Cô Gái Hà Tĩnh
20-05-2006, 04:29 AM
http://www.birdlifeindochina.org/source_book/source_book/pro_maps/land_maps/ha_tinh.gif
http://www.mande.co.uk/htpap/vietnam2.gif
Dân số: 1268968 người Số nam: 621398 người Số nữ: 647570 người
Hà Tĩnh là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Phần đất liền nằm trong giới hạn 17o54’ - 18o50’ vĩ độ Bắc và 103o48’ - 108o00’ kinh độ đông, phía bắc giáp Nghệ An, phía nam giáp Quảng Bình, phía tây giáp nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trên chiều dài biên giới 145 km, phía đông giáp biển 137 km. Thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, Hà Tĩnh thuộc bộ Việt Thường. Tỉnh Hà Tĩnh được thành lập năm 1831 và tỉnh lỵ hiện nay là thị xã Hà Tĩnh, cách Hà Nội 340 km. Nghệ An nằm ở đông dãy Trường Sơn với địa hình hẹp, dốc và nghiêng từ tây sang đông. Phía tây tỉnh là những dãy núi cao trên dưới 1500 m, cao nhất là đỉnh Rào Cọ 2235m, tiếp đến là vùng đồi bát úp ; tiếp nữa là những dải đồng bằng nhỏ hẹp chạy ra biển ; sau cùng là những bãi cát ven biển cùng với nhiều vũng, vịnh và bãi tắm đẹp, tiêu biểu là cảng biển nước sâu Vũng áng và bãi biển Thiên Cầm. Hà Tĩnh có tài nguyên biển và rừng tương đối phong phú. Biển Hà Tĩnh có trữ lượng 85,8 nghìn tấn cá, 3,5 nghìn tấn mực và 600 tấn tôm. Hà Tĩnh có khu vườn quốc gia Vũ Quanhg rộng 56 nghìn ha với 307 loài thực vật bậc cao thuộc 236 chi và 99 họ, 60 loài thú, 187 loài chim, 38 loài bò sát, 26 loài lưỡng cư và 56 loài cá. Đặc biệt, ở rừng Vũ Quang đã phát hiện ra sao la và mang lớn là hai loại thú quý hiếm chưa có tên trong danh mục thú của thế giới. Trên địa bàn Hà Tĩnh có nhiều sông lớn chảy qua, lớn nhất là sông La và các sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Ngàn Tươi, Rào Cái... với tổng chiều dài 400 km. Núi Hồng Lĩnh với 99 ngọn cùng sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu và sông La từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ thi nhân, nhạc sĩ và cũng là cái nền làm nên giai điệu dân ca sâu lắng. Núi Hồng Lĩnh là một trong số ít các địa danh được khắc vào Bách khoa thư cửu đỉnh hiện đang đặt tại cố đô Huế. Những tên núi, tên sông Hà Tĩnh không chỉ là cảnh đẹp thiên nhiên kỳ vĩ mà còn là nơi tích tụ nguyên khí, sản sinh ra các bậc hiền tại. Phía đông Hồng Lĩnh là làng Tiên Điên của đại thi hào dân tộc, nhà văn hoá lớn thế giới Nguyễn Du, tác giả của 3254 câu thơ trong kiệt tác Truyện Kiều. Hà Tĩnh còn là quê hương của thầy địa lý Tả Ao nổi tiếng đời Lê ; quê hương của Nguyễn Biểu, nhà ngoại giao trí dũng song toàn thời Trần và là tác giả bài thơ ăn cỗ đầu người bất hủ viết năm 1413 trong chuyến đi sứ phương bắc ; quê hương chủa đại doanh điền Nguyễn Công Trứ, của hai vị tướng Đặng Tất và Đặng Dung, của nhà yêu nước Phan Đình Phùng thời kỳ chống Pháp, của nhà cách mạng Trần Phú và Hà Huy Tập. Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên 6055,7 km2 và dân số năm 2001 ước tính 1284,9 nghìn người với mật độ dân số 212,2 người/km2, bằng 8,8% mật độ dân số bình quân của cả nước. Trên địa bàn Hà Tĩnh có trên 20 dân tộc anh em cùng sinh sống, nhưng chủ yếu là người Kinh ; các dân tộc khác, mỗi dân tộc chỉ có vài trăm hoặc vài chục người. Hiện nay, Hà Tĩnh có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm thị xã Hà Tĩnh, thị xã Hồng Lĩnh và 9 huyện là : Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương Sơn, Vũ Quang, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Hương Khê và Kỳ Anh với 259 xã, phường và thị trấn
Hà Tĩnh là một tỉnh có dân số chủ yếu là người Việt (Kinh), vì vậy tỉnh Hà Tĩnh mang đậm sắc thái văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc này. Từ thời Hùng Vương, Hà Tĩnh đã là một trung tâm của nền văn minh Đông Sơn, là đất nhân vật nổi tiếng thời Lê - Nguyễn. Đặc biệt người Hà Tĩnh có truyền thống hiếu học. Hà Tĩnh là quê hương và nơi sinh sống của nhiều bậc danh nhân như đại thi hào Nguyễn Du, nhà thơ và nhà kinh tế Nguyễn Công Trứ, nhà sử học nổi tiếng Phan Huy Chú...
Vùng quê Hà Tĩnh lưu giữ được kho tàng văn hóa dân gian độc đáo và phong phú vào bậc nhất nước ta. Hàng ngàn câu hát dân ca, hát ví, hát dặm, là những cống hiến đặc sắc của vùng đất này vào kho tàng văn hóa Việt Nam. Truyền thống văn hóa còn được thể hiện ở hàng chục lễ hội truyền thống tổ chức hàng năm ở Hà Tĩnh. Có thể nêu một số lễ hội:
Lễ chùa Hương Tích: Lễ hội được tổ chức tại chùa Hương Tích thuộc xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc. Chùa thờ Phật và con gái vua Sở Trang Vương. Hàng năm cứ đến ngày 19/2 âm lịch, nhân dân ở khắp mọi nơi đến hội chùa cúng Phật, cầu yên và thăm cảnh đẹp của chùa. Lễ hội được tổ chức rất trang nghiêm.
Hội Chiêu Trưng: Lễ hội được tổ chức tại đền Chiêu Trưng, xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà. Lễ hội diễn ra từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 5 âm lịch hàng năm. Trong các ngày lễ hội, nhân dân đến dâng hương và lễ vật để tưởng niệm ngày mất của Chiêu Trưng Đại Vương Lê Khôi. Lễ hội nhằm mục đích tưởng nhớ công lao của vị anh hùng Lê Khôi có công với đất nước.
Lễ hạ thủy: Lễ hội được tổ chức tại bãi biển xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên. Cứ sau tết Nguyên Đán, nhân dân trong vùng tổ chức lễ hạ thủy, cầu thần biển giúp cho ngư dân thuận buồm xuôi gió và hứa hẹn một mùa đánh bắt được nhiều tôm cá.
Lễ đền Bích Châu (đền Bà Hải): Lễ được tổ chức tại đền thờ chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu, thuộc xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh. Cứ đến ngày 11 tháng 2 âm lịch hàng năm, nhân dân đến đây dâng hương và lễ vật để tưởng nhớ công lao của cung phi Bích Châu (thời Trần Duệ Tông)- một người phụ nữ Việt Nam tài sắc vẹn toàn, có công lớn với quê hương.
Hội đua thuyền: Hội được tổ chức tại Trung Lương thuộc thị xã Hồng Lĩnh vào ngày 4 tết âm lịch và các ngày lễ lớn trong năm. Ngoài ra hội còn được tổ chức ở Cẩm Nhượng, Cẩm Xuyên vào các ngày lễ lớn. Hội đua thuyền được tổ chức nhằm chọn ra những tay đua cừ khôi và rèn luyện sức khỏe cho dân vùng sông nước; đồng thời là truyền thống của nhân dân địa phương để cầu yên xóm làng.
Lễ Xuân Điển: Lễ hội diễn ra tại làng Phan Xá, Lợi Xá, xã Ích Mậu, huyện Can Lộc. Lễ hội tưởng nhớ thần Tam Lang có công giúp quân Đại Việt đánh thắng giặc ngoại xâm. Lễ hội được tổ chức từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 1 âm lịch rất trọng thể với nghi thức quốc lễ. Lễ hội có hát tụng thần, có hát chèo, tuồng, thi nấu cơm. Ba năm một lần làng có tổ chức bơi thuyền rồng, rước thần trên kênh trước đền.
Di tích lịch sử
Chùa Chân Tiên: Chùa nằm trên núi Tiên An, sát bờ biển thuộc địa phận xã Thịnh Lộc, huyện Can Lộc. Chùa được được xây dựng vào đời nhà Trần (thế kỷ 13), thờ Phật Tổ và Thánh Mẫu. Chùa thờ Phật có diện tích 50,2 m2, kiến trúc theo kiểu tứ trụ gồm 3 gian lợp ngói âm dương, 4 cột xây, tường bao 3 phía. Hai bên hiên chùa có tượng quan văn, quan võ. Trong chùa có nhiều câu đối cổ. Chùa thờ Thánh Mẫu còn gọi là "Điện Thánh Mẫu" gồm thượng điện, kiệu Long đình, bái đường có diện tích 56 m2. Cửa thượng điện có đề 4 chữ Hán "Thiên Hạ Mẫu Nghi" và hình con phượng đang giang cánh bay lên. Kiệu Long đình là nơi đặt đồ tế lễ, bốn đầu đao trên mái kiệu có 8 hình rồng. Trong kiệu có 8 con hạc chầu. Chùa Chân Tiên hiện còn lưu giữ 14 tượng Phật làm bằng gỗ mít, một bàn thờ, một lư hương, một hương án, một trống, mõ.
