thứ ngưng mắt nhìn hoa diện người trong mộng không hề chớp, quả nhiên trong đầu gã cũng lường tới điều này, vì ngày mai là ngày hết sức quan trọng trong đời gã, liệu gã có thành danh giang hồ, đồng thời tối yếu nhất là đoạt được chức phò mã của vị Liên Vân Bảo chủ hay không?
Hồ Vân Thường bị Liêu Thứ nhìn chăm đến đỏ mặt, vội cúi đầu thấp giọng:
- Liêu sư ca, chàng yên tâm, bất luận anh hùng lôi đài ngày mai thắng phụ thế nào, Hồ Vân Thường thiếp sống là người của họ Liêu, chết cũng thành ma nhà họ Liêu ...
Liêu Thứ càng nắm chặt tay nàng hơn, giọng đầy xúc động:
- Vân Thường, nàng ...
Vân Thường tay ngọc bị chàng nắm chặt, không hề vùng ra, đồng thời thân hình vô tri vô giác từ từ ngã tựa vào người chàng.
Liêu Thứ từ nhiều năm nay vô cùng yêu thương vị sư muội này, chính vì hết sức thương yêu quý trọng, cho nên thường ngày cử chỉ cư xử luôn luôn giữ đúng mực, lúc người nàng dựa vào ngực ấm áp khiến Liêu Thứ sung sướng đến ngây ngất như quên đi tất cả xung quanh.
Lúc này đây, trong đầu Liêu Thứ hẳn đã quên bóng người vừa rồi vọt vào khu rừng táo, thần tình dao đãng với giai nhân trong lòng, bất giác đôi tay ôm lấy ngang eo lưng Vân Thường lúc nào không hay.
Hồ Vân Thường giật mình, chợt nhận thấy hai người chính đang đứng trên đầu tường rất dễ bị người khác nhìn thấy, khi ấy nhẹ nhàng đẩy Liêu Thứ ra.
Liêu Thứ cũng giật thót mình vì nhận thấy hành động của mình vừa rồi hơi lộ liễu, may mà nàng không hề lên tiếng trách cứ, bèn nói:
- Thường muội, chúng ta trở về đi thôi!
Hồ Vân Thường mặt ửng hồng, gật nhẹ đầu rồi người lướt nhẹ đi như hồng hồ điệp, thân pháp quả là điêu luynện đẹp mắt.
Liêu Thứ cũng liền tung người phóng theo nàng, cả hai phút chốc hòa vào bóng tối của khu hoa viên.
Lại nói, bóng đen kia sau khi vượt qua hận tường của Liên Vân Bảo, chừng như không hề hay biết có người bám theo mình cứ tiếp tục phóng nhanh vào khu rừng táo.
Thân pháp của người này cực nhanh, hành trình hơn mười dặm vậy mà chỉ trong nháy mắt đã thấy vượt qua rồi.
Trong màn đêm nhờ nhợ, trước mặt đã xuất hiện một bức tường vàng ngói đỏ, còn cách chừng bảy tám trượng, người kia phóng vọt lên vượt rào tường thành, miệng sung sướng gọi lớn:
- Sư phụ, sư phụ, đệ tử về đây!
Trong nội viện tịch lặng như tờ.
Thì ra bóng đen kia không ai khác ngoài Chu Mộng Châu.
Sau khi chia tay với mẫu thân, chàng quyết định trước hết trở về thăm sư phụ, đồng thời hỏi người thêm một số điều mà chàng còn hoài nghi trong lòng.
Chu Mộng Châu đứng khựng người đưa mắt nhìn quanh, bất giác chàng thấy kinh ngạc, nguyên là trong lâm viên cây phủ dày đặc, cỏ mọc um tùmg, chừng như là một nơi bị bỏ hoang phế đã từ lâu.
Chính điện Phật đường mở toang, chỉ nhìn vào trong cũng có thể nhận ra ngay từ lâu không có người nhang khói quét dọn.
Chu Mộng Châu tần ngần một lúc, rồi cất tiếng gọi lớn:
- Sư phụ, sư phụ!
Chu Mộng Châu gọi không lớn, thế nhưng trong khuôn viên Từ Vân Tự nếu có người, nhất định sẽ nghe thấy. Nhưng tiếng chàng lọt thỏm trong màn đêm, rồi lại lặng ngắt không một tiếng người đáp lại. Chu Mộng Châu không còn kiên nhẫn được nữa, chàng phóng chạy vào Phật đường.
Phật đường bài trí vẫn như cũ, không có gì thay đổi, nhưng nhện giăng bụi mốc thành nhiều lớp, cũng đủ biết đã bị bỏ hoang nhiều năm rồi. Chu Mộng Châu trong lòng kinh ngạc, chàng liền chạy lui sau thiền phòng, nhưng vẫn là căn phòng trống không, mốc meo bụi bặm từng lớp, rõ ràng là sư phụ đã không ở đây từ lâu, vậy sư phụ đi đâu?
Chu Mộng Châu đứng thừ người nghĩ ngợi hồi lâu, rồi chạy quanh tìm khắp mọi xó xỉnh trong chùa, nhưng đâu đâu cũng rêu phong u tịch, tuyệt nhiên không một dấu người.
Chàng linh cảm đã có điều gì không hay xảy ra với sư phụ, chàng với sư phụ Kim La Hán tuy ở với nhau không mấy khắc, thế nhưng ba lạy bái sư cũng đủ khiến chàng quý trọng người. Huống gì chính Kim La Hán đã sắp đặt thành toàn cho ước nguyện của chàng về sau, nên bây giờ trong người chàng mới mang được tuyệt học, thử hỏi chừng đó không đủ để chàng cảm nhận thâm ân của sư phụ.
Đứng lặng người suy nghĩ hồi lâu, chàng quyết định tạm thời rời Trường An tìm đến Khai Nguyên Tự ở Mễ Thương Sơn, vì vị phương trượng Khai Nguyên Tự, Đạo An thiền sư chính là sư đệ của sư phụ, nhất định có liên lạc với sư phụ
Hồi 19
Kim La Hán Hàm Oan Ẩn Tử
Khai Nguyên Tự đối với chàng không còn lạ gì nữa, cho nên hai ngày đi đường, chàng tìm thẳng vào phòng phương trượng. Vừa đặt chân vào phòng, chàng ngửi thấy mùi dược thảo, chàng nghĩ ngay đã xảy ra chuyện gì, liền chạy nhanh vào. Quả nhiên nhìn thấy Đạo An pháp sư nửa nằm nửa ngồi trên giường, hai mắt thâm sâu. Đứng bên giường hầu còn có Đạo Huyền sư thúc và Bạch Thắng. Đầu giường đặt một chiếc lư đồng, mùi dược thảo chính tỏa ra từ đó.
Bọn Đạo Huyền nhìn thấy lại Chu Mộng Châu thì vô cùng kinh ngạc, xa nhau mấy năm họ từng nghe đến những hành tung của chàng, như đả bại Nguyệt Hoa Đầu Đà, Thất Bộ Truy Hồn. Gần đây nhất nghe tin chàng phó hội tại Quy Hồn Bảo bị trúng một chiêu của Đằng Thân, bỏ chạy mất tung tích, đa phần nghĩ là đã chết, chẳng ngờ nay lại trở về.
Khi ấy sau giây phút kinh ngạc, cả bọn la lên:
- Chu Mộng Châu, ngươi đã trở về?
Chu Mộng Châu liền quỳ lạy xuống bái kiến Đạo Huyền sư thúc, rồi chạy đến bên cạnh Đạo An pháp sư. Đạo An mắt hiện hồi quang, miệng buông tiếng mệt mỏi:
- Sao? Chu Mộng Châu ư? Có phải là Chu Mộng Châu đây không?
Vừa nói lão thiền sư vừa đưa đôi tay gầy guộc sờ nắn tấm thân rắn chắc của chàng thanh niên, từ khóe mắt hai giọt lệ nóng rơi ra lăn dài trên đôi má hốc hác, chứng tỏ lão thiền sư vô cùng xúc động. Chu Mộng Châu thi đại lễ, vấn an một câu, rồi lập tức vận công lực vào tả chưởng đặt lên huyệt Linh Đài của Đạo An pháp sư, một luồng chân khí từ tay chàng truyền qua người thiền sư.
Đạo An thiền sư cả người rung động nhẹ, mắt dần dần hữu thần sáng lên, khuôn mặt đã thấy hồng hào đầy sinh khí, qua chừng một bữa cơm thì thần thái của thiền sư đã thấy ổn định. Lão thiền sư ánh mắt hiện niềm vui cứ chăm nhìn chàng thanh niên cường tráng trước mặt, đoạn nói:
- Đây không phải giấc chiêm bao chứ?
Chu Mộng Châu lấy tay ra, ưỡn ngực khẳng khái đáp:
- Đúng là Chu Mộng Châu điệt nhi về đây, sư thúc vui mừng không?
Đạo An thiền sư ngồi thẳng người lên, hai tay cứ nắm lấy đôi vai rắn chắc của chàng, gật gù cười nói:
- Khá lắm, chẳng tồi tí nào, đúng là Chu Mộng Châu sư điệt! Đáng tiếc sư huynh ... sư huynh thì ...
Nói đến đó Đạo An thiền sư lặng người đi không nói tiếp được.
Chu Mộng Châu giật thót người, vội giục hỏi:
- Sư phụ làm sao? Điệt nhi ở Từ Vân Tự đã tìm khắp mà không thấy sư phụ đâu cả?
- Tìm không thấy vậy là đã mang hài cốt sư huynh đi?
Chu Mộng Châu càng chấn động hơn, vội hỏi dồn:
- Sư thúc sao lại bảo là hài cốt của sư phụ?
Đạo An thiền sư gật đầu nói:
- Chuyện khá dài, sư huynh năm xưa thân mang kỳ oan, biết có kẻ ngấm ngầm gia oan thảm hại. Thế nhưng nếu chỉ nghĩ về mình cố bày tỏ thanh bạch, thì nhất định sẽ khiến cho không biết bao nhiêu nhân vật thành danh trong giang hồ phải chịu thân bại danh liệt, thậm chí còn có thể phát sinh một trường phong ba huyết kiếp. Cho nên sư huynh đã nguyện hàm oan ẩn tử. Chuyện này duy nhất một người biết rõ là vị tăng câm theo hầu sư huynh nhiều năm, thế nhưng người này vô cùng kỳ quái, tuy biết rõ nội tịnh, nhưng một chữ nhất định không lộ ra.
Nói đến đó, lão thiền sư bỗng nhận ra Chu Mộng Châu thân hình chao đảo muốn ngã, bèn ngưng lại.
Đạo Huyền thiền sư ở bên cạnh cũng thấy, liền chạy lại đỡ Chu Mộng Châu.
Chu Mộng Châu mắt đứng tròng, miệng lẩm nhẩm thốt lên:
- Chết! Chết ư?
Đạo Huyền thiền sư vỗ vào người chàng mấy cái, nhưng vẫn chưa làm chàng tỉnh lại, bèn ghé sát tai chàng nói lớn:
- Chu sư điệt, nhân sinh tại thế, có ai không chết hử?
Chu Mộng Châu cả người giật mạnh một cái mới thật sự tỉnh lại, mắt ngước nhìn Đạo Huyền thiền sư đầm đìa thống lệ, nấc nghẹn hỏi:
- Sư phụ qua đời từ lúc nào?
Đạo An chớp mắt hỏi lại:
- Sao ngươi lại hỏi ngược chúng ta?
Chu Mộng Châu nghe vậy thì ngớ cả người, lát sau như tỉnh ngộ ra, hỏi:
- Sư thúc, bảy năm trước, lúc sư thúc vừa nhìn thấy pho tượng Kim La Hán từ tay tiểu điệt, có phải đã biết sư phụ tự tuyệt?
Đạo An thiền sư gật đầu đáp:
- Sư huynh tuổi lớn hơn lão nạp không nhiều, có nhiều chuyện về sư huynh lão nạp không biết, nhưng lão nạp từng đáp ứng một yêu cầu của sư huynh là hễ nhìn thấy người nào mang pho tượng Kim La Hán trên tay đến đây thì lão nạp đem hết bổn môn võ học truyền thụ cho người đó. Sư huynh cũng từng nói, ngày nào lão nạp nhìn thấy pho tượng Kim La Hán, thì ngày ấy ông trở về Tây phương cực lạc sau khi hoàn thành ý nguyện của mình, người nắm pho tượng Kim La Hán chính là truyền nhân duy nhất của sư huynh!
