PDA

Xem đầy đủ chức năng : Festival Ninh Bình 2008- Điểm hẹn của người du lịch



emgaicodo2000
14-11-2007, 04:53 PM
Những năm gần đây du lịch Ninh Bình nhanh chóng phát triển mạnh và trở thành điểm nóng của không gian du lịch Bắc Bộ. Cùng với Hạ Long, Sa Pa và Hà Nội là 4 điểm đến hấp dẫn nhất miền Bắc.
Năm 2008, Festival Ninh Bình (tuần lễ du lịch Ninh Bình 2008) sẽ diễn ra vào dịp toàn dân Việt Nam được nghỉ dịp 10/3 âm lịch với sự khai trương của nhiều khu du lịch quốc tế và loại hình du lịch mới như hang động Tràng An, sân Golf 54 lỗ đầu tiên tại VN (giai đoạn 1), làng quần thể du lịch Ninh Bình, khu du lịch sinh thái biển Kim Sơn, khu văn hóa tâm linh Bái Đính với 05 kỷ lục Việt Nam, vườn quốc gia Cúc Phương, di sản thiên nhiên thế giới trong tương lai gần .v.v. và rất nhiều dự án lớn khác.
Có rất nhiều sự kiện du lịch, lễ hội, hội thi được diễn ra trong thời gian từ 11/04/2008 ->17/04/2008 tại các khu du lịch: sinh thái Tràng An, khu di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư, Tam Cốc – Bích Động, TP Ninh Bình, khu du lịch Kênh Gà - Vân Trình, Vườn Quốc gia Cúc Phương, Nhà thờ đá Phát Diệm, khu du lịch hồ Yên Thắng.
Thiên nhiên, địa lý và lịch sử quá hào phóng khi ban tặng cho thành phố Ninh Bình – thành phố trẻ bên bờ sông Đáy, sông Vân với nhiều yếu tố thuận lợi phát triển du lịch, nằm ngay trên trục giao thông sắt, bộ cao tốc xuyên Bắc Nam, là tâm điểm của 7 khu du lịch lớn với bán kính chưa đầy 30km Lại có cảnh quan đô thị mới, hiện đại, xanh - sạch - đẹp. Ninh Bình giờ đây đã trở thành điểm đến dừng chân, nghỉ ngơi cho ngày mới không thể bỏ qua của bất kỳ hãng lữ hành nào trong hành trình xuyên việt. Thật tự hào khi du khách các hãng trong một cuộc vận động quy mô năm 2007 từng bầu chọn Ninh Bình là “10 thành phố đẹp nhất Việt Nam 2008”. Đây cũng là mốc son mới đánh giá sự phát triển đi lên của thành phố du lịch Ninh Bình.
http://www.dulichachau.com/imgs/3ce7fb6538ab9b7244c60172fb93ee22-Vietnam-Maps.gif
Tổng quan
Ninh Bình nằm ở vùng cực Nam đồng bằng sông Hồng, cách thủ đô Hà Nội 93 km. Với diện tích tự nhiên 1.420 km², chiều dài bờ biển 18 km, dân số trên 902.000 người. phía Bắc giáp Hà Nam, phía Tây giáp Hoà Bình và Thanh Hoá, phía Đông giáp Nam Định, phía Nam giáp biển Đông. Khí hậu của Ninh Bình ôn hoà, mát dịu hơn khí hậu các nơi khác ở đồng bằng sông Hồng. Nhiệt độ trung bình năm là 23,4 độ C. Thời tiết trong năm chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa.
Ninh Bình có vị trí chiến lược quan trọng. Trên địa bàn tỉnh có Quốc lộ 1A, Quốc lộ 10; 12A; 12B, 35, đường cao tốc Hà Nội - Ninh Bình – Vinh, đường sắt cao tốc Bắc Nam chạy qua cùng hệ thống sông ngòi dày đặc như: sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Càn, sông Vạc, Sông Vân...tạo thành mạng lưới giao thông thuỷ, bộ thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế trong và ngoài tỉnh.
Địa hình Ninh Bình phân chia thành ba vùng tương đối rõ nét, vùng đồi núi ở phía Tây và Tây Bắc; vùng đồng bằng và vùng ven biển phía Đông và phía Nam. Do phù sa bồi đắp hàng năm, đồng bằng tiến ra biển từ 100m -120m, tạo nên vùng đất mới phì nhiêu, màu mỡ. Vùng biển Ninh Bình đã vinh dự được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cũng với địa hình, thổ nhưỡng, văn hoá đa dạng như vậy nên Ninh Bình là một trong 10 tỉnh giàu tiềm năng du lịch nhất ở Việt Nam.
Nằm ở cực Nam của đồng bằng sông Hồng, Ninh Bình là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế, văn hóa giữa 3 khu vực: miền núi Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ của tổ quốc.
Ninh Bình là mảnh đất cố đô giàu truyền thống nhiều di tích lịch sử văn hoá có giá trị. Đến với Ninh Bình du khách không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cố đô Hoa Lư, hay vẻ uy nghiêm, bề thế của nhà thờ đá Phát Diệm – công trình công giáo hoàn hảo, đặc sắc có một không hai ở Việt Nam, Du khách có thể tự do khám phá những bất ngờ thiên tạo ở khu hang động sinh thái Tràng An, khu Tam Cốc – Bích Động…Đó là chưa kể đến thế giới thiên nhiên nguyên vẹn được bảo tồn trong rừng nguyên sinh Cúc Phương, hay sự độc đáo, kỳ thú, hệ động thực vật phong phú, đa dạng của khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long, hay tắm mình thư giãn ở suối nước khoáng nóng Kênh Gà, nếu quý khách muốn có chuyến dã ngoại sinh thái biển thì đừng quên về miền sông nước Bình Minh nơi cực Nam đất Bắc để được hoà mình vào cảnh sông nước ruộng đồng và biển của khu dự trữ sinh quyển thế giới v.v..
Qua các tài liệu của Viện sử học và của các nhà nghiên cứu đã tìm được từ trong sử sách - địa danh và danh xưng Ninh Bình chính thức có từ năm 1822. Năm Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong 12 xứ quân, thống nhất đất nước lập nên triều Đinh (968-980) đóng đô ngay tại quê hương ông, Ninh Bình trở thành kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến tập quyền. Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976 Ninh Bình hợp với Hà Nam và Nam Định thành tỉnh Hà Nam Ninh. Tháng 12 năm 1991, Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 10 quyết định tái lập tỉnh Ninh Bình trên phạm vi địa giới như trước khi hợp nhất.Trong suốt hành trình gần hai thế kỷ qua, Ninh Bình ít nhất đã có trên 20 mươi lần thay đổi về đơn vị hành chính, địa giới và tên gọi khác nhau, song về cơ bản địa giới và danh xưng tên gọi vẫn được giữ nguyên như hiện nay. Người dân Ninh Bình đã sinh sống và tồn tại liên tục từ xa xưa trên vùng đất cổ này. Qua quá trình phát triển ấy Ninh Bình tự hào là đất sinh vua, đã từng là kinh đô nước Đại Cồ Việt của ba vương triều Đinh – Lê - Lý từ cuối thế kỷ thứ X đến đầu thế kỷ thứ XI và là mảnh đất đã từng sản sinh ra những danh nhân, những nhân vật lịch sử hiền tài làm dạng danh quê hương đất nước.
http://tbn0.google.com/images?q=tbn:wXOBasXF2CRe-M:http://www.ninhbinh.gov.vn/Portals/0/Gallery/Man%2520su%2520thi%2520Ninh%2520Binh%2520Ngay%2520 moi.jpg
Tuyến du lịch Kinh đô Hoa Lư – Tràng An
Cùng với vườn quốc gia Cúc Phương, khu du di tích lịch sử văn hoá cố đô Hoa Lư và hang động Tràng An đang được hoàn thiện hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là các di sản thiên nhiên thế giới, di sản hỗn hợp và di sản văn hoá thế giới.
Hang động Tràng An:
Kinh đô Hoa Lư xưa có vị trí rất đặc biệt trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó là một quân thành vững chắc do thiên nhiên và con người làm nên.
Cùng với kinh đô Hoa Lư, hậu cứ để bảo vệ kinh thành "Lui có thế thủ, tiến có thế công" chính là khu hang động Tràng An mà mới được phát hiện và khoanh vùng bảo vệ đặc biệt năm 2003.
Xây dựng kinh đô Hoa Lư, Vua Đinh Tiên Hoàng rất chú ý đến yếu tố “Thành” để bảo vệ kinh đô. Thành Hoa Lư gồm những dãy núi đá vôi và các tường thành nhân tạo đan xen, nối liền nhau, nhấp nhô tạo nên một đô thành hết sức độc đáo.
Và cũng vì có Kinh đô Hoa Lư từ năm 968, khu núi non trùng điệp, hang động kỳ ảo, sông ngòi khuất khúc, thung lũng đan xen hoà quyện vào nhau ở phía Nam đã tạo nên một kỳ quan thiên nhiên hoành tráng, mỹ lệ đó chính là khu Hang động Tràng An nay là Khu du lịch sinh thái Tràng An.
Khu du lịch sinh thái Tràng An thuộc địa phận huyện Hoa Lư, Gia Viễn và thành phố Ninh Bình. Diện tích đất được sử dụng là 1.566 ha, trong đó diện tích núi và rừng đặc dụng được giao để quản lý, chăm sóc là 980 ha; diện tích đất để xây dựng cơ sở hạ tầng là 522 ha. Đây là khu du lịch được chính phủ khoanh vùng đặc biệt và đầu tư lớn nhất tại Ninh Bình.
Khu du lịch Tràng An nằm cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km về phía nam, gần trục đường quốc lộ1A xuyên Bắc – Nam, giáp thành phố Ninh Bình có trục đường sắt xuyên Bắc – Nam, phía nam giáp khu du lịch Tam Cốc – Bích động.
Một điều thuận lợi đặc biệt là khu du lịch sinh thái Tràng An nằm gần khu di tích cố đô Hoa Lư nên càng thêm lộng lẫy, góp phần tô điểm, khẳng định giá trị lịch sử của cố đô Hoa Lư. Trong khi khảo sát và thi công ở một số hang động và các thung, các nhà xây dựng đã thu được nhiều cổ vật từ thời Đinh và Tiền Lê như: gạch xây, gạch lát, cối giã, tiền đồng, bát đĩa, hũ vại, nhạc ngựa, quả cân bằng đá... Đó là những hiện vật quý hiếm, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, tôn giáo, kinh tế... trong lịch sử dân tộc; là biểu tượng sống động, thể hiện ý chí quật cường, lòng tự tôn, niềm khát khao độc lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử.
