NamSơn
18-01-2010, 08:58 AM
Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Tại các điện thờ Mẫu, trường hợp đặt ba pho tượng nữ, cùng giống nhau ở gương mặt, vóc giáng, tư thế ngồi, và chỉ khác nhau ở trang phục, thì pho tượng ở giữa chính là tượng Thánh Mẫu, hay còn gọi là Mẫu Liễu.
Nếu điện chỉ đặt một pho tượng nữ đó cũng là Thánh Mẫu, và được hiểu là Mẫu của tất cả. Trong trường hợp này, Thánh Mẫu bao gồm cả Mẫu Liễu, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, được biểu hiện trong một Mẫu.
Không giống như Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, có nguồn gốc lai lịch từ rất xưa, Mẫu Liễu chỉ xuất hiện mới ngoài hai trăm năm nay, và có lẽ chính vì vậy, nên lai lịch, hành tung của Mẫu được truyền tụng và ghi chép lại khá đầy đủ. Và tỉ mỉ nữa là khác.
Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm thời Lê mạt, đã có hẳn một truyện "Vân Cát thần nữ" trong cuốn "Truyền kỳ tân phả". Còn trong dân gian, từ trước đến nay, đã có biết bao nhiêu chuyện thật hấp dẫn, ly kỳ, thậm chí rùng rợn, về xuất xứ, hành tung, về biểu hiện khắp mọi nơi của Mẫu, tưởng chừng như Mẫu lúc nào cũng có mặt ở đâu đó, xuất kỳ bất ý, can dự vào tất cả mọi chuyện. Những chuyện này không tồn tại dưới dạng hoàn chỉnh, mà chỉ là những mẩu, có khi gắn kết vào nhau, lại có khi mâu thuẫn trái ngược nhau.
Nhìn chung, trong dân gian, đa phần muốn tin rằng đã có một Mẫu toàn năng, là niềm tin, là chỗ dựa tinh thần của tất cả mọi người. Còn là sự khuyến thiện trừng ác trong mỗi con người.
Không thể hình dung nổi, trong một xã hội, dù là văn minh đến đâu, người ta đối xử với nhau lại không xuất phát từ lòng thiện.
Và trong đời mỗi một con người, không phải ai và lúc nào cũng đều cứng cỏi cả. Vì vậy, sự tồn tại một điểm dựa tinh thần, chung cho mọi người, sẽ không thể là điều vô ích.
Truyền thuyết về Thánh Mẫu được kể dưới đây, sẽ gồm cả truyện "Vân Cát thần nữ" và các câu chuyện kể dân gian, được ghép nối vào nhau sao cho có hệ thống, chúng tôi nghĩ, đấy là cách tốt nhất để tạo nên hình tượng một Thánh Mẫu hoàn chỉnh, xứng đáng với niềm tin của mọi người. Do vậy, những chi tiết nào làm phương hại đến tính thống nhất của hình tượng, hoặc quá ư rườm rà, ... chúng tôi sẽ mạnh dạn loại bỏ.
Tại thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ, nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, có vợ chồng Lê Thái Công là người hiền đức, hay làm việc thiện. Ông bà đã có một con trai, và khi ấy cũng đã đứng tuổi. Đến năm Thiên Hựu, đời Lê Anh Tông, bà vợ có mang đã quá kỳ sinh mà không thấy chuyển dạ, lại không ăn uống, chỉ ưa trong phòng có mùi hoa thơm.
Đêm hôm ấy, gia đình làm lễ, cầu trời khấn Phật, phù hộ độ trì cho mẹ tròn con vuông. Giữa lúc hương hoa tỏa bay thơm ngát, ở trong phòng, Lê Thái Công nằm mơ thấy mình bay lên thượng giới, rồi được dẫn vào một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ, ở đó đang diễn ra cuộc Đại khánh tiết, bách thần làm lễ chúc thọ Ngọc Hoàng.
Một tiên nữ vận áo xiêm màu hồng nhạt, từ hậu cung bưng khay rượu bước ra. Vừa đến trước mặt Ngọc Hoàng, trong khi hai tay nâng khay, còn đầu thì khẽ nghiêng và toàn thân nhún xuống, nhưng do làm hơi vội nên đã để một chiếc chén rơi ra ... Ngọc Hoàng khẽ chau mày, nhưng rồi trước mặt triều thần, Ngài lại tươi cười nhắc chén rượu thứ hai ...
Chỉ có như vậy, nhưng đã là phạm luật. Sau bữa tiệc, hai vị Nam Tào Bắc Đẩu tâu lên, tiên nữ bị giáng xuống trần, trong thời hạn ba năm, mặc dù đó chính là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng đế.
Vừa lúc ấy, Lê Thái Công tỉnh giấc. Cũng đúng lúc ấy, người nhà vào báo bà vợ đã sinh một ngườøi con gái. Ba ngày sau, khi nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng, ông bèn đặt tên cho con là Giáng Tiên.
Ngày tháng qua đi, càng lớn lên Giáng Tiên càng lộng lẫy, xinh đẹp. Mọi việc nữ công gia chánh nàng cũng đều thành thạo. Lại có cả tài cầm kỳ thi họa, vì ông bà cho nàng theo học Trần Công, một người bạn ở làng bên, và càng học lên Giáng Tiên lại càng giỏi giang, tấn tới.
Ông Trần Công là một vị hưu quan ở làng Tiên Hương, cùng trong huyện Thiên Bản. Vợ chồng ông cũng đã đứng tuổi mà chưa có con. Một đêm, nghe có tiếng trẻ khóc ở ngoài vườn, ông bà cùng chạy ra thấy một đứa bé sơ sinh nằm dướùi gốc cây đào. Ông bà đem về nhà nuôi, đặt tên là Đào Lang.
Lớn lên Đào Lang là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, siêng năng chăm chỉ học hành. Do đã đính ước với nhau từ nhiều năm trước, nên khi Đào Lang và Giáng Tiên đến tuổi trưởng thành, hai bên cha mẹ đã cho đôi trẻ nên duyên vợ chồng.
Về nhà chồng, Giáng Tiên là một người vợ hiền dâu thảo, nói năng khiêm nhường, đối xử có trước có sau. Trong ba năm, nàng sinh được một trai, một gái. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày mồng ba tháng ba (ÂÂm lịch), tuyệt nhiên không bệnh tật gì, nàng hóa, lúc ấy vừa tròn 21 tuổi. Cả hai bên cha mẹ và chồng con đau xót tiếc thương nhưng chẳng có cách gì cứu sống được. Trong nỗi buồn vô hạn, kể cả Lê Thái Công, chẳng ai hiểu được lẽ trời đã sắp đặt rồi.
Giáng Tiên, nàng tiên nữ đã về trời, đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con. Những ngày hội quần tiên, những lúc quây quần bên chị bên em cùng bạn bè, bỗng nhiên nàng lại nét mặt sa sầm, rồi lén gạt thầm dòng nước mắt ...
Những cử chỉ ấy, cuối cùng rồi cũng đến tai Ngọc Hoàng. Ngài cho gọi nàng lại để nghe nàng giãi bày tâm sự và thỉnh cầu ước nguyện. Khi thấu hiểu, Ngài cho nàng được phép trở lại cõi trần, nhưng đổi tên là Liễu Hạnh.
Khác với lần đi đày trước, lần này do tự nguyện, nên trong lòng nàng hoàn toàn thư thái, vui vẻ, chỉ mong sao cho chóng xuống trần. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng.
Đào Lang, từ ngày vợ mất, vẫn ngày đêm thương nhớ không khuây. Liễu Hạnh đẩy cửa bước vào, gặp nhau vợ chồng con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây ... Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Dòng giã hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.
Từ đó, tung tích của nàng như mây nổi, nước trôi,không nhất định ở một nơi nào cả. Nàng biến hóa và có phép nhiệm mầu như thần như thánh, bởi vì nàng cũng chính là thần thánh.
Có khi nàng là cô gái đẹp vừa đi vừa thổi sáo dưới ánh trăng.
Có khi nàng là bà lão đầu tóc bạc phơ, ngồi tựa cây gậy trúc ở bên đường.
Có khi nàng là người bán hàng, mở quán trên lưng đèo.
Lại có khi, như mọi người, nàng đi thăm viếng, vãn cảnh chùa chiền ...
Người nào giở thói trăng hoa, hoặc làm điều bạc ác, nàng thẳng tay trừng trị.
Tiếng lành đồn xa, tiếng "dữ" cũng đồn xa ... Ở khắp mọi nơi, mọi người thi nhau bàn tán về tung tích, hành vi của nàng. Câu chuyện càng ngày càng được thêu dệt thêm mãi, hư hư thực thực. Và ai ai cũng đều nghiêm trang, kính cẩn gọi nàng là Tiên Chúa.
Lần ấy, Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán cho khách bộ hành ở chân đèo Ngang (thuộc Quảng Bình). Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc tuyệt vời bỗng đâu xuất hiện ở nơi đèo heo hút gió, làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng mấy chốc, lời đồn đại cũng tới tận Kinh đô !
Hoàng tử sắp kế nghiệp, vốn là một chàng trai lười biếng học hành nhưng lại ham chơi bời phóng túng. Có khi còn làm cả những việc khinh mất chẳng giữ gìn đến thể diện quốc gia.
Khi hay tin đồn có người con gái tuyệt vời, Hoàng tử ngày đêm ao ước, đứng ngồi không yên. Nghĩ rằng mình là Hoàng thái tử, ở ngôi Đông cung, sắp tới sẽ được kế vị ngai vàng, thì chẳng lẽ lưu vật ấy còn dành cho ai nữa? Nếu không đến mau, e rằng nàng đã thành gia thất thì thật uổng phí ... Thế là, Hoàng tử giấu bặt vua cha, chọn một đoàn bộ hạ tin cẩn rồi lặng lẽ rời khỏi kinh thành, nhằm về hướng nam thẳng tiến. Ngày đi, đêm đi, chỉ dừng lại những khi thật mệt nhọc, chẳng mấy chốc đoàn người ngựa đã gần tới chân đèo Ngang.
Ở nơi mở quán, Tiên Chúa bấm độn đã biết có Hoàng tử đang đến tìm mình, lại cũng biết đó là một chàng trai vô vị, tầm thường, kiêu căng mà hiếu sắc.
Để răn đe trước, Tiên Chúa hóa phép biến thành cây đào mọc ở bên đường, ngay chỗ Hoàng tử đang dừng chân. Trên cây chỉ có một quả đang chín mọng.
Vừa chợt thấy quả đào, Hoàng tử tưởng là của trời cho, không đợi sai lính hầu, vội trèo ngay lên cây ngắt xuống. Quả đào ửng đỏ, thơm phức, vừa cầm trên tay, Hoàng tử đã vội đưa ngay lên miệng. Bỗng đâu, chỉ trong chớp mắt, quả đào nhỏ dần rồi biến mất, ngay trên tay Hoàng tử. Bọn lính hầu thấy vậy kinh hãi kêu lên, còn Hoàng tử cũng mặt cắt không còn giọt máu. Sau cơn bàng hoàng, cả bọn lại hò nhau lên đường, hoàn toàn không hiểu tý gì về ngầm ý răn đe mà Tiên Chúa đã báo trước.
Khi giáp mặt cô chủ quán, cả thầy lẫn tớ đều thảng thốt thẫn thờ. Thật danh bất hư truyền, chưa bao giờ Hoàng tử thấy một người con gái nào đẹp đến như thế. Và cũng chưa bao giờ chàng ta lại mê mẩn cuồng si đến như thế.
Hoàng tử hạ lệnh cho quân lính dừng chân, rồi gọi đồ ăn thức uống loạn xị. Cố tình trưng ra quần áo bảnh diện và những cọc tiền vàng óng. Lại cố tình ăn uống khề khà cho thật chậm thật lâu, cốt sao kể kéo đến tận chiều tối. Rồi khi mặt trời tắt hẳn, cả bọn mới giả bộ ngây ngô, nói rằng trời tối thế này thì đi làm sao được.
Một tên vò đầu bứt tai, xun xoe đến gần cô chủ quán:
- Xin cô vui lòng cho chúng tôi nghỉ lại trong quán một đêm nay, tiền nong hết bao nhiêu chúng tôi cũng chẳng ngại ...
Tiên chúa, thừa rõ tâm tư của cả bọn này, bèn tươi cười đáp:
- Ấy chết, các ông là những người quý phái, nghỉ lại đấy sao tiện. Chỉ đi nửa dặm nữa là có xóm có làng, có dân phu phục dịch. Ở đây vừa mất tiền vừ chật chội. Vả lại quán chúng tôi là phận đàn bà con gái, không nhận trọ khách đàn ông bao giờ.
Nghe thấy thế, Hoàng tử đứng bật dậy, saÜng giọng:
- Đàn ông với chẳng đàn bà. Đã là quán hàng, chẳng nơi nào có sự phân biệt như thế. Trời tối rồi, chẳng lẽ để chúng ta ngủ ở giữa đường hay sao? Quân bay, cứ vào dọn dẹp.
Tiên Chúa lặng thinh không nói gì. Tưởng chủ quán hoảng sợ, Hoàng tử liền đổi giọng, vừa nói vừa vỗ vỗ vào túi tiền lớn mà tên lính hầu vẫn đeo bên mình:
- Xin cô đừng lo. Chỉ một đêm nay cô cũng kiếm được bằng mấy năm mở quán.
Tiên Chúa bỏ vào phòng trong, không muốn nghe nữa.
Ở phòng ngoài, bọn lính hầu thu dọn các thứ vào một góc rồi quây màn trướng cho Hoàng tử nghỉ. Còn bọn chúng thì nằm la liệt quanh quán.
Khi ấy, đang tiết tháng tám, trời thu mát mẻ, và ở giữa chân đèo thoáng đãng, trăng gió lại như khách hữu tình. Hoàng tử sai bày tiệc rượu rồi năn nỉ mời chủ nhân ngồi đối ẩm. Tiên Chúa, phần vì không muốn để người của triều đình mất thể diện, phần thì cũng muốn thử xem bọn này còn định giở trò gì, nên cũng nhận lời. Dưới ánh đèn, vừa uống rượu Hoàng tử vừa huyên thuyên, khoe khoang đủ mọi thứ chuyện. Nào là nay mai sẽ lên ngôi Thiên tử. Nào là gấm vóc bạc vàng sẽ chẳng thiếu thứ gì. Nào là ai mà được ở ngôi Hoàng hậu thì sẽ là người diễm phúc ...
Tiên Chúa im lặng lắng nghe, thỉnh thoảng lại gật đầu ra ý tán thưởng, mặc dù đã cười thầm trong bụng. Thấy vậy, Hoàng tử tưởng "nàng" đã xiêu lòng, liền hoa chân múa tay rất là đắc ý, rồi bất thình lình, ôm gọn cô chủ quán vào trong lòng. Tiên Chúa bừng bừng nổi giận, gạt phắt Hoàng tử ra, chạy thẳng vào trong buồng. Hoàng tử loạng choạng đứng dậy, và trong cơn si cuồng rồ dại, cũng chạy vào theo.
Chỉ trong chớp mắt, Tiên Chúa đã phi thân lên núi, bắt ngay một con khỉ cái mang về. Lại hóa phép cho nó thành một cô gái cực kỳ xinh đẹp, còn mình thì biến đi.
Ở trong buồng, lúc đầu Hoàng tử chẳng nhìn thấy gì, sau một hồi mắt đã quen với bóng tối, mới lờ mờ nhận thấy "cô gái" đang ở trong góc, bèn nhảy tới, ôm ghì lấy rồi đè xuống. Đúng lúc ấy, "cô gái" lại biến thành con khỉ, do Tiên Chúa đã hóa phép. Hoàng tử kinh hãi rụng rời, kêu rú lên một tiếng thảm thiết, rồi ngã vật ra, bất tỉnh nhân sự.
Bọn lính hầu ở bên ngoài nghe tiếng rú, tưởng cậu chủ bị hại liền bật cả dậy, xông thẳng vào buồng. Có tên còn giật vội mấy mẩu nến đang cháy ở bàn tiệc, để soi cho rõ. Trước mặt chúng, cảnh tượng bày ra mới khiếp hãi làm sao. Con khỉ cái miệng rộng đến tận mang tai, nhe hai hàm răng trắng ởn, đang cười lên khành khạch. Rồi vụt một cái, khỉ lại biến thành con rắn hổ mang, bạnh cổ, thè lưỡi phun ra phì phì ... Rắn hổ ngạo nghễ trườn lên người Hoàng tử, rồi trườn lên vách, vươn lên xà nhà, đi mất ...
Trong bọn lính hầu, nhiều tên cũng ngất xỉu. Còn lại những tên cứng bóng vía nhất, sau cơn bàng hoàng, vội vực Hoàng tử dậy và lay gọi những tên kia. Chúng nháo nhào cả lên, hà hơi, đánh gió, xoa dầu ... hàng tiếng đồng hồ sau Hoàng tử mới tỉnh lại.
Ngay nửa đêm hôm đó, bọn lính hộc tốc đưa Hoàng tử về trạm gần nhất, rồi từ đấy, ngày đi đêm nghỉ, đưa chàng ngược trở lại Kinh đô . Về tới hoàng cung, Hoàng tử đã trở thành một kể ngẩn ngơ, điên điên dại dại ... Cả Hoàng triều bối rối, lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến cả tháng mà bệnh tình Hoàng tử vẫn không thuyên giảm. Kịp có viên Đại thần người gốc xứ Thanh Hóa đến báo: ở quê có tám vị Kim Cương bùa pháp cực giỏi có thể chữa được bách bệnh, cho người vào xin thì mới cứu được.
Một ngàn năm về trước Phật Bà Quan Âm một lần hiện ra ở biển Đông, hóa phép thành hai cái túi, một ở giữa biển, một ở trên núi Ó thuộc làng An Đông đều ở xứ Thanh. Sau thời gian rất lâu, hai túi nở thành hai đóa hoa, và từ mỗi đóa hoa, lại hiện ra bốn vị thần tướng đều có phép thuật biến hóa thật là huyền nhiệm. Theo lệnh Phật Bà, tám vị thần tướng tỏa đi tám hướng, thân chinh mang thuật pháp tiểu trừ bọn tà ma vẫn đang lẩn quất sách nhiễu trong vùng. Khi bọn tà ma bị diệt, Phật Bà lại triệu hồi họ về chỗ cũ. Người trong vùng vẫn quen gọi là Bát bộ Kim Cương.
Lập tức một bọn thị vệ được lệnh nhà vua trở vào Thanh Hóa để xin bùa phép. Nhờ có bùa phép, Hoàng tử dần dần khỏi bệnh. Sau khi bình phục, Hoàng tử cúi đầu nhận tội trước vua cha, và kể lại sự việc xảy ra ở chân đèo Ngang, tuy nhiên cũng đã tìm cách nói sao để giảm nhẹ lỗi lầm của mình. Nhà vua, vốn sẵn cảm tình với bà phi sinh ra Hoàng tử thứ hai, nên chẳng ngại ngần truất ngôi Đông cung của Hoàng thái tử và lập con thứ lên thay. Tuy vậy, tay đứt ruột xót, lại căm giận một kẻ tiện dân mà dám động vào người Hoàng tộc, nên trong bụng nghĩ phải quyết ra tay diệt trừ.
Vì nghe câu chuyện có vẻ lạ lùng nên nhà vua chẳng dám khinh xuất, bèn cho tên tướng thân tín cùng một tốp lính đi điều tra nội vụ. Một tháng sau, viên tướng trở về tấu trình ngọn ngành mọi chuyện. Nhà vua, vốn là bậc cao kiến, nghĩ rằng chỉ có các Pháp sư và Phù thủy cao tay mới có thể diệt trừ được kẻ "yêu nữ" này.
Các Pháp sư và Phù thủy lừng danh trong nước lập tức được lệnh triệu hồi về kinh, dẫn sĩ tốt đi chinh phạt. Chẳng bao lâu sau, những kẻ sống sót đều phải quay về, nạp mình trước sân rồng hoạch tội, vì chẳng những không bắt được nữ chủ quán mà lại còn bị đánh cho tan tác, tơi bời. Bất đắc dĩ, nhà vua phải cầu cứu đến tám vị Kim Cương. Tám vị này, vốn là những bậc tu hành, chẳng mặn mà gì đến chuyện đánh dẹp của triều đình, lần trước có cho bùa phép thì chẳng qua chỉ là muốn cứu vớt một kẻ nạn nhân mà thôi.
Nhà vua phải cho đại thần mang lễ vật đi lại nhiều lần mới thỉnh cầu được họ.
Các vị Kim Cương, sau khi nhận lời, bèn phi thân tới đèo Ngang.
Sau khi bài binh bố trâïn xong, họ dụ Tiên Chúa vào giữa, rồi từ tám hướng tiến vào đánh.
Ở giữa vòng vây, Tiên Chúa chẳng hề nao núng, ứng phó cực kỳ linh hoạt. Các phép thuật của các vị Kim Cương đều bị mất hiệu lực. Cây đổ, đá lăn, thú dữ nhe nanh múa vuốt cũng không làm hại được Tiên Chúa. Thoắt biến rồi thoắt hiện, các phép thuật của các vị Kim Cương đều như nhằm vào chỗ không người, nhiều khi lại nhầm vào nhau, tự gây ra thiêït hại. Tiên Chúa thản nhiên như thường còn các vị Kim Cương càng lúc lại càng thấm mệt. Khi đã núng thế, một vị bay vút lên trời, đi cầu khẩn Đức Phật, xin một cái túi, nói là để bắt yêu tinh vừa mới xuất hiện. Đức Phật lúc ấy đang bận, nên đã vô tình ném túi cho.
Nhờ cái túi thần, cuối cùng các vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh, trình trước sân rồng. Nhà vua sai thiết triều rồi xét hỏi:
- Nhà ngươi là ai?
- Muôn tâu ... Tiên chúa đáp. Tôi là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng Đế, xuống trần làm người mở quán bán hàng.
- Mở quán bán hàng thì cớ sao lại làm hại đến Hoàng tử?
- Thưa ... ở đời có lửa thì ắt có khói, có nhân ắt có quả. Tôi chỉ trừng trị kẻ nào làm điều bất thiện mà thôi. Nếu đấy là Hoàng tử thì lại càng phải xử công minh để làm gương cho bàn dân thiên hạ, như vậy mới là đúng với phép nước.
Nhà vua thấy không còn gì hỏi được nữa, nhưng cũng chẳng thể để mất thể diện quốc gia, bèn để nét mặt ra vui tươi, rồi hỏi:
- Công nương nói chí phải. Ta đã có chiếu trách phạt Hoàng tử rồi. Nay chỉ muốn hỏi công nương cho rõ mọi chuyện mà thôi.
Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn ...
Tiên Chúa không trở lại chân đèo Ngang nữa, mà lại vân du theo hướng Bắc, đến miền xứ Lạng, là nơi có nhiều phong cảnh đẹp. Các động Tam Thanh, Nhị Thanh ... là nơi Tiên Chúa thường hay thăm viếng. Một lần đang trên đường, Tiên Chúa gặp đoàn sứ do Phùng Khắc Khoan dẫn đầu đi sứ sang Trung Hoa. Gặp người con gái đẹp, xưa nay chưa từng thấy bao giờ, ông chánh sứ cảm kích ứng khẩu đọc liền một bài thơ tứ tuyệt. Nào ngờ nghe xong,Tiên Chúa cũng ứng khẩu đọc luôn mấy câu thơ đối lại. Các vị trong đoàn sứ bộ thảy đều ngạc nhiên, và cảm phục vì tài đối đáp, vì lời thơ vừa trang nhã lại đầy ý tứ. Thế là họ bảo nhau dừng chân mấy ngày ở trạm nghỉ, rồi mời Tiên Chúa ở lại cùng nhau xướng họa đề thơ. Khi hỏi lai lịch, nơi ở, Tiên Chúa chẳng nói năng gì mà chỉ đọc lên một bài thơ đố. Phùng Khắc Khoan vốn là người nhanh trí, hiểu rằng người con gái này chẳng phải người thường, bèn đọc một bài thơ hẹn gặp lại, sau khi đoàn sứ trở về.
Nhớ lời hẹn, một năm sau Tiên Chúa có mặt ở vùng Hồ Tây ngay bên cạnh kinh thành. Khi ấy Phùng Khắc Khoan đã hoàn thành sứ mạng trở về, cùng hai người bạn là ông Ngô, ông Lý đang đi vãn cảnh. Họ gặp nhau mừng rỡ, chuyện trò, rồi lại đề thơ, xướng họa như xưa. Cả ba người, là những bậc tài danh đương thời, đềâu hết lòng thán phục tài thơ của Tiên Chúa vừa thanh cao, lại vừa huyền nhiệm, không lời nào có thể nói hết được.
Sau khi từ biệt ba nhà thơ, Tiên Chúa vân du vào làng Sóc, thuộc tỉnh Nghệ An ngày nay, cũng là một nơi có phong cảnh đẹp. Ở làng này hiện đang có một chàng thư sinh tuy cha mẹ mất sớm, nhà lại rất nghèo, nhưng vẫn ngày đêm miệt mài kinh sử. Tiên Chúa biết chàng chính là hậu thân của Đào Lang ngày trước, bèn biến thành một phụ nữ, lúc đầu đến giúp đỡ, rồi sau đó kết duyên vợ chồng. Hai bên yêu nhau, chẳng cần phải có người mối lái. Nàng giúp cho chàng yên tâm chuyên cần vào việc đèn sách, chẳng phải lo nghĩ gì đến chuyện sinh nhai, thế rồi khi nhà vua mở khoa thi, chàng đã đỗ đại khoa và được bổ vào Hàn Lâm viện. Nàng sinh cho chàng một đứa con trai, thật là đẹp đẽ kháu khỉnh. Nhưng tình duyên của họ cũng chẳng được lâu dài. Khi đứa con vừa tròn năm tuổi thì người mẹ đột ngột qua đời, vì chính lúc đó Tiên Chúa có lệnh gọi của Ngọc Hoàng, phải về trời gấp. Người chồng đau xót, cùng lúc nỗi đau càng như xé ruột xé gan. Chàng chẳng nghĩ đến chuyện tục huyền, cũng chẳng nghĩ đến chuyện cửa công. Thế là chàng xin từ quan, lui về quê nuôi đứa con côi, vui thú với cây cỏ sông nước, và giữ mãi trong lòng những kỷ niệm ngọt ngào của mối tình đầu.
Về phần mình, ở trên trời, Tiên Chúa cũng không sao quên được cõi trần. Lúc nào Tiên Chúa cũng thấy lẻ loi giữa cảnh phồn hoa đô hội. Trong tâm trí Tiên Chúa, lúc nào cũng như in mọi cảnh dưới trần, và cùng với nó, là cảm xúc càng lúc càng thêm bồi hồi da diết. Ôi! Cõi trần gian, nơi nhiều nỗi vất vả lo toan mà sao lại thân thương thiết tha đến thế! Dưới cõi trần, còn bao nhiêu điều chưa thấy, bao nhiêu nơi chưa biết, bao nhiêu việc chưa làm! Những miền danh lam thắng cảnh vẫy gọi, những bậc hiền tài cần tiếp kiến, rồi cả những nỗi khốn khó cô đơn, những điều bất công ngang trái ... Tất cả đều cần phải có bàn tay của Tiên Chúa đưa ra giúp rập, bù trì ...
Thế là Tiên Chúa khẩn thiết xin với vua cha cho trở lại cõi trần gian và được ở lại vĩnh viễn, vì cả hai lần trước đều nửa đường đứt gánh, mới dở dang đau xót làm sao!
Ngọc Hoàng Thượng Đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài nhìn đứa con gái út, một khúc ruột, một phần xương thịt của mình dứt ra mà nay đã đến lúc trưởng thành, để có thể thay mặt mình ở dưới cõi trần được. Mặc dù tình cha con là thiêng liêng, là vô cùng quyến luyến, nhưng Ngài đã vui vẻ chấp thuận cho nàng ra đi, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để những chủ trương ở trên trời của mình có thể thực thi ở cõi thế. Ngài cho gọi hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng đi với nàng, vừa để giúp đỡ, vừa để cho có bầu có bạn.
Lần này Tiên Chúa xuống thẳng miền phố Cát. Ở đây, cũng như những lần trước Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Khi là cô gái thổi sáo, khi là bà lão chống gậy, khi là một người hành hương đến cửa Phật ... hành tung của Tiên Chúa biến hóa thật khôn lường. Thế là trong dân chúng lại nảy sinh những lời đồn đại, rồi mọi người cùng nhau góp của góp công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên Chúa.
Những ngày tuần ngày tiết, dân chúng các nơi nô nức tìm về, đông vui nhộn nhịp xung quanh ngôi đền. Mọi ngườøi ai cũng muốn một lần được chứng kiến sự hiển linh của Tiên Chúa.
Lời đồn đại và những sự việc ấy, lan ra mãi, cuối cùng đã tới Kinh đô , lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả "yêu nữ" ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì trong cõi trị vì của họ không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến Kinh đô , giao cho dẫn một một đội quân Vũ lâm hùng mạnh, đến thẳng miền phố Cát để đánh dẹp.
Một trận giao chiến ác liệt đã diễn ra. Bên Tiên Chúa đền đài bị phá tan tành nhưng bên phía triều đình cũng bị thất điên bát đảo, xác lính chết ngổn ngang, cuối cùng đành phải rút quân.
Vua Lê chúa Trịnh vô cùng tức giận vì không bắt được "yêu nữ" đem về. Nghe lời các thuật sĩ, hai vị cho vời tiền quân Thánh là một thuật sĩ tài danh bậc nhất đương thời để làm chủ tướng.
Lại nói Tiền quân Thánh vốn là một thân tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị dáng xuống làm con trai thứ ba của một vị Thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng, một phái tu nổi tiếâng lúc bấy giờ. Hai người anh là Tả quân và Hữu quân đều có pháp thuật cao cường, tu ở núi Côn Sơn, còn Tiền quân thì tu ngay tại làng, tức làng Từ Minh ở Thanh Hóa, và có nhiều pháp thuật cao cường hơn cả.