Chu Mộng Châu hồi ức lại chuyện mình bái sư Kim La Hán trong rừng táo bảy năm trước, trong lòng đã hiểu ra hết mọi chuyện, chàng lặng người hồi lâu rồi nói với Đạo An thiền sư:
- Tiểu điệt thân hoài tuyệt học như ngày hôm nay đều là nhờ ân của sư phụ, lẽ nào có thể để cho hài cốt của người hư nát trong rừng hoang? Đã vậy tiểu điệt xin bái biệt nhanh trở lại tìm thi hài của người chôn cất cho trọn nghĩa sư đồ, có thế mới không hổ thẹn với người ở miền cực lạc.
Đạo An thiền sư nghĩ cũng không nên lưu bước chàng, bèn nói:
- Sư điệt nghĩ như thế là đúng, sư huynh năm xưa cừu gia lợi hại rất nhiều, bản thân sư huynh không tự tay rửa hận báo cừu, việc sắp đặt thành toàn cho ngươi đến các nơi danh đầu hấp thụ võ nghệ chỉ e bên trong có hàm ý. Tốt nhất ngươi tìm cho được vị tăng câm kia mà hỏi cho rõ, nhưng cần nhớ trước lúc nội tình còn chưa rõ ràng, tuyệt đối không nên để lộ hành tích, tránh để đối phương nắm bắt được tin tức của ngươi.
Chu Mộng Châu cúi đầu tạ ơn lời dạy bảo của Đạo An sư thúc.
Đạo An còn căn dặn thêm một hồi nữa, rồi mới để cho chàng rời tự xuống núi trở lại Trường An.
Chu Mộng Châu xuống khỏi Mễ Thương Sơn, trước hết tìm một chiếc tăng y màu đen mặc vào, rồi mới lên đường trở lại Trường An.
Chàng trong lòng nôn nóng tìm hài cốt sư phụ, nên bất quản ngày đêm thi triển hết khinh công thân pháp phóng đi như một con chim ưng vạn lý.
Chỉ sau hơn một ngày đã về đến rừng táo năm nào. Vào đến rừng táo, chàng nhớ lại phương hướng rồi tìm đến đúng nơi mà chàng đã gặp sư phụ, trong rừng táo tối xẩm, nhưng với nội lực của Chu Mộng Châu hiện tại thì có thể vận nhãn thần nhìn thấy trong bóng đêm, nội trong mười trượng có thể phân biệt được sự vật.
Chu Mộng Châu đưa mắt nhìn quanh một vòng, chỉ thấy cỏ mọc um tùm trùm lên mặt đất.
Chàng vén cỏ tìm quanh một vùng khá rộng, nhưng vẫn không phát hiện thấy dấu vết gì. Đang phân vân thì bất chợt trong tầm mắt chàng thấy một vùng cỏ xanh tốt vượt lên rất rõ ràng, chàng lấy làm lạ bèn lần bước đến, đưa tay vén cỏ xem mới hay đó là một miệng hố đen ngòm.
Chàng bước lần vén cỏ quanh miệng hố, lúc này mới phát hiện đây là một miệng giếng khô, chàng không chút do dự đề chân khí nhún mình phi xuống.
Giếng không sâu lắm, nên nháy mắt đã đứng dưới đáy giếng khô, định nhãn quang chỉ nhìn là chàng đã nhận ra một bộ xương khô trắng phếu nằm trên mặt đất.
Chu Mộng Châu thống khổ thốt lên:
- Sư phụ!
Rồi chàng quỳ xuống trên đất, chấp tay vái lạy bộ hài cốt ba lạy, mắt chàng rướm lệ, lát sau chàng lấy tấm áo choàng của mình ra đem bộ xương khô gói kỹ lại, đoạn tung người lên quay về Từ Vân Tự.
Việc đầu tiên là chàng tìm một nơi cao ráo thoáng đãng chôn cất bộ hài cốt của sư phụ, đoạn tìm một tấm đá dựng lên làm bia, chàng vốn định dùng chỉ lực khắc lên đó mấy chữ “Ân sư Kim La Hán chi mộ”, nhưng chợt nhớ lại lời căn dặn của Đạo An sư thúc, nên chàng để tấm bia trống, tạm thời chưa khắc chữ.
Chôn cất hài cốt sư phụ xong, chàng ngồi tựa người bên bia đá, đầu óc hồi tưởng lại những chuyện xảy ra trong bảy năm vừa qua kể từ ngày duyên hạnh gặp được sư phụ. Càng nghĩ chàng càng cảm phục thương mến tấm lòng quãng đại từ bi của sư phụ, bất giác thốt lên thành lời:
- Sư phụ, Đạo An sư thúc bảo rằng sư phụ thân mang kỳ oan, nhưng sống để bụng chết mang theo, nguyện chịu ẩn khúc mà chết, không nguyện để võ lâm phân tranh khởi sóng.
Chu Mộng Châu nếu năm xưa không gặp được ân sư thì làm sao có được ngày hôm nay. Chu Mộng Châu này xin thề ngày nào còn một hơi thở, sẽ dốc sức rửa sạch hàm oan của ân sư năm xưa.
Nói rồi chàng chưa kịp đứng lên thì một giọng cười khan vang lên từ sau lưng, tiếp đến nói:
- Con người ngươi mới thật là tuyệt, lảm nhảm nửa ngày chỉ nói được có bấy nhiêu.
Chu Mộng Châu giật mình chấn động, không ngờ trong tự viện còn có người thứ hai, thân hình chàng nhanh như tia chớp xẹt đến hướng vừa có tiếng người. Người kia chừng như rất gần trước thân pháp phi phàm của chàng, chỉ kịp “ái” lên một tiếng thì đã thấy người chàng ở trước mặt rồi, đành phải để lộ thân hình.
Lúc này Chu Mộng Châu nhìn thấy đối phương thì ngược lại há hốc mồm miệng kinh ngạc, một lúc mới cười lớn la lên:
- A, thì ra Đào huynh ... Ồ! Không, là ... Lý cô nương ...
Nguyên người kia chính là nữ giả nam trang Nam Thiên Nhất Yến Đào Văn Kỳ.
Lý Uyển Nhược trách móc:
- Con người ngươi mới thật là kỳ!
Chu Mộng Châu cảm thấy ky lạ, thầm nghĩ:
- Làm sao cô nương vừa mở miệng là đã trách người ta chứ?
Nhưng ngoài miệng vẫn vui vẻ nói:
- Sao cô nương lại đến Trường An?
Lý Uyển Nhược hai tay chống nạnh, hất hàm nói:
- Liên Vân Bảo chủ mở lôi đài kén chồng cho con gái, ngươi nghĩ thân nam nhi như ta há bỏ qua cơ hội tốt như thế này sao chứ?
Nói cuối câu nàng cười khúc khích.
Chu Mộng Châu vỗ trán thốt lên:
- A! Chút nữa thì tôi đã quên mất hôm nay là ngày thứ hai đấu lôi đài trong Liên Vân Bảo!
Nhắc đến mấy tiếng Liên Vân Bảo, lập tức hình bóng Vân Thường, Liêu Thứ, Hồ Dã rồi cả Thiên Lai Thủ Lạc Đại Xuân hiện lên trong đầu chàng với bao cay đắng, phẫn uất lẫn thù hận.
Bên trai chàng tiếng Lý Uyển Nhược cất lên hỏi:
- Chu huynh cũng có ý đăng đài thi đấu chứ?
Chu Mộng Châu cố nén tâm sự trong lòng, gật đầu đáp:
- Tại hạ cũng có ý thử một phen!
Lý Uyển Nhược vừa nghe sắc mặt không còn được tự nhiên, nói:
- Lần này Liên Vân Bảo chủ Hồ Dã mở “anh hùng lôi đài” là để kén rể, nếu ngươi mà đăng đài thi đấu thì chẳng có kẻ nào thắng nổi, xem ra vòng nguyệt quế đăng đài hoa chúc thuộc về ngươi rồi đấy.
Lý Uyển Nhược càng nói cuối câu sắc mặt diễn biến càng phức tạp.
Chu Mộng Châu vốn không để tâm đến chuyện này, mà trong đầu chàng nghĩ đến một vấn đề khác, bất chợt chàng rút phắt thanh trường kiếm trên vai múa một vòng, giọng đầy hào khí nói:
- Chỉ bằng thanh kiếm này, nhất định đánh bại hắn!
Một câu nói bất ngờ, Lý Uyển Nhược đương nhiên không thể biết được “hắn” trong câu nói của Chu Mộng Châu muốn ám chỉ ai? Thế nhưng cô nàng thầm đoán được người kia tất có liên quan trọng yếu đến cuộc đả lôi đài lần này.
Hai người đứng đối diện nhau lặng lẽ không nói. Trong tự viện chỉ còn lại tiếng dạ phong đung đưa cành tùng kêu xào xạt.
Nên biết, trước đây chừng nửa tháng, nhiêu phương các xứ giang hồ đều nhận được thiếp mời, thông báo đấu lôi đài kén rể cho vị thiên kim ái nữ của Liên Vân Bảo chủ Cương Kiếm Đoạt Hồn Hồ Dã. Anh hùng trai trẻ các môn hộ từng nghe nhắc đến vị thiên kim ái nữ của Hồ Dã, đương nhiên chẳng ai bỏ qua cơ hội này.
Thứ nhất là hy vọng có cơ may đoạt được giai nhân, sau đó tất nghiễm nhiên trở thành người kế vị Bảo chủ Liên Vân Bảo. Thứ hai, nhân cơ hội này ra mặt quần hùng, chẳng ít thì nhiều danh tiếng cũng xuất hiện trên giang hồ. Chính vì vậy mà hào kiệt trẻ tuổi các phương nườm nượp kéo về phó hội. Tính chất cuộc đấu chỉ đơn thuần là thi thố tài nghệ phân thắng phụ để tranh vòng nguyệt quế giai nhân, nhưng hai ngày vừa rồi các trận đấu diễn ra cũng không kém phần quyết liệt.
Bởi vì bọn họ đều là tuổi trẻ hiếu thắng, phần vì sĩ diện, cho nên đã đấu là đấu tới cùng. May mà đích thân Hồ Dã cùng thêm vài nhân vật lão bối danh đầu đứng làm trọng tài mới không để dẫn đến tình trạng thảm sát lẫn nhau.
Chu Mộng Châu lần này tìm về Trường An cũng vì nhiều nguyên nhân, trong đó không ngoại trừ lần đấu lôi đài này.
Thế nhưng, chàng chưa bao giờ nghĩ đến muốn chiếm được Hồ Vân Thường, mà chỉ muốn rửa nhục một kiếm của Liêu Thứ năm xưa, đồng thời truy vấn Hồ Dã và Lạc Đại Xuân.
Hai người vẫn đứng lặng theo đuổi ý nghĩ riêng của mình, đột nhiên có tiếng áo lướt gió, Chu Mộng Châu giật mình thét hỏi:
- Bằng hữu đêm khuya đột nhập bổn tự, há chẳng thấy thất lễ sao?
Lý Uyển Nhược đã nhận ra người vừa phóng vào là ai, bèn la lên:
- Chu huynh, là người một nhà!
Chu Mộng Châu khi thét hỏi liền tung chưởng, bấy giờ nghe thế vội thâu chưởng.
Bóng người kia né chưởng phóng đến đứng bên cạnh Lý Uyển Nhược, mới hay là một thiếu niên mặt hoa mày ngài, dáng vẻ thanh thoát vô cùng.
Chu Mộng Châu thấy thiếu niên lạ mặt, bèn ngưng mắt chăm nhìn, chỉ thấy sắc mặt thiếu niên ửng hồng, rồi cúi đầu thẹn thùng như một thiếu nữ.
Lý Uyển Nhược đứng bên cạnh nói:
- Chỉ mới cách nửa năm mà Chu huynh không nhận ra sao?
Chu Mộng Châu nghe vậy thì càng chăm nhìn vào mặt thiếu niên, lúc này chàng mới thấy quen quen, chừng như đã gặp qua ở đâu, thế nhưng nhất thời chàng không nhớ ra nổi.
Lý Uyển Nhược thì nắm lấy tay thiếu niên, kề vai rất thân thiết, thầm thầm thì thì to nhỏ với nhau một hồi.
Chu Mộng Châu tuy không nghe rõ họ nói gì với nhau, thế nhưng thanh điệu ngữ khí của người kia trong trẻo khiến chàng càng sinh nghi.
