Hàn Cát Nhi
02-06-2006, 09:50 PM
TỔNG QUAN VỀ QUẢNG BÌNH
http://i5.tinypic.com/11ilj0p.gif
Tỉnh Quảng Bình nằm ở Bắc Trung Bộ, Việt Nam, với diện tích tự nhiên 8.037,6km2, dân số năm 2001 là 809.619 người.
Vị trí địa lý: Toạ độ địa lý ở phần đất liền là:
Điểm cực Bắc: 18005' 12" vĩ độ Bắc
Điểm cực Nam: 17005' 02" vĩ độ Bắc
Điểm cực Đông: 106059' 37" kinh độ Đông
Điểm cực Tây: 105036' 55" kinh độ Đông
Tỉnh có bờ biển dài 116,04km ở phía Đông và có chung biên giới với Lào 201,87 km ở phía Tây, có Quốc lộ I A và đường Hồ Chí Minh, đường sắt Bắc Nam, quốc lộ 12 và tỉnh lộ 20, 16 chạy từ Đông sang Tây qua cửa khẩu Quốc tế Cha Lo và một số cửa khẩu phụ khác nối liền với Nước CHDCND Lào.
Địa hình: Địa hình Quảng Bình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông. 85% tổng diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích được chia thành vùng sinh thái cơ bản: Vùng núi cao, vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven biển.
Khí hậu: Quảng Bình nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác động bởi khí hậu của phía Bắc và phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt:
Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm 2.000 - 2.300mm/năm. Thời gian mưa tập trung vào các tháng 9, 10 và 11.
Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24oC - 25oC. Ba tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, 7 và 8.
Tài nguyên đất: Tài nguyên đất được chia thành hai hệ chính: Đất phù sa ở vùng đồng bằng và hệ pheralit ở vùng đồi và núi với 15 loại và các nhóm chính như sau: nhóm đất cát, đất phù sa và nhóm đất đỏ vàng. Trong đó nhóm đất đỏ vàng chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên, chủ yếu ở địa hình đồi núi phía Tây, đất cát chiếm 5,9% và đất phù sa chiếm 2,8% diện tích.
Tài nguyên động, thực vật: Quảng Bình nằm trong khu vực đa dạng sinh học Bắc Trường Sơn - nơi có khu hệ thực vật, động vật đa dạng, độc đáo với nhiều nguồn gen quý hiếm. Đặc trưng cho đa dạng sinh học ở Quảng Bình là vùng Karst Phong Nha - Kẻ Bàng.
Về động vật có: 493 loài, 67 loài thú, 48 loài bò sát, 297 loài chim, 61 loài cá... có nhiều loài quý hiếm như Voọc Hà Tĩnh, Gấu, Hổ, Sao La, Mang Lớn, Gà Lôi lam đuôi trắng, Gà Lôi lam mào đen, Trĩ...
Về đa dạng thực vật: Với diện tích rừng 486.688ha, trong đó rừng tự nhiên 447.837ha, rừng trồng 38.851ha, trong đó có 17.397ha rừng thông, diện tích không có rừng 146.386ha. Thực vật ở Quảng Bình đa dạng về giống loài: có 138 họ, 401 chi, 640 loài khác nhau. Rừng Quảng Bình có nhiều loại gỗ quý như lim, gụ, mun, huỵnh, thông và nhiều loại mây tre, lâm sản quý khác. Quảng Bình là một trong những tỉnh có trữ lượng gỗ cao trong toàn quốc. Hiện nay trữ lượng gỗ là 31triệu m3.
************************************************** ***********
VĂN HOÁ & TIỀM NĂNG DU LỊCH
Dãi đất Quảng Bình như một bức tranh hoành tráng, có rừng, có biển với nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, thắng cảnh nổi tiếng: đèo Ngang, đèo Lý Hoà, cửa biển Nhật Lệ, khu di sản thiên nhiên Phong Nha - Kẻ Bàng.
Quảng Bình là vùng đất văn vật, có di chỉ văn hoá Bàu Tró, các di chỉ thuộc nền văn hoá Hoà Bình và Đông Sơn, nhiều di tích lịch sử như: Quảng Bình Quan, Luỹ Thầy, Rào Sen, Thành Nhà Ngo, thành quách của thời Trịnh - Nguyễn, nhiều địa danh nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc như Cự Nẫm, Cảnh Dương, Cha Lo, Cổng Trời, Xuân Sơn, Long Đại, đường Hồ Chí Minh v.v...
Trong quá trình lịch sử, đã hình thành nhiều làng văn hoá nổi tiếng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác như “Bát danh hương”: “Sơn- Hà- Cảnh - Thổ- Văn- Võ- Cổ - Kim”. Nhiều danh nhân tiền bối học rộng, đỗ cao và nổi tiếng xưa và nay trên nhiều lĩnh vực quân sự, văn hoă - xã hội như Dương Văn An, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Hàm Ninh, Hoàng Kế Viêm, Võ Nguyên Giáp...
************************************************** *******
PHONG NHA- KẺ BÀNG
Phong Nha - Kẻ Bàng là vùng Karst trẻ rộng lớn (khoảng 200.000 ha) và điển hình không chỉ của Việt Nam mà còn của cả thế giới, là một mẫu điển hình của quá trình địa chất về thể loại Karst và hình thành hang động đang diễn biến có giá trị toàn cầu không chỉ ở lĩnh vực đa dạng sinh học mà còn là một khu vực thắng cảnh hang động bậc nhất thế giới.
Vùng Phong Nha - Kẻ Bàng và phụ cận được giới hạn trong tọa độ 17022' - 17050' vĩ độ Bắc và 105045' - 106024' kinh độ Đông, bao gồm lãnh thổ một phần các huyện Quảng Ninh, Bố Trạch, Tuyên Hóa và Minh Hóa trải rộng từ biển tới biên giới Việt - Lào.
Có thể nói, đây là vùng có lịch sử phát triển địa chất phức tạp và lâu dài từ Cambi đến ngày nay. Trải qua các kỳ vỹ kiến tạo quan trọng và các pha chuyển động đứt gãy, phối tảng và uốn nếp đã liên tục tạo ra các dãy núi trùng điệp do chuyển động nâng cao và các bồn trầm tích do chuyển động sụt lún, đóng vai trò như nguyên nhân của mọi nguyên nhân để tạo ra tính đa dạng về địa chất, địa hình - địa mạo, mạng lưới thủy văn và tính đa dạng, kỳ thú về hang động du lịch đối với các thành hệ đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng phát triển từ Đevon đến Cacsbon - Trecmi.
