-
Chương 20
Trường quay ở ngoại vi thủ đô Washington của CNN là một trong số 212 trường quay trên toàn thế giới được kết nối với đại bản doanh hệ thống truyền hình của Turner tại Atlanta.
Đúng một giờ 45 phút, chiếc xe limousine của Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton vào đến bãi đỗ xe. Sải bước tới lối vào, Sexton cảm thấy đầy tự mãn. Một nhân viên CNN béo phệ với nụ cười rất tươi chào ông và Gabrielle.
Nhân viên này nói:
“Chào Thượng nghị sĩ. Có một tin hay lắm. Chúng tôi vừa mới biết người được Nhà Trắng cử tôi đến đối thoại với ông”. Anh ta lại cười nhăn nhở “Tôi hy vọng ngài sẽ lại thắng lợi giòn giã”. Anh ta đưa tay chỉ về phía trường quay đằng sau lớp kính mờ.
Sexton nhìn xuyên qua tấm kính và suýt té ngửa. Ngồl giữa đám khói thuốc lá mịt mù trong trường quay là người có khuôn mặt xấu xí nhất trên chính trường.
“Marjorie Tench à?” Gabrielle thốt lên “Bà ta đến đây làm gì nhỉ?”
Sexton không biết, nhưng bất kể vì lý do gì, sự có măt của bà ta ở đây là tin hết sức tốt lành - dấu hiệu rõ ràng cho thấy Tổng thống đang tuyệt vọng. Nếu không thì tại sao ông ta lại phải đẩy cố vấn cao cấp của mình ra trước đường tên mũi đạn? Tổng thống Zach Herney đang phải dùng đến trọng pháo, và Sexton thấy đây quả là một dịp may...
Càng là đối thủ ở tầm cao thì càng dễ bị ngã đau.
Ngài Thượng nghị sĩ hiểu rất rõ rằng Tench là đốỉ thủ quỷ quyệt nhưng khi ngắm người đàn bà này, Sexton không thể không nghĩ rằng ngài Tổng thống đã phạm sai lầm. Marjorie Tench trông thật gớm guốc. Lúc này, bà ta đang ngả lưng trên ghế, miệng phì phèo điếu thuốc, cánh tay phải đang uề oải cầm điếu thuốc đặt lên môi rồi lại lấy ra, trông chẳng khác gì quái vật khổng lồ đang nhấm nháp con bọ ngựa.
Lạy Chúa tôi, Sexton thầm nghĩ, mặt mũi gớm ghiếc thế kia thì chỉ nên đăng đàn diễn thuyết trên đài phát thanh thôi.
Đã vài lần Sedgewick Sexton nhìn thấy khuôn mặt nhăn nhúm, vàng ệch của bà cố vấn cấp cao này trên tạp chí, và ông không tài nào tin được rằng đó là diện mạo của người quyền thế nhất Washington.
“Tôi không thích thế này chút nào”. Gabrielle thì thào.
Sexton chẳng nghe thấy gì. Càng nghĩ, ông càng thấy khoái tình huống này. Thật tình cờ, khuôn mặt không ăn hình của Tench còn đi liền với những lời đồn về một vấn đề vô cùng quan trọng: Marjorie Tench luôn lớn tiếng rằng vai trò lãnh đạo của người Mỹ trong tương lai cần được khẳng định bằng sự vượt trội về khoa học kỹ thuật. Bà ta đã ra sức ủng hộ những chương trình số hóa Chính phủ, đặc biệt là NASA. Nhiều người cho rằng chính vì áp lực phía sau hậu trường của Tench mà Tổng thống mới hậu thuẫn cho cơ quan vũ trụ bí bét ấy.
Sexton băn khoăn không hiểu có phải vì những lời khuyên tồi tệ của bà ta về NASA mà Tổng thống đẩy bà ta ra trước công luận hay không. Phải chăng Tổng thống muốn quẳng cố vấn cao cấp của mình vào giữa bầy sói?
Gabrielle Ashe trân trối nhìn Marjorie Tench ngồi sau bức tường kính, càng nhìn càng thấy bất an. Người đàn bà này vô cùng thông minh và lại còn nhiều tiểu sảo. Chỉ hai điều ấy thôi cũng đủ khiến cho cô thấy mơ hồ e sợ. Xét đến quan điểm của bà ta về NASA, ngài Tổng thống thật không sáng suốt khi cử Tench đến cuộc khẩu chiến này với Thượng nghị sĩ Sexton. Nhưng Tổng thống không phải tay khờ. Bản năng mách bảo Gabrielle rằng có điều gì đó phải đề phòng.
Gabrielle nhận thấy rằng Thượng nghị sĩ hơi quá tự tin, vì thế cô càng lo lắng. Sexton có thói quen trở nên nhiệt tình thái quá mỗi khi cảm thấy tự tin. Vấn đề NASA gần đây đã giúp ông tăng điểm tín nhiệm, nhưng dạo này Sexton đang công kích cơ quan này quá gay gắt. Rất nhiều ứng cử viên đã thất bại vì quá nôn nóng muốn hạ gục đối thủ ngay tức thì.
Tay nhân viên đài CNN có vẻ nôn nóng muốn được xem trận quyết đấu: “Ta bắt đầu chứ, Thượng nghị sĩ?”
Sexton bắt đầu bước vào trường quay thì Gabrielle túm tay áo ông: “Tôi biết ngài đang nghĩ gì”. Cô thì thào. “Ngài hãy thận trọng, đừng để hở sườn nhé”.
“Hở sườn à? Tôi ấy à?” Sexton cười nhăn nhở.
“Thượng nghị sĩ hãy nhớ rằng bà ta làm gì cũng giỏi lắm”.
Sexton cười mỉm khích lệ: “Tôi cũng thế chứ sao”.
-
Chương 21
Ngôi nhà kỳ dị nhiều ngóc ngách này của NASA sẽ là cảnh tượng kỳ lạ nếu nó được dựng lên ở bất kỳ nơi nào trên mặt đất, và sự hiện diện của nó trên băng hà Bắc cực càng khiến cho Rachel Sexton thấy khó hiểu.
Nhìn mái vòm rất hiện đại gồm những mảnh hình tam giác dán lại với nhau, Rachel tưởng như đang đi vào viện điều dưỡng khổng lồ. Các bức tường của tòa nhà được dựng lên ngay trên nền băng cứng; xung quanh gian phòng là hàng loạt cây đèn halogien hắt lên trần nhà thứ ánh sáng mờ ảo.
Những dải trải sàn bằng bọt biển chạy ngang dọc khắp trụ sở nghiên cứu di động của NASA. Giữa những thiết bị điện tử ngồn ngang là khoảng ba, bốn chục nhân viên da trắng của NASA đang hăng say làm việc, sôi nổi bàn bạc, hào hứng trao đổi chuyên môn. Rachel lập tức cảm nhận thấy luồng điện của sự phấn khích tràn ngập căn phòng.
Chỉ có thể có trạng thái phấn khích khi người ta có một phát kiến mới.
Theo ông Giám đốc đi vòng quanh ngôi nhà, Rachel nhận ra những ánh mắt ngạc nhiên và khó chịu của những người nhận ra cô. Trong ngôi nhà này, tiếng thì thào của họ vang lên rõ mồn một.
Có phải con gái của Thượng nghị sĩ Sexton đó sao?
Cô ta làm cái quái gì ở đây nhỉ?
Không thể tưởng tượng được!
Giám đốc lại thèm nói chuyện với cô ta cơ đấy.
Nếu thậm chí có nhìn thấy những hình nộm của cha cô treo lủng lẳng để yểm bùa ở đây thì Rachel cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên. Tuy thế, sự thù địch không phải là điều duy nhất cô cảm nhận được ở nơi này; Rachel cảm nhận rõ ràng tâm lý tự mãn - như thế NASA biết chắc chiến thắng chung cuộc sẽ thuộc về họ.
Ông Giám đốc dẫn Rachel đến dãy bàn dài, ở đó có người đã một mình điều khiển cả dàn máy tính. Ông ta mặc chiếc áo cao cố bằng nhung kẻ, đi giày cao cổ, khác hẳn bộ đồng phục mà tất cả mọi người ở đây đang mặc. Ông ta đang quay lưng lại phía họ.
Giám đốc NASA bảo cô chờ và tiến đến nói chuyện với người đàn ông. Vài giây sau, người mặc áo cao cổ gật đầu đồng ý và tắt máy tính. Ông Giám đốc quay trở lại.
“Từ bây giờ ông Tolland sẽ dẫn cô đi”. Ông ta nói. “Ông ấy cũng là người mà Tổng thống mới tuyển mộ, chắc hai người sẽ hợp nhau. Tôi sẽ quay lại sau”.
“Cảm ơn ngài”.
“Tôi đoán là cô đã nghe nói đến Micheal Tolland rồi”.
Rachel nhún vai, tâm trí vẫn còn đang bận bịu với quang cảnh xung quanh. “Cái tên gọi này không tạo ra ấn tượng gì hết”.
Người đàn ông mặc áo cao cổ tiến lại, vừa đi vừa cười nhăn nhở. “Không tạo ra ấn tượng gì à?” Giọng ông ta vang và thân thiện. “Hôm nay tôi lại phải nghe tin xấu rồi đây. Có vẻ như tôi không còn khả năng gây ấn tượng mạnh nữa rồi”.
Ngước mắt lên nhìn người vừa tới cạnh mình, Rachel như chết sững. Cô nhận ra ngay khuôn mặt điển trai của ông ta. Cả nước Mỹ đều nhận ra.
“Ồ”, cô nói trong khi bắt tay ông ta “hóa ra ông là ông Micheal Tolland đó”.
Nghe Tổng thống nói đã mời những nhà khoa học tiếng tăm bậc nhất xác minh lại phát minh của NASA. Rachel đã hình dung ra những ông già nhăn nheo cặm cụi bên máy tính. Micheal Tolland thì hoàn toàn ngược lại. Với tư cách là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất Hoa Kỳ, ông chủ biên tạp chí khoa học nổi tiếng phát hành hàng tuần có tên là Đại dương ký thú trong đó đề cập đến những hiện tượng rất đáng chú ý trong lòng đại dương - núi lửa ngầm dưới mặt nước, những con sâu biển dài mười foot, những đợt sóng thần chí tử. Giới truyền thông ca tụng Tolland là người cùng đẳng cấp với Lacques Cousteau và Carl Sagan, bởi ông có tầm hiểu biết vô song, nhiệt huyết cháy bỏng, và lòng ham mê các chuyến thám hiểm. Tất cả những cái đó hợp lại đã đưa Đại dương ký thú lên vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng. Dĩ nhiên, các nhà bình luận còn đồng ý với nhau rằng cặp mắt trìu mến và cung cách khiêm tốn của ông đã làm say lòng không ít phụ nữ.
“Xin chào ông Tolland...” Rachel hơi líu lưỡi. “Tôi là Rachel Sexton”.
Tolland mỉm một nụ cười tinh nghịch và dễ chịu: “Chào Rachel, hãy gọi tôi là Mike”.
Rachel thấy mình bối rối một cách rất khác thường. Vô số các thiết bị cảm biến chất đầy bên trong bán sinh quyển, tảng thiên thạch, những bí mật, và rồi còn bất ngờ giáp mặt một ngôi sao truyền hình. “Tôi rất ngạc nhiên được gặp ông ở đây”. Rachel cố gắng lấy lại tự tin. “Khi nghe Tổng thống nói đã mời những chuyên gia hàng đầu đến xác minh phát kiến của NASA, tôi tưởng...” Rachel ngập ngừng.
“Là những nhà khoa học thứ thiệt chứ gì?” Ông ta cười toe toét.
Rachel ngượng đỏ mặt: “Tôi không có ý đó”.
“Đừng bận tâm làm gì”. Tolland nói. “Mấy ngày ở đây tôi đã nghe nói thế nhiều lắm rồi”.
Ông Giám đốc có việc phải đi, hẹn sẽ gặp lại họ sau. Lúc này Tolland tò mò quay sang hỏi Rachel: “Ngài Giám đốc nói cha cô chính là Thượng nghị sĩ Sexton”.
Rachel gật đầu. Đáng tiếc là đúng thế.
“Một gián điệp của ngài Sexton ở bên kia chiến tuyến đấy?”
“Chiến tuyến đôi khi lại là những nơi ta không thể ngờ tới đâu”.
Im lặng gượng gạo.
Rachel nhanh nhảu nói: “Xin ông hãy cho tôi biết vì lẽ gì mà một nhà hải dương học lừng danh như ông lại đến làm việc bên những nhà khoa học tên lửa của NASA thế này?”
Tolland cười khùng khục. “Thật ra thì có một gã trông rất giống ngài Tổng thống đã xin tôi một đặc ân. Tôi đã hé môi định bảo hắn ta: “Quên đi!” - Rồi chả biết thế nào lại nói thành “Vâng, thưa ngài”.”
Rachel cười lớn, lần đầu tiên từ sáng sớm đến giờ. “Chào mừng cô đã đến nhập bọn với chúng tôi”.
Dù tất cả những người nổi tiếng dường như đều có vóc người bé nhỏ, Rachel thấy ông Tolland khá cao. Cặp mắt của ông ta nhiệt thành và thận trọng đúng như cô vẫn thấy trên tivi, chất giọng của ông ta thật ấm áp và sôi nổi. Ở tuổi 45, ông có vẻ dạn dày và cường tráng, với mái tóc đen, dày và cứng, những chỏm tóc bị gió thổi tung xòa xuống trán. Cái cằm mạnh mẽ và dáng vẻ vô lo của ông toát lên sự tự tin tràn trề. Khi Tolland bắt tay Rachel, đôi bàn tay chai sần của ông nhắc cô nhớ rằng đây không phải típ người ẻo lả vẫn thường trở nên nổi tiếng trên tivi, mà là nhà khoa học thực nghiệm và là một ngư ông hoàn thiện.
“Thật ra mà nói thì”, Tolland thú thật, vẻ rất chân chất “tôi cho rằng mình được mời tới đây chủ yếu vì những mối quan hệ với công chúng trên tivi chứ không phải vì tôi là nhà khoa học thực thụ. Tổng thống nhờ tôi đến đây để làm phim tài liệu”.
“Phim tài liệu ư? Về một tảng thiên thạch à? Ông là nhà hải dương học kia mà”.