Câu chuyện của họ chừng như xoay quanh chuyện đả lôi đài, hai người cứ đứng say sưa nói chuyện với nhau, chẳng biết cố ý hay vô tình mà bỏ mặc Chu Mộng Châu đứng ngây người như trời trồng.
Bọn họ nói chuyện đến cả canh giờ mới thôi.
Chu Mộng Châu vẫn kiên trì chờ đợi không hề đả động đến bọn họ.
Cuối cùng thì Lý Uyển Nhược mới quay lại nói với chàng:
- Chúng tôi muốn ở nơi đây nghỉ ngơi điều nhiếp tinh thần chân lực, Chu huynh hẳn không từ chối?
Chu Mộng Châu gật đầu nói:
- Tệ tự vốn là của gia sư, hiện thời tại hạ tạm quyền làm chủ, xin cô nương và vị bằng hữu kia cứ tự nhiên.
Đêm ấy Lý Uyển Nhược và thiếu niên kia ở chung phòng, Chu Mộng Châu không lấy làm ngạc nhiên, vì chàng đã nhận ra thiếu niên kia chừng như mười phần cũng là nữ hóa nam trang.
Lôi đài cả thảy năm ngày.
Hai ngày sau đó, cứ sáng ra là Lý Uyển Nhược cùng thiếu niên kia lên đường, chiều tối mới về, bọn họ bàn chuyện đấu lôi đài trong ngày, cho nên Chu Mộng Châu ít nhiều cũng nắm được tình hình.
Nhưng chàng chung thủy chỉ ở lại bên mộ sư phụ, trong lòng thầm tính đến ngày cuối cùng mới lộ diện.
Tối hôm ấy, Lý Uyển Nhược tìm đến gặp Chu Mộng Châu nói gọn:
- Cảm tạ Chu huynh đã chiếu cố, mấy ngày qua xem đấu đài vậy quá đủ, giờ chúng tôi xin cáo từ!
Chu Mộng Châu ngạc nhiên hỏi:
- Ngày cuối cùng là hấp dẫn nhất, lẽ nào nhị vị không nán lại xem cho hết?
Lý Uyển Nhược điềm nhiên cười nói:
- Kết quả thi đấu “Anh hung lôi đài” thế nào cũng đã nhìn thấy rõ, xem hay không xem cũng vậy thôi! Vả lại, người của Quy Hồn Bảo mỗi khi nhìn thấy Chu huynh xuất hiện đấu đài, tất liên tưởng tôi đi cùng Chu huynh, chỉ thêm phiền phức. Chúng ta hậu ngộ có lúc!
Nói rồi định đi ngay, nhưng Chu Mộng Châu cản lại:
- Lý cô nương về đâu? Sau chuyện này nhất định tôi đến thăm.
Lý Uyển Nhược nói:
- Tôi hiện tại vẫn tạm thời ở cùng sư muội, sư thúc lại không thích người ngoài đặt chân đến, nhất là đàn ông. Chu huynh đừng đến thì hơn!
Nói xong nàng quày quả nắm tay thiếu niên bỏ đi.
Chu Mộng Châu không cản nữa, chỉ đưa mắt tiễn chân bọn họ như chính lần nào bọn họ ngóng mắt tiễn chân chàng ra khỏi u cốc.
Đến lúc này thì cũng đã nhận ra thiếu niên kia chính là vị ni cô xinh xắn trong u cốc mà hơn nửa năm trước chàng đã gặp khi Lý Uyển Nhược đưa chàng đến đó định trú lại dưỡng thương.
Khi bóng họ khuất hẳn trong rừng cây, chàng trở lại trước mộ sư phụ lặng người tưởng niệm đến người. Hồi lâu chàng bất giác thở dài thốt lên:
- Sư phụ chịu hàm oan uổng tử, đệ tử Chu Mộng Châu nhất định rửa oan cho người ...
Vừa nói đến đó, bỗng chàng nghe có tiếng chân người, liền quay phắt lại hỏi:
- Ai?
Bước chân kia dừng hẳn, như hcợt phát hiện ra người quen, người kia reo lên:
- A! Châu đệ phải không?
Chu Mộng Châu cũng đã nhận ra giọng nói quen quen, bèn hỏi:
- Cô là ...
Thì ra người kia là một thiếu nữ, bấy giờ bước đến gần, Chu Mộng Châu reo lên:
- Vân tỷ, là tỷ đây rồi!
Bạch Vân gật đầu, hỏi:
- Châu đệ lâu nay vẫn khỏe chứ?
- Khỏe, thế Vân tỷ?
- Ừm, lần ấy Châu đệ đi rồi, bỗng ta nghe bên ngoài có tiếng người, may mắn lúc ấy thương thế đã khá hồi phục, lẻn ra lén nhìn mới hay là bọn người của Quy Hồn Bảo. Ta liền trốn bỏ chạy, chỉ kịp để lại chút tin cho Châu đệ, hẳn khiến ngươi lo lắng?
Chu Mộng Châu đối với Bạch Vân quả thật tình như chị em, chàng nhận thấy Bạch Vân dịu dàng nhu mì, chăm sóc chàng chu đáo, nên tình cảm đối với Bạch Vân rất lớn. Khi ấy chàng nói:
- Có nhiều chuyện để nói lắm, ài ... không ngờ chúng ta lại gặp nhau, Vân tỷ sao lại đến đây?
Bạch Vân nói:
- Lần ấy ta nghe Châu đệ sau này sẽ về Từ Vân Tự, lần này nghe có tỷ đấu lôi đài trong Liên Vân Bảo, ta nghĩ thế nào Châu đệ cũng về Trường An, nên mới tìm đến đây.
Chẳng may khéo gặp ...
Nói đến câu cuối, mắt nàng nhìn quanh, phát hiện ra ngôi mộ mới nhưng tấm bia thì chưa khắc chữ, ngạc nhiên hỏi:
- Mộ phần này của ai? Tại sao trên bia không khắc tên tuổi?
Chu Mộng Châu mặt u buồn, nói:
- Chính là của gia sư ...
- Hả? Kim La Hán thiền sư viên tịch rồi ư? Bao giờ? Tại sao?
Chu Mộng Châu lắc đầu đáp:
- Mọi điều còn chưa rõ lắm, nhưng có lẽ từ sau khi tiểu đệ rời người ...
Nói rồi chàng kể nhiều điều mà chàng đã nói chuyện với Đạo An thiền sư cho Bạch Vân nghe.
Cuối cùng chàng nói:
- Chính vì nội tình huyết án năm xưa chưa rõ ràng, cho nên tiểu đệ mới không dám khắc tên tuổi ân sư lên bia, sợ đối phương bị đánh động tất có sự chuẩn bị đối phó.
Bạch Vân nói:
- Kim sư phụ bị hàm oan mà uổng tử, chẳng lẽ năm xưa Kim sư phụ bị dính líu vào một vụ án nào sao?
Chu Mộng Châu ngước mắt nhìn Bạch Vân, chàng vốn không định nói ra cho Bạch Vân nghe, nhưng rồi nghĩ giờ chàng chỉ có duy nhất bước là thân cận, có thể giải bày nỗi lòng. Khi ấy chàng bèn kể ra những điều mấu chốt trong huyết án năm xưa của cha chàng cho Bạch Vân nghe, nhưng chung quy không nhắc đến mẫu thân chàng là Tuyệt Dương nữ ni.
Bạch Vân nghe xong trầm ngâm hồi lâu, nói:
- Không ngờ trong chuyện của Châu đệ cũng có tay Đằng Thận nhúng vào, con người hắn thật là nham hiểm thâm độc!
Nói đến cuối câu nàng tỏ ra vô cùng căm hận, Chu Mộng Châu bèn hỏi:
- Vân tỷ sao mãi chạy trốn bọn Quy Hồn Bảo vậy, chẳng lẽ giữa Vân tỷ với bọn chúng có thù oán gì?
Bạch Vân nghe hỏi thì thở dài, hồi lâu mới kể:
- Năm xưa khi gia phụ bị nạn thì ta còn nhỏ lắm, chưa biết gì nhiều. Nhưng sau này khi kiếp nạn ập đến cho gia đình chúng ta thì ta đã mười ba tuổi. Ta nhớ là một bọn người bịt mặt đánh gia đình chúng ta không chừa, sau đó lại còn phóng hỏa đốt cháy sạch. May mà hai chị em ta thoát nạn ...
Chu Mộng Châu chen ngang hỏi:
- Nhưng mà giữa gia đình Vân tỷ với Quy Hồn Bảo thì có thù oán gì?
Bạch Vân lắc đầu nói:
- Thù oán thì có lẽ không, nhưng tranh chấp thì có thể có ... Gia phụ vốn là tiền nhiệm Quy Hồn Bảo chủ, sau khi người mất tích một cách bí mật thì Đằng Thận mới nghiễm nhiên lên được cương vị Quy Hồn Bảo chủ!
Chu Mộng Châu gật đầu thốt lên:
- A! Thì ra thế, sao mà giống tình cảnh gia phụ tiểu đệ đến thế?
Bạch Vân gật đầu:
- Phải, tiểu đệ không bị truy sát, còn chị em chúng ta phải dắt nhau chạy lánh nạn, bọn người Quy Hồn Bảo không lúc nào không truy đuổi.
Chu Mộng Châu ngạc nhiên nói:
- Chẳng lẽ Đằng Thận dám ngang nhiên như vậy sao?
Bạch Vân nói:
- Chúng hô hoán lên là chị em ta trộm Bảo lệnh trốn chạy, cho nên truy bắt lấy lại Bảo lệnh.
- Thì ra là vậy!
Chu Mộng Châu hỏi tiếp:
- Vậy Vân tỷ chẳng lẽ chạy trốn mãi?
- Không, ta định trước hết tìm cho được Hân đệ đệ, sau đó truy tìm mọi chứng cớ rõ ràng rồi mới thanh toán với Đằng Thận.
Nói rồi nàng lại hỏi Chu Mộng Châu:
- Vậy Châu đệ giờ định làm gì?
Chu Mộng Châu đáp:
- Trước hết tiểu đệ sẽ vào Liên Vân Bảo tìm cách bức vấn Hồ Dã, nếu lão chịu nói ra thì tiểu đệ sẽ nhẹ tay, bằng không sẽ quyết với lão ta một trận, sau đó sẽ tìm đến Đằng Thận.
Chàng dừng lại một lúc, rồi nói tiếp:
- Sáng mai tiểu đệ vào Liên Vân Bảo, Vân tỷ cứ ở lại đây, hy vọng tiểu đệ có tin tức về cho Vân tỷ.
- Ừm, hy vọng là như vậy!
oo Trong Liên Vân Bảo đã trải qua bốn ngày thi đấu vừa ngoạn mục vừa gay cấn, anh hùng hào khách các lộ được dịp thi thố tài năng sở học của mình, càng gần đến ngày chung cuộc thì không khí càng trở lên sôi động hơn.
Những ngày qua, thiên kim ái nữ của Liên Vân Bảo chủ - Hồ Vân Thường thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trên khán đài với chiếc trường y thiên thanh, quả thật là trang quốc sắc thiên hương nghiêng nước nghiêng thành, khiến cho hào khách càng thêm phấn chấn tinh thần thi đấu. Bọn họ lần này tề tựu về đây đấu lôi đài hiển nhiên không chỉ để dương danh đánh tiếng, mà chính là còn muốn chiếm được giai nhân.
Thế nhưng, Liên Vân Bảo chủ Hồ Dã hẳn bên trong đã ngầm có sự chuẩn bị, lần mở lôi đài này đều có tính toán trong đầu, thiên kim ái nữ của mình gả cho ai thì tự bản thân ông đã có chỗ định, cho nên ông đã ngầm mời bảy tay cao thủ làm hộ đài giám thị, thật chất chính là để đề phòng Liêu Thứ vạn nhất gặp bất trắc.
Phàm là người đến đây thuần túy đấu tài trau luyện võ nghệ thì có thể tùy nghi chọn đối thủ tỷ đấu, nhưng người nào có ý men thêm bước nữa chiếm lấy giai nhân, thì tất phải qua kiếm khảo ba trong số bảy vị giám sát hộ đài này. Chỉ khi nào qua nổi cửa quan này thì mới được gọi là đủ tư cách vào đấu chính thức tranh chức hộ hoa sứ giả.