Sông Son có sắc đỏ của đất phong hóa Terrarossa bắt nguồn từ vùng đá vôi hòa vào sông Nan và rào Đẩy. Tính đa dạng và độc đáo của địa chất, địa hình, địa mạo là điều kiện tiên quyết để kéo theo những tính độc đáo khác nữa đó là tính đa dạng sinh học, những cảnh quan đẹp và bí hiểm, những cảnh rừng hoang sơ như những khu bảo tàng thiên nhiên đầy bí mật được ít người biết đến. Giá trị khu động Phong Nha (trong vùng Karst Kẻ Bàng) là một tập hợp sinh cảnh cực kỳ quan trọng cho việc bảo tồn đa dạng sinh học, tiềm chứa nhiều nguồn gen quý hiếm, trong đó có những loài có giá trị toàn cầu như Sao la, Mang lớn...
Ngoài sinh cảnh thảm rừng và động vật hoang dã,
vùng Karst này chứa đựng trong lòng nó cả một hệ thống trên 300 hang động lớn nhỏ được mệnh danh là "vương quốc hang động", đang tiềm ẩn trong nó nhiều điều kỳ lạ và hấp dẫn các nhà thám hiểm, các nhà khoa học và du khách. Khu động Phong Nha còn là nơi đã từng tồn tại và đang hiện diện cả một hệ di tích lịch sử văn hóa có giá trị cho nhiều thời đại như các di tích khảo cổ học tiền sử, di tích văn hóa Chàm, di tích các trọng điểm trong chiến tranh.
Đặc biệt, trong hệ thống các giá trị của khu vực Karst này, hệ thống động Phong Nha đã được Hội nghiên cứu hang động Hoàng gia Anh (BCRA) đánh giá là hang động có giá trị hàng đầu thế giới với 4 điểm nhất: Có các sông ngầm dài nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, có những bơ cát rộng và đẹp nhất, có những thạch nhũ đẹp nhất. Hội nghị lần thứ 27 của Ủy ban Di sản Thế giới họp tại Paris tháng 7-2003 đã công nhận Phong Nha-Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới.
A. Hệ thống hang Phong Nha
http://i6.tinypic.com/11imqyv.jpg
http://i6.tinypic.com/11imtyc.jpg
http://i5.tinypic.com/11imw7n.jpg
1. Hang Phong Nha
Chiều dài: 7.729 m
Chiều cao: + 78m - 5m.
Khảo sát bởi: British Speleologica Expedition, 1990 và 1992.
Đây là hang động duy nhất đã được tổ chức tham quan du lịch. Hoạt động du lịch đã diễn ra vào hai thời kỳ: Thời kỳ 1920 đến 1945; thời kỳ từ 1990 đến nay.
Vào thời nhà Mạc giữa thế kỷ XVI, tác giả sách "Ô châu cận lục" (Lưu trữ thư viện quốc gia) cho rằng động Phong Nha còn đẹp hơn cả động Đào Nguyên trong truyền thuyết dân gian. Về cảnh quan có lẽ tác giả là người đầu tiên phác họa mấy nét hoang sơ về thảm thực vật của vùng này cách đây gần 500 năm.
Từ 1920 - 1930, Phủ Toàn quyền Đông Dương bắt đầu tổ chức du lịch do tổ chức Du lịch thuộc địa tại Đông Dương thực hiện (Tourist Colonal en Indochine), đứng đầu là Tổng ủy viên Philippe Eberhard. Cơ quan này đã làm một số tờ gấp giới thiệu du lịch Phong Nha. Khi đó đã có một nhà khách gần cửa động. Một tư liệu khác của người Pháp mô tả trong hang có điện thờ của người Chăm vào thế kỷ IX và X tương đương với thời kỳ văn hóa Đồng Dương ở Quảng Nam (Indrapura). Trong nhánh động cách chỗ rẽ 200 m có bàn thờ của người Chăm đặt giữa 2 cột thạch nhũ. Trên vách có gần 100 mảng chữ của người Chiêm Thành. Xung quanh bệ thờ có nhiều bệ tượng. Dưới đất có nhiều phế tích của các tượng kỳ dị.
Trong thời gian chiến tranh, hang này thường được sử dụng làm nơi trú ẩn của các thuyền bè. Qua 1,6 km đoạn đầu êm ả với con sông ngầm, sẽ tới một phòng lớn rất đẹp, gọi là phòng của Cụ Hồ. Tiếp đó là đoạn sông ngầm với dòng chảy mạnh có nhiều ghềnh. Sau đó là 6 km dòng sông chảy dữ dội, đáy gồ ghề với nhiều đá và sỏi.
Hang Phong Nha rất kỳ diệu, 1,5 km đoạn đầu đi được bằng thuyền độc mộc hoặc thuyền cao su, có thể đi bộ từng đoạn trên các sống trâu dọc vách hang. Ngoài ra không có lối đi nào khác. Từ cửa vào 700 m về phía tay phải là một bãi cát rất rộng. Đổ bộ lên đây ta có thể trèo dốc vào một nhánh hầm hình ống rộng 10m. Phía đầu dốc là những cột đá trang trí cho lối đi. Tiếp tục trèo lên vách đá qua 6 m, phải bò và tụt xuống một lối đi có nhiều măng đá. Đi tiếp theo dòng sông, qua bãi đá cuội dài 1,5 km, sau đó dời thuyền, trèo lên một vách đá vào một phòng rộng lớn khác. Sau khi khảo sát vách đá bên phải trèo sang phía bên kia của một khe hẹp, rồi lại vào một dòng suối. Từ một căn phòng đá lớn rộng 90 m có nhiều ngách cụt tỏa ta. Từ đỉnh dốc tụt xuống phải dùng dây leo. Tới một đoạn đường ngắn thứ 3, dẫn tới đầu nguồn con suối rồi tiếp tục khảo sát bằng một đường khác. Từ vách đá đó, phải bơi một đoạn 300 m để đến một lối khác dẫn đến dòng chảy chính của sông.