Vốn trước kia cha ông họ là những viên quan lại, đã từng ăn lộc triều đình, nên bây giờ, mặc dù không muốn, cả ba anh em vẫn phải cầm quân ra trận. Tiền quân đi trước, còn hai người anh đi ở hai bên.
Đến Tam Điệp, Tiền quân sai đóng quân lại, còn mình cải trang làm một dân thường, cỡi ngựa trắêng đến Sòng Sơn gặp Tiên Chúa vì lúc này Tiên Chúa đã rời Phố Cát về đây. Vốn đã quen biết từ trên Thiên đình, nên khi gặp, Tiền quân làm ra vẻ hết sức thân mật, tự nhiên:
- Đi ngang qua đây, nghe sắp có giao chiến chẳng biết phải trái thế nào. Ta chỉ sợ nàng sức gái không đủ đối phó nên hạ sơn xem liệu có thể giúp đỡ được việc gì chăng? Thuật pháp của nàng thế nào hãy để ta xem, nếu thiếu ta sẽ dạy thêm cho.
Tiên Chúa tin lời Tiền quân nói là thật, hoàn toàn không biết đến việc Tiền quân do mắc lỗi mà phải xuống trần ... cho nên đã giở tất cả các pháp thuật ra cho Tiền quân xem. Xem xong, Tiền quân làm ra vẻ hết sức vui mừng sửng sốt:
- Thật là tuyệt! Như thế này cũng đã thừa đủ rồi, ta chẳng cần phải dạy thêm cho nàng điều gì nữa!
Nói xong liền biến đi ngay. Thấy thế Tiên chúa cũng hơi chột dạ.
Tiền quân thánh trở về nơi hạ trại, cùng hai anh bàn nhau cách xuất quân, rồi ngay đêm ấy tiến đánh.
Tiên Chúa lúc đấy cùng Quỳnh Hoa, Quế Hoa đang nằm nghỉ, nghe tiếng quân lính reo hò, biết ngay là có biến , bèn bật dậy nai nịt gọn gàng, hóa phép thành trùng trùng rào gai vây quanh Sòng Sơn, lại hóa phép thành muôn ngàn quân sĩ giáo mác cung tên saÜn sàng nghênh chiến. Khi trông thấy Tiền quân thánh ở phía đối diện, Tiên chúa vừa khinh bỉ vừa tức giận vô cùng. Chẳng ngờ đường đường một vị thần tướng trên trời lại đi đầu quân đánh nhau vì một lũ vua chúa tham lam ở dưới trần, chẳng những thế, lại còn giở trò hèn hạ lường gạt cả tiên nữ.
Những thuậât pháp của Tiên Chúa tung ra đều hết sức nhiệm màu, và Tiền quân Thánh, mặc dù đã biết trước, cũng phải đối phó thật là chật vật. Tuy vậy bên phía Tiền quân Thánh, do có hai người anh trợ lực, lại quân lính đông hơn, nên dần dần đã bao vây được Tiên Chúa. Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc lóng lánh, múa lượn trên không ...
Tiền quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Thế là Tiên Chúa bị bắt, rồi bị biến nguyên hình trở lại. Tiền quan sai lính mang dây đồng tới trói ...
Giữa lúc ấy Phật tổ bỗng nhiên xuất hiện. Tuy ngồi ở nơi tu thiền nhưng ngài biết rõ mọi chuyện. Ngài có mặt là để giải cứu cho Tiên Chúa, Ngài xét thấy, phần lớn đều phù hợp với tâm nguyện của Ngài.
Khi vừa thấy Phật tổ, Tiền quân Thánh liền sững ngay lại, thay vì dây đồng đã sai quân lính mang đến cho Tiên Chúa một bộ quần áo cà sa và một chiếc mũ ni cô. Tiên Chúa nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây cùng với Phật tổ.
Ở Kinh đô lúc này vua Lê chúa Trịnh đang buổi thiết triều, thấy quân về báo tin thắng trận thì mừng rỡ vô cùng: Thế là từ nay có thể thở phào nhẹ nhõm!
Mấy tháng sau hai vị vua chúa lại nhận được tin ở miền phố Cát, Tiên Hương và Sòng Sơn đang xảy ra nạn dịch. Trâu bò gia súc chết ngổn ngang, người ốm lăn lóc. Chẳng có người chăm sóc nên đồng bãi tiêu điều, côn trùng thả sức phá hoại ...
Nạn dịch này, từ trước đến nay, từ vua chúa cho đến dân thường cho là Tiên Chúa gây ra, để trả thù cho lần thất bại. Sự thực thì hoàn toàn không phải thế . Đấy là cái nạn dịch luôn đi kèm sau mỗi cuộc chiến tranh. Bao giờ cũng vậy, khi sức người đã cạn kiệt, lại đói ăn khát uống và làm việc quá sức rồi nguồn nước và không khí hôi rình xác tử thi, thì lẽ dĩ nhiên, bệnh dịch sẽ phải phát sinh ra nhiều. Có trách là trách những kẻ gây ra chiến tranh phi nghĩa, chứ chẳng nên trách những người tự vệ.
Thế nhưng, do tin là để Tiên Chúa mất lòng đã gây ra bệnh dịch nên Nhà vua đã ra lệch cho quan sở tại xây lại đền thờ ở các miền phố Cát, Tiên Hương và Sòng Sơn. Dân chúng khi biết tin này cũng nhiệt liệt hưởng ứng, góp công góp của. Thế là, chẳng mấy chốc ở những nơi này đền đài mọc lên, bề thế nguy nga chẳng kém gì nơi cung vua phủ chúa, xứng đáng với công sức của Tiên Chúa và cũng xứng đáng với niềm tin yêu tin cậy của mọi người.
Tại các nơi ấy, hàng năm vào dịp hội hè và các ngày lễ tết, người dân các nơi lại náo nức tìm về, mang lễ vật hương hoa tưởng niệm Tiên Chúa và cũng là mong Tiên Chúa năng hiển linh, phù hộ đôï trì. Và bao giờ cũng vậy trong các ngày hội, sau phần lễ tế, đều có các trò vui chơi dân giã.
Các triều vua về sau, mỗi khi mang quân xuất chinh, hay làm việc gì hệ trọng cũng đều cử Đại Thần về đây tế lễ, cầu xin và hậu tạ sau khi công quả toại nguyện. Càng ngày các nơi ấy càng trở nên linh thiêng và thành niềm tin bền vững trong lòng mọi người. Sắc thượng phong của triều Lê, đặt hiệu của Tiên Chúa là "Mã Hoàng công chúa", rồi về sau, thấy cầu được ước thấy, bèn đặt thêm là "Mã Hoàng công chúa Chế thăng hòa diệu Đại vương".
Chẳng những ở ba nơi kể trên, mà các nơi khác: Đèo Ngang (Quảng Bình), Xứ Nghệ, Xứ Lạng và Tây Hồ (ven sát kinh thành) ..., những nơi trước kia đã từng lưu dấu Tiên Chúa, dân chúng cũng lập đền thờ tưởng niệm. Tùy khả năng và phong tục của mỗi nơi, chỗ thờ tự và lễ vật có thể khác nhau, nhưng thảy đều xuất phát từ lòng biết ơn và sự cầu mong chân thành.
Còn những nơi Tiên Chúa chưa từng đặt chân đến, mọi người cũng cầu mong có dịp nào đó Ngài sẽ giáng lâm, và do vậy, khắp các làng quê, ở đâu cũng lập điện thờ. Điện thờ được lập ở mé bên hoặc mé sau Phật điện là nơi thờ Phật.
Nhân dân kính cẩn gọi Tiên Chúa là Thánh Mẫu, nhưng nhiều khi giản dị và dân giã hơn, gọi Tiên Chúa là Mẫu Liễu.
Mẫu Liễu là niềm tin, là sự cầu mong của tất cả mọi người. Mẫu cũng chính là lương tâm, là sự toàn thiện mà tri giác của con người cần phải vươn tới.
Bà Chúa Ngọc
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa. Năm ấy, đến độ dưa chín, sáng nào ra ruộng thăm, ông bà cũng thấy dưa bị hái trộm. Lạ một điều, chỉ có một quả dưa lớn nhất đẹp nhất là bị hái, nhưng kẻ trộm không ăn mà cũng chẳng mang đi. Quả dưa còn nằm ở một chỗ trống, nhưng bưng lên đã thấy bị nẫu.
Thấy sự lạ, hai ông bà bèn bàn nhau cất công để ý rình. Rồi một đêm trăng sáng, họ đến nấp vào một bụi cây cạnh ruộng. Gần đến nửa đêm, bỗng đâu có cô gái trạc độ mười ba mười bốn tuổi tự nhiên hiện ra ở giữa ruộng dưa. Cô gái rón rén đi, nhìn ngắm từng quả dưa một, rồi sau đó, hình như đã chọn được quả ưng ý nhất thì cúi xuống hái lên. Cô ngắm đi ngắm lại mãi, rồi tìm ra một chỗ trống, tung quả dưa từ tay bên này sang tay bên kia, và cứ như thế, một lúc lâu, sau lại ôm lấy quả dưa mà ngắm nghía mãi không biết chán ...
Đúng lúc ấy, từ chỗ nấp, hai ông bà chạy ùa cả ra, nắm ngay lấy tay cô gái. Còn cô gái, tuy không chạy trốn kịp nhưng cũng chẳng tỏ ra có chút gì sợ hãi. Cô trả cho họ quả dưa, và khi được hỏi thì cô lễ phép trả lời: Cô là con nhà nghèo không còn cả cha lẫn mẹ, nhà cô ở cách đây rất xa và cô cũng chẳng nhớ được quê mình ở đâu nữa ...
Thấy cô gái dễ thương, lại nghĩ mình không có con cái, nên ông bà bàn nhau nhận cô về làm con nuôi, rồi cả hai cùng nói với cô gái ...
Còn cô gái, thấy cử chỉ, lời lẽ của hai ông bà đều chân thành thì cô im lặng lắng nghe và suy nghĩ, rồi sau đó nhận lời.
Cô theo họ về nhà. Sáng hôm sau, hai ông bà sửa lễ gia tiên, rồi hai bên chính thức nhận nhau là bố mẹ và con cái. Từ đấy trong ngôi nhà của họ, không khí vui vẻ đầm ấm hẳn lên. Hai ông bà hết lòng yêu thương chăm sóc cô, còn cô thì cũng rất mực yêu thương kính trọng bố mẹ.
Một hôm trời đổ cơn mưa lớn, nước lũ ở thượng nguồn tràn về mênh mang, khiến mọi người đều ở trong nhà không ai đi làm được cả. Bố mẹ cô, lẽ dĩ nhiên là rất lo lắng, mong sao cho nước mau cạn để cây cối khỏi bị chết úng, thì cô, do tính tình còn trẻ dại, lại thích nô đùa. Rồi cô xuống bên mé nước cậy đá lên, xếp chúng thành một hòn núi giả, lại đi tìm những cành lá gẫy cắm vào xung quanh, để chơi ...
Thấy vậy, ông bà bực quá, nghĩ rằng con cái chẳng hiểu được lòng bố mẹ, bèn lên tiếng trách cứ rồi la mắng. Nào ngờ, cô gái thấy tủi thân quá, bèn lủi ra đầu hồi nhà, đứng khóc một mình. Một lúc lâu sau, nhân lúc bố mẹ không ai để ý, cô lại lén ra khỏi nhà, rồi men theo những dải đất cao, đi ra phía bờ biển. Cũng lúc ấy, dập dềnh bên mé nước có một cây gỗ kỳ nam, không biết trôi từ đâu đến. Cô gái còn khóc hồi nữa, rồi nhìn quanh nhìn quẩn, thấy mình hoàn toàn lẻ loi, cô đơn, cô bèn nhảy luôn lên cây gỗ, và một điều kỳ lạ xảy ra: Cô gái đã nhập thân vào cây gỗ. Cây gỗ dập dềnh ở đấy một lúc nữa, như có điều gì còn ghi nhớ và lưu luyến, rồi sau đó, theo sóng biển, trôi mãi lên phương Bắc ...
Ông bà bố mẹ nuôi cô gái đang bận việc chẻ củi và may vá trong nhà, tưởng con khóc rồi chơi ở ngoài đầu hồi, nên cũng không để ý. Đến mãi sau, khi lên tiếng gọi thì chẳng thấy con đâu! Hai ông bà bèn nháo nhào đi tìm nhưng khắp chốn cùng nơi, cũng vẫn tuyệt âm vô tín. Nước lụt mênh mang như thế, lại đang cuộn chảy mãi ra biển, họ cho là con gái xảy chân đã trôi ra biển mất rồi. Thế là ông bà gào thét, khóc than thảm thiết, sau đó làm lễ cúng chay cho con, và từ đấy trở đi, sống âm thầm, rầu rĩ cho đến cuối đời ...
Còn cây gỗ kỳ nam, sau một hồi dập dềnh rồi trôi lên phương Bắc, và cứ thế trôi mãi ... trôi mãi ... Đến khi sóng lặng gió yên thì đã trôi được cả ngàn dặm đường và dạt vào bờ ...
Một buổi sáng dân địa phương nọ ra bờ biển, vô cùng ngạc nhiên thấy có cây gỗ lạ rất đẹp trôi từ đâu đến. Họ bảo nhau mang thừng chão ra buộc vào rồi cùng kéo lên bờ, nhưng hàng trăm người xúm vào mà cây vẫn không nhúc nhích. Họ bèn đóng cọc ghim lại để tìm kế sách khác, và cũng từ đấy, dường như ngay tức khắc, tiếng đồn về cây gỗ kỳ lạ đã lan ra khắp cả vùng.
Hoàng tử ở phương Bắc bấy giờ vào tuổi kén vợ, đang đi chu du khắp chốn cùng nơi để tìm cho ra một người ưng ý. Khi đến vùng này, nghe chuyện cây gỗ kỳ lạ, chàng cũng tò mò tìm đến. Thấy cây gỗ đẹp thì có đẹp nhưng cũng không lớn lắm mà sao cả trăm người kéo không được thì chàng lấy làm lạ lắm. Cũng vẫn là tò mò, chàng xắn tay áo lên, bảo mọi người cho mình kéo thử một cái xem sao.
Chiều ý Hoàng tử, mọi người lui cả ra. Nhưng thật vô cùng bất ngờ, khi hoàng tử vừa cầm thừng co tay lại thì cây gỗ cũng lập tức chuyển động, rồi dần dần, theo sức kéo mà tiến vào bờ. Đến khi chạm đất, Hoàng tử kéo mạnh một cái nữa thì cây hoàn toàn đã nằm trên bãi biển.
Mọi người vô cùng phấn khởi, vỗ tay reo hò không ngớt. Xong xuôi, sau khi hỏi ý kiến dân làng, Hoàng tử cho quân lính đem cây gỗ về Kinh đô .
Về phía dân làng, tuy cũng có người còn tiếc rẻ, nhưng đa phần cho rằng, đưa cây gỗ về kinh là hợp lý hơn cả vì như vậy tất cả bàn dân thiên hạ sẽ đều được chiêm ngưỡng. Còn về phía Hoàng tử thì cũng chẳng có vui mừng nào hơn, chàng cho là có duyên cớ, bèn không tiếp tục đi tìm vợ nữa, mà cùng quân lính trở về kinh, cùng với cây gỗ.
Khỏi phải nói, khi về đến Kinh đô thì mọi người, mọi nơi nghe tiếng, nao nức tìm đến xem đông như thế nào. Nhưng rồi sự kiện ấy cũng mau chóng qua đi bởi lẽ mọi người nhìn mãi rồi cũng chán, vì cây đẹp thì có đẹp nhưng chẳng thấy có biểu hiện gì là lạ lùng cả. Mà dân chúng cần là cần sự lạ lùng, xưa nay chưa từng có, chứ không phải là một cái cây đẹp.
Chỉ riêng có Hoàng tử, do chính tay mình đã chứng kiến và thực hiện được một điều kỳ diệu, nên còn giữ mãi trong lòng sự vui mừng và niềm mong đợi. Khi mọi người đã xem chán xem chê, đến mức không còn ai thiết xem nữa, thì Hoàng tử mới sai quân lính đem cây về trước Đông cung để hàng ngày được nhìn ngắm và gần gũi với cây.
Cây quả là đã có tình ý với Hoàng tử thật. Từ đó trở đi, mỗi đêm trăng sáng, Hoàng tử bỗng thấy trong thân gỗ bước ra một người con gái xinh đẹp tuyệt trần, và cùng lúc, là mùi hương thơm ngào ngạt tỏa ra theo mỗi bước chân của nàng.
Mê mẩn trước người đẹp, Hoàng tử vội vàng chạy tới, nhưng lần nào cũng vậy, hễ cứ giáp mặt, là người con gái lại biến ngay vào trong thân gỗ.
Sau vài lần như thế, Hoàng tử đã nghĩ ra được một cách, cũng khá đơn giản chứ chẳng có gì ghê gớm lắm.Chàng cho mấy người lính hầu đứng nấp ở xung quanh, còn tự mình cũng nấp saÜn ở gần đấy. Khi cô gái vừa xuất hiện thì Hoàng tử đã bước ra nắm chặt lấy tay nàng, và mấy người lính cũng lập tức khiêng cây gỗ đem dấu biến đi. Hoàng tử bảo cô gái hãy vui lòng vì chàng mà ở lại. Cô gái e lệ cúi đầu. Thế rồi, ngay lúc đó chàng dẫn nàng đến trình với đức vua cha và hoàng hậu, kể lại hết đầu đuôi ngọn ngành, và xin cha mẹ hãy tác thành cho họ.
Nhà vua lắng nghe, rồi nói: "Được. Để xem", xong cho gọi thị nữ đưa nàng về phòng riêng, còn Hoàng tử thì trở về Đông cung.
Sáng hôm sau thiết triều, nhà vua cho triệu quan Thái bốc lại để bói xem điều lành điều gở thế nào. Sau khi nghe tấu trình là quẻ đại phúc, nhà vua cả mừng rồi ngay sau đó, cho cử đại lễ để hoàng tử sánh duyên cùng cô gái.
Từ đó, cuộc sum vầy của đôi trai gái diễn ra thật vô cùng êm ả, hạnh phúc. Ba năm sau, họ sinh được một gái và một trai.
Tưởng rằng cuộc tình duyên ấy sẽ mặn nồng mãi mãi đến lúc đầu bạc răng long. Nào ngờ Hoàng tử cũng là kẻ bạc tình, chỉ chung thủy được có mấy năm đầu. Khi vợ đã có con thì chàng ta đâm ra hay chơi bời chứ chẳng quan tâm được như trước. Nay rượu, mai cờ bạc, rồi đi dong duổi khắp nơi, không chú ý gì đến việc dạy dỗ con cái. Nàng đã nhiều lần khuyên can nhưng chàng vẫn chứng nào tật ấy, làm nàng rất chán nản. Vì vậy, ở trong hoàng cung, sống giữa nhung lụa, kẻ hầu người hạ không thiếu, mà nàng cảm thấy bơ vơ, rồi buồn tủi xót xa, chỉ muốn tìm cách bỏ đi, không chút luyến tiếc. Bởi vì con người ta vốn là vậy, nên dẫu là thần thánh, thì khi tình yêu đã hết, tất cả sẽ chỉ là vô nghĩa.
Thế rồi một hôm, nhân khi Hoàng tử bỏ đi chơi lâu ngày, nàng tìm thấy cây kỳ nam mà khi trước bọn lính đã đem dấu biệt. Nàng gọi hai con đến rồi đọc một câu thần chú, thế là cả ba mẹ con cùng nhập vào cây kỳ nam. Cây kỳ nam tự chuyển động rời khỏi hoàng cung rồi lăn xuống sông. Từ sông, kỳ nam dòng nước trôi ra biển. Biển lúc ấy bỗng nhiên nổi luồng gió trái. Và theo chiều gió, cây kỳ nam trôi mãi, trôi mãi ... Cuối cùng trở lại biển phương Nam.
Đến đúng trước cù lao Huân thì gió lặng và cây kỳ nam dừng lại. Cây trôi vào sát mép nước. Từ thân cây, cả ba mẹ con bỗng chốc hiện ra, bước lên bờ, rồi trở về nhà cũ. Cả hai ông bà cha mẹ nuôi lúc ấy đều đã mất. Nhà vắng vẻ tiêu điều. Ba mẹ con bắt tay ngay vào việc dọn dẹp sửa sang cửa nhà, lập bàn thờ cha mẹ, ông bà tổ tiên, rồi cùng làm ăn sinh sống với dân làng. Từ đấy trở đi, quê hương, vùng cù lao Huân mỗi ngày một thêm ấm no, trù phú. Thế rồi đến một hôm, giữa lúc trời quang mây tạnh, trước sự chứng kiến và ngạc nhiên của mọi người, cả ba mẹ con cùng bay vút lên trời ...
Ở phương Bắc, Hoàng tử đi chơi về thấy vợ con mất tích. Tìm cây kỳ nam ngày trước thì cũng chẳng thấy đâu. Chàng hối hận vô cùng, lòng tự nhủ lòng sẽ tìm ra bằng được ba mẹ con, dẫu có phải đi xuống tận địa ngục.
Khi xưa, lúc ở bờ biển chàng có nghe dân chúng nói cây gỗ này trôi từ biển phương Nam lại. Thế là Hoàng tử vào từ biệt vua cha và hoàng hậu, rồi cùng một số gia nhân, binh lính và thủy thủ xuống thuyền, dong buồm vượt biển hướng về phương Nam.
Khi thuyền vừa đúng đến cửa Đại An thì bỗng đâu một trận cuồng phong dữ dội nổi lên. Thuyền đắm, cả Hoàng tử cùng gia nhân thủy thủ đều chìm sâu xuống đáy nước. Nhưng khi cơn bão tan thì tự nhiên biển ở chỗ ấy cũng nổi lên một mô đá nhỏ, vượt cao khỏi mặt nước. Trên mặt mô đá có những hình thù ngoằn ngoèo tựa như những hàng chữ nổi. Từ bao đời nay, đã có nhiều người hay chữ và kiến thức uyên bác đi thuyền tới đó, nhưng chưa ai đọc được đấy là những chữ gì. Và có lẽ như thế nên có thể cho rằng, những điều bí mật của thiên cơ, chắc còn lâu người ở dưới trần gian mới có thể hiểu thấu được hết.
Ba mẹ con nàng tiên đã về trời, nhưng từ đó đến nay vẫn thường hiển linh ở các nơi gần xa quanh vùng cửa Đại An, vùng cù lao Huân, cù lao Yến. Vì vậy dân đi biển, đi đánh cá, đi tìm tổ yến vẫn thường bày lễ vật, thắp hương rồi hướng mặt lên trời cao cầu xin sự che chở, phù hộ độ trì của nàng tiên, mà từ đó trở đi được kính cẩn tôn xưng là bà chúa Ngọc.
Bà chúa Ngọc còn được gọi là bà chúa tiên hay Thánh mẫu Thiên Ya na, theo cách gọi của người Chăm pa, một dân tộc đã định cư lâu dài ở vùng đất này. Từ Huế đến Nha Trang ở đâu cũng có điện thờ bà chúa Ngọc. Triều Nguyễn có sắc thượng phong cho bà là "Hồng Nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng thần".
Tại Nha Trang có tháp lớn cao sáu trượng để thờ bà chúa Ngọc. Lại có cả những tháp nhỏ xung quanh để thờ Hoàng tử, hai người con và hai ông bà bố mẹ nuôi. Bia đặt trong tháp lớn do chính tay quan đại thần Phan Thanh Giản thời Tự Đức soạn.
Trước kia, hàng năm triều Nguyễn đều ủy thác cho bộ Lễ về đây làm lễ quốc tế.
Bình Khôi Công Chúa
Bình Khôi Thông Tuệ Trinh Thục Công Chúa, Đại Vương. Là tước hiệu mà triều Lê thượng phong cho bà Trưng Nhị, nguyên là phó tướng, phó vương của bà Trưng Trắc (Trưng Vương) trong cuộc khởi nghĩa mang tên Hai Bà.
Cũng như chị, bà Trưng Nhị là một nữ tướng thao lược, đã cùng khởi nghĩa và lập nên nhiều chiến công hiển hách.
Ngồi trên bành voi, Hai Bà chỉ huy tướng sĩ, đốc thúc lực lượng tiêu diệt thành Luy Lâu và nhiều huyện, thành khác.
Khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi, bà Trưng Trắc xưng vương, đóng đô ở Mê Linh, còn bà Trưng Nhị cũng được phong vương, đóng quân ở thành Dền.
Thành Dền, tên chữ là Cự Triền, được xây dựng ở trang Cự Triền, đến nay hãy còn dấu vết, cách thành Mê Linh khoảng 9 dặm.
Thành đắp hình bán nguyệt, có tường cao hào sâu, bốn bề có tháp canh, lại có cổng thành chắc chắn, quân lính canh gác ngày đêm cẩn mật. Trong thành có chỗ ăn chỗ nghỉ cho quân sĩ, có chỗ luyện tập, thi đấu võ nghệ, lại có giếng nước, kho lương đầy đủ.
Khi trận chiến đấu ở Lãng Bạc thất thế, Hai Bà rút về thành Dền cố thủ. Quân địch đánh mãi không được, Mã Viện phải dùng kế bao vây lâu dài.
Y sai đắp một thành khác, cách thành Dền 3 dặm, gọi tên là thành Vượn (thuộc xã Tam Đồng, Yên Lãng). Từ thành Vượn và từ phía Mê Linh (nơi quân giặc đã chiếm) chúng án ngữ các đường tiếp tế và tổ chức nhiều đợt tấn công vào thành Dền. Bất đắc dĩ Hai Bà phải bỏ thành Dền, lui về đất Cẩm Khê.
Tại Cẩm Khê, nhiều cuộc chiến đấu nữa diễn ra. Cuối cùng vì lực lượng ít, quân ta đã thất bại. Cả Hai Bà đều nhảy xuống sông Hát tự tận.
Lại có thuyết nói bà Trưng Nhị bị tử thương trên sông Nguyệt Đức, lúc ấy đang có bão, từng đợt sóng đang dâng lên cuồn cuộn. Quân ta thừa thế xông vào trận địa cướp lấy thi thể của vị chủ tướng rồi vượt sóng đưa về an táng trên núi Hy Sơn thuộc đất Phong Châu ngày nay.
Tại Phong Châu và thành Dền có đền thờ của bà Trưng Nhị. Còn tên của bà, từ bao đời nay, vẫn gắn liền với bà Trưng Trắc. Nhân dân gọi hai vị khởi xướng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đầu tiên, đơn giản chỉ là "Hai Bà Trưng", một cách gọi thật dân dã, gần gũi mà kính trọng.
NamSơn
18-01-2010, 09:03 AM
Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng
Thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm (Ba Vì Hà Tây) xưa nay là miền đất đai trù phú, sản vật dồi dào, lại có sông ngòi bao quanh, tạo nên nhiều phong cảnh đẹp.
Vào thời nước ta thuộc Đường (603-906) ở thôn này có gia đình họ Phùng thuộc loại giàu có, truyền qua 5 đời đều là quan lang, làm tù trưởng Châu Đường Lâm (gần bằng một huyện bây giờ). Các đời trước là Phùng Khiêm, Phùng Thông, Phùng Đạt. Đến Phùng Viễn thì sinh con trai trưởng là Phùng Hưng. Ba năm sau lại sinh hai con trai nữa là Phùng Hải và Phùng Mâu.
Đến tuổi trưởng thành ba anh em họ Phùng đều là những chàng trai chí khí, đảm được hơn người. Đặt biệt Phung Hưng và Phùng Hải lại có thêm sức mạnh phi thường.
Một lần vào rừng, Phùng hưng bị hổ vồ nhưng nhanh nhẹn né tránh được rồi vật nhau với hổ, và cuối cùng đánh chết hổ, mang về.
Còn Phùng Hải thì đã có lần thử sức, vác cả một con thuyền nặng nghìn hộc, đi được hơn mười dăm mới dừng.
Khi người cha già yếu thì phùng hưng mới nói nghiệp, cũng làm tù trưởng Châu Đường Lâm, được các châu ấp lân cận mến phục.
Dưới ách cai trị của quan quân nhà Đường, dân ta thường ấy phải triệu trăm bề điêu đứng. Trước đó đã có các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên (năm 687) rồi của Mai Thúc Loan (năm 722) nhưng đều bị đàn áp.
Đến năm đại lịch thứ hai (767) có giặc cướp đi thuyền lớn từ biển phía nam (đảo Java) tới, Đô úy Châu Vũ Định là Cao Chính Bình đánh dẹp được. Rồi bình ở lai cái trị, bắt dân đống góp rất nặng nề.
Phùng Hưng tự nhủ: Đất nước ta từ khi có vua Hùng lập quốc, có núi tả Sông Hồng anh linh đến vạn thuở, cớ sau bây giờ vẫn phải chìm đắm mãi trong cảnh lầm than? Ta phải cùng các anh hùng hào kiệt cứu lấy gian sơn, đánh cho giặc bắt tan tành. Đất nước ta phải do người nước ta làm chủ, chứ lẽ nào phải cống nạp mãi?
Thế rồi Phùng Hưng nuôi ý định dấy binh.
Trước hết ngài bàn việc đó với hai người em. Cả hai người em cũng cùng có chí hướng như Ngài.
Vào đúng ngày đầu tháng ba (âm lịch), ba anh em lập một đàn tràng, thảo sớ tấu trình Ngọc Hoàng Thượng đế, xin về việc dấy binh khởi nghĩa sắp tới.
Đột nhiên có đám mây ngũ sắc sà xuống, một tiên ông tóc bạc trắng đỗ hạc bước ra. Anh em Phùng Hưng cúi đầu bái tạ.
Tiên ông nói:
- Ta ở Tây Vực, đi chu du chín châu tám biển, thấy hương trầm ngào ngạt, lại thấy đàn tràng thiết lập trang ngghiêm, nên cảm động mà tới.
Nói xong, tiên ông lấy từ túi áo ra một chiếc móng rồng và một khối ngọc, đưa cho Phùng Hưng.