Hôm nay là ngày cuối cùng đấu lôi đài, Hồ Dã cùng thêm mấy tay cao thủ thân phận cực cao đăng khán đài. Toàn trường vẫn tề tựu trước mặt lôi đài như thường lệ, nhưng hôm nay không khí xem ra trang trọng khẩn trương hơn nhiều. Vừa thấy Hồ Dã lên khán đài, lập tức mọi người im phăng phắc, hẳn bọn họ đều chờ lời tuyên bố của vị Liên Vân Bảo chủ.
Hồ Dã quét mắt nhìn toàn trường, hắng giọng mấy tiếng mới bắt đầu nói:
- Tại hạ lần này mở ra “anh hùng lôi đài”, mục đích chính cũng chỉ là tề tập anh hùng trẻ tuổi về đây, mọi người bằng vào tuyệt học của mình đấu luyện trau dồi, ngõ hầu tìm ra nhân tài tương đồng có thể tiến cử chấp chưởng vài địa vị quan trọng trong giang hồ về sau.
Thứ đến mới là chuyện chọn vị hiền tế cho tiểu nữ.
Nói đến đó lão hơi dừng lại, đưa mắt nhìn tiếp một vòng rồi nói:
- Hôm nay là ngày chung cuộc đấu lôi đài, chư vị anh hùng như chỉ trau dồi võ nghệ thì tự tìm đấu thủ, thắng phụ thế nào đều có tưởng thưởng, đến chiều sẽ chọn ra người võ nghệ được xem cao cường nhất. Còn nếu vị có ý sánh duyên cùng tiểu nữ, thì vẫn theo lệ như bốn ngày trước, thông qua khảo nghiệm của ba trong bảy vị hộ đài. Nếu như số người đủ tư cách không chỉ là một người, thì sẽ tỷ đấu kén chọn hiền tế của lão phu!
Thật ra thì những lời tuyên bố này ngay từ ngày đầu tiên khi khai mạc lôi đài, vị tổng quản Thiên Cang Thủ Lạc Đại Xuân cũng đã nói rõ.
Nhưng lúc này chính đích thân Liên Vân Bảo chủ Hồ Dã tuyên bố thì toàn trường cũng không tránh khỏi ồ lên sôi động.
Hồ Dã tuyên bố xong, vừa ngồi xuống ghế thái sư đã lập tức thấy một gã đại hán trạc tuổi ba mươi nhảy lên lôi đài.
Thiên Cang thủ thân phận tổng quản, lúc này cũng nằm trong bảy vị hộ đài, bản thân là chủ nên liền đứng lên ra mặt trước.
Gã đại hán liền báo tính danh:
- Tại hạ họ Tôn, tên Chí Tây, đệ tử đời thứ mười ba phái Hoa Sơn, xin lĩnh giáo cao kiến các vị hộ đài.
Tôn Chí Tây vừa đăng đài tuyên bố rõ như vậy, cả trường quần hùng reo ầm lên vang dậy.
Nguyên là trong bốn ngày qua đã có không ít những trận đấu ngoạn mục, tuy thế trước sau vẫn chỉ mới là những trận đấu có tính khai mào dương uy diễn võ. Chứ chưa có người nào mạnh dạn thách đấu vượt ải bảy vị hộ đài, nguyên do bọn họ đều nhận ra bảy vị hộ đài cao niên lão bối, thần thái mỗi người cũng đủ thấy đều là cao thủ thành danh không nhỏ trong giang hồ, nên ai cũng chờ đợi có người ra mặt trước xem tình hình thế nào mới dám hạ kế sách.
Thiên Cang Thủ nghe báo danh tánh môn phái, ôm quyền thi lễ nói:
- Như tôn giá đã có ý chỉ giáo, Thiên Cang Thủ Lạc Đại Xuân này nguyện tiếp trận đầu. Tôn giá qua nổi năm mươi chiêu, coi như qua được cửa thứ nhất!
Tôn Chí Tây không muốn nhiều lời, liền rút trường kiếm hoa lên một vòng, nói:
- Tôn Chí Tây xin lĩnh giáo vài chiêu kiếm!
Phái Hoa Sơn kiếm pháp kỳ tuyệt, thịnh danh giang hồ, gã vừa đăng đài yêu cầu đấu kiếm không phải là chuyện khiến người ta đáng lấy làm ngạc nhiên.
Thiên Cang Thủ cũng liền lấy thanh bảo kiếm tùy thân từ góc đài, bước ra giữa, ngưng thần cao giọng nói:
- Mời!
Tôn Chí Tây đã có chuẩn bị nên vừa nghe thì tả thủ yết lưỡi kiếm, hữu thủ thâu kiếm rồi lướt tới đâm một thế Thanh Long Thám Huyệt nhắm vào bả vai trái đối phương.
Thiên Cang Thủ hai mắt nhìn chăm vào mũi kiếm đang lướt đến, hẳn lão cũng thừa hiểu đây chỉ là chiêu đầu dò thám nhau, nên không hốt hoảng cũng chẳng vội vàng né tránh hay trả đòn. Đợi đến khi mũi kiếm chỉ còn cách vai trái mấy thốn, lão xoay nhẹ vai đủ để lưỡi kiếm lướt qua, tay trái thuận thế búng ra kình chỉ lực vào lưỡi kiếm, hữu thủ lướt kiếm ra chiêu Phi Giao Nhập Huyệt từ trên chếch xuống đúng tiểu phúc đối phương.
Một chiêu vừa nhanh vừa hiểm khiến chẳng những đám quần hùng dưới đài vỗ tay reo hò, mà ngay cả vị chủ tọa Liên Vân Bảo chủ và những nhân vật danh đầu cũng phải kêu:
- Hảo!
Tôn Chí Tây chiêu đầu bị đối phương vừa hóa vừa công thật sự hơi bất ngờ, thế nhưng không dễ bị hoảng loạn. Lưỡng kiếm đi bộ tránh chiêu, đồng thời thế kiếm đang hết đà biến chiêu Tà Khiêu Bắc Đẩu hồi kiếm nhắm đúng ngực Thiên Cang Thủ đâm tới.
Chỉ một chiêu phản thủ tấn công này cũng đủ thấy Tôn Chí Tây không kém Thiên Cang Thủ chút nào.
Đám quần hùng võ lâm đến đây tuy để tham dự “anh hùng lôi đài” nhưng thực chất phần đông chỉ là đến chiêm ngưỡng thưởng thức tinh hoa võ học các phái, cho nên hễ thấy bất kỳ ai có thức hay thế lạ, họ đều reo hò hoan hô một cách vô tư.
Lúc này nhìn thấy một chiêu tuyệt học của Tôn Chí Tây, họ không thể không vỗ tay tán thưởng.
Song phương trên đài đấu, ngược lại chỉ qua giao thủ một chiêu đầu cũng đã nhận biết nhau, cho nên không ai dám khinh suất coi thường đối phương. Ai cũng liền giở hết sở học ra chiêu quyết đấu.
Trong nháy mắt, bọn Tôn Chí Tây và Thiên Cang Thủ đã đấu nhau ba mươi chiêu, bên ngoài thì thấy đấu rất quyết liệt, nhưng nói chung không bí hiểm tinh ảo như những chiêu đầu.
Thiên Cang Thủ vai chủ nhà, cho nên trong đầu đã có tính toán, đánh rất tỉnh táo thong thả, nhưng Tôn Chí Tây thì thấy càng lúc càng nao núng nóng vội.
Tôn Chí Tây vốn là cao thủ nhất nhì trong đời thứ mười ba đệ tử phái Hoa Sơn, bản lĩnh kiếm pháp tự nhiên hấp thụ được chính truyền, hỏa hầu cũng đạt bảy tám phần. Mấy hôm nay gã chỉ ở dưới đài quan sát theo dõi các trận đấu, nhận thấy kiếm pháp Hoa Sơn tinh diệu hơn cả, tự bản thân gã hấp thụ bảy tám thành hỏa hầu, tuy không dám chắc có thể qua nổi ba vị hộ đài, nhưng cũng không đến nỗi mới trận đầu đã bị đánh lui.
Thấy sau ba mươi chiêu trở đi, kiếm pháp của Thiên Cang Thủ vẫn trầm ổn thong thả, quả khó lòng phá nổi, Tôn Chí Tây càng giở hết các ngón tuyệt học tấn công.
Thiên Cang Thủ đã nhận thấy từ đầu, Tôn Chí Tây kiếm thuật tinh thông, thế nhưng công lực chưa đạt đến trình độ thâm hậu. Vốn lão có ý để cho Tôn Chí Tây vượt qua ải này, thế nhưng nhận thấy nếu để cho hắn qua được, tất nhiên có nhiều cao thủ trẻ tuổi khác cũng phấn chí mà đăng đài quyết đấu, như thế kết cục sẽ thêm khó cho Liêu Thứ, bởi vậy lão thi triển kiếm pháp càng tinh diệu hơn, quyết bức lùi Tôn Chí Tây. Chẳng ngờ ngoài bốn mươi chiêu, Tôn Chí Tây bỗng thay đổi kiếm pháp, thi triển liên hoàn cửu kiếm, chín chiêu tuyệt học chân truyền của Hoa Sơn.
Toàn trường quần hùng dưới đài nhìn thấy song phương quyện lấy nhau kiếm thép trùm không gian, biết trận đấu đã đến hồi quyết liệt nhất, cho nên họ càng ngưng mắt chuyên chú hơn. Hai người ra chiêu cực nhanh, nháy mắt đã năm chiêu chỉ nghe Tôn Chí Tây hét lớn một tiếng, thân hình từ trong vòng kiếm ảnh vọt nhanh ra ngoài. Thiên Cang Thủ mặt đắc ý, trường kiếm vươn theo một chiêu Nộ Sát Hoàng Long nhắm ngực Tôn Chí Tây lướt tới.
Tôn Chí Tây vừa rồi phải nhảy tránh ra ngoài màn kiếm ảnh, lúc này thấy thế kiếm hung mãnh tuyệt luân của đối phương truy tới, thoáng chút chần chừ, rồi vội nhảy người năm bộ né đòn, không dám trực tiếp nghênh chiêu. Thiên Cang Thủ thấy thế thì mừng thầm trong lòng, cười lạt một tiếng, người lướt tới kiếm thổ xuất tiếp một chiêu, trùm lấy toàn thân Tôn Chí Tây.
Tôn Chí Tây vừa rồi không dám trực tiếp nghênh chiêu, cũng chỉ là vì nhất thời thất cơ trúng chiêu, tay trái còn ê ẩm, nhưng lúc này cũng đã ổn định trở lại. Lần này quyết định lên đài tỷ đấu, trong lòng gã vốn tự tin, huống gì đây còn là danh dự cho toàn phái Hoa Sơn, lẽ nào dễ dàng để bại trước Thiên Cang Thủ.
Lúc ấy nghiến răng vận tận chân lực, múa kiếm ra liền ba chiêu cuối tinh diệu nhất trong Hoa Sơn kiếm pháp Tiên Viên Hiến Quả, Thượng Cùng Cửu U, Nhất Nguyên Phục Thỉ.
Tuy thế Thiên Cang Thủ kiếm thuật tinh thông, chẳng những hoá giải được ba chiêu kiếm của đối phương, mà còn bức Tôn Chí Tây lùi liền mấy bước.
Lôi đài bằng gỗ diện tích không lớn lắm, lúc này sau khi Tôn Chí Tây lùi liên tiếp bảy bộ thì đã thấy đến mé đài, nếu chỉ cần lùi thêm một bước nữa tất sẽ rơi xuống đài, chẳng phải là thua một cách đáng thẹn mặt sao?
Dưới đài, quần hùng thưởng mục đã nghe thấy những tiếng reo hò kích động sôi nổi, xem ra cuộc đấu đã đến hồi kết thúc. Thiên Cang Thủ chiếm hoàn toàn ở thế thượng phong không bỏ lỡ cơ hội, kiếm ảnh loang loáng ra tiếp một chiêu Quân Lâm Đại Địa, kiếm trùm cả không gian phân làm ngũ hướng, ập tới người Tôn Chí Tây.
Nên biết đây là chiêu kiếm tối uy lực nhất trong Thiên Cang kiếm pháp, Thiên Cang Thủ Lạc Đại Xuân vẫn thường kết thúc đối phương bằng chiêu kiếm đầy uy vũ này.
Tôn Chí Tây nghiến răng múa kiếm phong kín cả người hóa giải chiêu tuyệt kiếm của đối phương. Tuy rằng đắc thủ, nhưng vốn nội công căn bản của Tôn Chí Tây vẫn kém so với Thiên Cang Thủ, bởi thấy kiếm khí bức tới ngực khiến gã thót mình, không thể không nhảy thoái lui né tránh.
