-
http://imageshack.com/a/img924/7175/1uUl6v.jpg
ĐÀ LẠT MÙA TRĂNG
Đà Lạt ta về để nhớ em
Nhớ mùa trăng trước ướt hương đêm
Xa em, xa cả mùa trăng ấy
Xa áo thu bay tóc gió mềm.
Đâu khúc đàn mơ bên suối thơ
Mảnh trăng chìm nổi giữa bơ vơ
Đồi Cù thuở ấy mình ly biệt
Hai nẻo chia xa nỗi đợi chờ.
Lung linh như nước hồ Xuân Hương
Mắt em buồn lệ mờ trong sương
Người đi nghiêng ngả vầng trăng lạnh
Ngả bóng trăng rơi rải mặt đường.
Ta đã xa rồi em cũng xa
Thương trời Đà Lạt hạt mưa sa
Thương màu trăng cũ soi trên áo
Áo lụa tình trăng sáng mượt mà.
Đá vỡ còn đây vọng dấu chân
Một thời lóng ngóng bước bâng khuâng
Một thời hai đứa cùng xây mộng
Mộng cũng chia tan chẳng được gần.
Lấp loáng đồi thông những bóng mây
Những mùa trăng biếc, biếc trên cây
Ta qua phố cũ buồn muôn lối
Áo trắng ai bay gió lạnh đầy?
Đà Lạt 1999
(Tuyển tập thơ Thơ Nhà Giáo – NXB Văn Hóa Dân Tộc 2003)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
http://imageshack.com/a/img922/7826/IEptpk.jpg
Ghi chú: ảnh minh họa sưu tầm từ internet
-
Bài viết khá chi tiết , lâu rồi mới thấy trên diễn đàn có bài viết thế này , cái này mình đang tìm, thank chủ thớt đã tìm và chia sẻ cho anh em
-
http://imageshack.com/a/img924/8937/Ua4AcP.jpg
TRÁI TIM YÊU
Trái tim lắm lúc lạc lầm
Chỉ là sỏi đá lại thầm mộng mơ
Trái tim nghĩ cũng dại khờ
Yêu thương một phút đợi chờ ngàn năm.
2001
(Tập thơ Cỏ Hoa Thì Thầm – NXB Thanh Niên 2002)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
http://imageshack.com/a/img922/1831/7NuEUV.jpg
Ghi chú: ảnh minh họa sưu tầm từ internet
-
http://imageshack.com/a/img922/1257/lIyMKV.jpg
ĐỌC BÀI THƠ NỬA ĐỜI CỦA THANH TRẮC NGUYỄN VĂN
Tôi biết Thanh Trắc Nguyễn Văn hơn 10 năm nay! Rồi gặp anh với 2 nhà thơ Trần Ngọc Hưởng và Thái Thanh Nguyên năm 2006 tại thành phố Hồ Chí Minh. Lần gặp ấy, ba thi sĩ (hai nam, một nữ) đã để lại trong tôi ấn tượng không thể quên được, nhất là tác giả bài thơ NỬA ĐỜI này!
Tôi không loanh quanh kể lại chuyện gặp gỡ xúc động ấy nhưng tôi muốn nhớ lại để chiêm nghiệm với bài thơ mà nhân vật tâm trữ tình chính là tác giả - nhà thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn - một người đã cầm bút hơn 10 năm kể từ “Hoa sứ trắng” (tập thơ đầu tay xuất bản năm 1997)… Thanh Trắc Nguyễn Văn sinh năm 1962 là một nhà giáo yêu văn học (tôi khẳng định như thế vì biết anh đã góp mặt rất nhiều thi tuyển và từ 1997 đến nay đã cho ra mắt độc giả 4 tập thơ riêng) vừa tham gia dạy học và sáng tác thơ, văn đặc biệt thơ anh được chọn vào “Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam” (NXB Văn học, 2000).
“Nửa đời” là bài thơ viết cho mình, mang tâm trạng như nhiều thi sĩ khác, viết để giải bày tâm trạng của người làm thơ. Bài thơ viết khi nhà thơ ngoài bốn mươi tuổi - cái tuổi đến độ chín của người thơ, đủ để trải nghiệm, đủ để biểu đạt triết lý ẩn chứa trong ngôn ngữ thi ca... Bằng thể lục bát vắt dòng nhấn ý thể hiện rõ nét tứ - ý, nhấn mạnh nội dung biểu đạt cô và sắc với cách lựa chọn ngôn từ cẩn trọng của một người cầm bút khá lâu:
Nửa đời
Nhỏ lệ làm sông
Thuyền yêu chèo mãi
Vẫn không thấy bờ.