Chùa Tượng Sơn: Chùa được xây dựng từ thời Hậu Lê (đầu thế kỷ 18) ở làng Yên Hạ, xã Sơn Giang, huyện Hương Sơn. Chùa do thân mẫu của đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác sáng lập. Chùa tọa lạc giữa một khu đất bằng phẳng bốn phía có núi sông, khe suối, làng mạc, ruộng đồng bao bọc. Phía măït chùa là dòng sông Ngàn Phố, sau lưng là ngọn núi Voi đứng sừng sững, có khe suối chảy quanh năm tạo âm thanh rộn rã nơi cửa thiền tĩnh mịch. Vì vậy mà chùa có tên gọi là Tượng Sơn tự hay còn gọi là chùa Ầm Ầm.
Chùa Tượng Sơn có 3 ngôi là chùa Thượng, chùa Hạ và nhà Tổ. Chùa Thượng chính điện thờ Phật Thích Ca, bên tả thờ ông bà Tham Đốc Quận Công (ông bà ngoại của danh y Lê Hữu Trác) và bà Bùi Thị Thưởng (thân mẫu của danh y); bên hữu thờ tổ tiên họ Lê Hữu. Chùa Hạ là một lầu chuông 8 mái được chạm trổ tinh xảo theo hoa văn kiểu tứ linh, tầng trên để gác chuông, tầng dưới làm nơi lễ bái. Sát cạnh chùa Thượng là nhà Tổ, thờ tượng Tổ Đạt Ma, Lịch Đại Tổ Sư. Chùa Tượng Sơn tuy nhỏ nhưng là một ngôi chùa cổ, một di tích lịch gắn liền với đại danh y Lê Hữu Trác. Chùa có nhiều pho tượng Phật có giá trị nghệ thuật với nhiều dáng vẻ độc đáo, đặc biệt là pho tượng Bồ Tát Chuẩn Đề 18 tay. Chùa Tượng Sơn đồng thời cũng là một danh lam, được nhiều khách thập phương thăm vãn cảnh, chiêm ngưỡng.
Đền Thái Yên: Đền Thái Yên được xây dựng năm 1741, thờ Thành Hoàng - ông tổ của làng mộc Thái Yên. Đây là một ngôi đền cổ kính rất đẹp, được xây dựng trên khoảng đất rộng chừng 5.000 m2. Đền có cấu trúc theo lối tam tòa: thượng điện, trung điện, hạ điện. Toàn bộ kiến trúc ngôi đền chứng tỏ đây là một bảo tàng cổ vật về điêu khắc gỗ lâu đời và quý giá của bao lớp thợ Thái Yên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
Đền Cả: Đền Cả còn có tên là đền Lớn hoặc Tam tòa Đại Vương thuộc xã Ích Hậu, huyện Can Lộc. Đền thờ 3 vị: Lý Nhật Quang (hoàng tử thứ 8 của vua Lý Thái Tổ), Lý Đạo Thành và Lý Thế Giai (là 2 vương hầu của nhà Lý). Ba ông này đã có công hướng dẫn nhân dân vùng tây nam Hồng Lĩnh khai lập nên mọât số làng Kẻ Nhật. Về sau đền còn thờ 2 vị công thần nhà Trần tiếp tục công việc của 3 ông họ Lý là Trần Quang Khải và Trần Khánh Dư.
Đền Củi: Đền Củi (Linh Từ Thánh Mẫu) thờ Liễu Hạnh công chúa, sau này hợp tự còn thờ thêm thánh Trần. Đền nằm trên một ngọn đồi cạnh bờ sông Lam thuộc xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân. Đền được xây dựng từ thế kỷ 18 dưới thời Lê Cảnh Hưng, đến nay đã được trùng tu nhiều lần. Đền có 3 toà: thượng điện, trung điện, hạ điện. Đây là một ngôi đền Mẫu đẹp và rất thiên. Hàng năm có hàng vạn lượt khách thập phương về đây đi lễ.
Đền thờ Đặng Tất, Đặng Dung: Đền thờ thuộc xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, thờ Đặng Tất và Đặng Dung là hai vị tướng lĩnh quan trọng và có công lao lớn trong cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược. Triều đại nhà Lê phong cho hai ông là tiết nghĩa trung thần. Cấu trúc đền thờ gồm hai tòa nhà và nhà dâng hương.
Miếu Biên Sơn: Miếu Biên Sơn được xây dựng thời nhà Lê ở huyện Can Lộc, thờ nữ tướng Phan Thị Sơn. Nữ tướng là người có công tham gia khởi nghĩa chống bọn phong kiến nhà Minh và lập chiến công hiển hách. Chiến công của bà được vua thời Hậu Lê (thế kỷ 16) và vua Tự Đức (thế kỷ 19) phong cho đạo sắc thượng đẳng linh thần.
Đền thờ Nguyễn Biểu: Di tích thuộc xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, đền được xây dựng vào thời nhà Lê để tưởng nhớ công lao của Nguyễn Biểu. Ông đỗ thái học sinh cuối đời Trần và làm Điện Tiền Thái Sử. Ông là một nhà ngoại giao tài tình, được Trần Quí Khoáng cử đi sứ năm 1413. Hiện nay đền vẫn giữ được nhà bái đường, thượng điện, cột nanh, tắc môn, hai tấm bia đá, ngoài ra các đồ thờ, tượng chạm khắc, câu đối, hoành phi vẫn còn nguyên vẹn.
Mộ trạng nguyên Bạch Liên: Mộ trạng nguyên Bạch Liên thuộc xã Thiên Lộc, Can Lộc. Bạch Liên sinh năm 1236 quê ở làng Yên Xá, huyện Đông Thành, Nghệ An. Ông đỗ trạng nguyên năm 1266 nhưng không ra làm quan. Sau này, ông giúp Trần Quang Khải trấn Nghệ An và có công lớn trong cuộc chống quân Nguyên Mông.
http://www.dangcongsan.vn/img/tranphu.gif
Đ/C:Trần Phú.
http://www.dangcongsan.vn/img/hahuytap.gif
Đ/C:Hà Huy Tập.
Di tích lưu niệm danh nhân Nguyễn Công Trứ: Thuộc xã Xuân Giang, Nghi Xuân là nơi tưởng niệm nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19. Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), quê ở làng Tuy Viễn. Ông là một nhà kinh tế, chính trị lỗi lạc, là ông tổ của làng Nghi Xuân. Hiện di tích lưu niệm tại làng quê còn ngôi mộ và bàn thờ.
Mộ Phan Đình Phùng: Mộ Phan Đình Phùng được xây cất tại xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ. Cụ Phan Đình Phùng (1847 -1895) hiệu là Châu Phong. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho lớp trên. Năm 30 tuổi ông đỗ cử nhân và năm sau đậu Đình Nguyên tiến sĩ và được bổ nhiệm làm quan Tri huyện ở Yên Khánh, Ninh Bình. Ông là người có tính cương trực, ngay thẳng, liêm khiết nên được quần chúng nhân dân mến mộ. Khi Phan Đình Phùng được triệu về kinh và được bổ vào viện Đô Sát làm Chính ngự sử, do bất hòa trong triều, ông trở về quê năm 1883. Sau đó ông tổ chức cuộc khởi nghĩa chống quân Pháp. Cuộc khởi nghĩa nổ ra trong 4 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình. Dù rằng thân xác ông bị quân Pháp đốt rồi trộn với thuốc súng bắn xuống dòng sông La Giang. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng ảnh hưởng và ý nghĩa phong trào vô cùng to lớn. Đặc điểm là trong làng có mộ Hoàng Cao Khải, kinh lược xứ Bắc Kỳ, đồng hương và đồng liêu với cụ Phan Đình Phùng nhưng lại hợp tác với quân Pháp đã nhiều lần viết thư chiêu dụ ông Phan Đình Phùng về làm việc cho Pháp.
Di tích khu căn cứ Vũ Quang: Căn cứ Vũ Quang là khu căn cứ rộng lớn của phong trào Cần Vương nằm trong dãy rừng nguyên sinh của Vũ Quang, Hương Khê. Đây là nơi bộ chỉ huy khởi nghĩa chống Pháp đóng và lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu trong suốt 10 năm. Nơi đây các vị lãnh đạo cao nhất của phong trào Cần Vương như Phan Đình Phùng, Cao Thắng và các lãnh tụ khác hội họp bàn kế hoạch tác chiến và đây cũng là nơi giao lưu, tụ nghĩa của một số nhà yêu nước như Nguyễn Quản, Nguyễn Các, Cầm Bá.