Nếu du khách về thăm cố đô Hoa Lư, không thể không đến khu du lịch sinh thái Tràng An để thưởng ngoạn sự hùng vĩ của núi non, thả hồn mơ mộng trước những hồ nước, hang động kỳ ảo cùng trời mây cao rộng, Tất cả hoà nhập vào nhau, tạo cho du khách một cảm giác nồng nàn, thi vị trong giang sơn cẩm tú, hình như tất cả cái đẹp của trời đất đã dồn góp về đây. Đúng là một vùng sơn kỳ thuỷ tú như những bức tranh thuỷ mạc đẹp mê hồn, ngay cả người khó tính nhất cũng phải yêu và mê.
Cố đô Hoa Lư và lễ hội truyền thống Cố đô Hoa lư
Diễn ra vào các ngày 6 , 7 , 8 tháng 3 âm lịch hàng năm tại Cố đô Hoa Lư (nhiều nhà văn hoá cho rằng nên lùi vào 9 , 10 , 11)
"Cồ Việt quốc đương Tống Khai Bảo. Hoa Lư đô thị Hán Tràng An" (Nước Ðại Cồ Việt sánh ngang niên hiệu Khai Bảo của nhà Tống. Kinh đô Hoa Lư như kinh đô Tràng An của nhà Hán). Cách đây 1.030 năm, Ðinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, đóng đô tại Hoa Lư. Ðây chính là kinh đô đầu tiên trong nền văn minh Ðại Việt của dân tộc, nền phong kiến tập quyền ở nước ta.
Kinh đô Hoa Lư rộng khoảng 300ha, bao gồm Thành Ngoại và Thành Nội. Đây là một quân thành vững chắc gồm những dãy núi đá vôi và các tường thành nhân tạo đan xen, nối liền với nhau. Kinh đô Hoa Lư tồn tại 42 năm trong đó 13 năm là triều Đinh, 29 năm tiếp theo là triều Tiền Lê. Đầu tháng 11 năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua cũng chính tại mảnh đất kinh đô Hoa Lư lịch sử này. Năm 1010 Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Từ đó kinh đô Hoa Lư trở thành Cố đô.
Về dự lễ hội Cố đô Hoa Lư, các thế hệ công dân của nước Đại Cồ Việt xưa và nước Việt Nam ngày nay cùng tiếp nối, khơi thêm dòng chảy của lịch sử cộng đồng dân tộc từ hàng nghìn năm trước với sứ mệnh: dựng nước, giữ nước, chấn hưng, phát triển và tự chủ.
Lễ hội Cố đô Hoa Lư đã được bắt đầu ngay khi nhà Lý dời đô về Thăng Long – Và trên nền móng của cung điện Hoa Lư, hai ngôi đền thờ vua Đinh và vua Lê được tạo dựng. Để có được một hình thức lễ hội như hiện nay là cả một quá trình mà trong đó hoà quyện những sự kiện lịch sử và truyền thuyết dân gian. Hình thức của lễ hội gồm có: Lễ rước nước, Lễ dâng hương, Lễ rước lửa, Tập trận cờ lau, Tế nữ quan, Kéo chữ, múa rồng lân, thổi cơm thi và những tiết mục biểu diễn, thi đấu quen thuộc đối với nhiều lễ hội truyền thống dân gian khác. Từ năm 2004, lễ hội còn có cuộc thi người đẹp cấp vùng là cuộc thi “người đẹp kinh đô Hoa Lư”.
Cuộc rước nước truyền thống ở lễ hội Cố đô Hoa Lư hàng năm biểu hiện mối liên hệ mật thiết, hữu cơ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của cả cộng đồng, bao hàm những yếu tố: linh khí núi sông, tâm thức dân gian về cội nguồn đất nước, dân tộc theo đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Đã ngót một nghìn năm, kể từ khi kinh đô Hoa Lư trở thành Cố đô, phong sương, hoài niệm, những âm thanh của trống hội Thăng Long vẫn luôn cộng hưởng, hùng tráng, khoan nhặt cùng tiếng trống rước nước ở Hoa Lư để hướng về cội nguồn, thêm đậm đà bản sắc dân tộc.
Động Hoa Sơn (Động mang tên ghép hai huyện Hoa Lư và Kim Sơn)
Hoa sơn là một hang động nằm ở lưng chừng núi – Có tên gọi núi Chùa – Phía nam cố đô Hoa Lư, thuộc địa phận thôn Áng Ngũ, xã Ninh Hoà, huyện Hoa Lư. Động ở độ cao khoảng 60m so với chân núi. Qua 153 bậc đá, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một hang động tuyệt đẹp của Ninh Binh. Núi non hùng vĩ, cây cối sum suê, không khí trong lành, khí hậu mát mẻ, lòng người thêm cảm giác thanh thản như đang bước vào cõi Bồng Lai…
Tương truyền động Hoa Sơn chính là nơi nuôi Ấu chúa thời nhà Đinh. Vì thế mà động còn có tên dân gian là “Phôi sinh tự” nhân dân quen gọi là “Chùa bà đẻ”.
Hoa Sơn vốn chỉ là một động tự nhiên, nhưng do thấy đẹp nên nhân dân trong vùng đã lấy động làm chùa, làm nơi thờ phật. Do đó có thể coi Hoa Sơn là một ngôi chùa “Thiên tạo”. Con người và thiên nhiên nơi đây đã cùng nhau tạo nên một danh thắng, một di tích thật là kỳ thú giữa chốn non nước hữu tình của kinh đô xưa.
Ngay trước cửa động, bên phải là hai pho tượng bằng đá, đó là tượng thờ hai ông bà có công tu tạo ngôi chùa – Ông là Nguyễn Hữu Non, bà là Lê Thị Sánh. Đây là hai pho tượng quý, không chỉ được chạm khắc bằng đá tinh tế mà còn thể hiện một nghệ thuật điêu luyện và đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Văn bia khắc ở ngang vách núi cũng cho biết hai ông bà đã sửa chùa năm Ất Hợi – Gia Long thứ 14 (1815)
Cái tên Hoa Sơn Động chính là do Vua Tự Đức đặt cho chùa - Động này khi nhà Vua tuần du ra Bắc và ghé thăm chùa. Nhà vua còn cho tập hợp các ngôi mộ thuộc Hoàng tộc Nhà Đinh và những người có công với Triều Đình lại rồi xây lăng Nghĩa Chủng ở phía Đông Nam, cách Hoa Sơn khoảng hơn trăm mét.
Động Hoa Sơn có chiều dài bằng chính chiều ngang của núi (khoảng 100m) với 3 hang liền nhau tạo thành một tam cấp – Đó là các hang: Hang Hạ, Hang Trung và Hang Thượng, cửa tiền của động rộng khoảng 12m, cao 20m. Hang hạ chính là một ngôi chùa “thiên tạo”. Bởi trong hang có thờ Phật, các pho: Tam Thế, Thiên Phủ, Phật Bà Quan Âm, Quan Âm Thị Kính… đủ cả. Trong chùa còn có 2 pho tượng Hộ Pháp cao to đứng ở hai bên – Dân gian gọi là ông Thiện và ông Ác.
Từ hang Hạ, qua 10 bậc đá là tới hang Trung. Hang có vòm cao khoảng 30m. Trần hang khá nhẵn, phía bên trái có nhiều nhũ đá tạo nên những cảnh sắc thú vị, mê đắm lòng người.
Hang Thượng cao nhất (cao hơn hang Trung khoảng 8m). Diện tích hang Thượng nhỏ hơn 2 hang trước, nhưng càng đi lên cao và vào sâu trong hang, cảnh đẹp càng đậm đà hơn, khiến du khách có cảm giác muốn đi mãi để khám phả sự kỳ ảo của thiên nhiên.
Động Hoa Sơn là một danh thắng nổi tiếng của đất cố đô Hoa Lư, là nơi du khách cảm thấy sự thư thái của tâm hồn và chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của tạo hoá.
www.ninhbinhtourism.com.vn
Tuyến du lịch suối nóng Kênh Gà - đầm Vân Long
Vân Long – Khu bảo tồn thiên nhiên ngập nước ASEAN, vịnh Hạ Long trên cạn, điểm đến của du lịch sinh thái, dã ngoại và thể thao
Suối nước nóng thuộc thôn Kênh Gà
Suối ở xã Gia Thịnh, huyện Gia Viễn. Thuyền sẽ đưa du khách len lỏi giữa không gian lồng lộng gió núi, ngọt ngào hương lúa đồng chiêm để đến với suối nước nóng Kênh Gà. Dòng suối này đã có từ rất lâu đời những mãi đến năm 1940 mới được người Pháp nghiên cứu và biết đến.
Đây là loại nước khoáng tốt, chứa nhiều muối natriclorua, kaliclorua, canxi và muối bicacbonat. Nước không có mầu, trong, nhiệt độ ổn định là 530C. Mỗi giờ nguồn nước chảy ra khoảng 5.000m2
Thiên nhiên đã ban tặng cho Ninh Bình non nước hữu tình lại còn có suối nước nóng để tắm nghỉ dưỡng và chữa bệnh thì quả là tuyệt diệu. Nước khoáng Kênh Gà hiện nay còn được sử lý, đóng chai để cung cấp thêm nguồn nước khoáng cho du khách.