Dòng chảy tương đối mạnh có thể gây trở ngại cho việc bơi thuyền. Đoạn tiếp theo vượt qua tương đối dễ bằng cách đi men theo vách hang vài trăm mét. Sau đó có thể rời thuyền đi bộ khoảng 100 m bên phía tay phải. ở đó ta có thể đi trên bãi cát khô, hoặc trên các đường sống trâu, hay có thể tiếp tục đi bằng thuyền. Đường sống trâu rộng 8-10m, cao 10, dài khoảng 100m. Tiếp tục đi qua một đoạn tương đối khó bơi với những vách đá và đôi chỗ có đá tảng lớn dẫn đến dòng suối chảy nhanh và những khe hẹp. Đó là những đoạn khe ngắn rất khó đi. Nhưng nếu trở lại dòng suối, qua một lối mở rộng bên trái tại điểm đầu tiên thì có thể ra khỏi dòng sông, độ dài ước tính chỉ khoảng 1 km".
2. Hang Tối
Chiều dài: 5.258m
Chiều cao: + 83m
Khảo sát bởi: British Speleological Expedition, 1990, 1992, 1993.
Từ hang Phong Nha quay trở lại dòng chính, tiếp tục bơi thuyền lên phía đầu sông Chày khoảng 2 km là tới hang Tối. Dòng nước trong xanh tưởng như ở đây không biết gì đến ô nhiễm đang diễn ra trên khắp trái đất. Hang Tối nằm gần trạm bảo vệ Trộ Mợng của khu Bảo tồn thiên nhiên. Hai bờ sông ngoài cửa hang vách đá dựng đứng với rừng cây bao phủ. Đàn Voọc gáy trắng cứ 2 hay 3 ngày lại trở về ngủ trên vách đá.
Hang Tối đã được H.Limbert mô tả trong Vietnam Cave Report 1990 như sau:
"... Có thể dùng thuyền máy theo dòng sông Son tới nhánh thứ hai bên trái, đó là Sông Chày. Ngược dòng 1 km, rẽ vào một hẻm bên trái, đó là lối vào hang. Cửa hang rộng 20 m cao 30m. Vượt qua khoảng 30 x 20 m, rồi đi bộ và bơi một vài đoạn ngắn qua một vài hồ nhỏ. Bên trong có rất nhiều lối đi ở trên bờ và 800 m đi dưới chân vách đá cao. Qua đoạn sống trâu cao 50 m dẫn đến một phòng rộng 500 m. Cuối phòng có một đường sống trâu ngắn dẫn đến một lối đi rộng, leo qua một vách đá lớn để đến dòng suối. Từ bên phải căn phòng tụt xuống một hành lang ta có một con suối với lối đi rộng 20m có rất nhiều măng đá tròn dẫn tới lối trèo xuống dòng sông khoảng 25m.
Dòng suối nhiều chỗ rộng hơn 50m. Thoạt đầu nước suối chảy qua bờ đá, vượt quan 200 m qua các gờ và hốc đá sắc nhọn sẽ đến chỗ đi dễ dàng trên sỏi và nền đất.
Tiếp đó phải vượt qua một số hồ. Hồ đầu tiên dài 120m. Các hồ này tách nhau bởi các gờ đá nhỏ. Vượt qua 500 m hồ, dẫn đến một dòng suối. ở đây thấy rất nhiều cá, côn trùng và mảnh vụn do các dòng lũ mang đến. Con suối có một đoạn ngắn chảy trên mặt đất qua một khu rừng rậm. Từ cửa ra này lại dẫn đến một cửa vào hang khác. Qua chuyến đi này, chúng tôi có nhận xét rằng. Mực nước của các dòng chảy và các hồ có liến quan đến sự hoạt động của thủy triều ở biển, mực nước có thể lên xuống tới 1m. Khi nước xuống thấp, một vài chỗ của Hang Tối trở nên lầy lội
http://i5.tinypic.com/11inz20.jpg
http://i5.tinypic.com/11io1p5.jpg
http://i5.tinypic.com/11io51s.jpg
http://i5.tinypic.com/11io5lk.jpg
3. Hang E
Chiều dài: 736 m Chiều cao 0m
Tọa độ địa lý: 635.0E 1940.1N
Khảo sát bởi: British Speleological Expedition, 1994
Hang E nằm ở phía Đông của Động Phong Nha. Để đến được hang E có 2 đường, một đường qua hang Tối, đi dọc sông Chày tới Eo Gió. Eo Gió có gió thổi suốt ngày. Qua Eo Gió đến đoạn vượt Sông Chày, theo đường mòn Hồ Chí Minh đến đoạn rẽ sang Đường 20 sẽ tới một thung lũng hẹp. Đó là cửa Hang E.
Hang E đã được D. Limbert mô tả trong Vietnam Cave Report 1994 như sau:
"ở phía Đông Phong Nha là Hang E và Hang Tối, chắc chắn rằng dòng chảy từ hai hang này về hang Phong Nha.
Hang E thoạt đầu có lối vào dễ với những đoạn bơi ngắn và vài lối đi dọc hang dài 800 m, dẫn đến một bờ đá dốc rộng chừng 50m, đến một phòng rộng rất đẹp có chu vi 500 m. Xuống khỏi vách phòng lại tới suối. Đoạn suối này rộng dần ra tới 50 m, rồi đến một loạt hồ nước rộng tới 120m. Sau khi bơi 500 m trên dòng suối sẽ tới cửa ra. ở đây còn thấy vết tích của nhiều mảnh bom trong thời kỳ chiến tranh.
Năm 1992, đã khảo sát phòng hang rộng 700 m, gần đoạn nối với dòng chảy chính. Một ngách hang khác được khảo sát nhưng không có kết quả. Do thời gian có hạn, cần một cuộc thám sát nhanh để xác định điểm đầu nguồn của dòng chảy. Điểm đó được xác định khoảng 800 m ở giữa rừng rậm.
Năm 1994, đội thám sát Hang E được thành lập lại và đã khảo sát thêm 736m. Đoạn đó phải bơi toàn bộ, trừ một chỗ bằng được nghỉ. Hang E cuối cùng thông lên một kẻ nứt lộ thiên, rộng khoảng 10m ở nóc hang, nhưng không thể trèo lên được.".
4. Hang Chà An
Chiều dài: 667m
Chiều cao: 15m
Khảo sát bởi: British Speleological Expedition, 1994
Muốn tới hang Chà An có thể theo đường 20, đến km số 16 rẽ trái theo suối đến cửa hang. Hang này rộng rãi có thể đóng quân, cắm trại. Trong chiến tranh, nơi đây đã được sử dụng để đóng quân và cất giấu lương thực.
