phonglantim
02-03-2006, 06:40 AM
Tiểu sử tác giả:
http://www.luongsonbac.de/images/thidan_hoangcam.jpg
Tên thật: Bùi Tằng Việt. Sinh năm 1922. Người huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Vùng quê nhiều di tích văn hóa vật thể và phi vật thể Kinh Bắc này đã có một ảnh hưởng sâu đậm, có thể nói là kiến tạo nên hồn thơ Hoàng Cầm.
Ông viết văn từ trước cách mạng, kịch thơ Hận Nam Quan xuất bản 1944, Kiều Loan viết từ 1942, diễn 1946. Về thơ, Hoàng Cầm trở nên quen biết từ bài thơ dài Bên kia sông Đuống (1948). Bên kia sông Đuống cùng với Nhớ của Hồng Nguyên, Tây tiến của Quang Dũng, Đồng chí của Chính Hữu... đã là những thành tựu tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp, đã là tiền đề, góp phần tích cực tạo nên phẩm chất trữ tình mới của thơ ca cách mạng. Đó là phẩm chất trữ tình kết hợp nhuần thấm cảm xúc có tính riêng tư của mỗi tâm hồn thi sĩ với hiện thực (bằng những chi tiết, sự kiện cụ thể) của đời sống đánh giặc. Tác giả cho biết bài thơ được hình thành sau lần được nghe người từ quê hương ra Việt Bắc kể chuyện quê nhà đánh giặc trong vùng địch hậu. Câu chuyện có tính thời sự nhưng đã đụng vào phần sâu thẳm và cũng thường trực nhất trong tâm trí Hoàng Cầm: Văn hóa Kinh Bắc. Bài thơ khá dài, 135 câu, đã được viết khá nhanh. Người đoûc hôm nay vẫn nhận thấy rõ cả bài thơ liền trong một mạch tâm sự, một gioûng kể, một sắc thái tâm trạng. Nền cảm xúc xao xuyến trong toàn bài ấy là niềm hoài niệm tình tự dân tộc. Kinh Bắc, cái nôi xưa của văn hóa Sông Hồng với núi Thiên Thai, với chùa Bút Tháp, với các địa danh vang voûng lòng người: chợ Hồ, chợ Sủi, Đông Tỉnh, Huê Cầu, với tranh Đông Hồ in trên giấy điệp, với hội hè đình đám, con gái, con trai... Một hoài niệm đau buồn, vì tất cả đã nằm trong tay giặc, tất cả đang bị giày xéo, thiêu hủy. Lòng yêu nước mang một chiều sâu văn hóa có sức cảm hóa lòng người Việt Nam rất rộng. Hoàng Cầm đã diễn tả các sự kiện thời sự bằng chất liệu văn hóa, bằng tình tự dân tộc. Câu thơ luôn luôn hướng vào nội tâm là vì vậy:
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Thi liệu đó lấy từ nội dung tranh Tết Đông Hồ. Và đây là từ phong tục, tập quán hay đúng ra từ những kỷ niệm của tâm hồn người Kinh Bắc:
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
(...)
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?
Câu hỏi về đâu như một điệp khúc thổn thức, xa xót sau mỗi lần nhắc tới những vẻ đẹp lộng lẫy, trong sáng, đầm ấm của văn hóa truyền thống. Hoàng Cầm sử dụng đúng chỗ sức gợi của những hình ảnh xưa, mà ở thời điểm ấy vẫn còn là thực tại: khuôn mặt búp sen, hàm răng đen, cặp môi cắn chỉ quết trầu, dăm miếng cau khô, mấy loû phẩm hồng...
Cách tận dụng sức gợi rất biểu cảm này, ở các giai đoạn sáng tác sau Hoàng Cầm vẫn phát huy nhưng không còn giữ được sự chừng mực như lúc này, nên nhiều khi sức gợi ấy chỉ còn tác dụng như những đường viền trang trí (Mưa Thuận Thành).