Động Vân Trình
Động Vân Trình rộng gần 3500 m2, là một động lớn nhất và đẹp nhất của tỉnh Ninh Bình, sánh ngang với động Thiên Cung ở vịnh Hạ Long ( Quảng Ninh)
Động nằm trên vùng đất ngập nước Vân Long. Động có tên gọi là Giáng tiên. Huyền thoại kể rằng muốn giúp cho người trần nuôi con khoẻ mạnh, xinh đẹp, nàng tiên con út của trời đã xuống, thấy vùng này có phong cảnh ngoạn mục nên dừng chân dùng động làm nơi trú ngụ. Nàng đã cho xây nhiều bể tắm trong động. Nước trong bể lúc nào cũng đầy và trong. Về sau nàng tiên về trời, dân địa phương đã lập đền thờ nàng trước cửa động. Từ đó có tên gọi là Giáng Tiên. Tương truyền những nhà nghèo, hiếm con hoặc nuôi con khó, vất vả đều đến để cầu khấn Tiên giúp đỡ. Họ thường mua một tấm vải đặt lễ cúng tại đền cửa hang xin Tiên phù hộ. Hôm sau, họ trở lại không thấy miếng vải đâu, chỉ xuất hiện chiếc áo lọt lòng. Đem về họ cho con mặc, con lớn nhanh và khoẻ mạnh. Không chỉ có người dân đến lễ bái ở đền, các quan chức thời trước cách mạng tháng 8 năm 1945 hiếm con, nuôi con khó khăn cũng đến đây lễ bái cầu tự, lấy nước và xin thuốc tiên rất đông. Nhân dân địa phương phải phục dịch đón tiếp, khiêng các quan từ bờ sông lên cửa động rất vất vả và tốn kém. Họ bàn nhau lấp cửa động để cho quan lại không đến đây nữa. Từ đó động có thêm một tên nữa: Hang Lấp. Đến chân núi Mõ, men theo sườn núi, bước lên cao khoảng 3m, du khách tới nhà nghỉ của trạm du lịch. Ngồi ở đây ít phút du khách sẽ bắt đầu chuyến leo núi vào Động Vân Trình. Du khách bước lên khoảng 80 bậc như bậc cầu thang trong nhà là đến cửa động. Cửa động có độ cao khoảng 15 mét so với chân núi, cửa động chỉ cao có 1,5 m, rộng hơn 1m. Động Vân Trình gồm 2 hang liền nhau, so le, một cao, một thấp. Hang thấp là Hang Cả được chia làm hai khu ngăn cách bởi một bức bình phong nhũ đá. Bước tiếp xuống du khách nhìn lên cao thấy có những khối nhũ đá giống như những quả phật thủ khổng lồ. Thành hang bên tay phải là rất nhiều nhũ đá chảy dài như những sợi dây đàn hay còn giống như mái tóc mượt mà của các cô gái. Phải bước xuống 63 bậc, du khách mới tới nền động.
Lòng động đột ngột mở ra một không gian rộng lớn. Du khách có cảm giác như đang đứng trong một toà lâu đài cổ kính, có lối kiến trúc đồ sộ và hùng vĩ. Thành hang bên phải có nhũng dải nhũ đá nhẵn lì rộng, dài nhô ra đường chỉ mỏng nhẹ, trông như những tấm lụa trắng phơi bay trong gió. Trong hang có bức bình phong nhũ đá rất đẹp, cao gần 7m, dài trên 10m, rộng 1m, ngăn động làm hai cung, Hai bức bình phong đều được điểm tô bởi những đám mây cao thấp, phía xa là cảnh núi rừng có những muông thú và dòng sông - một bức tranh thuỷ mặc hữu tình được bàn tay thượng đế trau chuốt tỉ mỉ. Vòm động cao vút, lồng lộng màu thạch nhũ xanh như dát ngọc. Lại có những chùm hoa đá rực rỡ, những khối "kim cương" chợt loé lên bao sắc màu óng ánh khi đèn pin chiếu vào. Xung quanh thành hang, tạo hoá như treo sẵn những bức tranh, các mảng điêu khắc, chạm nổi những nhân vật trong các câu chuyện cổ tích xưa. Chính những giọt nước trong suốt, miệt mài, kiên định bao đời đã tạo nên những kiệt tác như vậy. Cũng từ thành động phía Tây có đường lên một hang ở trên cao so với nền động khoảng 6m. Nền hang rộng đến 150m2, nhấp nhô toàn nhũ đá nhỏ như hình người ngồi, đứng, người ta gọi đó là chợ Trời. Nền Hậu cung phẳng, nhưng lại đùn lên vô vàn nhũ đá có hình thù khác nhau như: Cây đèn,, cây nến, con nghê chầu, chim đại bàng, con hổ, con rùa, cung nữ đứng hầu, và cả quan thái giám.... tất cả những con vật đó vừa được hoá đá nơi đây. Một điều đặc biệt là nếu nhìn kỹ trên sàn động, du khách sẽ bắt gặp nhũng hòn đá nhỏ tròn như quả trứng vịt, trúng gà, viên bi, hạt đậu rất nhẫn, màu đen nhu hạt na, nhưng rất chắc khác hẳn kiểu nhũ đá trong động. Các nhà khoa học sơ bộ đã giải thích chúng ra đời cùng với thời kỳ hình thành động. Tương truyền, người xưa thường vào động, lấy chúng đem mài để uống sẽ chữa được một số bệnh. Vân Trình thực sự còn giữ được vẻ đẹp vốn hữu hình, trinh nguyên của đá. mỗi bước đi du khách lại phát hiện thêm những điều mới lạ, cảm nhận một cảnh trí khác nhau, đẹp mê hồn, không sao tả hết được.
Vân Long
Khu bảo tồn thiên nhiên ngập nước Vân Long llà miền đất huyền thoại, một vùng du lịch tuyệt đẹp, đồng thời là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước lớn nhất đồng bằng Bắc bộ đầu tiên ở Việt Nam. Non nước Vân Long có diện tích trên 3.000 ha, nằm trên địa phận 7 xã thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình
Trong khu rừng Vân Long có 457 loài thực vật bậc cao. Đặc biệt có 8 loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam: kiêng, lát hoa, Tuế lá rộng, Cốt Toái Bổi, Sắng, Bách Bộ, Mã Tiền hoa tán. Về động vật có 39 loài, có 12 loài động vật quý hiếm như: Voọc quần đùi trắng chiếm số lượng lớn nhất ở Việt Nam, gấu ngựa, sơn dương, cu li lớn, khỉ mặt đỏ.... trong các đông vật bò sát có chín loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam như: rắn hổ chúa, kỳ đà hoa, trăn đất, rắn ráo trâu, tắc kè.... Điều đáng chú ý là tại khu vực ngập nước Vân Long có loài cà cuống thuộc chân bơi, một loài côn trùng quý hiếm đã được đưa vào sách Đỏ. Không chỉ là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước, Vân Long còn là nơi có cảnh quan và di tích văn hoá. Đứng trên mặt đê, du khách thấy mặt nước là một không gian rộng lớn. Nhìn xa các dẫy nuí sừng sững tạo thành một bức tường thành thiên nhiên hùng vĩ. Một cảnh núi ẩn mây trời, mây che ấp núi. Nước ở đây mênh mông phẳng lặng, không có sóng to gió lớn, mang phong cảnh một miền quê yên ả của hương đồng gió nội hiền hoà. Du khách hãy xuống thuyền đi thăm Non nước vân Long. Đây là núi Nghiên, núi Hòm Sách, núi Đá Bàn, núi Mèo Cào. Kia là núi Cô Tiên, núi Voi Dựng, núi Cánh Cổng, núi Mồ Côi. Kế tiếp là một mỏm núi giống như mâm xôi là lộc trời ban tặng đầy đủ ấm no giữa thanh thiên bạch nhật. Mỗi trái núi là huyền thoại hấp dẫn.
Khu Vân Long có 32 hang động đẹp, nhiều hang động có giá trị phát triển du lịch như: hang Cá, hang Bóng, hang rùa, hang Chanh. Mỗi hang có một vẻ đẹp độc đáo riêng nhưng đẹp nhất vẫn là hang Cá dưới chân núi Hoàng Quyển. Trong hang có rất nhiều cá trê, cá rô, cá chuối to, tương truyền thời xưa có người bắt được một con cá chuối nặng 45kg, nên gọi là hang Cá. Hang dài 250m, cao 8m, rộng 10m. Hang cấu tạo nửa chìm nửa nổi. Trần hang là những vòm đá cao rủ xuống nhiều rải thạch nhũ lấp lánh, dáng hình lạ kỳ, giống như các con vật ở dưới nước và trên rừng. Khó có thể đẽo tạc được những dáng hình như thế. Du khách sẽ ngồi thuyền đến thăm Kẽm Chăm, rồi đến đền Mẫu ở chân núi Mèo Cào (các vách núi dựng đứng có vết lồi lõm kéo dài từ trên xuống như mèo cào nên gọi là núi Mèo Cào), Đền thờ mẹ bốn tướng Hồng Nương. Truyền thuyết kể rằng, thời Đông Hán đô hộ nước ta, có cô gái họ Mai tên là nàng Đại, năm 18 tuổi chưa lấy chồng thì cha mất, chưa đầy một năm sau mẹ cô cũng qua đời. Nàng Đại ngày ngày đi kiếm củi nuôi thân. Một hôm vào tiết trời mùa hạ, nàng qua núi Mèo Cào lấy củi gánh về. Khi ngồi nghỉ trên một phiến đá rồi ngủ thiếp đi, chợt nghe thấy tiếng hổ gầm, nàng bừng tỉnh, thấy một con hổ đen từ phương Bắc nhảy đến bên mình. Nàng kinh sợ ngã nằm bất tỉnh, khi tỉnh dậy không thấy hổ đâu, chỉ thấy bốn bề sực nức hương thơm. Từ đó nàng có thai hơn một năm và sinh ra bốn người con gái vào ngày 15 tháng 10 năm Nhâm Ngọ. Nàng lấy làm quái dị, bèn đem bỏ bốn người con gái vào trong núi rồi nhắm mắt từ trần. Hắc hổ ôm thi thể nàng táng trên đỉnh núi, và nuôi nấng bốn con mình bằng nhuỵ hoa, nước quả. Bốn năm sau Hắc hổ đem bốn cô gái vào sân nhà ông cậu Đinh Công Binh cho nuôi và đặt tên là ''Hồng''. Bốn nàng Hồng đến tuổi trưởng thành, nhan sắc tuyệt trần, lại có sức khoẻ hơn người. Đến năm 34 tuổi, Tô Định sang làm thái thú Giao chỉ rất tàn ác. Bốn nàng Hồng đã chiêu mộ nghĩa quân chống giặc Hán và đã được phong làm tướng và xin về quê, dựng đền thờ mẹ ở chân núi Mèo cào. Thời gian sau, bốn tướng Hồng Nương hoá trên đỉnh núi Ba Chon. Hiện nay ở núi Ba Chon có đền thờ ''Tứ vị Hồng Nương''. Non nước Vân Long chính là nơi du lịch sinh thái rất tốt, cũng sẽ là hiện trường nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học, các sinh viên, học sinh trong và ngoài nước muốn đến nghiên cứu và học tập về vùng đất ngập nước nội đồng của Việt Nam.
www.ninhbinhtourism.com.vn
Tuyến du lịch VQG Cúc Phương
Đây là khu du lịch sinh thái rộng lớn, hùng vĩ nhưng thanh bình và yên ả
Vườn Quốc Gia Cúc Phương.