Ba anh em cúi đầu cảm tạ, nhưng vừa ngẩng lên, đã thấy đám mây ngũ sắc sà xuống, và tiên ông cưỡi hạc bay đi. ba anh em lại vội vàng nhìn xuống ...
Nhìn hai báu vật, cả ba anh em đều băn khoăn, không biết dùng để làm gì? Lại phải thỉnh cầu Thượng đế lần thứ hai vậy.
Họ thay lễ vật trên đàn tràng, thay đèn nhang và cùng quỳ xuống. Phùng Hưng đọc tờ sớ như sau:
- Chúng con lòng thành, xin kính dâng Ngọc Hoàng Thượng đế. Ngài đã ban cho hai báu vật, nhưng chúng con người trần mắt tục, chưa biết dùng vào việc chi. Vậy kính mong Ngài hãy mở lòng chỉ bảo.
Phùng Hưng vừa dứt lời, đã thấy giữa không trung nổi lên môït ánh chớp sáng lòa. Lập tức, bốn thiên thần đội mũ trụ, cũng cưỡi mây bay xuống. Một vị nói:
- Ngọc Hoàng phái Tiên ông xuống cho Ngài hai báu vật ấy, một làm chuôi kiếm, một làm quốc ấn. Tác thành như vậy là để Ngài dùng vào việc giữ nước.
Nói xong, cả bốn thiên thần liền cươic mây bay đi. Anh em Phùng Hưng chỉ còn biét quỳ xuống bái tạ.
Thế là thhuận lòng trời! Sau lễ tế cáo, ba anh em chế tạo ngay một thanh kiếm thật sắc, ròi tra vào chuôi được làm từ móng rồng, ở giữa khắc ba chữ "Thiên linh kiếm". Còn khối ngọc đã saÜn có hình vuông, chỉ khắc vào mấy chữ là thành quốc ấn. Ba anh gọi đó là "Thiên bảo ấn".
Từ đó, Phùng Mâu ở nhà trông coi công việc trong châu, còn Phùng Hưng và Phùng Hải chia nhau đi khắp các vùng gần xa, chiêu tập hào kiệt.
Để đánh lạc hướng chú ý giặc, Phùng Hưng đổi tên Cự Lão, Phùng Hải đổi tên là Cự Lực. SaÜn có sức khỏe hơn người, hai anh em đến các sới vật thường xuyên tổ chức trong các kỳ lễ hội tại các địa phương, vừa để tham gia mà cũng vừa là cách tốt nhất để nhận mặt làm quen với các anh tài. Phùng Hưng xưng là Đô Quân, Phùng Hải xưng là Đô Bảo.
Đi đến đâu hai anh em cũng được mọi người mén mộ. Các tay đô vật ở khắp các trang ấp đều rất mực phục tài anh em Đô Quân và Đô Bảo, lại vừa nhận thấy ở họ những tấm lòng thật hào hiệp, quảng đại, nên khi nghe nói tới việc dựng cờ khởi nghĩa, họ đều nhiêït liệt hưởng ứng và cùng nhau hẹn ngày khởi sự.
Sau mấy tháng đi khắp các vùng, anh em Phùng Hưng, Phùng Hải trở về nhà. Nhân ngày húy kỵ ông bố 11 tháng 3, ba anh em làm cỗ thật to, mời tất cả anh em, họ mạc và dân làng. Lại mời tất cả bạn bè và hàng ngũ chức sắc dưới quyền trong châu Đường Lâm, đó là các trang ấp trưởng.
Trong bữa cổ, mọi người ăn uống vui vẻ, rồi sau đó bàn sang chuyện khởi nghĩa. Anh em Phùng Hưng đưa ra "Thiên linh kiếm" và "Thiên bảo ấn". Các trang ấp trưởng và mọi người đều đặt tay lên ngựa mà và hứa: "Chúng tôi nguyện xin đem hết tài năng" ...
Ba ngày sau, mấy ngàn dân binh đã được tuuyển mộ. Để Phùng Mâu ở lại trông coi các việc, còn Phùng Hưng, Phùng Hải mượn tiếng là đi tuần thú trong châu, đã dẫn quân chếch xuống phía nam, đến Thời Trung trang (nay là làng Chuông, tức xã Phương Trung - Thanh Oai - Hà Tây) thì dừng lại.
Đây là địa điểm thuận lợi cho việc tập luyện, phiên chế quân ngũ, vừa đủ xa để bọn giặc đóng ở thành Đại La (Hà Nội) không dòm ngó tới, lại vừa đủ gần để từ đây có thể hành quân bất ngờ tấn công quân địch.
Thời Trung trangd cách thành Đại La khoảng ngoài hai chục cây số (theo đơn vị đo lường chiều dài bây giờ), hành quân nửa ngày là đã lên tới nơi.
Tại đây, như đãhẹn trước, các anh tài khắp nơi mang theo những người cùng chí hướng, lục tục tìm về. Trong vòng một tuần quân số đã lên tới hàng vạn.
Sau mấy tuần phiên chế và tập luyện, vào đầu mùa Hạ, tháng 4 - 791 (Đường Trinh Nguyên năm thứ 7), theo kế của Đỗ Anh Luân một danh sĩ cùng người Đường Lâm, là bạn chơi với Phùng Hưng từ nhỏ, nay là quân sư lo việc bày binh bố trận- anh em Phùng Hưng, Phùng Hải đã mang quân chia làm hai ngả, bao vây thành Đại La trong đêm tối.
Cao Chính Bình mặc dù là viên tướng đảm lược, nhưng cũng đành chịu bó tay thúc thủ trong thành, vì quá bị bất ngờ. Không thể đem quân nống ra ngoài được, vì các nơi hiểm yếu đã bị chặn giữ, Cao Chính Bình đành phải cho một vài tên lính lanh lợi, giữa đêm tối tìm cách lẻn ra, đưa thư cấp báo về nhà Đường, xin tiếp viện.
Ba tháng ròng, thành Đại La bị vây chặt. Các đòan viện binh của nhà Đường đến đều bị quân của Phùng Hưng đánh tan. Cao Chính Bình hay tin lo lắng quá thành khối u lớn ở sau lưng. Rồi khối u vỡ, Coa chính Bình rồi cũng chết.
Khi tin Cao Chính Bình chết bay ra ngoài thành, Phùng Hưng hạ lệnh cho quân lính từ các nơi hiểm yếu, nhất loạt tiến công. Quân nhà đường chống không nổi, phải kéo cờ trắng ra hàng.
Phùng Hưng dẫn đại binh vào chiếm Đô hộ phủ trong niềm hân hoan của mọi người. Tướng sĩ suy tôn ngài là Vi đô Tướng quân.
Vi đô Tướng quân lập tức bắt tay vào việc chấn hưng đất nước và xây thành đắp lũy, luyện tập binh mã, đẻ đối phó với nhà Đường sau này. Ngài chưa xưng Đế, nhưng thực sự đã điều hành công việc như một vị Hoàng đế. Ngài mang lại cho muôn dân cảnh no ấm, thái bình, không phải đem lễ vật cống nạp cho ngoại bang, và các thuần phong mỹ tục trong nước cũng đang được khôi phục lại.
Nhưng thật tiếc thay, những công việc mà Ngài thực thi đang tiến triển thì dừng lại, bởi cái chết đến quá đột ngột, vào đúng bảy năm sau tức năm 798, lúc đó Ngài mới đang ở độ tuổi sung mãn.
Xét về công lao cũng như tài năng, đức độ, nhiều người muốn lập Phùng Hải lên thay, vì thấy ông xứng đáng nhất. Nhưng một người đầu mục phụ tá cho Phùng Hưng, và sau này phụ tá cho Phùng An, con trai trưởng của Phùng Hưng tên là Bồ Phá Cần, không tán thành.
Bồ Phá Cần là người có sức mạnh vô song, nhưng liều lĩnh và thiển cận, một mực lập Phùng An lên thay, rồi đem quân chống lại Phùng Hải. Không muốn nhìn thấy cảnh máu chảy đầu rơi, lại cốt nhục tương tàn nên Phùng Hải né tránh, cùng vài người thân tín, bỏ lên ở động Chu Nham, rồi sống cuộc đời dân giã cho đến lúc mã chiều xế bóng.
Phùng An nối nghiệp bó, nhưng là người không có đảm lược lớn. Một người như thế chỉ có thể trị vì đất nước trong cảnh thái bình, còn khi đất nước có biến động thì sẽ không đảm đương nổi.
Công việc đầu tiên mà Phùng An tiến hành là tổ chức lễ an táng cho cha thật trọng thể. Sự trọng thể lại càng tăng gấp bội phần, vì tất cả dân chúng và binh lính đều thực lòng tiếc thương vị anh hùng của mình vừa nằm xuống.
Dân chúng và binh lính đưa tang, khóc Ngài đến đỏ hoe cả hai con mắt. Họ thương tiếc, gọi Ngài là Bố Cái, tức cha mẹ, theo cách gọi của thời bấy giờ. Rồi họ lại gọi Ngài là Đại vương, như trước đó vẫn gọi Ngài như thế. Phùng An con trai Ngài, do cảm nhận được những tình cảm ấy của dân chúng và binh lính cũng suy tôn Ngài làm "Bố Cái đại vương". Và cái tên ấy còn mãi đến ngày nay.
Nhưng tiếc thay, Phùng An là người tài hèn trí mọn, không nối được cái chí của cha, chú. Hai năm sau Đường Đức Tông sai Triệu Xương sang làm An Nam Đô hộ phủ. Xương đi sau, sai sứ giả đem đồ lễ vật đi trước để dụ dỗ An. An sắp xếp nghi vệ đầy đủ, dẫn quần thần ra hàng.
Những người họ Phùng nhiều chí khí và nhiều người họ khác nữa, thấy vậy, bèn tản đi các nơi, không muốn ở lại hợp tác với giặc.
Khi Phùng Hưng mất, mộ được táng tại phía tây bắc Kinh thành và được lập miếu thờ. Ngày nay, ở đầu phố Giảng Võ - Hà Nội, vẫn còn ngôi mộ của Ngài, trên có văn bia, đề bốn chữ "Phùng Hưng cố lăng". Còn tại quê hương của Ngài, ngay từ khi Ngài mới mất, dân chúng đã lập miếu thờ. Truớc là để tỏ lòng nhớ thương, còn sau là để cúng lễ, cầu mong Ngài ban cho mưa thuận gió hòa, tai qua nạn khỏi hoặc làm ăn phát đạt.
Tất cả đều thấy ứng nghiệm, vì vậy "mỗi khi vào ngày tạ lễ, người đến nhiều như núi như biển, bánh xe chật đường". Về sau, dân chúng xây dựng thêm,"miếu maọ nguy nga, lửa hương bất tuyệt"(theo Việt điện u linh).
Đúng 100 năm, sau ngày Ngài mất, cũng tại quê hương của ngài (Đường Lâm), một người anh hùng nữa đã ra đời. Đó là Ngô Quyền (898 - 944). Sau khi giết Kiều Công Tiễn trả thù cho bố vợ (Dương Đình Nghệ), Ngô Quyền xưng vương, rồi đánh tan quân Nam Hán ở cửa sông Bạch Đằng. Trước trận đó, thấy quân giặc đông, nhả vua cũng có phần lo lắng, nhưng"đêm nằm mộng, bỗng thấy một ông già tóc bạc, mũ áo nghiêm trang ... xưng là Phùng Hưng đến cổ vũ và hứa sẽ đem vạn đội thần binh mai phục trước ở chỗ hiểm yếu" (theo Việt điện u linh).
Sau trận thắng, nhà vua tạ ơn, xuống chiếu lập đền thờ Phùng Hưng ở làng Cam Lâm to hơn quy môcũ, và tổ chức lễ hội thật trọng thể. Từ đó thành điển lệ. Các triều đại về sau đều có sắc thượng phong: "Phụ hựu", "Chương tín", "Sùng nghĩa". Đó là những tên hiệu mà các triều Trần trùng hưng đã tặng thêm cho Ngài.
Ngày nay, nhiều trường học, đường phố cũng mang tên Ngài.
Đại Thánh Từ Đạo Hạnh
Ngài họ Từ, tên Lộ, tự là Đạo Hạnh, sống vào thời Lý Nhân Tông, tu tại chùa Thiên Phúc trên núi Sài Sơn, thuộc phủ Quốc Oai, Sơn Tây. Là nhà tu hành nổi tiếng thông tuệ, uyên bác, có nhiều thuật pháp cao siêu, được đương thời và hậu thế xưng tụng là bậc đại thánh.
Cha Từ Đạo Hạnh là Từ Vinh, thuở nhỏ xuất gia theo học đạo Phật, nhưng sau đó hoàn tục làm chức Đô sát ngạch tăng quan đời Lý, trong kinh thành. Những lúc rỗi rãi, Từ Vinh thường đến làng An Lãng ở phía tây kinh thành (tức làng Láng bây giờ) dạo chơi, rồi quen biết và lấy một người con gái làng ấy tên gọi Tăng Thị Loan. Ông bà sinh được hai người con, một gái một trai. Đạo Hạnh là con thứ hai. Nhà cũng làm ở trên mảnh đất phía Nam của làng ấy (nay là chùa Láng).
Về sau người ta bảo rằng kiểu đất mà ông Từ Vinh dựng nhà là kiểu đất quý, nên sinh được Từ Đạo Hạnh ngay từ nhỏ đã có khí cốt tiên Phật. Tuy vậy, khi đến tuổi cấp sách đến trường Từ Đạo Hạnh cũng chỉ chơi bời như mọi trẻ con khác, và nếu có điều gì khác thường là ở chỗ: Từ Đạo Hạnh có những cử chỉ mà người xung quanh ít khi lường tới được.
Bạn bè mà Đạo Hạnh kết giao ở tuổi thanh niên gồm có ba vị: Một là nho sinh tên gọi Phi Sinh, một là đạo sĩ tên gọi Lê Toàn Nghĩa, và một nữa là người hay đàn hay hát tên gọi Phan Ất. Cả bốn người ban ngày thường hay tụ tập nhau lại để đá cầu, thổi sáo, đánh bài và bày ra các trò vui nhộn. Ông Từ Vinh, vốn quan tâm đến sự học hành và sự nghiệp của con sau này, đã nhiều lần trách mắng Từ Đạo Hạnh là đồ lêu lổng, dông dài, nhưng bên ngoài xem ra chàng ta cũng chẳng mấy biến chuyển.
Một hôm đêm đã khuya, ông Từ Vinh vào buồng học của con, thấy sách vở bày ra la liệt, ngọn đèn dầu lạc đã cháy gần tàn mà con ông vẫn đang tay cầm quyển sách, vừa học vừa ngủ gật. Ông hài lòng, biết là con vẫn chăm học, còn sự chơi bời ban ngày chẳng qua là thói thường của tuổi thanh niên. Sau đó ít lâu, nhà vua mở khoa thi Bạch Liên, quả nhiên, Từ Đạo Hạnh đã đỗ thứ nhất thật.
Nhưng chẳng may, trong thời gian ấy, trước kỳ thi chỉ ít ngày, thì ông Từ Vinh có xích mích với ông Diên thành hầu nhà ở mạn cầu An Quyến cạnh sông Tô Lịch (Còn nhà của Từ Vinh ở An Lãng thuộc phía trên, cũng cạnh sông Tô Lịch). Trong nhà của Diên thành hầu có nuôi một vị pháp sư tên gọi Đại Điên, pháp thuật cao cường. Đại Điên đã đến nhà, dùng bùa phép giết chết ông Từ Vinh, rồi vứt xác xuống sông. Xác trôi đến trước cửa nhà Diên thành hầu thì tự nhiên dừng lại, suốt một ngày quanh quẩn ở đấy, không chịu trôi đi. Đại Điên xuống tận nơi hét to lên rằng: "Người tu hành không được giận mãn kiếp. Sống chỉ là một trường đùa bỡn, còn chết mới thành đạo Bồ đề!"
Đại Điên vừa dứt lời thì xác Từ Vinh trôi đi liền, nhưng đến xã Nhân Mục thì lại dừng thêm một lần nữa. Người làng này thấy vậy cho là linh thiêng, bèn vớt lên hậu táng, rồi sau đó dựng lăng miếu và đắp tượng thờ, hàng năm tổ chức tế lễ vào ngày mồng 10 tháng giêng, là ngày giỗ của Từ Vinh.
Bà Tăng Thị Loan, sau đó mấy tháng cũng buồn rầu mà chết. Mộ bà táng tại chùa Ba Lăng ở xã Thượng An. Sau này Từ Đạo Hạnh hiển đạt, chùa Ba Lăng (sau cải là chùa Hoa Lăng) được chọn làm nơi thờ cha mẹ của Ngài, gọi là chùa Thánh phụ và Thánh mẫu.
Lại nói về Từ Đạo Hạnh, sau khi đỗ đạt gặp lúc gia cảnh đau buồn, tang tóc như thế, nên không ra làm quan, mà ở nhà nung nấu ý chí phục thù cho cha. Một hôm, rình lúc Đại Điên đi ra ngoài dường, Từ Đạo Hạnh câmg gậy xông đến toan gây sự để đánh chết, nhưng chợt nghe trên không có tiếng hét lớn: "Không được! Thôi ngay đi!". Thế là Từ Đạo Hạnh đành bỏ gậy xuống ra về, trong lòng vừa buồn bực vừa đau xót.
Biết mình không có pháp thuật gì thì làm sao mà đánh lại Đại Điên được, nên Từ Đạo Hạnh cất công sang tận chùa bên Ấn Độ để cầu phép lạ. Tuy vậy, khi qua đất có người răng vàng ở, Đạo Hạnh thấy núi non hiểm trở không thể vượt qua được, bèn quay lại, tìm đến chùa Thiên Phúc ở trên núi Sài Sơn để ẩn cư. Từ đấy Từ Đạo Hạnh chuyên tâm đọc kinh Đại bi đà la.
Đây là bộ kinh dày, nói về giáo lý của nhà Phật và cũng chứa đựng cả những thuật pháp cao siêu, mà phải là người thông minh, có trí lực, lại kiên trì, mới có thể đọc vàhiểu thấu nổi. Vậy mà Đạo Hạnh đã dày công, đọc đủ mười vạn tám nghìn (18.000) lần bản kinh ấy. Xem thế đủ biết, Ngài đã dụng công và kiên trì đến mức nào rồi!
Ở trước chùa Thiên Phúc nơi Ngài tu luyện ngày ấy có hai cây thông cổ thụ, dân chúng trong vùng vẫn quen gọi là hai cây "rồng". Do ngày nào cũng như ngày nào, Đạo Hạnh đều trông vào cây mà đọc thần chú lấy từ kinh Đại bi đà la ra, cho nên đến khi cây phải rơi rụng dần cành lá, rồi biến mất đi cả, thì Ngài hiểu Đức Quan Thế Âm đã ứng hộ vào lời chú của Ngài. Từ đấy, Ngài lại càng ra sức đọc kinh và niệm chú nhiều và chăm hơn nữa, để cầu cho lời của Ngài được thấu đến tận Thiên cung.
Một hôm đang ngồi tụng niệm, quả nhiên Ngài thấy một thần nhân cưỡi mây từ không trung sà xuống trước mặt, đứng lơ lửng chân không sát đất, mà nói:
- Đệ tử là Trấn Thiên Vương, cảm phục thầy dày công tu luyện, lại kiên trì tụng kinh niệm Phật, nên lại đây để thầy sai khiến.
Đạo Hạnh vô cùng hài lòng, gật đầu thu nạp đệ tử, rồi hẹn khi nào cần sẽ thỉnh đến sau. Trấn Thiên Vương lại biến lên mây bay đi liền.
Vẫn canh cánh mối thù cha chưa trả được, một hôm Từ Đạo Hạnh xuống núi, cầm gậy ném xuống dòng nước đang chảy xiết. Gậy tự nhiên dựng đứng lên, rồi đi ngược cả dòng nước. Đạo Hạnh cả mừng, tự nhủ: "Phép của ta đã thắng được Đại Điên rồi!"
Thế là Đạo Hạnh thu lấy gậy, đi thẳng tới nhà Đại Điên. Vừa giáp mặt, Đại Điên đã cười khảy: "Thằng nhãi kia! Mày không nhớ chuyện lần trước hay sao mà còn dám đến đây?" Đạo Hạnh cả giận, chẳng thèm trả lời, nhưng miệng nhẩm thần chú thỉnh Trấn Thiên Vương tới, rồi cứ thế cầm gậy đánh cho Đại Điên ngã dúi dụi. Đại Điên trở tay không kịp và trên không trung lúc ấy cũng tịnh không có một tiếng gì để ngăn lại như lần trước, vì vậy, chỉ được một lát thì Đại Điên đã lăn ra chết.
Đạo Hạnh bèn kéo xác Đại Điên ra bờ sông Tô Lịch, rồi quăng xác xuống, như trước kia Đại Điên đã từng làm như thế với Từ Vinh.
Thế là thù xưa đã trả xong, mối tục lụy trong lòng Đạo Hạnh cũng lắng lại. Từ đó, Đạo Hạnh thường đi du ngoạn các nơi để tìm lại dấu Phật, nhất là ở các miền núi cao rừng thẳm, và Ngài thỉnh thoảng cũng gặp gỡ, đàm đạo với các bậc cao tăng nổi tiếng đương thời.
Một lần, tới vùng Thía Bình, nghe nói ơ chùa Bình Hóa có Kiều Trí Huyền là vị cao tăng, nên Ngài tìm đến ra mắt. trong khi đàm đạo về lẽ "chân tâm", Ngài đọc một bài kệ như sau:
Cửu hỗn phong trần vị thức câm (kim)
Bất tri hà xứ thị chân tâm
Nguyện thừa chỉ giáo khai phương tiện
Tiện kiến bồ đề đoạn khổ tầm.
Dịch ý:
Lâu nay bị gió bụi làm vẩn nên không thấy được vàng
(Cho nên) không biết nơi nào mới đích thực là chân tâm
Nguyện được nghe lời chỉ giáo mở lòng
(Để) thấy được bồ đề, không phải khổ công đi tìm tòi.
Kiều Trí Huyền nghe xong, đọc lại bài kệ đáp lại:
Ngũ âm bí quyết diễn chân câm (kim)
Cá trung mãn nguyệt lộ thiền tâm
Hà sa giác thị bồ đề đạo
Nghĩ hướng bồ đề cách vạn tầm.
Dịch ý:
Bí quyết năm âm biểu hiện rõ ràng thực
Trong đó, đầy tháng sẽ lộ rõ lòng thiền
Cát ven sông nhìn thấy đó thực là Bồ đề (vậy)
(Còn) hướng tới Bồ đề mà đi tìm thì càng thêm xa cách.
Đạo Hạnh nghe thấy thế, trong lòng cảm thấy hoang mang quá, bèn cáo biệt, rồi tìm đến chùa Pháp Vân ở núi Pháp Linh, yết kiến thiền sư Phạm Hội. ĐaÏo Hạnh hỏi thiền sư: "Như thế nào là chân tâm?". Thiền sư trả lời: "A nan cá chính là chân tâm".
Đạo Hạnh bỗng nhiên thấy tỉnh ngộ liền. Lời thiền sư thật giản dị: "Cái gì mà chẳng là chân tâm", vậy mà lại đúng với suy nghĩ và tâm niệm của Đạo Hạnh bấy lâu nay. Ngài bèn hỏi tiếp: "Thế nào là phép hành trụ?. Thiền sư lại trả lời: "Đói thì ăn, khát thì uống". Đạo Hạnh càng tỉnh ngộ, bèn bái biệt thiền sư mà ra về, tiếp tục cuộc đời tu luyện như trước.
Từ đó, phép lực của Ngài càng ngày càng mạnh, duyên thiền của Ngài càng ngày càng kết, đến nỗi các giống rắn núi, các loài thú đồng đều đến quấn quýt xung quanh, chờ Ngài sai bảo. Ngài lại biết cả các phương thuốc chữa bệnh cho dân sở tại đến cầu xin, hoặc "hô phong hóa vũ" để cứu những cánh đồng hoa mùa đang bị khô héo vì gặp hạn hán, v.v ...
Tiếng tăm của Ngài vì thế mà truyền mãi ra xa, từ trong triều ngoài nội đến khắp mọi miền đất nước, ở đâu cũng thấy nhắc đến cả.
Khi ấy vua Lý Nhân Tông đang trị vì, Ngài không có con trai, đi cầu tự mãi cũng không được. Em ruột của Nhân Tông là Sùng Hiền hầu (đều là con Lý Thánh Tông và Ỷ Lan Thái hậu) lúc ấy cũng chưa có con trai, thấy vậy, bèn mời Từ Đạo Hạnh đến nhà để cầu tự cho mình, ngõ hầu sau này con mình sẽ được làm Thái tử. Từ Đạo Hạnh nhận lời, nhưng là trong tình thế bất đắc dĩ.
Nguyên do là năm Hội tường Đại khánh thứ ba (1112), ở phủ Thanh Hóa có người đưa tin về triều nói rằng: "Ở bãi bể có đứa trẻ kỳ lạ, tuổi mới lên ba, tự xưng là Hoàng tử, lại lấy hiêïu là Giác Hoàng, phàm vua làm điều gì, tuy ở nơi rất xa mà đứa trẻ ấy cũng đều biết cả". Nhà vua cho quan trung sứ đến tận nơi xem, thấy đúng như tin đồn, bèn đưa đứa trẻ về Kinh đô , cho ở trong chùa Báo Thiên. Nhà vua đến chùa thấy quả nó cũng thông minh, linh lợi thực, đã muốn nhận làm con nuôi, nhưng quần thần thảy đều can là không nên. Họ nói: "Nếu đứa trẻ thật là linh dị ắt sẽ phải thác sinh vào nơi cung cấm thì sau này thì mới có thể lập được. Còn bây giờ làm như thế e chỉ rối thêm phép nước". Lý Nhân Tông nghe lời, rồi cho mở đại hội bảy ngày bảy đêm, để cho các thiên thần, thiên tướng ở đâu thì về đầu thai nơi cung cấm.
Tuy đang tu hành ở chùa Thiên Phúc cách kha xa Kinh đô , nhưng Từ Đạo Hạnh cũng biết được tin nay, Ngài lại còn biết thêm được điều mà nhiều người không biết, ấy là đứa trẻ ở bãi Thanh Hóa kia chính là nhà sư Đại Điên thác sinh mà thành. Nghĩ rằng Đại Điên hậu sinh mà được vào trong cung vua, rồi sau đó được làm Thái tử và lên làm vua, thì sẽ gây tai họa cho mọi người, trong đó có cả bản thân và gia đình Ngài, vì Đại Điên chính là kẻ thù cũ của Ngài. Vì vậy, Ngài bèn ra tay diệt trừ Đại Điên hậu sinh (tức Giác Hoàng) trước. Ngài làm mấy tấm bùa, bảo chị gái giả làm người đi xem hội rồi nhân đó mà yểm (dán) vào chỗ Giác Hoàng đang ở. Quả nhiên, ba ngày sau Giác Hoàng tự nhiên phát bệnh, lúc sắp mất nói với mọi người rằng "Khắp các ngả đường đều có lưới sắt bủa vây, ta muốn thác sinh vào làm con của vua mà không có cách nào cả, vậy ta phải làm ma xuống chầu Diêm Vương thôi". Nói rồi nhắm mắt, ngừng thở.
Khi tin Giác Hoàng chết báo về cung vua, Lý Nhân tông xiết bao tức giận. Ngài lập tức cho quan trung sứ phái lính đi bắt Từ Đạo Hạnh về nhà giam trong hoàng cung, bởi vì Ngài, theo lời đồn đại tin rằng Giác Hoàng là hậu sinh của Đại Điên, mà trước kia Đại Điên đã có thù với Từ Đạo Hạnh thật. Hơn nữa, chỉ có pháp thuật củaTừ Đạo Hạnh mới có thể diệt trừ được Giác Hoàng như thế mà thôi.
Nhưng khi Đạo Hạnh đang bị giam thì Sùng Hiền hầu đi ngang qua. Nghĩ rằng Đạo Hạnh đã trừ được Giác Hoàng thì ắt cũng có thể có cách để cầu tự cho mình sinh con trai, nên Sùng Hiền hầu xin Lý Nhân Tông tha cho Từ Đạo Hạnh, rồi mời Ngài về nhà ở một vài ngày.
Cảm cái ơn cứu mạng của Sùng Hiền hầu, vì vậy, sau khi nghe Sùng Hiền hầu giải bày ước vọng, Từ Đạo Hạnh đã nhận lời, và dặn thêmtrước lúc ra về: "Bao giờ phu nhân sắp đến ngày sinh thì phải cho người đến báo để tôi biết trước".
Quả nhiên, khi về chùa Thiên Phúc, Từ Đạo Hạnh khẩn với thần núi, ba năm sau phu nhân của Sùng Hiền hầu có mang, rồi sinh ra Lý Dương Hoán, tức Lý Thần Tông sau này.
Lúc người nhà của Sùng Hiền hầu lên chùa báo phu nhân đang trở dạ, thì Từ Đạo Hạnh đi tắm rửa , thay quần áo, rồi trở lại nói với các đệ tử rằng:
- Mối nhân duyên của ta còn chưa hết. Ta phải tạm thác sinh làm đế vương trong thời hạn gần một kỷ (12 năm). Đến lúc ấy, nếu thấy thân thể ta rữa nát thì mới là lúc ta không còn ở cõi đời này nữa. Vì vậy, bây giờ các con chớ nên than khóc làm gì.
Nói xong, Đạo Hạnh lại đọc bài kệ tiếp:
Thù lai bất báo nhạn lai quy
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi
Vị cố môn nhân lưu luyến chước
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.
Dịch ý:Thu tới không báo cho chim nhạn biết trước
Cười nhạt mà nhìn nhân gian đau xót
Khẽ bảo các đệ tử (môn nhân) chớ nên luyến tiếc
Thầy xưa độ mới một kỷ lại hóa thành thầy này.