Thân hình Tôn Chí Tây đã thấy tung lên không nhào hai vòng, thoạt xem thì sắp rơi xuống đất trong chớp mắt. Nào ngờ Tôn Chí Tây chẳng thẹn mặt cao thủ nhất lưu Hoa Sơn phái, đề khí đan điền nhào người bằng thế Lý Ngư Đả Đỉnh, người đang rơi xuống tung ngược lên mặt đài đứng một cách trầm ổn, tuy vậy cách vị trí ban đầu đến tám chín xích.
Quần hùng lần này lại reo hò tán thưởng một thế đảo người phi thân của Tôn Chí Tây.
Thiên Cang Thủ chẳng ngờ đối phương vẫn chưa bị rơi xuống đất, lão hơi tức giận liền phóng người nhảy tới, kiếm tiếp tục ra chiêu.
Tôn Chí Tây trở lại được mặt đài đã là thành công lớn, lúc này người chưa ổn định đã thấy kiếm ào ào chém tới cực kỳ hung mãnh, gã lạnh người định nhảy sang bên né tránh, nhưng nghĩ né tránh mãi thì đáng mặt anh hùng sao? Mà nếu không tránh, trực tiếp ra chiêu chống đỡ thì nguy hiểm vô cùng ...
Hồi 20
Liên Vân Bảo Hắc Y Tăng Đại Náo
Bấy giờ Tôn Chí Tây đang đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan, bỗng nghe tiếng Liên Vân Bảo chủ Hồ Dã nói lớn:
- Đại Xuân, đã hết năm mươi chiêu, xin nhượng vị hộ đài thứ nhì xuất thủ!
Dưới đài quần hùng thấy Tôn Chí Tây thế tất bại rõ, chẳng ngờ bằng một chiêu đảo người tuyệt diệu, giờ lại may vượt qua chiêu thứ năm mươi, tự nhiên lọt vào giải thứ hai, thì reo lên tán thưởng. Ngược lại Thiên Cang Thủ Lạc Đại Xuân thì vẻ mặt tỏ ra không vui với Hồ Dã, nhưng lão cũng đành trở lại chỗ ngồi của mình.
Tiếp đó liền thấy một lão già béo trùng trục ngồi bên trái Lạc Đại Xuân đứng lên bước ra đài đấu, ôm quyền nói:
- Lão phu tay không xin tiếp tôn giá năm mươi chiêu.
Dưới đài chừng như quần hùng không biết lão nhân béo ục kia là ai, nhưng thấy Tôn Chí Tây võ công quả không tồi, vậy mà lão ta chỉ dám bằng tay không đấu trường kiếm năm mươi chiêu, thì thật là cuồng ngạo.
Nào ngờ, chỉ thấy Tôn Chí Tây một lúc ngưng mắt nhìn lão béo, đột nhiên thâu kiếm, rồi lẳng lặng nói một câu nhảy xuống đài chuồn lẫn vào đám quần hùng mất dạng.
Dưới đài quần hùng trố mắt nhìn không ai hiểu ra chuyện gì.
Lão béo thấy Tôn Chí Tây tự rút lui cũng hơi bất ngờ, khựng người đứng trên đài một mình nhìn quanh, rồi cũng trở lại chỗ ngồi của mình.
Nhưng lão ngồi còn chưa được mấy giây thì liền thấy một bóng người vọt lên đài, bằng thân pháp cũng đủ thấy người này nội công thâm hậu.
Lúc dừng hẳn người, dưới đài mới nhận ra một gã trung niên tuổi ngoài ba mươi, đứng ưỡn ngực hiên ngang, mắt như dạ tinh quắc lên quét nhìn toàn trường.
Lão già béo tròn tự nhiên liền đứng lên, bước ra giữa đài đấu, chấp tay nói:
- Xem ra tôn giá có ý ...
Trung niên tráng hán không chờ lão già nói hết, gật đầu tiếp ngay:
- Không sai, tại hạ Điền Ca Xuyên, chính muốn đăng đài cầu hôn.
Điền Ca Xuyên vừa buông một câu, dưới đài hào kiệt các phái reo ầm lên.
Điền Ca Xuyên thật ra cái tên này rất lạ trong võ lâm, nhưng chỉ nghe ngữ khí cũng đủ thấy gã cuồng ngạo, chừng như gã tin chắc đăng đài tất không còn ai là địch thủ.
Chỉ thấy Liên Vân Bảo chủ mắt nhíu lại hừ một tiếng lạnh nhạt.
Điền Ca Xuyên nhướng mày cười nói:
- Xin hỏi, nếu nội trong hai mươi chiêu, may được tôn giá nhường chiêu thì thế nào?
Thiên cang thủ Lạc Đại Xuân vai tổng quản chủ nhân, liền bước ra ứng lời đáp:
- Tự nhiên được coi qua một ải, chỉ cần tôn giá tự tin có đủ bản lĩnh này!
Điền Ca Xuyên không để ý đến câu nói khích này, tiếp tục hỏi:
- Có phải tại hạ được quyền chọn ba vị trong bảy vị hộ đài tỷ đấu?
Lạc Đại Xuân lần này hơi do dự, nhưng lão mập đã lên tiếng:
- Đương nhiên là có quyền chọn, tôn giá đủ bản lĩnh qua nổi ba vị hộ đài là được.
Điền Ca Xuyên vẻ mặt tự tin gật đầu cười nói:
- Tất nhiên, tất nhiên! Đã thế tại hạ trước hết xin lĩnh giáo các hạ!
Lão già béo mập cười ha hả, rồi bước lên mấy bước đối mặt với Điền Ca Xuyên, xem ra coi trọng đối phương. Thần thái tuy bình thản tự nhiên, như chẳng chút chuẩn bị, nhưng kỳ thực tay phải hai ngón cái và trỏ đã bắt quyết chính là bãi thúc dự bị của Thái Cực Môn.
Điền Ca Xuyên không hề để tâm, thân hình lay động, bước lên ba bước, một chiêu Du phong hấp mật bổ một chưởng vào ngực lão già.
Lão già thần tình không chút giao động, mắt ngưng nhìn trực tiếp vao tay quyền đối phương, chờ đến khi quyền đến trước mới thấy người xà nhẹ đủ để đầu quyền đối phương lướt qua vai, tay trái khoát lên định khóa chiêu đối phương, hữu chưởng đánh ra nhắm hạ bàn của Điền Ca Xuyên.
Điền Ca Xuyên mới chiêu đầu cũng đã nhận ra đối phương thuộc Thái Cực môn, mà võ học thì hấp thụ đầy đủ chân truyền chính phái, cho nên ý khinh địch tự nhiên biến mất.
Thoái bộ nhượng chiêu, chưởng biến thành trảo chộp vào hổ khẩu lão nhân. Nháy mắt hai người vây lại thành một cặp long tranh hổ đấu, tùng thế quyền từng chiêu cước đều chuẩn xác tinh luyện.
Nhìn lão già béo tròn trùng trục thực cảm thấy rất nặng nề, vậy mà lâm trận bộ pháp linh hoạt, thân hình nhẹ nhàng vô cùng, lão vốn thấp lùn, bộ pháp đa phần dài mà thấp, nên càng thấp thêm. Nhưng ngược lại Điền Ca Xuyên thân hình cao lớn, chiêu thường thượng bộ, trở thành một cặp đấu tương phản ngoạn mục vô cùng.
Tuy thế, nhưng Điền Ca Xuyên từng chiêu từng thức kỳ ảo hiếm thấy, mặc lão nhân tấn chiêu công tới vẫn bị bức trở lại, chung quy Điền Ca Xuyên vẫn thấy chiếm thế thượng phong.
Lão già béo mập vốn ngoại hiệu Bàn Di Lặc Công Tôn Vân, thuộc môn phái Thái Cực, từng thâm giao với Liên Vân Bảo chủ, nên lần này được Hồ Dã thịnh ý mới đến làm hộ đài.
Công Tôn Vân hấp thụ Thái Cực nội ngoại công đều cao siêu, Thái Cực quyền pháp vốn lấy tĩnh chế động, dùng tám lạng thắng nghìn cân, mượn sức địch làm sức mình. Nhưng lần này gặp Điền Ca Xuyên với lối công thủ điều luyện, nắm bắt được tình yếu của Thái Cực môn, nên đã ngoài hai mươi chiêu Công Tôn Vân vẫn thấy bị yếu thế.
Toàn quần hùng chỉ nhìn thấy Điền Ca Xuyên mới hơn hai mươi chiêu đã bức Công Tôn Vân tay chân khó thi thủ, đủ thấy gã ta lại đại hành gia võ học, mà công lực cũng thuộc hạng thặng thừa chứ chẳng nghi. Lo lắng nhất vẫn là Hồ Dã, lão thầm nghĩ nếu Điền Ca Xuyên nội trong năm mươi chiêu qua nổi Công Tôn Vân, thậm chí đánh lão thảm bại, thì ái đồ của lão Liêu Thứ xem ra phải đối đầu với đại cao thủ, chỉ e tính toán của lão không thành.
Nên biết, Hồ Dã nếu muốn chọn ái đồ Liêu Thứ làm rể thì chẳng có gì khó, nhưng lão lần này tổ chức Anh hùng lôi đài này là có dụng ý. Chẳng những nhân cơ hội để Liêu Thứ ra mắt dương danh trước quần hùng, thứ đến cũng là gây dựng thêm uy danh của mình, ngoài ra còn có một nguyên nhân sâu xa hơn mà chỉ một mình lão trong lòng thầm giữ kín.
Trên đài đầu, Công Tôn Vân bị bức mãi đến phát giận, lão thỉnh thoảng cũng trực tiếp nghênh chiêu đó chỉ là bất đắc dĩ trong lối đánh của Thái Cực môn.
Điền Ca Xuyên ngược lại càng đánh càng hăng, chiêu thức ra càng lúc càng quái dị, khó ai nhận ra được thuộc võ công môn phái nào. Chiêu thức thấy cực nhanh mà lại chậm, thân hình hiêu hốt di động lẹ làng, khiến Công Tôn Vân vừa xuất chưởng công tới, thì đối phương đã ở sau lưng, thật lão ở vào tình thế lúng túng vô cùng.
Bấy giờ, lão đã ở ngoài mép đài, Điền Ca Xuyên ở giữa đài, lão mấy lần tấn công tiếp vẫn không làm gì nổi đối phương, ngược lại còn suýt bị trúng chiêu, bất giác lòng thầm nghĩ:
- Ta chức hộ đài, nếu nhượng đòn để hắn qua được năm mươi chiêu thì không có gì đáng nói, nhưng nếu nội trong năm mươi chiêu, nhỡ trúng đòn bại dưới tay hắn, há chẳng phải để tiếng cười cho thiên hạ sao?
Lúc này Điền Ca Xuyên chính vừa lướt người về sau, Công Tôn Vân nghĩ rồi liền thi triển một chiêu uy lực nhất trong Thái Cực môn Đảo chuyển kiền không, đo người nghịch phản công liền hai chưởng nhắm hạ, trung, bộ của đối phương.
Điền Ca Xuyên không ngờ đối phương nghịch công sau lưng, thế chưởng thấy thì nhu nhược nhưng bên trong ngầm một cổ kình lực tợ sóng ngầm chực khởi.
Điền Ca Xuyên nhảy người né tránh, rồi ra thức định hóa chiêu, Công Tôn Vân chỉ chờ giây phút đó đã chuyển người tay công tay thủ giành thế tiên.
Thoạt trông cả hai quần nhau để đến chiêu thứ bốn mươi chín, lúc này Công Tôn Vân đã lấy lại thế cân bằng, lão hứng khởi ra chiêu mỗi lúc một nhanh mạnh. Điền Ca Xuyên đang đấu bỗng nhiên tung người lên không vọt ra ngoài ...
Công Tôn Vân khựng người thầm nghĩ không hiểu sao còn một chiêu nữa mà hắn bỏ cuộc?
Nhưng đúng lúc lão nghĩ chưa dứt, đã thấy thân hình Điền Ca Xuyên từ trên không như tàn diệp lạc địa chao đảo gió lóc, rơi xuống vừa nhanh vừa mạnh nhắm đúng người lão già.
Công Tôn Vân chợt hiểu ra, thầm cười nhạt:
- Hừ, thì ra ngươi giở trò này!
Lão thét lên:
- Chiêu hay lắm!
Vừa hét lên lão hai tay hoa lên một vòng, tay công tay thủ ra chiêu Nhĩ quải lục hợp công thủ kiếm toàn.