A. Jarrant đã mô tả hang Chà An trong Vietnam Cave Report 1994 như sau:
"Chúng tôi phát hiện hang Chà An cách làng Sơn Trạch 16 km, ở phía đầu nguồn của các sông ngầm chảy qua động Phong Nha. Dòng sông chảy lộ thiên khoảng 1 km cho trước khi vào cửa hang. Hang Chà An được khảo sát 700 m cho tới một khe nứt phía trên. Lối cửa vào rộng 15 x 15 m, nhưng phía trong thấp hơn chỉ còn cao 5 m trước khi đến khe nứt.
Phía trên của hang Chà An là Thung Thông. Vượt qua khu rừng kín và qua 100 m phần hang có vách lở tới một chỗ có nhiều cửa ở phần 2 của hang. Có khả năng là chỗ này có nhiều hang nhỏ phân nhánh, nhưng các dòng suối chảy vào hang Chà An chắc chắn là các suối ngầm".
5. Hang Thung
Chiều dài: 3.351 m
Chiều cao: 133 m
Khảo sát bởi: British Speleological Expedition, 1994
Hang Thung được R.Skorupka mô tả trong Vietnam Cave Report 1994 như sau:
"Từ hang Chà An, đi bộ 3 km để tới dòng suối chính của hang Thung. Hang Thung thể hiện sự thay đổi ngoạn mục so với các hệ hang khác. Một phần cửa hang là dòng sông rộng với các hẻm đẹp và cấu trúc gây ấn tượng. Tuy nhiên, không phải chỗ nào cũng rộng 20m, có chỗ chỉ rộng 1m, nên nước chảy siết dữ dội.
Hang Thung dài 3.351, kết thúc ở một khe nứt và 10 km vùng ngập phía ngoài.
Đường vào hang Thung là một vách đá sụp, phía dưới đá sụp có một lối thấp dẫn vào hang. Phía trên bên phải, nhiều cửa vào chụm lại, có một phòng mở rộng gồm nhiều hồ nước lặng. Có một hồ rộng 30m đến một vách đá dốc cao 9m, phía trên có ánh sáng từ trần hang chiếu xuống. Đi lên tiếp một đoạn ngắn có lối đi sáng lờ mờ với vòm đá rất đẹp.
Bơi 70m nữa tới dòng chảy chính, vượt qua một dòng nước đổ dốc xuống 30m. Vượt qua nhiều ghềnh khoảng 500m đến một khối đá sụp lớn, vượt sang trái, rồi lần lượt vượt qua nhiều đường sống trâu dài 30m, sau đó qua 2 "miệng qủy" đến khoảng rộng ở phía phải. Từ đây có nhiều đoạn đá sập nối tiếp các đồng chảy là các phòng. Đường đi với độ dài 1.750 m, liên tiếp có nhiều thác ghềnh và có cả đảo giữa hồ".
6. Hang én
Chiều dài: 1.645 m
Chiều cao: 78,6m
Khảo sát bởi: British Speleological Expedition, 1994
Hang én nằm ở nơi "nước lặn" của suối Rào Thương. Tuyến đi phải vượt qua nhiều suối sâu, nhiều khu rừng rậm nhiệt đới núi đá và núi đất. Vùng này vắng vẻ, có nhiều dấu chân Bò tót, Gấu, Hổ và nhiều cây cổ thụ với bạnh vè cao tới 5-6m.
Cửa hang én rộng. Đầu tiên là một bãi sỏi lớn, sạch sẽ có thể cắm trại. Trên vách núi, vào mùa Thu có nhiều đàn chim én bay lượn rất ngoạn mục.
7. Hang Khe Tiên
Chiều dài: 520 m
Chiều cao: - 15m
Hang Khe Tiên nằm ở cuối suối Tiên (Toum Tiên), quanh hang là một khu rừng già nhiều cây cổ thụ, về phía Nam khu Bảo tồn. Hang chưa được nghiên cứu đầy đủ.
8. Khang Khe Ry
Chiều dài: 13.817m
Chiều cao: 120m (+48, -62m)
Tọa độ địa lý: 635.42 E 1922.87 N
Khảo sát bởi: British Speleological; Expedition, 1997
Hang Khe Ry nằm ở cuối suối Khe Ry. Suối này bắt nguồn từ độ cao 1.300 m, chảy rất mạnh vào hang. Vùng này được rừng nguyên sinh che phủ kín và vắng vẻ. Muốn tới hang Khe Ry phải theo đường 20 tới bản Ban của xã Thượng Trạch, và nhờ người địa phương dẫn đường.
Theo Mô tả của Martin Holroyd:
"Từ đầu nguồn nước chảy vào nhiều cửa khác nhau ở vách núi đá vôi và hợp lại ở hệ thống Khe Ry, rồi nối vào Hang én sau đó lặn xuống để đi vào hệ thống Phong Nha.
Điều thú vị là suối ở đây bắt nguồn trên độ cao 286m và 296 m, còn vùng sinh thủy từ độ cao 1.000 m qua các đứt gẫy 150 m và 250, trước khi chồi lên trên mặt đất và Hang én ở các đứt gẫy cao 110m. Các đứt gẫy lớn của các khối núi tạo ra nhiều cấp mức nước cũng như hình thành nhiều hang và các cửa lặn theo hướng Bắc. Đây là khối núi tương đối rộng không có dòng chảy bề mặt".
Theo con suối cạn 100m sẽ gặp cửa hang Khe Ry. Đường vào hang phải qua nhiều đoạn ngoằn ngoèo với các hồ nước sâu. Vào tiếp 800 m gặp một đoạn nối chữ T có một vài lối dẫn đi các hướng. Đi sâu 600 m nữa gặp lối đi ở phía bên trái đoàn tiếp tục khảo sát thêm 1 km nữa. Sau đoạn chữ T, cảnh trí thay đổi, có nhiều thạch nhũ trên các vách đá và các hướng của đường đi. Đặc biệt từ chỗ nối, hang trở nên rất sống động. Dòng suối chắc chắn là sự khởi đầu của các dòng chảy về phía Đông. Từ đây dòng chảy trên bãi đá cuội, rộng khoảng 40m phía trái có nhiều măng đá chồi lên.
Theo dòng suối 400 m nữa đến một kênh nước sâu thẳm. Theo kênh này tới một phòng rộng 60m có vòm trần hình cung, vách nhẵn. Chúng tôi đoán rằng đây là nơi giữ lại lượng nước của dòng chảy đầu tiên.