Dứt lời đọc, Từ Đạo Hạnh đang ngồi rồi bỗng nhiên mà hóa.
Sách Việt điện u linh chép rằng, Ngài "lên động tiên, đập đầu vào vách đá, nện chân lên bàn đá rồi hóa. Nay vết đầu và vết chân trên đá vẫn còn in", xét ra cũng có phần nói quá về cái chết của Ngài.
Lúc ấy các đệ tử đang có mặt đông đủ. Mọi người vừa vô cùng thương tiếc, nhưng cũng vừa muôn phần cảm kích, bèn đặt thân xác của thầy vào khám thờ. Lạ thay, mấy tháng sau, rồi hàng mấy trăm năm sau, nhìn vào vẫn thấy nét mặt của thầy còn tươi như lúc còn sống và xung quanh lại có thêm mùi hương thơm nức. Ai ai cũng đều cho rằng thầy chính là tiên, là phật đã thác sinh xuống cõi trần này.
Lại nói về phu nhân của Sùng Hiền hầu. Chính lúc bà đang trở dạ đẻ thì Từ Đạo Hạnh đã hóa, rồi nhập hồn vào đứa trẻ vừa mới ra đời đó. Sùng Hiền hầu và mọi người trong gia đình đều vô cùng mừng rỡ. Lạ thay, đứa trẻ cứ mỗi ngày mỗi khác, chỉ nuôi nấng sơ sài mà cũng chóng lớn, lại chưa học hành gì mà đầu óc cũng đã sáng láng, rồi càng lớn càng đẹp người, và có nhiều tài cán lạ. Khi được ba tuổi thì Lý Nhân Tông đưa vào cung nuôi dạy, rồi cho lập làm Hoàng Thái tử. Đến khi Nhân Tông mất, Hoàng Thái tử được nối ngôi, trở thành vua Lý Thần Tông vào năm 1128.
Vào khoảng thời gian Từ Đạo Hạnh đang tu ở chùa Thiên Phúc, đã có rất nhiều đệ tử đến học. Trong số các đệ tử của Ngài, có một người thành tâm và sáng láng hơn cả, được Ngài rất mực tin yêu. Đó là Nguyễn Chí Thành quê ở Đại Hoàng (sau đổi là Gia Viễn) thuộc miền Ninh Bình. Biết là sau này thác sinh làm vua, đến năm 21 tuổi sẽ mắc trọng bệnh, nên Đạo Hạnh bày cho Chí Thành biết được cách chữa trị ngay từ bây giờ. Lại truyền cả tấm ấn cho Chí Thành và đặt tên cho là Minh Không.
Khi Từ Đạo Hạnh đã hóa, Minh Không bèn rời chùa Thiên Phúc, về tiếp tục tu tại chùa ở quê nhà. Suốt hai mươi mốt năm sau vẫn im hơi lặng tiếng, không ai hay biết.
Đúng năm Lý Thần tông hai mươi mốt tuổi thì bỗng nhiên nhà vua mắc phải bệnh lạ. Mình mẩy mọc đầy lông lá, còn tâm thần thì rối loạn, tiếng kêu đau đớn nhưng lại như tiếng cọp gầm rú, nghe rất là kinh khiếp. Tất cả danh y trong nước đều được vời đến chữa trị cho nhà vua, nhưng thảy thảy đều bó tay. Chính khi ấy, tại một ngôi chùa đang tu tại Gia Viễn (Ninh Bình), Minh Không đã truyền cho trẻ chăn trâu câu ca dao để chúng hát: "Muốn chữa Lý cửu trùng. Phải tìm Nguyễn Minh Không". Và câu hát mỗi ngày mỗi truyền đi xa, và chẳng mấy chốc đã tới tận Kinh đô .
Triều đình hay tin, bèn cử sứ giả đi dò la trước, quả nhiên thấy có Nguyễn Minh Không thật. Sau đó, một viên tướng dẫn nhiều binh lính đi thuyền đến tận Gia Viễn, để mời Minh Không về Kinh đô chữa bệnh cho nhà vua.
Khi quan quân triều đình đến, lúc ấy đã gần trưa, Nguyễn Minh Không bèn bảo họ hãy cứ an tâm không phải lo đói. Quả nhiên, khi niêu cơm chín, hơn một trăm người ăn thực kỳ no, mà niêu cơm cũng không thể hết được.
Khi mọi người ăn xong, Minh Không bảo họ: "Anh em hãy lên thuyền ngủ say cho đỡ mệt". Họ nghe lời. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, Minh Không đã lại hóa phép cho thuyền cập bến ở ngay trước kinh thành. Và khi mọi người tỉnh dậy, thấy vậy, đều hết sức lấy làm lạ lùng lắm.
Minh Không được viên tướng, sứ giả dẫn vào đến tận chỗ nhà vua đang nằm trong tẩm điện. Ở phòng ngoài lúc ấy cũng đang có mặt đông đủ các danh y tai mắt của triều đình vàcủa các phủ, trấn. Tất thảy bọn họ đều béo tốt, lại ăn mặc sang trọng. Khi thấy một nhà sư có vẻ quê mùa, cổ giả đến, thì họ liền tỏ thái độ khinh khỉnh, biểu lộ ra cả nét mặt. Họ không thèm mở miệng đáp lại câu chào của Minh Không, hơn nữa, lại còn giương mắt ra nhìn, như ý muốn nói: "Chuông khánh chẳng còn ăn ai. Huống hồ mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre".
Cực chẳng đã, Minh Không phải rút từ trong túi áo ra một cái đinh dài 5 tấc, đem ấn nhẹ vào cột điện. Xong xuôi, Ngài bảo các danh y đang có mặt tại đó: "Nếu vị nào nhổ được cái đinh này, Minh Không tôi xin bái phục làm thầy!"
Khi Ngài nhắc lại lần thứ ba thì có một vài người mon men đến để nhổ thử. Nhưng cái đinh vẫn không nhúc nhích. Thế rồi, tất cả các danh y đều đến để lay, nhổ, mà cũng chẳng có kết quả gì. Đến lúc ấy, Minh Không mới nói: "Thôi, xin phép các vị, Minh Không tôi đành phải tự nhổ lấy vậy. Ở đời vốn có câu: Dẻ cùi đẹp mã mà!"
Các vị danh y đã nhận được lời cảnh cáo. Tất cả bọn họ vừa thẹn thùng vừa kinh ngạc khi ấy sau đó Minh Không chỉ cần dùng hai ngón của bàn tay trái khẽ nhổ mà cái đinh đã phải bật ra, tựa hồ như người ta vẫn nhổ một chiếc lông gà, lông chim hay một sợi tóc vậy.
Vào phòng Lý Thần Tông đang nằm, Minh Không lớn tiếng nói:
- Kẻ đại trượng phu được tôn lên làm thiên tử, giàu sang không ai sánh kịp, cơ sao còn phải phát bệnh cuồng loạn như vậy?
Nhà vua nghe thấy thế, đang gầm gừ bỗng nhiên run lên cầm cập. Minh Không bảo tên đại thần túc trực cho đun một vạc dầu lớn. Lại bảo đi tìm cho được 100 cái đinh và một cành hòe. Khi dầu sôi, Minh Không sai thả100 cái đinh vào đó. Một lát sau, Ngài tự tay thò vào vạc dầu vơ số đinh ấy vứt ra, đoạn, cầm cành hòe nhúng vào dầu sôi, rảy đều khắp mình nhà vua.
Lạ thay, chỉ trong nháy mắt, lông lá trên người nhà vua tự nhiên rụng hết. Chẳng còn tiếng gầm gừ, cũng chẳng còn run sợ như lúc trước. Nét mặt nhàvui tươi tỉnh dần lên, giọng nói cũng trở lại bình thường. Nhà vua đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Sau đó, để thưởng công, Lý Thần Tông phong cho Minh Không làm quốc sư, lại ban cho mấy trăm hộ để hưởng lộc suốt đời. Niên hiệu Thái Bình thứ 22, Minh Không tạ thế, thọ 76 tuổi.
Về vua Lý Thần Tông, đúng như đại thánh Từ Đạo Hạnh đã báo từ trước khi Ngài hóa, là chỉ tạm tời làm vua trong gần một kỷ thôi. Quả nhiên, sau khi khỏi bệnh, Lý Thần Tông chỉ sống thêm được hai năm nữa. Nhà vua mất ở tuổi 23, vào năm 1138.
Khi nhà vua vừa mất, ở chùa Thiên Phúc trên núi Sài Sơn tự nhiên có khí thiêng bốc lên, ai ai trông thấy cũng phải kinh hãi. Quan sở tại tâu lên, vua Lý Anh tông (con Lý Thần Tông) bèn sai đại thần đến làm lễ quốc tế, lại tôn phong Từ Đạo Hạnh làm "Thượng đẳng tối linh thần". Khi ấy thân xác của Từ Đạo Hạnh vẫn còn nguyên trong khám thờ, không rửa nát lại có mùi hương thơm nức.
Gần ba trăm năm sau, khi ấy nhà Lý đã hết, cả nhà Trần và nhà Hồ sau đó cũng đã hết. Vào niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh (1403 - 1424), nước ta đang bị ngoại bang xâm lược và đô hộ. Thi hành chính sách triệt phá văn hóa đến tận gốc, cùng với việc thu gom sách vở, giấy tờ, hiện vật văn hóa, ... , hoặc đem về nước, hoặc đốt bỏ đi, bọn quan quân nhà Minh cũng không chừa đến cả "chân thân" của đại thánh Từ Đạo Hạnh.
Khi đến núi Sài Sơn, lên chùa Thiên Phúc, bọn chúng nhìn vào khám thờ thấy Ngài vẫn còn nguyên vẹn, tươi tỉnh như khi đang sống, lại có mùi thơm từ đấy phát ra, chất củi vào rồi châm lửa đốt.
Bọn giặc tàn bạo tuy vậy nhưng vẫn còn run sợ. Chúng lo Ngài sẽ hiển linh gây tai họa cho chúng, nên sau khi đốt cháy, chúng phải lượm lấy tro, đem luyện vào đất đắp thành tượng, rồi bỏ vào khám thờ, đưa lại vào trong chùa như cũ.
Đến niên hiệu Quang Thuận (1406 - 1469) đời vua Lê Thánh Tông, Trường Lạc hoàng hậu sai Thái úy Trình quốc công lên chùa Thiên phúc cầu tự. Khi đang làm lễ, tự nhiên có một phiến đá bay vào đàn tràng, trình quốc công bèn mang về trình với Hoàng hậu. Ít lâu sau, Hoàng hậu mộng thấy rồng vàng đậu vào bên sườn, rồi có mang, sinh ra vua Lê Hiến Tông. Sau đó, để trả ơn, Hoàng hậu sai dựng am "Hiển thụy" ở cạnh chùa Thiên Phúc, và khắc bia để ghi lại sự tích này.
Từ đó, chùa lại càng nổi tiếng linh thiêng. Mỗi khi có sự gì hệ trọng, dân chúng đều đến đây cầu đảo, và nhận thấy việc gì cũng linh ứng. Tới nay, hương khói quanh năm không lúc nào dứt.
Toàn bộ phong cảnh Sài Sơn, trong đó có chùa Thiên Phúc, từ lâu đã trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng, chẳng những với khách trong nước mà còn cả với khách nước ngoài. Còn các thời trước, đây cũng là nơi thưởng ngoạn, du xuân của nhiều vị tao nhân mặc khách. Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát ... trước kia đã chân tới nơi này ...
Đô Thống Thượng Tướng Lê Phụng Hiểu
Lê Phụng Hiểu sống vào khoảng đầu thời Lý. Ngài là người làng Băng Sơn, nay là Hương Sơn, Dương Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Vì nhà ở gần núi Bơng, một hòn núi nhỏ ở giữa cánh đồng, nên dân chúng trong vùng thường gọi Lê Phụng Hiểu thời trẻ là anh Bơng, rồi đến khi hiển đạt là ông Bơng, một cái tên vừa hồn nhiên vừa thán phục. Cũng như Lý Công Uẩn, vua sáng lập triều Lý, Lê Phụng Hiểu không có cha đẻ. Mẹ Ngài khi trước lên núi trông thấy một dấu chân lạ to lớn khác thường bèn ướm thử bàn chân mình vào về nhà mà có mang, rồi sinh ra Ngài.
Thuở nhỏ, Lê Phụng Hiểu không được học chữ nhưng thiên hướng con nhà võ thì đã lộ rõ. Khi đến tuổi thanh niên, Ngài cao lớn vạm vỡ, mặt mũi phương phi, râu quai nón rậm và có sức mạnh phi thường. Tính tình Ngài cương trực, quyết đoán. Các môn võ nghệ, từ côn quyền đến phóng lao, cung kiếm ... Ngài đều tinh thông. Để rèn luyện thể lực, buổi sáng Ngài thường lên đỉnh núi Bơng, dùng một hòn đá cực lớn để tập cử tạ. Hòn đá này nặng phải đến bốn người khỏe mạnh xúm vào mới nhấc lên nổi!
Vào mùa hội hè, Ngài thường đến các sới vật trong vùng để tranh tài lĩnh thưởng. Tuy mới là mùa thi đấu đầu tiên, nhưng những tay đô vật lừng lẫy nhất trong vùng, chỉ vừa mới trông thấy Ngài, đã vội chắp tay vái dài, không dám vào giao đấu nữa.
Thời ấy, ở huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) cũng có một tay đô vật kỳ tài tên là Tuấn, tục gọi là đô Vồm. Nghe tiếng ở Hoằng Hóa có đô Bơng mới lên không ai địch nổi, đô Vồm tìm đến thách đấu.
Bữa đô Vồm tìm đến nhà đô Bơng thì thấy bà mẹ đang lúi húi dưới bếp. Bà mẹ nói:
- Bác ráng chờ cháu một lát. Nó đi kiếm củi chắc lúc này cũng sắp về rồi.
Quả nhiên, đang ngồi uống nước, bà mẹ đã chỉ cho khách thấy trên con đường núi phía trước mặt một người cao lớn vạm vỡ gánh hai bó củi to như hai bó rạ, đang đi thoăn thoắt về nhà. Bà mẹ vừa chỉ vừa nói với khách:
-Đấy. Cháu nó đấy!
Đô Vồm chột dạ, không dám nghĩ đến chuyện thách đấu nữa, bèn nói với bà mẹ:
- Thôi, xin phép bà để bữa khác tôi lại. Chắc chiều nay chú ấy còn phải gánh củi đi chợ nữa ...
Nói rồi ông khách đứng dậy liền, bà mẹ giữ lại không được. Vừa ra khỏi cổng, chân khách đã bước nhanh như chạy ...
Lê Phụng Hiểu gánh củi về nhà, thấy mẹ nói có khách vừa ra khỏi, bèn đặt gánh củi xuống rồi chạy đi tìm. Chẳng mấy chốc Ngài đã theo kịp khách ở giữa cánh đồng.
Lê Phụng Hiểu nói to với theo:
- Này ... bác gì ơi. Tôi về rồi. Mời bác quay lại.
Đành lòng, đô Vồm phải dừng lại:
- À ... tôi tưởng chú bận.
Đô Bơng vồn vã:
- Nào, có bận gì đâu?
Vừa giáp mặt, cả hai đều đo lường sức mạnh của nhau. Cả hai đều to lớn, bắp chân bắp tay cuồn cuộn.
Đô Vồm nói:
- Nghe danh chú mấy bữa nay, cũng muốn đến để học hỏi thêm, nhưng bây giờ chắc không tiện.
Đô Bơng hiểu ý ngay: "Ông này lớn tuổi hơn mình. Nói thế chắc là ngại đây. Nhưng dẫu sao cũng thử sức một tí cho biết chứ?", bèn đáp lại:
- Tôi hậu sinh còn phải học bác nhiều. Tiện đây rộng rãi, ta thử một vài "queo" cho biết. Anh hùng tao ngộ dễ mấy khi có dịp ...
Không thể từ chối, đô Vồm đành phải cởi quần áo ra rồi hai bên giao đấu. Ở giữa cánh đồng, không trọng tài, không khán giả, nhưng hai bên đấu thủ đều giữ đúng luật lệ. Người tám lạng, kẻ nửa cân, đã bảy "queo" mà chưa phân thắng bại. Tuy vậy, càng đấu, đô Bơng càng tỏ ra dẻo dai, rồi cuối cùng đến "queo" thứ tám, đô Vồm đã phải nằm phơi bụng.
Đô Vồm nói:
- Thôi thôi! Ta phục tài chú rồi.
Đô Bơng cả cười:
- Bác cũng thực khá lắm.
Nói rồi, cả hai đứng dậy, rồi dắt nhau về nhà uống rượu ...
Từ đó Lê Phụng Hiểu nổi tiếng là người tài cao và hào hiệp trong suốt mấy vùng. Đi đến đâu Ngài cũng có bạn bè tâm đắc.
Một hôm, có việc Ngài đi qua hai làng Cổ Bi, Đàm Xá, lúc ấy đang um xùm lên vì việc tranh nhau đất cát. Làng Đàm Xá cậy đông người đã chém hẳn doi đất màu mỡ mà lẽ ra phải thuôïc làng Cổ Bi. Trai tráng làng Cổ Bi đang cùng nhau chuẩn bị gậy gọc chống lại, còn các cụ bô lão trong làng thì có phần tỏ ra lo lắng.
Sau khi biết mọi chuyện, Lê Phụng Hiểu tìm đến ra mắt các cụ làng Cổ Bi mà bảo:
- Các cụ cứ yên tâm. Có tôi đây dẫu có mười làng Đàm Xá cũng chẳng chiếm không ruộng của Cổ Bi được.
Đã nghe danh đô Bơng từ lâu nên các cụ cùng dân làng mừng lắm, bèn làm cỗ để tiếp đãi Ngài. Cả năm mâm cỗ to, nào thịt nào rượu, nào xôi, vậy mà Ngài cứ thủng thỉnh ngồi ăn bằng hết. Ăn xong, Ngài xúc miệng, uống một tợp nước rồi lăn ra ngủ, tiếng gáy vang như sấm.
Chờ cho giấc ngủ của Ngài đã đẫy, trai tráng Cỗ Bi bèn vác gậy gọc ra khiêu chiến với làng Đàm Xá. Trai tráng Đàm xá cũng vác gậy ra vây kín cả một doi đất. Chính lúc ấy, Lê Phụng Hiểu thức dậy. Ngài vươn vai một cái, rồi chẳng nói chẳng rằng, "phi" một hơi đến chỗ giáp chiến. Ngài đi một đường quyền nhảy tới giật gậy trong tay một đối phương, rồi cứ thế múa tít, đến chỗ nào người phải dãn ra đến đấy. Khoảng hơn chục tay mạnh mẽ, liều lĩnh nhất của làng Đàm Xá xúm vào chỗ Ngài, nhưng chỉ được một chặp, hơn một nữa đã phải ngã gục, số còn lại thì quay đầu chạy.
Ngài tiến đến những chỗ đang đánh nhau, nhưng bấy giờ thấy gậy đã gãy, Ngài bèn quăng nó đi. Không thèm nhặt những chiếc gậy rơi, Ngài nhổ phăng những khóm cây bên đường rồi cứ thế cầm cả cụm cây mà phang vào đối phương, làm cho họ tối tăm mày mặt phải quay cổ chạy thục mạng.
Làng Cổ Bi toàn thắng. Làng Đàm Xá phải trả lại doi đất, và từ đấy, hễ cứ gặp dân làng Cổ Bi là đều phải gọi một điều "quan anh", hai điều "quan bác" cả ...
Thời bấy giờ, Lý Thái Tổ đã lên ngôi thay Lê Ngọa triều. Vốn xuất thân là anh lính "Tứ sương quân" (tức quân bảo vệ bốn mặt kinh thành) nên nhà vua hiểu rất rõ giá trị và tác dụng của quân túc vệ. Ngài cho tuyển những người khỏe mạnh, can trường và trung thành nhất vào đội quân này, để cho cùng đi theo, mỗi khi Ngài xa giá đến các nơi. Lê Phụng Hiểu, người nổi tiếng khắp cả vùng châu Ái, lẽ dĩ nhiên phải là một trong những người đầu tiên trúng tuyển.
Từ khi được tuyển dụng, qua mấy phen thử sức thử tài, lại cần mẫn siêng năng, nên Lê Phụng Hiểu được nhà vua mến mộ rồi cất nhắc dần lên tới chức Vũ vệ tướng quân, ngang hàng với các tướng Đàm Thảm, Dương Bình, Quách Thịnh Dật, Lý Huyền Sư, vốn là những người đã được bổ dụng từ trước. Các tướng này đều chỉ huy quân túc vệ và nằm dưới quyền cai quản của quan Nội thị Lý Nhân Nghĩa.
Lý Thái Tổ thọ 55 tuổi (974 - 1028), ở ngôi 18 năm (1010 - 1028) băng hà ở điện Long An, và đang còn quàn tại đấy chưa chôn.
Các đại thần theo di chiếu cùng nhau đến cung Long Đức ở ngoài thành để lập con trưởng là Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi (cung Long Đức đặt ở ngoại thành là ý nhà vua muốn cho Thái tử biết mọi việc của dân).
Triều Lý có lệ là lập các con của mẹ đích đều làm "vương", còn con của mẹ thứ đều làm "hầu", mà không đặt ngôi Hoàng Thái tử. Đến khi nào vua ốm nặng mới chọn một người trong số các con cho vào để nối ngôi. Đây là một ý tưởng tốt vì như thế các con sẽ đua nhau làm việc thiện, nhưng trên thực tế lại nảy ra sự ganh đua, dẫn đến những hành vi mờ ám như sửa di chiếu hoặc dùng vũ lực để tranh cướp ngôi.
Ngay từ triều vua đầu tiên của nhà Lý khi nhà vua vừa nằm xuống, là đã xảy ra sự không hay đó rồi. Đó là việc ba vương Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức khi nghe tin Phật Mã sẽ từ ngoài thành vào, nên cho quân của phủ mình phục saÜn ở hai hướng, chờ Thái tử đến thì đánh úp.
Như có linh tính báo trước qua thần Đồng Cổ, hoặc giả có người mật báo thì không rõ, Lý Phật Mã đã không đi vào con đường có quân mai phục, khi đến điện Càn Nguyên, biết có biến, Phật Mã bèn sai quân lính chốt chặt hết các cửa và bảo các vệ sĩ saÜng sàng đối phó. Nhà vua tương lai bảo với mọi người:
- Ta đối với anh em không có chút gì phụ bạc. Nay tiên đế vừa mất, ba Vương đã làm việc bất nghĩa. Vậy các khanh nghĩ sao?
Nội thị Lý Nhân Nghĩa nói:
- Anh em như chân với tay, lẽ ra phải cùng nhau hợp sức thì bên ngoài mới chống được giặc. Nay ba Vương đã làm phản thì chỉ coi là kẻ thù vậy. Xin điện hạ cho được một trận quyết sống mái.
Lời qua lời lại một hồi nữa nhưng Lý Phật Mã vẫn còn dùng dằng chưa quyết. Ý của Thái tử là muốn các Vương kia tự nhận ra lỗi lầm mà rút quân đi cho êm. Nhưng khi ấy, chẳng những ba vương không rút lui mà lại cho quân đến vây chặt điện Càn Nguyên. Bất đắc dĩ, Phật Mã phải nói:
- Ta chỉ biết làm lễ thành phục đến hầu tiên đế, ngoài ra đều ủy cho các khanh cả.
Lý Nhân Nghĩa cùng các tướng dưới quyền đều quỳ xuống mà nói:
- Chết vì vua gặp nạn là chức phận của bọn thần đây.
Nói rồi bảo vệ sĩ mở cửa và tất cả cùng xông ra đánh quân của ba Vương kia. Một hồi lâu, cả hai bên đều chưa phân thắng bại.
Lê Phụng Hiểu tức giận, xách gươm chạy thẳng tới cửa Quảng Phúc là nơi ba Vương đang đứng chờ. Ngài quát to:
- Các Ngài trên quên ơn tiên đế, dưới trái đạo vua tôi. Vì vậy thần là Lê Phụng Hiểu xin dâng các Ngài lưỡi gươm này.
Nói đoạn, Ngài xông thẳng đến trước ngựa Vũ Đức Vương. Vương này quay ngựa định tránh, nhưng đã bị lưỡi gươm của Ngài chém chết. Hai Vương kia thấy thế kinh hãi vội vàng thúc ngựa chạy bán sống, không dám quay cổ lại nhìn. Lê Phụng Hiểu quay trở về điện Càn Nguyên, cùng các võ sĩ đánh tiếp các đám loạn quân, chém và bắt sống không sót một mống nào.
Dẹp xong vụ bạo loạn, Lê Phụng Hiểu cùng các tướng đến lạy trước linh cữu Lý Thái Tổ báo tin thắng trận, rồi đi rước Lý Phật Mã lên ngôi. Lý Thái tử nói:
- Ta được vẹn toàn tính mạng là nhờ ở các khanh cả. Vũ Vệ tướng quân thật còn hơn cả Uất Trì Kinh Đức nhà Đường.
Lê Phụng Hiểu lạy tạ mà thưa lên:
- Đức của Điện hạ cảm động đến cả trời đất nên được thần linh giúp đỡ, chứ công sức của hạ thần nào có đáng gì.
Ý của Lê Phụng Hiểu là nhắc lại việc Lý Phật Mã được thần núi Đồng Cổ báo mộng nên không đi vào con đường có phục binh của ba Vương kia. Nhà vua tương lai cả mừng, cho rằng mình xứng đáng được ở ngôi Thiên tử vai đã được cả thần lẫn người phù trợ. Sau khi làm lễ đăng quang, Ngài thăng luôn cho Lê Phụng Hiểu lên chức Đô thống Thượng tướng quân, tước hầu.
Năm Thiên cảm thánh vũ thứ nhất (1044), tức là 16 năm sau khi tại chức, Lý Thái Tông mang quân đi đánh Chiêm Thành. Đô thống thượng tướng Lê Phụng Hiểu được cử chỉ huy đạo quân tiên phong, đã lập được nhiều chiến công hiển hách.
Sau trâïn đại thắng quân Chiêm, mọi người có công đều được nhà vua ban thưởng, nhưng Lê Phụng Hiểu lại nói:
- Muôn tâu Bệ hạ. Thần không muốn được thưởng tước mà chỉ xin Bệ hạ cho đứng ở núi Băng Sơn ném dao đi xa. Hễ dao rơi xuống chỗ nào trong đất công, thì xin bệ hạ ban cho hạ thần làm đất sản nghiệp tới đó.
Nhà vua cả cười:
- Đất đai của Đại Việt ta nào có thiếu gì? Chỉ sợ tướng quân sơ ý để dao chẳng vượt chân núi là mấy, thì ta mang tiếng lắm.
Lê Phụng Hiểu kính cẩn:
- Xin đội ơn tấm lòng của Bệ hạ. Nếu phải như vậy thì hạ thần cũng thực vui lòng, vì số trời chỉ cho có như thế.
Nhà vua gật đầu tán thưởng. Thực là một sự lạ xưa nay chưa từng có! Ngài hạ lêïnh cho quan sở tại tổ chức một ngày hội, có đông đủ dân chúng trong vùng đến để chứng kiến xem Đô thống Thượng tướng quân phóng dao nhận ruộng.
Hôm tổ chức buổi lễ, mọi người nô nức đến xem ông Bơng phóng lao. Cờ quạt rợp trời, tiếng chiêng trống vang lừng. Trên đỉnh Băng Sơn, Lê Phụng Hiểu mình trần như một lực sĩ, tay phải cầm con dao, Ngài chạy lấy đà rồi phóng nhanh ra phía trước mặt. Chỉ nghe vút một cái đã thấy lưỡi dao ở giữa tầng không, lao đi như tên bắn. Đến ngút tầm mắt mọi người mới thấy lưỡi dao chúc xuống và đi chếch đến địa phận làng Đa Mỹ.
Tiếng reo hò vang lên như sấm. Tiếng chiêng, tiếng trống cũng khua lên liên hồi. Đích thân quan sở tại chạy đến chỗ lưỡi dao rơi xuống, rồi cho người chăng dây quy vuông để đo đạc. Thật không thể nào tưởng tượng nổi: hơn môït ngàn mẫu đất đã nằm gọn trong vòng quy vuông ấy!
Nhà vua vui lòng ban cho Lê Phụng Hiểu số ruộng đó để thưởng công, hàng năm không phải đóng thuế. Từ đấy trở đi ở châu Ái, hễ ai có công được thưởng ruộng, thì đều gọi là ruộng ném dao cả.
Lê Phụng Hiểu trung thành với nhà vua hết lòng, biết điều gì là nói luôn không giấu. Đi đánh dẹp tới đâu cũng thắng. Ngài thọ ở tuổi bảy mươi bảy. Khi mất, dân chúng trong vùng thương tiếc, có đến mấy nơi lập đền thờ Ngài làm phúc thần, cầu đảo mọi người rất là linh ứng.
Đời Trần, năm Trùng hưng thứ nhất gia phong cho Ngài là Đô thống vương. Năm thứ tư, thêm hai chữ "Khuông quốc". Năm Hưng Long 21, thêm hai chữ nữa là "Tá thánh". Đền miếu của Ngài nguy nga, hương khói bốn mùa không lúc nào dứt. Ngày nay, ở các thành phố lớn cũng có đường phố mang tên Ngài.
Đức Thánh Gióng
Trong tâm thức dân gian của người Việt, Thánh Gióng biểu đạt cho sức mạnh to lớn của sự chiến đấu chống ngoại xâm của cộng đồng để bảo vệ cuộc sống chung.
Tuy nhiên, trong đời sống mỗi dân tộc, không phải lúc nào cũng có nạn ngoại xâm. Chiến tranh tự vệ chẳng qua chỉ là hành động bất đắc dĩ của dân tộc đó. Còn bình thường, mọi thành viên sẽ phải chăm lo sản xuất, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mình. Nguy cơ xâm lược, do vậy, chỉ còn ở thế tiềm ẩn. Và để đối phó với nó, khả năng tự vệ của dân tộc, vì thế, sẽ luôn luôn ở thế tiềm ẩn.