Khổ thơ thứ nhất mở đầu bằng cách giới thiệu “Nửa đời nhỏ lệ làm sông/ Thuyền yêu chèo mãi vẫn không thấy bờ…”. Tôi cứ nghĩ mãi hình ảnh “nhỏ lệ làm sông?! Thi sĩ trời phú cho trái tim đa sầu đa cảm, buồn vui chợt đến, chợt đi để rồi từ trái tim ấy những câu thơ cất lên như xé ruột gan. Biện pháp tu từ nói quá của anh “nhỏ lệ làm sông” chấp nhận, nhưng xét trong mạch cảm, mạch nghĩ với câu thơ sau thì đó chính là gom góp yêu thương của con thuyền tình yêu hành trình trên con đường kiếp người. Viết được câu thơ này chắc hẳn người thơ có sự trải nghiệm trong tình yêu, đổ vỡ trong hôn nhân, xót xa cay đắng trước con đường đi tìm bến hạnh phúc cho tâm hồn mình! Tôi cảm như thế bởi câu thơ thứ hai trong khổ thứ nhất “vẫn không thấy bờ” của anh ngầm truyền vào tôi nỗi xa xót khi kết hợp với “nhỏ lệ làm sông”…
Khổ thứ hai cũng chỉ hai câu lục tách thành 4 dòng:
Nửa đời
xếp chữ làm thơ
Chữ “tình” đi mất
bỏ “khờ” chèo queo…
kéo tôi về với thực tại đắng đót của những người làm thơ. Thật ra có người làm thơ may mắn bởi tri âm tri kỷ, người bạn đời của mình cũng có trái tim đồng cảm sẻ chia thông cảm với họ; nhưng có người khó có sự đồng thuận khi làm thơ với gia đình. Có phải chăng đó là luật bù trừ mà “giời đày” cho các thi sĩ? Hay do sự “tỉnh táo” khác người của người làm thơ mà người thân yêu xa cách? Có phải trong thời buổi mà “cơm áo gạo tiền” đầy vất vả lo toan, khiến cho người vợ khó chấp nhận khi thấy chồng suốt ngày đam mê với văn chương? “Cơm áo không đùa với khách thơ”? Tôi đã nghe, thấy và chứng kiến nhiều thi sĩ mải đeo đuổi đam mê và cuối cùng phải chia tay với “người bạn trăm năm” trong nỗi niềm đau đớn khắc khoải đến cô độc cháy lòng! Chữ “tình” ở đây, trong khổ thơ này phải chăng là điều ấy? Người đi rồi để lại nỗi cô đơn! Cô đơn ngập tràn đến “khờ” để rồi “chèo queo “ với đời, “chèo queo” với thơ, “chèo queo” khắc khoải giữa đời…..
Đến khổ thứ ba, chất thi sĩ tài hoa thoắt hiện trong cái “chiêm nghiệm” thực tế phũ phàng:
Nửa đời
Bán mảnh trăng treo
Tháng năm rơi trắng
Cái nghèo còn mang…
Hàn Mặc Tử đã từng rao “Ai mua trăng tôi bán trăng cho…” Trăng là hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng! Không riêng ai, không sở hữu của ai phải mua bán! Có “bán” chăng là cách nói của thi sĩ, khát vọng và tình yêu; xót xa và hạnh phúc… tháng năm thi sĩ miệt mài lao động nghệ thuật chưng cất nên những câu thơ góp cho đời những “bông hoa” ngát hương trong “vườn văn học”. Người làm nghệ thuật chân chính, thường họ không nghĩ đến làm kinh tế, có khi cả đời chỉ viết được một tác phẩm hay. Nhưng không đam mê, không lao vào, tận tâm tận lực với văn chương liệu có thành công, có tác phẩm hay không? Trải qua nửa đời rồi ngẫm lại, người thơ thấy “cái nghèo còn mang”. Không phải đó là sự hối tiếc, ân hận; không phải là xót xa cái nghèo bám víu người thơ- còn có sự liên tưởng thú vị hơn nhiều với hình ảnh tưởng tượng khá độc đáo “tháng năm rơi trắng..” Tính từ “trắng” (theo cách ngắt nhịp của câu thơ) gợi lên ý thức sống- ý thức thời gian, khát khao dâng hiến nhưng chưa có được cái mà mình khao khát ước mơ rất chân thành không cao xa diệu vợi. Và chiêm nghiệm hành trình trên con đường thi ca đến đích trải qua bao thăng trầm gian khó, có khi trắng cả thời gian tâm huyết hoài bão của mình mà kết quả không thành!