“Tôi cũng đã nói với Tổng thống y như thế đấy! Nhưng ông ấy nói không biết một nhà làm phim nào chuyên các thiên thạch. Ông ấy nói sự tham gia của tôi sẽ mang lại uy tín khoa học cho phát kiến này. Chắc ông ấy có ý định cho chiếu bô phim của tôi ngay trong buổi họp báo quy mô tối nay khi công bố phát kiến này”.
Một phát ngôn viên nổi tiếng. Rachel cảm nhận được ngay tài thao lược về chính trị của Zach Herney. NASA vốn bị quy kết là nói những điều quá khó hiểu đối với công chúng. Lần này thì khác. Họ đã mời được một nhà truyền thông chuyên về khoa học, một gương mặt mà mọi người Mỹ đều quen thuộc và tin tưởng trong lĩnh vực khoa học.
Tolland đưa tay chỉ góc xa của ngôi nhà, nơi người ta đang bố trí thành một trung tâm báo chí. Một tấm thảm xanh đã được trải trên nền băng đá, các camera truyền hình, đèn trường quay, chiếc bàn dài và mấy cái micro. Có người đang treo bức phông nền in hình lá cờ Mỹ.
“Chuẩn bị cho tối nay đấy”. Ông ta nói. “Giám đốc NASA và một số nhà khoa học chủ chốt sẽ nối cầu truyền hình với Nhà Trắng thông qua vệ tinh để tham gia vào chương trình truyền hình của Tổng thống lúc tám giờ”.
Hợp lý, Rachel thầm nghĩ, hài lòng khi thấy Tổng thống không định tách hẳn NASA khỏi buổi công bố.
Cô thở dài nói: “Không biết ai sẽ nói cho tôi biết tảng thiên thạch đó có gì đặc biệt nào?”
Tolland nhướn đôi lông mày và cười với Rachel đầy vẻ bí hiểm.
“Thật ra điều đặc biệt về tảng thiên thạch này nên được xem, không nên giải thích gì hết”. Ông ta ra hiệu bảo Rachel đi sang khu phòng bên cạnh. “Anh chàng đang làm ở đây có vô số mẫu để cô có thể xem được đấy”.
“Mẫu à? Các vị có mẫu của tảng thiên thạch đó à?”
“Dĩ nhiên. Chúng tôi đã khoan thăm dò. Chính những mẫu đá đầu tiên đã khiến cho NASA hiểu được tầm quan trọng của phát kiến này”.
Không biết sẽ được thấy điều gì. Rachel theo Tolland sang phòng làm việc kề bên. Có vẻ không có người. Có một li cà phê trên tấm bàn la liệt mẫu đá, com-pa và các dụng cụ khác. Li cà phê bốc hơi nghi ngút.
“Marlinson!” Tolland gọi to và tìm xung quanh. Không ai trả lời ông ta thở dài cáu kỉnh và quay lại Rachel “Chắc ông ta đang bận đi tìm kem để cho vào cà phê. Nói thật với cô, ngày xưa tôi đã cùng học khóa sau đại học với gã này; gã có thói quen biến mất trong phòng ngủ của mình. Này, có huân chương quốc gia về vật lí học thiên thể đây, ra mà nhận nào”.
Rachel hỏi: “Marlinson? Ông không nhắc đến ông Corky Marlinson nổi tiếng đấy chứ?”
Tolland cười vang. “Chính ông ta chứ còn ai?”
Rachel sững sờ: “Corky Marlinson cũng đến đây sao?”
Những quan điểm của Marlinson về trường hấp dẫn vốn được các kỹ sư của NRO hết lời ca tụng. “Marlinson là một trong những nhà khoa học mà Tổng thống đã mời tới đây sao?”
“Phải, một trong những nhà khoa học thứ thiệt!”
Đúng là thứ thiệt, Rachel thầm nghĩ. Corky Marlinson quả là kiệt xuất và được kính trọng.
“Corky có một đặc điểm hết sức ngược đời. Anh ta có thể tức thời đọc ra chính xác đến từng milimet khoảng cách đến hành tinh Alpha Centauri, nhưng lại không tự thắt được cà vạt”.
“Tôi đeo nơ cổ đấy chứ!” Giọng nói nghèn nghẹt của Corky - một người tốt tính - vang lên ngay gần họ. “Tiện lợi hơn cà vạt nhiều, Mike. Những ngôi sao Hollywood nhà anh làm sao mà hiểu nổi điều đó!”
Rachel và Tolland quay sang người đàn ông vừa xuất hiện từ sau một đống to những dụng cụ. Người này thấp lùn, béo tròn quay, trông giống loài chó pug mặt ngắn tũn với đôi mắt long sòng sọc và mái tóc mỏng húi sát đầu. Thấy Tolland đang đứng cùng với Rachell ông ta hơi sững lại.
“Lạy Chúa tôi. Mike! Ở tận cực Bắc khỉ ho cò gáy này mà anh vẫn kiếm được những cô gái chân dài. Biết thế này tôi cũng sang làm bên truyền hình cho xong”.
Micheal Tolland ngượng: “Cô Sexton, đừng chấp tiến sĩ Marlinson. Ông ấy không giỏi xã giao, nhưng bù lại, lại có khối kiến thức đồ sộ vô bờ về vũ trụ đấy”.
Corky tiến lại gần. “Rất hân hạnh, tôi chưa được biết tên cô”.
“Rachel”, cô đáp “Rachel Sexton”.
“Sexton à?” Corky ranh mãnh thở gấp “Hy vọng cô không có quan hệ gì với cái ông Sexton cận thị trụy lạc đó!”
Tolland nháy mắt: “Thật ra thì Thượng nghị sĩ Sexton là cha của Rachel đấy, Corky ạ”.
Corky thôi cười, ngồi thụp xuống ghế. “Cậu biết không, Mike, chả trách tôi chẳng bao giờ gặp may với cánh phụ nữ cả".
Chương 22
Nhà thiên thạch học Corky Marlinson được giải Nobel kéo Tolland và Rachel vào phòng làm việc của ông ta và bắt đầu lúi húi bên những mẫu đá và dụng cụ. Ông ta tíu tít đi lại y như cái lò xo bị nén chặt lại sắp sửa bung ra đến nơi.
“Xong rồi”. Ông ta run run người phấn khích. “Thưa cô Sexton, cô sắp được chứng kiến màn siêu biểu diễn thiên thạch kéo dài ba mươi giây đấy”.
Tolland nháy mắt ra hiệu bảo Rachel kiên nhẫn đợi. “Đợi ông ta một chút, anh chàng này thực sự muốn được làm diễn viên đấy”.
“Đúng thế, cũng như Mike thèm khát được trở thành nhà khoa học được kính nể ấy mà”.
Corky cúi xuống chiếc hộp đựng giầy của ông và lôi ra ba mẫu đá. Cả thảy đều là những vật hình cầu xấu xí to bằng quả bóng gôn, và đều được cưa ngang, lộ ra mặt trong của chúng.
“Mọi thiên thạch”, Corky nói. “đều chứa một hàm lượng hợp kim niken - sắt, silicat, và sulfide. Người ta phân loại chúng đựa trên những tỉ lệ sắt trên silicat”.
Rachel bắt đầu cảm thấy màn biểu diễn thiên thạch của Corky không thể chỉ có ba mươi giây.
“Mẫu đá đầu tiên này”, ông ta nói, tay chỉ một hòn đá đen bóng, “là loại thiên thạch gốc sắt, rất nặng. Anh chàng nhỏ con này đã rơi xuống Atlanta cách đây mấy năm”.
Rachel xem xét hòn thiên thạch. Hiển nhiên là trông nó có vẻ khác thường - đó là viên đá hình tròn, vỏ ngoài bị nung thành màu đen.
“Lớp ngoài bị cháy đó có tên là vỏ bị nung chảy”. Corky nói. “Đó là kết quả cửa nhiệt độ siêu cao khi tảng thiên thạch rơi vào tầng khí quyển của chúng ta. Thiên thạch nào cũng có vỏ ngoài bị nung cháy như thế cả”. Ông ta nhanh nhẹn chuyển sang mẫu đá thứ hai. “Mẫu này người ta gọi là thiên thạch đá-sắt”.
Rachel xem xét mẫu đá, thấy hòn này cũng có lớp vò bị nung cháy. Tuy nhiên, mẫu đá này có ánh xanh nhạt và lát cắt ngang trông như tác phẩm cắt dán ảnh với những mảnh góc cạnh nhỏ sặc sỡ tương tự kính vạn hoa.
“Hay thật”. Cô nhận xét.
“Cô nói đùa đấy à? Tuyệt diệu chứ!” Corky nói một hơi về hàm lượng chất olivin cao trong đó đã tạo ra sắc xanh đẹp lộng lẫy của hòn đá, rồi ông ta với tay lấy mẫu đá thứ ba, mẫu cuối cùng, đưa cho Rachel.
Rachel cầm mẫu đá trong tay. Hòn này có màu nâu xám, hơi giống đá granit. Có vẻ hơi nặng hơn đá trên mặt đất một chút, chỉ một chút xíu. Dấu hiệu duy nhất cho thấy nó không phải là hòn đá thông thường, ngoài lớp vỏ bị nung cháy là bề mặt có những cấu trúc hình kim.
“Mẫu này!” Corky quả quyết nói “được đặt tên là thiên thạch. Đây là loại thiên thạch phố biến nhất. Khoảng hơn 90% thiên thạch trên trái đất thuộc loại này”.
Rachel ngạc nhiên. Cô vẫn tưởng thiên thạch phải giống với mẫu đá thứ nhất hơn - những vật tròn có kết cấu kim loại kỳ dị. Mẫu đá trên tay cô trông chẳng có gì khác thường. Không kể lớp vỏ bị cháy, trông nó cũng như hòn đá ai cũng có thể bắt gặp trên bãi biển.
Lúc này, mắt của Corky mở to đầy phấn khích. “Tảng thiên thạch bị chôn vùi trong băng hà ở Milne thuộc loại thiên thạch đá - khá giống mẫu cô đang cầm trên tay. Thiên thạch đá gần như giống hệt các loại đá do lửa tạo thành trên trái đất, nên rất khó phát hiện. Thường chúng có kết cấu gồm chất feldspar, olivine và pyroxyne. Không có gì đặc biệt”.
Mình sẽ nói, Rachel thầm nghĩ, trả lại ông ta mẫu đá. “Hòn này trông như bị cho vào lò nung”.
Corky phá lên cười. “Lò quái nào cơ chứ? Lò hiện đại và tối tân nhất cho đến thời điểm này cũng không thể đạt được đến nhiệt độ mà một tảng thiên thạch đạt tới khi rơi vào tầng khí quyển của trái đất. Nóng hơn nhiều!”
Tolland mỉn cười nhìn Rachel đầy hứng khởi: “Phần này mới hay đây”.
“Tưởng tượng thế này nhé”. Corky nói, cầm lấy mẫu thiên thạch trên tay Rachel. “Chúng ta hãy tưởng tượng chú bé này có kích cỡ bằng ngôi nhà”. Ông ta giơ mẫu đá lên cao quá đầu. “Thế này nhé... nó đang ở trong không trung... trôi dạt ngang qua hệ Mặt trời của chúng ta... nó có nhiệt độ ngang bằng với nhiệt độ ở ngoài vũ trụ âm 100 độ C”.
Tolland đang cười thầm, rõ ràng đã hiểu rằng Corky đang định nhập vai tảng thiên thạch đã rơi xuống đảo Ellesmere.
Corky bắt đầu hạ thấp mẫu đá xuống. “Tảng thiên thạch của chúng ta đang chuyển động về phía trái đất... và nó đang đến mỗi lúc một gần hơn, lực hút của trái đất bắt đầu tác động lên nó... Nó tăng tốc... tiếp tục tăng tốc...”
Rachel quan sát Corky di chuyển mẫu đá theo đường vòng cung, mô phỏng sự tăng dần của lực hấp dẫn.
“Lúc này nó đang bay rất nhanh”. Corky giảng giải, “Hơn mười dặm một giây, - ba mươi sáu ngàn dặm một giờ! Ở độ cao 135 km so với bề mặt trái đất, nó bắt đầu cọ sát với bầu khí quyển”. Corky lắc mạnh mẫu đá khi hạ nó thấp xuống đến nền băng. “Xuống đến độ cao dưới 100km, nó bắt đầu toả sáng! Lúc này độ đậm đặc của bầu khí quyển đang tăng lên, và mức độ cọ sát cũng tăng lên rất cao! Vùng không khí bao quanh mảng thiên thạch sáng rực lên vì bề mặt của tảng thiên thạch trở nên nóng vô cùng”. Corky bắt đầu bắt chước tiếng lửa cháy sèo sèo. “Nó bay qua độ cao 80 km, và bề mặt của nó nóng đến 800 độ C?”
Rachel ngỡ ngàng quan sát nhà thiên thạch học danh tiếng lắc mẫu đá mạnh hơn nữa, miệng phun phì phì như đứa trẻ.
“60 km!” Lúc này Corky hét lên. “Anh chàng thiên thạch này đâm đầu vào bầu khí quyển. Không khí quá đậm đặc! Anh ta lập tức giảm tốc độ rất nhanh, nhanh gấp 300 lần lực hấp dẫn!” Corky bắt chước tiếng phanh rít ken két, tay hạ hòn đá xuống thấp và chậm hơn hẳn. “Ngay lập tức, tảng thiên thch nguội đi và không phát sáng nữa. Nó lặng lẽ bay! Bề mặt của tảng thiên thạch lúc trước nớng chảy ra bây giờ đông cứng lại thành một lớp bề mặt cháy đen thô ráp”.
Rachel nghe tiếng Tolland rên lên khi Corky quỳ hẳn xuống đất để mô phỏng cú tiếp đất của tảng thiên thạch.
“Lúc này” Corky nói “tảng thiên thạch của chúng ta đang trượt trong tầng khí quyển thấp...” Tay ông ta đưa hòn đá theo một đường xiên. “Nó đang bay về phía Đại Tây Dương... Rơi... rơi.., cảm tưởng như nó sắp bay qua đại dương này.. rơi...và...” ông ta cho tảng đá chạm mặt băng. “Bùm!”
Rachel giật mình.