Đó là những điều có thể rút ra ra hình tượng Thánh Gióng, từ cậu bé lên ba không biết nói cười, bỗng chốc lớn lên thành dũng tướng, cầm roi sắt phi ngựa sắt, phá tan quân giặc.
Khi giặc hết, Thánh Gióng liền bay thẳng vể trời, không màng đến công danh phú quý, như thế tục sau này ...
Đấy cũng chính là bài học lịch sử, là mẫu mực đầu tiên, mà ngay từ thời tiền sử, trí tuệ dân tộc đã tổng kết lại cho các thế hệ con cháu về sau.
Thánh Gióng đã và sống mãi trong tâm thức dân gian, như một vị Thánh bất tử, chính vì những lẽ ấy.
Nước Văn Lang, kể từ Hùng Vương thứ nhất trị vì, trãi qua năm đời nữa, tuy dần dần dã trở thành một nước giàu mạnh, nhưng với nhà Ân bên Tàu, vẫn phải giữ thế thần phục.
Đến đời HùngVương thứ sáu, nhà vua vốn là người đại lượng khoan hòa, nhưng cũng là người khẳng khái, cương nghị, bèn thôi không chịu triều cống nữa.
Vua nhà Ân tức giận, chuẩn bị điều binh xuống xâm lược, bèn cho sứ giả đi dọ thám trước. Sứ giả đến triều đình Văn Lang nói rằng: "Vua của họ muốn đi tuần thú phương Nam. Khi nào tới, vua sở tại phải lo cung đón, tiếp đãi thật chu đáo". Vua Hùng trả lời: "Được, chúng tôi saÜn sàng tiếp đãi".
Sau khi sứ giả ra về, vua Hùng cho vời tất cả triều thần lại để hội kiến. Ai cũng thấy nguy cơ xâm lược đang bày ra trước mắt rồi. Nhà vua đã có phần lo lắng. Một vị Lạc hầu đứng lên nói:
- Muôn tâu Bệ hạ. Xin Bệ hạ chớ nên lo phiền. Trước mắt ta nên chiêu nạp binh mã, chuẩn bị thêm khí giới và tích trữ thêm lương thảo, để lo đối phó sau này. Đất nước ta nhỏ nhưng dầu sao, cũng chẳng thiếu nhân tài vật lực ...
Nhưng một vị Lạc hầu khác lại nói:
- Muôn tâu Bệ hạ. Xin Bệ hạ hà tất phải lo lắng. Bấy lâu nay ta vẫn chăm lo thờ cúng trời đất, tổ tiên nên nhất định phen này sẽ được phù hộ. Vả lại, từ đời các tiên đế còn truyền, là hễ trong nước có việc lớn, thì lập tức lập đàn chay, xin Long Vương về cứu giúp cháu chắt kia mà. Vậy xin Bệ hạ bây giờ hãy cho làm ngay việc đó.
Vua Hùng ngẫm nghĩ trong giây lát, thấy cả lời tâu ấy đều chí lý, nên rất yên tâm, nên bắt tay vào thực hiện.
Một mặt, nhà vua sai sắm sửa cung tên, giáo mác, thu góp lương thực. Lại sai các lạc hầu, Lạc tướng đàn tràng để cúng trời và thỉnh cầu Long Vương. Trên đàn tràng, lễ vật bày biện thật chu đáo, đèn nến thấp sáng trưng, khói hương trầm nghi ngút. Nhà vua trai giới xong thì cúng cấp đủ trong ba ngày, lại cầu khấn rất thành kính.
Đến hết ngày thứ ba thì bỗng đâu mây đen kéo đến, sấm sét đùng đùng , rồi mưa đổ nước xuống như trút. Sau trận mưa, tự nhiên có một cụ già cao lớn, mặt mũi phương phi, râu tóc bạc trắng, đến ngồi nghỉ ở ngã ba đường ngay trước đàn tràng, cụ già nói cười vui vẻ với mọi người khi có ai qua lại chào hỏi, như thể người ông đối với con cháu trong nhà vậy.
Có vị Lạc hầu thấy lạ, đem việc ấy tâu lại với vua Hùng. Nhà vua chỉnh đốn trang phục, đích thân tới chỗ già đang ngồi, rồi thưa bẩm rất lễ phép, và mời cụ lại chỗ dựng đàn tràng để dùng cơm rượu.
Nhà vua rót rượu rồi dâng lên cụ già bằng cả hai tay lễ phép như đối với bâïc trưởng thượng. Cụ già đỡ chén rượu, đưa lên miệng nhấp, cử chỉ cũng thực tự nhiên. Nhà vua tiếp thức ăn rồi sới cơm mời cụ già thảy thảy đều rất mực cung kính, lễ độ.
Sau khi dùng cơm, nhà vua mời cụ già lại bàn xơi nước rồi từ tốn thưa gởi:
- Bẩm cụ. Nước nhà đang sắp có giặc tràn sang. Bản triều cũng đã lo lắng tìm cách đối phó, nhưng cũng chưa dám chắc về sau thành bại thế nào. Chẳng hay cụ từ xa tới, có điều cao minh xin cụ chỉ bảo dùm cho.
Cụ già vuốt râu mỉm cười:
- Đa tạ nhà vua đã có thịnh tình tiếp đãi. Ba năm nữa giặc Bắc mới kép sang đây, nhưng khá khen cho nhà vua đã kịp thời lo liệu. Nay ở xứ Đông, Ngọc Hoàng thượng đế đã phái một thiên tướng xuống trần. Ba năm nữa, nhà vua sẽ cho sứ giả đến đón về để cầm quân chống giặc, khi ấy thiên tướng yêu cầu điều gì, phải lập tức có đầy đủ thì giặc mới tan. Còn bây giờ, những viêïc nhà vua và các quần thần đang làm đều là cần thiết và phải làm đến nơi đến chốn. Nhà vua nên nhớ mình là con rồng cháu tiên, làm điều gì cũng phải nêu gương cho mọi người. Phải hết lòng yêu quý, chăm sóc muôn dân như thể đối với người ruột thịt. Làm được như vậy, thì không giặc dã nào có thể xâm phạm được. Và đất nước sẽ muôn thuở thái bình.
Nói đoạn, cụ già phất tay rồi vụt bay lên trời. Vua Hùng lập tức quỳ xuống, vái theo, thực là cung kính.
Bấy giờ ở làng Gióng, thuộc xứ Đông, về sau cải là làng Phù Đổng thuộc huyện Vũ Ninh, Kinh Bắc (nay là Võ Giàng, Hà Bắc) có ông bà nhà khá giả nhưng đứng tuổi rồi mà vẫn chưa có con. Một hôm, sau đêm giông bão, bà đi thăm đồng, thấy một vết chân khổng lồ, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Từ đấy, bà có mang, đến mười bốn tháng sau mới sinh ra môït chú bé bụ bẫm, kháu khỉnh. Hai ông bà sung sướng lắm. Sau tuần cử, ông chặt tre đan một chiếc nôi thật đẹp, rồi lót quần áo, đặt chú bé vào. Suốt ngày hai ông bà thay nhau đung đưa chiếc nôi, đung đưa chú bé. Chiếc nôi được treo bằng gióng, làm bằng tre. Cả đoạn cây gác ngang sà nhà để đặt Gióng vào, cũng là một đoạn tre.
Được chăm sóc, nâng niu chiều chuộng, chú bé lớn dần và phỏng phao, đẹp đẽ, như mọi đứa bé được chăm sóc, nâng niu chiều chuộng khác. Ấy thế nhưng lạ thay, đã ba năm mà chú bé vẫn chưa biết cười, lại không biết cả lẫy, bò. Nói chi đến ngồi và đi đứng, chú bé cũng không biết nốt.
Chú chỉ suốt ngày nằm ngửa trên nôi, và nay đã lớn, nên ông bố phải làm cho một chiếc nôi khác, lớn hơn .Hai ông bà vẫn hết lòng chăm sóc nâng niu chiều chuộng con. Nào bú mớm, tắm táp, nào là nghiền bột nấu cháo rồi quấy cả trứng gà vào cháo rồi mới cho ăn. Sau năm đầu, tuy cháo nấu bằng gạo, nhưng lại cho cả xương lợn hay cá chép vào, ninh nhừ.
Ngày tuần ngày tiết, ngày lễ ngày tết, hai ông bà lại bày biện lễ vật và thắp đèn nhang, cầu khẩn trời đất, tổ tiên, để phù hộ độ trì. Ấy vậy mà chú bé không nói vẫn hoàn không nói, vẫn không biết lẫy, bò. Lại không cả ngồi dậy, đi đứng ...
Suốt ngày chú chỉ nằm ngủ. Chỉ thức dậy lúc ăn và đại tiện. Dường như mọi việc xung quanh, cả mọi sự xảy ra trên đời này, chú đều không biết và cũng không cần biết.
Ông bố bà mẹ cũng đã bắt đầu có phần lo lắng, còn họ hàng làng xóm thì thực sự ngán ngẫm. Họ nhìn vào gương mặt chú bé thực sáng sủa, đẹp đẽ như thiên thần, mà không hiểu sắp tới điều gì sẽ xảy ra ...
Rồi bỗng đến một hôm, có sứ giả ở tận Kinh đô về, đi một vòng quanh làng, vừa gõ thanh la vừa rao đọc từng hồi:
Loa, loa, loa, loa ...
Ớ làng, ớ xã!
Giặc dã đến rồi!
Tài giỏi ai người?
Hãy ra giúp nước!
Nhàvua trọng dụng,
Làm tướng cầm quân.
Đánh Bắc dẹp Đông
Rồi về lĩnh thưởng!
Ớ làng, ớ xã! ...
Loa, loa, loa, loa...
Ấy chính là lúc, chính lính canh phòng ở biên giới báo về kinh, báo tin giặc Ân sắp sửa tràn sang. Vua Hùng cũng nhẩm tính từ khi Long Vương giáng lâm đến nay đã vừa đúng ba năm. Vẫn nhớ đinh ninh lời dặn dò, nhà vua vội vàng phái ngay sứ giả đến xứ Đông để thỉnh cầu thiên tướng ...
Ở làng Gióng, khi bà mẹ vừa đưa nôi, vừa nghe thanh la và tiếng loa rao đọc thì bỗng mỉm cười, rồi nựng với con rằng:
- Ờ, ờ ... này con, có nghe thấy không? Sứ giả của nhà vua đang đi tuyển mộ nhân tài để làm tướng cầm quân đấy! Giá con lớn nhanh mà đi đánh giặc rồi về lĩnh thưởng cho cha mẹ được nhờ, thì hay lắm nhỉ? Ờ, ờ ...
Nào ngờ, khi bà mẹ vừa nói xong, đã thấy chú bé vươn vai rồi ngồi bật dậy làm cho chiếc nôi chòng chành. Bà mẹ vội vàng bế con đặt tên giường, chú bé nói:
-Thưa mẹ, mẹ hãy ra mời ngay sứ giả vào đây cho con!
Nghe thấy thế, bà mẹ tròn mắt ngạc nhiên, vội chạy ngay sang các nhà láng giềng. Ai nấy đều đổ xô tới. Chú bé cười nói, chào hỏi mọi người như đã là người lớn vậy.
Tuy ai cũng thấy lạ lùng, nhưng nhắc đến việc mời sứ giả vào thì nhiều người hãy còn e ngại ... Chú bé lắng nghe, rồi lên tiếng giục:
- Mẹ cứ ra mời sứ giả vào đây cho con. Không phải sợ sệt đều gì cả.
Bà mẹ làm theo. Khi sứ giả đến, trong thấy chú hãy còn bé tý, cũng hết sức ngạc nhiên, rồi hỏi ngay:
-Chú còn bé thế kia, làm sao có thể làm tướng cầm quân đánh giặc được mà cũng cho gọi ta vào?
Chú bé mỉm cười, trả lời:
- Xin ông đừng lo. Chỉ vài ngày tới nếu ông trở lại sẽ thấy tôi không còn bé nữa. Bây giờø thì ông hãy trở về Kinh đô , tâu với nhà vua rằng: Đúc cho tôi một con ngựa sắt, một thanh kiếm sắt và một chiếc khiên sắt. Được ba thứ ấy hãy cho người mang lại đây cho tôi. Lúc ấy, việc cầm quân sẽ do tôi đảm nhiệm. Ông cũng tâu lại thêm để nhà vua an tâm: giặc Ân nhất định sẽ tan, nên không có gì phải lo lắng cả.
Sứ giả lắng nghe cả mừng, cúi đầu làm lễ cáo biệt, rồi sau đó tức tốc nhảy lên mình ngựa, phi nướùc đại chạy cấp báo về kinh.
Sau khi nge sứ giả tâu trình, nhà vua cho vời các đình thần lại, rồi tươi cười nói với mọi người:
- Thực đúng như lời Long Vương đã nói với ta từ ba năm trước. Bây giờ các khanh hãy cùng nhau đi lo các thứ mà thiên tướng yêu cầu. Xong xuôi đâu đấy, hãy đem lại, rồi điểm tất cả binh mã đến xứ Đông để theo Thiên tướng lên đường giết giặc.
Các đình thần dạ ran, rồi cáo từ nhà vua, đi lo liệu các việc. Một vị Lạc tướng cho người đến tận Châu Hoan (vùng Diễn Châu, Nghệ An) mời "đệ nhất danh sư" nghề rèn là Lư Cao Sơn về kinh để rèn đúc các thứ bằng sắt. Vị danh sư nổi bễ, mọi người cùng xúm vào, kẻ nhóm than, kẻ đổ sắt, kẻ làm khuôn ... Thế là, chỉ trong vòng một tuần, cả ba thứ ngựa, kiếm và khiên sắt, đều đã rèn đúc xong.
Nhà vua sai đóng một chiếc xe lớn, đặt cả ba thứ vào, rồi lại sai đóng 16 ngựa, cho kéo đi trước. Đoàn binh mã của triều đình rầm rộ tiến theo sau.
Đi chưa hết một tuần thì cả đoàn đã tới làng Gióng.
Lại nói, chú bé từ khi nói chuyện với sứ giả xong thì lớn nhanh, mỗi ngày mỗi khác. Mới vài ngày đã như chú bé lên bảy. Vài ngày nữa, lại thành chú bé tuổi mười lăm. Rồi một tuần sau, đã là một chàng trai tráng kiệt. Một tuần sau nữa, lại đã cao lớn gấp đôi một người trưởng thành ...
Nhà cha mẹ chàng tuy là gia đình khá giả, vậy mà cũng không đủ cơm ăn áo mặt cho chàng. Họ hàng, làng xóm phải mang các thứ để giúp đỡ thêm. Người gánh thóc, người dăm cân thịt. Rồi có người mang cho cả một vài vại cà hoặc vại dưa. Quý hồ có thứ gì chàng trai ăn thứ ấy, chẳng hề kiểu cách, nề hà. Áo quần cũng phải đổi thay luôn cho vừa. Còn về nhà ở, khi đã cao gấp ba một người bình thường, thì làng xóm phải xúm lại, dựng riêng cho chàng một ngôi nhà, thật cao ...
Thấy sự lạ lùng, khắp nơi trong vùng mọi người đều đổ xô tới làng Gióng. Lại được cổ vũ bằng tinh thần "Giết giặc lập công", nên người người tìm đến mỗi lúc một đông thêm. Trẻ chăn trâu bò, rồi thanh niên trai tráng, cả những bác nông phu đứng tuổi, ai đến cũng thành ngay bạn bè của chàng. Họ cùng nhau tập luyện võ nghệ: Côn, huyền, giáo, mác , cung, kiếm ... Thứ gì chàng cũng đều tài giỏi, lại chỉ bảo tận tình cho tất cả mọi người. Rồi họ tập đánh trận giả. Tiếng reo hò, tiếng chân chạy huỳnh huỵch, làm náo động cả một góc trời.
Trong những ngày đó, chẳng những họ hàng làng xóm, mà tất cả dân chúng trong vùng, ai có thứ gì cũng chẳng nề hà, mang ngay đến cho chàng và bạn bè của tập luyện. Thóc gạo, thịt cá, dưa cà ... rồi đến vải vóc, nón đội và cả gậy gộc, giáo mác, cung tên ... Quanh vùng làng Gióng suốt ngày đêm rầm rầm như đang trong mùa hội lớn ...Về sau này, có người tính. Khi Thánh Gióng lớn lên ăn hết bảy nong cơm với một nong cà, thì chúng ta e, có lẽ người làm tính đã quên không kể đến số bạn bè rất đông đến đây cùng tập luyện với Ngài chăng?
Khi giặc Ân kéo đến chân núi Châu Sơn (thuộc huyện Tiên Du, nay là Tiên Sơn Bắc Ninh) thì đội quân của Ngài tập luyện đã thành thục cũng là lúc quan quân triều đình mang ngựa sắt, kiếm sắt và khiên sắt đến làng Gióng.
Quan quân đóng trên một bãi đất rộng trong vùng. Cờ xí rợp trời, giáo mác cung tên tua tủa. Đội kỵ binh đóng riêng ở một khu vực, đến nay vẫn còn tên gọi là bãi quần ngựa. Còn đội voi chiến thì đóng ở khu vực khác, đến nay vẫn còn hồ tắm voi ...
Sứ giả cùng một vị Lạc tướng dẫn đội quân đẩy chiếc xe lớn chở các thứ đến tận nhà thiên tướng. Ngài vái chào từ biệt cha mẹ và mọi người rồi vươn vai một cái, bỗng chốc lớn bổng người thêm. Đoạn, Ngài một tay cầm khiên, thét bảo đám bạn bè đã gươm giáo sẵn sàng:
- Tất cả theo ta đi giết giặc!
Ngài phi ngựa chạy đằng trước, các bạn bè chạy theo sau. Chỉ trong chớp mắt tất cả đã tới chỗ quan quân triều đình đang đóng. Ngày lại dẫn đầu cả đoàn quân đông đảo, phi ngựa như bay về phía quân giặc. Loang loáng như ánh chớp sáng lòa, còn bản thân Ngài thét vang như sấm dậy.
Quân giặc đã bày xong thế trận ỏ chân núi Châu Sơn. Ngài phi ngựa thẳng vào, chạy tới đâu quân giặc lăng ra chết tới đó, như đi vào chỗ không người. Mùi thịt cháy khét lẹt. Máu đổ ra lênh láng ...
Nhiều tướng giặc bị giết, đích thân hoàng tử nhà Ân là Thạch Linh làm nguyên soái thống lĩnh ba quân, thấy vậy, múa kiếm xông vào giáp chiến với Ngài. Nhưng chỉ được vài hiệp, Thạch Linh đã phải quay ngựa bỏ chạy. Ngày đuổi theo đến chân núi Võ Sinh (Hải Hưng) thì vung một đường kiếm bổ xuống, Thạch Linh xác xẻ ra làm đôi.
Giặc Ân mất chủ tướng, chạy tan tác như ong vỡ tổ. Quan quân triều đình cùng tốp bạn bè vùng làng Gióng của Ngài, chia nhau theo các ngã truy đuổi quân giặc.
Hàng ngàn tên chạy đến vùng suối Hoa (Thị Cầu, Bắc Ninh) thì bị bao vây, rồi bị tiêu diệt không sót một tên nào.
Sau khi chém chết chủ tướng giặc, Ngài tiếp tục thúc ngựa xông vào những chỗ còn chống cự quyết liệt với quan quân triều đình. Kiếm của Ngài chém xuống nhiều quá, đến nỗi bị gãy ra làm đôi. Ngài quăng đi, rồi dùng tay không, vớ lấy những khóm tre mọc rãi rác bên đường, cứ thế mà quật cả vào đám giặc.
Quân giặc bạt vía kinh hồn, tên nào tên nấy mặt mày tái xanh tái xám. Những tên sống sót vội vàng quỳ xuống, tế như tế sao mỗi khi thấy Ngài thúc ngựa phi tới. Tuy vậy, cũng vẫn còn những tên liều lĩnh, ngoan cố khác vừa chạy vừa quay lại bắn cung nỏ, nhưng đều bị khiên sắt của Ngài gạt ra.
Đuổi giặc đến làng Xuân Tảo (nay thuộc xã Xuân Đỉnh, Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội), Ngài cho ngựa nghỉ lại uống nước, rồi ngồi trên một phiến đá mở cơm nắm ra ăn. Đến nay phiến đá ấy vẫn còn. Cả phiến đá in dấu chân ngựa của Ngài ở làng Phú Viên nữa, cũng vẫn còn.
Sau đó, Ngài tiếp tục lên ngựa, truy đuổi quân giặc. Đến chân núi Sóc (sau này còn có tên chữ là núi Vệ Linh, nay thuộc xã Phù Linh, huyện Mê Linh) thì Ngài thấy quân giặc đã tan tác hết cả. Ngoảnh lại, Ngài thấy phía xa xa, quan quân triều đình cũng đang thu quân rút về, vừa đi vừa dẫn theo những tốp tù thất trận.
Từ trên mình ngựa, Ngài cởi áo, rồi cầm đến treo ở một mô đá có hình gốc cây mà hiện nay vẫn còn. Chắc là tấm áo thấm đẫm mồ hôi và thấm cả máu giặc tanh tưởi vào, nên Ngài muốn cởi ra cho thanh thản.
Ngài phi ngựa lên giữa đỉnh núi. Tại đây, Ngài ngoảnh mặt đi khắp tám hướng, ngắm nhìn bao quát đất nước Văn Lang một lượt, rồi giật mạnh dây cương, cho ngựa bay vút lên trời.
Hai người bạn từ hồi còn tập luyện ở làng Gióng của Ngài, tên là Hiển và Dục phi ngựa theo sau, đến chân núi Sóc đã thấy Ngài đang bay lên trời rồi. Hai ông nhìn mãi đến hút tầm mắt rồi xuống ngựa, ngồi bệt ngay xuống vệ cỏ mà nghỉ. Ngao ngán quá! " Chủ tướng không ở lại lĩnh thưởng thì mình cũng chẳng nên lĩnh thưởng làm gì. Hai ông nghĩ . Vả lại, vàng bạc có phải do nhà vua làm ra đâu mà cũng là của dân đóng góp cả. Lĩnh thưởng như thế khác nào như lấy của dân, bắt dân cực khổ ra thêm mãi. Giặc dã đến xâm chiếm, bao nhiêu của nả dân đã phải bỏ ra, lại thêm bao nhiêu người vô tội bị chết, như thế còn có chưa đủ hay sao? Ôi! Chủ tướng thật anh minh, đã bay về trời cho dân được nhờ cậy"...
Hai ông để mặc cho ngựa gặm cỏ ở đấy, rồi cứ thế, lững thững đi sâu mãi vào rừng.
Khi quan quân dẫn đám tù binh về triều đình báo tin thắng trận thì vua Hùng cả mừng, ra tận ngoài cổng thành để đón.
Nhà vua rất nóng lòng muốn biết mặt vị thiên tướng giáng trần, nhưng các Lạc hầu, Lạc tướng nhất loạt tâu rằng Ngài đã bay về trời, cả hai vị tướng của Ngài cũng đi biệt vào rừng, không thấy trở lại nữa. Nhà vua nét mặt đang vui bỗng trở nên đăm chiêu nghĩ ngợi. Ngài ra lệnh lập tức dựng một đàn tràng thật lớn để lạy ơn trời đất, tổ tiên đã phù hộ độ trì và phái thiên tướng xuống trần. Đồng thời đàn tràng cũng để Ngài cầu siêu cho linh hồn các tử sĩ trận vong. Sau đó, Ngài mở tiệc khao thưởng quân sĩ, tướng lĩnh, nhất nhất ai cũng có phần xứng đáng cả.
Sự kiện chống giặc Ân này đã để lại cho nhà vua rất nhiều điều đáng suy nghĩ về đạo trị quốc. Bài học mà Ngài rút ra là phải hết lòng chăm lo đến đời sống muôn dân, đúng như ba năm trước Long Vương đã hiện về dạy bảo. Chính vì vậy, sau này về già, Ngài trao lại vương miện cho người con trai tài năng, đức độ nhất trong số 22 người con trai của Ngài, chứ không phải theo lệ cũ là trao cho người con trưởng. Người kế vị đó là Hùng Vương thứ bảy, vị vua đã nghĩ ra bánh chưng, bánh dày để dùng vào các dịp lễ tết, hội hè của cả muôn nhà, và truyền mãi cho đến ngày nay.
Lại thêm về các sự kiện có liên quan đến cuộc kháng chiến chống giặcÂn.
Nhà vua không biết lấy gì báo đáp cho vị thiên tướng giáng lâm, nên phong Ngài là Phù Đổng Thiên Vương và lập miếu thờ ngay tại vườn nhà Ngài khi trước. Lại cấp cho dân trong làng một trăm mẫu ruộng để dùng vào việc trông nom và bốn mùa cúng lễ.
Giặc phương bắc bạt vía. Mặc dù là nước lớn nhưng 644 năm sau không dám động binh xuống xâm lược. Các nước xung quanh Văn Lang hay tin, đều tìm đến xin kết tình hòa hiếu.
Những bụi tre mà Ngài nhổ lên đánh giặc bây giờ mọc thành rừng ở huyện Gia Bình, gọi là tre Đằng Ngà.
Còn chỗ con ngựa của Ngài thét ra lửa đã làm cháy mất một làng. Làng ấy bây giờ gọi là làng Cháy.
Các triều đại phong kiến trước đây đều có sắc thượng phong cho Ngài. Ngoài tôn hiệu "Phù Đổng Thiên Vương" từ trước, đến đời Lý Thái Tổ lại phong là "Xung Thiên Thần Vương". Còn dân chúng, từ bao đời nay vẫn gọi Ngài là Đức Thánh Gióng, một cách thực tự nhiên và giản dị.
Trong tâm thức của mọi người, Ngài là vị Thánh bất tử đầy quyền năng, bởi vì chính Ngài đã là biểu tượng tuyệt vời nhất cho lòng dũng cảm và đức quên mình của dân chúng.
Từ trước đến nay, có rất nhiều thơ văn ca ngợi công đức của Ngài, cùng nhiều nghi lễ thờ cúng và hội hè. Chỉ xin ghi ra đây đôi câu đối nổi tiếng nhất của Cao Bá Quát:
Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn
Đằng không khước hận cửu thiên đê.
(Trừ giặc, chẳng nề ba tuổi là muộn Bay lên không, giận chín tầng trời vẫn chưa cao).
Đức Thánh Tản Viên
Trong tâm thức dân gian của người Việt, Tản Viên là một trong bốn vị Thánh bất tử (Tiên Dung Chử Đồng Tử, Gióng, Tản Viên, Liễu Hạnh ). Đây là vị Thánh biểu đạt cho những khả năng to lớn và vĩnh viễn của cộng đồng trong lao động sáng tạo ra nguồn của cải vô tận và trong chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo vệ cuộc sống chung.
Tuy nhiên, đã có hai quan niệm và cách giải thích nguồn gốc của vị Thánh này:
- Các học giả thời phong kiến (các sử gia, các nhà trước tác) cho Tản Viên là "hạo khí anh linh của trời đất sinh ra" (Kiều Phú, trong Lĩnh Nam chích quái), hoặc cho "Tản Viên là một trong 50 người con theo cha xuống biển của Lạc Long Quân, Âu Cơ" (Đúng ra thì phải là chắt khoảng đời thứ 19). chàng "từ biển đi vào, qua cửa Thần phù, ngược sông Hồng đến Long Đỗ (Hà Nội), Trấn Trạch, rồi ngược sông Lô, đến Phúc Lộc giang". Từ đấy, " nhìn thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp, lại thêm phía dưới dân chúng thuần phác, thái bình", nên chàng "đã làm một con đường thẳng như kẻ chỉ, từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía nam núi Tản Viên, tới động An Uyên, thì lập diện để nghỉ ngơi" (Trấn Thế Pháp, cũng trong "Lĩnh Nam chích quái", nhưng là một di bản). Các tác giả " Lịch triều hiến chương" (Phan Huy Chú) và "Việt sử thông giám cương mục" ... cũng đều có những quan niệm tương tự.
- Trong khi đó theo quan niệm của mọi người, được thể hiện qua các bản thần thích thần phả ở các làng trong vùng Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Tây, Hà Nội, Vĩnh Phú) thì Thánh Tản Viên lại là người có thực, xuất thân từ tần lớp nghèo khổ trong dân chúng.
Chúng tôi nhận thấy, quan niệm này phù hợp với những quan niệm chung đã có về các Thánh bất tử trong tâm thức dân gian, bởi vì chính quan niệm ấy đã tạo nên một hình tượng "Thánh Tản Viên" có tính nhất quán và hoàn chỉnh mà nếu so sánh thì cách quan niệm của các học giả thời phong kiến chỉ là rất phiến diện.
Dưới đời Hùng Vương thứ mười tám, ở động Lăng Xương bên bờ sông Đà có vợ chồng ông Nguyễn Cao Hạnh, bà Đinh Thị Điên làm nghề đốt than. Đã đứng tuổi rồi mà ông bà vẫn chưa có con, nên đêm ngày mong ước, cầu nguyện có một đứa con trai nối dõi ...
Một hôm bà vào rừng kiếm củi, đến trưa thấy nóng bức bèn tìm đến một hồ nước nhỏ ở cạnh để tắm. Nào ngờ đang tắm, bà bỗng thấy một con rồng từ trên cao cũng xà xuống đấy. Thế là bà mang thai, nhưng đến 14 tháng sau, mới sinh ra một đứa con trai trên tảng đá Thạch Bàn (Nay thuộc xã La Phù, Vĩnh Phú). Ông bà vô cùng sung sướng, đặt tên là Tuấn, vì thấy nó mặt mũi trông cũng khôi ngô, sáng sủa.
Khi Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi thì ông bố già yếu rồi mất. Còn lại hai mẹ con, bà Đinh Thị Điên thấy cảnh làm ăn cơ cực bèn dắt con sang mé chân núi Ngọc Tản (Ba Vì) nương nhờ trong nhà bà họ Ma.