Được thành lập ngày 7 tháng 7 năm 1962, Cúc Phương đã trở thành Vườn Quốc Gia đầu tiên và cũng là đơn vị bảo tồn thiên nhiên đầu tiên của Việt Nam. Với nhiều lợi thế về cảnh quan thiên nhiên, sự đa dạng về hệ sinh thái, các giá trị văn hoá lịch sử, từ lâu Cúc phương đã trở thành điểm du lịch sinh thái nổi tiếng và hấp dẫn. Cúc phương có đặc trưng là rừng mưa nhiệt đới, xanh quanh năm. Bước vào rừng già nguyên thuỷ Cúc Phương con người cảm thấy sững sờ, nhỏ bé khi lạc vào thế giới hoang sơ đậm mầu xanh kỳ vĩ trường tồn. Hàng chục người ôm mới hết chu vi những cây đại thụ ngàn năm cao trọc trời từ 45 đến 75mét như cây Đăng cổ thụ cao 45m đường kính 5m, cây Chò Chỉ cao 70m đường kính 1,5m, cây Sấu cổ thụ cao 45m đường kính 1,5m, cây Chò xanh ngàn năm cao 45m, chu vi gốc 25m.
Rừng nhiệt đới là xứ sở huyền diệu của các loài phong lan với hoa lạ rất thanh tao, quý phái được ví như những cô gái kiều diễm điểm tô hương sắc cho rừng. Chẳng thua kém thế giới thực vật, khu hệ động vật Cúc Phương cũng rất đa dạng và phong phú. Theo số liệu điều tra mới nhất Cúc Phương có 89 loài thú, 307 loài chim, 110 loài bò sát và lưỡng cư, 65 loài cá, và gần 2000 dạng côn trùng. Trong các loài thú Cúc Phương, nhiều loài đã được xếp vào loại quý hiếm, như báo gấm, báo lửa, gấu ngựa...và nhiều loài được là đặc hữu của Cúc Phương như sóc bụng đỏ. ở Cúc Phương có một loài thú linh trưởng rất đẹp, ngoài Việt Nam ra chúng không còn tồn tại nơi nào khác trên thế giới, đó là loài Voọc mông trắng – một báu vật của tạo hoá, loài vật này đã được chọn làm biểu tượng của Vườn Quốc Gia Cúc Phương. Cúc Phương là nơi cư trú của nhiều loài chim nhiệt đới với nhiều sắc lông, kích cỡ, âm thanh giọng hót. Trong tổng số 307 loài, Cúc Phương có nhiều loài chim quý hiếm chẳng hạn như gà lôi trắng, chim gõ kiến đầu đỏ, chim phượng hoàng đất, đuôi cụt bụng vằn... Chính vì vậy Cúc Phương được chọn là một trong những điểm xem chim lý tưởng của các nhà khoa học và những người có sở thích xem chim trong nước và thế giới. Thế giới côn trùng Cúc Phương cũng đa dạng muôn hình muôn vẻ. Mùa bướm nở, rừng già như trẻ lại tưng bừng lấp lánh ngàn vàng, bướm nhiều vô kể đủ dạng, đủ mầu phơi bầy một bức tranh kỳ ảo. Thuộc địa hình catxtơ nửa che phủ, Cúc Phương có nhiều hang động đẹp với cái tên rất gợi cảm như động Sơn cung, Động Vui xuân, động Phò mã.... Đặc biệt có một số hang động còn lưu giữ những di chỉ khảo cổ có giá trị, các nhà khoa học cho rằng đây là một trong những chìa khoá để tìm hiểu lịch sử Việt Nam và Đông Nam á, những di cốt này còn lưu giữ ở động Người Xưa, hang Con Moong. Từ xa xưa Cúc Phương còn là nơi cư trú và sinh sống của đồng bào Mường với những nét văn hoá riêng. Đó là những nếp nhà sàn, những trang phục, những phong tục tạp quán, lễ hội cồng chiêng, những điệu hò ... mang đận sắc thái văn hoá dân tộc Mường. Năm 2000 Cúc Phương đã phát hiện một hoá thạch động vật có xương sống. Hoá thạch lộ ra trong đá vôi phân lớp dầy, hệ tầng Đồng giao tuổi Trias giữa. Theo kết luận ban đầu của Viện cổ sinh học Việt Nam đây là hoá thạch của một loài Placodontia (Bò sát răng phiến) sống cách ngày nay chừng 200 đến 230 triệu năm và là hoá thạch đầu tiên tìm thấy ở Đông Nam Á. Đến với Cúc Phương ngoài những gì cảm nhận được mà thiên nhiên đã ban tặng, du khách còn được thăm các công trình nghiên cứu, các thành quả của dự án bảo tồn và đang thực hiện ở Vườn Quốc Gia Cúc Phương. Đây thực sự là những tài nguyên du lịch không chỉ có giá trị về mặt khoa học mà còn có giá trị cao về giáo dục ý thức bảo tồn thiên nhiên, môi trường, như Trung tâm du khách, Trung tâm cứu hộ các loài linh trưởng, Vườn thực vật... Thiên nhiên Cúc Phương thật là kỳ thú, đến với Cúc phương là hoà nhập với thiên nhiên - cái nôi sinh của muôn loài. Với một hệ thống giao thông khá thuận lợi, nhà nghỉ đa dạng, các dịch vụ ăn uống, hàng hoá lưu niệm và nhiều công trình vui chơi đã và đang được xây dựng, chắc chắn Cúc Phương sẽ là điểm hẹn của tình yêu thiên nhiên và những giá trị văn hoá - thiên nhiên và con người Cúc Phương luôn chờ đón các bạn./.
Hồ Đồng Chương
Một hồ nước rộng trong veo, mầu ngọc bích, nằm giữa hai xã Phú Lộc và Phú Long, huyện Nho Quan, có tên là Đồng Chương.Buổi sáng xương mù phủ kín mặt hồ như khói sóng huyền ảo. Khi mặt trời lên, sương tan dần, ánh nắng chiếu vào những hàng thông, lá cành lung linh sắc mầu như dát ngọc. Phong cảnh như mang nỗi niềm cổ tích, mơ màng, hoang vắng. ẩn hiện trên đồi thông những con thú đang ngơ ngác khi nghe một tiếng còi sương.
Ngồi thuyền, nhìn lên xung quanh là bạt ngàn đồi thông xanh ngút, dưới thuyền là mặt nước mênh mông trong vắt in đậm những đám mây trời trôi theo. Gió thổi nhè nhẹ, tất cả hoà nhập tạo thành bức tranh thuỷ mạc thiên nhiên đã kéo về giữa muôn trùng hoa lá của đồi thông.
Cũng nơi đây có thác Ba Tua và có dòng Chín Suối. Đến mùa mưa, nước từ núi đá đổ về vô tận.
Thêm điều đặc biệt và độc đáo ở đây là khi ngồi thuyền ngắm cảnh xong, du khách lại tiếp tục cuộc thăm thú mới: Leo đồi để xem Ao Trời. Cứ theo đồi thông xanh biếc, du khách lên tận đỉnh sẽ thấy một hồ nước trên cao gọi là Ao Trời cũng trong xanh, tuy nhỏ nhưng không lúc nào cạn nước. Đó là điều kỳ lạ mà tạo hoá đã dành riêng cho nơi đây.
Du khách đến hồ Đồng Chương sẽ thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Ninh Bình. Để phủ xanh đồi núi trọc, nhân dân địa phương đã trồng thêm nhiều thông xung quanh hồ. Vừa gìn giữ môi trường vừa tạo nên sự hài hoà cho bức tranh thiên nhiên nơi đây. Thiên nhiên và con người đã làm cho Hồ này đạt đến mức hoàn mỹ!
Đồng Chương được coi như một Đà Lạt của Ninh Bình hôm nay và mai sau.
www.ninhbinhtourism.com.vn

emgaicodo2000
14-11-2007, 05:02 PM
Tuyến du lịch Tam Cốc - Bích Động
Khu du lịch Tam Cốc Bích Động là 1 trong 21 khu du lịch quốc gia Việt Nam. Đây là tuyến du lịch trọng điểm quốc gia đầu tiên của Ninh Bình được nhà nước đầu tư lớn.
Tam Cốc
Tam Cốc nghĩa là Ba hang còn có tên Xuyên Thuỷ động nằm ở xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Xa xưa vùng này là biển cả sóng vỗ qua nhiều thế kỷ bào mòn vào vách đá tạo nên những hình thù kỳ lạ. Du khách đi thăm Tam Cốc chỉ có 1 con đường thuỷ duy nhất vào ra mất khoảng 3 tiếng đồng hồ.
Theo nhịp mái thuyền, du khách sẽ được đắm mình trong màu xanh của những cánh đồng lúa trải dài dọc hai bờ sông Ngô Đồng với những dãy núi trùng điệp. Hang Cả là hang lớn nhất và cũng là hang đẹp nhất của Xuyên Thuỷ động, với chiều dài 127m, nằm dưới một quả núi lớn vắt ngang qua hai dãy núi lớn hai bên sông Ngô Đồng. Khi thuyền vào trong hang, du khách sẽ cảm thấy mát lạnh và không khỏi ngạc nhiên trước những dải nhũ đá buông xuống... thuyền đưa du khách ra ngoài cửa hang tiếp tục cuộc hành trình xuyên thuỷ tới thăm hang hai và hang ba. Cũng gần giống như trong hang Cả nhưng hai hang này ngắn và thấp hơn. Nếu thuyền du khách đi đầu tiên vào đây, khi mặt nước chưa bị các mái chèo khua động, nhìn dưới dòng sông, nước in hình những đám mây đá tuyệt đẹp. Du khách có cảm giác rằng trong hang chỉ toàn dành riêng cho nước và mây. Với những du khách ưa thích mạo hiểm có thể xuôi thuyền tiếp tục trên sông trên 2km nữa tới thăm suối Tiên. Suối Tiên với dòng nước trong vắt có thể nhìn thấy từng đàn cá bơi lượn trong các lớp rong rêu ở phía dưới. Theo truyền thuyết, nơi đây xưa kia Tiên thường xuống tắm nên mới gọi là suối Tiên... Trên đường ra, thuyền đưa du khách tới bến Thánh, đi bộ khoảng 50m du khách sẽ gặp động Thiên Hương có chiều cao trên 60m. ở phía sau động này có lối lên thẳng đỉnh núi - đường lên trời. Đi bộ tiếp 50m nữa là đền Thái Vi, được xây dựng vào thế kỷ 13 là nơi thờ vua Trần Thái Tông (vị vua đầu tiên của nhà Trần). Đền Thái Vi được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Trước đền có giêng Ngọc xây bằng đá xanh, sau đền là dãy núi đá Cấm Sơn đứng sừng sững. Đền Thái Vi là một tác phẩm nghệ thuật của con người hoà nhập với kiệt tác của thiên nhiên kỳ thú.