“Kết quả là đã xảy ra một trận lụt lớn. Tảng thiên thạch nổ tung. Các mảnh vỡ của nó bắn tung tóe, bay ra khắp đại dương”. Lúc này, điệu bộ của ông ta chậm hẳn lại, vừa rung, lắc vừa chầm chậm di chuyển hòn đá nhỏ trong đại dương tưởng tượng, về phía chân Rachel. “Một mảnh vỡ cứ trôi, trôi mãi về phía đảo Ellesmere...” Ông ta di chuyển hòn đá lên ngón chân của Rachel. “Nó văng khỏi mặt nước, lên trên bờ...” Corky di chuyển hòn đá qua mũi giầy, gần đến mắt cá chân của Rachel “Và cuối cùng nó nằm im tại sông băng Milne, băng và tuyết nhanh chóng phủ kín hòn đá, bảo vệ nó trước tác động ăn mòn của thời tiết..” Ông ta đứng dậy và mỉm cười.
Rachel há hốc miệng. Cô cười đằy thán phục: “Thưa tiến sĩ Marlinson. Ông giải thích thật là...”
“Dễ hiểu đúng không?” Ông ta đưa đẩy.
Rachel mỉm cười. “Có thể nói như vậy”.
Corky đưa cho cô hòn đá: “Hãy quan sát mặt cắt của nó đi”.
Rachel quan sát một lúc, nhưng chẳng nhìn thấy gì.
“Hãy nghiêng nó về phía ánh sáng”. Tolland gợi ý, giọng ấm áp và đôn hậu. “Nhìn gần vào”.
Rachel đưa hòn đá lên sát tận mắt và nghiêng nó về phía ngọn đèn halogien đang toả sáng trên trần nhà. Và cô thấy những giọt kim loại nhỏ xíu đang ánh lên dưới ánh đèn. Trên mặt cắt có khoảng vài chục giọt trông như thủy ngân, mỗi giọt có kích cỡ khoảng một milimét.
“Những giọt nhỏ xíu đó có tên là chrondrule”, Corky nói “và những giọt như vậy chỉ có ở những tảng thiên thạch mà thôi”.
Rachel nheo mắt quan sát: “Công nhận, tôi chưa thấy hòn đá nào trên trái đất có cấu trúc thế này cả”.
“Sẽ không bao giờ thấy!” Ông ta tuyên bố. “Chrondrule là một loại cấu trúc địa lí không hề có mặt trên trái đất. Một số chrondrule có tuổi đời cự kỳ dài - có lẽ đây là kết cấu địa lý được hình thành đầu tiên trong vũ trụ. Những chrondrule khác thì ít tuổi hơn nhiều, ví dụ như hòn đá trong tay cô. Những chrondrule của hòn đá này chỉ có 190 triệu năm thôi”.
“190 triệu năm vẫn coi là trẻ ư?”
“Hoàn toàn đúng. Theo quan niệm của địa lý học, thời điểm đó chỉ như ngày hôm qua mà thôi. Vấn đề quan trọng, là hòn đá này có các chrondrule, bằng chứng thuyết phục chứng tỏ rằng đây là một tảng thiên thạch”.
“Được rồi!” Rachel nói. “Chrondrule là bằng chứng thuyết phục. Tôi hiểu rồi”.
“Cuối cùng, nếu bề mặt cháy xém và các chrondrule vẫn chưa thuyết phục được cô thì các thiên thạch gia chúng tôi còn có các phương pháp khác rất kinh điển để chứng minh nguồn gốc của một tảng thiên thạch”.
“Đó là...?”
Corky lơ đễnh nhún vai. “Chúng tôi chỉ dùng những thứ đơn giản như kính hiển vi phân cực thạch học, quang phổ kế tia X, máy phân tích hoạt hóa nơ-trôn, hoặc một quang phổ kế giảm plasma kép để đo tỉ lệ sắt từ”.
Tolland rên lên. “Ông ta bắt đầu khoe mẽ rồi đấy. Ý ông ta là người ta chỉ cần phân tích thành phần hóa học của nó là xong”.
“Này anh chàng đại dương học kia”, Corky la rầy ông ta, “chuyện khoa học thì để yên cho các nhà khoa học nói chứ”. Rồi ông ta quay ngay về phía Rachel. “Ở một tảng đá thuộc trái đất, tỉ lệ khoáng chất nikel luôn rất cao hoặc rất thấp, không bao giờ ở mức trung bình cả. Ở các thiên thạch thì hàm lượng nikel luôn rơi vào mức trung bình. Dó đó, nếu kết quả phân tích cho thấy hàm lượng nikel ở mức độ trung bình thì có thể đảm bảo hoàn toàn chắc chắn rằng tảng đá ấy có nguồn gốc vũ trụ”.
Rachel phát cáu: “Thôi được rồi, thưa các nhà khoa học đáng kính, vỏ ngoài cháy xém, các chrondrule, hàm lượng nikel trung bình, tất cả đều chứng minh một tảng đá nào đó là thiên thạch. Tôi hiểu cả rồi”. Cô đặt hòn đá trước mặt Corky. “Nhưng vì sao tôi lại phải đến đây nào?”
Ông ta thở dài một cách trang trọng. “Cô muốn xem mẫu của tảng đá mà NASA tìm thấy dưới dòng sông băng này hả?”
Xem ngay không thì tôi mỏi mòn vì đợi rồi.
Lần này Corky thò tay vào túi áo ngực và lôi ra một mảnh đá nhỏ hình tròn dẹt. Mảnh đá này có hình thù giống cái đĩa CD, dày khoảng một inch, có vẻ giống như mẩu thiên thạch mà cô vừa xem.
“Đây là mẫu đá chúng tôi vừa khoan lên hôm qua”. Ông ta đưa cho Rachel.
Vẻ bề ngoài của mẫu đá, đó chẳng có gì đáng gây chấn động cả thế giới cả. Đây là một loại đá khá nặng màu trắng ánh da cam, một phần viền ngoài bị cháy xém, rõ ràng là mẫu đá này được lấy ngay bên ngoài rìa của tảng đá. “Tôi trông thấy bề mặt bị cháy xém”. Cô nói.
Corky gật đầu: “Đúng là mảnh đá này được lấy ở ngoài rìa tảng đá, nên vẫn còn nguyên lớp vỏ bị cháy xém”.
Rachel nghiêng mẫu đá ra trước ánh đèn và nhìn thấy nhưng giọt kim loại tí xíu. “Tôi cũng nhìn thấy các chrondrule”.
“Tốt rồi”. Giọng Corky đấy phấn khích. “Xin nói thêm là khi đem phân tích thành phần hóa học thì được kết quả hàm lượng nikel đạt mức trung bình - đây không thể là đá của trái đất. Xin chúc mừng, cô đã khẳng định chắc chắn rằng mẫu đá này là của một tảng thiên thạch”.
Rachel bối rối ngước nhìn lên. “Thưa tiến sĩ Marlinson, đây là một tảng thiên thạch. Chắc chắn là từ trên trời rơi xuống. Tôi có quên mất chi tiết nào không vậy?”
Corky và Tolland đưa mắt nhìn nhau đầy vẻ đồng lõa. Tolland đặt tay lên vai Rachel: “Cô hãy lật mặt kia lên đi”.
Rachel lật mảnh đá lên, và chỉ sau một giây, cô nhận ra thứ mình đang nhìn thấy.
Sự thật tác động đến tâm trí cô cực mạnh.
Không thể nào! Rachel thở dốc khi nhìn mẫu đá và đồng thời nhận ra rằng “không thể nào”, là một tính từ không hề thích hợp chút nào. Trên mẫu đá có một hình thù hoàn toàn bình thường đối với một mẫu đá của trái đất, nhưng ở một thiên thạch thì khó mà tin nổi.
“Đây là...” Rachel lắp bắp, gần như không thốt nên lời. “Đây là một con bọ! Tàng thiên thạch này có một con bọ hóa thạch ở trong!”
Cả Tolland và Corky đều cười rạng rỡ. “Thế là cô đã hiểu rồi nhé”, Corky nói.
Xúc động sâu sắc, Rachel gần như nói không ra hơi; dù thế, trong cơn bàng hoàng, cô vẫn nhận ra rằng mẫu hóa thạch này, không còn nghi ngờ gì nữa, đã từng là một sinh vật sống. Mẫu hóa thạch này có chiều dài khoảng ba inch, và nhìn từ dưới bụng trông giống như con bọ cánh cứng hay con bọ gì đó rất lớn. Bảy cặp chân sau của nó co vào trong lớp vỏ bảo vệ gì đó, trên mẫu đá hình đĩa dẹt này, trông nó giống con ta-tu.
Rachel choáng váng. “Trong vũ trụ có giống bọ này...”
“Đây là loài động vật đẳng túc”. Corky nói. “Côn trùng thường chỉ có ba cặp chân chứ không phải là bảy”.
Rachel gần như không nghe thấy. Đầu óc cô còn đang chao đảo khi quan sát mẫu đá.
“Có thể thấy là...” Corky nói “lớp vỏ cứng trên sống lưng trông rất giống của loại côn trùng trên trái đất. Tuy nhiên, phần phụ hai nhánh của nó lại khác với cấu trúc của loài rận”.
Rachel không đồng tình với ông ta. Không thể tìm cách ghép nó với bất kỳ giống côn trùng thời hiện đại nào. Các mảnh của bức tranh ghép hình giờ đã nằm đúng chỗ của chúng - bí mật của Tổng thống, sự phấn khích của NASA...
Có một sinh vật hóa thạch trong tảng thiên thạch này. Không phải chỉ là hạt bụi chứa loài vi sinh vật nào đó, mà là một dạng sự sống tiến hóa cao! Bằng chứng của sự sống tồn tại trên vũ trụ.
-
Chương 23
Tranh luận được 10 phút trên CNN, Thượng nghị sĩ Sexton không hiểu nổi vì sao lúc đầu ông lại lo lắng đến thế. Marjorie Tench không phải là đối thủ đáng gờm như ông tưởng. Dù có tiếng là người sắc sảo, bà ta giống vật tế thần hơn là đối thủ nặng ký.
Đúng là ngay đầu buổi tranh luận, bà ta đã công kích theo logic rằng cương lĩnh tranh cử của ông là định kiến với phụ nữ, nhưng rồi khi xiết chặt vòng vây, bà ta lại phạm phải một số sai lầm khá hớ hênh. Khi hỏi ông sẽ lấy tiền đâu đề tăng chi cho giáo dục nếu không tăng thuế, Tench đã bóng gió đề cập đến cái bung xung NASA.
Dù Sexton định dành đề tài NASA đến cuối cuộc thảo luận, Marjorie Tench đã đề cập sớm đến đề tài này. Đồ thộn!
“Nói đến chuyện NASA” Sexton làm ra vẻ lơ đễnh “chị có bình luận gì về tin đồn là NASA lại mới có thêm một thất bại nữa không?”
Bà ta không nao núng. “Tôi e rằng chưa bao giờ nghe nói tới tin đồn đó”. Giọng nói khê nồng của bà ta nghe chẳng êm tai chút nào.
“Tức là chị không có bình luận gì?”
“Tôi e là không”.
Sexton thấy hả hê. Trên bình diện truyền thông. “không bình luận gì” tức là “lời buộc tội là đúng”.
“Tôi hiểu”. Ông nói. “Thế còn về tin đồn là Tổng thống đã bí mật gặp Giám đốc NASA thì sao?”
Lần này trông Tench có vẻ ngạc nhiên. “Tôi không hiểu anh nói về cuộc gặp nào. Tổng thống có rất nhiều cuộc gặp”.
“Dĩ nhiên là thế”. Sexton quyết định sẽ tấn công bà ta trực diện. “Chị Tench này, có phải là chị cũng nhiệt thành ủng hộ cho cơ quan vũ trụ của chúng ta không?”
Tench thở dài, có vẻ mệt mỏi vì liên tiếp bị ông o ép. “Tôi tin là chúng ta cần phải duy trì thế thượng phong của Hoa Kỳ về khoa học kỹ thuật - bất kể đó là về mặt quân sự, công nghiệp, tình báo, hay viễn thông. Dĩ nhiên phải kể cả NASA. Tôi ủng hộ”.
Sexton thấy Gabrielle nháy mắt bảo ông hãy lùi một bước, nhưng ông đã ngửi thấy mùi máu rất gần. “Không biết có phải do ảnh hưởng của chị mà Tổng thống nhiệt tình ủng hộ NASA đến như thế không?”
Bà ta lắc đầu. “Không hề. Tổng thống cũng hoàn toàn tin tưởng vào vai trò quan trọng của NASA ông ấy tự đưa ra quyết định của chính mình”.
Sexton không dám tin vào tai mình. Ông vừa cho Tench một cơ hội đó gỡ tội cho Tổng thống bằng cách nhận bớt tội nuông chiều NASA về mình. Nhưng không, bà ta đã đổ hết tội cho Tổng thống. Tổng thống tự đưa ra quyết định của chính mình. Có vẻ như Tench đang cố tình nhấn vào sự khác biệt giữa mình với Tổng thống. Chẳng có gì quá ngạc nhiên. Rốt cuộc thì, sau khi đâu đã vào đấy. Marjorie Tench cũng cần phải tìm công việc mới cho mình.
Tench và Sexton còn tiếp tục tranh luận thêm hồi lâu nữa. Bà ta đã thử thay đổi đề tài, nhưng ông khăng khăng nói về mỗi đề tài ngân sách của NASA mà thôi.
“Thưa Thượng nghị sĩ”, bà ta lý luận “ngài định cắt giảm ngân sách của NASA, thế thì rất nhiều chuyên gia sẽ mất việc”.
Sexton gần như cười thẳng vào mặt bà ta. Thế mà cũng đòi là bộ óc sắc sảo nhất ở Washington! Bà ta cần phải học thêm rất nhiều về nhân khoa học của Hoa Kỳ. Các chuyên gia chỉ là cái mắt muỗi so với biết bao nhiêu người lao động chân tay.
Ông chộp ngay cơ hội. “Chúng ta đang nói đến những khoản tiền hàng tỉ đô la, Marjorie ạ, cho nên nếu một vài nhà khoa học rất dễ tìm việc của NASA mất việc thì cứ đề họ tự lái những chiếc xe hơi sang trọng của họ đi kiếm việc ở chỗ khác. Tôi cam kết sẽ rất chặt chẽ trong các khoản chi tiêu”.
Marjorie lặng ngắt, như thế chưa hết choáng váng sau đòn tấn công này.
Người dẫn chương trình CNN nhắc khéo: “Thưa bà Tench, bà thấy thế nào?”
Cuối cùng thì bà ta cũng hắng giọng và lên tiếng. “Có vẻ như tôi hơi ngạc nhiên thấy Thượng nghị sĩ Sexton sẵn lòng lựa chọn tư thế cương quyết chống lại NASA”.