Bà họ Ma này vốn là một tù trưởng giàu có. Chồng chết, không có con, nhưng cơ ngơi nhà bà rất lớn, gồm tất cả sông núi, ruộng đất, khe lạch ở vùng Ngọc Tản. Nhà bà lại có rất nhiều gia nhân, đầy tớ và bà cũng là người có saÜn tấm lòng từ bi, đại lượng, nên được mọi người hết sức quý trọng.
Lúc đầu, hai mẹ con bà Đinh Thị Điên ở trong nhà bà họ Ma làm gia nhân. Vì bà là người hiền lành, chất phác, lại chăm chỉ công việc, nên được bà họ Ma mến mộ và hay trò chuyện. Chú bé Nguyễn Tuấn, vừa khôi ngô lanh lợi, lại vừa lễ phép, siêng năng, nên cũng được bà hết sức quý mến. Dần dà bà họ Ma nhận Nguyễn Tuấn làm con nuôi, và đối xử với chú hệt như con đẻ.
Khi Nguyễn Tuấn đến tuổi trưởng thành thì bà Đinh Thị Điên già yếu rồi qua đời. Chàng ở hẳn với mẹ nuôi, và chăm nom, phụng dưỡng bà chẳng khác nào mẹ đẻ. Lúc ấy, chàng là một chàng trai sức vóc, lại đảm đang, tài tuấn hơn người, nên được bà họ Ma quý mến, tin tưởng, và giao cho cai quản tất cả công việc, từ trong nhà đến ngoài đồng bãi. Ít lâu sau, bà họ Ma già yếu rồi cũng qua đời. Trong lúc lâm chung, trước mặt đông đủ gia nhân, đầy tớ, bà trối trăng lại: giao tất cả sản nghiệp cho con nuôi là Nguyễn Tuấn cai quản. Sau khi làm ma và chôn cất cho bà mẹ nuôi xong, Nguyễn Tuấn nghiễm nhiên trở thành một vị tù trưởng. Tuy nhiên, địa vị này đã không làm cho bản chất của chàng thay đổi.
Không như nhiều kẻ nghèo khó sau này, khi được giàu sang thì lập tức quên ngay nguồn gốc xuất xứ, mặt mày vênh vênh váo váo và đối xử tàn nhẫn với đồng loại cứ y như một sự trả thù, trái lại, Nguyễn Tuấn lại là một chàng trai cực kỳ tốt bụng và hay thương người. Trong trang trại, chàng bãi bỏ hẳn chế độ gia nhân, đầy tớ: Từ đây mọi người sẽ cùng ăn cùng làm, còn chàng chỉ là người đứng mũi chịu sào, vừa làm lụng vừa lo toan quán xuyến công việc, mà thôi. Ai siêng năng chăm chỉ được chàng khuyến khích, động viên. Ai khó khăn, cơ nhỡ được chàng chăm sóc, giúp đỡ. Ai chây lười hoặc làm điều gì sai trái thì chàng khuyên nhủ, bảo ban. bản thân chàng là một tấm gương sáng, ai nhìn vào cũng thấy. Do vậy, trong khắp trang trại rộng lớn mà chàng cai quản, mọi người coi nhau như ruột thịt, nhường cơm sẻ áo cho nhau, và tuyệt nhiên không có những chuyện như chây lười, trộm cắp, hoặc chửi bới, gây gổ đánh nhau.
Đối với những việc hiếu nghĩa, chàng lại càng đặc biệt coi trọng. Mộ phần của cả ba bố mẹ được chàng thường xuyên chăm sóc gọn gàng, sạch sẽ. Ngày tuần ngày tiếp, ngày kỵ ngày giỗ ... chàng đều đến thắp đèn nhang và dâng lễ vật chu đáo. Trước vong linh của người quá cố, bao giờ chàng cũng đều tóc để xõa, chắp hai tay, khấn vái thật là trang trọng, thành kính.
Vào đầu năm mới, hay sau các kỳ thu hoạch lúa, hoa màu và đi săn về, chàng đều cùng mọi người làm lễ tạ trời đất, thổ thần, thổ địa, và cầu mong cho sự yên ấm thịnh vượng đời đời.
Lòng thương người của chàng đã làm cho mọi người thật sự cảm phục, kính nể. Còn lòng hiếu nghĩa của chàng thì được mọi người hết sức ca ngợi, noi gương. Tiếng lành đồn xa: những đức tính của chàng được nhiều nơi đến, và đã cảm ứng tới cả đất trời.
Một lần, vào đầu năm mới, Ngọc Hoàng Thượng Đế đang cùng triều thần ngồi bàn soạn công việc trần gian ở nơi thượng giới. Chợt thấy mùi khói nhang bay lên từ phía núi Tản. Ngài cho gọi hai vị Nam Tàu Bắc Đẩu lại để hỏi han cho rõ sự tình. Khi được tâu bày, Ngài cảm động, phái thần Thái Bạch Kim Tinh xuống núi Tản để dạy cho chàng chủ trại võ nghệ và các phép thuật thần tiên.Thần Thái Bạch y lệnh, ngay ngày hôm đó xuống trần và ở lại trong thời hạn một năm. Nhờ có thầy dạy võ, Nguyễn Tuấn đã trở thành một người chẳng những võ nghệ cao cường, mà các thuật pháp cũng thực cao siêu chưa từng thấy.
Trước khi bay về trời, thần Thái Bạch còn ban cho chàng một chiếc gậy thần có đầu sinh và đầu tử. Một khi đầu sinh chỉ vào người hay vật đang ốm thì lập tức khỏi bệnh, chỉ vào người hay vật đã chết cũng lập tức sống lại. Còn đầu tử thì ngược với đầu sinh, chẳng những người hay vật đang sống phải chết, mà ngay cả núi non cũng phải lở, thành quách cũng phải đổ.
Khi đã có thuật pháp và gậy thần trong tay, Nguyễn Tuấn giao nhà cửa, ruộng nương lại cho mọi người, còn mình thì chu du thiên hạ, cứu nhân đôï thế. Bàn chân chàng đặt lên khắp mọi miền quê hương đất nước, chẳng thiếu một nơi nào. Theo địa giới ngày nay, từ Nghệ An, Thanh Hóa trở ra, đến Nam Hà, Hà Tây, rồi Hà Nội, Hà Bắc, Vĩnh Phú ... chỗ nào chàng cũng có mặt . Chàng cứu chữa được rất nhều người, lại bảo ban khuyên nhủ đưọc nhiều kẻ xấu, kẻ ác quay về con đường lương thiện.
Vốn tính tình hào hiệp, độ lượng, nên đi đến đâu chàng cũng đều có bạn thân hoặc anh em kết nghĩa. Cao Sơn, Quí Minh ở Tam Nông, Vĩnh Phú, Bảo Công ở núi Sài (Quốc Oai, Sơn Tây), Trần Khánh ở An Duyên (Thường Tín, Hà Tây), Bảo Ngà ở Vụ Bản (Nam Hà), Tuấn Cương, Quế Hoa ở Bạch Hạt (Vĩnh Phú) ... sau này đều là những tướng lĩnh tài ba của Nguyễn Tuấn cả. Còn những người được chàng cứu sống và thân nhân của họ thì nguyện saÜn sàng đi theo chàng để làm bộ hạ thân tín, đã kể như rất đông và nơi nào cũng có.
Một ngày kia, trên đường về nhà, chàng đi ngang qua làng Ma Xá, ven sông Tích (huyện Ba Vì), gặp một đám trẻ chăn trâu đánh chết con rắn nước lớn rồi bỏ đi. Chàng lại gần chợt nghĩ rắn nước chỉ quen mò tép thì làm gì nên tội, nên thương tình, cầm đầu gậy sinh chỉ vào cho rắn sống lại. Chẳng ngờ rắn lại là rắn thần, là con cả của Long Vương đội lốt đi chơi xa, nên trong đêm ấy chàng được một vị sứ giả của Long Vương mặc quần trắng áo trắng, lại đội mũ đi giày cũng trắng, đến trao cho một quyển sách ước, để tạ ơn. Chàng vô cùng vui sướng. Nhân dịp trở về nhà sau mấy năm xa cách, chàng đi thắp hương ba cha mẹ, rồi đến thăm hỏi chữa trị cho mọi người trong trang trại, xong, chàng liền mở sách ước, xin một bữa tiệc thật thịnh soạn để tiếp đãi mọi người. Trong bữa tiệc, ai nấy dều vui vẻ, lại được thưởng thức những thứ của ngon vật lạ xưa kia chưa từng có bao giờ, nên chuyện trò cứ vui như mở hội. Cuối buổi tiệc, chàng dứng dậy, nói với mọi người rằng từ nay chàng sẽ đổi tên là Nguyễn Tùng. "Tùng" là cây tùng, chàng giải thích, là bao giờ cũng ngay thẳng quyết chẳng có sự thiên vị nào. Tùng cũng còn có nghĩa là "tòng", là từ nay làm điều gì cũng đều nhất nhất tuân theo lẽ phải và sự công bằng, bởi vì không lẽ, khi đã có gậy thần và sách ước trong tay, lại có thể tùy tiện muốn làm gì cũng được hay sao?
Sau bữa tiệc, chàng hỏi han mọi người cách thức làm ăn sinh sống bấy lâu này, rồi mọi người bàn định công việc và giảng giải những cách làm ăn mới mà do đi ra ngoài, chàng đã học được. Từ đấy, chàng ở lại trang trại, cùng làm ăn sinh sống với mọi người. Tuy nhiên, thỉnh thoảng chàng cũng đi thăm thú và cứu chữa cho dân chúng ở các vùng lân cận. Mọi người do được chứng kiến những gì xảy ra từ các năm trước và gần đây, trong bữa tiệc nên đều một mực còn gọi chàng là "Đức Thánh Tản", là "Thánh Tản Viên", hay còn gọi là"Sơn Tinh" nữa. Và cái tên ấy cứ truyền ra xa, đến tận mọi miền đất nước, và còn mãi, cho đến ngày này ...
Chính vào thời gian Sơn Tinh ở chân núi Ngọc Tản cùng mọi người làm ăn sinh sống ấy, thì ở Kinh đô Phong Châu, tại ngã ba Hạc Trì, công chúa Mỵ Nương, con gái yêu của vua Hùng thứ 18, đang cùng nhà vua và các vị đại thần đứng trên lầu cao tuyển kén phò mã ...
Vua Hùng thứ 18, hiệu Hùng Duệ Vương, vốn là người thuần phát nhân hậu, nhưng Ngài hiếm hoi chỉ sinh mỗi một cô con gái. Nàng tên là Mỵ Nương, càng lớn lên, nhan sắc lại càng lộng lẫy xinh đẹp.
Vua Thục nước láng giếng bấy giờ là Thục Phán, vốn nuôi tham vọng thôn tính nước Văn Lang từ lâu, nay thấy Mỵ Nương đã lớn, bèn sai sứ giả đến cầu hôn. Thục Phán tính rằng: nếu lấy được Mỵ Nương thì sau này khi Hùng Duệ Vương già yếu tất sẽ phải nhường ngôi lại cho con rể, và như vậy thật là một công đôi việc!"
Khi sứ giả đến, Hùng Vương có ý phân vân. Mặc dù biết rõ ý định của Thục Phán nhưng nhà vua vẫn muốn gả Mỵ Nương cho, vì nghĩ rằng Thục Phán vốn cùng gốc gác Lạc Long Quân, Âu Cơ, hơn nữa, gả bán như thế cũng là môn đăng hộ đối: Chẳng gì con gái cũng là hoàng hậu của một nước kia mà!
Tuy nhiên, đến khi đưa ra để các triều thần tham nghị, thì lại có mấy vị Lạc hầu không đồng tình, cho rằng như thế là mất nước. Một vị đứng lên:
- Muôn tâu bệ hạ. Xưa kia ta và Thục tuy cùng chung một gốc, nhưng từ mấy đời nay, biên giới cương vực thật đã rõ ràng. Bệ hạ gả công chúa như thế, chẳng khác nào ta dâng nước không cho Thục. Bệ hạ bao nhiêu năm trị vì đất nước, há không cho rằng tất cả thần dân đều là con cái trong nhà cả hay sao? Vả lại nước ta, đất rộng người đông, hẳn chẳng thể thiếu nhân tài? Nay theo thiển ý của hạ thần, bệ hạ nên kén lấy một người trong nước tài cao đức trọng để làm phò mã cho công chúa. Rồi ra, sẽ tuyển mộ binh mã, củng cố lực lượng. Như thế, cương vực lãnh thổ của ta sẽ được lưu truyền, mà dân chúng đời đời cũng chẳng bao giờ quên ơn Bệ hạ ...
Vua Hùng im lặng lắng nghe, rồi gật đầu tỏ ý tán thưởng, và Ngài quyết dịnh thôi không gả Mỵ Nương cho Thục Phán nữa. Theo lệnh Ngài, mấy ngày sau, nội cung và quân lính phải dựng một lầu cao ở ngã ba Hạc Trì, để công chúa kén chồng. Ngài lại cho sứ giả đi khắp trong nước truyền lệnh rằng: Tất cả trai tráng chưa thành gia thất, hễ ai có tài cán gì, hãy cứ đến Hạc Trì để thi thố.
Thế là, hầu như tất cả anh tài trong nước đều đã có mặt ở Hạc Trì sau đó. Thật lắm người có tài! Tuy nhiên, đã gần hết một tuần mà chưa có ai lọt vào mắt xanh của nhà vua và công chúa cả. Nhưng đến sáng ngày thứ mười, ngay từ buổi sáng sớm, lại bỗng một lúc, có đến hai chàng trai vào xin ứng tuyển. Một chàng xưng tên là Sơn Tinh, quê ở chân núi Ngọc Tản, còn một chàng xưng tên là Thủy Tinh, quê ở miền biển. Nhà vua nhìn cả hai chàng, thấy đều lực lưỡng, khỏe mạnh và mặt mũi cũng đều khôi ngô tuấn tú. Tuy nhiên, chàng Sơn Tinh thì hiền lành, còn chàng Thủy Tinh lại có vẻ dữ tợn. Nhà vua trong bụng ưng chàng Sơn Tinh hơn, nhưng vẫn bảo cả hai chàng sẽ lần lượt trổ tài của mình.
Chàng Sơn Tinh trổ tài trước. Chàng làm lễ bái kiến rồi đi một bài quyền, trông thật đường đường là một võ tướng, một trang phong lưu tuấn kiệt. Xong bài quyền, chàng cầm lấy gậy thần, múa tít, trông bên ngoài chỉ thấy loang loáng như ánh chớp, còn người thì chẳng thấy đâu. Chắc là chàng vừa múa gậy vừa nhẩm sách ước, nên tự nhiên có trái núi hiện ra. Rồi trái núi biến mất, để thay vào đó, lần lượt là đồi đất, rừng cây, khúc sông, cánh đồng ... cho đến cả lâu đài, thành quách. Tất cả vừa thoắt hiện rồi lại thoắt biến, như có phép lạ thần thông vậy ...
Nhà vua, các đại thần và công chúa đều vui mừng ra mặt. Còn dân chúng đứng xem thì sung sướng nhảy lên reo hò như sấm dậy, khiến cho chàng Thủy Tinh chân tay bồn chồn, và thái độ giận dữ hiện cả ra bên ngoài. Biết ý, nhà vua phẩy tay cho chàng Sơn Tinh lui ra, thế là ngay lập tức, chàng Thủy Tinh nhảy tới.
Chàng vừa nóng vội vừa tức giận đến nỗi quên cả làm lễ bái kiến, mà cứ thế, tay cầm một dãi lụa trắng, múa đi loang loáng. Tài nghệ của chàng quả thực cũng chẳng kém gì Sơn Tinh: Người ta chỉ thấy một vầng hào quang màu trắng, còn người thì dường như đã biến đi mất tăm. Xong bài múa, chàng Thủy Tinh đứng nguyên, tay phất dãi lụa. Thế là, mây đen ở đâu ùn ùn kéo đến, rồi sấm chớp đùng đùng, và mưa đổ nước xuống như trút. Tất cả mọi người đều bị ướt sũng, và tiếng ta thán nổi lên như ong, thế nhưng chàng Thủy Tinh mặt vẫn lạnh băng, lại còn khái chí cười lên khanh khách, như thể vừa trả xong một món nợ thù.
Trên lễ đài, nhà vua đứng bật dậy toan nói điều gì. Biết ý, chàng Thủy Tinh lập tức phất mạnh dãi lụa, thế là tự nhiên mưa dứt, bầu trời mặt đất quang đãng như thường.
Chẳng biết nhà vua nghĩ gì, nhưng có thể đoán được ý của Ngài định gả công chúa cho ai, qua lời nghiêm phán sau đây:
- Ta xe tài năng của hai chàng, thấy đều xứng đáng là rể ta cả. Thế nhưng, ta chỉ có một con gái nên chẳng biết sẽ gả cho ai là hay hơn bây giơ ø ... Thôi hai chàng hãy trở về nhà chuẩn bị đồ sính lễ, nếu ngày mai ai đến trước, ta sẽ gả công chúa cho. Đồ sính lễ quý thế nào ta chẳng biết, nhưng nhất thiết phải có "voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao". Đấy là cái lệ mà các bậc tiên vương từ ngày trước đã định ra, ta đâu dám trái!
Nghe thấy thế, cả hai chàng vội hướng lên lễ đài làm lễ cáo biệt, rồi lập tức về nhà chuẩn bị ...
Chàng Thủy Tinh tuy pháp thuật cao cường, nhưng vốn xuất thân từ miền biển, nên chỉ có thể kiếm được rất nhiều ngọc trai, đồi mồi, rồi đến tổ yến sào và vàng bạc, chứ voi, ngựa, gà thì chàng bị chậm.
Trong khi đó, chàng Sơn Tinh pháp thuật cao cường cũng chẳng kém, lại ở miền rừng núi và có sách ước, nên chỉ trong đêm ấy, mọi thứ chàng đều chuẩn bị xong. Vàng, bạc, ngọc đá các màu tha hồ. Mật gấu, gan tê rồi chim muông lạ và hoa quả quý có đủ. Mọi người trong trại và bạn bè xung quanh kéo đến chỉ việc đóng các thứ vào rương hòm, rồi cho lên xe và lùa voi, ngựa đi cho đúng hướng mà thôi.
Mờ sáng hôm sau, đoàn rước dâu của Sơn Tinh đã có mặt tại Kinh đô Phong Châu. Chàng vào làm lễ ra mắt, được vua Hùng đón tiếp nồng hậu và nhận làm con rể. Ngay sáng hôm đó, sau khi tiến hành xong các nghi lễ, chàng Sơn Tinh đưa công chúa Mỵ Nương trở về núi Tản.
Đoàn rước dâu của Thủy Tinh, từ cửa sông Hồng đi ngược lên, rồi vào sông Đà đến miền Phong Châu. Các rương hòm đựng đồ sính lễ nổi bập bềnh trên mặt nước do bọn ba ba, thuồng luồng vừa đội vừa bơi. Sóng lớn đập vào hai bên bờ, như đang xảy ra bão lớn. Chàng Thủy Tinh định bụng, sau khi lên bờ sẽ đi tìm bắt voi ngựa, gà ...
Nào ngờ, khi chàng cùng đoàn bọn họ ngược lên vùng núi Tản, đã thấy đoàn rước dâu của Sơn Tinh trở về. Chàng điên tiết thét toáng lên một hồi, làm cho đám thuộc hạ sợ quá lặn sâu xuống nước, các rương hòm vì thế liền bị chìm nghỉm. Vô cùng tức giận, chàng giật phắt dãi lụa vẫn quấn tròn trong túi áo, rồi vung lên, vừa múa vừa phẩy xuống liên hồi, làm cho sấm chớp nổi lên đùng đùng và mưa đổ nước xuống như trút. Nước sông Đà dâng cao, rồi dâng cao mãi. Chẳng mấy chốc, cả một vùng quanh núi Tản , chỉ thấy mênh mông những nước ...
Chàng Sơn Tinh rước dâu về đến nhà, định dựng rạp mở tiệc ăn mừng thì bỗng đâu cơn mưa ập tới. Rồi mưa mỗi lúc một to và nước dâng lên cao, khiến chàng phải đưa Mỵ Nương và mọi người trèo ngược lên các đỉnh núi. Từ đỉnh núi, chàng thấy cơ man nào là giải, mập, ba ba, thuồng luồng, đang lũ lượt bò lên. Lại nghe thấy cả tiếng của Thủy Tinh vang rền lên như sấm, hò hét bôï hạ xông vào. "À, hóa ra Thủy Tinh đánh đòn ghen định cướp Mỵ Nương đây. Được! Ta sẽ cho chúng biết thế nào là nghĩa lý".
Chàng liền mở sách ước, đọc đến đâu thì thấy từng dãy đồi núi hiện ra, làm cho mức nước bị chặn ngay lại. Rồi chàng múa gậy thần, nhảy từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác, lại quay đầu gậy chỉ vào đám giải, mập, ba ba, thuồng luồng, làm cho chúng quay ra chết, xác chồng lên xác, rơi trở lại, và trôi lềnh bềnh trên mặt nước sông Đà, do nhiều quá, đã làm một khúc sông bị tắc nghẽn lại.
Vừa đau đớn, vừa căm giận đến tím ruột, bầm gan, chàng Thủy Tinh vừa liên hồi quát lên những tiếng sấm hối thúc quân lính, vừa hóa phép, dùng lưỡi tầm sét và những luồng chớp nhằm vào Sơn Tinh mà đánh. Nhưng làm sao đánh trúng được Sơn Tinh! Gậy thần của chàng làm cho lưỡi tầm sét của Thủy Tinh bị bật văng ra xa, chỉ thấy vô số cây cối bị đổ, đất đá sụt lở, rơi xuống nước ầm ầm, còn chàng thì vẫn bình an vô sự.
Quân lính của Thủy Tinh càng xông lên bao nhiêu lại càng bị chết bấy nhiêu. Nước mưa của Thủy Tinh càng làm dâng lên thì càng bị đồi núi của Sơn Tinh chặn lại và đồi núi cứ vươn lên, cao hơn mực nước. Rồi chàng vừa hóa phép, vừa cùng mọi người xây đắp cho đồi núi kết thành một dải, hiên ngang và vững chãi như lũy như thành, bủa vây luồng nước và quân lính của Thủy Tinh, chỉ còn để cho một đường rút lui duy nhất là lui ra biển. Cả một vùng rộng lớn, còn lại đến bây giờ, nào núi Chẹ, núi Đùng, rồi núi Mom, gò Cháy, ... đều là những đồi núi do Sơn Tinh và mọi người xây đắp, để chặn luồng nước của Thủy Tinh!
Nhưng chàng Thủy Tinh đâu có dễ dàng cam chịu thất bại như vậy. Chàng vừa tung những lưỡi tầm sét cá hiểm, vừa cất giọng ồm ồm tập dợt quân sĩ ở Đầm Đượng (Ba Vì) để củng cố lực lượng. Chàng Sơn Tinh cùng mọi người lập tức tiến đến, dùng chông đá, lưỡi sắt vừa chặn lối, vừa bủa vây. Một trận đánh kinh hàng diễn ra ở đây. Cuối cùng quan của Thủy Tinh thất bại, phải chia ra làm 16 ngã để rút chạy.
Khi tàn quân chạy về đến xã Minh Quang, chàng Thủy Tinh cho quân lính đào Ngòi Lạt, dẫn nước từ sông Đà vào để đánh úp Sơn Tinh ở phía sau núi Tản. Lập tức Sơn Tinh cho mỗi người một cái lạt, rồi cùng ném xuống đấy. Thế là trong chớp mắt, lạt đã biến thành tre, rồi tre liên kết với nhau thành từng lũy dày đặc, ngăn dòng nước của Thủy Tinh.
Quân lính sống sót của Thủy Tinh chạy đến xã Tản Lĩnh, ở đó có một hồ nước lớn. Thủy Tinh cho hội quân, gọi là ao Vua. Nhưng ngay sau đó, Sơn Tinh cùng mọi người đã có mặt. Mỗi người cầm một nắm hạt mây rắc xuống xung quanh hồ, và cũng chỉ trong chớp mắt, một rừng mây hiện ra, trùng trùng lớp lớp, vây chặt quân lính của Thủy Tinh vào giữa.
Những tên lính gan góc, liều lĩnh nhất của Thủy Tinh, mặc dầu sầy vẩy, bầm da, hay toạc đầu, gãy vây, vẫn liều chết chui qua đám gai mây nhọn sắc, vượt ra đến ngoài sông Đà. Khi đến Đầm Gà ở huyện Kỳ Sơn (Hòa Bình), đang trong đêm tối, Thủy Tinh định củng cố lực lượng phản công thêm một lần nữa, nhưng lại nghe thấy tiếng vỗ tay rồi tiếng gà gáy của Sơn Tinh, chàng ta tưởng là trời sáng, nên hoảng sợ, bèn vội vàng cho quan lính giải tán, mỗi tên mỗi ngã, cùng bơi đi thục mạng. Tàn binh cuối cùng của Thủy Tinh xuôi theo sông Đà, ra sông Hồng, tản đi các ngã, hoặc đi mãi ra biển ... và thế là chấm dứt trận đầu giao phong giữa hai chàng Sơn Tinh và Thủy Tinh.
Mặc dù Thủy Tinh biết rằng yêu thuật và bộ hạ của mình chẳng những không hạ thủ được Sơn Tinh, cướp được Mỵ Nương, mà trái lại, còn phải chuốc lấy thất bại thảm hại. Nhưng chàng ta vẫn nuôi mối ghen tức và lòng thù hận đến mãi muôn đời.
Năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng tháng sáu, tháng bảy và tháng tám âm lịch khi có khi muộn hơn hoặc sớm hơn một tháng, chàng lại nổi cơn thịnh nộ, gào thét vang trời rồi làm mưa làm bão xuống địa bàn mà chàng Sơn Tinh cùng đồng bào của chàng đang sinh sống. Vì vâïy, năm nào cũng như năm nào, các con cháu chút chít, hậu duệ của chàng Sơn Tinh, đều phải cùng nhau tập hợp lại, xây đắp và củng cố những con đê cao ngăn chặn dòng nước lụt mà chàng Thủy Tinh cố tình gây hại. Chẳng có năm nào Sơn Tinh thất bại, cũng như chẳng có năm nàoThủy Tinh thất bại hoàn toàn. Chính vì vậy mà các hậu duệ của chàng Sơn Tinh sinh sôi phát triển đông đàn dài lũ, có rất nhiều cánh đồng phì nhiêu, làm ra những nguồn của cải vô cùng vô tận, để duy trì nòi giống của mình.
Thế nhưng, cũng có năm, do chểnh mảng không đề phòng kỹ lũ mối cánh, tay sai tận tụy của Thủy Tinh, nên đã có một hoặc vài đoạn đê bị vỡ, để cho nước lũ của Thủy Tinh tràn vào đồng ruộng, gây ra thiêït hại. Tuy nhiên, đấy chỉ là những thất bại nội bộ. Tựu trung, con cái cháu chắt của Sơn Tinh, vẫn đời đời chiến thắng Thủy Tinh.
Sơn Tinh cùng Mỵ Nương tuy phải hàng năm chống đỡ với Thủy Tinh, nhưng họ vẫn sống yên ổn và hạnh phúc ở núi Tản. Con cái cháu chắt của họ rất đông, tỏa ra các miền xung quanh, và đến sinh sống cả ở nhiều miền xa xôi khác nữa. Người con gái đầu tên gọi La Bình, lúc nhỏ thường được bố cho đi thăm thú các nơi. Đến tuổi trưởng thành, La Bình trở thành một phụ nữ tài giỏi và thông tuệ khác thường. Khi Sơn Tinh, Mỵ Nương về già, được Ngọc Hoàng thượng đế triệu về Thiên đình, trao cho phép trường sinh bất tử, trông nom nhiều công việc giúp Ngài, thì La Bình ở lại, cũng được ban phép trường sinh, trở thành bà Chúa Thượng ngàn, trông nom tất cả 81 cửa rừng của nước Nam ta ...
Nhưng đó là chuyện về sau ...
Còn lúc bấy giờ, khi vừa chiến thắng xong Thủy Tinh hiệp đầu thì cũng vừa lúc hay tin Thục Phán điểm binh mã sang đánh Văn Lang. Thục phán hiện đang là vị vua trẻ tuổi, dũng mảnh can trường và đầy duệ khí. Nhưng đấy cũng là một người nông nổi, sau này sẽ để mất nước về tay Triệu Đa ø ... Khi quân của Thục Phán rầm rầm tiến đến Phong Châu, vua Hùng phải tức tốc triệu hội Sơn Tinh về Kinh, giao cho cầm quân chống Thục. Mặt khác, nhà vua cũng cho sứ giả đi khắp nước, truyền lệnh tòng quân. Chỉ trong vòng một tuần, số quân lính đã đông tới hàng vạn. Các bè bạn cũ và anh em kết nghĩa của Sơn Tinh cũng có mặt. Sơn Tinh giao cho Cao Sơn, Quí Minh hai người anh em kết nghĩa tài ba nhất, chỉ huy đạo quân tiên phong, còn tự mình đi thống lĩnh trung quân. Các tướng: Bảo Công chỉ huy tả quân, Trần Khánh chỉ huy hữu quân, tỏa ra hai gọng kiềm, còn các tướng khác, vốn là họ hàng con cháu vua Hùng, như Lang Bút, Lang Mao, Lang Lôi ... được giao cài chông, đặt bẫy phục kích quân Thục.
Khi quân của Thục Phán tiến vào Phong Châu thì thế trận của Sơn Tinh cũng bày đặt xong. Ý định của Sơn Tinh là đánh cho Thục Phán một trận thua nhớ đời, không còn bao giờ dám đem quân tới xâm lấn nữa. Vì vậy, chàng đã không mở sách ước và gậy thần ra, bởi vì nếu không, Thục Phán và quan quân đã bị tiêu diệt hoàn toàn rồi.