Một số đoạn đầu nguồn rất gần với mặt đất với vách đá sụp có dấu hiệu của các đàn dơi sinh sống. Khu vực này rõ ràng là mới được hình thành, chưa có các thạch nhũ trang trí đẹp".
http://i5.tinypic.com/11ilj0p.gif
Tỉnh Quảng Bình nằm ở Bắc Trung Bộ, Việt Nam, với diện tích tự nhiên 8.037,6km2, dân số năm 2001 là 809.619 người.
Vị trí địa lý: Toạ độ địa lý ở phần đất liền là:
Điểm cực Bắc: 18005' 12" vĩ độ Bắc
Điểm cực Nam: 17005' 02" vĩ độ Bắc
Điểm cực Đông: 106059' 37" kinh độ Đông
Điểm cực Tây: 105036' 55" kinh độ Đông
Tỉnh có bờ biển dài 116,04km ở phía Đông và có chung biên giới với Lào 201,87 km ở phía Tây, có Quốc lộ I A và đường Hồ Chí Minh, đường sắt Bắc Nam, quốc lộ 12 và tỉnh lộ 20, 16 chạy từ Đông sang Tây qua cửa khẩu Quốc tế Cha Lo và một số cửa khẩu phụ khác nối liền với Nước CHDCND Lào.
Địa hình: Địa hình Quảng Bình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông. 85% tổng diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích được chia thành vùng sinh thái cơ bản: Vùng núi cao, vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven biển.
Khí hậu: Quảng Bình nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác động bởi khí hậu của phía Bắc và phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt:
Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm 2.000 - 2.300mm/năm. Thời gian mưa tập trung vào các tháng 9, 10 và 11.
Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24oC - 25oC. Ba tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, 7 và 8.
Tài nguyên đất: Tài nguyên đất được chia thành hai hệ chính: Đất phù sa ở vùng đồng bằng và hệ pheralit ở vùng đồi và núi với 15 loại và các nhóm chính như sau: nhóm đất cát, đất phù sa và nhóm đất đỏ vàng. Trong đó nhóm đất đỏ vàng chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên, chủ yếu ở địa hình đồi núi phía Tây, đất cát chiếm 5,9% và đất phù sa chiếm 2,8% diện tích.
Tài nguyên động, thực vật: Quảng Bình nằm trong khu vực đa dạng sinh học Bắc Trường Sơn - nơi có khu hệ thực vật, động vật đa dạng, độc đáo với nhiều nguồn gen quý hiếm. Đặc trưng cho đa dạng sinh học ở Quảng Bình là vùng Karst Phong Nha - Kẻ Bàng.
Về động vật có: 493 loài, 67 loài thú, 48 loài bò sát, 297 loài chim, 61 loài cá... có nhiều loài quý hiếm như Voọc Hà Tĩnh, Gấu, Hổ, Sao La, Mang Lớn, Gà Lôi lam đuôi trắng, Gà Lôi lam mào đen, Trĩ...
Về đa dạng thực vật: Với diện tích rừng 486.688ha, trong đó rừng tự nhiên 447.837ha, rừng trồng 38.851ha, trong đó có 17.397ha rừng thông, diện tích không có rừng 146.386ha. Thực vật ở Quảng Bình đa dạng về giống loài: có 138 họ, 401 chi, 640 loài khác nhau. Rừng Quảng Bình có nhiều loại gỗ quý như lim, gụ, mun, huỵnh, thông và nhiều loại mây tre, lâm sản quý khác. Quảng Bình là một trong những tỉnh có trữ lượng gỗ cao trong toàn quốc. Hiện nay trữ lượng gỗ là 31triệu m3.
************************************************** ***********
VĂN HOÁ & TIỀM NĂNG DU LỊCH
Dãi đất Quảng Bình như một bức tranh hoành tráng, có rừng, có biển với nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, thắng cảnh nổi tiếng: đèo Ngang, đèo Lý Hoà, cửa biển Nhật Lệ, khu di sản thiên nhiên Phong Nha - Kẻ Bàng.
Quảng Bình là vùng đất văn vật, có di chỉ văn hoá Bàu Tró, các di chỉ thuộc nền văn hoá Hoà Bình và Đông Sơn, nhiều di tích lịch sử như: Quảng Bình Quan, Luỹ Thầy, Rào Sen, Thành Nhà Ngo, thành quách của thời Trịnh - Nguyễn, nhiều địa danh nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc như Cự Nẫm, Cảnh Dương, Cha Lo, Cổng Trời, Xuân Sơn, Long Đại, đường Hồ Chí Minh v.v...
Trong quá trình lịch sử, đã hình thành nhiều làng văn hoá nổi tiếng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác như “Bát danh hương”: “Sơn- Hà- Cảnh - Thổ- Văn- Võ- Cổ - Kim”. Nhiều danh nhân tiền bối học rộng, đỗ cao và nổi tiếng xưa và nay trên nhiều lĩnh vực quân sự, văn hoă - xã hội như Dương Văn An, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Hàm Ninh, Hoàng Kế Viêm, Võ Nguyên Giáp...
************************************************** *******
PHONG NHA- KẺ BÀNG
Phong Nha - Kẻ Bàng là vùng Karst trẻ rộng lớn (khoảng 200.000 ha) và điển hình không chỉ của Việt Nam mà còn của cả thế giới, là một mẫu điển hình của quá trình địa chất về thể loại Karst và hình thành hang động đang diễn biến có giá trị toàn cầu không chỉ ở lĩnh vực đa dạng sinh học mà còn là một khu vực thắng cảnh hang động bậc nhất thế giới.
Vùng Phong Nha - Kẻ Bàng và phụ cận được giới hạn trong tọa độ 17022' - 17050' vĩ độ Bắc và 105045' - 106024' kinh độ Đông, bao gồm lãnh thổ một phần các huyện Quảng Ninh, Bố Trạch, Tuyên Hóa và Minh Hóa trải rộng từ biển tới biên giới Việt - Lào.
Có thể nói, đây là vùng có lịch sử phát triển địa chất phức tạp và lâu dài từ Cambi đến ngày nay. Trải qua các kỳ vỹ kiến tạo quan trọng và các pha chuyển động đứt gãy, phối tảng và uốn nếp đã liên tục tạo ra các dãy núi trùng điệp do chuyển động nâng cao và các bồn trầm tích do chuyển động sụt lún, đóng vai trò như nguyên nhân của mọi nguyên nhân để tạo ra tính đa dạng về địa chất, địa hình - địa mạo, mạng lưới thủy văn và tính đa dạng, kỳ thú về hang động du lịch đối với các thành hệ đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng phát triển từ Đevon đến Cacsbon - Trecmi.