Rời bến thuyền Đình Các gần 3km nữa, du khách tiếp tục tới thăm chùa Bích Động, một trong những thắng cảnh nổi tiếng được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhị Động”. Chùa Bích Động là một công trình kiến trúc cổ, mái cong lượn, dáng nét trang nghiêm được xây cất ở trên sườn núi cao, dựa vào thế núi. Du khách sẽ được hướng dẫn vào thăm động tối, thâm nghiêm và tĩnh mịch... thiên nhiên đã miệt mài bao thế kỷ để tạo nên muôn vàn các “tượng đá”. Không xa chùa Bích Động là động Tiên đẹp mê hồn nằm bên sườn một quả núi hùng vĩ tiếp tục với bao điều ngạc nhiên cho khách. Núi, động và chùa ở đây đã tạo nên một sự hài hoà và có sức thu hút kỳ lạ đến từng du khách. Bích Động là cả một cái đẹp hoàn hảo và vĩnh hằng.
Chùa Bích Động
Bích Động là một trong những thắng cảnh nổi tiếng nhất của tỉnh Ninh Bình được mệnh danh là "Nam Thiên đệ nhị động", có nghĩa là động đẹp thứ nhì của trời Nam, sau động Phong Nha ở Quảng Bình.
Năm 1705, có hai vị hoà thượng, pháp danh là Trí Kiên và Trí Thể, một người quê ở Đông xuyên, thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định gặp nhau kết nghĩa làm anh em. Hai nhà sư đều có lòng mộ đạo, muốn đi nhiều nơi để truyền bá đạo Phật và xây dựng các ngôi chùa. Đến đây, thấy núi Bích Động có địa thế tuyệt đẹp và đã có chùa, nên hai nhà sư quyết định dừng chân, tự mình sửa sang chùa cũ, đi quyên giáo xây dựng lại thành 3 ngôi chùa: Hạ, Trung và Thượng để tu hành. Năm Đinh hợi (1707), hai nhà sư Trí Kiên và Trí Thể đã đúc một quả chuông lớn, hiện còn treo ở Động Tối.
Khoảng năm Giáp Ngọ (1774), Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm (1767 - 1782) đã đến thăm chùa và đặt tên cho chùa Bích Động. Bích Động có nghĩa là động Xanh. Cõ lẽ khi chúa Trịnh Sâm đến đây, nhìn toàn cảnh núi, động , sông nước, đồng ruộng, cây cối đều xanh tươi, chùa như hội tụ nền xanh nên phải là Động Xanh, cái tên rất đẹp và mộng mơ. Chùa Bích Động là một công trình kiến trúc cổ nên cũng như những ngôi chùa khác được xây dựng bằng gỗ lim, mái lợp bằng ngói ta không có mấu, mũi lượn tròn, các góc của mái đều có đầu đao cong vút lên như hình lưỡi đao ,hoặc như hình cái đuôi con chim phượng, làm cho mái uốn lượn, uyển chuyển như sóng nước thuỷ triều, nhìn bán diện như hình một chiếc thuyền rồng ngoạn mục trôi trên nước hoặc như hai cánh chim đang dang rộng bay lên.Nhưng chùa Bích Động lại xây dựng theo kiểu chữ "Tam" Hán tự, ba toà không liền nhau, tam cấp dọc theo sườn núi, dựa vào thế núi từ thấp lên cao thành 3 ngôi chùa riêng biệt: Hạ, Trung và Thượng.Điều độc đáo của chùa Bích Động là núi, động và chùa bổ sung cho nhau, lại ẩn hiện giữa những cây đại thụ xanh biếc, làm cho chùa hoà nhập với cảnh trí thiên nhiên ngoại mục. Toàn cảnh như một bức tranh núi rừng hùng tráng, dát lên một phù điêu gồm 3 ngôi chùa cổ kính, mái ngói rêu phong, có đủ 8 cảnh đẹp mà người xưa đã gọi là ''Bích sơn bát cảnh'', ba chùa lại được xây trên sườn núi cao, dưới gầm lại có động Xuyên Thuỷ.Chùa Hạ có 5 gian xây trên một nền cao dưới chân núi. Trong chùa thờ phật, kiến trúc chùa theo kiểu chữ Đinh. Vì kèo, xà ngang, xà dọc cũng bằng gỗ lim. Mái chùa là hai tầng mái uốn cong, gồm 8 mái. Các cột đá ở chùa hạ đều bằng đá liền một khối, không chắp nối, cao hơn 4m, làm được những cột đá thư thế là một kỳ công.Xem xong chùa hạ, trở ra sân quay về hướng Bắc, bước khoảng 80 bậc đá men quanh sườn núi, tới lưng chừng núi là đến chùa Trung, kiến trúc bán mái phía ngoài. Đây là một chùa rất độc đáo, ít nơi có được, một nửa gắn vào hang động, một nửa lộ thiên, chùa có 3 gian thờ phật. Lễ Phật xong ở Thượng điện, bước lên 21 bậc đá là đến Động tối. Đây là động chính, thâm nghiêm, tĩnh mịch, thiên nhiên đã miệt mài bao đời chau chuốt tỉ mỉ vô cùng tinh tế sắc sảo đến từng chi tiết nhỏ để tạo nên những ông tiên, cô tiên, tiểu đồng, rồng lượn, rùa bơi, voi chầu, hổ phục...Lên chùa Thượng, du khách phải bước tới gần 40 bậc đá theo sườn núi. Chùa Thượng còn gọi là chùa Đông, chùa thờ phật bà Quan Âm . Đây là ngôi chùa nằm ở vị trí cao nhất, gần đỉnh núi Bích Động.
Bích động quả là một ngôi chùa độc nhất vô nhị ở Việt Nam, không nơi nào có thế đất, thế núi như vậy./.
www.ninhbinhtourism.com.vn
Tuyến du lịch hồ Yên Thắng - Đồng Thái
Dự án khu du lịch quốc tế Đồng Thái và sân golf Yên Thắng 54 lỗ lớn nhất Việt Nam sẽ là khâu đột phá cho du lịch Thị xã Tam Điệp. Đây cũng sẽ là điểm nhấn quan trọng của du lịch Ninh Bình.
Hồ Yên Thắng
Hồ Chạy dài dưới quả đồi với diện tích mặt nước 180 ha và 240 ha đồi cây xung quanh, Cảnh quan thiên nhiên hài hoà, môi trường sinh thái trong lành.
Hệ thống hồ Yên Thắng vừa mới được sửa chữa, nâng cấp thành một công trình thuỷ lợi chống lũ, đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời sống của nhân huyện Yên Mô. Với một hệ thống đập tràn, tưới tiêu, hệ thống giao thông thuận lợi chỉ cách thành phố Ninh Bình 15 Km, hồ Yên Thắng hứa hẹn là một điểm du lịch sinh thái, môi trường du lịch cuối tuần để vui chơi giải trí cho du khách trong và ngoài nước.
Động Mã Tiên
Động Mã Tiên ở lưng chừng núi Mã Tiên (núi Roi Ngựa). Men theo khoảng gần 100 bậc đá, bên sườn núi mới đến được động Mã Tiên. Cửa động cao đến 15m, rộng 10m, trông giống miệng của con cá khổng lồ đang há rộng.
Nền hang ở động này trũng xuống, không được bằng phẳng, chứa đựng nhiều khối đá lớn nhỏ muôn hình muôn vẻ và đặc biệt có những tảng đá lớn nhấp nhô như một đàn voi đang nô đùa. Từ nền hang đi qua một cửa hang hẹp sẽ bước lên tầng 2 của động Mã Tiên, cao hơn, có đến 5 buồng hang cao, thấp, rộng, hẹp. Mỗi buồng hang là một cảnh sắc khác nhau, đầy mới lạ.
Tầng 2 của động ở phía Tây được gọi là nơi tiên ở. Buồng của tiên ở cao nhất, mát nhất. Trong động có "giếng ngọc" lúc nào cũng có nước trong xanh. Toàn bộ động Mã Tiên không chỉ có một cửa hang, mà còn có đến 3 cửa lộ thiên trên đỉnh núi nên lúc nào cũng sáng, mát mẻ, không khí trong lành.
Hồ Đồng Thái
Cách thành phố Ninh Bình khoảng 25km về phía Đông Nam, hồ Đồng Thái nằm trên địa bàn của hai xã Yên Đồng và Đồng Thái, rộng hơn 350ha sát dãy núi Tam Điệp hùng vĩ. Hồ phục vụ tưới tiêu và nuôi thủy sản, mỗi năm mang lại cho nhân dân địa phương hàng trăm tấn cá. Hồ Đồng Thái còn có tiềm năng du lịch sinh thái rất tốt.
Du khách ngồi thuyền trên mặt hồ nhìn cảnh non xanh nước biếc, rất nồng nàn thi vị trong giang sơn cẩm tú. Mặt hồ trong xanh, in hình những đám mây bay lơ lửng giữa bầu trời, du khách có cảm giác như đang bay nhẹ theo mây, mơn man làn gió thổi dịu dàng của chuyến đi du lịch sinh thái bổ ích. Đi qua hồ vào chân núi, du khách sẽ lên thăm động Mã Tiên.
www.ninhbinhtourism.com.vn
Cửa biển Thần Phù
Tương truyền, vua Hùng mang quân đi Nam chinh qua vùng cửa biển Thần Phù gặp gió to, sóng dữ, không đi được, may nhờ một đạo sĩ có phép thuật cao cường dẹp yên sóng dữ. Khi ban sự trở về, đạo sĩ đã mất ở dọc đường. Vua Hùng cho lập đền thờ ở cửa biển, phong hiệu là “Áp Lãng Chân Nhân” (Người dẹp yên được sóng dữ). Hiện nay đền thờ vẫn còn ở thôn Nhân Phẩm, xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Theo thư tịch cổ, đầu Công nguyên vùng biển Thần Đầu (đến thời Lê đổi tên gọi là cửa Thần Phù) nằm trên đường hành quân xâm lược của Đại Hán do lão tướng Mã Viện cầm đầu.Tháng 11 năm 43 (SCN), sau khi tiêu diệt xong lực lượng kháng chiến của Hai Bà Trưng, Mã Viện trực tiếp chỉ huy 20.000 quân cùng 2.000 tàu thuyền lớn nhỏ tiến vào Cửu Chân (Thanh Hoá) tiến đánh lực lượng kháng chiến của lão tướng Đông Dương bằng hai đường thuỷ, bộ. Cánh quân bộ bị chặn đứng lại trước núi rừng vùng Tam Điệp ngày nay. Cánh quân thuỷ bị chao đảo trước sóng to, gió lớn của biển Thần Đầu (Thần Phù). Mã Viện phải sai quân đào sông qua dãy núi đá vùng này mà thư tịch cổ gọi là Tạc Khẩu.Vào cuối thế kỷ thứ X, khi Đinh Tiên Hoàng vừa mới mất (năm 979), tên phản thần Ngô Nhật Khánh cùng quân Chiêm Thành tiến ra Hoa Lư đánh tiêu diệt triều nhà Đinh, nhưng vừa tới cửa Tiểu Khang (cửa Thần Phù) thì bị gió bão đánh chìm. Nhật Khánh chết đuối, chúa Chiêm may mắn thoát nạn.Địa danh Thần Đầu (Thần Phù), cửa biển Tạc Khẩu, cửa Càn… vẫn trường tồn trong lịch sử vùng quê Ninh Bình. Những chứng tích lịch sử mà Thần Phù ghi nhận là niềm tự hào của quân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ quê hương, đất nước.
www.ninhbinhtourism.com.vn
Phòng tuyến Tam Điệp, Biên Sơn
Trong cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc năm 1788 – 1789, phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn giữ vai trò chiến lược quan trọng trong giai đoạn rút lui chiến lược cũng như giai đoạn phản công chiến lược. Đó là giới hạn rút lui cuối cùng của quân Tây Sơn ở Bắc Hà. Đó cũng là địa điểm tập kết của đại quân Tây Sơn do Quang Trung thống lĩnh từ phú Xuân kéo ra. Và đó cũng là bàn đạp của cuộc phản công chiến lược, là căn cứ xuất phát của các đạo thuỷ bộ hùng binh Tây Sơn tiến ra đại phá quân giặc.