Tuy vậy, trận chiến đấu giữa hai bên vẫn cứ diễn ra vô cùng dữ dội. Lúc đầu, quân Thục chạm trán với đạo quân tiên phong của Cao Sơn , Quí Minh đã bị tổn thất khá lớn. Về sau, khi gặp trung quân của Sơn Tinh thì hoàn toàn bị núng thế, Thục Phán phải vừa đánh vừa rút lui. Sau một hồi, các cánh quân khác của Sơn Tinh cũng đồng thời ập tới bao vây.Thế là quân Thục Phán đại bại, Thục Phán phải mở đường máu mới khỏi bị bắt làm tù binh. Quân Sơn Tinh tiếp tục truy đuổi. Tuy không bắt được Thục Phán nhưng cũng bắt được hai tướng là Hùng Nỗ và Đà Gia, sau khi đuổi vào đến tận làng Hội Thống (thuộc Nghi Xuân Hà Tĩnh ngày nay).
Cuộc chiến tranh Hùng Thục chấm dứt, Thục Phán phải cầu hòa, từ đấy vĩnh viễn từ bỏ ý đồ xâm lược. Sơn Tinh được vua Hùng hết sức quý mến, rồi nhà vua quyết định nhường ngôi cho chàng, vì cảm thấy mình đã già yếu. Từ chối mãi không được, cuối cùng Sơn Tinh đành phải nhận lời ...
Sau khi lên ngôi trị vì đất nước, Sơn Tinh hết lòng chăm lo đến đời sống của dân chúng. Tuy nhiên, do bận nhiều công việc triều đình, nên chàng cũng không trực tiếp đến được nhiều nơi. Rồi lại còn phải lo chống những toán giặc nhỏ hay sách nhiễu ở các vùng biên giới, như giặc Hồ Xương, giặc Hồ Tôn, giặc Man và giặc mũi đỏ. Dưới thời chàng trị vì, đất nước luôn được thái bình và như thế, kéo dài suốt ba năm ...
Vốn bản tính không thích làm vua mà chỉ muốn sống cuộc đời dân giã, nên khi nghe trong đám Lạc hầu LaÏc tướng dòng dõi các vua Hùng, có người dị nghị, cho rằng chàng không phải Hoàng tộc mà cũng được làm vua, thì chàng hoàn toàn tự ái, một mực đòi trả lại ngôi báu cho vua Hùng thứ mười tám.
Không thuyết phục được Sơn Tinh nên nhà vua lại đành phải vời các triều thần đến để thương nghị. Sau khi bàn soạn kỹ lưỡng, mọi người cho rằng nên nhường ngôi cho Thục Phán là hơn. Thục Phán tuy có ngông ngạo gây chiến, nhưng dù sao cũng là cháu chắt của các vua Hùng và nay cũng đã biết hối lỗi rồi.
Sau khi nhường ngôi báu cho Thục Phán, Sơn Tinh cùng Mỵ Nương lại trở về vùng núi Ngọc Tản. Vua Hùng thỉnh thoảng cũng về đấy ở với con rể và con gái. Còn Thục Phán sát nhập hai nước Thục và Văn Lang thành nước Âu Lạc, rồi xưng An Dương Vương. An Dương Vương lúc đầu xây dựng cung miếu ở vùng núi Nghĩa Lĩnh (Vĩnh Phú), sau đó một thời gian mới chuyển xuống Loa Thành (Đông Anh, Hà Nội). Để ghi nhớ sự kiện Sơn Tinh nhường ngôi cho mình, và cũng để tỏ lòng biết ơn, An Dương Vương cho lập ở Nghĩa Lĩnh một cột đá thờ rất lớn, rồi tới các ngày tuần tiết, đều tự đến đây thắp đèn hương dâng lễ vật và đọc lời thề nguyện.
Sau khi nhường ngôi, Sơn Tinh cùng Mỵ Nương trở lại vùng núi Tản, lúc ấy họ còn rất trẻ. Vừa lo xây dựng kinh tế và chăm sóc đời sống của các thành viên trong trang trại, Sơn Tinh vẫn còn nhiều thời gian để đi thăm thú các vùng xung quanh. Đi đến đâu chàng cũng mang những điều hiểu biết của mình, do thu thập được ngay từ hồi trai trẻ chưa lấy vợ, để chỉ bảo cho dân chúng.
Đến vùng Cẩm Đái (huyện Ba Vì) chàng rất ngạc nhiên thấy mọi người ở đây vẫn còn chưa biết cách lấy lửa, do vậy vẫn đang phải sống trong cảnh tối tăm. Sơn Tinh cho gọi tất cả các cụ già thổ dân lại, rồi bày cho họ cách lấy lửa như thế nào.
Trước các cặp mắt sững sờ và đầy thán phục của các cụ, chàng làm các động tác thật chuẩn xác và điêu luyện, khiến cho từ đấy mọi người cứ một mực gọi chàng là thần và thưa bẩm thật là cung kính. Sự thực thì những động tác này cũng khá đơn giản và ai học xong cũng đều có thể làm ngay được.
Trước hết, cần có một đống bùi nhùi khô và hai ống nứa hay hai ống giang già cũng thực khô. Đặt hai ống vào giữa đống bùi nhùi rồi kéo nhanh chúng cọ xát vào nhau vài lần, thế là thành lửa!
Đến vùng rừng Mãng (nay là xã Sơn Đông, Ba Vì) Sơn Tinh thấy đám đông thợ săn đang chạy theo một con thú. Người ném đá người phóng lao, rồi reo hò vây đuổi mà cũng không bắt được nó. Con thú chạy nhanh quá. Chàng gọi mọi người lại, bày cho họ cách làm hầm đặt chông rồi ngụy trang ở trên hoặc gài bẫy để bắt các loại thú lớn. Đối với thú nhỏ hoặc gà rừng, công phượng ... thì cũng gài bẫy đặt mồi hoặc căng lưới để bủa vây mà bắt khi chúng bị sa lưới.
Khi qua vùng sông Tích. Thấy cả môït vùng rộng lớn đất đai phì nhiêu (nay là xã Liệp Tuyết, Quốc Oai) mà tịnh không có cây lúa nào, chỉ thấy lau lách mọc đầy. Sơn Tinh cho gọi dân làng lại, bày cho họ cách đắp bờ giữ nước rồi phát hoang cỏ dại. Tiếp đến, chàng lại cho họ một ít hạt giống dao mang theo saÜn bên mình, và bày cho họ cách gieo mạ. Đến khi mạ lên xanh, chàng lại cho họ làm theo mình: nhổ mạ rồi chia ra từng vài dảnh một, cấy xuống các thửa ruộng đã be bờ, vơ cỏ, cày cuốc trước kia.
Đến mùa thu hoạch, dân làng cho người đi mời chàng đến để dự tiệc mừng. Thấy mọi người chỉ biết ăn uống và chuyện trò, cười đùa không có trò vui nào cả, Sơn Tinh gọi trai gái làng lại, bày cho họ cách múa hát. Trước khi về nhà, chàng lại dặn hàng năm cứ đến sau kỳ thu hoạch thì lại mở hội và múa hát mừng mùa như thế này. Lâu dần rồi thành lệ, bây giờ ở đấy gọi là hội múa Rô.
Cũng ở vùng sông tích, nơi mà Sơn Tinh vẫn thường hay qua lại, tôm cá có rất nhiều, nhất là vào những tháng lũ lụt, nước sông dâng lên cao. Bấy lâu, dân chúng trong vùng này mới chỉ biết mò cá bằng tay hoặc cùng lắm dùng nom để úp. Sơn Tinh, cho biết cách kiếm cá bằng lưới đan của người vùng biển, nên đã bày lại cho dân ở đây. Trước hết chàng bảo mọi người đi tìm cây gai là loại cây có ỏ mềm và dai về trồng. Đến kỳ cây lớn, chàng bảo họ tước lấy vỏ cây và xé nhỏ ra thành những sợi nhỏ và bền. Đem đan các sợi này vào nhau tạo thành các loại vó và lưới, sẽ đánh bắt được nhiều cá.
Nhờ các loại lưới và vó ấy của Sơn Tinh mà dân ở vùng sông Tích đánh bắt được rất nhiều cá các loại. Sau này, để tưởng nhớ công ơn của chàng, ở vùng này có tục đánh cá thờ hàng năm để cúng. Tất nhiên, đấy phải là các loại cá quý hiếm và thật lớn, bởi vì lòng thành kính đòi hỏi phải được biểu lộ ra như vậy.
Công ơn dạy dân biết thêm nhiều nghề mới để sinh sôi phát triển của Sơn Tinh kể ra còn thêm nhiều nữa, mà trên đây là một ví dụ.
Ở khắp vùng truyền thuyết Sơn Tinh, chỗ nào cũng thấy ghi công đức của chàng, và lưu truyền đến tận ngày nay.
Lại kể về nàng Mỵ Nương, vợ của chàng Sơn Tinh khả kính, cũng là người đã để lại nhiều công đức với dân chúng và được lưu truyền.
Ấy là việc nàng dạy cho các bà các cô trong vùng núi Tản quê chồng biết nghề chăn tằm và ươm tơ dệt lụa, để may quần áo. Trước đó, nghề này mới chỉ lưu truyền ở vùng Phong Châu, vốn là Kinh đô của nước Văn Lang cũ. Đây là nghề tuy rất thiết yếu, nhưng chỉ các bà Hoàng hậu, công chúa và cung tần thân tín mới được chỉ dẫn cách thức và các bí quyết hành nghề. Lụa là, do vậy, mới chỉ được dùng trong hoàng tộc và nhà các đại thần (Lạc hầu, Lạc tướng), còn dân chúng và quân lính chỉ mới biết dùng các loại vải bằng xô gai lấy từ vỏ cây mà thôi.
Mỵ Nương vốn là nàng công chúa của vua cha và hoàng hậu, nên ngay từ bé đã rất thành thạo nghề chăn tằm và ươm tơ dệt lụa. Nàng dạy lại cho các bà các cô ở vùng này biết được ghề đó. Những nương dâu bạt ngàn mọc lên ở ven sông. Nhà nào cũng có người chăn tằm, dệt lụa. Lụa ở vùng này, ngay từ thời đó, đã nổi tiếng khắp cả nước. "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", hàng năm Mỵ Nương đều cho chọn một vài xúc lụa đẹp nhất, để đưa về Kinh, cung tiến vua cha và hoàng hậu.
Dân chúng trong vùng vốn chăm chỉ, lại thấm nhuần sâu sắc ý thức ơn nghĩa, nên vẫn duy trì đến mãi sau này hội tiến lụa có từ thời Mỵ Nương vậy. Đám rước diễu hành theo thứ tự: Một người đầu mang nong ké, vừa đi vừa múa hát. Theo sau là những cô gái óng ả mặc toàn đồ tơ lụa, tay cắp rổ lá dâu, cũng vừa đi vừa múa hát. Thứ đến là một chiếc kiệu chất đầy lụa quý, do16 chàng trai lực lưỡng ăn mặc đẹp đẽ, khiêng. Dân chúng theo sau, vừa đi vừa reo hò để hôï tống.
Sự tích, và nhất là công đức của Sơn Tinh Mỵ Nương đến nay vẫn còn được lưu truyền và in rất đậm trong tâm thức dân gian của người Việt. Cả một vùng truyền thuyết rộng lớn với nhiều nghi lẽ hội hè đã nhắc lại quá khứ vinh quang của hai ông bà. Ngoài danh vị " Thánh bất tử", hai ông bà còn được tôn xưng là "Đệ nhất danh sư" trong "Bách nghệ tổ sư" của nước Nam ta.
Cao Biền là viên quan cai trị gian ngoa xảo quyệt, biết thiên văn địa lý lại tinh thông tướng số. Khi vua Đường sai sang dẹp quân Nam chiếu rồi ở lại làm Tiết độ sứ (866 - 874), y đã từng đi khắp nơi trong nước ta, thấy chỗ nào "địa linh" là tìm cách yểm bùa để diệt "nhan kiệt". Pháp thuật của y là bắt một người con gái mười bảy tuổi chưa chồng, đem mổ bụng vứt ruột đi, rồi lấy cỏ bấc nhồi vào, đoạn, mặc quần áo cho tử thi, đặt ngồi trên ngai. Y đem các thứ đó đến huyệt định yểm, rồi tế bằng trâu bò và đọc thần chú. Hễ khi thấy tử thi động đậy, tức là thần linh ở đấy đã nhập vào tử thi, là y dùng kiếm chém đầu để diệt, tức là đã trừ yểm xong.
Khi đến chân núi Tản Viên, y cũng làm như thế, vì biết ở đây có vị thánh bất tử linh thiêng vào bậc nhất của nước Nam. Nhưng khi tế lễ, đọc thần chú, bắt quyết ... Biền thấy tử thi cứ trơ trơ ra chẳng cử động gì.
Đấy chính lúc Thanh Tản Viên cưỡi ngựa trắng ngồi trên mây bay ngang qua, nhìn thấy. Để tỏ ý khinh bỉ trò khôi hài của Biền, Ngài bèn nhổ xuống một bãi nước bọt, rồi bỏ đi, không thèm nói năng.
Cao Biền thấy vậy cả sợ, bèn dẹp ngay trò quỷ thuật lại, rồi than rằng: "Linh khí phương Nam không thể lường được. Vượng khí ở đây không bao giờ dứt. Ta phải về thôi". Về sau, quả nhiên Cao Biền được lệnh phải triệu hồi về nước, rồi chết sau đó mấy tháng.
Đức Thánh Tản Viên
Trong tâm thức dân gian của người Việt, Tản Viên là một trong bốn vị Thánh bất tử (Tiên Dung Chử Đồng Tử, Gióng, Tản Viên, Liễu Hạnh ). Đây là vị Thánh biểu đạt cho những khả năng to lớn và vĩnh viễn của cộng đồng trong lao động sáng tạo ra nguồn của cải vô tận và trong chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo vệ cuộc sống chung.
Tuy nhiên, đã có hai quan niệm và cách giải thích nguồn gốc của vị Thánh này:
- Các học giả thời phong kiến (các sử gia, các nhà trước tác) cho Tản Viên là "hạo khí anh linh của trời đất sinh ra" (Kiều Phú, trong Lĩnh Nam chích quái), hoặc cho "Tản Viên là một trong 50 người con theo cha xuống biển của Lạc Long Quân, Âu Cơ" (Đúng ra thì phải là chắt khoảng đời thứ 19). chàng "từ biển đi vào, qua cửa Thần phù, ngược sông Hồng đến Long Đỗ (Hà Nội), Trấn Trạch, rồi ngược sông Lô, đến Phúc Lộc giang". Từ đấy, " nhìn thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp, lại thêm phía dưới dân chúng thuần phác, thái bình", nên chàng "đã làm một con đường thẳng như kẻ chỉ, từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía nam núi Tản Viên, tới động An Uyên, thì lập diện để nghỉ ngơi" (Trấn Thế Pháp, cũng trong "Lĩnh Nam chích quái", nhưng là một di bản). Các tác giả " Lịch triều hiến chương" (Phan Huy Chú) và "Việt sử thông giám cương mục" ... cũng đều có những quan niệm tương tự.
- Trong khi đó theo quan niệm của mọi người, được thể hiện qua các bản thần thích thần phả ở các làng trong vùng Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Tây, Hà Nội, Vĩnh Phú) thì Thánh Tản Viên lại là người có thực, xuất thân từ tần lớp nghèo khổ trong dân chúng.
Chúng tôi nhận thấy, quan niệm này phù hợp với những quan niệm chung đã có về các Thánh bất tử trong tâm thức dân gian, bởi vì chính quan niệm ấy đã tạo nên một hình tượng "Thánh Tản Viên" có tính nhất quán và hoàn chỉnh mà nếu so sánh thì cách quan niệm của các học giả thời phong kiến chỉ là rất phiến diện.
Dưới đời Hùng Vương thứ mười tám, ở động Lăng Xương bên bờ sông Đà có vợ chồng ông Nguyễn Cao Hạnh, bà Đinh Thị Điên làm nghề đốt than. Đã đứng tuổi rồi mà ông bà vẫn chưa có con, nên đêm ngày mong ước, cầu nguyện có một đứa con trai nối dõi ...
Một hôm bà vào rừng kiếm củi, đến trưa thấy nóng bức bèn tìm đến một hồ nước nhỏ ở cạnh để tắm. Nào ngờ đang tắm, bà bỗng thấy một con rồng từ trên cao cũng xà xuống đấy. Thế là bà mang thai, nhưng đến 14 tháng sau, mới sinh ra một đứa con trai trên tảng đá Thạch Bàn (Nay thuộc xã La Phù, Vĩnh Phú). Ông bà vô cùng sung sướng, đặt tên là Tuấn, vì thấy nó mặt mũi trông cũng khôi ngô, sáng sủa.
Khi Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi thì ông bố già yếu rồi mất. Còn lại hai mẹ con, bà Đinh Thị Điên thấy cảnh làm ăn cơ cực bèn dắt con sang mé chân núi Ngọc Tản (Ba Vì) nương nhờ trong nhà bà họ Ma.
Bà họ Ma này vốn là một tù trưởng giàu có. Chồng chết, không có con, nhưng cơ ngơi nhà bà rất lớn, gồm tất cả sông núi, ruộng đất, khe lạch ở vùng Ngọc Tản. Nhà bà lại có rất nhiều gia nhân, đầy tớ và bà cũng là người có saÜn tấm lòng từ bi, đại lượng, nên được mọi người hết sức quý trọng.
Lúc đầu, hai mẹ con bà Đinh Thị Điên ở trong nhà bà họ Ma làm gia nhân. Vì bà là người hiền lành, chất phác, lại chăm chỉ công việc, nên được bà họ Ma mến mộ và hay trò chuyện. Chú bé Nguyễn Tuấn, vừa khôi ngô lanh lợi, lại vừa lễ phép, siêng năng, nên cũng được bà hết sức quý mến. Dần dà bà họ Ma nhận Nguyễn Tuấn làm con nuôi, và đối xử với chú hệt như con đẻ.
Khi Nguyễn Tuấn đến tuổi trưởng thành thì bà Đinh Thị Điên già yếu rồi qua đời. Chàng ở hẳn với mẹ nuôi, và chăm nom, phụng dưỡng bà chẳng khác nào mẹ đẻ. Lúc ấy, chàng là một chàng trai sức vóc, lại đảm đang, tài tuấn hơn người, nên được bà họ Ma quý mến, tin tưởng, và giao cho cai quản tất cả công việc, từ trong nhà đến ngoài đồng bãi. Ít lâu sau, bà họ Ma già yếu rồi cũng qua đời. Trong lúc lâm chung, trước mặt đông đủ gia nhân, đầy tớ, bà trối trăng lại: giao tất cả sản nghiệp cho con nuôi là Nguyễn Tuấn cai quản. Sau khi làm ma và chôn cất cho bà mẹ nuôi xong, Nguyễn Tuấn nghiễm nhiên trở thành một vị tù trưởng. Tuy nhiên, địa vị này đã không làm cho bản chất của chàng thay đổi.
Không như nhiều kẻ nghèo khó sau này, khi được giàu sang thì lập tức quên ngay nguồn gốc xuất xứ, mặt mày vênh vênh váo váo và đối xử tàn nhẫn với đồng loại cứ y như một sự trả thù, trái lại, Nguyễn Tuấn lại là một chàng trai cực kỳ tốt bụng và hay thương người. Trong trang trại, chàng bãi bỏ hẳn chế độ gia nhân, đầy tớ: Từ đây mọi người sẽ cùng ăn cùng làm, còn chàng chỉ là người đứng mũi chịu sào, vừa làm lụng vừa lo toan quán xuyến công việc, mà thôi. Ai siêng năng chăm chỉ được chàng khuyến khích, động viên. Ai khó khăn, cơ nhỡ được chàng chăm sóc, giúp đỡ. Ai chây lười hoặc làm điều gì sai trái thì chàng khuyên nhủ, bảo ban. bản thân chàng là một tấm gương sáng, ai nhìn vào cũng thấy. Do vậy, trong khắp trang trại rộng lớn mà chàng cai quản, mọi người coi nhau như ruột thịt, nhường cơm sẻ áo cho nhau, và tuyệt nhiên không có những chuyện như chây lười, trộm cắp, hoặc chửi bới, gây gổ đánh nhau.
Đối với những việc hiếu nghĩa, chàng lại càng đặc biệt coi trọng. Mộ phần của cả ba bố mẹ được chàng thường xuyên chăm sóc gọn gàng, sạch sẽ. Ngày tuần ngày tiếp, ngày kỵ ngày giỗ ... chàng đều đến thắp đèn nhang và dâng lễ vật chu đáo. Trước vong linh của người quá cố, bao giờ chàng cũng đều tóc để xõa, chắp hai tay, khấn vái thật là trang trọng, thành kính.
Vào đầu năm mới, hay sau các kỳ thu hoạch lúa, hoa màu và đi săn về, chàng đều cùng mọi người làm lễ tạ trời đất, thổ thần, thổ địa, và cầu mong cho sự yên ấm thịnh vượng đời đời.
Lòng thương người của chàng đã làm cho mọi người thật sự cảm phục, kính nể. Còn lòng hiếu nghĩa của chàng thì được mọi người hết sức ca ngợi, noi gương. Tiếng lành đồn xa: những đức tính của chàng được nhiều nơi đến, và đã cảm ứng tới cả đất trời.
Một lần, vào đầu năm mới, Ngọc Hoàng Thượng Đế đang cùng triều thần ngồi bàn soạn công việc trần gian ở nơi thượng giới. Chợt thấy mùi khói nhang bay lên từ phía núi Tản. Ngài cho gọi hai vị Nam Tàu Bắc Đẩu lại để hỏi han cho rõ sự tình. Khi được tâu bày, Ngài cảm động, phái thần Thái Bạch Kim Tinh xuống núi Tản để dạy cho chàng chủ trại võ nghệ và các phép thuật thần tiên.Thần Thái Bạch y lệnh, ngay ngày hôm đó xuống trần và ở lại trong thời hạn một năm. Nhờ có thầy dạy võ, Nguyễn Tuấn đã trở thành một người chẳng những võ nghệ cao cường, mà các thuật pháp cũng thực cao siêu chưa từng thấy.
Trước khi bay về trời, thần Thái Bạch còn ban cho chàng một chiếc gậy thần có đầu sinh và đầu tử. Một khi đầu sinh chỉ vào người hay vật đang ốm thì lập tức khỏi bệnh, chỉ vào người hay vật đã chết cũng lập tức sống lại. Còn đầu tử thì ngược với đầu sinh, chẳng những người hay vật đang sống phải chết, mà ngay cả núi non cũng phải lở, thành quách cũng phải đổ.
Khi đã có thuật pháp và gậy thần trong tay, Nguyễn Tuấn giao nhà cửa, ruộng nương lại cho mọi người, còn mình thì chu du thiên hạ, cứu nhân đôï thế. Bàn chân chàng đặt lên khắp mọi miền quê hương đất nước, chẳng thiếu một nơi nào. Theo địa giới ngày nay, từ Nghệ An, Thanh Hóa trở ra, đến Nam Hà, Hà Tây, rồi Hà Nội, Hà Bắc, Vĩnh Phú ... chỗ nào chàng cũng có mặt . Chàng cứu chữa được rất nhều người, lại bảo ban khuyên nhủ đưọc nhiều kẻ xấu, kẻ ác quay về con đường lương thiện.
Vốn tính tình hào hiệp, độ lượng, nên đi đến đâu chàng cũng đều có bạn thân hoặc anh em kết nghĩa. Cao Sơn, Quí Minh ở Tam Nông, Vĩnh Phú, Bảo Công ở núi Sài (Quốc Oai, Sơn Tây), Trần Khánh ở An Duyên (Thường Tín, Hà Tây), Bảo Ngà ở Vụ Bản (Nam Hà), Tuấn Cương, Quế Hoa ở Bạch Hạt (Vĩnh Phú) ... sau này đều là những tướng lĩnh tài ba của Nguyễn Tuấn cả. Còn những người được chàng cứu sống và thân nhân của họ thì nguyện saÜn sàng đi theo chàng để làm bộ hạ thân tín, đã kể như rất đông và nơi nào cũng có.
Một ngày kia, trên đường về nhà, chàng đi ngang qua làng Ma Xá, ven sông Tích (huyện Ba Vì), gặp một đám trẻ chăn trâu đánh chết con rắn nước lớn rồi bỏ đi. Chàng lại gần chợt nghĩ rắn nước chỉ quen mò tép thì làm gì nên tội, nên thương tình, cầm đầu gậy sinh chỉ vào cho rắn sống lại. Chẳng ngờ rắn lại là rắn thần, là con cả của Long Vương đội lốt đi chơi xa, nên trong đêm ấy chàng được một vị sứ giả của Long Vương mặc quần trắng áo trắng, lại đội mũ đi giày cũng trắng, đến trao cho một quyển sách ước, để tạ ơn. Chàng vô cùng vui sướng. Nhân dịp trở về nhà sau mấy năm xa cách, chàng đi thắp hương ba cha mẹ, rồi đến thăm hỏi chữa trị cho mọi người trong trang trại, xong, chàng liền mở sách ước, xin một bữa tiệc thật thịnh soạn để tiếp đãi mọi người. Trong bữa tiệc, ai nấy dều vui vẻ, lại được thưởng thức những thứ của ngon vật lạ xưa kia chưa từng có bao giờ, nên chuyện trò cứ vui như mở hội. Cuối buổi tiệc, chàng dứng dậy, nói với mọi người rằng từ nay chàng sẽ đổi tên là Nguyễn Tùng. "Tùng" là cây tùng, chàng giải thích, là bao giờ cũng ngay thẳng quyết chẳng có sự thiên vị nào. Tùng cũng còn có nghĩa là "tòng", là từ nay làm điều gì cũng đều nhất nhất tuân theo lẽ phải và sự công bằng, bởi vì không lẽ, khi đã có gậy thần và sách ước trong tay, lại có thể tùy tiện muốn làm gì cũng được hay sao?
Sau bữa tiệc, chàng hỏi han mọi người cách thức làm ăn sinh sống bấy lâu này, rồi mọi người bàn định công việc và giảng giải những cách làm ăn mới mà do đi ra ngoài, chàng đã học được. Từ đấy, chàng ở lại trang trại, cùng làm ăn sinh sống với mọi người. Tuy nhiên, thỉnh thoảng chàng cũng đi thăm thú và cứu chữa cho dân chúng ở các vùng lân cận. Mọi người do được chứng kiến những gì xảy ra từ các năm trước và gần đây, trong bữa tiệc nên đều một mực còn gọi chàng là "Đức Thánh Tản", là "Thánh Tản Viên", hay còn gọi là"Sơn Tinh" nữa. Và cái tên ấy cứ truyền ra xa, đến tận mọi miền đất nước, và còn mãi, cho đến ngày này ...
Chính vào thời gian Sơn Tinh ở chân núi Ngọc Tản cùng mọi người làm ăn sinh sống ấy, thì ở Kinh đô Phong Châu, tại ngã ba Hạc Trì, công chúa Mỵ Nương, con gái yêu của vua Hùng thứ 18, đang cùng nhà vua và các vị đại thần đứng trên lầu cao tuyển kén phò mã ...
Vua Hùng thứ 18, hiệu Hùng Duệ Vương, vốn là người thuần phát nhân hậu, nhưng Ngài hiếm hoi chỉ sinh mỗi một cô con gái. Nàng tên là Mỵ Nương, càng lớn lên, nhan sắc lại càng lộng lẫy xinh đẹp.
Vua Thục nước láng giếng bấy giờ là Thục Phán, vốn nuôi tham vọng thôn tính nước Văn Lang từ lâu, nay thấy Mỵ Nương đã lớn, bèn sai sứ giả đến cầu hôn. Thục Phán tính rằng: nếu lấy được Mỵ Nương thì sau này khi Hùng Duệ Vương già yếu tất sẽ phải nhường ngôi lại cho con rể, và như vậy thật là một công đôi việc!"
Khi sứ giả đến, Hùng Vương có ý phân vân. Mặc dù biết rõ ý định của Thục Phán nhưng nhà vua vẫn muốn gả Mỵ Nương cho, vì nghĩ rằng Thục Phán vốn cùng gốc gác Lạc Long Quân, Âu Cơ, hơn nữa, gả bán như thế cũng là môn đăng hộ đối: Chẳng gì con gái cũng là hoàng hậu của một nước kia mà!
Tuy nhiên, đến khi đưa ra để các triều thần tham nghị, thì lại có mấy vị Lạc hầu không đồng tình, cho rằng như thế là mất nước. Một vị đứng lên:
- Muôn tâu bệ hạ. Xưa kia ta và Thục tuy cùng chung một gốc, nhưng từ mấy đời nay, biên giới cương vực thật đã rõ ràng. Bệ hạ gả công chúa như thế, chẳng khác nào ta dâng nước không cho Thục. Bệ hạ bao nhiêu năm trị vì đất nước, há không cho rằng tất cả thần dân đều là con cái trong nhà cả hay sao? Vả lại nước ta, đất rộng người đông, hẳn chẳng thể thiếu nhân tài? Nay theo thiển ý của hạ thần, bệ hạ nên kén lấy một người trong nước tài cao đức trọng để làm phò mã cho công chúa. Rồi ra, sẽ tuyển mộ binh mã, củng cố lực lượng. Như thế, cương vực lãnh thổ của ta sẽ được lưu truyền, mà dân chúng đời đời cũng chẳng bao giờ quên ơn Bệ hạ ...
Vua Hùng im lặng lắng nghe, rồi gật đầu tỏ ý tán thưởng, và Ngài quyết dịnh thôi không gả Mỵ Nương cho Thục Phán nữa. Theo lệnh Ngài, mấy ngày sau, nội cung và quân lính phải dựng một lầu cao ở ngã ba Hạc Trì, để công chúa kén chồng. Ngài lại cho sứ giả đi khắp trong nước truyền lệnh rằng: Tất cả trai tráng chưa thành gia thất, hễ ai có tài cán gì, hãy cứ đến Hạc Trì để thi thố.