Một sinh hoạt văn hóa rất Bắc Ninh và nổi tiếng toàn quốc là hát quan hoû. Hát quan hoû để rất nhiều dư ba trong thơ Hoàng Cầm và đã tụ lại đậm đặc trong chùm thơ Tiếng hát quan hoû. Tác giả mượn thơ giới thiệu nguồn cội của mình, một nguồn cội lãng tử người quan hoû thời trước:
Mẹ chờ tua rua chỉ lối
Bỏ đi theo người trai
Chở thuyền hát lặn những đêm trăng
Mười năm sau ngày cưới
Bố nhớ lời ca, mê theo đám hội
Van người vợ trở về
...
Nhờ đó tôi ra đời.
Hoàng Cầm hơi giống Nguyễn Bính khi ông tắm hồn mình vào những đêm hội làng, những đêm đập sợi, dệt vải Tiếng hát trập trùng mái gianh phủ khói. Lúc đó ông tạo được không gian mộng thay cho đời thực, những chi tiết của đời sống được roûi bằng thứ ánh sáng kỳ ảo như ánh trăng, có sức làm ngân lên những kỷ niệm ấu thơ tổ tông truyền lại của mỗi lòng người Việt Nam, dù đang ở đâu, dù ở thuở nào:
Những mái nhà quần tụ dưới thôn
Gà gáy trong mùi khói rạ
Khoai nướng bốc thơm
Em bé trái đào hát ru lanh lảnh
Bếp nhà ai lửa ánh
Thoáng màu áo trắng sau rặng tre thưa.
Không gian thơ Hoàng Cầm là không gian hoài cổ đất xưa Kinh Bắc. Đó là vị riêng của Hoàng Cầm. Khi chỉ cần ít nét, khi phải rất nhiều câu, nhưng bao giờ ông cũng muốn tạo không gian mộng ảo. Đoûc ông nên chuồi theo cảm xúc, sống vào không gian ông tạo dựng mà tìm thơ, đừng đòi nhiều ở ông sự hàm súc có tính tư tưởng.
NHững bài thơ của Hoàng Cầm
1,Anh đi và em đi
2,Giả vờ
3,Lá diêu bông
4,CHuyện lâu rồi
5,Bên kia sông Đuống
6,Cây tam cúc
7,Chuyện trăm năm
8,Cỏ bồng thi
9,Đêm thổ
10,Em bé lên sáu
11,Giả vờ
Bài 1:Anh đi và em đi
Anh đi về phía không em
Em đi về phía dài thêm bão bùng
Anh đi sắp đến vô cùng
Em đi sắp đến cánh hồng đang rơi
Bảy mươi đứng phía ngoẹn cười
Tám mươi đứng khóc nẻo đời chưa khô
Trăm năm nhào quyện hư vô
Biết đâu em vẫn lửng lơ hát buồn
Bài 2:Giả vờ
Giả vờ chim chích lạc đường
Loáng qua cửa sổ anh từng ngó đêm
Giả vờ hỏi phố không tên
Ðể không ai biết chờ em phố nào
Giả vờ quên bẵng không chào
Ðể không ai thấy mình sao thẫn thờ
Giả vờ chuyện gẫu vu vơ
Như em anh chả bao giờ quen nhau
Giả vờ dao chém không đau
Cái hôm nổi bão gãy cầu vào em
Bài 3:Lá diêu bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
- Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới chị
em tìm thấy lá
Chị cười
xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt
chị không nhìn
Từ thủa ấy
em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời.....!
.....ới Diêu bông!.....
  
Bài 4:Chuyện lâu rồi
Lần thứ nhất gặp anh, em nói:
-Chỉ xin làm em gái của anh
Lần thứ hai gặp em, anh nói:
-Muốn xin em làm vợ của anh
Lần trước, anh cười chẳng nói
Lần sau, em cười quay đi
Hôm nay
Họ xa nhau từ lâu
Còn lại tiếng mưa ngâu
Gõ nhịp giọt phanh thềm đêm vắng
Và một dòng thơ
trang trải nợ ban đầu
http://www.luongsonbac.de/images/thidan_hoangcam.jpg
Tên thật: Bùi Tằng Việt. Sinh năm 1922. Người huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Vùng quê nhiều di tích văn hóa vật thể và phi vật thể Kinh Bắc này đã có một ảnh hưởng sâu đậm, có thể nói là kiến tạo nên hồn thơ Hoàng Cầm.