Khu lưu niệm Nguyễn Du: Nguyễn Du (1765 - 1820) là đại thi Việt Nam, danh nhân văn hóa của Việt Nam. Đền thờ Nguyễn Du được xây dựng vào năm 1825 tại quê hương ông - làng Tiên Điền, Nghi Xuân. Toàn bộ di tích lưu niệm Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn, làng Tiên Điền nằm rải rác trong vùng đất rộng chừng 20 ha, từ bờ sông Lam đến giáp xứ Đồng Cùng. Khu lưu niệm rộng khoảng 2 ha từ cổng chính vào lần lượt là nhà khách, nhà tư văn 2, tư văn 1, bia tưởng niệm Nguyễn Quỳnh, đền thờ Nguyễn Du và nhà trưng bày. Nhà trưng bày vẫn còn một số hiện vật quý như nghiên mực, đĩa mai hạc mà Nguyễn Du được tặng trong thời gian đi sứ, địa bàn dùng để đi săn, nậm và chén rượu, hòn sắc của Nguyễn Nhiễm. Mộ Nguyễn Du được táng tại xứ Đồng Cùng, gồm 3 phần: bàn thờ, phần mộ, vườn cây. Phần bàn thờ có bia đá thanh, tượng hình án thư, quanh bia khắc hình hoa văn thế kỷ 19.
Đền Nguyễn Thị Bích Châu: Đền Nguyễn Thị Bích Châu còn có tên là đền Bà Hải thuộc xã Kỳ Ninh, Kỳ Anh. Đền thờ bà Bích Châu, cung phi vua Trần Duệ Tông, là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn có nhiều công đối với đất nước, giúp vua nhiều kế sách trị nước yên dân. Năm 1373, vua Duệ Tông đem quân đi đánh chiếm Chiêm Thành, bà ngăn không được nên bà đi theo hộ tống, vua bị thua trận, bà bị thương nặng, rồi mất. Vua cho chôn cất và lập miếu thờ tại đây. 90 năm sau, vua Lê Thánh Tông, đời Hồng Đức cho xây ở đây 3 tòa điện lớn để ghi nhớ công ơn bà và ban sắc phong "Chế Thắng Phu Nhân". Đền được xây dựng trên khu đất 4.500 m2 quay về hướng đông nam, bên phải là cửa Khẩu và núi Cao Vọng, trái là núi Ô Tôn, trước mặt là Vũng Áng và sau lưng là núi Bàn Độ. Qua năm, sáu trăm năm phong hóa, đến nay có những công trình xây dựng đã bị cát vùi chỉ còn lại dấu vết, có thể một phần kiến trúc nguyên vẹn được giữ trong lòng cát. Đền hiện nay còn tam quan, cột nanh, bái đường, trung điện, thượng điện, nhà dâng hương, nhà khách, nhà sắc.
Mộ và đền thờ anh hùng Cao Thắng: Sau khi hy sinh vì nước, Di hài của anh hùng Cao Thắng được đem về an táng tại Ngàn Trươi (núi Vụ Quang). Dân chúng lập đền thờ ông tại làng Khê Thượng, huyện Khê Thượng.
Những thắng cảnh Hà Tĩnh
Núi Thiên Cầm: Núi cách thị xã Hà Tĩnh khoảng 20 km (12.5 miles). Núi không cao, lại nằm kề biển, tạo thành một nơi sơn thủy hữu tình. Cách chân núi một trảng cát là chùa Yên Lạc xây dựng từ thế kỷ 13, nơi có bộ tranh "Thập điện Diêm Vương" nổi tiếng. Từ đầu thế kỷ, người Pháp đã xây dựng ở Thiên Cầm một khu nghỉ mát, nhưng do chiến tranh, các công trình ấy đã bị phá hủy.
Núi Hồng Lĩnh: Là dãy núi có 99 ngọn thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đây có khoảng 100 ngôi chùa và đền miếu. Có ngôi rất cổ như chùa Hương Tích hay chùa Chân Tiên nơi vẫn còn dấu chân người và chân ngựa trên tảng đá (gắn với truyền thuyết Tiên giáng trần). Phong cảnh hùng vĩ, thơ mộng của Hồng Lĩnh là nơi sinh ra nhà thơ vĩ đại của Việt Nam - Nguyễn Du, danh nhân văn hóa được thế giới kỷ niệm.
Hồ Kẽ Gỗ: Hồ nằm giữa các sườn đồi, núi thuộc huyện Cẩm Xuyên, cách thành phố Vinh 70 km (43.8 miles) về phía Nam, là một cảnh đẹp nhân tạo. Công trình hồ Kẻ Gỗ được khởi công xây dựng năm 1976 và Hoàn thành vào năm 1980. Hồ dài gần 30 km (18.8 miles), gồm 1 đập chính và 10 đập phụ với sức chứa 300 triệu m3 nước. Ngày nay, hồ Kẻ Gỗ còn là một điểm tham quan du lịch hấp dẫn. Đến thăm hồ Kẻ Gỗ, du khách có thể tắm mát, câu cá, leo núi hay săn bắn trên các triền núi ven hồ. Hồ Kẻ Gỗ còn là nguồn cung cấp thực phẩm dồi dào cho các vùng lân cận. Cá tôm dưới đáy hồ thơm thịt, to con. Con lớn nặng tới vài chục kg.
Cửa Sót - Nam Giới: Đây là một cửa biển, nằm ở phía Đông thị xã Hà Tĩnh, cách thị xã 12 km (7.5 miles) theo đường quốc lộ. Trên đường đến cửa Sót, du khách có thể tham quan di tích đền Võ Miếu, đền Lê Khôi. Ngay bờ biển, phía Nam Cửa Sót có núi Nam Giới, giống như một đầu rồng. Do vậy, khu vực này tạo thành một quần thể du lịch sơn thủy hữu tình.
Bãi biển Xuân Thành: Bãi biển Xuân Thành thuộc xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, cách thị xã Hà Tĩnh 55 km (34.4 miles). Từ thị xã Hà Tĩnh theo quốc lộ 1A về phía Bắc đến thị trấn Gia Lách đi theo đường tỉnh lộ khoảng 11 km (6.9 miles) là đến bãi biển. Trên đường vào bãi tắm, có khu lưu niệm dòng họ Nguyễn và mộ đại thi hào Nguyễn Du. Xung quanh điểm du lịch này là những danh thắng nổi tiếng như sông Lam, núi Hồng, núi Quyết, đền Củi. Bãi biển Xuân Thành cát trắng bãi thoải, nước trong xanh, môi trường trong sạch. Ở giữa có rặng dương xanh lam, là nơi tránh nắng cho khách tắm biển, phía sau bãi có dòng lạch nhỏ chạy men theo đường vào làm tăng vẻ trữ tình của khu vực.
Đèo Ngang - Hoành Sơn Quan: Đèo Ngang thuộc xã Kỳ Nam, huyện Kỳ Anh, cách thị xã Hà Tĩnh khoảng 75 km (46.9 miles), trên đường quốc lộ 1A. Từ thị xã Hà Tĩnh đến Đèo Ngang là một chuyến du lịch hấp dẫn. Du khách có thể vào thăm quan các di tích văn hóa lịch sử, khu vực lưu niệm Hà Huy Tập, đình Phượng Giai, đền Bích Châu..., đặc biệt vùng phụ cận với đèo Ngang còn có đền thờ Lê Quảng Chí, đền thờ công chúa Liễu Hạnh. Phong cảnh đèo ngang hùng vĩ; bãi tắm sạch đẹp. Địa danh này là nguồn cảm hứng vô tận cho các nghệ sĩ sáng tác các tác phẩm thơ văn, ca khúc về Đèo Ngang - Hoành Sơn Quan, trong đó có bài thơ nổi tiếng của bà Huyện Thanh Quan.
Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ: Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ có diện tích tự nhiên 24.801 ha. Rừng chiếm 24.708 ha, có rất nhiều động vật quý hiếm như gà lôi lam màu đen, gà lôi lam đuôi trắng, khỉ, voọc, hươu sao, trĩ, vượn, voi... và các loại lâm sản quý như lim, gụ, táu, dỗi..., các loại song mây. Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ là cơ sở để nghiên cứu khoa học và phát triển du lịch trong vùng.
CHÙA HƯƠNG TÍCH
Hoan châu đệ nhất danh lam
Chùa Hương Ngàn Hống có thể được dựng đời Trần (cũng có ý kiến cho rằng chùa có từ thời Lý ) .Hương Tích - Hoan châu đệ nhất danh lam - là mượn điển tích trong kinh nhà phật :Hương Sơn là ngọn núi ở phía Tuyết Sơn trong dãy Hymalaya ( ấn Độ ) , nơi xưa kia đức Phật tu khổ hạnh .