Khổ cuối của bài thơ cũng lặp lại điệp khúc “nửa đời” khởi đầu câu lục, nhưng ý thơ làm tôi “ngộ” ra một điều mới phát hiện từ chiêm nghiệm của “anh” của “mình”!
Nửa đời
Nhặt giấc mơ hoang
Một đêm vấp nhớ
Bàng hoàng tìm em.
“Sống trên đời cần có một tấm lòng” (Trịnh Công Sơn). Tấm lòng với tình yêu, với cuộc sống, với đam mê, với gia đình… Nhưng để làm được mơ ước hoài bão mình khao khát chỉ có một con đường “đi tới” trên con đường đầy chông gai trắc trở khó khăn, với quyết tâm và nghị lực phi thường! Trên con đường “nhặt giấc mơ hoang” đến “nửa đời” bỗng “một đêm” nhận ra tình yêu anh dành cho em, dành cho cái nửa của mình thật lớn lao ắp đầy nỗi nhớ, để rồi “bàng hoàng” đi tim “cái nửa” mình đã đánh mất lâu nay!
“Em”- chủ thể thứ hai- hiện lên cuối bài thơ đi kèm với một tính từ “bàng hoàng” và một động từ “tìm” cho thấy một tâm trạng vừa bàng hoàng vừa khắc khoải xa xót của một tâm hồn thi sĩ sau những “giấc mơ hoang”….
“Nửa đời” của Thanh Trắc Nguyễn Văn là một bài thơ hay! Thật khó có thể cảm nhận hết bằng ngôn ngữ. Những cảm nhận của tôi theo cách cảm của người làm thơ, yêu thơ, say thơ và có sự đồng cảm sẻ chia với người thơ! Hy vọng “nửa đời” còn lại của tác giả bài thơ này sẽ gặt hái hạnh phúc trên con đường “tìm em”- Em trong tình yêu và em tác phẩm nghệ thuật mà mọi người yêu thích!
Bình Định, 20.01.2010
(Giải nhất Bình thơ trong tháng tại trang web văn học Đất Đứng)
Nhà thơ Lê Bá Duy
http://imageshack.com/a/img922/1690/7GADC6.jpg
---------------------------------------------------------------------
http://imageshack.com/a/img924/9285/M2Zy02.jpg
NỬA ĐỜI
Nửa đời
Nhỏ lệ làm sông
Thuyền yêu chèo mãi
Vẫn không thấy bờ.
Nửa đời
Xếp chữ làm thơ
Chữ “tình” đi mất
Bỏ “khờ” chèo queo.
Nửa đời
Bán mảnh trăng treo
Tháng năm rơi trắng
Cái nghèo còn mang.
Nửa đời
Nhặt giấc mơ hoang
Một đêm vấp nhớ
Bàng hoàng tìm em.
(Báo Văn Nghệ Trẻ ngày 14.12.2008)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
http://imageshack.com/a/img924/5189/MQodVa.jpg
Ghi chú: Ảnh Hoa hậu Việt Nam 2008 Trần Thị Thùy Dung (áo dài xanh hoa) và ảnh minh họa sưu tầm từ internet
-
http://imageshack.com/a/img924/9661/a3DM3w.jpg
LỐI CŨ
Lang thang một tiếng chuông chùa
Sen hồng chợt nở nhớ mùa hạ xưa
Con đường gầy guộc nắng mưa
Em xa lối ấy
Sao chưa thấy về?