Sông Son có sắc đỏ của đất phong hóa Terrarossa bắt nguồn từ vùng đá vôi hòa vào sông Nan và rào Đẩy. Tính đa dạng và độc đáo của địa chất, địa hình, địa mạo là điều kiện tiên quyết để kéo theo những tính độc đáo khác nữa đó là tính đa dạng sinh học, những cảnh quan đẹp và bí hiểm, những cảnh rừng hoang sơ như những khu bảo tàng thiên nhiên đầy bí mật được ít người biết đến. Giá trị khu động Phong Nha (trong vùng Karst Kẻ Bàng) là một tập hợp sinh cảnh cực kỳ quan trọng cho việc bảo tồn đa dạng sinh học, tiềm chứa nhiều nguồn gen quý hiếm, trong đó có những loài có giá trị toàn cầu như Sao la, Mang lớn...
Ngoài sinh cảnh thảm rừng và động vật hoang dã,
vùng Karst này chứa đựng trong lòng nó cả một hệ thống trên 300 hang động lớn nhỏ được mệnh danh là "vương quốc hang động", đang tiềm ẩn trong nó nhiều điều kỳ lạ và hấp dẫn các nhà thám hiểm, các nhà khoa học và du khách. Khu động Phong Nha còn là nơi đã từng tồn tại và đang hiện diện cả một hệ di tích lịch sử văn hóa có giá trị cho nhiều thời đại như các di tích khảo cổ học tiền sử, di tích văn hóa Chàm, di tích các trọng điểm trong chiến tranh.
Đặc biệt, trong hệ thống các giá trị của khu vực Karst này, hệ thống động Phong Nha đã được Hội nghiên cứu hang động Hoàng gia Anh (BCRA) đánh giá là hang động có giá trị hàng đầu thế giới với 4 điểm nhất: Có các sông ngầm dài nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, có những bơ cát rộng và đẹp nhất, có những thạch nhũ đẹp nhất. Hội nghị lần thứ 27 của Ủy ban Di sản Thế giới họp tại Paris tháng 7-2003 đã công nhận Phong Nha-Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới.
A. Hệ thống hang Phong Nha
http://i6.tinypic.com/11imqyv.jpg
http://i6.tinypic.com/11imtyc.jpg
http://i5.tinypic.com/11imw7n.jpg
1. Hang Phong Nha
Chiều dài: 7.729 m
Chiều cao: + 78m - 5m.
Khảo sát bởi: British Speleologica Expedition, 1990 và 1992.
Đây là hang động duy nhất đã được tổ chức tham quan du lịch. Hoạt động du lịch đã diễn ra vào hai thời kỳ: Thời kỳ 1920 đến 1945; thời kỳ từ 1990 đến nay.
Vào thời nhà Mạc giữa thế kỷ XVI, tác giả sách "Ô châu cận lục" (Lưu trữ thư viện quốc gia) cho rằng động Phong Nha còn đẹp hơn cả động Đào Nguyên trong truyền thuyết dân gian. Về cảnh quan có lẽ tác giả là người đầu tiên phác họa mấy nét hoang sơ về thảm thực vật của vùng này cách đây gần 500 năm.
Từ 1920 - 1930, Phủ Toàn quyền Đông Dương bắt đầu tổ chức du lịch do tổ chức Du lịch thuộc địa tại Đông Dương thực hiện (Tourist Colonal en Indochine), đứng đầu là Tổng ủy viên Philippe Eberhard. Cơ quan này đã làm một số tờ gấp giới thiệu du lịch Phong Nha. Khi đó đã có một nhà khách gần cửa động. Một tư liệu khác của người Pháp mô tả trong hang có điện thờ của người Chăm vào thế kỷ IX và X tương đương với thời kỳ văn hóa Đồng Dương ở Quảng Nam (Indrapura). Trong nhánh động cách chỗ rẽ 200 m có bàn thờ của người Chăm đặt giữa 2 cột thạch nhũ. Trên vách có gần 100 mảng chữ của người Chiêm Thành. Xung quanh bệ thờ có nhiều bệ tượng. Dưới đất có nhiều phế tích của các tượng kỳ dị.
Trong thời gian chiến tranh, hang này thường được sử dụng làm nơi trú ẩn của các thuyền bè. Qua 1,6 km đoạn đầu êm ả với con sông ngầm, sẽ tới một phòng lớn rất đẹp, gọi là phòng của Cụ Hồ. Tiếp đó là đoạn sông ngầm với dòng chảy mạnh có nhiều ghềnh. Sau đó là 6 km dòng sông chảy dữ dội, đáy gồ ghề với nhiều đá và sỏi.
Hang Phong Nha rất kỳ diệu, 1,5 km đoạn đầu đi được bằng thuyền độc mộc hoặc thuyền cao su, có thể đi bộ từng đoạn trên các sống trâu dọc vách hang. Ngoài ra không có lối đi nào khác. Từ cửa vào 700 m về phía tay phải là một bãi cát rất rộng. Đổ bộ lên đây ta có thể trèo dốc vào một nhánh hầm hình ống rộng 10m. Phía đầu dốc là những cột đá trang trí cho lối đi. Tiếp tục trèo lên vách đá qua 6 m, phải bò và tụt xuống một lối đi có nhiều măng đá. Đi tiếp theo dòng sông, qua bãi đá cuội dài 1,5 km, sau đó dời thuyền, trèo lên một vách đá vào một phòng rộng lớn khác. Sau khi khảo sát vách đá bên phải trèo sang phía bên kia của một khe hẹp, rồi lại vào một dòng suối. Từ một căn phòng đá lớn rộng 90 m có nhiều ngách cụt tỏa ta. Từ đỉnh dốc tụt xuống phải dùng dây leo. Tới một đoạn đường ngắn thứ 3, dẫn tới đầu nguồn con suối rồi tiếp tục khảo sát bằng một đường khác. Từ vách đá đó, phải bơi một đoạn 300 m để đến một lối khác dẫn đến dòng chảy chính của sông.