"Đầu thế kỷ XIX cảnh trí chùa hương rất đẹp . Trên đỉnh núi có bức thành đá , bên thành có 99 cái nền gọi là nền Trang Vương .Ở trước cửa thành có hai cây thông đứng đối xứng nhau , cây nào cũng to lớn , cao đến chừng hai mươi trượng , bóng râm che kín cả một mẫu đất .Dưới chân thành chừng sáu bảy chục thước có am đá thờ tượng Quan Âm , am này là am Thánh Mẫu .Bên phải am có chùa phật , bên phải chùa là dòng khe nước vọt từ trong vách đá ra , quanh năm không cạn .Bên trái chùa là đền Thiên Vương .Theo các bậc đá đi lên ,cảch sắc thay đổi liên tục , lên cao trông khắp bốn phương .Phong cảnh tuyệt vời , đúng là nơi danh thắng đệ nhất ở Châu Hoan " ( tóm lược từ" Thiên Lộc huyện phong thổ chí" )
Truyền thuyết kể rằng :
" Vua Sở Trang Vương chỉ sinh được ba người can gái là Diệu Ân , Diệu Duyên va Diệu Thiện. Khi họ trưởng thành , hai chị theo ý vua cha đều lấy chồng làm quan trong triều .Vua cha muốn gả người con gái út Diệu Thiện cho một quan võ để làm chỗ dựa khi già yếu . Biết hắn là một kẻ độc ác nàng không tuân theo nên bị cha ruồng rẫy , phẫn chí nàng bỏ ra ở chùa .Viên quan võ kia được vua sai đi trừng trị nàng .Hắn phóng hoả đốt chùa .Nhưng Diệu Thiện và các tăng ni đều được Phật che chở và cứu thoát .Phật lại sai Bạch Hổ đưa nàng trốn sang đất Việt Thường thị . Đến trước hang động ngọn núi Thíu LĨnh (tức Hồng Lĩnh ) nàng Diệu Thiện ở lại dựng am tu hành .Chẳng bao lâu nàng nổi tiếng là vị sư cô từ bi bác ái . Giữa lúc ấy , Trang Vương bị bệnh nặng .Thầy thuốc bảo phải có tròng mắt và bàn tay của một người con gái tự nguyện hiến dâng mới cứu nổi tính mệnh .Hai con gái lớn không ai chịu hy sinh .Nghe tiếng ni cô ở Việt Thường , vua liền sai người sang cầu xin .Diệu Thiện biết cha mình độc ác , nhưng do lòng từ bi hỉ xả cứu vớt chúng sinh , bèn móc mắt, cắt bàn tay mình đem cho sứ giả ... Trang Vương được thuốc , khỏi bệnh sai người sang tạ ơn , mới biết người cứu vua chính là Diệu Thiện , cô con gái út từng bị ruồng bỏ..Đức Phật cảm về tấm lòng từ bi của Diệu Thiện, bèn ban phép cho mắt nàng sáng lại , bàn tay nàng mọc lại .. Sau khi hoá nàng Diệu Thiện trở thành Phật Quan Âm" .
Chuyện truyền ngôn cho biết có mốt liên hệ giữa chùa Hương Ngàn Hống va chùa Hương ở Hà Tây .Chùa Hương ở Hà Tây là nơi nàng Diệu Thiện đi qua nên người ta lập chùa thờ vọng .Một truyền thuyết khác lại cho rằng một chua Trịnh vào cầu tự sinh được thế tử ., nên hàng năm chúa sai người về đây lễ tạ .Về sau các chuyến đi này thường gặp giặc cỏ ,và cướp biển nên khó khăn trong việc lễ tạ . Sau này thấy Phong cảnh vùng Hương Sơn Hà Tây đẹp hơn , tiện đường đi lại chúa bèn cho xây dựng ngôi chùa lớn hơn , đẹp hơn để làm nơi lễ tạ mà không phải vào vùng Ngàn Hống cách trở .
Cả về sự tích chùa Hương Ngàn Hống và mối quan hệ của nó với chùa Hương ở Hà Tây chỉ là truyền thuyết mặc dù có nhiều bút tích giải thích được sự hợp lý này . Và thời gian xây dựng chùa là từ thời Trần hay thời lý đến bây giờ vẫn còn nhiều tranh cãi .Chúng ta hãy kiên nhẫn chờ đến năm hai ngàn... chưa biết, khi mỏ than Thạch Khê được khai thác , dân Hà Tĩnh hết nghèo để có tiền dùng cho công cuộc khảo cổ chùa Hương và nền Văn hoá Ngàn Hống, văn hoá Thạch Lạc . Thì chúng ta mới biết rõ về tính lô gích của những truyền thuyết này .
Ngày nay cảnh trí chùa hương đã khác nhiều , sau những biến cố của thời gian chùa đã có nhiều thay đổi . Ngôi chùa chính bây giờ được làm lại sau khi chùa đã nhiều lần di chuyển .Nền Trang Vương vẫn còn , người dân ở đây còn gọi là bàn cờ tiên nhưng lối đi lên hơi khó và nguy hiểm . Hai cây thông đã mất dấu cùng thời gian , gốc cây cháy xém mà nhiều sách đã viết không phải là gốc cây nguyên thuỷ , dân tìm châu báu tứ xứ đã đổ về đây rất nhiều để tìm cổ vật , họ đào bới lung tung để tìm gốc thông MỘT ( chính là hai gốc thông ngày xưa ) để định vị kho báu .Cũng đã từng có người giả vờ làm sư để tìm , nghe đâu nói là tượng đồng đen .Cách đây đã khá lâu nhân dân xã Thiên Lộc theo lời chỉ dẫn của sư Kiệm đã mang về hai pho tượng màu đen giao nộp cho nhà nước vì nạn đào bới của các "anh chị" tìm báu vật khét tiếng .Ông ngoại tôi là bạn của sư Kiệm và đã từng tham gia tu bổ chùa từ thời kháng chiến đã nhiều lần kể với tôi về những pho tượng đồng đen có thật , còn hai pho tượng kia mà chính quyền nói là bằng hợp kim thì không ai ngoài những người trong cuộc biết đó là tượng gì . Hồi đó tôi cũng đang còn quá bé . Sau sự việc này đã có nhiều mâu thuẫn với chính quyền cấp trên với các đạo hữu của xã , sư Kiệm ( Vị sư đã tu rất lâu ở chùa và được các đạo hữu địa phương tin tưởng tuyệt đối ) bỏ chùa về tu ở gia trang tại xã Hồng Lộc , mầu sắc linh thiêng của chùa giảm dần thay vào đó tính thương mại được đẩy lên cao .Chùa được tu bổ , và chỉnh sửa theo con mắt của những người lãnh đạo kém hiểu biết về chùa chiền , Phật giáo , vì thế có nhiều chi tiết xây mới nhìn hài hước, nhiều chi tiết tu bổ loè loẹt .Những người rất bình thường cũng phải cười xót xa đến méo xệch . Nhưng như thế không có nghĩa là chùa Hương đã đánh mất đi vẻ đẹp của mình . Không hoành tráng và đạo mạo nhưng vẻ thâm u của chùa cho chúng ta cảm giác linh thiêng và hướng thiện mà ít chùa có được. Phong cảnh lên chùa thì khỏi phải nói , đẹp đến mê hồn . Bạn phải leo qua đến bao nhiêu quả đồi , có nơi dốc dựng đứng , gần đến chân chùa dù bạn khoẻ thì tôi tin chắc rằng bạn cũng thở không ra hơi nếu bạn đi lần đầu . Khi đã lên đến đỉnh chùa (cũng có nghĩa là bạn đang đứng ở ngọn núi cao nhất của dãy Ngàn Hống bạn mới thấy tuyệt vời , xanh rợp một rừng thông , ngút ngàn mây bao phủ về chiều, và cả rì rào tiếng sóng biển nữa . Bạn hãy can đảm lên một chút đi ra phía sau chùa để leo lên đỉnh núi thử xem " một tiếng hô vang vọng cả trời" nó là thế nào . Bên cạnh chùa có một cái hang rất sâu và dốc , có rất ít người dám mạo hiểm vào sâu vì thiếu dưỡng khí , hang này ăn liền với biển .Trước đây khi còn bé một lần tôi đã dại dột cùng lũ bạn chui vào đó , gần một ngày bọn tôi mới lên khỏi hang được , lần đó coi như bọn tôi thoát chết . Về sau có quá nhiều người chết ở đây vì trượt chân , vì ngạt thở nên bây giờ hang đã bị xây tịt lại , thật tiếc cho cánh đàn ông vốn có máu liều và ưa khám phá . Còn nếu bạn cân nặng không bình thường hay bạn sợ mệt thì ở đây đã có dịch vụ cõng bạn lên chùa rồi đấy , nếu thế thi còn gì là thú , và bạn đã làm mất đi mỹ quan của nơi linh thiêng này đúng không .