Ông viết văn từ trước cách mạng, kịch thơ Hận Nam Quan xuất bản 1944, Kiều Loan viết từ 1942, diễn 1946. Về thơ, Hoàng Cầm trở nên quen biết từ bài thơ dài Bên kia sông Đuống (1948). Bên kia sông Đuống cùng với Nhớ của Hồng Nguyên, Tây tiến của Quang Dũng, Đồng chí của Chính Hữu... đã là những thành tựu tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp, đã là tiền đề, góp phần tích cực tạo nên phẩm chất trữ tình mới của thơ ca cách mạng. Đó là phẩm chất trữ tình kết hợp nhuần thấm cảm xúc có tính riêng tư của mỗi tâm hồn thi sĩ với hiện thực (bằng những chi tiết, sự kiện cụ thể) của đời sống đánh giặc. Tác giả cho biết bài thơ được hình thành sau lần được nghe người từ quê hương ra Việt Bắc kể chuyện quê nhà đánh giặc trong vùng địch hậu. Câu chuyện có tính thời sự nhưng đã đụng vào phần sâu thẳm và cũng thường trực nhất trong tâm trí Hoàng Cầm: Văn hóa Kinh Bắc. Bài thơ khá dài, 135 câu, đã được viết khá nhanh. Người đoûc hôm nay vẫn nhận thấy rõ cả bài thơ liền trong một mạch tâm sự, một gioûng kể, một sắc thái tâm trạng. Nền cảm xúc xao xuyến trong toàn bài ấy là niềm hoài niệm tình tự dân tộc. Kinh Bắc, cái nôi xưa của văn hóa Sông Hồng với núi Thiên Thai, với chùa Bút Tháp, với các địa danh vang voûng lòng người: chợ Hồ, chợ Sủi, Đông Tỉnh, Huê Cầu, với tranh Đông Hồ in trên giấy điệp, với hội hè đình đám, con gái, con trai... Một hoài niệm đau buồn, vì tất cả đã nằm trong tay giặc, tất cả đang bị giày xéo, thiêu hủy. Lòng yêu nước mang một chiều sâu văn hóa có sức cảm hóa lòng người Việt Nam rất rộng. Hoàng Cầm đã diễn tả các sự kiện thời sự bằng chất liệu văn hóa, bằng tình tự dân tộc. Câu thơ luôn luôn hướng vào nội tâm là vì vậy:
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Thi liệu đó lấy từ nội dung tranh Tết Đông Hồ. Và đây là từ phong tục, tập quán hay đúng ra từ những kỷ niệm của tâm hồn người Kinh Bắc:
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
(...)
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?
Câu hỏi về đâu như một điệp khúc thổn thức, xa xót sau mỗi lần nhắc tới những vẻ đẹp lộng lẫy, trong sáng, đầm ấm của văn hóa truyền thống. Hoàng Cầm sử dụng đúng chỗ sức gợi của những hình ảnh xưa, mà ở thời điểm ấy vẫn còn là thực tại: khuôn mặt búp sen, hàm răng đen, cặp môi cắn chỉ quết trầu, dăm miếng cau khô, mấy loû phẩm hồng...
Cách tận dụng sức gợi rất biểu cảm này, ở các giai đoạn sáng tác sau Hoàng Cầm vẫn phát huy nhưng không còn giữ được sự chừng mực như lúc này, nên nhiều khi sức gợi ấy chỉ còn tác dụng như những đường viền trang trí (Mưa Thuận Thành).