Nguyên Điền Ca Xuyên giở chiêu kết Lạc diệp quy nguyên, Công Tôn Vân đã nhận ra, nên tay công tay thủ, quyết đấu chiêu cuối bằng nội lực, lão đã vận hết chín thành công lực vào chưởng công.
Nhưng chẳng ngờ, thân hình Điền Ca Xuyên xoáy tới, xem ra chưởng đã sắp chạm nhau, bỗng gã lách người, tay nhanh như chớp hóa chưởng thành trảo chộp vào uyển mạch đối phương. Công Tôn Vân giật mình, lòng thốt lên một tiếng, tay thủ đẩy ra năm thành nhắm thay trảo đối phương, tay công thì thuận thế nửa vòng chộp vào ngực đối phương.
Đúng lúc ấy chỉ nghe thấy Điền Ca Xuyên cười vang lên kha kha, tay công thâu thế, tay còn nhanh như năm vuốt chim ưng chộp tới, người đồng thời cùng lúc tung lên không kịp tránh một chiêu của Công Tôn Vân.
Mọi người chỉ nghe thấy “soạt” một tiếng, hai thân hình tách ra, Điền Ca Xuyên thì lơ lửng trên không với tràng cười đắc ý, còn Công Tôn Vân thì chết khựng người với tà áo bị xé rách một mảnh.
Sự tình xảy ra nói thì chậm nhưng thực tế chỉ là cái nháy mắt, quần hùng chỉ có dăm ba người nhãn lực phi phàm mới kịp nhận ra song phương đấu với nhau chiêu cuối.
Đến bản thân Hồ Dã cũng phải bật người đứng dậy, miệng la lớn:
- Công Tôn huynh, coi chừng!
Quần hùng thì sau giây phút sững người mới reo ồ lên.
Rõ ràng là trong năm mươi chiêu, Công Tôn Vân chẳng những không thắng được Điền Ca Xuyên, ngược lại còn bị thua chiêu cuối.
Có dũng phải có trí mới thắng được đối phương, Điền Ca Xuyên chiêu thức quái lạ, ứng biến phàm tốc, khiến Công Tôn Vân thua chiêu cuối, tuy không hề thương tích, nhưng vạt áo bị xé toạc cũng là thảm bại rồi.
Mặt lão sa sầm, lẳng lặng quay người trở lại ngồi vào ghế của mình, nuốt nghẹn trong lòng.
Điền Ca Xuyên thắng trận đầu dương dương tự đắc, liền đến trước mặt một gã trung niên hán tử ngồi bên cạnh Công Tôn Vân khiêu chiến.
Trung niên hán tử này họ Trương tên Dịch, vốn là tục gia đệ tử phái Võ Đang, luận kiếm thuật thì bảy tỉnh phía bắc được xưng là Đệ nhất kiếm.
Tuy là thế, nhưng vừa rồi tận mắt mục kích Điền Ca Xuyên đánh bại Công Tôn Vân cho nên vừa vào trận gã đã thi triển kiếm pháp tuyệt luân cố công chiếm tiên cơ. Nhưng Điền Ca Xuyên ngược lại vừa thắng trận, hào khí hứng khởi còn dâng cao, cho nên đánh rất hăng.
Chớp mắt, năm mươi chiêu đã qua, lần này Trương Dịch không đến nỗi bại, nhưng đối phương vẫn qua được năm mươi chiêu dễ dàng.
Quần hùng dưới đài thấy Điền Ca Xuyên qua liền hai ải thì reo lên vỡ trời vỡ đất, thật ra Điền Ca Xuyên thắng phụ thế nào với bọn họ vô can, nhưng thấy Điền Ca Xuyên càng đấu chiêu thức càng tinh thâm quái lạ, quả là họ ít khi chứng kiến. Nên vỗ tay tán thưởng một cách hết sức vô tâm.
Điền Ca Xuyên tuy qua được hai cửa ải, thế nhưng lần này trên mặt có vẻ hơi nặng nề.
Rõ ràng gã qua được hai cửa ải này cũng không phải là không phí nhiều sức lực, tuy rằng võ nghệ cao cường, nhưng đấu liền ba trận chẳng phải là chuyện đơn giản, huống gì những tay hộ đài đều là võ lâm cao thủ.
Nhưng chỉ thấy gã tiếp tục mời đấu với một lão nhân khác trong đám hộ đài.
Hồ Dã chau mày giật mình, nguyên vì Điền Ca Xuyên chọn ba người thách đấu đều là ba nhân vật có võ công thâm hậu nhất trong đám bảy vị hộ đài. Lão nhân gầy ốm này họ Thôi tên Bàng, ngoại hiệu “Độc cước vạn trình”, lão vô môn vô phái, đơn hành lang bạt, giao lưu đó đây, nhưng người trên giang hồ đều biết đến nghĩa khí của lão ta.
Vào trận đấu chỉ thấy “Độc cước vạn trình” thân pháp kỳ ảo, thoắt đông thoắt tây, thủ nhiều công ít, chừng như nhường đòn cho Điền Ca Xuyên là nhiều.
Đứng bên ngoài, Thiên cang thủ Lạc Đại Xuân nhíu mày như không hài lòng với lối đánh cầm chừng của “Độc cước vạn trình”, nhưng lão ta vốn là thượng khách ca Liên Vân Bảo chủ. Cho nên Thiên Cang Thủ không dám lên tiếng.
Đánh mới ngoài ba mươi chiêu, chẳng hiểu “Độc cước vạn trình” nghĩ sao, tự nhiên cười lớn tiếng vui vẻ, nhảy ra ngoài ôm quyền nói:
- Cung hỷ các hạ qua liền ba ải!
Đến nước này thì Thiên Cang Thủ không nhịn được, lão hừ một tiếng lạnh lùng khinh bỉ ra mặt, liền nhận được một cái lườm của Hồ Dã, lão mới thôi.
Rõ ràng Thiên Cang Thủ nhận ra Độc Cước Vạn Trình chưa đấu hết sức, cố ý nhượng bước cho Điền Ca Xuyên qua ải.
Điền Ca Xuyên hẳn cũng thừa hiểu ra điều này, khi ấy chấp tay xá dài nói:
- Đa tạ các hạ nhượng chiêu!
Dưới đài võ lâm hào kiệt reo hò lên tán tụng Điền Ca Xuyên.
Hồ Dã là người vừa kinh ngạc vừa thảo dị nhất, bởi vì lão thành danh lập nghiệp dựng Liên Vân Bảo này mấy mươi năm nay, chưa từng nghe đến một cái danh nào là Điền Ca Xuyên.
Đến võ công của gã thuộc môn phái nào lão cũng không nhận ra nổi, mà chọn đấu lại là ba cao thủ võ nghệ cao cường nhất trong bảy vị hộ đài, điều này khiến lão thấy rầu trong lòng.
Hẳn là lão đang lo thầm cho ái đồ Liêu Thứ của mình, tuy rằng Liêu Thứ theo lão hấp thụ võ nghệ hơn hai mươi năm. Liêu Thứ khí cốt hơn người, thông minh đĩnh ngộ, lão ưu ái nhất mà đem hết tuyệt học truyền thụ.
Liêu Thứ có thể nói hấp thụ được tám chín phần võ học của lão. Việc qua ba cửa ải này không thành vấn đề, nhưng mỗi khi đối đầu với nhân vật này, thì chuyện thắng địch không thể dám đoán chắc được.
Lập “Anh hùng lôi đài” kén rể lần này, hiển nhiên Hồ Dã đã có chủ đích. Mời bảy cao thủ lão bối võ lâm về làm hộ đài, tất là một cửa quan cản đường những tay hào kiệt trẻ tuổi mon men đăng đài cầu hôn. Bốn ngày qua không một người nào qua được ba ải này, vốn khiến Hồ Dã thấy yên tâm.
Nào ngờ, ngày cuối cùng vừa bắt đầu từ đâu đã xuất hiện một Điền Ca Xuyên này. Từ đây cho đến khi cây nêu đứng bóng còn lâu, chẳng biết còn bao nhiêu nhân vật như Điền Ca Xuyên nữa, chính điều này càng khiến cho Hồ Dã lo lắng bất an.
Tiếp theo Điền Ca Xuyên chính là nhân vật tâm ý của Hồ Dã, Liêu Thứ.
Gã là chủ bài, tự nhiên việc qua ba ải này không mấy khó khăn.
Đám quần hùng cũng hoan hô vang dậy khi thấy một thanh niên trẻ tuổi tao nhã đấu với ba cao thủ liền ba trận.
Đương nhiên ít nhiều gì trong đám quần hùng cũng hiểu được có sự sắp đặt của chủ nhà đối với vị đệ tử ưu ái nhất của mình.
Trong bảy vị hộ đài, thì Lạc Đại Xuân là sư thúc của Liêu Thứ không nói, còn lại sáu vị được mời đến tự nhiên chẳng khi nào đấu hết sức với đệ tử của chủ nhà.
Liêu Thứ uy nghi tuấn tú, qua liền hai trận được quần hùng nhiệt liệt hoan hô thì hớn hở ra mặt, nhưng khi liếc nhìn Điền Ca Xuyên đĩnh lập im lặng cuối đài thì hơi ngần ngại.
Điền Ca Xuyên hai tay vòng trước ngực, mắt nhìn ra xa, tợ như không để tâm đến những gì đang diễn ra trên đài đấu.
Tiếp theo Liêu Thứ, quần hào trẻ tuổi như được bồi thêm lòng dũng cảm lẫn chí khí, nhiều người tình nguyện đăng đài cầu hôn. Nhưng từ sáng đến gần đúng ngọ vẫn không có thêm một người nào vượt được qua ải thứ hai, chứ đừng nói đến qua được ba ải.
Cứ theo như quy định ban đầu thì có ý đăng đài tỷ thí cầu hôn phải lên đài đấu trước ngọ. Sau ngọ mọi người tạm nghỉ, buổi chiều là chính thức vào chung cuộc tỷ đấu kén hiền tế.
Cả Lạc Đại Xuân lẫn Hồ Dã nôn nóng chỉ mong thời gian chóng qua, càng ít đấu cho Liêu Thứ chừng nào càng tốt chừng nấy.
Thời gian còn chưa đầy một khắc thì hết giờ đấu, quần hùng ban đầu nhiều người muốn đăng đài, nhưng chưa lên thì chưa biết, khi thấy cả bảy tám người nữa đăng đài đều bại thủ, thì họ mới nhụt chí. Tự nhiên mọi người đều có cùng suy nghĩ, buổi chiều trận đấu chung cuộc e rằng chỉ có Liêu Thứ với Điền Ca Xuyên mà thôi. Lập tức đây đó có nhiều tiếng tranh luận phán đoán, xem ai có thể là người đoạt vòng nguyệt quế hôm nay.
Chỉ thấy lúc này Điền Ca Xuyên vẫn vòng tay đỉnh lập, mắt nhìn ra xa vẻ rất tự tin, nhưng Liêu Thứ thì thỉnh thoảng mắt không khỏi liếc nhìn đối thủ của mình.
Dưới đài tiếng tranh luận càng lúc càng sôi nổi, nhưng trên đài ngược lại càng im lặng lạnh lùng, chẳng còn thấy có người nào nhảy lên đài đấu.
Thiên Cang Thủ phải đứng lên nói:
- Chư vị anh hùng, còn ai muốn đăng đài cầu hôn, xin nhanh chân cho!
Tính ra chỉ còn chừng vài ba phút nữa là phần đấu loại kết thúc, dưới đài nghe vậy liền im bặt, người này đưa mắt nhìn người kia như ngầm hỏi nhau.
Đang lúc không khí lắng xuống im phăng phắt, bỗng một tiếng áo lướt gió, một bóng tăng bào đen phi lên đài đấu, toàn trường ngưng mắt chú nhìn. Chỉ thấy đó là một thiếu tăng, đầu đội mũ vải, bên má trái là một vết bớt đen rất lớn.
Vừa đặt chân lên đài, tăng nhân lên tiếng hỏi lớn:
- Chẳng biết người xuất gia có thể đăng đài tỷ đấu không?
Thiên Cang Thủ nghe hỏi nhất thời ngớ người, bởi lão không lường được người xuất gia lại có thể tham gia vào chuyện này, mà ngay lúc đầu thì cũng không có quy định là người xuất gia không được tham gia.
Dưới đài, quần hùng thấy tự nhiên có người Phật môn nhảy vào tham dự thì cảm thấy không khí càng hấp dẫn hơn, bất giác đều vỗ tay reo hò.