Lễ hội Chùa Hương bắt đầu từ sau tết nguyên đán và kéo dài đên ngày lễ chính là 18 / 2 âm lịch .Nếu có dịp bạn đừng bỏ lỡ cơ hội vãn cảnh chùa Hương bạn nhé .Hãy can đảm lên một chút bạn theo con suối mà đi ngược lên chùa .Thú vị lắm bạn à . Đi theo đường này khi đền hồ Mắt Mèo (nước xanh và trong vắt mà ) đừng bõ lỡ cơ hội nhảy ùm xuống mà tắm .Thử cảm giác xem bạn đã bao giờ được tắm ở một nơi như thế chưa . Tôi cam đoan rằng ngay cả khi ngồi trong p**ng tắm hơi hiện đại bạn cũng không có được cảm giác thoải mái và thư giãn như ở đây
Hãy một lần đến chùa hương để biết , để nhớ bạn nhé !
http://www.mande.co.uk/htpap/vietnam2.gif
Dân số: 1268968 người Số nam: 621398 người Số nữ: 647570 người
Hà Tĩnh là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Phần đất liền nằm trong giới hạn 17o54’ - 18o50’ vĩ độ Bắc và 103o48’ - 108o00’ kinh độ đông, phía bắc giáp Nghệ An, phía nam giáp Quảng Bình, phía tây giáp nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trên chiều dài biên giới 145 km, phía đông giáp biển 137 km. Thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, Hà Tĩnh thuộc bộ Việt Thường. Tỉnh Hà Tĩnh được thành lập năm 1831 và tỉnh lỵ hiện nay là thị xã Hà Tĩnh, cách Hà Nội 340 km. Nghệ An nằm ở đông dãy Trường Sơn với địa hình hẹp, dốc và nghiêng từ tây sang đông. Phía tây tỉnh là những dãy núi cao trên dưới 1500 m, cao nhất là đỉnh Rào Cọ 2235m, tiếp đến là vùng đồi bát úp ; tiếp nữa là những dải đồng bằng nhỏ hẹp chạy ra biển ; sau cùng là những bãi cát ven biển cùng với nhiều vũng, vịnh và bãi tắm đẹp, tiêu biểu là cảng biển nước sâu Vũng áng và bãi biển Thiên Cầm. Hà Tĩnh có tài nguyên biển và rừng tương đối phong phú. Biển Hà Tĩnh có trữ lượng 85,8 nghìn tấn cá, 3,5 nghìn tấn mực và 600 tấn tôm. Hà Tĩnh có khu vườn quốc gia Vũ Quanhg rộng 56 nghìn ha với 307 loài thực vật bậc cao thuộc 236 chi và 99 họ, 60 loài thú, 187 loài chim, 38 loài bò sát, 26 loài lưỡng cư và 56 loài cá. Đặc biệt, ở rừng Vũ Quang đã phát hiện ra sao la và mang lớn là hai loại thú quý hiếm chưa có tên trong danh mục thú của thế giới. Trên địa bàn Hà Tĩnh có nhiều sông lớn chảy qua, lớn nhất là sông La và các sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Ngàn Tươi, Rào Cái... với tổng chiều dài 400 km. Núi Hồng Lĩnh với 99 ngọn cùng sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu và sông La từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ thi nhân, nhạc sĩ và cũng là cái nền làm nên giai điệu dân ca sâu lắng. Núi Hồng Lĩnh là một trong số ít các địa danh được khắc vào Bách khoa thư cửu đỉnh hiện đang đặt tại cố đô Huế. Những tên núi, tên sông Hà Tĩnh không chỉ là cảnh đẹp thiên nhiên kỳ vĩ mà còn là nơi tích tụ nguyên khí, sản sinh ra các bậc hiền tại. Phía đông Hồng Lĩnh là làng Tiên Điên của đại thi hào dân tộc, nhà văn hoá lớn thế giới Nguyễn Du, tác giả của 3254 câu thơ trong kiệt tác Truyện Kiều. Hà Tĩnh còn là quê hương của thầy địa lý Tả Ao nổi tiếng đời Lê ; quê hương của Nguyễn Biểu, nhà ngoại giao trí dũng song toàn thời Trần và là tác giả bài thơ ăn cỗ đầu người bất hủ viết năm 1413 trong chuyến đi sứ phương bắc ; quê hương chủa đại doanh điền Nguyễn Công Trứ, của hai vị tướng Đặng Tất và Đặng Dung, của nhà yêu nước Phan Đình Phùng thời kỳ chống Pháp, của nhà cách mạng Trần Phú và Hà Huy Tập. Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên 6055,7 km2 và dân số năm 2001 ước tính 1284,9 nghìn người với mật độ dân số 212,2 người/km2, bằng 8,8% mật độ dân số bình quân của cả nước. Trên địa bàn Hà Tĩnh có trên 20 dân tộc anh em cùng sinh sống, nhưng chủ yếu là người Kinh ; các dân tộc khác, mỗi dân tộc chỉ có vài trăm hoặc vài chục người. Hiện nay, Hà Tĩnh có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm thị xã Hà Tĩnh, thị xã Hồng Lĩnh và 9 huyện là : Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương Sơn, Vũ Quang, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Hương Khê và Kỳ Anh với 259 xã, phường và thị trấn
Hà Tĩnh là một tỉnh có dân số chủ yếu là người Việt (Kinh), vì vậy tỉnh Hà Tĩnh mang đậm sắc thái văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc này. Từ thời Hùng Vương, Hà Tĩnh đã là một trung tâm của nền văn minh Đông Sơn, là đất nhân vật nổi tiếng thời Lê - Nguyễn. Đặc biệt người Hà Tĩnh có truyền thống hiếu học. Hà Tĩnh là quê hương và nơi sinh sống của nhiều bậc danh nhân như đại thi hào Nguyễn Du, nhà thơ và nhà kinh tế Nguyễn Công Trứ, nhà sử học nổi tiếng Phan Huy Chú...
Vùng quê Hà Tĩnh lưu giữ được kho tàng văn hóa dân gian độc đáo và phong phú vào bậc nhất nước ta. Hàng ngàn câu hát dân ca, hát ví, hát dặm, là những cống hiến đặc sắc của vùng đất này vào kho tàng văn hóa Việt Nam. Truyền thống văn hóa còn được thể hiện ở hàng chục lễ hội truyền thống tổ chức hàng năm ở Hà Tĩnh. Có thể nêu một số lễ hội:
Lễ chùa Hương Tích: Lễ hội được tổ chức tại chùa Hương Tích thuộc xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc. Chùa thờ Phật và con gái vua Sở Trang Vương. Hàng năm cứ đến ngày 19/2 âm lịch, nhân dân ở khắp mọi nơi đến hội chùa cúng Phật, cầu yên và thăm cảnh đẹp của chùa. Lễ hội được tổ chức rất trang nghiêm.
Hội Chiêu Trưng: Lễ hội được tổ chức tại đền Chiêu Trưng, xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà. Lễ hội diễn ra từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 5 âm lịch hàng năm. Trong các ngày lễ hội, nhân dân đến dâng hương và lễ vật để tưởng niệm ngày mất của Chiêu Trưng Đại Vương Lê Khôi. Lễ hội nhằm mục đích tưởng nhớ công lao của vị anh hùng Lê Khôi có công với đất nước.
Lễ hạ thủy: Lễ hội được tổ chức tại bãi biển xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên. Cứ sau tết Nguyên Đán, nhân dân trong vùng tổ chức lễ hạ thủy, cầu thần biển giúp cho ngư dân thuận buồm xuôi gió và hứa hẹn một mùa đánh bắt được nhiều tôm cá.
Lễ đền Bích Châu (đền Bà Hải): Lễ được tổ chức tại đền thờ chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu, thuộc xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh. Cứ đến ngày 11 tháng 2 âm lịch hàng năm, nhân dân đến đây dâng hương và lễ vật để tưởng nhớ công lao của cung phi Bích Châu (thời Trần Duệ Tông)- một người phụ nữ Việt Nam tài sắc vẹn toàn, có công lớn với quê hương.
Hội đua thuyền: Hội được tổ chức tại Trung Lương thuộc thị xã Hồng Lĩnh vào ngày 4 tết âm lịch và các ngày lễ lớn trong năm. Ngoài ra hội còn được tổ chức ở Cẩm Nhượng, Cẩm Xuyên vào các ngày lễ lớn. Hội đua thuyền được tổ chức nhằm chọn ra những tay đua cừ khôi và rèn luyện sức khỏe cho dân vùng sông nước; đồng thời là truyền thống của nhân dân địa phương để cầu yên xóm làng.
Lễ Xuân Điển: Lễ hội diễn ra tại làng Phan Xá, Lợi Xá, xã Ích Mậu, huyện Can Lộc. Lễ hội tưởng nhớ thần Tam Lang có công giúp quân Đại Việt đánh thắng giặc ngoại xâm. Lễ hội được tổ chức từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 1 âm lịch rất trọng thể với nghi thức quốc lễ. Lễ hội có hát tụng thần, có hát chèo, tuồng, thi nấu cơm. Ba năm một lần làng có tổ chức bơi thuyền rồng, rước thần trên kênh trước đền.
Di tích lịch sử
Chùa Chân Tiên: Chùa nằm trên núi Tiên An, sát bờ biển thuộc địa phận xã Thịnh Lộc, huyện Can Lộc. Chùa được được xây dựng vào đời nhà Trần (thế kỷ 13), thờ Phật Tổ và Thánh Mẫu. Chùa thờ Phật có diện tích 50,2 m2, kiến trúc theo kiểu tứ trụ gồm 3 gian lợp ngói âm dương, 4 cột xây, tường bao 3 phía. Hai bên hiên chùa có tượng quan văn, quan võ. Trong chùa có nhiều câu đối cổ. Chùa thờ Thánh Mẫu còn gọi là "Điện Thánh Mẫu" gồm thượng điện, kiệu Long đình, bái đường có diện tích 56 m2. Cửa thượng điện có đề 4 chữ Hán "Thiên Hạ Mẫu Nghi" và hình con phượng đang giang cánh bay lên. Kiệu Long đình là nơi đặt đồ tế lễ, bốn đầu đao trên mái kiệu có 8 hình rồng. Trong kiệu có 8 con hạc chầu. Chùa Chân Tiên hiện còn lưu giữ 14 tượng Phật làm bằng gỗ mít, một bàn thờ, một lư hương, một hương án, một trống, mõ.