Gần đây, những người làm công tác sử học đã phát hiện và khảo sát nhiều những kỳ bí và làm rõ hơn về quần thể di tích này.
Núi Tam Điệp, xét về mặt địa lý, là dải cuối cùng của vòng cung đá vôi Hoà Bình ăn ra gần sát biển. Đó là một dải núi đá vôi xen lẫn một số đồi đất ở vào vùng giáp giới hai tỉnh Hà Nam Ninh và Thanh Hoá. Núi Tam Điệp tự nó đã có giá trị như một bức tường thành thiên nhiên lợi hại ngăn cách hai vùng Ninh Bình – Thanh Hoá và án ngữ các đường thuỷ bộ từ Thăng Long vào Thanh Hoá. Đấy là đường Thiên ly qua đèo Tam Điệp; đường núi (hay thượng đạo) qua Phố Cát và đường thuỷ qua cửa Thần Phù.
Bộ binh Tây Sơn lui về giữ Tam Điệp là chiếm lĩnh một tuyến địa hình lợi hại, giành nơi dừng chân vững chắc trong phòng ngự cũng như tiến công. Quân Tây Sơn tổ chức phòng ngự nhằm ngăn chặn các đường giao thông qua Tam Điệp, chủ yếu là đường Thiên ly.
Qua đèo Tam Điệp ( hay đèo Ba Dội) mới hiểu được những lời thơ mô tả hết sức hiện thực và sinh động của “ bà chúa thơ nôm “ Hồ Xuân Hương.
Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Trước ải Tam Điệp còn di tích thành luỹ của quân Tây Sơn. Luỹ dài 135m, chân rộng 15m, có chỗ cao 1,8m, nối liền hai mạch núi đá vôi nhằm chặn một lối đi qua đấy. Thành rộng gần một mẫu Bắc bộ, hình gần vuông, chân rộng 7m, có chỗ cao hơn 2m. Phía ngoài thành đều có hào, di tích còn lại có chỗ rộng 4m, sâu 0,5m. Thành nằm gần đường Thiên Ly và giữ như một tiền đồn phía bắc cửa ải. Những luỹ này được xây dựng từ trước và quân Tây Sơn đã tu bổ, xây dựng khi lập phòng tuyến Tam Điệp.
http://tbn0.google.com/images?q=tbn:x7ECjgVOa6uq2M:http://www2.vietnamnet.vn/dataimages/200610/original/images1117105_doan.jpg
www.ninhbinhtourism.com.vn
Tuyến du lịch nhà thờ đá Phát Diệm - phố biển Bình Minh
Vùng đất mới Kim Sơn – Khu dự trữ sinh quyển thế giới đồng bằng sông Hồng sẽ là điểm đến thân thiện, mới mẻ và đột phá với tiềm năng hứa hẹn vươn xa ra biển của du lịch Ninh Bình. Đây sẽ là một thành phố biển trong tương lai của vùng cực nam sông Hồng
Khu du lịch Biển Kim Sơn
Như một dải mũi đất ở cực nam đồng bằng sông Hồng, Bình Minh - thị trấn sông nước (vùng đệm của khu dự trữ sinh quyển thế giới Bắc Bộ) đang là điểm đến mới mẻ của du lịch Ninh Bình. Toàn Thị trấn nông trường có 6 con sông lớn nhỏ chảy qua và hàng trăm con rạch mang phù sa màu mỡ về những cánh đồng làng hoa, làng lúa.
Chính địa hình bằng phẳng và ngập nước đã làm cho Bình minh có dáng dấp một đô thị đồng bằng sông Cửu Long chứ không giống với các thị trấn du lịch khác như Phát Diệm, Quất Lâm ở đồng bằng Bắc Bộ.
http://tbn0.google.com/images?q=tbn:N7HN0RGkOkXSgM:http://www.saigontourist.hochiminhcity.gov.vn/news/images/2004/10/caucasau.jpg
http://tbn0.google.com/images?q=tbn:UOhYpbGLwxd50M:http://www.dangcongsan.vn/img/tung-bung-bien-he-2.jpg
Đến với đô thị du lịch biển này quý vị được chìm trong khung cảnh lãng mạn của đồng quê với các loại cây trái bốn mùa như Ổi, Táo, Hồng, Chuối, Hồng xiêm, Khoai và những cánh đồng rau xanh. Bình minh thực sự là một lẵng hoa của Kim sơn với những cánh hoa bạt ngàn màu sắc và những cô gái thôn quê đảm đang bình dị say lòng du khách.
Đến với Bình Minh du khách còn được thưởng thức đặc sản miền biển như Cua, Ghẹ, Tôm, Mực, Cá, Ngao, Sò ... hoặc có cả những đặc sản của Ninh Bình được làm tại đây như Cơm cháy, Bún mọc, Rượu Kim sơn, Lẩu dê, Miến lươn.
Người dân Bình Minh sống bộc trực, phóng khoáng bởi thiên nhiên ưu đãi, đất đai màu mỡ dễ kiếm sống và cũng bởi một lẽ đây là trung tâm của miền đất mới hàng năm tiến ra biển trên 100m. Bình Minh thực sự là nơi hội ngộ của những con người đi khai hoang lấp biển.
Hôm nay, Bình minh đang phát triển đi lên thành điểm sáng của không gian du lịch Ninh Bình. Xứng đáng với vẻ đẹp lấp lánh, hài hòa của hai tiếng Bình Minh.
http://tbn0.google.com/images?q=tbn:k5GcQNXGYzW6IM:http://www.ven.org.vn/Vietnamese/Data/pic/1216/veno1.jpg
http://tbn0.google.com/images?q=tbn:TahLASoYb0pC-M:http://www.suctrevietnam.com/Modules/CMS/Upload/20/18/2006_11_29/co.jpg
Bãi biển Bình Minh là bãi cát ven biển, chiều 1800m. Khu này phần lớn còn giữ được trạng thái hoang sơ tự nhiên. Có đất rừng tự nhiên có thể hình thành các bãi tắm, các khu du lịch bãi cát…
Vọng gác tiền tiêu Đoàn 500 là điểm mốc có ý nghĩa thiêng liêng, là điểm tận cùng cực Nam của Ninh Bình cũng như miền Bắc, người Ninh Bình ai cũng muốn một lần được đến điểm cực Nam của chính quê hương mình.
Nhà thờ Cồn Thoi là công trình tín ngưỡng tôn giáo lớn thứ 2 sau nhà thờ Phát Diệm.
Tập quán sinh hoạt của cư dân vạn chài, cư dân miền sông nước cũng là một nét đẹp hấp dẫn du khách tới thăm.
Những tiềm năng phong phú về du lịch của Bình Minh mà thiên nhiên đã ưu đãi, vẫn chờ sự khai thác của ngành du lịch. Cùng với bước phát triển mới của kinh tế Ninh Bình, từ đầu thập kỷ 21 du lịch Bình Minh đã tạo hướng đi hợp lý, năng động, vượt lên, tạo đà khởi sắc mới
http://tbn0.google.com/images?q=tbn:PuPhh3DD7fpBXM:http://www.hungyen.gov.vn/ImageAttach/II4_sen.jpg
Đến với Bình Minh, du khách được chiêm ngưỡng mênh mông của biển, của trời, bạt ngàn đồng cói non xanh đang tiến dần ra biển. Với một vùng đất phù sa mầu mỡ có những khu rừng ngập nước quanh năm; dưới tán rừng có nhiều loài loài chim, thú, thủy sản sinh sống đã tạo cho Bình Minh một cảnh quan đặc sắc mang nét riêng của vùng đất trẻ đầy hoang sơ, mới lạ.
Bình Minh có nhiều vườn chim nổi tiếng, đặc biệt chim về làm tổ hàng chục nghìn con ngay giữa lòng phố Biển. "Đất lành chim đậu" là thế. Hãy một lần đến với nam Kim Sơn để có dịp tận hưởng và khám phá nhiều điều kỳ thú.
http://tbn0.google.com/images?q=tbn:0P2_X_jF9qJixM:http://img220.imageshack.us/img220/8615/6853scdme4.jpg
Giá như bạn có một lần đứng chơi vơi trên đất Bình Minh để nghe hồn mình xao động với câu thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh:
“ Mũi đất xanh trên biển mênh mông
Đang rẽ sóng lao về phía trước…”
Vâng, Bình Minh – nơi tận cùng của miền Bắc đang thao thức gọi mời những bước chân lữ hành. Khi bạn có mặt, chung quanh sẽ là kênh, trước mặt là biển; là rừng cây, đồng cói. Đầu đội trời chân đạp đất, nghe lặng thầm điệu ru đất nước dầu dãi 200 năm lớp con Rồng cháu Lạc đi mở cõi xứ này đặt tên Kim Sơn - Núi vàng của Việt Nam.