Thiên Cang Thủ lúng túng, đành đưa mắt chờ chỉ thị của Hồ Dã.
Hồ Dã vốn vừa rồi mãi lo lắng cho Liêu Thứ đối đầu với Điền Ca Xuyên, lúc này thấy có vị tăng trẻ lên đài đòi tham gia, trong đầu nghĩ nhanh, gật đầu nói:
- Chẳng có quy định cấm người xuất gia tham dự, pháp sư như nguyện ý thì cứ thử một phen chẳng ngại gì.
Thiên Cang Thủ khựng cả người, lão thật không ngờ Hồ Dã chấp nhận nhanh chóng như vậy, nhưng Hồ Dã đã nói ra thì không còn cãi vào đâu được nữa.
Hắc y tăng lướt mắt nhìn một lượt bảy vị hộ đài, rồi dõng dạc nói:
- Dám phiền Bàn Di Lặc Công Tôn Vân, một trong Tần Lĩnh tam lão, Tây Hán thượng nhân Ngô Đông Nguyên, Thanh Bằng kiếm khách Trương Dịch và Thiên cang thủ Lạc Đại Xuân, bốn vị cùng ra tay chỉ giáo.
Một câu này vừa tuyên bố khiến quần hùng “ồ” lên vẻ kinh ngạc chấn động.
Điền Ca Xuyên từ đầu đến giờ lãnh tĩnh cao ngạo, nhưng lúc này mày rậm nhíu chặt, bất giác liếc xéo hắc y tăng một cái vẻ thỏa dị vô cùng.
Nguyên là bốn vị hộ đài được hắc tăng chọn đấu, ngoài Thiên Cang Thủ ra thì ba người kia chính là ba người trước đây Điền Ca Xuyên chọn đấu, là ba người có công lực cao nhất trong bảy vị hộ đài.
Thiên Cang Thủ thấy hắc tăng mở miệng ra buông lời cuồng ngạo như vậy, mà còn trái hẳn với quy định, lão vốn định lên tiếng quát tháo. Nhưng nghĩ làm như thế hóa ra quần hùng nghĩ rằng lão hoảng sợ. Vả lại hắc y tăng dám buông lời như vậy, tất phải có bản lĩnh phi thường, chứ không khi nào tự nhiên dám nghênh ngôn trước thiên hạ. Nếu để hắc y tăng đấu với từng người thì xem ra tám phần chắc thắng, như vậy chẳng phải thêm phiền phức cho Liêu Thứ.
Nghĩ đến đó, lão lớn tiếng:
- Người xuất gia mà không chút khiêm tốn, đã vậy lão phu sẽ tiếp ngươi năm mươi chiêu!
Hắc y tăng lãnh tĩnh nói:
- Bằng vào ngươi mà cũng dám buông đại ngôn!
Điền Ca Xuyên tuy thái độ cao ngạo, nhưng cũng chưa đến nỗi buông lời hạ nhục người.
Vị tăng này chưa xuất thủ mà lời lẽ ngông cuồng đến thế, khiến Lạc Đại Xuân hừ một tiếng tức gận, tuy vậy lão vẫn trấn tĩnh không vội bộc phát ngay. Là vì lão nghĩ nếu không nhẫn nhịn lên tiếng đáp lại, nhỡ thua một chiêu há chẳng thẹn với chúng khách. Nhưng trong lòng thì đã quyết tâm hạ nhục vị tăng lạ này một phen.
Lão nghĩ thế cười gằn nói:
- Được, dã tăng, mời!
Hắc y tăng không nói thêm tiếng nào, vung tay phải tới xuất chưởng đánh ngay vào ngực đối phương.
Lạc Đại Xuân giật mình, lão thật hết sức bất ngờ, không hiểu ra hắc y tăng chỉ tỷ đấu quá quan mà vừa ra chiêu đã dũng mãnh nhanh cực như vậy, đã thế lại là đấu nội công.
Lão thân phận hộ đài lại là tổng quản Liên Vân Bảo, khách ra chiêu đầu đấu nội lực, chẳng có lý gì sợ mà lãnh tránh. Khi ấy đành giơ chưởng vận năm thành công lực tiếp chiêu.
Chỉ nghe “bình” một tiếng, cuồng phong khởi dậy, trong tiếng thốt lên đầy kinh ngạc của quần hùng, chỉ thấy hắc y tăng trầm ổn đĩnh lập như Thái Sơn, không chút dao động thân hình, vậy mà Lạc Đại Xuân bị chấn lùi ba bước. Đến ngay bọn Điền Ca Xuyên, Liêu Thứ và sáu vị hộ đài ngồi gần đó bị dư phong ập tới khiến áo bay phần phật, cả bọn đều tái mặt.
Lạc Đại Xuân mặt đỏ gay vừa thẹn vừa tức giận, nhưng lão nghĩ chưởng đầu tiếp đối phương lão dụng chưa hết lực, nếu dụng hết chẳng dễ thua đối phương thế này, lão gằn giọng một tiếng, thét lớn:
- Dã tăng tiếp chưởng!
Một chưởng thứ hai, Lạc Đại Xuân dồn hết tinh hoa chân lực quyết lấy lại thể diện, nên ra chưởng với mười hai thành công lực.
Hắc y tăng mặt lạnh như tiền, ở khóe môi nở nụ cười xéo đầy khinh thị, rồi thân hình đột nhiên thấp xuống, một chiêu Đồng tử bái Quan Âm phản chiêu.
Một chiêu của hắc y tăng kỳ diệu, ngoại cương nhưng hàm nội nhu.
Lạc Đại Xuân lúc đầu cứ ngỡ song chưởng toàn lực đối đầu nhau, không ngờ khi phát hiện ra mắc kế đối phương thì một chưởng với mười hai thành công lực đã phát tận. Đối phương chỉ chờ một chưởng đánh hết, thì chỉ cần bồi liền một chưởng với ba bốn thành công lực cũng đủ khiến lão trọng thương, vì nội lực đề kháng đã hết tận.
Chỉ lóe nghĩ tới đó Lạc Đại Xuân lưng đã toát mồ hôi lạnh, nhưng lúc này có muốn thâu hồi công lực cũng đã muộn, khoảng cách song phương rất gần, mà chưởng đánh ra thì mạnh.
Liêu Thứ đứng gần đó đã nhận ra tình hình nguy cấp của Lạc Đại Xuân, liền thấy gã chuẩn bị đề phòng nhảy vào ứng cứu cho sư thúc khi nguy cấp.
Nói thì chậm, lúc ấy lại rất nhanh, chỉ nghe Lạc Đại Xuân hừ một tiếng, thân hình lảo đảo nhào chúi tới trước.
Đúng lúc này, hai bóng người từ hai cánh tả hữu nhảy vào tấn công hắc y tăng.
Hắc y tang vừa rồi chỉ hóa chiêu bồi nhẹ một chưởng vào lưng Lạc Đại Xuân, lúc này nhận thấy có người vào ứng cứu cho Lạc Đại Xuân, song chưởng xoay tròn rồi phát ra hai chưởng nghênh tiếp.
“Bình bình” tiếp liền hai tiếng, hai thân hình vọt nhanh vào rồi cũng nhào nhanh trở ra ngoài. Bấy giờ mới thấy rõ người nhảy vào cánh trái chính là Bàn Di Lặc Công Tôn Vân, lão sau một chưởng thân hình vẫn trầm ổn, tợ hồ như không hề hấn gì. Nhưng người cánh phải chính Liêu Thứ, gã bị đánh bật lùi phải khó khăn lắm mới đứng vững.
Lạc Đại Xuân cố gắng khống chế huyết nghịch trong tâm mạch, lớn tiếng hỏi:
- Dã tăng, mau báo tính danh!
Hắc y tăng trên môi nở một nụ cười khinh miệt:
- Hừ, Lạc Đại Xuân, ngươi là cái thá gì mà dám hỏi đến pháp hiệu Phật gia?
Lạc Đại Xuân nghe vậy thì giận tím mặt, chẳng kể đang thụ thương, định xông tới vung chưởng thí mạng.
Nào ngờ, lão thụ thương chẳng nhẹ tí nào, không tức giận thì tốt, tức giận vận khí lên thì lập tức nghịch thượng xung, chỉ thấy cổ họng lờm lợm, rồi không cưỡng lại được. “Hộc” một tiếng, máu phun ra thành vòi, người lảo đảo muốn ngã khụy.
Liêu Thứ vội nhảy đến đỡ lấy người Lạc Đại Xuân mới khỏi ngã, rồi dìu lão tạm về chỗ ngồi. Nhưng Lạc Đại Xuân trong vòng tay Liêu Thứ vẫn tức giận hỏi:
- Dã tăng, thật ra ngươi là ai?
Nguyên là vừa rồi, Lạc Đại Xuân khi nghe hắc y tăng nói một câu “Hừ, Lạc Đại Xuân, ngươi là cái thá gì ...” thì lão cảm nhận giọng nói người này rất quen, có điều nhất thời lão không nghĩ ra đã nghe qua ở đâu.
Lạc Đại Xuân tức giận vô cùng, nhưng biết đã bại trận, giờ ở đây chỉ càng thêm xấu mặt cho nên bảo Liêu Thứ dìu mình vào hẳn nội bảo nghỉ dưỡng thương.
Quần hùng dưới đài đã xầm xì bàn tán lớn nhỏ, đa phần đều tập trung bàn luận về vị tăng lạ này, họ tất nhiên không ai biết được hắc y tăng kia là ai? Thuộc môn phái nào?
Thậm chí chưa một người nào từng nghe qua hay thấy một vị hắc y tăng nào như vậy.
Người buồn phiền nhất lúc này là Hồ Dã. Lão không ngờ lại xuất hiện thêm một hắc y tăng, mà chỉ mới chiêu thứ hai đã đánh tổng quản Lạc Đại Xuân trọng thương.
Lão vốn định ra mặt, nhưng nghĩ lại đây chỉ là nằm trong phạm vi đấu đài, không thể lỗ mãng được, nên mới thôi.
Bấy giờ đã thấy hắc y tăng đấu nhau với Bàn Di Lặc Công Tôn Vân.
Lần này hắc y tăng đấu rất chậm rãi hòa hoãn, không còn hung bạo cuồng mãnh như chiêu vừa rồi ra tay đấu Lạc Đại Xuân. Điều này khiến Công Tôn Vân cũng bị bất ngờ, vốn vào đầu trận lão đã chú tâm chuyên đánh, cứ nghĩ đối phương sẽ đấu như đã đấu với Lạc Đại Xuân. Nhưng chẳng ngờ cuộc đấu đã khác, khách chủ nhượng chiêu tấn chiêu đều đủ lễ.
Qua chừng hai mươi chiêu, hắc y tăng bỗng thét lớn:
- Tôn giá cẩn thận!
Dứt lời, bóng áo tăng phất lên xoay tròn một vòng tợ như làn khói, chưởng ảnh một hóa hai, hai hóa bốn, bốn hóa vạn chưởng trùm lấy cả người Bàn Di Lặc.
Bàn Di Lặc từ đầu đến giờ vừa đánh vừa cố nhận ra đối phương môn hạ là ai, nhưng không tài nào nhận ra được.
Lúc này vừa thấy hắc y tăng ra chiêu, thì toát mồ hôi, vội nhảy lùi xa miệng la lên:
- Oái, Thiên Phiên chưởng!
Hắc y tăng đã thâu chưởng đĩnh lập, thầm khen đối phương nhãn lực không tồi.
Công Tôn Vân chấp tay xá dài, nói:
- Tại hạ xin chịu nhường bước. Nhưng dám hỏi pháp sư với Nhẫn đại sư quan hệ thế nào?
Hắc y tăng chỉ cười nói:
- Không là gì cả!
Công Tôn Vân ngạc nhiên hỏi:
- Chẳng lẽ một chưởng vừa rồi Mãn thiên bách thủ chẳng phải nằm trong Phiên Thiên chưởng là gì? Thử hỏi trên võ lâm giang hồ có ai sử dụng được môn tuyệt luân chưởng pháp này?
Hắc y tăng vẫn nụ cười thản nhiên:
- Thứ lỗi bần tăng không thể trả lời câu này.
Bàn Di Lặc thấy đối phương không chịu đáp thẳng, nhưng đằng nào thì lão cũng không địch nổi một chưởng vừa rồi nên đành lặng lui.