Chùa Tượng Sơn: Chùa được xây dựng từ thời Hậu Lê (đầu thế kỷ 18) ở làng Yên Hạ, xã Sơn Giang, huyện Hương Sơn. Chùa do thân mẫu của đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác sáng lập. Chùa tọa lạc giữa một khu đất bằng phẳng bốn phía có núi sông, khe suối, làng mạc, ruộng đồng bao bọc. Phía măït chùa là dòng sông Ngàn Phố, sau lưng là ngọn núi Voi đứng sừng sững, có khe suối chảy quanh năm tạo âm thanh rộn rã nơi cửa thiền tĩnh mịch. Vì vậy mà chùa có tên gọi là Tượng Sơn tự hay còn gọi là chùa Ầm Ầm.
Chùa Tượng Sơn có 3 ngôi là chùa Thượng, chùa Hạ và nhà Tổ. Chùa Thượng chính điện thờ Phật Thích Ca, bên tả thờ ông bà Tham Đốc Quận Công (ông bà ngoại của danh y Lê Hữu Trác) và bà Bùi Thị Thưởng (thân mẫu của danh y); bên hữu thờ tổ tiên họ Lê Hữu. Chùa Hạ là một lầu chuông 8 mái được chạm trổ tinh xảo theo hoa văn kiểu tứ linh, tầng trên để gác chuông, tầng dưới làm nơi lễ bái. Sát cạnh chùa Thượng là nhà Tổ, thờ tượng Tổ Đạt Ma, Lịch Đại Tổ Sư. Chùa Tượng Sơn tuy nhỏ nhưng là một ngôi chùa cổ, một di tích lịch gắn liền với đại danh y Lê Hữu Trác. Chùa có nhiều pho tượng Phật có giá trị nghệ thuật với nhiều dáng vẻ độc đáo, đặc biệt là pho tượng Bồ Tát Chuẩn Đề 18 tay. Chùa Tượng Sơn đồng thời cũng là một danh lam, được nhiều khách thập phương thăm vãn cảnh, chiêm ngưỡng.
Đền Thái Yên: Đền Thái Yên được xây dựng năm 1741, thờ Thành Hoàng - ông tổ của làng mộc Thái Yên. Đây là một ngôi đền cổ kính rất đẹp, được xây dựng trên khoảng đất rộng chừng 5.000 m2. Đền có cấu trúc theo lối tam tòa: thượng điện, trung điện, hạ điện. Toàn bộ kiến trúc ngôi đền chứng tỏ đây là một bảo tàng cổ vật về điêu khắc gỗ lâu đời và quý giá của bao lớp thợ Thái Yên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
Đền Cả: Đền Cả còn có tên là đền Lớn hoặc Tam tòa Đại Vương thuộc xã Ích Hậu, huyện Can Lộc. Đền thờ 3 vị: Lý Nhật Quang (hoàng tử thứ 8 của vua Lý Thái Tổ), Lý Đạo Thành và Lý Thế Giai (là 2 vương hầu của nhà Lý). Ba ông này đã có công hướng dẫn nhân dân vùng tây nam Hồng Lĩnh khai lập nên mọât số làng Kẻ Nhật. Về sau đền còn thờ 2 vị công thần nhà Trần tiếp tục công việc của 3 ông họ Lý là Trần Quang Khải và Trần Khánh Dư.
Đền Củi: Đền Củi (Linh Từ Thánh Mẫu) thờ Liễu Hạnh công chúa, sau này hợp tự còn thờ thêm thánh Trần. Đền nằm trên một ngọn đồi cạnh bờ sông Lam thuộc xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân. Đền được xây dựng từ thế kỷ 18 dưới thời Lê Cảnh Hưng, đến nay đã được trùng tu nhiều lần. Đền có 3 toà: thượng điện, trung điện, hạ điện. Đây là một ngôi đền Mẫu đẹp và rất thiên. Hàng năm có hàng vạn lượt khách thập phương về đây đi lễ.
Đền thờ Đặng Tất, Đặng Dung: Đền thờ thuộc xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, thờ Đặng Tất và Đặng Dung là hai vị tướng lĩnh quan trọng và có công lao lớn trong cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược. Triều đại nhà Lê phong cho hai ông là tiết nghĩa trung thần. Cấu trúc đền thờ gồm hai tòa nhà và nhà dâng hương.
Miếu Biên Sơn: Miếu Biên Sơn được xây dựng thời nhà Lê ở huyện Can Lộc, thờ nữ tướng Phan Thị Sơn. Nữ tướng là người có công tham gia khởi nghĩa chống bọn phong kiến nhà Minh và lập chiến công hiển hách. Chiến công của bà được vua thời Hậu Lê (thế kỷ 16) và vua Tự Đức (thế kỷ 19) phong cho đạo sắc thượng đẳng linh thần.
Đền thờ Nguyễn Biểu: Di tích thuộc xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, đền được xây dựng vào thời nhà Lê để tưởng nhớ công lao của Nguyễn Biểu. Ông đỗ thái học sinh cuối đời Trần và làm Điện Tiền Thái Sử. Ông là một nhà ngoại giao tài tình, được Trần Quí Khoáng cử đi sứ năm 1413. Hiện nay đền vẫn giữ được nhà bái đường, thượng điện, cột nanh, tắc môn, hai tấm bia đá, ngoài ra các đồ thờ, tượng chạm khắc, câu đối, hoành phi vẫn còn nguyên vẹn.
Mộ trạng nguyên Bạch Liên: Mộ trạng nguyên Bạch Liên thuộc xã Thiên Lộc, Can Lộc. Bạch Liên sinh năm 1236 quê ở làng Yên Xá, huyện Đông Thành, Nghệ An. Ông đỗ trạng nguyên năm 1266 nhưng không ra làm quan. Sau này, ông giúp Trần Quang Khải trấn Nghệ An và có công lớn trong cuộc chống quân Nguyên Mông.
http://www.dangcongsan.vn/img/tranphu.gif
Đ/C:Trần Phú.
http://www.dangcongsan.vn/img/hahuytap.gif
Đ/C:Hà Huy Tập.
Di tích lưu niệm danh nhân Nguyễn Công Trứ: Thuộc xã Xuân Giang, Nghi Xuân là nơi tưởng niệm nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19. Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), quê ở làng Tuy Viễn. Ông là một nhà kinh tế, chính trị lỗi lạc, là ông tổ của làng Nghi Xuân. Hiện di tích lưu niệm tại làng quê còn ngôi mộ và bàn thờ.
Mộ Phan Đình Phùng: Mộ Phan Đình Phùng được xây cất tại xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ. Cụ Phan Đình Phùng (1847 -1895) hiệu là Châu Phong. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho lớp trên. Năm 30 tuổi ông đỗ cử nhân và năm sau đậu Đình Nguyên tiến sĩ và được bổ nhiệm làm quan Tri huyện ở Yên Khánh, Ninh Bình. Ông là người có tính cương trực, ngay thẳng, liêm khiết nên được quần chúng nhân dân mến mộ. Khi Phan Đình Phùng được triệu về kinh và được bổ vào viện Đô Sát làm Chính ngự sử, do bất hòa trong triều, ông trở về quê năm 1883. Sau đó ông tổ chức cuộc khởi nghĩa chống quân Pháp. Cuộc khởi nghĩa nổ ra trong 4 tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình. Dù rằng thân xác ông bị quân Pháp đốt rồi trộn với thuốc súng bắn xuống dòng sông La Giang. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng ảnh hưởng và ý nghĩa phong trào vô cùng to lớn. Đặc điểm là trong làng có mộ Hoàng Cao Khải, kinh lược xứ Bắc Kỳ, đồng hương và đồng liêu với cụ Phan Đình Phùng nhưng lại hợp tác với quân Pháp đã nhiều lần viết thư chiêu dụ ông Phan Đình Phùng về làm việc cho Pháp.
Di tích khu căn cứ Vũ Quang: Căn cứ Vũ Quang là khu căn cứ rộng lớn của phong trào Cần Vương nằm trong dãy rừng nguyên sinh của Vũ Quang, Hương Khê. Đây là nơi bộ chỉ huy khởi nghĩa chống Pháp đóng và lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu trong suốt 10 năm. Nơi đây các vị lãnh đạo cao nhất của phong trào Cần Vương như Phan Đình Phùng, Cao Thắng và các lãnh tụ khác hội họp bàn kế hoạch tác chiến và đây cũng là nơi giao lưu, tụ nghĩa của một số nhà yêu nước như Nguyễn Quản, Nguyễn Các, Cầm Bá.