Là vùng sinh thái bán biển đảo, bãi ngang nam Kim Sơn vừa là vùng ngập mặn vừa là thềm lục địa nhô mình ra biển Đông. Tình đất, tình người nơi đây thắm đượm giá trị sinh thái nhân văn. Chỉ mỗi tên địa danh bãi biển Bình Minh đã nói lên bao điều: Nơi nhận được ánh nắng ban mai mặt trời của sự sống, để tận hưởng những phút giây đầu tiên, để thì thầm những câu chuyện kỳ thú thiên nhiên về những ngày hội mà không phải nơi nào cũng có được, ngày hội du xuân diễn ra vào tháng 1 hàng năm khi ngọn gió lồng trung thổi về, từng đàn cá từ biển Đông nối tiếp nhau về. Ngày hội mừng mùa vào mùa tháng tám hàng năm với hàng vạn con tôm vùng vẫy. Những đêm hội hoa đăng câu mực giăng giăng ngoài mênh mông biển cả... Bình Minh nguyên là xứ sở của bùn lầy, lau sậy, đất hoang. Những lưu dân xưa đến đây không phải để lãng du mà đi khai sinh cho một vùng đất. Cất nhà trên mặt nước mênh mông cư trú ngay trên đầm ngập nước mà sinh sôi nảy nở qua trăm năm. Ngày nay vẫn còn nguyên đầm Vạc Xanh tựa như một bảo tàng sống về nét cư trú đặc trưng của lịch sử người Việt nơi này. Chỉ là khách du lịch ngày một ngày hai, ngần ngại gì mà bạn chưa lên đường?
http://tbn0.google.com/images?q=tbn:KoaYlwib6OxRZM:http://dangcongsan.vn/img/dulich06050710.jpg
http://tbn0.google.com/images?q=tbn:aiiQntoBEsoxfM:http://www.thuvienhoasen.org/tanmanmuasen-2.jpg
“ Anh dắt em đi đón ánh Bình Minh
Một thành phố mới…một bờ bến mới…”
Dọc theo sông Cà Mau bằng đường thủy hoặc đường bộ khoảng 15 phút, khách đến ngã ba sông thăm các kiến trúc làng quê đẹp mắt, độc đáo, thăm "Làng bè" với mô hình nhà nổi trên sông sản xuất chăn nuôi cá với phương thức vừa công nghiệp vừa cổ truyền, quy mô lớn, ở nhà bè với tiện nghi cao cấp, để thấy sự năng động của người dân miền sông nước. Đêm đến khách thả thuyền chèo trên sông nhìn lên phố thị Bình Minh rực rỡ đèn hoa. Còn một thú vui nhiều khách rất thích là đi mua sắm hàng hóa đa dạng, đặc sản phong phú ở chợ Cồn Thoi và dĩ nhiên là không thể thiếu hải sản biển để làm quà. Theo tỉnh lộ 481 chỉ 8 km, khách sẽ đến với vùng biển trời hùng vĩ còn ẩn chứa bao vẽ hoang sơ của một thuở "Thất Sơn huyền bí" đủ làm khơi động trí tò mò khám phá của du khách với bao địa danh gợi nhớ: Kim Trung, Cà Mau, Bãi S ậy, Cù Lao Chàm, sông Đáy, các doanh trại bộ đội
Ngồi trên xuồng nhỏ rẽ nước len lỏi trong rừng, lên tháp ngắm chim, cò, đi cầu khỉ bằng tràm, vào láng nghỉ chân thưởng thức các món ăn đặc sản, hòa quyện với tiếng chim hót líu lo, tiếng gió rừng xào xạc của thiên nhiên làm cho tâm hồn bạn thêm thoải mái và dễ chịu hơn cho chuyến du lịch của mình.
Du lịch về Nam Sơn du khách còn thích thú với các loại hình nhà vườn, câu cá, ngủ ở bè,... được thưởng thức các món ăn dân dã lạ miệng, đặc trưng của vùng sông nước phương Nam đất Bắc.
Nhà thờ đá Phát Diệm
cách Hà Nội 130 km về phía Nam - Một kiệt tác về kiến trúc do cha Phê Rô Trần Lục (quen gọi là cụ Sáu) xây dựng từ năm 1875 đến năm 1899.
Đây là một quần thể kiến trúc kiểu Đình chùa Phương Đông, kết hợp với lối kiến trúc Gôtic của nhà thờ Phương Tây bao gồm: Ao hồ, Phương Đình, nhà thờ lớn, các nhà thờ cạnh, Nhà thờ đá, hang đá...
Ao hồ hình chữ nhật, ở giữa là một đảo nhỏ, trên đó đặt một pho tượng chúa Giêsu làm vua cao 3m, tượng ở tư thế đứng giang rộng hai tay, với tấm lòng vị tha, rộng mở như gọi mời, che chở cho những con chiên lạc đàn, tội lỗi.
http://tbn0.google.com/images?q=tbn:So5XM46XcongoM:http://www.ninhbinhtrade.gov.vn/images/nhathophatdiem.jpg
Phương Đình là một kiến trúc đồ sộ bằng đá (Chiều ngang 24m, chiều sâu 17m, chiều cao 25m), trên các vách phía ngoài và phía trong có những bức phù điêu bằng đá. ở tầng giữa và tầng trên cùng có treo một cái trống cái và một quả chuông (đúc năm 1890, cao 1,4m, đường kính 1,1m, nặng gần hai tấn).
Nhà thờ lớn (dài 74m, rộng 24m) xây năm 1891, có bốn mái và sáu hàng cột lim. Hai hàng giữa là 16 cột (cao 11m, chu vi 2,35m) mỗi cột làm bằng toàn thân một cây lim. Bàn thờ chính là một phiến đá dài 3m, rộng 0,9m, cao 0,8m, trên ba mặt có chạm khắc hoa lá. Tất cả bức vách phía sau bàn thờ toàn là chạm gỗ trổ công phu, sơn son thiếp vàng rực rỡ.
Hai bên nhà thờ lớn có 4 nhà thờ nhỏ hơn, mỗi nhà thờ một kiểu. Ở tận cuối phía Bắc là ba hang đá bằng những tảng đá núi xây lên, đẹp nhất là hang đá Lộ Đức ở phía Đông Bắc. Sau cùng ở góc phía Tây Bắc là một nhà thờ nhỏ, quen gọi là nhà thờ đá vì tất cả cột, xà, tường, chấn song, tháp đêu bằng đá. Trải qua những thăng trầm của 100 năm hiện hữu. Nhà thờ Phát Diệm vẫn sẵn sàng tiếp đón các tín hữu và du khách khắp nơi.. .
Đền Nguyễn Công Trứ
Đền Nguyễn Công Trứ có tên là Truy Tư Từ thờ Nguyễn Công Trứ, ở xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Kiến trúc đền không có gì đặc biệt nhưng đây là đền thờ Doanh điền Nguyễn Công Trứ, người có công khai sinh lập ra huyện Kim Sơn năm 1829. Đền Nguyễn Công Trứ có những nét độc đáo mà rất ít đền thờ trong cả nước có được như:
- Đây là đền thờ làm từ 1 ngôi nhà do chính Nguyễn Công Trứ xây dựng và đã ở đó một thời gian.
- Đền thờ được xây dựng từ khi Nguyễn Công Trứ còn sống - đền thờ sống - đã tế sống Nguyễn Công Trứ ở đây.
- Một đền thờ rất hiếm có vì những người dân không theo tôn giáo nào, không kể Phật giáo hay Công giáo đều đến tế lễ.
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858 là người học giỏi, thông minh nhưng thi cử lận đận, mãi đến 42 tuổi mới đỗ Giải Nguyên. Công lao lớn nhất của ông là khai khẩn ruộng đất, chiêu mộ dân lưu vong, với cương vị Doanh điền sứ đã lập ra hai huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Nhớ ơn công lao của Nguyễn Công Trứ nhân dân thị xã Thái Bình cũng đã lập đền thờ Lưu Phương ở xã Lưu Phương, huyện Tiền Hải. Đền này được lập ngay từ lúc ông còn sống.
Tuyến du lịch TP Ninh Bình
Thành phố Ninh Bình là trung tâm du lịch vùng nam sông Hồng, dạo quanh phố phường ở đây quý khách có thể đến với các thắng cảnh di tích lịch sử như: núi Cánh Diều, núi Non Nước, hồ Kỳ Lân, vẻ đẹp sông Vân, đền Trương Hán Siêu, bảo tàng Ninh Bình và rất nhiều các khu, điểm vui chơi giải trí khác. TP Ninh Bình sẽ là nơi đăng cai “Tuần du lịch Ninh Bình 2008” và năm du lịch quốc gia 2010 với chủ đề “1000 năm kinh đô Hoa Lư - Thăng Long - Hà Nội”
Được thành lập năm 2007, thành phố trẻ Ninh Bình có lợi thế để trở thành một trung tâm du lịch lớn của Việt Nam, xứng đáng với tên gọi “Thành phố trên đất cố đô.”
Núi Ngọc Mỹ Nhân
Nằm ở phía đông thành phố Ninh Bình có một trái núi lớn chu vi khoảng 400 trượng, Núi còn có tên gọi là núi Cánh Diều. Tên gọi đó gắn liền với truyền thuyết về sự hoá thân của Cao Biền- một tướng giỏi đồng thời là một pháp sư đời nhà Đường (Trung Quốc) sang cai trị nước ta, thường cưỡi diều giấy đi dò phá long mạch nước Nam; khi bay đến đất Hoa Lư đã bị một đạo sỹ cao tay cùng nhân dân ở đây dùng tên bắn, Cao Biền bị trọng thương, diều gẫy cánh rơi xuống một hòn núi, từ đó mang tên là Cánh Diều.
Núi có 3 ngọn, ngọn giữa cao, hai ngọn tả hữu chĩa ra như hai cánh chim, vì vậy còn có tên là Diên Xỉ Sơn.(“ Diên” là diều hâu, “xỉ ” là cánh chim ) - con chim diều hâu liệng.Nói đến những trái núi có dáng hình người phụ nữ đứng bế con trông ngóng chồng thì ở nhiều nước đều có. Đó là “vọng phu thạch” ở miền Nam Trung Quốc, gần biên giới Việt Nam. “Người đàn bà” này đứng trên “Sư tử đầu sơn”, cõng trên lưng đứa con. ở Thái Lan cũng có “Vọng phu thạch” thuộc vịnh Thái Lan. Riêng Việt Nam, nhiều nơi có hòn vọng phu là Nàng Tô Thị ở Lạng Sơn và núi Đá Bia tại Phú Yên, gần Đèo Cả.Nhưng một trái núi có dáng hình người phụ nữ nằm ngửa, khoả thân thì chỉ ở Ninh Bình mới có. Trên núi có chùa, xung quanh có nhiều hang động u minh. Núi có tên gọi là Ngọc Mỹ Nhân vì nếu du khách đi từ phía Nam ra Bắc theo đường quốc lộ 1A, cách thành phố Ninh Bình khoảng 4 km, nhìn về thị xã, thấy một trái núi trông như một cô gái mình trần, nằm ngửa, nhìn lên trời mây bao la, đầu quay phía đông, trông rất đẹp. Đây là “thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng”, nhưng không còn “yếm đào trễ xuống dưới nương long” nữa, mà là khoả thân, kiều diễm, nằm giữa thanh thiên bạch nhật như kiêu hãnh, thách thức, cố ý, muốn tự khẳng định sắc đẹp mê hồn của mình để :
Quân tử dùng dằng chẳng muốn đi
Đi thì cũng dở ở không xong.