Dòng chảy tương đối mạnh có thể gây trở ngại cho việc bơi thuyền. Đoạn tiếp theo vượt qua tương đối dễ bằng cách đi men theo vách hang vài trăm mét. Sau đó có thể rời thuyền đi bộ khoảng 100 m bên phía tay phải. ở đó ta có thể đi trên bãi cát khô, hoặc trên các đường sống trâu, hay có thể tiếp tục đi bằng thuyền. Đường sống trâu rộng 8-10m, cao 10, dài khoảng 100m. Tiếp tục đi qua một đoạn tương đối khó bơi với những vách đá và đôi chỗ có đá tảng lớn dẫn đến dòng suối chảy nhanh và những khe hẹp. Đó là những đoạn khe ngắn rất khó đi. Nhưng nếu trở lại dòng suối, qua một lối mở rộng bên trái tại điểm đầu tiên thì có thể ra khỏi dòng sông, độ dài ước tính chỉ khoảng 1 km".
2. Hang Tối
Chiều dài: 5.258m
Chiều cao: + 83m
Khảo sát bởi: British Speleological Expedition, 1990, 1992, 1993.
Từ hang Phong Nha quay trở lại dòng chính, tiếp tục bơi thuyền lên phía đầu sông Chày khoảng 2 km là tới hang Tối. Dòng nước trong xanh tưởng như ở đây không biết gì đến ô nhiễm đang diễn ra trên khắp trái đất. Hang Tối nằm gần trạm bảo vệ Trộ Mợng của khu Bảo tồn thiên nhiên. Hai bờ sông ngoài cửa hang vách đá dựng đứng với rừng cây bao phủ. Đàn Voọc gáy trắng cứ 2 hay 3 ngày lại trở về ngủ trên vách đá.
Hang Tối đã được H.Limbert mô tả trong Vietnam Cave Report 1990 như sau:
"... Có thể dùng thuyền máy theo dòng sông Son tới nhánh thứ hai bên trái, đó là Sông Chày. Ngược dòng 1 km, rẽ vào một hẻm bên trái, đó là lối vào hang. Cửa hang rộng 20 m cao 30m. Vượt qua khoảng 30 x 20 m, rồi đi bộ và bơi một vài đoạn ngắn qua một vài hồ nhỏ. Bên trong có rất nhiều lối đi ở trên bờ và 800 m đi dưới chân vách đá cao. Qua đoạn sống trâu cao 50 m dẫn đến một phòng rộng 500 m. Cuối phòng có một đường sống trâu ngắn dẫn đến một lối đi rộng, leo qua một vách đá lớn để đến dòng suối. Từ bên phải căn phòng tụt xuống một hành lang ta có một con suối với lối đi rộng 20m có rất nhiều măng đá tròn dẫn tới lối trèo xuống dòng sông khoảng 25m.
Dòng suối nhiều chỗ rộng hơn 50m. Thoạt đầu nước suối chảy qua bờ đá, vượt quan 200 m qua các gờ và hốc đá sắc nhọn sẽ đến chỗ đi dễ dàng trên sỏi và nền đất.
Tiếp đó phải vượt qua một số hồ. Hồ đầu tiên dài 120m. Các hồ này tách nhau bởi các gờ đá nhỏ. Vượt qua 500 m hồ, dẫn đến một dòng suối. ở đây thấy rất nhiều cá, côn trùng và mảnh vụn do các dòng lũ mang đến. Con suối có một đoạn ngắn chảy trên mặt đất qua một khu rừng rậm. Từ cửa ra này lại dẫn đến một cửa vào hang khác. Qua chuyến đi này, chúng tôi có nhận xét rằng. Mực nước của các dòng chảy và các hồ có liến quan đến sự hoạt động của thủy triều ở biển, mực nước có thể lên xuống tới 1m. Khi nước xuống thấp, một vài chỗ của Hang Tối trở nên lầy lội
http://i5.tinypic.com/11inz20.jpg
http://i5.tinypic.com/11io1p5.jpg
http://i5.tinypic.com/11io51s.jpg
http://i5.tinypic.com/11io5lk.jpg
3. Hang E
Chiều dài: 736 m Chiều cao 0m
Tọa độ địa lý: 635.0E 1940.1N
Khảo sát bởi: British Speleological Expedition, 1994
Hang E nằm ở phía Đông của Động Phong Nha. Để đến được hang E có 2 đường, một đường qua hang Tối, đi dọc sông Chày tới Eo Gió. Eo Gió có gió thổi suốt ngày. Qua Eo Gió đến đoạn vượt Sông Chày, theo đường mòn Hồ Chí Minh đến đoạn rẽ sang Đường 20 sẽ tới một thung lũng hẹp. Đó là cửa Hang E.
Hang E đã được D. Limbert mô tả trong Vietnam Cave Report 1994 như sau:
"ở phía Đông Phong Nha là Hang E và Hang Tối, chắc chắn rằng dòng chảy từ hai hang này về hang Phong Nha.
Hang E thoạt đầu có lối vào dễ với những đoạn bơi ngắn và vài lối đi dọc hang dài 800 m, dẫn đến một bờ đá dốc rộng chừng 50m, đến một phòng rộng rất đẹp có chu vi 500 m. Xuống khỏi vách phòng lại tới suối. Đoạn suối này rộng dần ra tới 50 m, rồi đến một loạt hồ nước rộng tới 120m. Sau khi bơi 500 m trên dòng suối sẽ tới cửa ra. ở đây còn thấy vết tích của nhiều mảnh bom trong thời kỳ chiến tranh.
Năm 1992, đã khảo sát phòng hang rộng 700 m, gần đoạn nối với dòng chảy chính. Một ngách hang khác được khảo sát nhưng không có kết quả. Do thời gian có hạn, cần một cuộc thám sát nhanh để xác định điểm đầu nguồn của dòng chảy. Điểm đó được xác định khoảng 800 m ở giữa rừng rậm.
Năm 1994, đội thám sát Hang E được thành lập lại và đã khảo sát thêm 736m. Đoạn đó phải bơi toàn bộ, trừ một chỗ bằng được nghỉ. Hang E cuối cùng thông lên một kẻ nứt lộ thiên, rộng khoảng 10m ở nóc hang, nhưng không thể trèo lên được.".
4. Hang Chà An
Chiều dài: 667m
Chiều cao: 15m
Khảo sát bởi: British Speleological Expedition, 1994
Muốn tới hang Chà An có thể theo đường 20, đến km số 16 rẽ trái theo suối đến cửa hang. Hang này rộng rãi có thể đóng quân, cắm trại. Trong chiến tranh, nơi đây đã được sử dụng để đóng quân và cất giấu lương thực.