2001
(Tập thơ Cỏ Hoa Thì Thầm – NXB Thanh Niên 2002)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
http://imageshack.com/a/img924/7235/AfFHm1.jpg
Ghi chú: ảnh minh họa sưu tầm từ internet
-
http://imageshack.com/a/img923/764/wdLj6p.jpg
LỐI CŨ (bản tứ tuyệt)
Lang thang một tiếng chuông chùa
Sen hồng chợt nở nhớ mùa hạ xưa
Con đường gầy guộc nắng mưa
Em xa lối ấy... Sao chưa thấy về?
2001
(Tập thơ Cỏ Hoa Thì Thầm – NXB Thanh Niên 2002)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
http://imageshack.com/a/img923/6642/pfwMFk.jpg
Ghi chú: ảnh minh họa sưu tầm từ internet
-
http://imageshack.com/a/img923/1205/m7Mkgr.jpg
PHỐ CỔ
Ta về như chiếc lá
Rụng rơi xuống cội nguồn
Lang thang chiều phố cổ
Gió mỏng mềm như sương.
Nhà em xưa ngõ vắng
Một thuở qua ngại ngùng
Giờ nhặt mùi hoa cũ
Cầm nắng vàng run run…
Hỏi hoa hoa đã úa
Hỏi nắng nắng sang sông
Hỏi người người chẳng nhớ
Biết em còn hay không?
Phố cổ hoá phố chợ
Đèn nhấp nháy ngược xuôi
Nhà mái bằng thay ngói
Tường sơn nước thay vôi.
Cổng đình giờ quét đỏ
Phừng phực lửa hoàng hôn
Ta về nghèn nghẹn nhớ
Phỏng rát cháy tâm hồn.
Mảnh sân rêu cổ tích
Mọc lênh khênh dãy lầu
Nửa đau đau chìm lắng
Nửa buồn buồn dâng cao.
Ta về như mây trắng
Gục khóc cuối chân trời
Tìm em chiều phố cổ
Sương khói mờ chơi vơi.
1998
(Tập thơ Cỏ Hoa Thì Thầm – NXB Thanh Niên 2002)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
http://imageshack.com/a/img924/6073/iHlTbl.jpg
Ghi chú: ảnh minh họa sưu tầm từ internet
-
http://imageshack.com/a/img922/3563/VNn0dU.jpg
HOA TƯỜNG VI
Hoa tường vi tim tím đỏ
Xao xuyến mãi một người xa
Một nụ cười em trong nắng
Hay trái tim hồng trong hoa?
2001
(Tập thơ Cỏ Hoa Thì Thầm – NXB Thanh Niên 2002)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
http://imageshack.com/a/img923/7168/j6MZS1.jpg
Ghi chú: Ảnh diễn viên Tường vi và ảnh hoa tường vi sưu tầm từ internet
-
http://imageshack.com/a/img924/9079/MbLNI0.jpg
TRÚC ĐÀO
Đi ngang thấy ngọn trúc đào
Nhà em anh hỏi lối vào gần xa?
Từ ngày vườn ấy trổ hoa
Tìm em trăm nẻo dẫu xa cũng gần!
2001
(Tập thơ Cỏ Hoa Thì Thầm – NXB Thanh Niên 2002)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
http://imageshack.com/a/img923/830/jjvBWp.jpg
Ghi chú: Ảnh Tôn Nữ Na Uy và ảnh hoa trúc đào sưu tầm từ internet
-
http://imageshack.com/a/img922/2586/o6LrAW.jpg
BÀI THƠ NỬA ĐỜI VÀ BỐN BI KỊCH LỚN CỦA CON NGƯỜI
1. Bi kịch thứ nhất: Bi kịch trong tình yêu
Nửa đời
Nhỏ lệ làm sông
Thuyền yêu chèo mãi
Vẫn không thấy bờ.
Với giọng thơ lục bát nhưng Thanh Trắc Nguyễn Văn đã vận dụng lối ngắt nhịp biến 2 câu thơ lục bát 6 - 8 thành 2 - 4 - 4 - 4 để tạo nên một âm điệu vừa trữ tình vừa khoắc khoải bi thương. Yêu như trong bài thơ thì làm sao giữ gìn hạnh phúc được? Yêu là phải có nghị lực vươn lên. Tôi nhớ một bài thơ khác cũng của Thanh Trắc Nguyễn Văn, đã có một ý thức và một cách xử lý trong tình yêu hoàn toàn khác hẳn:
Cầm lên một trái khổ qua
Khổ mà kêu khổ đúng là khổ thôi
Yêu nhau leo núi vượt đồi
Chia bùi xẻ đắng khổ rồi cũng qua!