Có lẽ không một trái núi nào trên đất nước ta lại có một dáng hình đẹp và cái tên mỹ miều như thế, do Nguyễn Công Trứ có con mắt tinh đời đã gọi được tên.
Núi Non Nước
Còn gọi là núi Dục Thuý, nằm ở phía đông bắc thành phố Ninh Bình. Núi cao trên 100m, đỉnh núi tương đối bằng phẳng, phía trước nhô cao hơn phía sau. Phía đông bắc chân núi đá bị sóng biển bào mòn, khoét sâu hõm vào làm cho thế núi vươn ra để soi trọn mình trên dòng sông Đáy, tạo thành một mái hiên hình vòm cuốn, che rợp một khoảng sông xanh...
Núi còn là một cuốn sử thi ghi lại quá trình chiến đấu của dân tộc chống lại bọn giặc xâm lược nước ta trong hàng nghìn năm qua. Năm 1929, người chiến sỹ cách mạng trẻ tuổi Lương Văn Tụy vượt qua rào vây của kẻ thù để cắm cờ trên núi Thuý. Sau cách mạng tháng 8/1945, dưới chân ngọn núi này là nơi tập kết của chi đội Nam Tiến. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chúng cho xây trên núi một lô cốt và coi núi Non Nước là vị trí rất quan trọng trong hệ thống chủ yếu trấn giữ vùng đồng bằng sông Hồng...
Không chỉ thế, mà nhiều người còn biết đến ngọn núi này, như một ''núi thơ''. Bởi nơi đây là nơi hội tụ của rất nhiều thi nhân lừng danh, của từng thời đại tới thưởng ngoại và đề thơ. Ở ngọn núi này có tới hàng trăm bài thơ đề trên các vách đá của các danh nhân xa xưa như Lê Thánh Tông, Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Ngô Thì Sỹ.... Vào thời Lý, đời vua Lý Nhân Tông, dưới chân núi về phía Đông cho xây một chùa Non Nước thờ Phật. Chùa được xây bằng đá, mái cong rồng lượn. Đứng trên đỉnh núi Non Nước, du khách có thể nhìn thấy toàn cảnh núi Ngọc Mỹ Nhân, núi Cánh Diều nằm cách đó không xa, hoặc phóng tầm mắt bao quát toàn bộ thành phố Ninh Bình đang trên đường đổi mới và phát triển.
Thịt dê núi Ninh Bình
"Rượu ngon cơm cháy thịt dê
Thăm quan du lịch thì về thành Ninh"
Đó là câu thơ khi nhắc tới thành phố du lịch Ninh Bình mặc dù mới được nâng cấp thành thành phố du lịch từ năm 2007.
Cố đô Hoa Lư khá ấn tượng bởi những dãy núi đá vôi được phủ xanh cây cối tạo nên bức tranh thiên nhiên kỳ thú đồng thời cũng là bức tường thành tự nhiên vững chãi như bao bọc, bảo vệ cho kinh đô Hoa Lư xưa và cụm di tích lịch sử quan trọng của Quốc Gia.
Cũng tại nơi đây từ lâu có một món ăn rất nổi tiếng đã trở thành đặc sản của vùng đất này đó là đặc sản Tái Dê.
Nhiều địa phương khác cũng có món Tái Dê nhưng món Tái Dê ở vùng cố đô Hoa Lư có hương vị riêng, không chỉ vì nó là đặc sản của vùng cố đô mà nó hấp dẫn bởi không gian, vị trí đến cách làm thịt dê, chế biến món ăn, gia vị... Người ta bắt dê được chăn thả trên những dải núi đá vôi quanh co uốn lượn của vùng cố đô Hoa Lư đem về làm lông, thui vàng, mổ ra ướp với lá hương nhu hoặc lá cúc tần hơn chục phút, rồi lọc lấy thịt (để cả da) đem nhúng vào nước sôi cho tái, sau đó thái nhỏ, mỏng đều (thái ngang xớ) Lấy vừng đã giã dập cùng các gia vị: xả, lá chanh, gừng ớt tỏi thái nhỏ, nước chanh, bột ngọt cho vào thịt dê tái đã thái tất cả chộn đều thành tái dê. Ăn tái dê nhất thiết phải có tương bần, và kèm theo lá sung, quả chuối xanh, khế, lá mơ…
Tái dê là một món ăn có hương vị phong phú hấp dẫn bởi nó thơm ngon, chua ngọt, chát bùi, tươi mát, nhẹ nhàng thú vị. Tất cả quyện thành một hương vị riêng không giống món ăn nào khác. Du khách về đây thưởng thức đặc sản tái dê dù chỉ một lần cũng đủ để lại ấn tượng tốt đẹp khó quên.
Cơm cháy Ninh Bình
Đến với Ninh Bình, du khách đừng bỏ lỡ cơ hội thưởng thức món đặc sản Cơm cháy để tân hưởng cái thi vị, độc đáo trong văn hoá ẩm thực của người Ninh Bình. Tại nhiều khách sạn hoặc các nhà hàng ăn uống, du khách đều có thể thưởng thức món đặc sản này.
Cơm cháy chính là "xém" lấy từ đáy nồi cơm do để già lửa. Để có cơm cháy ngon người ta thường nấu từ gạo nếp hoặc tẻ thơm có thể pha tỷ lệ thích hợp giữa gạo nếp và tám thơm, khi nấu cơm đổ vừa nước, vừa lửa, cơm chín nhừ không khô, không nát sẽ có cơm cháy ngon. Để tạo cơm cháy người ta thường dùng nồi gang dày. Khi cơm chín, cơm được lấy ra nhưng phần cơm ở đáy nồi được tiếp tục cấp nhiệt, nồi được xoay tròn cho nóng đều tạo lớp cơm mỏng, trắng đều, thời gian tạo xém khoảng vài chục phút. Khi xoay nồi lớp xém tự bóc ra khỏi thành nồi, nguời ta lấy ra sấy cho khô rồi bỏ vào rán cho đến khi giòn vàng lấy ra bẻ thành từng miếng nhỏ để vào bát to. Thịt bò lăn thái lát, tim cật lợn thái mỏng, ướp gia vị cùng với cà chua, cà rốt, hành tây, nấm hương... chộn đều, xào cho chín, rồi đổ vào bát cơm cháy, lúc ấy cơm cháy mới giòn tan, đầy ấn tượng với những âm thanh mầu sắc, hương vị quyến rũ.
Rượu cần Nho Quan
Rượu cần Nho Quan là loại rượu không qua chưng cất lửa. Người ta dùng gạo nếp xay (gạo nứt) nấu thành cơm trộn đều với men đem ủ vào trong ang hoặc vò sành từ 3 tháng trở lên mới đem ra uống.
Khi sắp uống, đem đổ nước vào ang. Nước đầu bao giờ cũng ngon và ngọt, đổ nước tiếp, rượu sẽ nhạt dần. Uống rượu cần không dùng chén, mà phải có các cần rượu làm bằng thân các cây trúc được thông rỗng bên trong cắm vào ang rượu.
Rượu cần ngon hay không là do mem làm có chất lượng không. Men rượu phải là vỏ cây mun cùng với củ giềng, củ gừng, lá ổi xanh theo tỷ lệ nhất định, đem giã vắt lấy nước rồi trộn với bột gạo nếp. Sau đó nặn thành bánh tròn bằng quả ổi nhỏ ủ vào trấu cho phồng lên, để khô khoảng 10 ngày mới dùng được.
Rượu cần uống phải đông người mới vui, uống để chuyện trò, giao lưu tình cảm. Chất ngọt thơm nồng của rượu và hơi thở, nhịp tim, ánh mắt, nụ cười của những người cùng uống tạo nên cái say nhẹ nhàng, cảm giác lâng lâng, khoan khoái như mãi níu kéo, gọi mời dù bạn mới chỉ thưởng thức lần đầu.
Rượu Lai Thành – (Rượu Kim Sơn)
Lai Thành là miền quê phía Nam huyện Kim Sơn (Ninh Bình), có nhiều đặc sản như gạo tám soan, dự hương, nếp mùa, nếp hoa cau... Nhưng nổi tiếng hơn cả là thứ rượu được chưng cất từ gạo trồng trên chính mảnh đất này. Hạt gạo tròn, thơm, vỡ ra trắng như màu sữa, thoang thoảng một vị hương dịu ngọt được đôi tay khéo léo của người dân nơi đây tạo ra thứ đặc sản Rượu Lai Thành mà khi thưởng thức bạn khó có thể quên cái hương vị đặc biệt: ngòn ngọt, cay cay mà ấm lòng.
Mỗi năm người Lai Thành đều giành một phần quỹ đất để trồng thứ lúa nếp truyền thống đó. Lúa nếp gặt về, phơi khô, sàng sẩy thật kỹ đưa vào chum bảo quản để nấu rượu. Ở đây đã có nhiều gia đình hàng chục đời theo nghề nấu rượu, có vài tộc họ chuyên làm men rượu, nên men của họ dù có để hàng năm vẫn thơm và khô.
Để có một loại men quý họ còn dùng một vài thứ dược liệu có tác dụng lưu thông khí huyết, diệt khuẩn, nên rượu Lai Thành, khi nấu ra càng để lâu rượu uống càng ngon, càng chắc. Có thể nói rượu Lai Thành Kim Sơn đã góp phần làm hấp dẫn thêm mảnh đất nổi tiếng là nơi sản sinh ra món gỏi tôm, gỏi cá nhệch, cua bể luộc, chả rơi, tôm sú.. Những đặc sản trên lại là những người bạn thân cận đồng hành và cùng tôn vinh rượu Lai Thành (Kim Sơn).
www.ninhbinhtourism.com.vn

tiểu_muội_muội
14-11-2007, 10:53 PM
festival NB :so_funny:
nghe mà thấy choáng váng :so_funny:...tin này mới :so_funny:
hồi đó về quê chơi mà chưa đc đến mầy nói này :cr:...tết mà đc về chắc tớ sẽ đi cho biết quá ah :hihi:

Mây Phiêu Lãng 105
14-11-2007, 11:23 PM
dài thế sao mà đọc hết được :xao:

nangthuytinh290
18-04-2008, 04:20 AM
eo!!! dài sợ nhìn qua đã choáng nói gì đến đọc