A. Jarrant đã mô tả hang Chà An trong Vietnam Cave Report 1994 như sau:
"Chúng tôi phát hiện hang Chà An cách làng Sơn Trạch 16 km, ở phía đầu nguồn của các sông ngầm chảy qua động Phong Nha. Dòng sông chảy lộ thiên khoảng 1 km cho trước khi vào cửa hang. Hang Chà An được khảo sát 700 m cho tới một khe nứt phía trên. Lối cửa vào rộng 15 x 15 m, nhưng phía trong thấp hơn chỉ còn cao 5 m trước khi đến khe nứt.
Phía trên của hang Chà An là Thung Thông. Vượt qua khu rừng kín và qua 100 m phần hang có vách lở tới một chỗ có nhiều cửa ở phần 2 của hang. Có khả năng là chỗ này có nhiều hang nhỏ phân nhánh, nhưng các dòng suối chảy vào hang Chà An chắc chắn là các suối ngầm".
5. Hang Thung
Chiều dài: 3.351 m
Chiều cao: 133 m
Khảo sát bởi: British Speleological Expedition, 1994
Hang Thung được R.Skorupka mô tả trong Vietnam Cave Report 1994 như sau:
"Từ hang Chà An, đi bộ 3 km để tới dòng suối chính của hang Thung. Hang Thung thể hiện sự thay đổi ngoạn mục so với các hệ hang khác. Một phần cửa hang là dòng sông rộng với các hẻm đẹp và cấu trúc gây ấn tượng. Tuy nhiên, không phải chỗ nào cũng rộng 20m, có chỗ chỉ rộng 1m, nên nước chảy siết dữ dội.
Hang Thung dài 3.351, kết thúc ở một khe nứt và 10 km vùng ngập phía ngoài.
Đường vào hang Thung là một vách đá sụp, phía dưới đá sụp có một lối thấp dẫn vào hang. Phía trên bên phải, nhiều cửa vào chụm lại, có một phòng mở rộng gồm nhiều hồ nước lặng. Có một hồ rộng 30m đến một vách đá dốc cao 9m, phía trên có ánh sáng từ trần hang chiếu xuống. Đi lên tiếp một đoạn ngắn có lối đi sáng lờ mờ với vòm đá rất đẹp.
Bơi 70m nữa tới dòng chảy chính, vượt qua một dòng nước đổ dốc xuống 30m. Vượt qua nhiều ghềnh khoảng 500m đến một khối đá sụp lớn, vượt sang trái, rồi lần lượt vượt qua nhiều đường sống trâu dài 30m, sau đó qua 2 "miệng qủy" đến khoảng rộng ở phía phải. Từ đây có nhiều đoạn đá sập nối tiếp các đồng chảy là các phòng. Đường đi với độ dài 1.750 m, liên tiếp có nhiều thác ghềnh và có cả đảo giữa hồ".
6. Hang én
Chiều dài: 1.645 m
Chiều cao: 78,6m
Khảo sát bởi: British Speleological Expedition, 1994
Hang én nằm ở nơi "nước lặn" của suối Rào Thương. Tuyến đi phải vượt qua nhiều suối sâu, nhiều khu rừng rậm nhiệt đới núi đá và núi đất. Vùng này vắng vẻ, có nhiều dấu chân Bò tót, Gấu, Hổ và nhiều cây cổ thụ với bạnh vè cao tới 5-6m.
Cửa hang én rộng. Đầu tiên là một bãi sỏi lớn, sạch sẽ có thể cắm trại. Trên vách núi, vào mùa Thu có nhiều đàn chim én bay lượn rất ngoạn mục.
7. Hang Khe Tiên
Chiều dài: 520 m
Chiều cao: - 15m
Hang Khe Tiên nằm ở cuối suối Tiên (Toum Tiên), quanh hang là một khu rừng già nhiều cây cổ thụ, về phía Nam khu Bảo tồn. Hang chưa được nghiên cứu đầy đủ.
8. Khang Khe Ry
Chiều dài: 13.817m
Chiều cao: 120m (+48, -62m)
Tọa độ địa lý: 635.42 E 1922.87 N
Khảo sát bởi: British Speleological; Expedition, 1997
Hang Khe Ry nằm ở cuối suối Khe Ry. Suối này bắt nguồn từ độ cao 1.300 m, chảy rất mạnh vào hang. Vùng này được rừng nguyên sinh che phủ kín và vắng vẻ. Muốn tới hang Khe Ry phải theo đường 20 tới bản Ban của xã Thượng Trạch, và nhờ người địa phương dẫn đường.
Theo Mô tả của Martin Holroyd:
"Từ đầu nguồn nước chảy vào nhiều cửa khác nhau ở vách núi đá vôi và hợp lại ở hệ thống Khe Ry, rồi nối vào Hang én sau đó lặn xuống để đi vào hệ thống Phong Nha.
Điều thú vị là suối ở đây bắt nguồn trên độ cao 286m và 296 m, còn vùng sinh thủy từ độ cao 1.000 m qua các đứt gẫy 150 m và 250, trước khi chồi lên trên mặt đất và Hang én ở các đứt gẫy cao 110m. Các đứt gẫy lớn của các khối núi tạo ra nhiều cấp mức nước cũng như hình thành nhiều hang và các cửa lặn theo hướng Bắc. Đây là khối núi tương đối rộng không có dòng chảy bề mặt".
Theo con suối cạn 100m sẽ gặp cửa hang Khe Ry. Đường vào hang phải qua nhiều đoạn ngoằn ngoèo với các hồ nước sâu. Vào tiếp 800 m gặp một đoạn nối chữ T có một vài lối dẫn đi các hướng. Đi sâu 600 m nữa gặp lối đi ở phía bên trái đoàn tiếp tục khảo sát thêm 1 km nữa. Sau đoạn chữ T, cảnh trí thay đổi, có nhiều thạch nhũ trên các vách đá và các hướng của đường đi. Đặc biệt từ chỗ nối, hang trở nên rất sống động. Dòng suối chắc chắn là sự khởi đầu của các dòng chảy về phía Đông. Từ đây dòng chảy trên bãi đá cuội, rộng khoảng 40m phía trái có nhiều măng đá chồi lên.
Theo dòng suối 400 m nữa đến một kênh nước sâu thẳm. Theo kênh này tới một phòng rộng 60m có vòm trần hình cung, vách nhẵn. Chúng tôi đoán rằng đây là nơi giữ lại lượng nước của dòng chảy đầu tiên.
Một số đoạn đầu nguồn rất gần với mặt đất với vách đá sụp có dấu hiệu của các đàn dơi sinh sống. Khu vực này rõ ràng là mới được hình thành, chưa có các thạch nhũ trang trí đẹp".