Khu lưu niệm Nguyễn Du: Nguyễn Du (1765 - 1820) là đại thi Việt Nam, danh nhân văn hóa của Việt Nam. Đền thờ Nguyễn Du được xây dựng vào năm 1825 tại quê hương ông - làng Tiên Điền, Nghi Xuân. Toàn bộ di tích lưu niệm Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn, làng Tiên Điền nằm rải rác trong vùng đất rộng chừng 20 ha, từ bờ sông Lam đến giáp xứ Đồng Cùng. Khu lưu niệm rộng khoảng 2 ha từ cổng chính vào lần lượt là nhà khách, nhà tư văn 2, tư văn 1, bia tưởng niệm Nguyễn Quỳnh, đền thờ Nguyễn Du và nhà trưng bày. Nhà trưng bày vẫn còn một số hiện vật quý như nghiên mực, đĩa mai hạc mà Nguyễn Du được tặng trong thời gian đi sứ, địa bàn dùng để đi săn, nậm và chén rượu, hòn sắc của Nguyễn Nhiễm. Mộ Nguyễn Du được táng tại xứ Đồng Cùng, gồm 3 phần: bàn thờ, phần mộ, vườn cây. Phần bàn thờ có bia đá thanh, tượng hình án thư, quanh bia khắc hình hoa văn thế kỷ 19.
Đền Nguyễn Thị Bích Châu: Đền Nguyễn Thị Bích Châu còn có tên là đền Bà Hải thuộc xã Kỳ Ninh, Kỳ Anh. Đền thờ bà Bích Châu, cung phi vua Trần Duệ Tông, là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn có nhiều công đối với đất nước, giúp vua nhiều kế sách trị nước yên dân. Năm 1373, vua Duệ Tông đem quân đi đánh chiếm Chiêm Thành, bà ngăn không được nên bà đi theo hộ tống, vua bị thua trận, bà bị thương nặng, rồi mất. Vua cho chôn cất và lập miếu thờ tại đây. 90 năm sau, vua Lê Thánh Tông, đời Hồng Đức cho xây ở đây 3 tòa điện lớn để ghi nhớ công ơn bà và ban sắc phong "Chế Thắng Phu Nhân". Đền được xây dựng trên khu đất 4.500 m2 quay về hướng đông nam, bên phải là cửa Khẩu và núi Cao Vọng, trái là núi Ô Tôn, trước mặt là Vũng Áng và sau lưng là núi Bàn Độ. Qua năm, sáu trăm năm phong hóa, đến nay có những công trình xây dựng đã bị cát vùi chỉ còn lại dấu vết, có thể một phần kiến trúc nguyên vẹn được giữ trong lòng cát. Đền hiện nay còn tam quan, cột nanh, bái đường, trung điện, thượng điện, nhà dâng hương, nhà khách, nhà sắc.
Mộ và đền thờ anh hùng Cao Thắng: Sau khi hy sinh vì nước, Di hài của anh hùng Cao Thắng được đem về an táng tại Ngàn Trươi (núi Vụ Quang). Dân chúng lập đền thờ ông tại làng Khê Thượng, huyện Khê Thượng.
Những thắng cảnh Hà Tĩnh
Núi Thiên Cầm: Núi cách thị xã Hà Tĩnh khoảng 20 km (12.5 miles). Núi không cao, lại nằm kề biển, tạo thành một nơi sơn thủy hữu tình. Cách chân núi một trảng cát là chùa Yên Lạc xây dựng từ thế kỷ 13, nơi có bộ tranh "Thập điện Diêm Vương" nổi tiếng. Từ đầu thế kỷ, người Pháp đã xây dựng ở Thiên Cầm một khu nghỉ mát, nhưng do chiến tranh, các công trình ấy đã bị phá hủy.
Núi Hồng Lĩnh: Là dãy núi có 99 ngọn thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đây có khoảng 100 ngôi chùa và đền miếu. Có ngôi rất cổ như chùa Hương Tích hay chùa Chân Tiên nơi vẫn còn dấu chân người và chân ngựa trên tảng đá (gắn với truyền thuyết Tiên giáng trần). Phong cảnh hùng vĩ, thơ mộng của Hồng Lĩnh là nơi sinh ra nhà thơ vĩ đại của Việt Nam - Nguyễn Du, danh nhân văn hóa được thế giới kỷ niệm.
Hồ Kẽ Gỗ: Hồ nằm giữa các sườn đồi, núi thuộc huyện Cẩm Xuyên, cách thành phố Vinh 70 km (43.8 miles) về phía Nam, là một cảnh đẹp nhân tạo. Công trình hồ Kẻ Gỗ được khởi công xây dựng năm 1976 và Hoàn thành vào năm 1980. Hồ dài gần 30 km (18.8 miles), gồm 1 đập chính và 10 đập phụ với sức chứa 300 triệu m3 nước. Ngày nay, hồ Kẻ Gỗ còn là một điểm tham quan du lịch hấp dẫn. Đến thăm hồ Kẻ Gỗ, du khách có thể tắm mát, câu cá, leo núi hay săn bắn trên các triền núi ven hồ. Hồ Kẻ Gỗ còn là nguồn cung cấp thực phẩm dồi dào cho các vùng lân cận. Cá tôm dưới đáy hồ thơm thịt, to con. Con lớn nặng tới vài chục kg.
Cửa Sót - Nam Giới: Đây là một cửa biển, nằm ở phía Đông thị xã Hà Tĩnh, cách thị xã 12 km (7.5 miles) theo đường quốc lộ. Trên đường đến cửa Sót, du khách có thể tham quan di tích đền Võ Miếu, đền Lê Khôi. Ngay bờ biển, phía Nam Cửa Sót có núi Nam Giới, giống như một đầu rồng. Do vậy, khu vực này tạo thành một quần thể du lịch sơn thủy hữu tình.
Bãi biển Xuân Thành: Bãi biển Xuân Thành thuộc xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, cách thị xã Hà Tĩnh 55 km (34.4 miles). Từ thị xã Hà Tĩnh theo quốc lộ 1A về phía Bắc đến thị trấn Gia Lách đi theo đường tỉnh lộ khoảng 11 km (6.9 miles) là đến bãi biển. Trên đường vào bãi tắm, có khu lưu niệm dòng họ Nguyễn và mộ đại thi hào Nguyễn Du. Xung quanh điểm du lịch này là những danh thắng nổi tiếng như sông Lam, núi Hồng, núi Quyết, đền Củi. Bãi biển Xuân Thành cát trắng bãi thoải, nước trong xanh, môi trường trong sạch. Ở giữa có rặng dương xanh lam, là nơi tránh nắng cho khách tắm biển, phía sau bãi có dòng lạch nhỏ chạy men theo đường vào làm tăng vẻ trữ tình của khu vực.
Đèo Ngang - Hoành Sơn Quan: Đèo Ngang thuộc xã Kỳ Nam, huyện Kỳ Anh, cách thị xã Hà Tĩnh khoảng 75 km (46.9 miles), trên đường quốc lộ 1A. Từ thị xã Hà Tĩnh đến Đèo Ngang là một chuyến du lịch hấp dẫn. Du khách có thể vào thăm quan các di tích văn hóa lịch sử, khu vực lưu niệm Hà Huy Tập, đình Phượng Giai, đền Bích Châu..., đặc biệt vùng phụ cận với đèo Ngang còn có đền thờ Lê Quảng Chí, đền thờ công chúa Liễu Hạnh. Phong cảnh đèo ngang hùng vĩ; bãi tắm sạch đẹp. Địa danh này là nguồn cảm hứng vô tận cho các nghệ sĩ sáng tác các tác phẩm thơ văn, ca khúc về Đèo Ngang - Hoành Sơn Quan, trong đó có bài thơ nổi tiếng của bà Huyện Thanh Quan.
Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ: Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ có diện tích tự nhiên 24.801 ha. Rừng chiếm 24.708 ha, có rất nhiều động vật quý hiếm như gà lôi lam màu đen, gà lôi lam đuôi trắng, khỉ, voọc, hươu sao, trĩ, vượn, voi... và các loại lâm sản quý như lim, gụ, táu, dỗi..., các loại song mây. Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ là cơ sở để nghiên cứu khoa học và phát triển du lịch trong vùng.
CHÙA HƯƠNG TÍCH
Hoan châu đệ nhất danh lam
Chùa Hương Ngàn Hống có thể được dựng đời Trần (cũng có ý kiến cho rằng chùa có từ thời Lý ) .Hương Tích - Hoan châu đệ nhất danh lam - là mượn điển tích trong kinh nhà phật :Hương Sơn là ngọn núi ở phía Tuyết Sơn trong dãy Hymalaya ( ấn Độ ) , nơi xưa kia đức Phật tu khổ hạnh .