Tiếp đó là lão nhân gầy ốm Tây Hán thượng nhân Ngô Đông Nguyên và Thanh Bằng kiếm khách Trương Dịch ra đấu.
Bọn họ thật ra đến đây theo lời mời của Liên Vân Bảo chủ là nhiệm vụ hộ đài, với họ chỉ cần thấy người nào có bản lĩnh thì nhẹ nhàng để thông qua. Đằng nào thì hôm nay cũng chỉ là tỷ đấu chọn hiền tài, chứ không tư thù đại oán nên xuất thủ tự nhiên ít nhiều chẳng hết sức.
Hắc y tăng đấu với Tây Hán thượng nhân bằng quyền cước, ngoài hai mươi chiêu cũng thắng được một chiêu. Nhưng đấu với Thanh Bằng kiếm khách thì dụng kiếm, lần này chính chiêu thứ ba trong Đạt Ma kiếm pháp đã thắng được Trương Dịch.
Quần hùng dưới đài càng xem càng phấn chấn reo hò vang trời dậy đất, bọn họ chừng như quên hẳn bọn Điền Ca Xuyên và Liêu Thứ vừa rồi.
oo Buổi chiều.
Vừa vào giữa giờ mùi.
Trên đài đấu có khác hẳn, một chiếc màn hồng che làm phóng rực rỡ, Liên Vân Bảo chủ Hồ Dã tay dắt thiên kim ái nữ Hồ Vân Thường trong bộ xiêm y kiều diễm bước ra.
Quần hùng hào kiệt hàng trăm cặp mắt đều đổ dồn vào thiếu nữ xinh đẹp, mà quên hẳn còn ba đấu thủ chính vào chung cuộc là Điền Ca Xuyên, Liêu Thứ và hắc y tăng đang đứng một hàng trước đài đấu.
Hồ Dã trên mặt hiện nụ cười vui vẻ, thế nhưng tinh ý lắm mới nhận ra trong mắt lão chút lo lắng lẫn phiền muộn.
Lão chấp tay xá chào mọi người vòng, rồi dõng dạc nói:
- Sau năm ngày thi đấu, chúng ta đã chọn ra được ba người hiền tài vào chung kết ...
Lão dừng lại hắng giọng một cái rồi nói:
- Để công bằng, lão phu có một kế nhỏ, ba vị đây mỗi người nắm lấy một giây thép mảnh, chỉ bằng vào nội lực chấn gãy dây thép, ai nắm được đoạn dài nhất thì được quyền chọn đấu thủ trước.
Lão nói dứt đã thấy Hồ Vân Thường cười tươi nắm ba đoạn dây thép đến trước mặt trao cho ba đấu thủ, ngang hắc y tăng cô nàng hơi dừng lại với cái nhìn hoài nghi.
Hắc y tăng mặt lạnh lùng như không.
Nên biết, cách làm thăm dò này của Hồ Dã có dụng ý, nếu người nào công lực kém cỏi tất có thể làm chấn động gãy dây thép được.
Lúc này vừa nhận dây thép xong, lập tức thấy hắc y tăng hét dài một tiếng, tay phải nắm dây thép phất lên một cái, chỉ thấy cả đoạn dây thép dài hơn trượng mềm yếu liền thẳng cứng lên, đủ thấy toàn nội lực hắc y tăng vận dồn vào đấy. Rồi sau một cái rung tay mạnh, “kong” một tiếng, đoạn thép gãy làm đôi, một nửa rơi xuống đất, đoạn còn lại dài chừng năm xích trong tay hắc y tăng.
Quần hùng lại được một phen thưởng mục pha nội công thâm hậu, bất giác đồng thanh reo lên tán thưởng.
Hồ Dã giật thót mình, đầu mày nhíu lại, thật tình nếu bản thân lão ra tay cũng chưa chắc đã đạt đến trình độ đó, vậy thì đủ thấy Liêu Thứ không phải là đối thủ của hắc y tăng rồi.
Điền Ca Xuyên vốn cao ngạo, nhưng lúc này nhìn thấy cũng do dự, gã nếu nói dụng nội lực chấn động gãy đoạn thép thì không khó, nhưng nói vận chú nội lực vào đoạn thép dựng thẳng lên như vậy thì chỉ e không dám chắc.
Liêu Thứ hẳn cũng tự lượng bản thân mình, lúc này thầm hiểu mình so với đối phương thế nào. Vốn lúc nghỉ trưa nay, gã đã được sư phụ bài bố mọi chuyện. Bày ra trò này, chính Hồ Dã biết chắc hoặc là hắc y tăng hoặc là Điền Ca Xuyên sẽ làm nổi, sau đó quyền chọn đối thủ đấu đầu tiên thuộc về bọn họ. Tất nhiên đang mặt anh hùng đại trượng phu, thì không khi nào chọn người yếu nhất là Liêu Thứ để đấu.
Liêu Thứ tính vốn cũng khẳng khái, lúc này thấy vậy định thử xem, nhưng nhận được ánh mắt ngăn cản của sư phụ thì thôi.
Điền Ca Xuyên cố chờ Liêu Thứ, nhưng thấy gã đứng yên bất động, bấy giờ liền bước lên một bước, ưỡn ngực hít sâu vận chân khí thập thành vào tay phất mạnh một cái, sợi thép liền vút lên thẳng cứng. Rồi cũng chỉ một cái vung tay, đoạn thép gãy làm đôi, xem ra ngắn dài cũng chính bằng đoạn thép trong tay hắc y tăng.
Còn lại một mình Liêu Thứ, lúc này gã trong lòng đã ngưỡng mộ tài năng công lực của hai đối thủ của mình, nhưng hàng trăm cặp mắt đang đổ dồn vào gã chờ đợi gã thi thố tài nghệ, khiến gã rơi vào tình thế nan xử.
Đang lúc lúng túng chưa biết thế nào, Hồ Dã tiến lên cười lớn vui vẻ nói:
- Hai vị công lực thật phi phàm, tiểu đồ Liêu Thứ tự nhiên cũng có thể làm như nhị vị, khi ấy ba người bình thủ thì cũng không định được người có quyền chọn đấu trước. Theo ý lão phu, đằng nào thì Liêu Thứ phận chủ nhà, nhường nhị vị được quyền chọn đấu trước vậy, không biết ý nhị vị thế nào?
Lời Hồ Dã nghe ra thì phóng khoáng cởi mở, nhưng kỳ thực gian giảo khôn ngoan.
Tất nhiên ít ai hiểu rằng lão cố ý để cho khách song phương đấu nhau, ai thắng cũng mặc, đến lúc ấy mới cho ái đồ Liêu Thứ rỗi tay. Có vậy phần thắng mới nắm chắc được.
Hắc y tăng bấy giờ nghe Hồ Dã nói vậy thì liếc xéo Điền Ca Xuyên dò ý, đồng thời không khỏi hàm chút khiêu khích.
Điền Ca Xuyên thầm hiểu hắc y tăng rất khó đấu, nhưng bổn tính cao ngạo lẽ nào chịu lép vế, khi ấy hừ một tiếng, cao giọng nói:
- Bảo chủ đã nói vậy, cung kính không bằng tòng mệnh!
Hồ Dã ngầm thở phào trong lòng, lão vốn thấy một tay thư sinh nho nhã Điền Ca Xuyên đã khiến lão lo lắng, huống gì tự nhiên thêm một hắc y tăng, vừa ra tay đã đánh thụ thương sư đệ Lạc Đại Xuân. Cho nên bọn họ hai người như hai khối đá đè nặng trong lòng lão từ sáng đến giờ, lúc này tợ hồ như cất được hai khối đá ấy ra. Nghĩ đằng nào cứ để cho hai hổ đấu nhau, thắng phụ thế nào rồi sẽ tính tiếp.
Hắc y tăng cười nhạt nhìn Điền Ca Xuyên nói:
- Ý ngươi thế nào? Nếu ta chọn, thì nhất định là chọn ngươi!
Mọi người chẳng ngờ hắc y tăng tuyên bố thẳng thừng như vậy, nhất loạn reo ầm lên.
Điền Ca Xuyên hơi nóng mặt, chỉ thẳng tay vào hắc y tăng thét lớn:
- Ta cũng chính muốn chọn ngươi đây. Tốt lắm, vậy càng đỡ phiền hà.
Hắc y tăng nói:
- Đấu pháp thế nào? Ngươi nói đi, ta sẽ tiếp hết!
Lời lẽ hắc y tăng cực cuồng ngạo, chừng như không xem Điền Ca Xuyên vào đâu, khiến Điền Ca Xuyên phải chút chờn lòng trầm ngâm rồi nói:
- Võ học mỗi người đều có sở trường, đấu môn này mà không đấu môn kia thì có người lợi, có người thiệt. Chẳng bằng chúng ta đấu liền bốn môn chưởng pháp, binh khí, khinh công và ám khí, thế nào hử?
Hắc y tăng không chút do dự, cười lớn nói:
- Tuyệt! Có lẽ ngươi muốn thua một cách tâm phục khẩu phục, nếu chúng ta mỗi người thắng hai trận thì coi như ngươi thắng, nếu ngươi bại thì ta muốn ở ngươi một vật!
Điền Ca Xuyên ưỡn ngực nói:
- Ngươi muốn lấy chỗ đội nón của họ Điền này, thì Điền mỗ cũng không tiếc. Huống gì là một vật ngoài thân, chỉ cần ngươi đủ bản lĩnh thắng Điền mỗ.
Điền Ca Xuyên đối với hắc y tăng không còn dám khinh thị, lúc ấy nói xong liền lấy từ trên vai xuống một món binh khí hình thù kỳ lạ, vừa giống kiếm vừa giống phán quan bút, thô ngắn tợ đao hình bồ đào.
- Chúng ta trận đầu đấu binh khí vậy!
Vừa nói gã vừa vung thanh quái kiếm lên khua một vòng tạo ra một thế khởi thủ kỳ lạ.
Hắc y tăng chỉ cười nhạt, rồi rút thanh trường kiếm trên lưng ra nói:
- Kiếm thì kiếm, ngươi công ta thủ, chỉ cần ngươi công vào trúng một kiếm kể như ta thua! Ngược lại ...
Hắc y tăng nói chưa dứt, Điền Ca Xuyên đã tức giận trước lời ngông cuồng, thét lớn:
- Chớ đại ngôn, xem kiếm Điền gia!
Dứt lời, kiếm hoa lên phát chiêu Thanh long thám huyệt đâm vào ngực hắc y tăng thăm dò. Chỉ thấy hắc y tăng kiếm xoay nửa vòng hóa liền chiêu đầu.
Điền Ca Xuyên thấy kiếm thế đầu đối phương hơi lạ, nhưng kín bên trái thì bên phải để hở một khoảng lớn, cười thầm rồi la lên:
- Đón chiêu này!
Kiếm đang thuận đà vòng ngược lên trên bổ xuống huyệt Kiên tỉnh trên vai phải để hở của hắc y tăng.
Nào ngờ, kiếm thế ra trước, nhưng khi đến nơi thì đã thấy trường kiếm của đối phương chắn ngang, chẳng hiểu đối phương vừa ra chiêu kiếm gì để giải nổi chiêu kiếm của mình.
Điền Ca Xuyên ra liền hai chiêu không đắc thủ, tức giận thi xuất tuyệt học công vào vùn vụt. Chỉ thấy hắc y tăng hết tả đến hữu, hết thượng đến hạ, từng kiếm liên hoàn không đầu không cuối trùm che kín cả người hoá giải hết tất cả các thế kiếm của Điền Ca Xuyên.
Điền Ca Xuyên lúc sáng cũng đã tận mắt chứng kiến hắc y tăng đấu kiếm với Thanh Bằng kiếm khách Trương Dịch, nhưng chỉ là pho Đạt Ma kiếm pháp phổ biến của Thiếu Lâm phái. Không ngờ lúc này hắc y tăng dụng một pho kiếm phòng thân kỳ lạ, tợ hở mà không hở, tợ kín mà không kín, cứ hư hư ảo ảo chẳng thật, nhưng không đâu là không thực. Hễ thấy hở đánh vào là đã bị phong kín, thủy chung hơn hai mươi hiệp chưa đắc được một chiêu.
Ngược lại càng đánh càng lúng túng, vì công mãi mà vẫn không vào.
Dưới đài tiếng la hét hô hào của quần hùng hẳn là cổ vũ nhiều cho hắc y tăng, bọn họ trong đời luyện võ học chừng như chưa từng nhìn thấy một pho kiếm pháp hộ thân nào tinh diệu và kỳ lạ như vậy.