Thế là, hầu như tất cả anh tài trong nước đều đã có mặt ở Hạc Trì sau đó. Thật lắm người có tài! Tuy nhiên, đã gần hết một tuần mà chưa có ai lọt vào mắt xanh của nhà vua và công chúa cả. Nhưng đến sáng ngày thứ mười, ngay từ buổi sáng sớm, lại bỗng một lúc, có đến hai chàng trai vào xin ứng tuyển. Một chàng xưng tên là Sơn Tinh, quê ở chân núi Ngọc Tản, còn một chàng xưng tên là Thủy Tinh, quê ở miền biển. Nhà vua nhìn cả hai chàng, thấy đều lực lưỡng, khỏe mạnh và mặt mũi cũng đều khôi ngô tuấn tú. Tuy nhiên, chàng Sơn Tinh thì hiền lành, còn chàng Thủy Tinh lại có vẻ dữ tợn. Nhà vua trong bụng ưng chàng Sơn Tinh hơn, nhưng vẫn bảo cả hai chàng sẽ lần lượt trổ tài của mình.
Chàng Sơn Tinh trổ tài trước. Chàng làm lễ bái kiến rồi đi một bài quyền, trông thật đường đường là một võ tướng, một trang phong lưu tuấn kiệt. Xong bài quyền, chàng cầm lấy gậy thần, múa tít, trông bên ngoài chỉ thấy loang loáng như ánh chớp, còn người thì chẳng thấy đâu. Chắc là chàng vừa múa gậy vừa nhẩm sách ước, nên tự nhiên có trái núi hiện ra. Rồi trái núi biến mất, để thay vào đó, lần lượt là đồi đất, rừng cây, khúc sông, cánh đồng ... cho đến cả lâu đài, thành quách. Tất cả vừa thoắt hiện rồi lại thoắt biến, như có phép lạ thần thông vậy ...
Nhà vua, các đại thần và công chúa đều vui mừng ra mặt. Còn dân chúng đứng xem thì sung sướng nhảy lên reo hò như sấm dậy, khiến cho chàng Thủy Tinh chân tay bồn chồn, và thái độ giận dữ hiện cả ra bên ngoài. Biết ý, nhà vua phẩy tay cho chàng Sơn Tinh lui ra, thế là ngay lập tức, chàng Thủy Tinh nhảy tới.
Chàng vừa nóng vội vừa tức giận đến nỗi quên cả làm lễ bái kiến, mà cứ thế, tay cầm một dãi lụa trắng, múa đi loang loáng. Tài nghệ của chàng quả thực cũng chẳng kém gì Sơn Tinh: Người ta chỉ thấy một vầng hào quang màu trắng, còn người thì dường như đã biến đi mất tăm. Xong bài múa, chàng Thủy Tinh đứng nguyên, tay phất dãi lụa. Thế là, mây đen ở đâu ùn ùn kéo đến, rồi sấm chớp đùng đùng, và mưa đổ nước xuống như trút. Tất cả mọi người đều bị ướt sũng, và tiếng ta thán nổi lên như ong, thế nhưng chàng Thủy Tinh mặt vẫn lạnh băng, lại còn khái chí cười lên khanh khách, như thể vừa trả xong một món nợ thù.
Trên lễ đài, nhà vua đứng bật dậy toan nói điều gì. Biết ý, chàng Thủy Tinh lập tức phất mạnh dãi lụa, thế là tự nhiên mưa dứt, bầu trời mặt đất quang đãng như thường.
Chẳng biết nhà vua nghĩ gì, nhưng có thể đoán được ý của Ngài định gả công chúa cho ai, qua lời nghiêm phán sau đây:
- Ta xe tài năng của hai chàng, thấy đều xứng đáng là rể ta cả. Thế nhưng, ta chỉ có một con gái nên chẳng biết sẽ gả cho ai là hay hơn bây giơ ø ... Thôi hai chàng hãy trở về nhà chuẩn bị đồ sính lễ, nếu ngày mai ai đến trước, ta sẽ gả công chúa cho. Đồ sính lễ quý thế nào ta chẳng biết, nhưng nhất thiết phải có "voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao". Đấy là cái lệ mà các bậc tiên vương từ ngày trước đã định ra, ta đâu dám trái!
Nghe thấy thế, cả hai chàng vội hướng lên lễ đài làm lễ cáo biệt, rồi lập tức về nhà chuẩn bị ...
Chàng Thủy Tinh tuy pháp thuật cao cường, nhưng vốn xuất thân từ miền biển, nên chỉ có thể kiếm được rất nhiều ngọc trai, đồi mồi, rồi đến tổ yến sào và vàng bạc, chứ voi, ngựa, gà thì chàng bị chậm.
Trong khi đó, chàng Sơn Tinh pháp thuật cao cường cũng chẳng kém, lại ở miền rừng núi và có sách ước, nên chỉ trong đêm ấy, mọi thứ chàng đều chuẩn bị xong. Vàng, bạc, ngọc đá các màu tha hồ. Mật gấu, gan tê rồi chim muông lạ và hoa quả quý có đủ. Mọi người trong trại và bạn bè xung quanh kéo đến chỉ việc đóng các thứ vào rương hòm, rồi cho lên xe và lùa voi, ngựa đi cho đúng hướng mà thôi.
Mờ sáng hôm sau, đoàn rước dâu của Sơn Tinh đã có mặt tại Kinh đô Phong Châu. Chàng vào làm lễ ra mắt, được vua Hùng đón tiếp nồng hậu và nhận làm con rể. Ngay sáng hôm đó, sau khi tiến hành xong các nghi lễ, chàng Sơn Tinh đưa công chúa Mỵ Nương trở về núi Tản.
Đoàn rước dâu của Thủy Tinh, từ cửa sông Hồng đi ngược lên, rồi vào sông Đà đến miền Phong Châu. Các rương hòm đựng đồ sính lễ nổi bập bềnh trên mặt nước do bọn ba ba, thuồng luồng vừa đội vừa bơi. Sóng lớn đập vào hai bên bờ, như đang xảy ra bão lớn. Chàng Thủy Tinh định bụng, sau khi lên bờ sẽ đi tìm bắt voi ngựa, gà ...
Nào ngờ, khi chàng cùng đoàn bọn họ ngược lên vùng núi Tản, đã thấy đoàn rước dâu của Sơn Tinh trở về. Chàng điên tiết thét toáng lên một hồi, làm cho đám thuộc hạ sợ quá lặn sâu xuống nước, các rương hòm vì thế liền bị chìm nghỉm. Vô cùng tức giận, chàng giật phắt dãi lụa vẫn quấn tròn trong túi áo, rồi vung lên, vừa múa vừa phẩy xuống liên hồi, làm cho sấm chớp nổi lên đùng đùng và mưa đổ nước xuống như trút. Nước sông Đà dâng cao, rồi dâng cao mãi. Chẳng mấy chốc, cả một vùng quanh núi Tản , chỉ thấy mênh mông những nước ...
Chàng Sơn Tinh rước dâu về đến nhà, định dựng rạp mở tiệc ăn mừng thì bỗng đâu cơn mưa ập tới. Rồi mưa mỗi lúc một to và nước dâng lên cao, khiến chàng phải đưa Mỵ Nương và mọi người trèo ngược lên các đỉnh núi. Từ đỉnh núi, chàng thấy cơ man nào là giải, mập, ba ba, thuồng luồng, đang lũ lượt bò lên. Lại nghe thấy cả tiếng của Thủy Tinh vang rền lên như sấm, hò hét bôï hạ xông vào. "À, hóa ra Thủy Tinh đánh đòn ghen định cướp Mỵ Nương đây. Được! Ta sẽ cho chúng biết thế nào là nghĩa lý".
Chàng liền mở sách ước, đọc đến đâu thì thấy từng dãy đồi núi hiện ra, làm cho mức nước bị chặn ngay lại. Rồi chàng múa gậy thần, nhảy từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác, lại quay đầu gậy chỉ vào đám giải, mập, ba ba, thuồng luồng, làm cho chúng quay ra chết, xác chồng lên xác, rơi trở lại, và trôi lềnh bềnh trên mặt nước sông Đà, do nhiều quá, đã làm một khúc sông bị tắc nghẽn lại.
Vừa đau đớn, vừa căm giận đến tím ruột, bầm gan, chàng Thủy Tinh vừa liên hồi quát lên những tiếng sấm hối thúc quân lính, vừa hóa phép, dùng lưỡi tầm sét và những luồng chớp nhằm vào Sơn Tinh mà đánh. Nhưng làm sao đánh trúng được Sơn Tinh! Gậy thần của chàng làm cho lưỡi tầm sét của Thủy Tinh bị bật văng ra xa, chỉ thấy vô số cây cối bị đổ, đất đá sụt lở, rơi xuống nước ầm ầm, còn chàng thì vẫn bình an vô sự.
Quân lính của Thủy Tinh càng xông lên bao nhiêu lại càng bị chết bấy nhiêu. Nước mưa của Thủy Tinh càng làm dâng lên thì càng bị đồi núi của Sơn Tinh chặn lại và đồi núi cứ vươn lên, cao hơn mực nước. Rồi chàng vừa hóa phép, vừa cùng mọi người xây đắp cho đồi núi kết thành một dải, hiên ngang và vững chãi như lũy như thành, bủa vây luồng nước và quân lính của Thủy Tinh, chỉ còn để cho một đường rút lui duy nhất là lui ra biển. Cả một vùng rộng lớn, còn lại đến bây giờ, nào núi Chẹ, núi Đùng, rồi núi Mom, gò Cháy, ... đều là những đồi núi do Sơn Tinh và mọi người xây đắp, để chặn luồng nước của Thủy Tinh!
Nhưng chàng Thủy Tinh đâu có dễ dàng cam chịu thất bại như vậy. Chàng vừa tung những lưỡi tầm sét cá hiểm, vừa cất giọng ồm ồm tập dợt quân sĩ ở Đầm Đượng (Ba Vì) để củng cố lực lượng. Chàng Sơn Tinh cùng mọi người lập tức tiến đến, dùng chông đá, lưỡi sắt vừa chặn lối, vừa bủa vây. Một trận đánh kinh hàng diễn ra ở đây. Cuối cùng quan của Thủy Tinh thất bại, phải chia ra làm 16 ngã để rút chạy.
Khi tàn quân chạy về đến xã Minh Quang, chàng Thủy Tinh cho quân lính đào Ngòi Lạt, dẫn nước từ sông Đà vào để đánh úp Sơn Tinh ở phía sau núi Tản. Lập tức Sơn Tinh cho mỗi người một cái lạt, rồi cùng ném xuống đấy. Thế là trong chớp mắt, lạt đã biến thành tre, rồi tre liên kết với nhau thành từng lũy dày đặc, ngăn dòng nước của Thủy Tinh.
Quân lính sống sót của Thủy Tinh chạy đến xã Tản Lĩnh, ở đó có một hồ nước lớn. Thủy Tinh cho hội quân, gọi là ao Vua. Nhưng ngay sau đó, Sơn Tinh cùng mọi người đã có mặt. Mỗi người cầm một nắm hạt mây rắc xuống xung quanh hồ, và cũng chỉ trong chớp mắt, một rừng mây hiện ra, trùng trùng lớp lớp, vây chặt quân lính của Thủy Tinh vào giữa.
Những tên lính gan góc, liều lĩnh nhất của Thủy Tinh, mặc dầu sầy vẩy, bầm da, hay toạc đầu, gãy vây, vẫn liều chết chui qua đám gai mây nhọn sắc, vượt ra đến ngoài sông Đà. Khi đến Đầm Gà ở huyện Kỳ Sơn (Hòa Bình), đang trong đêm tối, Thủy Tinh định củng cố lực lượng phản công thêm một lần nữa, nhưng lại nghe thấy tiếng vỗ tay rồi tiếng gà gáy của Sơn Tinh, chàng ta tưởng là trời sáng, nên hoảng sợ, bèn vội vàng cho quan lính giải tán, mỗi tên mỗi ngã, cùng bơi đi thục mạng. Tàn binh cuối cùng của Thủy Tinh xuôi theo sông Đà, ra sông Hồng, tản đi các ngã, hoặc đi mãi ra biển ... và thế là chấm dứt trận đầu giao phong giữa hai chàng Sơn Tinh và Thủy Tinh.
Mặc dù Thủy Tinh biết rằng yêu thuật và bộ hạ của mình chẳng những không hạ thủ được Sơn Tinh, cướp được Mỵ Nương, mà trái lại, còn phải chuốc lấy thất bại thảm hại. Nhưng chàng ta vẫn nuôi mối ghen tức và lòng thù hận đến mãi muôn đời.
Năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng tháng sáu, tháng bảy và tháng tám âm lịch khi có khi muộn hơn hoặc sớm hơn một tháng, chàng lại nổi cơn thịnh nộ, gào thét vang trời rồi làm mưa làm bão xuống địa bàn mà chàng Sơn Tinh cùng đồng bào của chàng đang sinh sống. Vì vâïy, năm nào cũng như năm nào, các con cháu chút chít, hậu duệ của chàng Sơn Tinh, đều phải cùng nhau tập hợp lại, xây đắp và củng cố những con đê cao ngăn chặn dòng nước lụt mà chàng Thủy Tinh cố tình gây hại. Chẳng có năm nào Sơn Tinh thất bại, cũng như chẳng có năm nàoThủy Tinh thất bại hoàn toàn. Chính vì vậy mà các hậu duệ của chàng Sơn Tinh sinh sôi phát triển đông đàn dài lũ, có rất nhiều cánh đồng phì nhiêu, làm ra những nguồn của cải vô cùng vô tận, để duy trì nòi giống của mình.
Thế nhưng, cũng có năm, do chểnh mảng không đề phòng kỹ lũ mối cánh, tay sai tận tụy của Thủy Tinh, nên đã có một hoặc vài đoạn đê bị vỡ, để cho nước lũ của Thủy Tinh tràn vào đồng ruộng, gây ra thiêït hại. Tuy nhiên, đấy chỉ là những thất bại nội bộ. Tựu trung, con cái cháu chắt của Sơn Tinh, vẫn đời đời chiến thắng Thủy Tinh.
Sơn Tinh cùng Mỵ Nương tuy phải hàng năm chống đỡ với Thủy Tinh, nhưng họ vẫn sống yên ổn và hạnh phúc ở núi Tản. Con cái cháu chắt của họ rất đông, tỏa ra các miền xung quanh, và đến sinh sống cả ở nhiều miền xa xôi khác nữa. Người con gái đầu tên gọi La Bình, lúc nhỏ thường được bố cho đi thăm thú các nơi. Đến tuổi trưởng thành, La Bình trở thành một phụ nữ tài giỏi và thông tuệ khác thường. Khi Sơn Tinh, Mỵ Nương về già, được Ngọc Hoàng thượng đế triệu về Thiên đình, trao cho phép trường sinh bất tử, trông nom nhiều công việc giúp Ngài, thì La Bình ở lại, cũng được ban phép trường sinh, trở thành bà Chúa Thượng ngàn, trông nom tất cả 81 cửa rừng của nước Nam ta ...
Nhưng đó là chuyện về sau ...
Còn lúc bấy giờ, khi vừa chiến thắng xong Thủy Tinh hiệp đầu thì cũng vừa lúc hay tin Thục Phán điểm binh mã sang đánh Văn Lang. Thục phán hiện đang là vị vua trẻ tuổi, dũng mảnh can trường và đầy duệ khí. Nhưng đấy cũng là một người nông nổi, sau này sẽ để mất nước về tay Triệu Đa ø ... Khi quân của Thục Phán rầm rầm tiến đến Phong Châu, vua Hùng phải tức tốc triệu hội Sơn Tinh về Kinh, giao cho cầm quân chống Thục. Mặt khác, nhà vua cũng cho sứ giả đi khắp nước, truyền lệnh tòng quân. Chỉ trong vòng một tuần, số quân lính đã đông tới hàng vạn. Các bè bạn cũ và anh em kết nghĩa của Sơn Tinh cũng có mặt. Sơn Tinh giao cho Cao Sơn, Quí Minh hai người anh em kết nghĩa tài ba nhất, chỉ huy đạo quân tiên phong, còn tự mình đi thống lĩnh trung quân. Các tướng: Bảo Công chỉ huy tả quân, Trần Khánh chỉ huy hữu quân, tỏa ra hai gọng kiềm, còn các tướng khác, vốn là họ hàng con cháu vua Hùng, như Lang Bút, Lang Mao, Lang Lôi ... được giao cài chông, đặt bẫy phục kích quân Thục.
Khi quân của Thục Phán tiến vào Phong Châu thì thế trận của Sơn Tinh cũng bày đặt xong. Ý định của Sơn Tinh là đánh cho Thục Phán một trận thua nhớ đời, không còn bao giờ dám đem quân tới xâm lấn nữa. Vì vậy, chàng đã không mở sách ước và gậy thần ra, bởi vì nếu không, Thục Phán và quan quân đã bị tiêu diệt hoàn toàn rồi.
Tuy vậy, trận chiến đấu giữa hai bên vẫn cứ diễn ra vô cùng dữ dội. Lúc đầu, quân Thục chạm trán với đạo quân tiên phong của Cao Sơn , Quí Minh đã bị tổn thất khá lớn. Về sau, khi gặp trung quân của Sơn Tinh thì hoàn toàn bị núng thế, Thục Phán phải vừa đánh vừa rút lui. Sau một hồi, các cánh quân khác của Sơn Tinh cũng đồng thời ập tới bao vây.Thế là quân Thục Phán đại bại, Thục Phán phải mở đường máu mới khỏi bị bắt làm tù binh. Quân Sơn Tinh tiếp tục truy đuổi. Tuy không bắt được Thục Phán nhưng cũng bắt được hai tướng là Hùng Nỗ và Đà Gia, sau khi đuổi vào đến tận làng Hội Thống (thuộc Nghi Xuân Hà Tĩnh ngày nay).
Cuộc chiến tranh Hùng Thục chấm dứt, Thục Phán phải cầu hòa, từ đấy vĩnh viễn từ bỏ ý đồ xâm lược. Sơn Tinh được vua Hùng hết sức quý mến, rồi nhà vua quyết định nhường ngôi cho chàng, vì cảm thấy mình đã già yếu. Từ chối mãi không được, cuối cùng Sơn Tinh đành phải nhận lời ...
Sau khi lên ngôi trị vì đất nước, Sơn Tinh hết lòng chăm lo đến đời sống của dân chúng. Tuy nhiên, do bận nhiều công việc triều đình, nên chàng cũng không trực tiếp đến được nhiều nơi. Rồi lại còn phải lo chống những toán giặc nhỏ hay sách nhiễu ở các vùng biên giới, như giặc Hồ Xương, giặc Hồ Tôn, giặc Man và giặc mũi đỏ. Dưới thời chàng trị vì, đất nước luôn được thái bình và như thế, kéo dài suốt ba năm ...
Vốn bản tính không thích làm vua mà chỉ muốn sống cuộc đời dân giã, nên khi nghe trong đám Lạc hầu LaÏc tướng dòng dõi các vua Hùng, có người dị nghị, cho rằng chàng không phải Hoàng tộc mà cũng được làm vua, thì chàng hoàn toàn tự ái, một mực đòi trả lại ngôi báu cho vua Hùng thứ mười tám.
Không thuyết phục được Sơn Tinh nên nhà vua lại đành phải vời các triều thần đến để thương nghị. Sau khi bàn soạn kỹ lưỡng, mọi người cho rằng nên nhường ngôi cho Thục Phán là hơn. Thục Phán tuy có ngông ngạo gây chiến, nhưng dù sao cũng là cháu chắt của các vua Hùng và nay cũng đã biết hối lỗi rồi.
Sau khi nhường ngôi báu cho Thục Phán, Sơn Tinh cùng Mỵ Nương lại trở về vùng núi Ngọc Tản. Vua Hùng thỉnh thoảng cũng về đấy ở với con rể và con gái. Còn Thục Phán sát nhập hai nước Thục và Văn Lang thành nước Âu Lạc, rồi xưng An Dương Vương. An Dương Vương lúc đầu xây dựng cung miếu ở vùng núi Nghĩa Lĩnh (Vĩnh Phú), sau đó một thời gian mới chuyển xuống Loa Thành (Đông Anh, Hà Nội). Để ghi nhớ sự kiện Sơn Tinh nhường ngôi cho mình, và cũng để tỏ lòng biết ơn, An Dương Vương cho lập ở Nghĩa Lĩnh một cột đá thờ rất lớn, rồi tới các ngày tuần tiết, đều tự đến đây thắp đèn hương dâng lễ vật và đọc lời thề nguyện.
Sau khi nhường ngôi, Sơn Tinh cùng Mỵ Nương trở lại vùng núi Tản, lúc ấy họ còn rất trẻ. Vừa lo xây dựng kinh tế và chăm sóc đời sống của các thành viên trong trang trại, Sơn Tinh vẫn còn nhiều thời gian để đi thăm thú các vùng xung quanh. Đi đến đâu chàng cũng mang những điều hiểu biết của mình, do thu thập được ngay từ hồi trai trẻ chưa lấy vợ, để chỉ bảo cho dân chúng.
Đến vùng Cẩm Đái (huyện Ba Vì) chàng rất ngạc nhiên thấy mọi người ở đây vẫn còn chưa biết cách lấy lửa, do vậy vẫn đang phải sống trong cảnh tối tăm. Sơn Tinh cho gọi tất cả các cụ già thổ dân lại, rồi bày cho họ cách lấy lửa như thế nào.
Trước các cặp mắt sững sờ và đầy thán phục của các cụ, chàng làm các động tác thật chuẩn xác và điêu luyện, khiến cho từ đấy mọi người cứ một mực gọi chàng là thần và thưa bẩm thật là cung kính. Sự thực thì những động tác này cũng khá đơn giản và ai học xong cũng đều có thể làm ngay được.
Trước hết, cần có một đống bùi nhùi khô và hai ống nứa hay hai ống giang già cũng thực khô. Đặt hai ống vào giữa đống bùi nhùi rồi kéo nhanh chúng cọ xát vào nhau vài lần, thế là thành lửa!
Đến vùng rừng Mãng (nay là xã Sơn Đông, Ba Vì) Sơn Tinh thấy đám đông thợ săn đang chạy theo một con thú. Người ném đá người phóng lao, rồi reo hò vây đuổi mà cũng không bắt được nó. Con thú chạy nhanh quá. Chàng gọi mọi người lại, bày cho họ cách làm hầm đặt chông rồi ngụy trang ở trên hoặc gài bẫy để bắt các loại thú lớn. Đối với thú nhỏ hoặc gà rừng, công phượng ... thì cũng gài bẫy đặt mồi hoặc căng lưới để bủa vây mà bắt khi chúng bị sa lưới.
Khi qua vùng sông Tích. Thấy cả môït vùng rộng lớn đất đai phì nhiêu (nay là xã Liệp Tuyết, Quốc Oai) mà tịnh không có cây lúa nào, chỉ thấy lau lách mọc đầy. Sơn Tinh cho gọi dân làng lại, bày cho họ cách đắp bờ giữ nước rồi phát hoang cỏ dại. Tiếp đến, chàng lại cho họ một ít hạt giống dao mang theo saÜn bên mình, và bày cho họ cách gieo mạ. Đến khi mạ lên xanh, chàng lại cho họ làm theo mình: nhổ mạ rồi chia ra từng vài dảnh một, cấy xuống các thửa ruộng đã be bờ, vơ cỏ, cày cuốc trước kia.
Đến mùa thu hoạch, dân làng cho người đi mời chàng đến để dự tiệc mừng. Thấy mọi người chỉ biết ăn uống và chuyện trò, cười đùa không có trò vui nào cả, Sơn Tinh gọi trai gái làng lại, bày cho họ cách múa hát. Trước khi về nhà, chàng lại dặn hàng năm cứ đến sau kỳ thu hoạch thì lại mở hội và múa hát mừng mùa như thế này. Lâu dần rồi thành lệ, bây giờ ở đấy gọi là hội múa Rô.
Cũng ở vùng sông tích, nơi mà Sơn Tinh vẫn thường hay qua lại, tôm cá có rất nhiều, nhất là vào những tháng lũ lụt, nước sông dâng lên cao. Bấy lâu, dân chúng trong vùng này mới chỉ biết mò cá bằng tay hoặc cùng lắm dùng nom để úp. Sơn Tinh, cho biết cách kiếm cá bằng lưới đan của người vùng biển, nên đã bày lại cho dân ở đây. Trước hết chàng bảo mọi người đi tìm cây gai là loại cây có ỏ mềm và dai về trồng. Đến kỳ cây lớn, chàng bảo họ tước lấy vỏ cây và xé nhỏ ra thành những sợi nhỏ và bền. Đem đan các sợi này vào nhau tạo thành các loại vó và lưới, sẽ đánh bắt được nhiều cá.
Nhờ các loại lưới và vó ấy của Sơn Tinh mà dân ở vùng sông Tích đánh bắt được rất nhiều cá các loại. Sau này, để tưởng nhớ công ơn của chàng, ở vùng này có tục đánh cá thờ hàng năm để cúng. Tất nhiên, đấy phải là các loại cá quý hiếm và thật lớn, bởi vì lòng thành kính đòi hỏi phải được biểu lộ ra như vậy.
Công ơn dạy dân biết thêm nhiều nghề mới để sinh sôi phát triển của Sơn Tinh kể ra còn thêm nhiều nữa, mà trên đây là một ví dụ.
Ở khắp vùng truyền thuyết Sơn Tinh, chỗ nào cũng thấy ghi công đức của chàng, và lưu truyền đến tận ngày nay.
Lại kể về nàng Mỵ Nương, vợ của chàng Sơn Tinh khả kính, cũng là người đã để lại nhiều công đức với dân chúng và được lưu truyền.
Ấy là việc nàng dạy cho các bà các cô trong vùng núi Tản quê chồng biết nghề chăn tằm và ươm tơ dệt lụa, để may quần áo. Trước đó, nghề này mới chỉ lưu truyền ở vùng Phong Châu, vốn là Kinh đô của nước Văn Lang cũ. Đây là nghề tuy rất thiết yếu, nhưng chỉ các bà Hoàng hậu, công chúa và cung tần thân tín mới được chỉ dẫn cách thức và các bí quyết hành nghề. Lụa là, do vậy, mới chỉ được dùng trong hoàng tộc và nhà các đại thần (Lạc hầu, Lạc tướng), còn dân chúng và quân lính chỉ mới biết dùng các loại vải bằng xô gai lấy từ vỏ cây mà thôi.
Mỵ Nương vốn là nàng công chúa của vua cha và hoàng hậu, nên ngay từ bé đã rất thành thạo nghề chăn tằm và ươm tơ dệt lụa. Nàng dạy lại cho các bà các cô ở vùng này biết được ghề đó. Những nương dâu bạt ngàn mọc lên ở ven sông. Nhà nào cũng có người chăn tằm, dệt lụa. Lụa ở vùng này, ngay từ thời đó, đã nổi tiếng khắp cả nước. "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", hàng năm Mỵ Nương đều cho chọn một vài xúc lụa đẹp nhất, để đưa về Kinh, cung tiến vua cha và hoàng hậu.
Dân chúng trong vùng vốn chăm chỉ, lại thấm nhuần sâu sắc ý thức ơn nghĩa, nên vẫn duy trì đến mãi sau này hội tiến lụa có từ thời Mỵ Nương vậy. Đám rước diễu hành theo thứ tự: Một người đầu mang nong ké, vừa đi vừa múa hát. Theo sau là những cô gái óng ả mặc toàn đồ tơ lụa, tay cắp rổ lá dâu, cũng vừa đi vừa múa hát. Thứ đến là một chiếc kiệu chất đầy lụa quý, do16 chàng trai lực lưỡng ăn mặc đẹp đẽ, khiêng. Dân chúng theo sau, vừa đi vừa reo hò để hôï tống.
Sự tích, và nhất là công đức của Sơn Tinh Mỵ Nương đến nay vẫn còn được lưu truyền và in rất đậm trong tâm thức dân gian của người Việt. Cả một vùng truyền thuyết rộng lớn với nhiều nghi lẽ hội hè đã nhắc lại quá khứ vinh quang của hai ông bà. Ngoài danh vị " Thánh bất tử", hai ông bà còn được tôn xưng là "Đệ nhất danh sư" trong "Bách nghệ tổ sư" của nước Nam ta.
Cao Biền là viên quan cai trị gian ngoa xảo quyệt, biết thiên văn địa lý lại tinh thông tướng số. Khi vua Đường sai sang dẹp quân Nam chiếu rồi ở lại làm Tiết độ sứ (866 - 874), y đã từng đi khắp nơi trong nước ta, thấy chỗ nào "địa linh" là tìm cách yểm bùa để diệt "nhan kiệt". Pháp thuật của y là bắt một người con gái mười bảy tuổi chưa chồng, đem mổ bụng vứt ruột đi, rồi lấy cỏ bấc nhồi vào, đoạn, mặc quần áo cho tử thi, đặt ngồi trên ngai. Y đem các thứ đó đến huyệt định yểm, rồi tế bằng trâu bò và đọc thần chú. Hễ khi thấy tử thi động đậy, tức là thần linh ở đấy đã nhập vào tử thi, là y dùng kiếm chém đầu để diệt, tức là đã trừ yểm xong.
Khi đến chân núi Tản Viên, y cũng làm như thế, vì biết ở đây có vị thánh bất tử linh thiêng vào bậc nhất của nước Nam. Nhưng khi tế lễ, đọc thần chú, bắt quyết ... Biền thấy tử thi cứ trơ trơ ra chẳng cử động gì.
Đấy chính lúc Thanh Tản Viên cưỡi ngựa trắng ngồi trên mây bay ngang qua, nhìn thấy. Để tỏ ý khinh bỉ trò khôi hài của Biền, Ngài bèn nhổ xuống một bãi nước bọt, rồi bỏ đi, không thèm nói năng.
Cao Biền thấy vậy cả sợ, bèn dẹp ngay trò quỷ thuật lại, rồi than rằng: "Linh khí phương Nam không thể lường được. Vượng khí ở đây không bao giờ dứt. Ta phải về thôi". Về sau, quả nhiên Cao Biền được lệnh phải triệu hồi về nước, rồi chết sau đó mấy tháng.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5 Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.