Một sinh hoạt văn hóa rất Bắc Ninh và nổi tiếng toàn quốc là hát quan hoû. Hát quan hoû để rất nhiều dư ba trong thơ Hoàng Cầm và đã tụ lại đậm đặc trong chùm thơ Tiếng hát quan hoû. Tác giả mượn thơ giới thiệu nguồn cội của mình, một nguồn cội lãng tử người quan hoû thời trước:
Mẹ chờ tua rua chỉ lối
Bỏ đi theo người trai
Chở thuyền hát lặn những đêm trăng
Mười năm sau ngày cưới
Bố nhớ lời ca, mê theo đám hội
Van người vợ trở về
...
Nhờ đó tôi ra đời.
Hoàng Cầm hơi giống Nguyễn Bính khi ông tắm hồn mình vào những đêm hội làng, những đêm đập sợi, dệt vải Tiếng hát trập trùng mái gianh phủ khói. Lúc đó ông tạo được không gian mộng thay cho đời thực, những chi tiết của đời sống được roûi bằng thứ ánh sáng kỳ ảo như ánh trăng, có sức làm ngân lên những kỷ niệm ấu thơ tổ tông truyền lại của mỗi lòng người Việt Nam, dù đang ở đâu, dù ở thuở nào:
Những mái nhà quần tụ dưới thôn
Gà gáy trong mùi khói rạ
Khoai nướng bốc thơm
Em bé trái đào hát ru lanh lảnh
Bếp nhà ai lửa ánh
Thoáng màu áo trắng sau rặng tre thưa.
Không gian thơ Hoàng Cầm là không gian hoài cổ đất xưa Kinh Bắc. Đó là vị riêng của Hoàng Cầm. Khi chỉ cần ít nét, khi phải rất nhiều câu, nhưng bao giờ ông cũng muốn tạo không gian mộng ảo. Đoûc ông nên chuồi theo cảm xúc, sống vào không gian ông tạo dựng mà tìm thơ, đừng đòi nhiều ở ông sự hàm súc có tính tư tưởng.
NHững bài thơ của Hoàng Cầm
1,Anh đi và em đi
2,Giả vờ
3,Lá diêu bông
4,CHuyện lâu rồi
5,Bên kia sông Đuống
6,Cây tam cúc
7,Chuyện trăm năm
8,Cỏ bồng thi
9,Đêm thổ
10,Em bé lên sáu
11,Giả vờ
Bài 1:Anh đi và em đi
Anh đi về phía không em
Em đi về phía dài thêm bão bùng
Anh đi sắp đến vô cùng
Em đi sắp đến cánh hồng đang rơi
Bảy mươi đứng phía ngoẹn cười
Tám mươi đứng khóc nẻo đời chưa khô
Trăm năm nhào quyện hư vô
Biết đâu em vẫn lửng lơ hát buồn
Bài 2:Giả vờ
Giả vờ chim chích lạc đường
Loáng qua cửa sổ anh từng ngó đêm
Giả vờ hỏi phố không tên
Ðể không ai biết chờ em phố nào
Giả vờ quên bẵng không chào
Ðể không ai thấy mình sao thẫn thờ
Giả vờ chuyện gẫu vu vơ
Như em anh chả bao giờ quen nhau
Giả vờ dao chém không đau
Cái hôm nổi bão gãy cầu vào em
Bài 3:Lá diêu bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
- Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới chị
em tìm thấy lá
Chị cười
xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt
chị không nhìn
Từ thủa ấy
em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời.....!
.....ới Diêu bông!.....
Bài 4:Chuyện lâu rồi
Lần thứ nhất gặp anh, em nói:
-Chỉ xin làm em gái của anh
Lần thứ hai gặp em, anh nói:
-Muốn xin em làm vợ của anh
Lần trước, anh cười chẳng nói
Lần sau, em cười quay đi
Hôm nay
Họ xa nhau từ lâu
Còn lại tiếng mưa ngâu
Gõ nhịp giọt phanh thềm đêm vắng
Và một dòng thơ
trang trải nợ ban đầu