"Đầu thế kỷ XIX cảnh trí chùa hương rất đẹp . Trên đỉnh núi có bức thành đá , bên thành có 99 cái nền gọi là nền Trang Vương .Ở trước cửa thành có hai cây thông đứng đối xứng nhau , cây nào cũng to lớn , cao đến chừng hai mươi trượng , bóng râm che kín cả một mẫu đất .Dưới chân thành chừng sáu bảy chục thước có am đá thờ tượng Quan Âm , am này là am Thánh Mẫu .Bên phải am có chùa phật , bên phải chùa là dòng khe nước vọt từ trong vách đá ra , quanh năm không cạn .Bên trái chùa là đền Thiên Vương .Theo các bậc đá đi lên ,cảch sắc thay đổi liên tục , lên cao trông khắp bốn phương .Phong cảnh tuyệt vời , đúng là nơi danh thắng đệ nhất ở Châu Hoan " ( tóm lược từ" Thiên Lộc huyện phong thổ chí" )
Truyền thuyết kể rằng :
" Vua Sở Trang Vương chỉ sinh được ba người can gái là Diệu Ân , Diệu Duyên va Diệu Thiện. Khi họ trưởng thành , hai chị theo ý vua cha đều lấy chồng làm quan trong triều .Vua cha muốn gả người con gái út Diệu Thiện cho một quan võ để làm chỗ dựa khi già yếu . Biết hắn là một kẻ độc ác nàng không tuân theo nên bị cha ruồng rẫy , phẫn chí nàng bỏ ra ở chùa .Viên quan võ kia được vua sai đi trừng trị nàng .Hắn phóng hoả đốt chùa .Nhưng Diệu Thiện và các tăng ni đều được Phật che chở và cứu thoát .Phật lại sai Bạch Hổ đưa nàng trốn sang đất Việt Thường thị . Đến trước hang động ngọn núi Thíu LĨnh (tức Hồng Lĩnh ) nàng Diệu Thiện ở lại dựng am tu hành .Chẳng bao lâu nàng nổi tiếng là vị sư cô từ bi bác ái . Giữa lúc ấy , Trang Vương bị bệnh nặng .Thầy thuốc bảo phải có tròng mắt và bàn tay của một người con gái tự nguyện hiến dâng mới cứu nổi tính mệnh .Hai con gái lớn không ai chịu hy sinh .Nghe tiếng ni cô ở Việt Thường , vua liền sai người sang cầu xin .Diệu Thiện biết cha mình độc ác , nhưng do lòng từ bi hỉ xả cứu vớt chúng sinh , bèn móc mắt, cắt bàn tay mình đem cho sứ giả ... Trang Vương được thuốc , khỏi bệnh sai người sang tạ ơn , mới biết người cứu vua chính là Diệu Thiện , cô con gái út từng bị ruồng bỏ..Đức Phật cảm về tấm lòng từ bi của Diệu Thiện, bèn ban phép cho mắt nàng sáng lại , bàn tay nàng mọc lại .. Sau khi hoá nàng Diệu Thiện trở thành Phật Quan Âm" .
Chuyện truyền ngôn cho biết có mốt liên hệ giữa chùa Hương Ngàn Hống va chùa Hương ở Hà Tây .Chùa Hương ở Hà Tây là nơi nàng Diệu Thiện đi qua nên người ta lập chùa thờ vọng .Một truyền thuyết khác lại cho rằng một chua Trịnh vào cầu tự sinh được thế tử ., nên hàng năm chúa sai người về đây lễ tạ .Về sau các chuyến đi này thường gặp giặc cỏ ,và cướp biển nên khó khăn trong việc lễ tạ . Sau này thấy Phong cảnh vùng Hương Sơn Hà Tây đẹp hơn , tiện đường đi lại chúa bèn cho xây dựng ngôi chùa lớn hơn , đẹp hơn để làm nơi lễ tạ mà không phải vào vùng Ngàn Hống cách trở .
Cả về sự tích chùa Hương Ngàn Hống và mối quan hệ của nó với chùa Hương ở Hà Tây chỉ là truyền thuyết mặc dù có nhiều bút tích giải thích được sự hợp lý này . Và thời gian xây dựng chùa là từ thời Trần hay thời lý đến bây giờ vẫn còn nhiều tranh cãi .Chúng ta hãy kiên nhẫn chờ đến năm hai ngàn... chưa biết, khi mỏ than Thạch Khê được khai thác , dân Hà Tĩnh hết nghèo để có tiền dùng cho công cuộc khảo cổ chùa Hương và nền Văn hoá Ngàn Hống, văn hoá Thạch Lạc . Thì chúng ta mới biết rõ về tính lô gích của những truyền thuyết này .
Ngày nay cảnh trí chùa hương đã khác nhiều , sau những biến cố của thời gian chùa đã có nhiều thay đổi . Ngôi chùa chính bây giờ được làm lại sau khi chùa đã nhiều lần di chuyển .Nền Trang Vương vẫn còn , người dân ở đây còn gọi là bàn cờ tiên nhưng lối đi lên hơi khó và nguy hiểm . Hai cây thông đã mất dấu cùng thời gian , gốc cây cháy xém mà nhiều sách đã viết không phải là gốc cây nguyên thuỷ , dân tìm châu báu tứ xứ đã đổ về đây rất nhiều để tìm cổ vật , họ đào bới lung tung để tìm gốc thông MỘT ( chính là hai gốc thông ngày xưa ) để định vị kho báu .Cũng đã từng có người giả vờ làm sư để tìm , nghe đâu nói là tượng đồng đen .Cách đây đã khá lâu nhân dân xã Thiên Lộc theo lời chỉ dẫn của sư Kiệm đã mang về hai pho tượng màu đen giao nộp cho nhà nước vì nạn đào bới của các "anh chị" tìm báu vật khét tiếng .Ông ngoại tôi là bạn của sư Kiệm và đã từng tham gia tu bổ chùa từ thời kháng chiến đã nhiều lần kể với tôi về những pho tượng đồng đen có thật , còn hai pho tượng kia mà chính quyền nói là bằng hợp kim thì không ai ngoài những người trong cuộc biết đó là tượng gì . Hồi đó tôi cũng đang còn quá bé . Sau sự việc này đã có nhiều mâu thuẫn với chính quyền cấp trên với các đạo hữu của xã , sư Kiệm ( Vị sư đã tu rất lâu ở chùa và được các đạo hữu địa phương tin tưởng tuyệt đối ) bỏ chùa về tu ở gia trang tại xã Hồng Lộc , mầu sắc linh thiêng của chùa giảm dần thay vào đó tính thương mại được đẩy lên cao .Chùa được tu bổ , và chỉnh sửa theo con mắt của những người lãnh đạo kém hiểu biết về chùa chiền , Phật giáo , vì thế có nhiều chi tiết xây mới nhìn hài hước, nhiều chi tiết tu bổ loè loẹt .Những người rất bình thường cũng phải cười xót xa đến méo xệch . Nhưng như thế không có nghĩa là chùa Hương đã đánh mất đi vẻ đẹp của mình . Không hoành tráng và đạo mạo nhưng vẻ thâm u của chùa cho chúng ta cảm giác linh thiêng và hướng thiện mà ít chùa có được. Phong cảnh lên chùa thì khỏi phải nói , đẹp đến mê hồn . Bạn phải leo qua đến bao nhiêu quả đồi , có nơi dốc dựng đứng , gần đến chân chùa dù bạn khoẻ thì tôi tin chắc rằng bạn cũng thở không ra hơi nếu bạn đi lần đầu . Khi đã lên đến đỉnh chùa (cũng có nghĩa là bạn đang đứng ở ngọn núi cao nhất của dãy Ngàn Hống bạn mới thấy tuyệt vời , xanh rợp một rừng thông , ngút ngàn mây bao phủ về chiều, và cả rì rào tiếng sóng biển nữa . Bạn hãy can đảm lên một chút đi ra phía sau chùa để leo lên đỉnh núi thử xem " một tiếng hô vang vọng cả trời" nó là thế nào . Bên cạnh chùa có một cái hang rất sâu và dốc , có rất ít người dám mạo hiểm vào sâu vì thiếu dưỡng khí , hang này ăn liền với biển .Trước đây khi còn bé một lần tôi đã dại dột cùng lũ bạn chui vào đó , gần một ngày bọn tôi mới lên khỏi hang được , lần đó coi như bọn tôi thoát chết . Về sau có quá nhiều người chết ở đây vì trượt chân , vì ngạt thở nên bây giờ hang đã bị xây tịt lại , thật tiếc cho cánh đàn ông vốn có máu liều và ưa khám phá . Còn nếu bạn cân nặng không bình thường hay bạn sợ mệt thì ở đây đã có dịch vụ cõng bạn lên chùa rồi đấy , nếu thế thi còn gì là thú , và bạn đã làm mất đi mỹ quan của nơi linh thiêng này đúng không .
Lễ hội Chùa Hương bắt đầu từ sau tết nguyên đán và kéo dài đên ngày lễ chính là 18 / 2 âm lịch .Nếu có dịp bạn đừng bỏ lỡ cơ hội vãn cảnh chùa Hương bạn nhé .Hãy can đảm lên một chút bạn theo con suối mà đi ngược lên chùa .Thú vị lắm bạn à . Đi theo đường này khi đền hồ Mắt Mèo (nước xanh và trong vắt mà ) đừng bõ lỡ cơ hội nhảy ùm xuống mà tắm .Thử cảm giác xem bạn đã bao giờ được tắm ở một nơi như thế chưa . Tôi cam đoan rằng ngay cả khi ngồi trong p**ng tắm hơi hiện đại bạn cũng không có được cảm giác thoải mái và thư giãn như ở đây
Hãy một lần đến chùa hương để biết , để nhớ bạn nhé !