Sexton nheo mắt. Đánh đẹp đấy, thưa quý bà. “Tôi không chống lại NASA, tôi không thích bị buộc tội kiểu đó chút nào. Tôi chỉ nóỉ rằng NASA là bằng chứng cho cung cách ném tiền qua cửa sổ của Tổng thống. NASA tuyên bố là họ có thể chế tạo được tên lửa với giá năm tỉ đô la, nhưng thực tế lại ngốn tới mười hai tỉ. Họ nói rằng chỉ cần tám tỉ đô la là đủ đề xây một trạm vũ trụ, nhưng bây giờ chi phí đã lên tới một trăm tỉ rồi”.
“Hoa Kỳ là quốc gia đi tiên phong”, Tench phản kích, “vì chúng ta luôn tự đặt ra những mục tiêu rất cao cả và dù gặp khó khăn vẫn không lùi bước”.
“Tôi chẳng thấy kiểu tự hào dân tộc đó có gì thuyết phục cả, Margie ạ. Trong hai năm qua NASA đã lạm chi những ba lần, để rồi lại cun cút bám đít Tổng thống hòng xin thêm tiền để sửa chữa những sai lầm của chính mình. Thế mà là tự hào dân tộc à? Nếu muốn nói đến tự hào dân tộc thì hãy nhìn các trường học của chúng ta kia kìa. Nhìn hệ thống chăm sóc sức khoẻ cộng đồng ấy. Hãy bàn cách làm sao để những đứa trẻ thông minh của chúng ta được lớn lên trên một đất nước có nhiều cơ hội cho chúng. Đó mới chính là tự hào dân tộc!”
Mắt bà ta mở to: “Tôi có thể hỏi ngài một cách thẳng thắn không, thưa Thượng nghị sĩ?”
Sexton không buồn trả lời, chỉ ngồi im chờ bà ta hỏi.
Bà ta hỏi hết sức từ tốn, với vẻ tự tin lạ thường:
“Thưa Thượng nghị sĩ, nếu NASA không thể tiếp tục nghiên cứu vũ trụ với ngân quỹ ít hơn mức hiện nay, ngài có ý định giải tán cơ quan này không?”
Câu hỏi chả hơn gì hòn đá ném xuống ao bèo. Có lẽ Tench chỉ là ả gái già ngu si. Bà ta vừa đưa ra cái bẫy tầm thường - câu hỏi “có-hoặc-không” được chuẩn bị sẵn để buộc người ta phải thể hiện thật rõ lập trường của mình.
Theo bản năng, ông né tránh: “Tôi tin chắc rằng nếu được quản lí hiệu quả. NASA có thể cắt giảm chi tiêu mà vẫn tiếp tục hoạt động hiệu quả”.
“Thượng nghị sĩ Sexton, hãy trả lời câu hỏi của tôi. Thám hiểm vũ trụ là công cuộc mạo hiểm và tốn kém. Chúng ta chỉ có thể chọn hoặc là xốc tới - hoặc là bỏ cuộc. Có quá nhiều rủi ro. Tôi xin hỏi lại: nếu ngài trở thành Tổng thống, và buộc phải đưa ra quyết định hoặc là tiếp tục cấp cho NASA khoản ngân sách kếch xù y như hiện nay, hoặc là giải tán nó đi, ngài sẽ chọn cách nào?”
Rác rưởi. Sexton ngước mắt nhìn Gabrielle bên kia bức tường kính. Đôi mắt của cô mang thông điệp mà ông đã biết trước. Ngài đã tuyên bố rõ ràng. Cứ thẳng thắn. Đừng dông dài làm gì. Ông ngẩng cao đầu: “Vâng. Tôi sẽ chuyển thẳng ngân sách của NASA cho các trường học nếu cần. Nếu buộc phải chọn giữa giáo dục và vũ trụ, tôi chọn trường học”.
Marjorie làm ra vẻ vô cùng ngạc nhiên: “Quả là gây sốc. Tôi có nghe nhầm không đây? Nếu là Tổng thống, ngài sẽ ra tay loại bỏ mọi chương trình nghiên cứu vũ trụ à?”
Sexton giận sôi lên. Bây giờ thì Tench đã mớm tận miệng ông, ông chưa kịp phản kích thì bà ta đã nói tiếp.
“Thưa Thượng nghị sĩ, có đúng là ngài sẽ giải tán chính cơ quan đã đưa con người lên Mặt trăng hay không?”
“Tôi nói rằng cuộc chạy đua vũ trụ đã kết thúc! Thời thế đã đổi khác rồi. NASA giờ không còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của dân Mỹ nữa, nhưng vẫn tiếp tục ngốn những khoản tiền khổng lồ y như ngày xưa!”
“Thế ngài không nghĩ rằng nghiên cứu vũ trụ sẽ có lợi cho tương lai hay sao?”
“Dĩ nhiên là có chứ, nhưng mà NASA là con khủng long! Để cho các công ty tư nhân làm việc đó. Không nên để những người dân cứ phải dốc hầu bao ra mà đóng thuế mỗi khi NASA muốn chi vài tỉ để chụp một bức ảnh sao Hoả. Người dân Mỹ đã chán ngán cảnh bán rẻ tương lai con em họ để chi trả cho một tổ chức đã từ lâu chẳng làm nên cơm nên cháo gì nhưng lại ngốn những khoản tiền khủng khiếp!”
Tench thở dài rất kịch: “Không làm nên cơm nên cháo gì? Chỉ trừ chương trình SETI, NASA đã đạt biết bao nhiêu thành quả”.
Sexton kinh ngạc nghe thấy từ SETI từ chính miệng Tench. Marjorie ngờ nghệch. Cảm ơn đã nhắc tôi khỏi quên. Chương trình tìm kiếm những sinh vật ngoài vũ trụ là cái máy đốt tiền khủng khiếp nhất từ trước đến nay. Dù NASA đã cố tình che đậy điều đó bằng cách đặt cái tên khác cho xuất xứ và sửa đổi một số mục tiêu của chương trình, đây vẫn là ván bài đại bại.
“Marjorie, tôi bàn đến SETI chỉ vì chị đã nhắc đến thôi đấy”.
Thật kỳ lạ, Tench có vẻ rất hào hứng muốn nghe.
Sexton hắng giọng: “Hầu hết dân Mỹ không biết rằng suốt 30 năm nay, NASA vẫn đang tìm kiếm những dạng sống thông minh ngoài trái đất. Và đó là cuộc săn lùng vô cùng đắt đỏ - vô số các vệ tinh nhân tạo, biết bao nhiêu máy thu phát vô tuyến khổng lồ, hàng triệu đô la để trả lương cho những nhà khoa học ngồi mọc rễ trong phòng tối để nghe những đoạn băng câm lặng. Đó là sự phí phạm đáng xấu hổ”.
“Thượng nghị sĩ cho rằng không có dạng sống thông minh nào tồn tại trong vũ trụ ư?”
“Ý tôi là nếu một cơ quan Chính phủ nào khác chi những bốn lăm tỷ đô la ròng rã suốt ba lăm năm mà không thu được bất kỳ thành quả nào, cơ quan ấy hẳn đã bị giải tán từ lâu rồi. - Sexton gượng một lúc để nhận định vừa rồi có thêm trọng lượng. - Ba mươi lăm năm đủ để chúng ta thấy rõ rằng chẳng hề có sự sống bên ngoài trái đất”.
“Nhỡ ngài sai thì sao?”
Sexton mở mắt trừng trừng. “Ồ lạy Chúa, thưa chị Tench, nếu sai thì tôi sẽ ăn cái mũ của mình”.
Cách đó sáu dặm, trong phòng bầu dục, Tổng thống Zach Herney tắt ti vi và tự rót cho mình một ly. Đúng như Marjorie Tench đã hứa, Thượng nghị sĩ Sexton đã cắn câu - cả lưỡi câu, dây câu lẫn chì lưới
-
Chương 24
Micheal Tolland cười rạng rỡ trong khi Rachel Sexton chết sững nhìn mảnh thiên thạch có hóa thạch đang cầm trên tay. Với vẻ đẹp vô cùng tao nhã, cô gái này là biểu tượng của trạng thái phân vân rất đỗi ngây thơ - một em bé gái lần đầu tiên trong đời nhìn thấy ông già tuyết.
Tôi hiểu rất rõ cô đang cảm thấy gì, Tolland thầm nghĩ...
Chỉ mới cách đây hai hôm. Tolland cũng đã cảm thấy y hệt như vậy. Cả ông ta cũng đã chết điếng vì kinh ngạc. Đến tận lúc này, ý nghĩa khoa học và triết học của phát hiện này vẫn còn khiến ông thấy choáng váng, khiến ông phải suy nghĩ lại về tất cả những gì trước đây mình vẫn tin tưởng.
Tolland đã từng phát hiện ra một số sinh vật biển chưa ai từng thấy, nhưng phát kiến này mới thực sự là bước đột phá. Dù Hollywood vẫn có xu hướng sáng tạo ra hình tượng những người ngoài hành tinh xanh lè, các nhà sinh vật học vũ trụ và những người ham mê khoa học vẫn luôn đồng ý với nhau rằng nếu có được phát hiện, dạng sống bên ngoài trái đất sẽ có ngoại hình của loài bọ.
Côn trùng là một bộ phận của những loài thuộc hệ chân khớp với lớp vỏ ngoài cứng và chân có đốt. Với 1.25 triệu loài đã được biết và khoảng năm trăm loài còn chưa được phát hiện, bọ vượt xa về số lượng so với tất cả các dạng sống khác trên trái đất cộng lại. Chúng chiếm 45% tổng số sinh vật trên hành tinh, và 40% tổng số sinh-thực vật.
Nhưng số lượng của các loài bọ không khiến người ta kinh ngạc bằng sự dẻo dai của chúng. Từ những con bọ cánh cứng Bắc cực cho đến loài bọ cạp mặt trời ở thung lũng chết, các loài bọ ung dung sinh sống ở những nhiệt độ, mức độ khô hạn, và cả áp suất chết người. Chúng cũng chịu được sự tiếp xúc với thứ đáng sợ nhất ngày nay: bức xạ. Khi lần theo dấu vết vụ thử hạt nhân từ năm 1945, các chuyên viên hàng không đã phải mặc quần áo chống xạ để tiến vào khu vực số không, để rồi nhìn thấy dán và kiến sống rất ung dung ở đó cứ như thế chưa từng có gì xảy ra. Các nhà thiên văn học nhận ra rằng lớp vỏ cứng bảo vệ bên ngoài các loài động vật chân đốt đã ban tặng cho chúng khả năng thích nghi tuyệt vời ở những hành tinh nhiễm xạ nặng, nơi không một loài sinh vật nào khác có thể tồn tại nổi.
Có vẻ như các nhà sinh vật học vũ trụ đã đúng, Tolland thầm nghĩ. Sự sống thông minh bên ngoài vũ trụ mang dáng dấp của loài bọ.
Rachel cảm tưởng như không thể đứng vững.
“Tôi không... tôi không thể tin nổi điều này”. Cô nói, lật đi lật lại mẫu hóa thạch trên tay. “Tôi không thể nào tưởng tượng...”
“Phải có thời gian mới trấn tĩnh được”. Tolland nhăn nhở nói. “Phải mất đúng hai mươi tư giờ tôi mới đứng vững lại được đấy”.
“Tôi thấy là mới có thêm một người nữa”, một người châu Á cao kều nói, giọng bèn bẹt.
Ngay khi ông này xuất hiện, cả Tolland và Corky dường như đều bị cụt hứng. Rõ ràng là giây phút thần diệu đã tan biễn mất rồi.
“Tiến sĩ Wailee Ming”. Ông ta tự giới thiệu. “Giám đốc Viện cổ sinh học ở UCLA”.
Người đàn ông này có điệu bộ bảnh choẹ cứng ngắc của nhà quý tộc thời Phục hưng, liên tục đưa tay lên vuốt vuốt chiếc nơ cài trên cổ cái áo lông lạc đà dài đến gối. Wailee Ming rõ ràng thuộc kiểu người không bao giờ chịu để bất kỳ yếu tố ngoại cảnh nào làm hỏng mất vẻ bề ngoài trang trọng của mình.
“Tôi là Rachel Sexton”. Cô vẫn còn chưa hết run rấy khi bắt tay tiến sĩ Ming. Hiển nhiên ông ta cũng là người mà Tổng thống đã mời tới.
“Tôỉ rất lấy làm vinh hạnh”, ông ta nói “được giảng giải bất kỳ điều gì, cô muốn biết có liên quan đến những động vật hóa thạch này”.
“Và tất cả những gì cô không muốn biết nữa đấy”. Corky làu bàu.
Ông Ming lại tiếp tục vuốt ve chiếc nơ gài áo: “Chuyên môn sâu của tôi trong ngành cổ sinh học là các động vật chân đốt đã tuyệt chủng. Dĩ nhiên, đặc điểm nổi bật nhất của loài này là...”
“Là chúng phát sinh từ trên một hành tinh chết tiệt nào đó!” Corky ngắt lời.
Ming nhăn mặt và hắng giọng. “Đặc điểm quan trọng nhất của loài này là nó hoàn toàn khớp với những nguyên tắc phân loại của Darwin”.
Rachel ngước nhìn lên. Họ còn có thể phân loại con bọ này sao? “Ý ông là các giới, bộ và loài chứ gì?”
“Chính xác”. Ông ta nói. “Nếu được tìm thấy trên trái đất, loài này sẽ được xếp vào nhóm động vật đẳng túc cổ và được xếp vào một họ gồm có hai ngàn loài chấy rận”.
“Chấy rận à?” Cô hỏi. “Nhưng to thế này cơ mà”.
“Khi phân loại, người ta không quan tâm đến kích thước. Mèo nhà và hổ có họ với nhau. Con bọ hóa thạch này cũng có thân mình dạng dẹt, bảy đôi chân, và một cái túi sinh sản giống hệt của loài một gỗ, bọ tròn, bọ chét bờ biển, và bọ tuyết. Các mãu hóa thạch khác còn cho thấy những đặc điểm..”
“Những mẫu hóa thạch khác?”
Ming liếc sang Corky và Tolland: “Cô ấy không biết à?”
Tolland lắc đầu.
Ngay lập tức khuôn mặt ông Ming sáng bừng lên: “Cô Sexton ạ cô chưa được nghe kể phần hay nhất của câu chuyện đâu”.