(Trái khổ qua – Thanh Trắc Nguyễn Văn)
Bi kịch trong tình yêu chính là sự ủy mị, sướt mướt. Nước mắt chỉ làm người ta thương hại chứ không giữ được tình yêu. Khoảng những năm 1980 Liên Xô có bộ phim nổi tiếng Mat-xcơ-va không tin vào những giọt nước mắt. Nay qua bốn câu thơ đầu của bài thơ Nửa đời nên có thêm một thành ngữ mới: ”Tình yêu không giữ được từ những giọt nước mắt”. Hình ảnh và hình tượng bài thơ rất đắt: ”Nhỏ lệ làm sông”, ”Thuyền yêu chèo mãi/ Vẫn không thấy bờ” gợi đến những hình ảnh đã có từ rất lâu trong tình yêu: ”biển tình”, ”biển ái” nhưng nghiệt ngã hơn rất nhiều. Cái giá phải trả của một người không có ”bản lĩnh” trong tình yêu cũng thật đáng thương ”thuyền yêu chèo mãi vẫn không thấy bờ”. Thanh Trắc Nguyễn Văn đã khéo léo dùng tu từ và nghệ thuật đúc kết cho người đọc một kinh nghiệm trong tình trường mà chắc có lẽ anh đã từng ít nhiều trải nghiệm qua.
2. Bi kịch thứ hai: Bi kịch của những người muốn làm ”nhà thơ”
Nửa đời
Xếp chữ làm thơ
Chữ “tình” đi mất
Bỏ “khờ” chèo queo.
Chưa bao giờ nước ta lại có rất nhiều người làm thơ như hiện nay. Người làm thơ thì nhiều nhưng những nhà thơ đúng nghĩa thì lại rất ít. Thơ phải viết ra từ cảm xúc, từ nghệ thuật tinh tế. ”Sáng tác” thơ mà xếp chữ cho ra một bài thơ có vần, có điệu như quay một khối rubik thì còn gì là thơ! Đó là ”thợ thơ” thì đúng hơn! Tôi còn nhớ có lần nghe một ”nhà thơ ” tự phong ở một câu lạc bộ thơ nọ, tuổi cũng đã lục tuần, lên hội trường đọc những câu thơ ngô nghê như sau:
Sáng nay mùng tám tháng ba
Chào mừng đại hội các bà các cô...
Nghe thật tức cười nhưng cũng thật giật mình vì nghe đâu ”nhà thơ” này đã xuất bản được hơn tám tập thơ và hiện đang chuẩn bị xuất bản tập thơ thứ chín! Thế mới hay làm thơ thì dễ nhưng làm thơ để đi được vào lòng người thì khó vô cùng. Cái giá phải trả của những người làm thơ loại này là đến một lúc nào đó họ mới hiểu ra mình đã quá dại dột. Họ làm thơ ”tình” nhưng chỉ để người ta xem xong và cười, có người còn xấu miệng hơn bảo họ là những kẻ háo danh. Đó chính là chữ ”khờ” của những ”nhà thơ” không có thực tài. Tuy nhiên đây là bi kịch rất dễ thương. Họ ”khờ” vì sự đam mê nghệ thuật quá đáng của mình. Có thể sự đam mê đó gây phiền nhiễu cho nhiều người khác nhưng không hề gây ra nguy hại nghiêm trọng cho xã hội. Thanh Trắc Nguyễn Văn đã dùng tu từ nhân cách hóa cho chữ ”tình” và chữ ”khờ” để biểu hiện một cách thật sinh động và cũng thật hài hước:
Chữ “tình” đi mất
Bỏ “khờ” chèo queo
Nhìn chung Thanh Trắc Nguyễn Văn đã khá thành công khi anh tạo nên một tiếng cười vui nhưng đầy cảm thông cho loại bi kịch đáng yêu này.
3. Bi kịch thứ ba: Bi kịch trong kinh doanh
Nửa đời
Bán mảnh trăng treo
Tháng năm rơi trắng
Cái nghèo còn mang.