“Còn có nhiều mẫu hóa thạch khác nữa”. Corky nói chen vào, cố góp phần quan trọng về mình, “Nhiều lắm”. Ông ta hối hả mở một phong bì lớn và lấy ra tờ giấy khổ lớn. Rồi ông trải tờ giấy lên bà,. trước mặt Rachel “Sau khi khoan vài mũi, chúng tôi đã thả xuống đó một camera X quang. Đây là anh chụp X quang tảng đá đó”.
Rachel nhìn tấm ảnh X quang trước mắt, và phải ngồi thụp xuống ghế. Bức ảnh ba chiều cho thấy trong tảng đá ấy còn có khoảng vài chục sinh vật hóa thạch nữa.
“Những chứng tích của thời kỳ đồ đá cũ”, ông Ming nói, “thường được tìm thấy rất tập trung. Trong đa số các trường hợp, bùn kẹp chặt cả một cộng đồng sinh vật”.
Corky cười toe toét: “Chúng tôi cho rằng tảng đá này là hóa thạch của cả một ổ”. Ông ta đưa tay chỉ một con bọ “Đây chắc là con mẹ”.
Rachel nhìn con bọ mà ông ta chỉ, và há hốc miệng. Con bọ đó phải dài đến hai foot.
“Chấy rận khổng lồ đúrng không nào?” Ông ta hỏi.
Rachel sững sờ gật gật khi cô hình dung con rận to bằng lát bánh mì lượn vè vè trên hành tình xa xôi nào đó.
“Trên hành tinh chúng ta”, ông Ming nói, “các loài bọ có kích thước nhỏ bé do tác động của trọnh lực, chúng không thể phát triển to hơn lớp vỏ cứng bên ngoài được. Tuy nhiên, trên một hành tinh có trọng lực yếu hơn, chúng có thể phát triển những kích thước to lớn hơn nhiều”.
“Hãy tưởng tượng chúng ta phải đập những con muỗi to bằng con kền kền”. Corky bông đùa, cầm lấy mẫu đá trên tay Rachel và bỏ tõm vào túi áo.
Ông Ming quắc mắt: “Ông không được phép lấy trộm thứ đó!”
“Ông bình tĩnh, khi nào đưa được tảng đá lên thì có những tám tấn cơ mà”.
Thói quen phân tích của Rachel bắt đầu quay trở lại. “Nhưng làm sao mà sinh vật vũ trụ lại giống trên trái đất đến thế? Ý tôi là làm sao, mà loài vật này lại trùng khớp với cách phân loài theo quan điểm của Darwin?”
“Hay lắm”, Corky nói, “cô có tin hay không thì tùy, nhưng các nhà thiên văn học đều dự đoán là sinh vật trong vũ trụ sẽ giống trên trái đất này”.
“Tại sao lại thế?” Cô hỏi. “Sinh vật này xuất xứ từ môi trường hoàn toàn xa lạ cơ mà”.
“Thuyết đa sinh”. Corky cười hết cỡ.
“Ông nói cái gì cơ?”
“Thuyết đa sinh nói rằng sự sống trên trái đất xuất xứ từ một hành tinh khác”.
Rachel đứng dậy. “Ông đang phung phí thời gian đấy”.
Corky quay sang Tolland: “Mike này, cậu chuyên về các biển nguyên thủy đấy”.
Tolland có vẻ sung sướng được góp chuyện. “Trước đây đã có thời trái đất không hề có sự sống, Rachel ạ. Thế rồi chỉ qua một đêm, các dạng sự sống phát triển ào ạt. Nhiều nhà sinh vật học cho rằng sự sống là kết quả của quá trình kết hợp kỳ diệu giữa một số yếu tố trong lòng biển nguyên thuỷ. Nhưng người ta chưa bao giờ tái tạo được giả thuyết đó trong phòng thí nghiệm, nên các nhà thần học đã chớp lấy cơ hội đó để khẳng định vai trò của Chúa, rằng không có sự sống nếu Chúa không thối sự sống vào biển nguyên thủy”.
“Nhưng chúng ta nghiên cứu thiên văn học”, Corky tuyên bố, “và đi đến kết luận về một cách giải thích khác hẳn cho sự phát triển có tính bùng nổ của sự sống trên trái đất”.
“Thuyết đa sinh”. Rachel nhắc lại, lúc này cô đã hiểu họ đang nói về cái gì. Trước đây cô đã từng nghe nói về nội dung của thuyết này nhưng không biết tên của nó. “Thuyết cho rằng một tảng thiên thạch đã rơi xuống biển nguyên thuỷ, mang những mầm vi khuẩn xuống trái đất”.
“Bing gô!” Corky nói. “Rồi chúng kết hợp với nhau và tạo ra sự sống”.
“Và nếu thuyết đó đúng”, Rachel nói, “thì tổ tiên của sự sống trên trái đất và ngoài vũ trụ là một”.
“Bing gô đúp!”
Thuyết đa sinh, Rachel thầm nghĩ, không lột tả hết được ý nghĩa của nó. “Nghĩa là mẫu hóa thạch này không chỉ cho thấy có sự sống bên ngoài trái đất, mà nó còn chứng minh rằng thuyết đa sinh là đúng... Là sự sống bắt nguồn từ vũ trụ”.
“Bing gô!” Corky hồ hởi gật đầu. “Về mặt kỹ thuật thì tất cả chúng ta đều là người ngoài hành tinh!” Ông ta đặt hai tay lên trán giả làm ăng ten, mắt nheo lại, lưỡi tắc tắc y như giôdng côn trùng.
Tolland nhìn Rachel cười đầy hàm ý: “Và anh chàng này là sinh vật tiến hóa cao nhất đấy”.
-
Chương 25
Bước đi trong bán sinh quyển với Michael Tolland, Rachel Sexton cảm tưởng như có lớp sương mù hư ảo đang bao vây lấy mình. Corky và Ming đi sát đằng sau cô.
“Cô không sao chứ?” Tolland nhìn cô và hỏi.
Rachel ngước lên nhìn ông ta, nở nụ cười yếu ớt. “Cảm ơn ông. Chắc chỉ vì có quá nhiều sự kiện”.
Cô nhớ lại một phát kiến của NASA vào năm 1996 – ALH 84001 - một thiên thạch từ sao Thủy mà NASA tuyên bố rằng có chứa các vi khuẩn hóa thạch. Buồn thay, chỉ vài tuần sau buổi họp báo ầm ĩ của NASA, một số nhà khoa học dân sự lên tiếng chứng minh rằng dấu vết của sự sống thực ra chỉ là cặn bã của dầu lửa tạo ra bởi sự ô nhiễm trên trái đất. Sai lầm đó đã khiến uy tín của NASA bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tờ New York Time đã nhân cơ hội này châm biếm NASA và đặt cho nó cái tên mới: NASA - không phải lúc nào cũng chuẩn xác (NASA - NOT ALWAYS SCIENATFICALLY ACCURATE).
Cũng trong cùng số báo ấy, nhà cổ sinh học Steephn Jay Gould đã đúc kết lại toàn bộ vấn đề của phát kiến mang ký hiệu ALH84001 bằng cách chỉ ra rằng bằng chứng trên hòn đá chỉ là những hóa chất đã được dùng để suy diễn thái quá, chẳng phải là xương hay vỏ ngoài của sinh vật xa lạ nào hết.
Tuy nhiên, lần này NASA đã tìm ra những chứng cứ không thể chối cãi. Không một nhà khoa học đa nghi nào có thể lên tiếng để chất vấn những mẫu hóa thạch này. NASA lần này không trưng ra bức ảnh lờ mờ về hình dạng được cho là của một con vi khuẩn nữa họ đưa ra hẳn những mẫu đá mà trên đó người ta có thể dùng mắt thường quan sát những cấu trúc sinh học hiện lồ lộ trước mắt. Con chấy dài bằng bàn chân!
Rachel bật cười nhớ lại mình đã từng say mê bài hát Những con nhện sao Thủy của ca sĩ David Bowie đến mức nào. Chắc không từ ngữ nào có thể lột tả được niềm vui sướng vô bờ của chàng ca sĩ đồng tính người Anh đó khi anh ta được biết đến phát kiến này.
Trong khi lời và giai điệu của bài hát vẫn đang văng vẳng trong tâm trí Rachel thì Corky vượt lên đi bên cạnh cô. “Mike đã khoe với cô về bộ phim tài liệu chưa?”
“Chưa”, cô đáp, “nhưng tôi rất muốn được nghe”.
Ông ta vỗ lưng Tolland: “Kể đi. anh bạn. Hãy cho cô ấy biết vì sao Tổng thống Hoa Kỳ lại quyết định mời một chuyên gia bơi bằng ống thở làm bộ phửn tài liệu về thời khắc quan trọng nhất trong lịch sử khoa học tự nhiên đi”.
Tolland hét lên: “Thôi đi Corky, tôi xin anh đấy”.
“Thôi được để tôi nói vậy”. Corky nói và len vào giữa hai người. “Có thể cô đã biết rằng tối nay Tổng thống sẽ tổ chức cuộc họp báo để công bố cho cả thế giới biết sự kiện trọng đại này. Và bởi vì phân nửa dân số thế giới chỉ là những kẻ thông minh nửa vời nên ông ấy đã yêu cầu Mike diễn giải câu chuyện này một cách đơn giản cho phù hợp với họ”.
“Cảm ơn anh. Corky. Hay ho lắm”. Ông ta nói rồi quay sang nhìn Rachel “Ý anh ấy là có quá nhiều dữ liệu khoa học khô khan thuần tuý cho nên Tổng thống tin, là một bộ phim tài liệu với những hình ảnh phong phú sẽ khiến cho đại đa số người Mỹ thấy dễ hiểu hơn, vì không phải ai cũng có bằng thạc sĩ và tiến sĩ về vật lý học”.
“Cô biết không” Corky nói với Rachel. “Tôi còn nghe kể rằng Tổng thống Hoa Kỳ là fan hâm mộ ruột của Đại dương kỳ thú nữa kia”. Ông ta vừa nói vừa giả vờ lúc lắc cái đầu ra vẻ kinh ngạc “Zach Herney - kẻ thống trị cả thế giới - vẫn thường yêu cầu thư ký ghi lại các chương trình của Mike để xem cho thư gĩan sau những ngày làm việc căng thẳng cơ đấy”.
Tolland nhún vai: “Phải nói ông ta là người có gu đấy”.
Lúc này Rachel càng thấy rõ kế hoạch của Tổng thống tỉ mỉ và tài tình đến mức nâo. Chính trị là một trò chơi trên các phương tiện truyền thông. Rachel có thể tưởng tượng trước cử tri cả nước sẽ thấy hào hứng đến thế nào khi khuôn mặt đáng tin cậy như Michael Tolland xuất hiện trong buổi họp báo. Zach Herney đã chọn đúng người cần chọn để quảng cáo cho phát kiến phi thường của NASA Những kẻ hoài nghi sẽ chẳng có cơ hội lên tiếng chỉ trích những dữ liệu của Tổng thống một khi chúng đã được đích thân các nhà khoa học tiếng tăm xác thực.
Corky nói tiếp: “Để hoàn thành bộ phim tài liệu này, Mike đã phỏng vấn tất cả các nhà khoa học dân sự cũng như các chuyên viên của NASA. Tôi xin thề có huân chương danh dự của tôi rằng cô sẽ là nhân vật tiếp theo được phỏng vấn đấy”.
Rachel quay sang ông ta: “Tôi á? Ông đang nói cái gì vậy? Tôi làm gì có chút kiến thức chuyên môn nào! Tôi chỉ là chuyên viên tổng hợp tin thôi mà”.
“Thế tại sao Tổng thống lại yêu cầu cô đến đây?”
“Ông ta vẫn chưa nói cho tôi biết lý do”.
Corky thoáng cười: “Cô là chuyên viên sẽ tổng hợp và xác minh tin này cho Nhà Trắng đúng không nào?”
“Đúng, nhưng không phải trên phương diện khoa học”.
“Và cô còn là con gái của chính người đang xây dựng cương lĩnh tranh cử dựa trên vấn đề chi tiêu của NASA, đúng không?”
Rachel bắt đầu hiểu ra vấn đề.
“Thưa cô Sexton, phải thừa nhận rằng những lời do chính cô nói ra sẽ làm cho bộ phim tài liệu có thêm sức thuyết phục. Nếu Tổng thống đã mời cô đến đây thì chắc chắn ông ấy sẽ yêu cầu cô tham gia đấy”.
Rachel một lần nữa nhớ đến lời phỏng đoán của William Pickering rằng cô sẽ bị lợi dụng.
Tolland nhìn đồng hồ đeo tay: “Chúng ta đi thôi, chắc sắp kéo được lên rồi đấy”.
“Kéo được lên cái gì cơ?” Rachel hỏi.
“NASA đang cho kéo tảng thiên thạch đó lên. Chắc sắp lên đến mặt đất rồi”.
“Các ông cho kéo lên tảng đá nặng tám tấn đang bị chôn sâu dưới 200 foot băng đá ư?”
Corky trông đầy hào hứng: “Chẳng lẽ cô tưởng NASA định bỏ tàng đá hi hữu này nằm im ở chỗ mà họ đã phát hiện ra nó ư?”
“Không, nhưng...” Không có dấu hiệu nào cho thấy người ta đang tổ chức trục vớt tảng đá đó lên hết. “Thế NASA định kéo nó lên bằng cách nào?”
Ông ta liền đáp: “Chuyện nhỏ! Cô nên nhớ rằng quanh đây có vô số nhà khoa học chuyên về tên lửa đấy”.
“Bậy nào!” Ming mắng ông ta và quay sang nói với Rachel “Bác sĩ Marlinson rất thích trêu chọc mọi người. Sự thật là mọi người đã phải bàn cãi về chuyện làm thế nào để đưa được tảng đá đó lên. Và tiến sĩ Mangor đã đưa ra một biện pháp rất khả thi”.
“Tôi chưa được gặp tiến sĩ Mangor”.
“Nhà băng hà học tại Trường Đại học New Hampshire đấy”. Tolland nói tiếp. “Đó là nhà khoa học dân sự thứ tư và là người bên ngoài cuối cùng được Tổng thống mời đến. Và ông Ming nói đúng đấy chính Mangor đã có phương pháp khả thi”.
“Thế à?” Rachel nói. “Thế anh chàng đó đã đưa ra phương pháp gì vậy”.
“Anh chàng à?” Ông Ming cười thoảng “tiến sĩ Mangor là một phụ nữ đấy”.
“Cái đó còn phải bàn thêm đã”. Corky làu bàu và quay sang Rachel “Tiện thể xin báo trước là tiến sĩ Mangor sẽ ghét cô cho mà xem”.
Tolland nhìn Corky đầy bực bội.
“Này, tôi đảm bảo thế đấy!” Ông ta vẫn khăng khăng. “Cô ta đâu có thích phải cạnh tranh”.
Rachel chẳng hiểu tí gì: “Tôi không hiểu, cạnh tranh gì cơ?”
Tolland bảo cô: “Cô đừng để ý làm gì cho mệt. Đáng tiếc là Hội đồng Khoa học Quốc gia quên không thẩm định một sự thật rằng Corky vẫn còn là một đứa trẻ vị thành niên. Cô và tiến sĩ Mangor sẽ hợp nhau ngay thôi. Cô ấy là người rất giỏi việc và được tôn vinh là một trong những chuyên gia băng hà học hàng đầu thế giới. Cách đây mấy năm, cô ấy còn đến tận Nam Cực để nghiên cứu sự trôi dạt của băng hà nữa cơ”.
“Lạ thật”. Corky nói, “tôi nghe nói bên Đại học New Hampshire đã đóng tiền để cử cô ta xuống đó để họ được yên ổn một thời gian đấy chứ”.
“Lại còn thế này nữa chứ,” tiến sĩ Ming nghiêm trang nói “tiến sĩ Mangor còn suýt nữa mất mạng ở đó nữa đấy! Cô ấy gặp bão, bị lạc và phải sống bằng mỡ cá voi những năm tuần liền rồi mới được tìm thấy”.
Corky thì thầm vào tai Rachel: “Nghe nói chẳng ai chịu đi tìm cô ta cả”.
-
Chương 26
Ngồi chung xe với ngài Thượng nghị sĩ, Gabrielle Ashe cảm tưởng con đường từ đài CNN trở về dài hơn hẳn lệ thường. Trên cùng hàng ghế với cô. Thượng nghị sĩ đang nhìn ra ngoài đường, rõ ràng rất hả hê về cuộc tranh luận vừa rồi.
“Họ lại phái Tench đi tranh luận trên truyền hình chiều nay nữa”. Ông ta nở một nụ cười rất điển trai nhìn Gabrielle “Nhà Trắng sợ thật rồi”.
Gabrielle gật đầu, nhưng bụng không đồng tình. Khi Marjorie lên xe, cô thoáng nhìn thấy vẻ mặt thoả mãn của bà ta. Vẻ mặt ấy khiến Gabrielle lo lắng.
Điện thoại cầm tay của ngài Thượng nghị sĩ đổ chuông, ông vội lục túi. Giống như những chính trị gia khác, Sexton có vài số điện thoại khác nhau, tuỳ tầm quan trọng của đối tác mà ông chọn số để cho họ. Người đang gọi lúc này được xếp vào loại quan trọng bậc nhất; vì được ông cho số cá nhân, số mà đến cả Gabrielle cũng còn ngần ngại mỗi khi phải gọi.
“Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton xin nghe”. Giọng ông du dương.
Vì trong xe khá ầm ĩ nên Gabrielle không thể nghe thấy tiếng của người gọi, nhưng ngài Thượng nghị sĩ thì nghe rất chăm chú và hồ hởi trả lời. “Tuyệt lắm. Tôi rất hài lòng nhận được điện của anh. 6 giờ có được không? Tuyệt. Tôi có một căn hộ ở ngay thủ đô Washington. Kín đáo. Tiện nghi. Anh có địa chỉ rồi đúng không? Thế thì hẹn gặp tối nay”.
Sexton tắt máy, đầy vẻ mãn nguyện.
“Một fan hâm mộ mới của Thượng nghị sĩ à?” Gabrielle hỏi.
“Số lượng fan đang tăng theo cấp số nhân”. Ông trả lời. “Đây là một gã rất nặng ký”.
“Hẳn rồi. Gặp ngài tại nhà riêng?” Sexton vẫn thường bảo vệ sự riêng tư của mình chẳng khác nào một con sư tử bảo vệ nơi trú ẩn duy nhất của nó.
Ông nhún vai: “Ừ. Tôi muốn tạo mối quan hệ thân tình. Một khoảng thời gian riêng tư sẽ rất có lợi. Thỉnh thoảng cũng rất cần những mối quan hệ cá nhân kiểu này, cô biết không. Để tạo dựng niềm tin ấy mà”.
Gabrielle gật đầu, lôi lịch trình làm việc của Thượng nghị sĩ ra xem. “Có xếp ông ta vào lịch làm việc không ạ?”
“Khỏi cần, đằng nào tối nay tôi cũng định chỉ ở nhà thôi”.
Gabrielle tìm thấy trang lịch ngày hôm nay và Thượng nghị sĩ đã viết tay hai chữ “P.E.” vào ô buổi tối - có thể là chữ viết tắt của “việc riêng”, “buổi tối riêng tư”, hoặc “mặc xác thiên hạ”, không ai biết chắc từ chính xác trong đầu ông là gì. Thỉnh thoảng Thượng nghị sĩ vẫn dành cho mình một buổi tối “P.E.” trong căn hộ riêng ấy tắt bỏ điện thoại và tận hưởng thú vui riêng của mình - nhấm nháp rượu Brandy cùng vài người bạn cũ và gạt hẳn chính trị ra khỏi đầu.
Gabrielle nhìn ông ngạc nhiên: “Thế là Thượng nghị sĩ để cho công việc xen vào những buổi tối đặc biệt được đánh dấu “P.E.” ư? Ấn tượng thật”.
“Một hôm tôi đã tình cờ gặp gã này trong lúc rảnh rỗi. Và chúng tôi đã chuyện trò một lúc. Có vẻ rất hợp nhau”.
Gabrielle rất muốn hỏi xem người bí ẩn vừa gọi là ai, nhưng Thượng nghị sĩ tỏ ra không muốn tiết lộ. Cô đã học được thói quen không tọc mạch khi không phải lúc.
Chiếc xe rẽ ra khỏi đường vành đai và hướng về phía văn phòng của Sexton. Gabrielle liếc nhìn tờ thời gian biểu lần nữa và chợt linh cảm rằng Thượng nghị sĩ đã biết trước sẽ có cuộc gọi này.
Chương 27
Một giàn giáo ba chân cao khoảng 18 foot làm bằng vật liệu composit được dựng lên trên nền băng, bên trong bán sinh quyển, trông nửa giống tháp Effel, nửa giống giàn khoan dầu. Rachel quan sát và không thể tưởng tượng nổi làm thế nào mà giàn giáo này có thể kéo được tảng đá lên.
Bên dưới giàn giáo, mấy chiếc tời đã được vít vào những đĩa thép gắn chặt vào nền băng bằng bu lông. Những sợi dây cáp lớn được lồng vào chiếc tời và một loạt ròng rọc phía trên cao. Từ những chiếc ròng rọc ấy, các sợi cáp buông thẳng xuống những lỗ khoan trên băng dưới chân giàn giáo. Mấy nhân viên lực lưỡng của NASA lần lượt kéo căng sợi dây cáp. Mỗi lần kéo, sợi dây lại nhích lên vài inch, chẳng khác gì những thủy thủ đang kéo dây neo.
Chắc chắn mình đang bỏ sót một chi tiết nào đó rất quan trọng, Rachel thầm nghĩ khi cùng mọi người đến gần giàn giáo. Có vẻ như những anh chàng này đang kéo tảng đá lên xuyên qua băng.
“Mẹ kiếp, đều tay vào!” Một giọng nữ thé thé cất lên.
Rachel ngước mắt lên và thấy một phụ nữ mặc bộ quần áo ấm màu vàng dính đầy dầu mỡ. Dù chị ta đang quay lưng vê phía mình, Rachel đoán ra ngay đây là người đang chỉ đạo toàn bộ nhóm người này. Vừa ghi ghi chép chép, chị ta vừa oai vệ đi tới đi lui y như một huấn luyện viên đang cơn thịnh nộ.
“Đồ đàn bà các anh chỉ được cái suốt ngày kêu mệt!”
Corky gọi lớn: “Norah ơi, đừng bắt nạt mấy anh chàng tội nghiệp đó nữa, ra đây vui vẻ với anh nào!”
Chị ta không thèm quay lại: “Lại Marlinson hả? Nghe giọng nói eo éo là nhận ra ngay! Về ăn no cho lớn đã rồi quay lại đây nói chuyện với chị nhé!”
Corky quay sang nói với Rachel: “Đấy, cô ta là thế đấy”.
“Tôi nghe thấy đấy nhá, anh chàng thiên văn học kia”. Tiến sĩ Mangor đốp lại, vẫn không ngừng ghi ghi chép chép “Nếu anh định sờ đít tôi thì nhớ là riêng cái quần đã nặng 30 pound rồi đấy”.
“Đừng nghĩ thế” Corky cũng nói lớn “anh không say mê cặp mông của em đâu, anh yêu tính đanh đá cá cầy của em cơ!”
“Thế à?”
Corky cười lớn: “Này Norah, tin buồn đây, em không phải là phụ nữ duy nhất được Tổng thống mời đến đây đâu”.
“Dĩ nhiên. Tổng thống mời cả anh nữa còn gì”.
Tolland giờ mới lên tiếng: “Norah, xuống đây một chút, anh giới thiệu với em một người nào”.
Nghe thấy giọng Tolland, Norah lập tức dừng tay và quay lại.
Dáng vẻ đanh đá của chị ta cũng biến mất ngay tức khắc. “Mike! Mấy tiếng rồi em chưa nhìn thấy anh đấy!” Mặt cô ta sáng bừng lên.
“Anh phải chỉnh sửa bộ phim”.
“Đoạn phỏng vấn em thế nào?”
“Trông em rất xinh đẹp”.
“Nhờ có các kỹ xảo đặc biệt đấy”. Corky nói chêm vào.
Khuôn mặt nhăn nheo của Tolland hơi ửng đỏ lên khi ông ta giới thiệu: “Norah, anh xin giới thiệu với em: Rachel Sexton. Cô Sexton làm bên tình báo và đến đây theo lời mời của Tổng thống. Cha cô ấy chính là Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton”.
Lời giới thiệu làm Norah có vẻ hơi bất ngờ. “Tôi không có ý định giả vờ hiểu tất cả những gì ông ấy vừa nói đâu nhé”. Chị ta không buồn cởi găng tay ra khi chìa ra bắt tay Rachel một cách khá hờ hững. “Chào mừng cô đến nơi tận cùng của trái đất”.
Rachel mỉm cười. Cô ngạc nhiên thấy Norah Mangor có vẻ mặt khôn ngoan và đáng yêu, dù điệu bộ có hơi đanh đá. Mái tóc xám của chị ta được cắt ngắn trông khá sinh động, và hai con mắt thì rất sắc sảo và tinh tường - hai viên pha lê trong suốt. Rachel thích vẻ tự tin của người phụ nữ này.
“Norah”, Tolland bảo chị ta “em có thể bớt chút thì giờ để giải thích cho Rachel hiểu công việc em đang làm không?”
Norah nhướng lông mày: “Đã có hai ông anh đây làm việc đó rồi còn gì nữa? Anh ơi là anh!”
Corky rên lên: “Thấy chưa Mike? Tôi đã bảo cậu rồi mà”.
Norah dẫn Rachel đi quanh giàn giáo xem xét, còn Tolland và những người khác vừa đi vừa nói chuyện phía sau.
“Cô có nhìn thấy những lỗ khoan bên dưới giàn giáo này không?” Norah giơ tay chỉ, giọng nói chát chúa vừa rồi giờ chuyển thành say sưa khi chị ta kể về công việc đang tiễn hành.
Rachel gật đầu, nhìn sâu xuống bên dưới những lỗ khoan. Mỗi lỗ có đường kính khoảng một foot và đều có một sợi dây cáp được giòng qua.
“Đó là những lỗ khoan còn lại khi chúng tôi khoan lấy mẫu đá và chụp X quang tảng thiên thạch. Bây giờ chúng tôi tận dụng những lỗ khoan này để giòng móc sắt xuống và bắt vít vào tảng đá. Sau đó thả những sợi cáp sắt dài khoảng hai trăm foot xuống để khớp vào các móc sắt đó, và giờ đây chỉ cần kéo lên là xong. Mấy anh chàng ẻo lả kia sẽ phải kéo khoảng hai tiếng đồng hồ nữa thì tảng đá mới lên được”.
“Có một chỗ tôi chưa hiểu”. Rachel nói. “Tảng đá bị chôn sâu dưới lớp băng đá rất dày cơ mà. Làm sao mà kéo lên được?”
Norah đưa tay chỉ luồng sáng màu đỏ tươi chiếu thẳng từ đỉnh giàn giáo xuống một lỗ nhỏ. Rachel đã nhìn thấy luồng sáng đó từ trước nhưng lại ngỡ đó chỉ là chiếc đèn thông thường dùng để đánh dấu vị trí làm việc của họ, vị trí của viên đá.
“Đó là chiếc đèn bán dẫn chiếu tia laze”. Norah nói.
Rachel quan sát luồng sáng kỹ hơn và nhận thấy đúng là nó đã khiến cho băng chảy nước, tạo thành một lỗ thủng nhỏ xíu, và những tia sáng đỏ chiếu xuống tận tít bên dưới.
“Luồng sáng đó rất nóng”. Chị ta nói. “Chúng tôi vừa nung nóng tảng thiên thạch vừa kéo lên từng tí một”.
Rachel kinh ngạc hiểu ra kế hoạch của người phụ nữ này vừa đơn giản vừa thông minh đến mức nào. Norah chỉ cần chiếu luồng sáng ấy xuống băng cho đến khi nó khoan được một lỗ thủng xuyên qua lớp băng dày và nung nóng tảng thiên thạch. Tảng đá không thể bị chùm tia làm cho nóng chảy, nhưng nó hấp thu nhiệt lượng của tia laze, ấm lên, và làm cho băng bao quanh nó tan chảy ra. Trong khi các chàng trai của NASA kéo nó lên, cả sức ép lẫn nhiệt lượng của tảng đá sẽ khiến băng tan, tạo thành lối lên cho chính nó. Lượng băng tan thành nước sẽ chảy xuống lấp đầy lỗ hổng phía bên dưới tảng thiên thạch khổng lồ, lấp đầy chỗ trống.
Giống như dùng con dao nóng để cắt một khoanh bơ.
Norah chỉ tay vào những chàng nhân viên của NASA: “Vì máy cũng không thể chịu được sức nặng của tảng đá này nên tôi phải dùng sức người”.