Đã là nhà thơ hầu hết ai cũng có chút bệnh ngông! Ở Trung Quốc có nhà thơ Lý Bạch nhảy xuống dòng sông ôm trăng mà chết. Ở Việt Nam ta thì có nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng đòi bán trăng trên trời! Nhiều người khác cũng thế, họ kinh doanh rất nhiều thứ và nhiều người trong số đó đã phải cam chịu thất bại, chẳng hạn như những người ”kinh doanh thơ”. Trong một bài thơ trào lộng nhà thơ Tản Đà cũng đã từng kể chuyện ông gánh ”đống thơ ế” lên bán chợ trời!
Ở đây Thanh Trắc Nguyễn Văn dùng tu từ ẩn dụ ”mảnh trăng treo” để nói lên những cái gì rất đẹp và rất nghệ thuật. Nhưng cái đẹp, cái nghệ thuật ấy chưa chắc đã kiếm ra tiền! Kết quả là gì? Là hơn ”nửa đời” người kinh doanh, đầu tư nhưng trắng tay vẫn hoàn trắng tay! Họ hoàn toàn hiểu những điều gì họ đã và đang làm nhưng chưa chắc họ đã nhận được sự đồng cảm của những người thân. Có những người luôn bị vợ hoặc con cái chì chiết là ”vô dụng” hoặc nặng nề hơn ”là đồ ăn hại”!
Câu thơ thật phũ phàng:
Tháng năm rơi trắng
Không sinh được lợi lại còn bị mất thời gian:”tháng năm rơi”. Càng đọc, càng ngẫm nghĩ lại càng thêm chua xót. Thật đúng là ”Cơm áo không áo không đùa với khách thơ” (Thơ Xuân Diệu).
4. Bi kịch thứ tư: Bi kịch cho những người đi tìm hạnh phúc
Nửa đời
Nhặt giấc mơ hoang
Một đêm vấp nhớ
Bàng hoàng tìm em.
Nhân vật trong bài thơ hình như yêu rất nhiều. Anh ta luôn mơ đến những mối tình cao và xa đối với những nàng hoa hậu chân dài. Những chuyện tình đó thật phù phiếm và không thực. Thanh Trắc Nguyễn Văn đã dùng hình ảnh rất sinh động để diễn tả :
Nhặt giấc mơ hoang
Vâng đúng vậy, loại tình yêu đơn phương chỉ một chiều, không cân xứng kiểu như Trương Chi yêu Mỵ Nương thì quả thật đúng là một loại bi hài kịch xã hội. Đó là những ”giấc mơ hoang tưởng” không thực tế.
Thanh Trắc Nguyễn Văn đã dùng một từ rất ”đắc” đó là ”vấp”! "Vấp” chỉ xảy ra khi người ta không chú ý và giúp con người thật sự được ”bừng tỉnh”! Đã vậy, ở đây còn lại là ”vấp” vào nỗi ”nhớ”. Thật rất mới và rất lạ! Nhờ ”vấp” mà nhân vật trữ tình trong bài thơ chợt ”nhớ” đến một người con gái vẫn còn yêu thương mình thật lòng. Nhân vật vội vã ”bàng hoàng” đi ”tìm em”. Nhưng dù sao cũng đã hơn ”nửa đời” người rồi, không biết ”người ấy” đã mất hay vẫn còn trên dương thế? Nếu vẫn còn liệu người ấy có còn chờ đợi hay đã sang thuyền khác mất rồi? Than ôi!
(Giải nhất Bình thơ trong tháng tại trang web văn học Đất Đứng năm 2010)
Hùng Thanh
http://imageshack.com/a/img922/1133/XqzGKc.jpg
----------------------------------------------------------------------------------------------
http://imageshack.com/a/img922/6118/8hn8jd.jpg
NỬA ĐỜI
Nửa đời
Nhỏ lệ làm sông
Thuyền yêu chèo mãi
Vẫn không thấy bờ.
Nửa đời
Xếp chữ làm thơ
Chữ “tình” đi mất
Bỏ “khờ” chèo queo.
Nửa đời
Bán mảnh trăng treo
Tháng năm rơi trắng
Cái nghèo còn mang.
Nửa đời
Nhặt giấc mơ hoang
Một đêm vấp nhớ
Bàng hoàng tìm em.
(Bài thơ đã đăng trên báo Văn Nghệ Trẻ 14.12.2008)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
http://imageshack.com/a/img924/5730/nmIwZS.jpg
Ghi chú: ảnh minh họa sưu tầm từ internet