“Xạo đấy!” Một trong những anh chàng đang làm việc nói xen vào “Vì chị ta muốn chúng tôi phải nhễ nhại mồ hôi nên mới bịa ra thế này!”
“Làm gì mà nóng thế”, Norah không chịu kém cạnh “Mấy anh chàng ỏn ẻn nhà anh chả kêu lạnh suốt mấy hôm nên tôi mới phải ra tay cứu chữa cho chứ. Kéo tiếp đi”.
Tất cả bọn họ cười phá lên.
“Những chóp nhọn kia dùng làm gì?” Rachel hỏi và chỉ vào những chiếc cọc hình chóp màu cam trông như cọc tiêu trên đường cao tốc xếp quanh chân giàn giáo chẳng theo một trật tự nào. Cô cũng đã nhìn thấy những chiếc cọc tương tự được xếp xung quanh tòa nhà.
“Đó là loại dụng cụ điển hình của giới băng hà học”. Norah trả lời. “Chúng tôi gọi là SHABA. Dùng để báo cho mọi người biết nguy hiểm”. Cô nhấc một chiếc cọc lên, để lộ ra lỗ khoan hình tròn sâu hoắm xuống trên mặt băng. “Không nên dẫm chân vào đây”. Rồi chị ta để lại chiếc cọc vào chỗ cũ. “Chúng tôi phải khoan băng để kiểm tra độ tiếp nối cấu trúc của nó. Tương tự như bên ngành khảo cố học, niên đại của một vật thường được quy định bởi độ dày của những lớp bao phủ bên trên nó. Càng ở dưới sâu thì niên đại của nó càng lớn. Do đó, chúng tôi tính toán lớp băng phủ lên trên một vật để tìm ra niên đại chính xác của vật đó. Cần phải tiến hành khoan những vị trí khác nhau trên cùng một bề mặt để đảm bảo rằng đây là một phiến băng liền, chưa một lần bị ảnh hưởng của động đất, khe nứt, tuyết lở, vân vân...”
“Thế các vị thấy dòng sông băng này thế nào?”
“Hoàn hảo”. Norah đáp. “Một phiến băng liền hoàn hảo. Không một dấu vết dị thường nào. Vì thế chúng tôi xếp tảng thiên thạch này vào loại “rơi êm”. Nó đã nằm yên trong sông băng, không động cựa, không ai chạm đến suốt từ năm 1716”.
Rachel lại hỏi: “Làm thế nào mà biết được chính xác đến từng năm?”
Câu hỏi dường như khiến Norah ngạc nhiên. “À, đó chính là lý do người ta đã mời tôi đến đây đấy. Tôi biết đọc băng mà”. Chị ta chỉ tay vào một dãy những chiếc cọc hình nón trên băng. Cọc nào trông cũng giống như một trạm điện thoại công cộng, lại có cắm những lá cờ màu da cam ở trên. Những lỗ khoan kia chính là bảng ghi chép của băng đấy. Rồi Norah dẫn Rachel đến bên một chiếc cọc “Nếu nhìn kỹ sẽ thấy có những lớp khác nhau”.
Rachel cúi xuống và bất ngờ nhìn thấy dường như có những lớp băng với độ dày mỏng, độ sáng và trong suốt khác nhau. Có tầng chỉ mỏng bằng tờ giấy, có tầng dày đến gần một inch.
“Cứ sau mỗi mùa đông thì phiến băng lại có thêm một lớp tuyết mới”. Norah nói. “Và mỗi mùa xuân nó lại tan đi mất một lớp. Cho nên mỗi lớp là dấu vết của một năm. Người ta thường bắt đầu đếm tử lớp, trên cùng, tức là từ mùa đông sau cùng”.
“Giống như đếm những vòng tròn trong một thân cây phải không?”
“Không hoàn toàn đơn giản như vậy, cô Sexton ạ. Trong trường hợp này ta phải đo đạc những lớp chồng lên nhau dày tới cả trăm foot cần phải lấy các dấu hiệu khí hậu học làm chuẩn - lượng tuyết rơi, các chất ô nhiễm trong không khí, đại loại như thế”.
Lúc này thì Tolland và những người khác đến bên họ. Ông ta mỉm cười nói với Rachel: “Cô thấy hiểu biết của cô ấy về băng tuyết có đáng nể không?”
“Thật kỳ lạ!” Rachel cảm thấy vui sướng khi được gặp lại ông ta. “Đúng thế chị ấy vô cùng hiểu biết”.
“Và nhân tiện xin nói thêm, con số 1917 mà Norah đưa ra là hoàn toàn chính xác. NASA cũng đã tìm ra đúng con số đó trước khi chúng tôi đặt chân tới nơi này. Tiến sĩ Mangor đã tự khoan băng, tự tiến hành kiểm tra, và làm việc độc lập khi xác minh phát kiến của NASA”.
Điều này quả là ấn tượng.
“Còn một sự trùng lặp ngẫu nhiên nữa”. Norah nói thêm “1716 cũng chính là năm mà những nhà thám hiểm đầu tiên ghi nhận hiện tượng một quả cầu lửa lớn rơi xuống phía bắc Canada. Tảng thiên thạch này ngày ấy đã được đặt tên là “Jungersol Fall” - tên của người dẫn đầu đoàn thám hiểm đó”.
“Vì thế” Corky nói tiếp, “niên đại của tảng đá và các sự kiện lịch sử là những bằng chứng để chứng minh rằng chúng ta đang xem xét chính tảng thiên thạch mà Jungersol đã quan sát được năm 1716”.
“Tiến sĩ Mangor ơi!” Một trong những anh chàng đang kéo tời kêu lớn: “Nhìn thấy chiếc khóa yếm trên cùng rồi đây này!”
“Sắp xong việc rồi đây, các chàng trai”. Norah nói. “Giây phút lịch sử đây!” Chị ta trèo lên chiếc ghế ngay cạnh đó và lấy hết sức nói thật to: “Năm phút nữa thôi, hỡi anh em!”
Từ khắp mọi ngóc ngách trong bán sinh quyển, y như bầy chó của Pavlov nghe thấy tiếng chuông báo giờ cho ăn, các nhà khoa học bỏ hết những việc đang làm và đổ về khu vực giàn giáo.
Norah Mangor hai tay chống nạnh nói: “Nào, chúng ta cùng kéo Titanic lên nào”.
-
Chương 28
“Mọi người tránh ra nào?” Norah vừa nói lớn vừa đi đi lại lại giữa đám đông. Các anh chàng kéo tời đứng tản sang một bên. Norah kiểm tra độ căng và độ liên kết của dây tời thêm một lần cuối cùng.
“Kéo!” Một trong những chàng trai hô lên. Tất cả đồng loạt kéo dây tời lên thêm sáu inch nữa.
Khi những sợi dây tời được tiếp tục kéo lên, Rachel cảm nhận thấy đám đông mỗi lúc một lớn thêm, thảy đều đang chờ đợi.
Corky và Tolland đứng ngay gần cô, háo hức chẳng khác nào trẻ con mong nhìn thấy ông già Nôen. Đối diện họ, bên kia lỗ khoan lớn, Rachel thấy bóng dáng to lớn nặng nề của Lawrence Ekstrom, cũng đang đợi xem tảng đá xuất hiện.
“Anh em ơi!” một chàng trai NASA hào hứng. “sếp cũng đến rồi kìa!”
Những sợi cáp liên tục được kéo từ dưới hố khoan lên đã chuyển từ màu trắng bạc sang màu vàng.
“Sáu foot nữa thôi! Đều tay vào!”
Tất cả những người đang đứng quanh giàn giáo lặng phắc. Ai cũng đang nóng lòng được nhìn thấy vật thiêng sắp xuất hiện trước mắt - ai cũng muốn được trông thấy hình ảnh đầu tiên của tảng đá.
Và Rachel được nhìn thấy.
Lớp băng phủ bên trên mỏng dần, và tảng thiên thạch bắt đầu lộ ra. Lúc đầu chỉ là một hình khối lồi lồi thuôn dài, nhưng mỗi lúc một gần bề mặt và hình dáng của nó càng rõ ràng hơn.
“Mạnh nữa lên!” Một kỹ thuật viên hô to. Tất cả bọn họ kéo căng dây tời, và chiếc ròng rọc kêu ken két.
“Năm foot nữa thôi! Đều tay vào!”
Rachel thấy lớp băng đá bên trên tảng đá bắt đầu bị đội lên như thế một con quái vật đang trở dạ và sắp sửa sinh con. Trên mặt băng, quanh chùm tia sáng màu đỏ tươi, băng tan ra, để lộ ra một phần bề mặt của tảng đá lớn.
“Tử cung mở rồi!” Có người hô to. “Mở chín trăm xăng ti mét rồi đây này”.
Tiếng cười giòn gĩa phá tan bầu không khí im lặng.
“Được rồi! Tắt đèn laze đi!”
Đèn tắt, chùm tia sáng biến mất.
Và rồi giây phút trọng đại đã đến.
Tảng đá phá vỡ lớp bề mặt băng với tiếng huýt trầm trầm, hơi bay lên nghi ngút, và hình khối khổng lồ của nó hiện ra, một cách thần bí. Cánh đàn ông tiếp tục kéo căng dây tời cho đến khi toàn bộ tảng đá nhô hẳn lên khỏi lỗ thủng lớn trên băng, nước rỏ tong tong xuống hố nước nóng đang bốc hơi nghi ngút.
Rachel như bị thôi miên.
Đung đưa trên dây tời, nước rỏ ròng ròng, hòn đá xù xì đang ánh lên dưới ánh điện nê ông, nó ánh lên những tia sáng màu đỏ tím. Một đầu của tảng đá khá nhẵn và thuôn, chắc chắn đó chính là phần đã bị bầu khí quyển nung cháy khi rơi xuống trái đất. Nhìn lớp vỏ ngoài cháy xém, Rachel mường tượng hình ảnh tảng đá rơi xuống bề mặt trái đất như một quả cầu lửa. Không thể tin nổi cuộc đó đã cách đây vài thế kỷ. Lúc này, con quái vật bị sa bẫy đang treo chung chiêng dưới xích sắt, nước rỏ tong tỏng.
Cuộc săn lùng kết thúc.
Đến lúc này Rachel mới thấy hết tính chất kịch tính của toàn bộ sự kiện này. Hòn đá ngay trước mắt cô được sinh ra trên một hành tinh khác cách xa vạn dặm. Và bên trong nó là những bằng chứng - chứng cứ thì đúng hơn - rằng nhân loại không hề đơn côi trong vũ trụ bao la.
Hình như tất cả mọi người đều có cảm giác rất hân hoan, và tất cả cùng vỗ tay, huýt sáo vang dội. Thậm chí cả ngài Giám đốc dường như cũng không thể không bị ảnh hưởng của bầu không khí này. Ông ta vỗ vai những đồng nghiệp của mình, chúc mừng họ. Chứng kiến quang cảnh này, Rachel bất chợt cảm thấy mừng cho NASA. Họ đã từng có những thời kỳ khó khăn. Nhưng tất cả đã đổi thay, và họ xứng đáng được hưởng giây phút này.
Lỗ thủng lớn giờ trông như một cái ao nhỏ bên trong bán sinh quyển. Mặt nước của chiếc ao có độ sâu hai trăm foot vỗ ì ọp vào bờ băng một lúc rồi cuối cùng mới chịu nằm yên. Mực nước bên trong thấp hơn mép băng bên ngoài khoảng bốn foot, hiển nhiên là do thể tích của hòn đá vừa được lấy ra khỏi lòng phiến băng, và còn do nước có tính chất gĩan nở khi đóng thành băng.
Norah Mangor ngay lập tức xếp những chiếc cọc hình nón xung quanh lỗ băng lớn. Dù mép băng rất dễ nhìn thấy, nhưng bất kỳ ai sơ ý sảy chân xuống đây sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng.
Thành băng xung quanh vừa cao vừa dựng đứng, và không ai có thể tự leo lên khỏi vực thẳm này.
Lawrence Ekstrom ì ạch tiến về phía họ. Ông ta đến bên Norah Mangor và xiết chặt tay chị ta một cách nhiệt thành. “Chị cừ lắm, tiến sĩ Mangor ạ”.
“Tôi không thích những lời ngợi khen suông đâu nhé”. Norah đáp.
“Dĩ nhiên rồi”. Rồi ông ta quay sang Rachel “Thưa cô Sexton, chuyên viên luôn hoài nghi của chúng ta đã tin chưa nào?”
Rachel không thể nén nổi nụ cười: “Phải nói là kinh ngạc sững sờ thì mới chính xác”.
“Tốt lắm, vậy mời cô đi theo tôi!”
Rachel theo ông Giám đốc đến bên chiếc hộp sắt lớn trông giống những chiếc công ten nơ người ta vẫn thường chất lên tàu thuỷ. Chiếc hộp sắt được sơn rằn ri và ba chữ viết tắt nổi bật: PSC.
“Cô sẽ vào trong này để liên lạc với Tổng thống”. Ông ta nói.
Buồng thông tin mật di động đây, Rachel nghĩ thầm. Những buồng thông tin di động kiểu này vẫn được dùng trong quân sự, nhưng Rachel chưa thấy nó được dùng trong thám hiểm vũ trụ bao giờ. Nhưng tất nhiên, Ekstrom trước đây đã làm việc trong Nhà Trắng, nên không lạ gì ông ta có trong tay thiết bị hiện đại này. Vẻ mặt nghiêm trang của hai người lính đang cầm súng đứng gác khiến cho Rachel có một trực cảm vô cùng rõ ràng rằng nếu Giám đốc NASA không trực tiếp ra lệnh thì không ai được phép vào bên trong.
Có vẻ như mình không phải là người duy nhất bị bắt cóc kiểu này.
Ekstrom vắn tắt ra lệnh với một trong hai người lính và quay sang nói với Rachel “Chúc cô may mắn” rồi ông ta đi.
Một người lính gạt chốt trên cánh cửa, và cánh cửa mở ra. Một kỹ thuật viên xuất hiện và ra hiệu bảo Rachel vào trong. Cô theo chân anh ta.
Bên trong PSC thật ngột ngạt và tối tăm. Nhờ ánh sáng xanh mờ ảo phát ra từ một màn hình vi tính duy nhất đang hoạt động, Rachel nhìn thấy những giá cao để điện thoại, radio và những thiết bị liên lạc vệ tinh. Rachel mơ hồ cảm thấy nỗi lo lắng vô cớ. Bầu không khí ở đây thật khó chịu, chẳng khác nào trong công sự dã chiến giữa mùa đông.
“Mời ngồi, thưa cô Sexton”. Người kỹ thuật viên chỉ chiếc ghế đẩu xoay trước một màn hình phẳng. Anh ta điều chỉnh chiếc micro trước mặt cô, rồi để lên lòng Rachel một chiếc tai nghe hiệu AKG rất lớn. Sau khi kiểm tra lại lần nữa số mật khẩu lộ trình, anh ta đánh một dãy ký tự dài vào máy tính. Trên màn hình trước mặt Rachel xuất hiện chiếc đồng hồ đang đếm ngược
00:60 GIÂY
Anh ta gật gù vẻ hài lòng khi chiếc đồng hồ bắt đầu đếm ngược: “Còn một phút nữa thì kết nối sẽ hoàn thành”. Rồi anh ta quay sang trái, bước ra ngoài, đóng cửa đánh sầm. Rachel nghe tiếng chốt cửa bị khóa lách cách.
Hay thật.
Ngồi trong bóng tối, chờ đợi, cô nhận ra đây là giây phút riêng tư duy nhất cô có được suốt từ sáng sớm tới giờ. Sáng sớm nay thức dậy, cô không hề biết trước một ngày mới đầy ắp sự kiện đến thế này đang chờ đón mình. Sự sống bên ngoài trái đất. Hôm nay, huyền thoại được nhắc đến nhiều nhất trong lịch sử loài người sẽ không còn là huyền thoại nữa.
Lúc này cô bắt đầu nhận thức được tác động tiêu cực to lớn của tảng thiên thạch lên sự nghiệp của cha mình. Dù cho việc chi tiêu của NASA không thể nào là một vấn đề thực sự có tầm ảnh hưởng sâu rộng như quyền nạo thai, phúc lợi xã hội, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, thì chính cha cô đã chủ tâm biến nó thành một vấn đề. Giờ đây, chính nó sắp sửa giáng cho ông một đòn chí tử.
Chỉ vài giờ nữa, người Mỹ sẽ tha hồ bàn tới bàn lui về phát kiến của NASA. Vô số nhà khoa học sẽ ngạc nhiên đến tròn xoe mắt, và xúc động chảy nước mắt. Lũ trẻ con thì sẽ được thả sức tưởng tượng. Trong giây phút lịch sử này, vấn đề những tờ đô la, những đồng xu tiết kiệm mà cha cô đề xướng sẽ bị bóng tối bao phủ. Ngài Tổng thống sẽ đạt được vị thế của vị anh hùng dân tộc, và cha cô với diện mạo của một doanh nhân thiển cận, đầu óc hẹp hòi, không hề mang trong mình chút dấu vết nào của dòng máu phiêu lưu mạo hiểm mà dân tộc này tôn thờ - sẽ len lỏi vào giữa quang cảnh hồ hởi rạng rỡ ấy.
Máy tính phát một tiếng bíp, Rachel ngước nhìn lên.
00:05 giây.
Đột nhiên màn hình máy tính trước mặt cô nhấp nháy, rồi biểu tuợng của Nhà Trắng bắt đầu xuất hiện. Sau thoáng chốc, biểu tượng ấy được thay bằng khuôn mặt của Tổng thống Herney.
“Xin chào Rachel”. Ông ta nói, ánh mắt đầy vẻ tinh anh. “Tôi đoán là cô vừa trải qua một buổi chiều đầy ắp những ấn tượng”.
Chương 29
Văn phòng của Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton nằm trong tòa nhà Phillip A. Hart, phố C, phía đông bắc đồi Capitol. Đặc trưng của tòa nhà là rất nhiều mảng khối hình tứ giác ghép lại với nhau, và nhiều nhà phê bình kiến trúc đã nói rằng trông nó giống nhà tù hơn là tòa nhà văn phòng. Và nhiều người làm việc trong tòa nhà này cũng có cảm giác y hệt như thế.
Trên tầng ba, Gabrielle Ashe đang sải đôi chân dài kiều diễm trong phòng. Trên màn hình máy tính của cô vừa có thông điệp điện tử mới, và cô băn khoăn không biết nên ứng phó thế nào.
Hai dòng đầu tiên như sau:...
TRÊN CNN SEDGEWICK ĐÃ GÂY ẤN TƯỢNG TỐT.
TÔI CÓ THÊM THÔNG TIN MỚI NỮA ĐÂY.
Đã hai tuần nay, Gabrielle đều nhận được những bức thư kiểu này. Người gửi thư dùng địa chỉ nặc danh, mặc dù cô đã phát hiện được tên miền của Nhà Trắng. Có lẽ người cung cấp tin giấu mặt này là nhân viên của Nhà Trắng. Dù người đó là ai thì những tin được cung cấp theo kiểu này đã trở thành nguồn tin quý giá, kể cả tin về cuộc gặp bí mật giữa Giám đốc NASA và Tổng thống.
Lúc đầu Gabrielle không tin ngay những tin tức được cung cấp, nhưng rồi cô kinh ngạc nhận thấy chúng luôn chính xác và rất có ích - từ những chi tiêu quá độ của NASA, những chương trình tìm kiếm sự sống ngoài trái đất của NASA vừa tốn kém vô cùng vừa không đem lại kết quả nào, thậm chí cả những đợt thăm dò dư luận nội bộ cho thấy NASA có thể trở thành một lí do khiến cử tri quay lưng lại với Nhà Trắng.
Để làm ra vẻ quan trọng, Gabrielle không cho ngài Thượng nghị sĩ biết rằng họ đang nhận được sự trợ giúp tình nguyện của một nhân viên Nhà Trắng. Thay vào đó, cô thường báo tin cho ông theo kiểu đây là “nguồn tin riêng của cô”. Sexton luôn tỏ ra là người nhạy cảm và đủ hiểu biết để không hỏi xem đó là người nào. Cô biết rằng ông tưởng Gabrielle có mối quan hệ tình ái với một nhân vật nào đó. Vấn đề là ông không hề cảm thấy chút lấn cấn nào về chuyện này.
Gabrielle ngừng đi đi lại lại và đọc bức thư vừa được gửi đến. Hàm ý của nó rất rõ ràng: Ai đó bên trong Nhà Trắng muốn thấy Sedgewick Sexton thắng cử và đang ngấm ngầm giúp đỡ bằng cách trợ lực cho ông để tấn công vào NASA.
Nhưng người này là ai? Tại sao lại thế?
Một kẻ phản bội muốn nhảy khỏi con tàu sắp đắm, Gabrielle quả quyết. Chuyện một nhân viên nào đó của Nhà Trắng lo sợ Tổng thống đương nhiệm sắp bị thất cử và lén lút giúp đỡ đối thủ đang trên thế thắng của ông ta với hi vọng kiếm một chỗ làm trong nhiệm kỳ Tổng thống tiếp theo không phải là chuyện hiếm ở Wasshington. Có lẽ nhân vật nào đó đã đánh hơi được thế thắng của Sexton và quyết định hành động sớm.
Những dòng chữ đang hiện trên màn hình khiến Gabrielle cảm thấy bồn chồn không yên. Bức thư này rất khác những bức thư cũ. Hai dòng đầu thì không có vấn đề gì, nhưng hai dòng sau thì lại không như vậy:
CỔNG PHONG CHỨC PHÍA ĐÔNG, 4G 30 PHÚT
ĐẾN MỘT MÌNH
Người này chưa bao giờ yêu cầu gặp mặt trực tiếp. Tuy nhiên, cô cho rằng có nhiều cách khác tế nhị hơn nhiều so với đi gặp nhau trực tiếp thế này. Cổng phong chức phía đông? Cả Washington này chỉ có một cổng phong chức. Bên trong Nhà Trắng sao? Liệu đây có phải là một trò đùa không nhỉ?
Gabrielle biết chắc cô không thể trả lời qua đường thư điện tử, tất cả những thư cô gửi cho người này đều bị báo về là không tìm được địa chỉ. Đó là địa chỉ nặc danh. Lẽ dĩ nhiên.
Có nên hỏi ý kiến Thượng nghị sĩ không nhỉ? Cô nhanh chóng cho rằng như thế là không nên. Ông ấy đang họp. Hơn nữa, nếu cho ông ấy biết về bức thư này thì có nghĩa là phải nói toàn bộ sự thật.
Suy cho cùng, người này chọn chỗ gặp mặt giữa thanh thiên bạch nhật như thế cũng là để cho Gabrielle an tâm. Dù sao thì người này cũng đã giúp đỡ cô suốt hai tuần qua. Dĩ nhiên đây là một người bạn.
Đọc lại bức thư điện tử lần cuối xong, Gabrielle xem đồng hồ.
Cô còn một giờ đồng hồ nữa.
-
Chương 30
Giờ đây, khi tảng thiên thạch đã được kéo lên khỏi sông băng, Giám đốc NASA cảm thấy đỡ hẳn cảm giác bực bội. Mọi thứ đều đã đâu vào đấy ông vừa tự nhủ vừa đi băng qua bán sinh quyển để tiến về phía phòng làm việc của Micheal Tolland. Từ giờ sẽ chẳng còn kẻ nào dám động đến mình nữa.
“Thế nào rồi?” Ekstrom hỏi, chân sải bước đến ngay sau lưng nhà bác học làm truyền hình.
Tolland nhìn màn hình vi tính trước mặt, trông ông rất mệt mỏi nhưng hồ hởi: “Phần hậu kỳ sắp xong rồi. Tôi đang dán nốt những cảnh do các chuyên gia của anh tự quay. Một loáng là xong ngay”.
“Tốt lắm”. Tổng thống yêu cầu Ekstrom chuyển đoạn phim về Nhà Trắng càng sớm càng tốt.
Ekstrom đã tỏ ra hoài nghi khi Tổng thống quyết định mời Tolland tham gia dự án này, nhưng sau khi xem qua những đoạn phim còn chưa hoàn thiện, Giám đốc NASA không còn nghĩ như trước nữa. Những lời giải thích sinh động của ngôi sao truyền hình này, xen kẽ với những lởi phát biểu của các nhà khoa học dân sự, đã được gói gọn một cách tài ba trong thời lượng 15 phút. Tolland đã dễ dàng đạt được cái mà các nhà khoa học của NASA thường không thể thực hiện nổi - miêu tả những phát kiến khoa học một cách dễ hiểu đối với những người Mỹ bình thường mà không hề có vẻ trịch thượng.
Ekstrom bảo ông ta: “Khi nào xong thì anh hãy mang ngay phim tới khu báo chí nhé. Tôi sẽ cử người gửi ngay phiên bản số hóa của bộ phim cho Tổng thống”.
“Vâng, thưa ngài Giám đốc”.
Ekstrom ra khỏi phòng, và khi đi ngang qua “khu báo chí” giờ đã được bài trí đẹp đẽ, ông không thể không cảm thấy đầy hưng phấn. Một tấm thảm xanh lam lớn đã được trải trên sàn, chính giữa thảm là chiếc bàn kiếu hội nghị được bố trí mấy chiếc micro, một phù hiệu của NASA, và một lá cờ Hoa kỳ rất lớn được căng lên làm phông nền. Tảng thiên thạch đã được chuyển lên chiếc xe kéo trang trí lộng lẫy và được bày ở vị trí trang trọng ngay trước chiếc bàn. Ở chính giữa “khu báo chí”.
Ekstrom hài lòng nhận thấy một bầu không khí hội hè bao rùm gian phòng. Khá nhiều nhân viên của ông đang xúm xít quanh tảng đá, sờ tay vào mặt đá hãy còn ấm nóng, chẳng khác gì những người đi cắm trại đang vây quanh ngọn lửa trại.
Ông quyết định đã đến lúc ăn mừng. Ekstrom tiến về phía mấy hộp giấy bày rải rác xung quanh căn phòng. Sáng hôm nay ông vừa lệnh đưa chúng từ Greenland tới.
“Chúng ta cùng uống mừng nào?” Ông nói lớn, tay phân phát bia lon cho đám nhân viên đang vui như tết.
“Ôi! Cảm ơn sếp!” Có người hét ầm lên. “Cảm ơn sếp! Bia lạnh nghiêm đấy nhé!”
Ekstrom mỉm nụ cười hiếm hoi: “Bia ướp đá mà lại!”
Ai cũng cười.
“Đợi chút!” Lại có người hét lên, giọng ra vẻ trách móc “Đây là bia Canada! Lòng yêu nước của sếp để đâu rồi?”
“Chúng ta phải tiết kiệm, các bạn ạ. Bia này rẻ nhất đấy”.
Lại những tiếng cười giòn gĩa.
“Mọi người chú ý!” Một nhân viên truyền thông của NASA bắc loa, nói. “Chúng tôi sắp sửa bật đèn trường quay, quý vị có thể sẽ bị tối một lúc đấy ạ”.
“Cấm không ai được lợi dụng hôn hít gì đâu nhé!” Tiếng một nhân viên lanh lảnh. “Chương trình không cấm trẻ em đấy nhé!”
Ekstrom cười lớn, hòa vào niềm vui rạo rực của đội ngũ nhân viên khi những bóng đèn được chỉnh lại vị trí lần cuối.
“Bật đèn trường quay nhé! Năm, bốn, ba, hai...”
Ngôi nhà tối dần đi khi những chiếc đèn halogien đồng loạt bị tắt. Trong vòng vài giây sau đó, tất cả chìm trong bóng tối mịt mùng.
Có người giả bộ kêu thét lên.
“Ai véo mông tôi thế này!” Mọi người vừa hét vừa cười như nắc nẻ.
Chỉ sau một giây, bóng tối bị xé nát bởi những ngọn đèn trong trường quay đồng loạt sáng trưng. Lóa mắt. Công đoạn chuyển nguồn sáng thế là hoàn tất; khu phía bắc của bán sinh quyển đã biến thành một trường quay truyền hình. Những khu khác trong ngôi nhà lớn trông chẳng khác gì nhà kho tăm tối. Ánh sáng từ trường quay này hắt lên mái nhà hình vòm, tạo thành những mảng tối dài khi những bức tường bơm hơi đổ bóng dài trên khu làm việc giờ không một bóng người.
Ekstrom tiến vào vùng tối, hài lòng thấy tất cả mọi người đang vui vẻ bên tảng thiên thạch. Ông tưởng như mình là ông già Nôen đang nhìn ngắm lũ trẻ chơi đùa quanh cây thông.
Có Chúa biết họ đáng được như thế, ông thầm nghĩ, không hề biết tai họa lớn đang lơ lửng trên đầu.